Category: VƯỜN THƠ CỦA LÍNH
Những Kẻ Ăn Cơm QG Thờ Ma CS
–
Đại Tá VNCH ĐÌNH VĂB ĐỆ, kẻ phản bội
Chuẩn tướng VNCH Nguyễn Hữu Hạnh
5 tình báo quan trọng nhất của Bắc Việt trong bộ máy chính quyền VNCH
Những mũi giáo đâm sau lưng
Vào những ngày tháng này, hầu như khắp miền Trung Việt Nam đều biến thành những “Đại Lộ Kinh Hoàng” với những cuộc chạy giặc đẫm máu. Người dân đã bỏ tất cả ruộng vườn, nhà cửa, băng rừng vượt suối mong thoát nạn cộng sản và tìm về nơi chốn bình yên. Sau cuộc chơi “thấu cấy” sai lầm từ Dinh Độc Lập nhắm vào Ban Mê Thuột, lòng dân ly tán và tinh thần binh sĩ suy sụp trầm trọng, nhất là từ lúc một số cấp chỉ huy đào ngũ ra đi. Tình trạng bi đát này đã dẫn tới biến cố 30 tháng tư với cuộc sụp đổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc.
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản.
Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:
Trên đời có bốn cái nguLàm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầuThứ năm ngu nhưng lại đứng đầuĐó là cuồng tín theo hầu cộng nô
Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như: Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH.
Vào ngày 20/12/1960, con bài “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN” (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có: Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…
Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như: Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…
Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976.
Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.
Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…
Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…)… Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.
Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.
Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)…
Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần…
Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng.
Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam.
Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài.
Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng.
Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…
Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng.
Trong khi đó, đồng bào quốc nội hãy nhớ kỹ mặt những tên bán nước hại dân để chờ một ngày lôi chúng ra đền tội trước dân tộc.
Và ngày đó sẽ không còn xa nữa!
31/3/2018
06/09/1915: Xe tăng đầu tiên được sản xuất
Vào ngày này năm 1915, mẫu xe tăng nguyên bản có biệt danh là Little Willie đã được hoàn tất tại dây chuyền lắp ráp ở Anh. Little Willie hoàn toàn không phải là một thành công sau một đêm. Nặng 14 tấn, chiếc xe đã bị mắc kẹt giữa các chiến hào và chỉ có thể trườn qua địa hình gồ ghề với vận tốc hai dặm một giờ. Tuy nhiên, người ta đã có nhiều cải tiến so với nguyên mẫu ban đầu và xe tăng cuối cùng đã làm thay đổi tình hình tại các chiến trường.
Người Anh phát triển xe tăng nhằm đối phó với chiến tranh chiến hào (trench warfare) của Thế chiến I. Năm 1914, một đại tá của quân đội Anh tên là Ernest Swinton đã cùng với William Hankey, Thư ký Ủy ban Quốc phòng Hoàng gia, cố gắng thuyết phục mọi người ý tưởng về một chiếc xe bọc thép có bánh xe dạng băng chuyền có thể đâm xuyên qua phòng tuyến kẻ thù và vượt qua các địa hình khó khăn.
Hai người đã kêu gọi Bộ trưởng Hải quân Anh Winston Churchill, người luôn tin tưởng vào khái niệm “con tàu trên mặt đất” (land-boat) và từng tổ chức một Ủy ban Tàu Mặt đất (Landships Committee) để bắt tay phát triển một nguyên mẫu.
Để giữ bí mật cho dự án trước kẻ thù, các công nhân sản xuất đã liên tục được nhắc nhở rằng những chiếc xe mà họ đang chế tạo sẽ được sử dụng để vận chuyển nước trên chiến trường (nhiều câu chuyện khác thì nói rằng vỏ của những chiếc xe mới giống như thùng chứa nước). Dù có thế nào thì loại xe mới này cũng được vận chuyển trong các thùng có nhãn tank (vừa có nghĩa là bồn chứa, vừa có nghĩa là xe tăng) và cái tên ra đời từ đó.
Mẫu xe tăng đầu tiên, Little Willie (Willie Nhỏ), ra mắt vào tháng 09/1915. Sau màn thể hiện kém cỏi của nó – tốc độ quá chậm, dễ trở nên quá nóng và không thể vượt qua các chiến hào – nguyên mẫu thứ hai, được gọi là Big Willie (Willie Lớn) ra đời. Đến thời điểm năm 1916, chiếc xe bọc thép này được đánh giá là đã sẵn sàng chiến đấu và được sử dụng lần đầu tiên trong Trận Somme gần Courcelette, Pháp, vào ngày 15/09 năm đó. Được gọi là Mark I, những chiếc xe tăng quân sự đầu tiên này khá nóng, ồn ào và khó sử dụng, cũng như hay bị trục trặc cơ học trên chiến trường; tuy nhiên, mọi người vẫn nhận ra tiềm năng của xe tăng. Những cải tiến về thiết kế đã được thực hiện và trong Trận Cambrai vào tháng 11 năm 1917, 400 chiếc Mark IV đã chứng minh chúng thành công hơn nhiều so với Mark I khi bắt giữ được 8.000 quân địch và thu về 100 khẩu súng.
Xe tăng nhanh chóng trở thành vũ khí quân sự quan trọng. Trong Thế chiến II, chúng đã đóng một vai trò nổi bật trên nhiều chiến trường. Gần đây hơn, các xe tăng trở thành vũ khí cần thiết khi tham gia chiến tranh sa mạc (desert combat) trong xung đột ở Vịnh Ba Tư.
Tại sao Liên Xô giúp đỡ Bắc Việt?
Ngày nay chúng ta đã biết được tại sao người Mỹ lại mất quá nhiều thời gian như vậy trước khi rút khỏi Việt Nam.
Nhưng nếu sự tham gia của Mỹ được hiểu rõ, người ta lại chẳng thể nói điều tương tự về siêu cường đối thủ của họ, Liên Xô. Người Liên Xô nhận được gì từ việc ủng hộ một cuộc chiến nơi rừng rậm xa xôi, gửi các cố vấn, vật tư và tiền của đến giúp đỡ Bắc Việt – chấp nhận thực hiện một hành động không chỉ làm đóng băng quan hệ Xô-Mỹ, mà còn có nguy cơ châm ngòi xung đột toàn cầu?
Có phải là bởi tầm quan trọng địa chính trị của Việt Nam? Hay là do mối bận tâm của Moskva về truyền bá tư tưởng cách mạng? Chúng ta thường có thói quen gán cho phía bên kia những tầm nhìn và mục đích mà ta không muốn làm cho bản thân mình. Thực ra, có nét tương đồng đáng kể giữa sự hiện diện của Mỹ và Liên Xô tại Việt Nam. Giống như người Mỹ, điều mà Moskva quan tâm nhất là uy tín của mình trên cương vị một đồng minh và một siêu cường, cũng như tính chính danh trong nước và quốc tế mà uy tín ấy mang lại.
Nikita Khrushchev, người tiên phong xoay trục Liên Xô sang thế giới thứ ba vào thập niên 1950, có rất ít sự quan tâm và kiên nhẫn dành cho Bắc Việt, những người mà ông tỏ ý nghi ngờ, đặc biệt là sau khi Hà Nội bắt đầu nghiêng về phía Trung Quốc trong chia rẽ Xô – Trung.
Việc Bắc Việt Nam đứng về phía Trung Quốc được xem là một động thái chiến thuật khi không có lựa chọn tốt hơn. Chính Khrushchev đã góp phần dẫn đến hành động đổi chiều khi từ chối cung cấp viện trợ, nhưng ông lại đổ lỗi rằng việc đánh mất Bắc Việt là do những mưu mô tưởng tượng của “con cháu gốc Hoa” (Chinese half-breeds) trong hàng ngũ lãnh đạo đảng của Việt Nam. Đối với Khrushchev, vấn đề Việt Nam chỉ là một khía cạnh trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn với Trung Quốc, và cụ thể hơn, chỉ là một khía cạnh khá bên lề.
Tất cả thay đổi khi Khrushchev bị lật đổ trong một cuộc “đảo chính” vào tháng 10/1964. Người kế vị ông, Leonid Brezhnev và Alexei Kosygin, muốn chứng minh rằng họ thực sự trung thành với cam kết khi đồng minh cần cung cấp viện trợ quân sự. Lý do cơ bản là lãnh đạo mới của Liên Xô đang phải đối mặt với sự thiếu hụt tính chính danh. Giúp đỡ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại “chủ nghĩa đế quốc” sẽ giúp họ được công nhận – bởi nhân dân, anh em và đồng minh của họ, cũng như bởi thế giới nói chung – về tư cách là người thừa kế hợp pháp vai trò lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa. Cũng vì lý do tương tự, Moskva đã cố gắng cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Mao Trạch Đông lại chẳng mảy may đáp lại. Điều này càng trở nên rõ ràng trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kosygin hồi tháng 02/1965. Vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã nói về sự cần thiết của một “hành động thống nhất” nhằm giúp đỡ nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Mao đáp lại lời đề nghị ấy bằng sự mỉa mai thù địch, tuyên bố trước Kosygin rằng đối đầu Trung – Xô sẽ kéo dài cả một vạn năm. “Mỹ và Liên Xô giờ đây đang quyết định vận mệnh thế giới,” Mao nói một cách chua chát. “Thế thì cứ đi mà tự quyết định.” Ông tỏ ra không chút bận tâm đến chiến sự leo thang ở Việt Nam: “Vậy thì sao? Có gì là khủng khiếp khi một số người phải chết?” – và phản đối lo lắng của Kosygin về xung đột ngày càng sâu sắc bằng lời kêu gọi lạc quan tiến hành một cuộc “chiến tranh cách mạng.”
Khi quan hệ của Moskva với Trung Quốc tiếp tục xấu đi, Hà Nội cũng chuyển dần từ lập trường thân Trung Quốc sang vị thế trung lập hơn. Đó là bởi vì Bắc Việt cần vũ khí của Liên Xô, đặc biệt là các tên lửa phòng không tiên tiến, để tự bảo vệ mình trước các đợt ném bom của Mỹ. Nhưng Cách mạng Văn hóa Trung Quốc cũng là một phần nguyên nhân. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã phẫn nộ trước việc Bắc Kinh khuấy động chủ nghĩa cực đoan trong cộng đồng người Hoa khá lớn đang sinh sống ở miền Bắc Việt Nam. Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Vinh, vào năm 1967, thời điểm đỉnh cao của sự tham chiến của người Mỹ, nói rằng “Nghe thì có vẻ nghịch lý nhưng người Việt Nam không sợ người Mỹ mà sợ các đồng chí Trung Quốc.”
Căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hà Nội trở nên rõ rệt hơn vào năm 1971, sau chuyến đi bí mật của Henry Kissinger đến Trung Quốc và các thông báo về chuyến thăm sau đó của Nixon. Bắc Việt đã không được hỏi ý kiến và đương nhiên cảm thấy bị phản bội. Nhưng có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn: Người Trung Quốc và người Việt Nam có những quan điểm rất khác nhau về tầm quan trọng tương đối của họ. Các lãnh đạo Trung Quốc coi Bắc Việt là thuộc hạ. Họ đã giúp Bắc Việt. Họ chỉ dẫn cho Bắc Việt. Và cái họ mong chờ là sự thần phục. Nhưng người Việt lại không chịu thần phục. Sau nhiều năm chiến đấu chống lại Mỹ, họ cảm thấy mình có quyền tuyên bố là lãnh đạo cách mạng, ít nhất là ở Đông Nam Á.
Đây là thông điệp mà tướng Võ Nguyên Giáp mang đến Moskva vào tháng 12/1971, khi Bắc Việt đang chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công mùa xuân để giáng đòn cuối cùng vào Nam Việt Nam. Ông Giáp hứa hẹn rằng chiến thắng chung của liên quân Xô – Việt tại Việt Nam sẽ đưa Hà Nội vươn lên hàng ngũ lãnh đạo, đồng thời trở thành đầu cầu của chủ nghĩa xã hội ở thế giới thứ ba. “Chúng tôi muốn thực hiện nhiệm vụ này cùng với Liên Xô, bởi vì không ai có thể làm điều đó mà không có Liên Xô,” ông nói. Các nhà lãnh đạo Liên Xô ủng hộ thông điệp này, đặc biệt là sau khi ông Giáp hứa sẽ cho Liên Xô quyền đóng lực lượng hải quân tại Vịnh Cam Ranh mà khi ấy vẫn do Mỹ kiểm soát.
Có những nguy hiểm trong việc ủng hộ thái độ quân sự cứng rắn của Hà Nội. Sự khởi động lại các trận đánh lớn vào tháng 03/1972 đã đe dọa bước tiến trong hòa hoãn Mỹ – Xô. Sau khi người Mỹ đáp trả các chiến dịch phản công của Hà Nội bằng các đợt tấn công ném bom trên diện rộng, một số người trong giới lãnh đạo Liên Xô, bao gồm Kosygin, đã đề xuất hủy bỏ hội nghị thượng đỉnh sắp tới ở Moskva. “Anh đang đùa à?,” Brezhnev hỏi. “Tại sao không chứ!,” Kosygin đáp. “Đây có thể là thứ bom chúng ta cần.” “Đây là một quả bom, đúng vậy,” Brezhnev nhận xét, “nhưng ai sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn?”
Brezhnev coi hòa hoãn là một thành tựu cá nhân và không sẵn sàng hy sinh nó vì lợi ích của Việt Nam. Tuy nhiên, ông cũng không sẵn lòng gây áp lực với Việt Nam chỉ vì mối quan hệ tốt hơn với Mỹ, ý tưởng mà Kissinger và Nixon gọi là “mối liên hệ” (linkage). Điều mà bộ đôi người Mỹ chưa hiểu rõ là Việt Nam là một yếu tố quan trọng trong nỗ lực trở thành lãnh đạo toàn cầu của Brezhnev. Sự ủng hộ của Liên Xô dành cho Hà Nội là điều khiến Liên Xô trở thành một siêu cường thực sự và ngang hàng với Mỹ.
Nixon cũng từng nhớ lại việc bị bất ngờ trong Thượng đỉnh Moskva tháng 05/1972, khi Brezhnev, “người mà phút trước còn cười nói vỗ vai tôi, bỗng bất chợt la hét giận dữ,” ông cáo buộc Mỹ đã phạm những tội ác khủng khiếp ở Việt Nam. Brezhnev làm thế bởi ông phải bảo vệ uy tín của mình trước các đồng nghiệp và trước Bắc Việt. “Tôi cho rằng tôi hay các đồng chí của tôi chưa từng phải nói chuyện với bất kỳ ai một cách mạnh mẽ và gay gắt như khi chúng tôi nói chuyện với Nixon về Việt Nam,” Brezhnev sau này kể lại cho Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng như vậy.
Quan hệ Trung-Việt thời điểm đó đã xuống một mức thấp mới. Tính đến mùa hè năm 1973, khi Mỹ đang hoàn thành việc rút quân, Lê Duẩn bắt đầu lo lắng về Trung Quốc, nói với Brezhnev rằng ông nghĩ Mao đã lên kế hoạch “xâm chiếm toàn bộ Đông Dương và Đông Nam Á khi thời cơ đến.” Brezhnev tiếp tục hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam – lần này là chống lại người hàng xóm phía bắc của họ.
Chi phí tái thiết sau chiến tranh là rất lớn. Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đã thẳng thắn với Brezhnev về những kỳ vọng của Hà Nội: Sẽ phải có một nguồn viện trợ rất lớn từ Liên Xô để giúp “công nghiệp hóa” Việt Nam, từ đó cho toàn bộ Đông Nam Á thấy lợi ích thiết thực của định hướng xã hội chủ nghĩa. “Chúng tôi chẳng có gì cả,” Lê Duẩn nói với Brezhnev, hàm ý rằng mọi thứ sẽ phải đến từ khối Xô Viết trong vòng 10 đến 15 năm tiếp theo.
Brezhnev đồng ý xóa tất cả các khoản nợ của Hà Nội. Đồng thời, họ vẫn tiếp tục cho vay thêm, và đến năm 1990, Việt Nam đã nhận được hơn 11 tỷ đô la viện trợ, hầu hết trong số đó không bao giờ được hoàn trả. Trợ cấp cho Việt Nam trở thành gánh nặng quá lớn đối với nền kinh tế Liên Xô trong thập niên 1980, góp phần khiến cho Moskva kiệt quệ.
Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc với chiến thắng của phía Liên Xô và Việt Nam, nhưng chí ít là với Moskva, đó là một chiến thắng với cái giá quá lớn. Duy trì các đồng minh phụ thuộc là điều tốt cho uy tín của một siêu cường và cho tính chính danh của các nhà lãnh đạo, nhưng nó không tốt cho ngân sách nhà nước. Chính sách của Nga trong những năm gần đây, đặc biệt là trong các hoạt động tại Syria, gợi nhớ đến những hành động vì tính chính danh trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh ở Việt Nam. Và hậu quả lâu dài của hành động này cũng sẽ không kém phần thảm khốc.
Serge Radigan là Giáo sư Quan hệ Quốc tế tại Đại học Cardiff, Wales.
‘Người Đàn Bà Có Hai Con,’ một truyện tình lạ của Trần Thị NgH
Trần Doãn Nho/Người Việt
Trần Thị NgH là một tác giả bắt đầu nổi tiếng vào những năm cuối cùng của chế độ VNCH.
Chỉ với hai truyện ngắn đầu tiên, “Chủ Nhật” và “Nhà Có Cửa Khóa Trái,” xuất hiện trên hai trong những tạp chí hàng đầu của văn học miền Nam thời đó là Văn và Vấn Đề, tên tuổi bà đã lập tức được văn giới và độc giả đánh giá cao và trở thành một hiện tượng văn học.
Sau 1975, cũng như nhiều nhà văn miền Nam khác, bà ngừng viết một thời gian dài, chỉ có mặt trên văn đàn trở lại vào khoảng giữa thập niên 1990.
Văn chương của bà không chỉ lạ ở câu chuyện mà còn lạ ở cách kể chuyện, cách viết. Mỗi truyện, bà có một cách kể riêng. Và do cách kể mà đôi khi, dù truyện có đề tài tương tự, đọc lên, nghe vẫn khác. “Người Đàn Bà Có Hai Con” là một trong những truyện như thế.
Điểm đặc biệt đầu tiên của truyện: có 18 tiểu mục, mỗi tiểu mục được đặt một nhan đề, lấy những nhóm chữ xuất phát từ các tác phẩm văn chương hay âm nhạc đã trở thành phổ biến: “ngày xưa hoàng thị,” “động hoa vàng” (thơ Phạm Thiên Thư), “mê lộ” (truyện Phạm Thị Hoài), “thiên đường mù” (truyện Dương Thu Hương), “vũng lầy của chúng ta” (nhạc Lê Uyên Phương), “lệ đá xanh” (thơ Thanh Tâm Tuyền), “ru em từng ngón” (nhạc Trịnh Công Sơn), vân vân.
Mỗi tiểu mục đều khớp với từng đoạn “chuyện” của truyện. Bằng một giọng văn tường thuật với nhiều chi tiết hiện thực, khách quan, vừa nghiêm túc, vừa pha pha đôi chút giễu cợt, “Người Đàn Bà Có Hai Con” kể lại một câu chuyện tình, không có tình tiết nào quá éo le, gay cấn, nhưng nhiều khúc rẽ khá bất ngờ. Xin kể lại, tuần tự, tóm tắt vừa đủ để độc giả dễ theo dõi.
Câu chuyện bắt đầu giữa cô giáo và cậu học trò trong một lớp học đêm ở Sài Gòn, nơi dạy tiếng Anh cho những người mang mộng xuất cảnh vào thời điểm đất nước đã phần nào mở cửa. Học trò, 20 tuổi, tên Kiệt, có “khuôn mặt xương xương, lưỡng quyền hơi cao, cằm nhọn, hai mắt nhỏ, tóc phía sau chưa đủ dài mặc dù phần úp trước trán bầu tròn và dày.” Đây là một học trò chăm chỉ, “trầm tĩnh nghe bài giảng, ghi chú cẩn thận và chịu khó phát biểu trong giờ đàm thoại.” Cô giáo, tên Doãn, mới 37 tuổi, nhưng trông “quắt queo,” dáng người “khô khô,” giọng “to, rõ, hơi dữ;” nhan sắc thì “cực kỳ trung bình,” “hàm răng sạch,” ăn mặc giản dị, “không đeo nữ trang, thoa son môi thật nhạt, và đi xe đạp.”
Lúc đầu, cô giáo không mấy thích cậu học trò này, nhưng về sau, khi vào lớp mà chưa thấy Kiệt, thì cảm thấy “hơi hẫng.” Riêng cậu học trò thì lại tò mò, “thấy tung tích cô thật bí mật, cách hành xử không giống các giáo viên khác. Mạnh mẽ như đàn ông trong lúc giảng dạy, cười nói thân tình với các đồng nghiệp trong phòng giải lao nhưng rồi thu lại nhỏ xíu lạnh ngắt khi chỉ còn lại một mình.” Vì thế, cậu “quan sát cô mọi góc cạnh, theo dõi từng động tác.” Không những thế, sau giờ học, cậu còn “kín đáo đạp xe theo phía sau” cô, cố giữ một “khoảng cách đủ xa để vẫn còn thấy cô bóng nhỏ đường khuya lẩn trong dòng xe cộ,” và cảm thấy cô giáo “tầm thường và lẻ loi đến tội nghiệp.”
Khi cô giáo tổ chức thêm lớp học ở nhà. Kiệt ghi tên theo học ngay. Do gần gũi, Kiệt nhìn thấy cô giáo trông trẻ hơn, hay mặc quần din xắn hai gấu lên khỏi mắt cá, có điều, “ngực cô lép xẹp.” Cô có một đứa con gái 10 tuổi tên là Bobo. Khi không có lớp, cậu lân la đến chơi nhiều lần. “Vào những lần xé lẻ đến thăm riêng cô giáo, Kiệt thấy cô Doãn còn nhiều ngóc ngách khác, im ỉm, đen tối và gây tò mò.” Dần dà, nó trở thành người thân, được cô mời ăn cơm gia đình, được “chở Bobo đi học” và có lúc, tình nguyện đưa đón cô “đi dạy khi cô ốm hoặc trời mưa.”
Thế rồi, Kiệt xin ở lại nhà cô. Và thế là, cô giáo Doãn, học trò Kiệt và Bobo trở thành một bộ ba: người đàn bà có hai con. Ba người “thường đi chơi chung cuối tuần, Kiệt chở bé Bo còn cô Doãn đạp xe một mình.” Trong nhà, Kiệt hành xử như một người con giỏi giang: xách nước tưới cây, phụ rửa chén bát, lau nhà, ủi đồ, có lúc còn cắt may áo cho cô, chẳng khác chi một cậu bé giúp việc.
Một hôm, Kiệt “đòi ba mẹ con ngủ chung.” Cô giáo tuy có vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn không từ chối, để xem thử thằng nhỏ giở “trò quái quỷ” gì. Và suốt đêm đó, cô “mở mắt thao láo quan sát Kiệt, quan sát mình. Ðến gần sáng thì cô mềm người đi.” Từ đó, cậu học trò khám phá thấy một phía khác của cô giáo. “Ðó là một người đàn bà cô đơn nhưng làm mặt ngầu.” Còn về phía cô giáo, cô đổi tính hẳn, trở nên “thuần thục dịu dàng thấy rõ, nét cười sém chút nữa là chập vào khóe mắt vui.”
Đến đây thì đúng là một chuyện tình được lập lại: vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng ba mươi mấy năm trước đó. Giống nhưng rất khác: cô Doãn không lãng đãng, tình tứ, dằn vặt bằng cô giáo Trâm; và cậu học trò Kiệt không thuộc “típ”con nhà giàu, ăn chơi, và mang nét lãng đãng “bụi” thời đại như Minh của Nguyễn Thị Hoàng. Và cái khác quan trọng hơn: cô giáo Trâm độc thân, trong lúc cô giáo Doãn đã có con.
Chẳng thế mà khác với Nguyễn Thị Hoàng, vòng tay học trò của Trần Thị NgH có một khúc gập hoàn toàn bất ngờ. Vì chỉ có nửa năm sau, thì vòng tay học trò Kiệt buông: cậu lên đường đi định cư ở Úc cùng với gia đình. Cô giáo Doãn vừa “thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng,” vừa cảm thấy “cái phần đời bấy lâu nay trĩu trĩu bỗng tênh tênh chao sang một phía như bị mất thăng bằng.”
Dằng dặc cho mãi đến sáu năm sau, cậu học trò mới trở về. Nhưng vật đã đổi và sao đã dời! Cậu học trò nghèo hèn ngày xưa trở thành Việt kiều, tóc thưa, hơi hói, xức nước hoa, “một chàng trai 26 tuổi, có bằng kỹ sư điện tử trở về từ nước ngoài, một người đàn ông đúng tiêu chuẩn mơ ước của các cô gái Việt Nam.”
Bé Bo, cô em bé bỏng, là “cô thiếu nữ đôi tám hai mắt nheo nheo rất nghịch với cách nói chuyện chỏi chỏi.” Và cô giáo Doãn, 43 tuổi, “da dẻ khô queo, tóc cắt ngắn, các cơ mặt đã dãn ra” và “xấu, lỗi thời.” Kiệt tìm thấy ở cô giáo ngày xưa có cái gì không thành thật, “với cái mu rùa an toàn bà ta ngoan cố chui ra chui vô mỗi ngày, cái tung tích bí ẩn mà hồi đó đã hút nó vào mê hồn trận.”
Sau đó, Kiệt năm nào cũng về thăm quê hương và rồi, xin làm việc luôn trong nước. Cảnh người đàn bà hai con đèo nhau đi dạo ngày nào, bây giờ biến thành một cảnh khác hẳn. Kiệt, “đầu sói sọi thắt cà-vạt ở villa đi xe Mercedes Benz có tài xế lái tay xách cặp Samsonite đeo đồng hồ Rado mang kính mát Rayban,” cô giáo Doãn, “mang kính lão,” khi dạy học, “một tay cầm quyền sách đang dạy tay kia đút túi quần, mắt nhướng nhướng đầu gật gật, giọng chùng,” và cô thiếu nữ Bobo lớn, đẹp, đàn hay khiến Kiệt lúc đầu chỉ muốn chinh phục cho thỏa tự ái, “về sau trở thành đam mê dằn vặt chịu không thấu.”
Vòng tay học trò trở thành vòng tay Việt kiều. Và người đàn bà hai con trở thành tình mẹ duyên con! Có thể nói, qua truyện ngắn này, Trần Thị NgH đã vẽ phác ra một trớ trêu mang đầy tính thời đại, một trong những nét lạ lùng của xã hội Việt Nam sau cơn địa chấn “thống nhất mà chia lìa” của biến cố Tháng Tư, 1975.
Trần Thị NgH, tên thật Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh trưởng ở miền Nam Việt Nam. Trước 1975, cộng tác với Văn, Vấn Đề, Thời Tập, Thời Văn, Tiền Tuyến… Các tác phẩm đã xuất bản: “Những Ngày Rất Thong Thả” (1975), “Tập truyện ngắn Trần Thị NgH” (1999), “Lạc Đạn và 10 truyện ngắn” (2000), “Nhăn Rúm” (2012), “Ác Tính” (2018). Hiện sống rày đây mai đó, giữa Việt Nam và nước ngoài.
Tạp chí văn chương mạng hải ngoại Da Màu (damau.org) đã thực hiện một chuyên đề về Trần Thị NgH. Độc giả muốn tìm thêm về nhà văn độc đáo này, xin vào đường dẫn: https://damau.org/category/chuyen-de/chuyen-de-tran-thi-ngh.
Trần Doãn Nho
Nhà khoa học nữ gốc Việt trong top ảnh hưởng nhất thế giới
Tuổi thơ theo mẹ đi khắp nơi để kiếm sống, sang Mỹ thì bị bạn bè chê cười vì không biết tiếng Anh, nhưng Nguyễn Thục Quyên đã vượt qua tất cả và trở thành một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới.
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên sinh ra ở Buôn Ma Thuật (Đắk Lắk) trong một gia đình thượng lưu gồm 5 anh chị em. Sau năm 1975, cha đi cải tạo, mẹ chị – một cô giáo dạy toán cấp 2, dẫn dắt đàn con đến các vùng kinh tế mới như Phước Lâm, Long Điền, Đất Đỏ, Phước Tỉnh và Vũng Tàu để sinh nhai.
Lúc 5-6 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước… Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đình mở tiệm phở ở Bến Đá – Vũng Tàu, Quyên mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hãn.
Nhọc nhằn nơi xứ người
Tháng 7/1991, chị cùng bố mẹ và 5 anh chị đến Mỹ định cư. Hai năm đầu, các anh chị em của chị Quyên cứ đòi về Việt Nam vì không biết tiếng Anh và phong tục tập quán Mỹ. Nhưng chị thấy ổn vì được làm điều mình thích mà không sợ người khác dị nghị.
“Khi còn ở Việt Nam, gia đình đã vất vả rồi, nên khi sang Mỹ tôi phải cố gắng hơn rất nhiều để có được cuộc sống tốt hơn”, chị Quyên chia sẻ. Để tự khẳng định bản thân nơi đất khách quê người, chị đã quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách đăng ký ở ba trường trung học tại ba thành phố. Ở Mỹ, tiếng Anh được học miễn phí.
Vất vả với bao tủi nhục khi bị nhiều người coi thường càng khiến chị có thêm động lực vươn lên.
“Có giáo viên chế nhạo tôi trước cả lớp vì khả năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ còn nói thẳng với tôi hãy về nước của cô đi”, chị nhớ lại và cho biết ở Mỹ vẫn còn một số người phân biệt kỳ thị như vậy.
“Thậm chí có đồng nghiệp lúc ở trường không bao giờ nói chuyện với tôi mặc dù tôi đã cố gắng để nói chuyện với anh ta vài lần”, nữ giáo sư nói.
Tháng 9/1993, người cô họ cho chị ở cùng nhà, nhưng chị phải dọn dẹp, nấu nướng, đi chợ và chạy việc vặt cho cô. Thời gian này, chị xin học ở Đại học Santa Monica nhưng không được nhận vì tiếng Anh kém. Chị đã năn nỉ nhà trường cho học thử một kỳ và hứa nếu không học được sẽ trở về trường trung học để học thêm tiếng Anh. Ban ngày đi học, ban đêm chị tìm lớp học thêm ở trung tâm dạy tiếng Anh miễn phí. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học.
Thấy bố mẹ vất vả làm trong nhà hàng và ở hãng may, chị không cho phép bản thân thất bại mà cố gắng gấp đôi, gấp ba so với những bạn cùng trang lứa. Để có tiền học, chị xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến 22h mỗi ngày, nhưng vẫn không đủ nên phải vay thêm tiền của Chính phủ.
Tháng 9/1995, chị xin chuyển lên Đại học Califonia, Los Angeles và làm thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. Chị xin làm nghiên cứu nhưng không có phòng thí nghiệm nào nhận. Sau khi tốt nghiệp bằng đại học Hóa năm 1997, chị nộp đơn học cao học. Chỉ trong một năm chị đã có bằng thạc sĩ ngành Lý – Hóa và quyết định học tiếp tiến sĩ. Thật bất ngờ, cuối năm của chương trình này chị là một 7 nghiên cứu sinh xuất sắc của Đại học Califonia, Los Angeles được trao học bổng.
Tháng 6/2001, chị nhận bằng tiến sĩ và ra trường trước cả những sinh viên chị từng rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ trước đây. Ra trường chị đạt giải thưởng xuất sắc ngành Lý – Hóa. Tháng 9/2001, được giải thưởng của liên bang đi tu nghiệp ở phòng thí nghiệm quốc gia nhưng chị từ chối và đến làm ở Đại học Columbia, New York.
Ba năm sau chị bắt đầu làm việc ở Đại học California, Santa Barbara và mất hơn hai năm xây dựng hai phòng thí nghiệm riêng. Sau 11 năm, chị đã có 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Chị còn xin hơn 10 triệu USD cho những dự án nghiên cứu, được mời tới hơn 200 địa điểm trên thế giới để thuyết trình cũng như nhận nhiều giải thưởng lớn cho công trình nghiên cứu.
“Bạn bè tôi ở Việt Nam vẫn thường bảo hồi ở quê học dốt thế mà sao qua Mỹ học giỏi ghê thế. Tôi trả lời rằng ngày xưa làm gì có thời gian để học vì còn phải phụ giúp gia đình”, vị giáo sư nói.
Những vất vả của phụ nữ khi làm khoa học
Giáo sư Quyên tâm sự, có được ngày hôm nay là nhờ sự dìu dắt của mẹ và người cậu ruột khi hướng cho chị đi theo con đường tốt nhất có thể. Trong khi bố cho rằng, con gái thì nên lấy chồng, không cần học, thì mẹ ngược lại. Chị còn nhớ ngày học xong lớp 12, chị đã xác định sẽ ở nhà và tính chuyện lấy chồng, nhưng mẹ vẫn đưa chị lên Sài Gòn để thi đại học.
“Mẹ đưa tôi lên Sài Gòn ở nhà bà ngoại để thi đại học, nhưng tôi không muốn. Lớn lên và học ở trường làng tôi thấy ở tuổi 18 người ta đã lấy chồng và có con rồi”, chị nói.
Người cậu đã gọi chị đến nói chuyện hơn hai giờ, với mục đích khuyên chị đi thi và cố gắng vào đại học.
“Tại sao có cơ hội như vậy mà cháu lại từ chối. Học đại học sau này cháu sẽ có công ăn việc làm ổn định, có sự nghiệp, nếu lấy được người tốt thì không sao…”, chị kể lại lời ông cậu.
Lớn lên, người chị hâm mộ đó là bà Marie Curie, bởi thời đó khoa học gia là nữ rất ít. Bà chính là tấm gương vượt khó để chị tiếp tục cố gắng cho nghiên cứu khoa học.
Hơn 11 năm làm việc ở Đại học California, Santa Barbara, chị làm khoảng thời gian 15 tiếng mỗi ngày. Bên cạnh việc giảng dạy, chị còn làm nhiều công việc khác như biên tập báo khoa học, tổ chức hội nghị khoa học quốc tế, xin tiền dự án nghiên cứu trả lương, học phí, và bảo hiểm y tế cho sinh viên (mỗi nghiên cứu sinh tốn khoảng 100.000 đôla mỗi năm), hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu, giúp sinh viên viết bài đăng báo, làm trong ban xét lên lương và lên chức cho tất cả giáo sư trong trường, ban tuyển dụng giáo sư…
Chị chia sẻ, làm khoa học đã khó nhưng phụ nữ trong lĩnh vực này càng vất vả hơn, bởi ngoài sự nghiệp, họ còn phải lo cho gia đình. Ngay bản thân chị, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đôi khi vẫn không nhận được sự tôn trọng của đồng nghiệp nam giới.
“Cũng may tôi có người chồng tâm lý và thông cảm, anh dạy hóa hữu cơ cùng trường, luôn hỗ trợ nên tôi có thêm động lực để giảng dạy và nghiên cứu”, nữ giáo sư nói.
“Phần đông mọi người nghĩ con gái thì nên lo cho chồng con, dọn dẹp nhà cửa và không nên có sự nghiệp riêng. Tôi muốn cho những người phụ nữ khác biết là họ có thể làm cả hai. Tôi muốn làm những điều hữu ích cho xã hội”, chị nói.
Chị vẫn còn nhớ như in thời điểm bắt đầu vào học trong trường. Lúc đó chị xin vào phòng thí nghiệm nhưng không được vì nhiều người nghĩ chị không thể làm được điều gì và khuyên rằng “nghiên cứu không dễ dàng và không phải ai cũng làm được. Bạn nên tập trung để học tiếng Anh đi”. Mãi sau này, có vị giáo sư thấy chị có những câu hỏi hay trong lớp nên khuyến khích theo đường nghiên cứu. Biết được tin này chị rất vui vì từ bé đã thích tìm tòi những điều mới.
Đầu năm 2004, chị đi phỏng vấn ngành hóa ở một số trường đại học. Chị cũng rất sợ vì những trường này ngành hóa rất ít hoặc không có nữ giáo sư.
“Con đường đi đến thành công ở Mỹ không phải dễ dàng vì quốc gia này thường thu hút nhà khoa học hàng đầu trên thế giới nhưng bản chất người Việt Nam thông minh và chăm chỉ”, vị giáo sư nói và cho rằng có công mai sắt có ngày nên kim.
Thích về Việt Nam
“Tôi nhớ Việt Nam lắm. Nếu có thời gian là tôi về ngay, bởi hiện nay anh em họ hàng, nhất là ông cậu – người đặt viên gạch đầu tiên trong cuộc đời khoa học của tôi vẫn ở quê hương”, nữ giáo sư tâm sự.
Lần đầu tiên chị và mẹ về Việt Nam là năm 1999 để thăm bà ngoại trong 3 tuần. 9 lần về nước ngoài dự hội nghị khoa học, chị dành thời gian để thăm gia đình.
Chị cho biết, thời gian 21 năm sống ở Việt Nam, chị nhớ món ăn thuần túy Việt Nam và các bài hát Việt, nên lần nào về nước chị cũng nhờ cậu mợ dẫn đi xem ca nhạc.
“Tôi thích nhạc dân ca như bài Quê hương, Ai đưa con sáo sang sông“, chị nói.
Khi hỏi ý định về Việt Nam sinh sống, chị nói: “Có lẽ khi nào về hưu tôi mới về nước, vì quê hương vẫn chưa có đủ cơ sở vật chất điều kiện tốt để tôi có thể nghiên cứu”, chị nói và cho biết 7 phòng thí nghiệm riêng của chị trị giá khoảng 4 triệu đôla.
Bên cạnh giải thưởng là một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới ngành khoa học vật liệu, chị còn nhận nhiều giải thưởng khác như:
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Alexander von Humboldt-Foundation của Đức năm 2015;
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ 2010,
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Alfred P. Sloan Foundation 2009;
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Camille Dreyfus Foundation 2008;
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Harold J. Plous Memorial Award and Lectureship 2007.
Phạm Hương
40 KHOA HOC GIA GỐC VIỆT
Câu chuyện về gia đình Đ/tá Hồ Ngọc Cẩn
Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ
Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện.Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá.Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cả cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.Đ/tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận.Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ.Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc.Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.Giây phút cuối của Chương Thiện,Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi.Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua.Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi.Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì được. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì ít nói như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết.Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “- “Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
– “Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác:
– “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ:
– “Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.Tôi hỏi tiếp:
– “Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
– “Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”. Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi:
– “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
– ” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
– “Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.Bà Cẩn thật thà kể rằng:
– “Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu.Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính.Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời.Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Mặt Trận Xuân Lộc tháng Tư 1975
Tháng Tư, 1975 Mũ Đỏ Trịnh Ân
Lời nói đầu: Xuân Lộc là tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh được Tổng Thống Ngô Đình Diệm nền Đệ Nhất Cộng Hòa thành lập từ năm 1957, bằng cách cắt bớt phần đất của tỉnh Biên Hòa với mục đích để định cư đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3,500 cây số vuông, vùng đất đỏ phần lớn là núi thấp, đồi cao, rừng chồi thưa thớt, nhiều đồn điền cao su và vườn cây ăn trái. Long Khánh chiếm một vị trí chiến lược quân sự rất quan trọng, vì đây là ngã ba giữa hai QL1 và 20, cửa ngỏ từ Miền Trung Miền Cao Nguyên và Thủ Đô Sài Gòn chỉ cách nhau hơn 80 cây số, do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai thép, ngoài việc bảo vệ phi trường Biên Hòa, tổng kho tiếp liệu Long Bình, phi trường Tân Sơn Nhất và Thủ Đô Sài Gòn. Xuân Lộc lại nằm trên đường giao liên giửa chiến khu C và Đ của Cộng quân với các mật khu Tam giác sắt, Dương Minh Châu, Mây Tào, Cù Mi, Xuyên Mộc, Hát Dịch. Đất đỏ tỉnh Phước Tuy, là con đường huyết mạch mà Cộng quân dùng để nhận tiếp tế, bổ sung quân số và tiếp liệu chiến cụ bằng đường biển do Đoàn 759 xuất phát từ Hà Nội vận chuyển vào MIền Nam. Vì vị thế trọng yếu cho nên đại bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18BB do chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm Tư lệnh, và BCH/ Tiểu khu Long Khánh do Đ/T BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng kiêm TKT chỉ huy đã được bố trí tại đây để ngăn chận Cộng quân xâm nhập cửa ngỏ Sài gòn.
Ngày 3/1/1975, khi Đại Đoàn 301 CSBV do Thiếu tướng CS Hoàng Cầm điều khiển, gồm có các Sư đoàn 3, 7, 341/CSBV, 2 Trung đoàn Biệt lập, 1 Lữ đoàn xe tăng, 2 Trung đoàn pháo và Phòng không cùng các đơn vị Địa Phương sẵn có của QK.7 với hàng trăm xe tăng, đại pháo, phòng không đủ loại đã đồng loạt tấn kích toàn tỉnh Phước Long do SĐ5BB của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, Liên đoàn 7 BĐQ và Lực lượng ĐPQ+NQ trấn giữ, quân trú phòng đã anh dũng đánh trả quyết liệt. Nhưng qua nhiều đợt tấn công cường kích biển người “tiền pháo hậu xung” cuồn cuộn liên tiếp đến ngày 6/1 tỉnh Phước Long đã lọt vào tay CSBV, vì QLVNCH không còn quân trừ bị tiếp ứng giải cứu kiệp thời. Tối hôm sau, ngày 7/1 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban lệnh để tang 3 ngày “treo cờ rũ” cho tỉnh Phước long. Trước sự vi phạm trắng trợn hiệp định Paris “CHẤM DỨT CHIẾN TRANH và VÃN HỒI HOÀ NÌNH tại VIỆT NAM” 1973.
Hoa Kỳ cũng chỉ phản ứng lấy lệ, bằng chứng là Tổng Thống Gerald Ford đã không đề cập gì đến tình trạng nguy khốn của Nam Viẹt Nam trong bài diển văn nhậm chức đọc trước lưỡng viện Quốc Hội Hoa kỳ ngày 5/1/1975. Với những chiến thắng lớn của Bộ Tư Lệnh “B2” Trung ương cục Miền Nam trong đợt 1, mùa khô 74-75, đặc biệt là việc đánh chiếm được quận lỵ Hưng Long ở tỉnh Sóc Trăng thuộc QK4 và tỉnh lỵ Phước long thuộc QK3 của Việt nam Cộng Hòa, đã khiến Bộ Chính Trị/TUĐ/CSBV quyết định thay đổi kế hoạch quân sự “nhảy vọt” thừa thắng xông lên Xuân Hè 1975.
Ngày ¾ Đại tướng Văn Tiến Dũng, TTMT/QĐND/CSBV và Bộ tham mưu đã vào tới Bộ tư lệnh “B2” Trung ương cục Miền Nam ở phía tây thị xã Lôc Ninh. Bốn ngày sau, Lê đức Thọ cũng tức tốc đến nơi. Ngày 8/4, dưới sự chủ toạ của Lê đức Thọ, thì kế hoạch đánh chiếm Sài gòn-Chợ lớn được đem ra bàn thảo. Đồng thời Bộ tư lệnh chiến dịch cũng được thành lập gồm có:
Đại tướng Văn tiến Dũng, UV/BCH,TTMT/QĐND/CSBV, được cử làm Tư lệnh chiến dịch.
Phạm Hùng, UV/BCH, Bí thư trung ương Cục Miền Nam, Chính ủy BTL “B2” được cử làm Chính ủy.
Thượng tướng Trần văn Trà, UV/BCH/TUĐ, Tư lệnh “B2”, giữ chức Phó Tư lệnh.
Trung tướng Lê đức Anh, UV/BCH/TƯĐ, Phó Tư lệnh “B2” giữ chức Phó Tư lệnh, kiêm chỉ huy trưởng mặt trận Tây Nam (Đoàn 322)
Trung tướng Lê trọng Tấn, UV/BCH/TƯĐ, TTM Phó, QĐND/CSBV giữ chức Phó Tư lệnh kiêm chỉ huy trưởng mặt trận Miền Đông (Quân đoàn 2 và Sư đoàn 3 “Sao vàng”)
Trung tướng Lê quang Hòa, Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị (Cục ANQĐ) của Bộ Tư lệnh chiến dịch.
Trung tướng Đinh đức Thiện, Phó Tư lệnh đặc trách hậu cần.
Thiếu tướng Lê ngọc Hiền , Tham mưu trưởng chiến dịch
Lê đức Thọ giữ vai trò “Đaị diện BCH/TƯĐ”, tức Tư lệnh mặt trận.
Và theo đề nghị của Tướng Văn tiến Dũng, ngày 14/4/75, Lê Duẫn Tổng bí thư đảng CSVN đã đồng ý chấp thuận lấy tên chiến dịch tấn chiếm Sài gòn-Chợ lớn là Chiến dịch” Hồ chí Minh”
A/-Xuân lộc nổi sóng:Để tấn công tỉnh lỵ Xuân lộc, Cộng quân đã tung vào chiến trường này Quân đoàn4/CSBV gồm có 3 Sư đoàn 6,7 và 341 tổng trừ bị và các đơn vị điạ phương thuộc Quân khu 7 cùng với xe tăng, phòng không, đại pháo. đặc công, cấp trung đoàn yểm trợ, do Thiếu tướng CS Hoàng Cầm làm Tư lệnh mặt trận, Thiếu tướng CS Hoàng thế Hiệp làm Chính ủy. Theo kế hoạch trận chiến đẫm máu xảy ra tại 3 phòng tuyến: “ngã ba Dầy Giây”, do Chiến đoàn 52 BB và 1 Thiết đoàn Kỵ binh trấn giữ, “Gia Rai và núi Chứa Chan”, do Chiến đoàn 48 BB và Liên đoàn 7 BĐQ phòng thủ và tại “thị xã Xuân Lộc”, do Chiến đoàn 43 BB và các Tiểu đoàn BĐQ bảo vệ. BTL/SĐ18BB/HQ của Chuẩn tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh; Đại tá Nguyễn xuân Mai, Tư lệnh phó; Đại tá Hứa yến Lến, Tham mưu trưởng hành quân, được đặt tại chi khu Xuân lộc, phía Nam ngã ba Tân phong-Long giao có các đơn vị trừ bị của sư đoàn như Pháo binh, Truyền tin, Lữ đoàn 3 Kỵ binh, ĐPQ+NQ do Đại tá Lê xuân Hiếu chỉ huy bảo vệ. BCH/Tiểu khu Long Khánh do Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng kiêm TKT, chỉ huy lực lượng điền điạ.
Trận chiến Xuân lộc đã khởi sự sôi động từ rạng sáng ngày 9/4. Tuy nhiên kể từ ngày 7/4, Cộng quân đã điều động lực lượng bao vây các ngỏ vào Xuân lộc. Tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm giữa hai QL1 và 20, thì các đơn vị của Sư đoàn 6 và 341/CSBV đã tung quân ra đặt các chướng ngại vật cắt đứt đường giao thông giữa Long khánh và Biên hoà, pháo kích vào tuyến phòng thủ của Chiến đoàn 52BB đang án ngữ vòng đai phía Tây Bắc thị trấn, đồng thời Cộng quân cũng triển khai lực lượng cố thủ ngăn chận trên các yếu điểm. Trong khi đó, Thiết đoàn 5 Kỵ binh thuộc Lực lượng xung kích QĐ3/QK3 đang trên đường đến tăng cường tiếp trợ bứng chốt cho mặt trận Xuân lộc.
Sáng thứ 3 ngày 8/4, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào tỉnh lỵ, đồng thời tung hai Tiểu đoàn Đặc công đột nhập thị xã. Các đơn vị địa phương sẵn có thuộc QK.7 cũng đã nhất loạt tấn kích lực lượng phòng thủ tỉnh lỵ Xuân lộc tại nhiều nơi để thăm dò phản ứng của quân phòng thủ. Tuy nhiên, tất cả các mũi đột kích này đã bị quân trú phòng bẻ gãy ngay từ đầu.
Ngày 9/4/75 lúc 5giờ 30 sáng, Cộng quân đã pháo kích vào thị trấn Xuân lộc, kéo dài liên tục trong 2 giờ đồng hồ với hơn 3000 qủa đạn pháo đủ loại, phần lớn đạn pháo đã rơi vào khu Chợ, nhà Thờ, Ty Thông tin, Doanh trại và nhà dân chúng gây nhiều đám cháy và thương vong hổn loạn. Thế rồi đến 8giờ cùng ngày, quân CSBV đã sử dụng Bộ binh và Chiến xa nhất loạt tấn công vào tỉnh Long khánh, nhưng chúng bị chận lại bởi lực lượng trú phòng của QLVNCH, đánh trả quyết liệt nên chúng đã phải chém vè về phía sau, bỏ lại tại chỗ hàng trăm xác chết và 4 chiến xa T.54 bị hạ bởi hỏa tiển M72..
Ngày 10/4, Cộng quân trở lại tấn công tỉnh lỵ Xuân lộc với 3 Sư đoàn 6, 7, 341 CSBV và các trung đoàn chiến xa, đại pháo, đặc công, hỏa tiễn phòng không.. ,khắp các mặc trận Đông, Tây, Nam, Bắc thị trấn từ nhà thờ Chính tòa, khu chợ, phòng Thông tin, Bưu điện, Doanh trại, Phi trường v.v.. nơi nào Cộng quân cũng sữ dụng quân số tham chiến cấp Tiểu đoàn. Cuộc chiến đẫm máu kéo dài giằng co trong mấy ngày, cả hai phía Quốc gia – Cộng sản dành giựt nhau từng bờ tường, ngôi nhà, làm phòng tuyến để tìm sự sống trong cái chết cận kề bên đường tơ kẻ tóc. Không quân chiến thuật của QLVNCH đã yểm trợ tích cực và đánh bom hữu hiệu cho các đơn vị dưới đất bằng các loại phản lực cơ F5E đã góp phần tiêu diệt một số lớn địch quân. Sự thiệt hại nặng nề về phía Cộng quân trong trận chiến đã được Tướng Văn tiến Dũng thú nhận trong tập hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” 1975 như sau: mặt trận Xuân lộc đã ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các Sư đoàn 6, 7, và 341 của ta đã phải tổ chức tấn công vào thị xã từng mục tiêu nhiều lần do các phản công của địch.”
Và hãy nghe O. Todd, ký gỉa người Pháp, có thiện cảm với CSBV cũng đã mô tả: “tinh thần của binh sĩ bảo vệ Xuân lộc rất cao..” Thiếu tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh mặt trận cũng đã tuyên bố trong cuộc họp báo ngắn tại Xuân lộc rằng: “tôi không cần biết phía bên kia sẽ đưa bao nhiêu Sư đoàn để đánh chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ tiêu diệt họ..”. Nhưng ý nghĩa và lời cảm động là lời báo cáo của Tướng X. Smith, Trưởng phòng tùy viên quân sự (DAO), gữi cho Tướng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa kỳ, với lương tâm của một người lính, ông không khách sáo và hào nhoáng như miệng lưỡi của các chiến khách ngồi ở Hoa Thịnh Đốn, đã gỡ lại một phần danh dự cho QLVNCH: “Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QLVNCH đã chứng tỏ quyết tâm và anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gấp nhiều lần..”.
Trong khi đó tin tức đăng trên báo Chính luận, xuất bản tại Thủ đô Sài gòn, phóng viên chiến trường của tờ báo này đã cho biết: “QLVNCH vừa đánh thắng một trận lớn trong ngày hôm qua tại tỉnh Long khánh, nhưng sáng nay Cộng quân lại mở cuộc tấn công mới vào tỉnh lỵ này, và cho đến khi báo lên khuôn, trận đánh có tính cách thử thách quyết liệt vẫn còn đang tiếp viễn..”.
Cũng trong bản tin tức chiến sự phát ngôn viên quân sự phân phát cho báo chí Việt nam và Ngoại quốc ngày 10/4 cho biết một số chi tiết: Kể từ 6 giờ 30 sáng hôm qua, quân CSBV đã pháo kích khoảng 3,000 quả đạn đủ loại vào khu vực tỉnh lỵ Xuân lộc đồng thời sau đó, chúng sử dụng Bộ binh và Chiến xa tấn công vào thị xã. Kết quả sơ khởi cho biết có khoảng 300 Cộng quân đã bị hạ và 4 tên khác bị bắt sống. Ngoài ra còn có 100 vũ khí đủ loại của địch bị ta tịch thu và 4 chiến xa T.54 bị tiêu diệt”.
Ngoài bản tin nêu trên, phát ngôn viên quân sự còn cho báo chí biết thêm, căn cứ theo tin nhật báo Chính luận rằng: “Lúc 7 giờ sáng hôm nay, ngày 10/4 Cộng quân lại pháo kích khoảng 1,000 quả đạn đủ loại, đồng thời Bộ binh và Chiến xa của địch đã nhất loạt tấn công tỉnh lỵ này, từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc. Tổn thất đôi bên chưa rõ”
B/-Lữ đoàn 1 Nhảy Dù Vào trận địa:
Vừa rời khỏi mặt trận Thượng đức và Bắc Đèo Hải Vân, Đà nẳng thuộc QĐ1/QK1 vào cuối tháng 3-1975. Sau những tháng dài quần thảo với mặt trận “B1” của quân khu 5, trực diện với các Sư đoàn 304, 320, 329B và 711 thuộc QĐ2/CSBV do Trung tướng Lê trọng Tấn, TTM Phó QĐND/CSBV chỉ huy và Thượng tướng Chu văn Mân,Tư lệnh QK.5, giữ chức Chính ủy. Khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù về đến “Hoàng Cung” tại Sài gòn được mấy ngày, chưa kịp chỉnh trang đơn vị. Điều đó hãy nghe Trung tá Đào thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND tâm sự: “Lữ đoàn 1 được bàn giao vùng trách nhiệm cho đơn vị bạn TQLC và đơn vị được di chuyển về Thủ đô bằng máy bay. Đến Sài gòn không một ngày nghỉ, binh sĩ không được một giờ phép, anh em Nhảy dù chúng tôi cùng với Thủ đô thân yêu bị đặt trong tình trạng báo động, ba Tiểu đoàn 1, 8 và 9 của LĐ1ND ứng trực thuộc quyền BTL/BKTĐ, được lệnh nằm ven đô, ứng chiến cho Bộ TTM”.
Ngày 12/4 nhận được lệnh họp hành quân khẩn cấp của BTL/HQ/QĐ3/QK3.
Sau buổi họp, thi hành ngay kế hoạch hành quân mới, kể từ ngày 12/4 Lữ đoàn 1 ND tăng phái cho BTL/SĐ18BB với nhiệm vụ tăng cường phòng thủ tỉnh Long Khánh. Sau đó toàn bộ Lữ đoàn 1ND được đưa vào trận địa bằng trực thăng của hai Sư đoàn 3,và 4 Không quân VNCH gồm hàng trăm máy bay Hu1B đã thả hơn 2,000 chiến sĩ Nhảy dù từ Trãng Bom vào khu Đồi Chuối cạnh chi khu Xuân Lộc, TĐ3PB/ND cũng được trực thăng Chinook vận chuyển đến BCH/LĐ/HQ đóng kế BTL/SĐ18BB/HQ đặt tại quận lỵ Xuân lộc.
BTL/SĐ18BB/HQ trú đóng trong một góc rừng phía Đông Nam gần ngã ba chi khu Xuân lộc cùng với Pháo binh 155 ly và bãi đáp trực thăng, cạnh trung tâm hành quân sư đoàn. Trung tá Đỉnh LĐT/LĐ1 ND đã được đích thân Chuẩn tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh SĐ18BB cho biết khái lược về tình hình địch và Bạn cũng như dân chúng trong vùng, trên tấm bản đồ hành quân cầm tay có ghi nhiều chấm đỏ như sau:
a/- Tình hình địch:
-“Quân đoàn 4/CSBV, Tư lệnh là Thượng tướng CS Trần văn Trà (vừa thay Thiếu tướng CS Hoàng Cầm) và chính ủy là Thiếu tướng Hoàng thế Thiệp, chỉ huy gồm có 3 Sư đoàn 6, 7 và 341 tổng trừ bị cùng với các Lữ đoàn 203 và 204 Xe Tăng, Đại pháo Phòng không, Đặc công, và các đơn vị điạ phương thuộc QK 7 trợ chiến, dồn hết mọi nổ lực tấn kích 4 mặt vào tỉnh lỵ Long khánh với quân số và chiến cụ nhiều hơn quân ta gấp 7 lần.
b/- Tình hình bạn:
-“Lực lượng phòng thủ tỉnh Long Khánh của SĐ18BB gồm có Chiến đoàn 52BB do Đại tá Ngô kỳ Dũng chỉ huy; trên phòng tuyến phía Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc tỉnh lỵ; Chiến đoàn 48BB do Trung tá Trần minh Công chỉ huy, bảo vệ BTL/SĐ18BB ở phía Nam cách tiểu khu Long khánh 4 km. BCH/TKLK do Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng. Trung tá Lê quang Định TKP chỉ huy, có một Tiểu đòan BĐQ và các lực lượng ĐPQ+NQ vẫn chiến đấu bảo vệ quanh tỉnh. Dân chúng trong làng có tinh thần chống Cộng cao, các ấp trong xứ Đạo như ấp Bảo định, Bảo bình, Bảo hòa đều có lực lượng Nhân dân tự vệ được trang bị vũ khí và đạn dược đầy đủ”.
Xin hãy nghe lời trích thuật của các phóng viên chiến trường ngoại quốc ca ngợi và xưng tụng về sự oai dũng anh hùng của các người chiến sĩ QLVNCH trong trận chiến Xuân lộc như sau: “Sư đoàn 18BB của tướng Lê minh Đảo, chiến đấu như cọp dữ làm quân đoàn tấn công của CSBV phải khựng lại ở Xuân lộc, song vì thiếu quân số và đã cố gắng đến kiệt sức, Tướng Đảo xin tiếp viện.. . Ngay lập tức, Lữ đoàn 1ND của Trung tá Nguyễn văn Đỉnh chỉ huy được đưa tới tăng viện cho Sư đoàn 18BB. Ngay khi chân họ vừa chạm đất, vẳng nghe đâu đây có một tiếng la lớn: “Vứt hết nón sắt, đội nón đỏ!”. Thế là bao nhiêu nón sắt vứt đầy mặt đất.. .Lính Dù với nón đỏ truyền thống trên đầu họ, họ chiến như sư tử, có những người lính bị thương rách bụng, lòi ruột, họ nhét vội ruột vào túi nhựa, tiếp tục chiến đấu với một tay ôm túi ruột của mình, một tay vẫn ghì súng bắn vào đầu giặc cho tới lúc kiệt sức gục ngã. Tinh thần chiến đấu vượt lên trên cả những câu xưng tụng thông thường: anh dũng can trường v.. v…
Phải nói các anh người lính VNCH, trong trận đánh chót này là “thần thánh” và những gục ngã tức tưởi cũng rất “thần thánh” vì chỉ có “thần thánh” mới chiến đấu được như vậy khi trong mình đang mang nhiều vết “nội thương rĩ máu. Chính các anh những người lính này, những đơn vị này đã làm cho “Tổ quốc, Danh Dự, Trách nhiệm” của QLVNCH sáng chói. Bởi vì Tổ quốc, các anh đã sẳn sàng và tự nguyện chiến đấu cho đến chết, vì Danh dự và Trách nhiệm anh đã lăn xả vào phòng chiến để chứng minh cho quân thù và thế giới: “thấy QLVNCH không hèn nhát..”.
Ngay sau khi cuộc đổ quân bằng trực thăng vận hoàn tất, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh LĐT/LĐ1ND liền khai triển lực lượng Nhảy dù tiến thẳng vào mục tiêu ấn định theo đội chân vẹt:
Tiểu đoàn 9 do Trung tá Nguyễn văn Nhỏ làm Tiểu đoàn trưởng, trách nhiệm diệt các chốt địch trên QL 1, sau đó bung quân lục soát về phía Đông, tìm phương cách giap tiếp với dân trong ấp Bảo định rồi bố trí chờ lệnh.
Sau khi xuất phát khoảng nửa giờ thì ĐD3/ND do Đại úy Đinh văn Tường làm ĐĐT, chạm địch ở phía Đông trên đường đến ấp Bảo định. Kết quả sơ khởi: địch có 12 tên nằm tại chổ, 1 súng cối 61 ly và 9 súng cá nhân bị ta tịch thu và còn một số tàn quân chạy về hướng Đông Bắc.
Trong khi của Tiểu đoàn 9ND tiến lên còn cách ấp Bảo định 500 thước thì lực lượng Dân vệ trong ấp báo động, súng các loại bắt đầu nổ kể cả súng cối 60 ly, trong ấp bắn ra như mưa, đạn bay vèo vèo về phía quân Dù, làm át cả tiếng loa kêu gọi, nên các chiến sĩ Dù lo ẩn núp chờ liên lạc giao tiếp .. Độ 15 phút sau, từ khi nổ súng ào ạt vào quân Dù nhưng thấy vẫn im lặng, không có phản ứng gì, dân trong ấp cũng ngưng bắn chờ đợi quan sát . Nhảy dù tiếp tục liên lạc loa kêu gọi khi giao tiếp được với nhau “quân – dân” tay bắt mặt mừng, buồn vui lẫn lộn. Trong lúc đó có Trung tá Nhỏ, Tiểu Đoàn Trưởng TDND và 2 binh sĩ đã bị thương vì mãnh đạn súng cối, được chuyển về phía sau chờ tản thương, Thiếu tá Lê mạnh Đường TĐP được xữ lý chức vụ TĐT.
Tiểu đoàn 9ND được TĐ1ND lên hoán đổi nhiệm vụ cho nhau. TĐ9ND về hoạt động lục soát, bung quân rộng tìm diệt địch ở phía Tây Chi khu Xuân lộc, TĐ1ND do Thiếu tá Ngô tùng Châu làm Tiểu đoàn trưởng là lực lượng trừ bị cho Lữ đoàn, được điều động lên thay cho TĐ9ND bố trí về hướng Đông ấp Bảo định ở phía Tây Liên tỉnh lộ 2 chờ lệnh.
TĐ8ND do Trung tá Đào thiện Tuyển làm Tiểu đoàn trưởng, có nhiệm vụ lục soát lên phía Bắc và Đông Bắc khu rừng chồi ở hướng Bắc QL1, bắt tay với Tiểu đoàn 82 BĐQ của Thiếu tá Dương mộng Long làm TĐT, đang bảo vệ phi trường Long khánh, sau đó bố trí quân về hướng Đông tỉnh lỵ. Tiểu đoàn 8ND xuất phát rời khỏi QL.1 khoảng 600 thước về phía Bắc thì chạm súng liên tục với các tổ tiền đồn của địch trong khu rừng chồi. Trung tá Tuyển cho tung các Đại đội trái phải thành đội hình nấc thang khép kín vòng vây tiến sát để truy diệt địch.
Trong thời gian này, BCH/LĐ1ND/HQ đóng cạnh Bộ Tư Lệnh SĐ18BB/HQ ở chi khu Xuân lộc, bị Cộng quân pháo kích 30 qủa đạn loại 130ly từ hướng Đông Bắc vào vòng đai phòng thủ, thiệt hại của các đơn vị không đáng kể. Với tư cách là LĐT/LĐ1ND Trung tá Đỉnh đã đệ trình đề nghị lên v ị Tư lệnh chiến trường Xuân lộc là C/T Lê Minh Đảo những yếu điểm của BTL/HQ tử thủ như sau:
1/BTL/HQ và Trung Tâm Hành Quân chiến thuật không nên đóng chung với đơn vị Pháo binh.
2/ Hạn chế máy bay trực thăng lên xuống gần BTL/HQ.
3/ Vị trí đặt BTL/HQ tránh các điểm nổi trên bản đồ điạ hình..
4/ Nên cho đào hầm kiên cố dưới chân đồi Chuối để đặt Trung Tâm Hành Quân Phối Hợp Sư Đoàn…
Nhưng rất tiếc đề nghị này chưa được áp dụng, có lẽ vì BTL/SĐ18BB đóng tại tĩnh lỵ Long Khánh không có nhiệm vụ “tử thủ” hoặc yếu tố thời gian không cho phép.
Trong khi đó toán truyền tin đặc biệt của Phòng 7/BTTM tăng phái đã rà tần số bắt được “mật tin, đêm nay Cộng quân cho đơn vị tới giải cứu đồng đội đang bị lực lượng Nhảy dù bao vây để tản thương”, Trung tá Đỉnh LĐT cho lệnh TĐ1ND đang ở phiá Đông ấp Bảo định được điều động ngay chiều tối hôm đó lên giăng một tuyến phòng thủ kéo dài từ Bắc xuống Nam hướng về phía Đông chờ địch. Sau lưng TĐ1ND là TĐ8ND được tăng cường ĐD3/ND đang siết chặt đám tàn quân địch còn kẹt lại bên trong hàng rào vườn cây ăn trái của cố Thống tướng Tỵ và một số ẩn núp trong khu vực nhà kho chứa hàng của Tổng Thống Thiệu.
Đồng thời TĐ3pháo binh Nhảy dù do thiếu tá Nguyễn văn Thông tức Thông gìa làm TĐT với nhiều kinh nghiệm pháo trận địa (đặc biệt món” Phở tái nạm gàu”, nếu các cháu ngoan của bác đã ăn phải là nhớ đời…) lúc nào cũng sẵn sàng hàng trăm qủa đạn pháo 105 ly để yểm trợ cận phòng tối đa cho quân bạn theo nhu cầu hỏa tập tiên liệu sẽ chụp xuống đầu địch bất cứ lúc nào.
Đúng theo kế hoạch tiên liệu, khoảng 10 giờ đêm Cộng quân xuất hiện dưới các tàng cây hầu hết trước tuyến án ngữ của TD1ND. Đợi địch đến gần.. gần thêm nữa, 150 thước.. rồi 100 thước.. Lệnh khai báo: “Ầm! Ầm! Ầm!..” chỉ mấy phút sau, có hơn 400 qủa đạn đại bác 105 ly vừa chạm nổ, vừa nổ cao chụp xuống đầu địch từ hỏa tập này chuyển sang hỏa tập khác được tiên liệu theo nhu cầu pháo yểm, thế là đơn vị của Trung đoàn 141/SĐ7/CSBV coi như bị xóa sổ hoàn toàn, vì đạn pháo đã cày nát vườn cây ăn trái, xác địch nằm la liệt tung tóe ngổn ngang. Các chiến sĩ TĐ1ND chỉ cần sử dụng vũ khí cá nhân, sau khi pháo binh ngưng tác xạ để thanh toán những tên “sinh Bắc tử Nam” cuối cùng còn sống sót cố thủ trong hầm hố chiến đấu, TĐ1ND sau khi thu dọn chiến trường tiếp tục án ngữ tại chổ chờ lệnh.
Tin chiến thắng của các Đại đội Nhảy Dù, đã tiêu diệt gần hết 2 tiểu đoàn Cộng quân được trực tiếp báo cáo về BCH/LĐ1ND/HQ, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh LĐT, mỉm cười Ông lẫm bẫm: “Cho phép tôi hãnh diện nói theo ngôn từ quân sự một chút, vì đây là trận đánh thắng cuối cùng và toàn vẹn nhất của đơn vị Nhảy Dù từ trước đến nay. Thật đáng hãnh diện về chiến công hiếm có này!!”.
Trong khi đó, nhìn về trận tuyến tại ngã ba “Dầu Giây” ngày 12/4 Cộng quân đã đồng loạt tấn công vào Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52 do Đại tá Lê kỳ Dũng chỉ huy, bằng chiến thuật biển người với chiến xa và đại pháo đủ loại .v.v.. Sau nhiều giờ giao chiến ác liệt giữa đôi bên, tuy nhiên vì bị áp lực của địch qúa mạnh cho nên lần lượt các tiền đồn án ngữ của Trung đoàn 52/BB từ xã Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu trên QL. 20 đã bị Cộng quân tràn ngập.
Ngày 15/4, cũng tại ngã ba “Dầu Giây”. Quân Đoàn 4/CSBV do Thượng tướng Trần văn Trà, tổng chỉ huy, trở lại mở ra trận đánh thí quân quyết tử đã áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung tấn công ấp đảo cứ điểm của Trung đoàn 52/BB, Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ và lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, gồm có khoảng 2,000 người trú phòng gần ngã ba QL.1 và 20. Trong trận chiến tàn bạo khủng khiếp này, một người lính VNCH phải chiến đấu chống trả với 9 người lính CSBV có chiến xa và đại pháo trợ chiến.
Sau mấy ngày ác chiến chống trả quyết liệt không ngưng nghỉ, tất cả pháo binh, thiết giáp, đạn dược, người hầu như đều bị ủy diệt cho đến khi hầm chỉ huy của Chiến Đoàn Trưởng bị pháo kích bắn sụp Đại tá Ngô kỳ Dũng mới cho lệnh rút quân thì còn có khoảng 200 người được sống sót.
Ngay khi nhận được tin cứ điểm phòng thủ của Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52 bị Cộng quân tràn ngập. Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh QĐ3/QK3 xin quyết định sử dụng 2 qủa bom “Daisy Cutter” còn gọi là “CBU.82” tại mặt trận “Ngã Ba Dầu Giây”. Sau này Tướng Toàn cho biết, khi có quyết định của Bộ TTM, “Ông đã ra lệnh cho Không quân, Tân Sơn Nhất, sử dụng 2 vận tải cơ c.130 để thà 2 quả bom “Daisy Cutter” xuống ngã ba Dầu Giây trong đêm 15/4, vào vùng tập trung quân của QĐ4/CSBV để chuẩn bị tiến về Thủ Đô Sài Gòn. Nơi đây có gần 10,000 Cộng quân cùng với chiến xa T.54 và đại pháo các loại đang di chuyển trên QL.20 vừa tới ngã ba Dầu Giây đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
“Daisy Cutter” là loại bom nặng có trọng lượng 15,000lbs, dùng để khai hoang hay mở bải đổ quân cho đơn vị cấp Sư đoàn hoặc Lộ Quân ở bất cứ địa thế nào và có tầm sát hại trong vòng đường kính 5 dặm, đã làm cho đại quân của Tướng Võ nguyên Giáp rối loạn hàng ngũ trong 3 ngày liền, tại Hà Nội CSBV lại la ó ầm ĩ cho rằng Mỹ đã vi phạm Hiệp Định Paris, đưa pháo đài B.52 trở lại chiến trường và sử dụng bom nguyên tử trong cuộc chiến Việt nam.
Ngày 16/4 trở lại LĐ1ND ở mặt trận Xuân Lộc, sau 4 ngày quần thảo với lực lượng Cộng quân trong vùng trách nhiệm các đơn vị Nhảy Dù vẫn giữ vững được tuyến phòng thủ và còn tạo được nhiều chiến thắng oai hùng mặc dầu bị quân số địch rất đông áp đảo. Sáng nay, dân chúng trong ấp Bảo Bình báo cho biết hiện Cộng quân còn một số đông khỏe mạnh với đủ loại cáng khiêng và có khoảng 200 tên khác bị thương nặng đang nằm băng bó trong ấp. Họ còn cho biết thêm là dân trong ấp Bảo Định đã bỏ nhà chạy hết sang trú ngụ bên ấp Bảo Bình ở phía Nam cách đó khỏang 1 cây số.
Vậy thì tốt, Pháo binh Nhảy Dù lại được dịp “bán Phở”, ngay sau khi Sĩ quan Tiền sát Pháo binh leo lên được tháp chuông nhà thờ Bảo Bình quan sát và điều chỉnh yếu tố lấy “thực đơn”. Thế là 200 qủa đạn đại bác 105 ly đủ loại được liên tục gửi tới chụp xuống đầu những tên “sinh Bắc tử Nam” vừa mới chạy thoát khỏi trận chiến đêm qua. TĐ1ND đang bố trí ở phiá Đông ấp Bảo Định tương đối yên tỉnh, đã được lệnh cho một đứa con lên lục soát mục tiêu pháo binh vừa tác xạ.
Ngày 18/4, Trung tá Đỉnh Lữ đoàn trưởng cho lệnh TĐ9ND đưa một đứa con vào vùng do Đại Đội Trinh Sát báo cáo, lục soát như thường lệ. Đại đội 94/ND trên trục tiến quân Trung Úy Thăng cho biết về hướng Đông gần cuối rừng cao su có thấy bóng nhiều xe vận tải Molotova. Khi rời vị trí đóng quân được khoảng 1,000 thước thì Đại đội 94/ND chạm địch khá mạnh, cấp tiểu đoàn dưới hầm hố ngụy trang cây lá, vũ khí cá nhân và cộng đồng bắn ra xối xả. Một khám phá mới Cộng quân còn làm ổ phục kích cả trên các ngọn cây cao su để bắn tỉa. Quả thật bọn chúng có nhiều lợi thế, nên rất hung hản “bu” xung quanh như muốn ào tới để đè bẹp lực lượng Dù.
Thấy Đại đội của mình có thể bị kẹp trong vòng vây nguy hiểm. Trung úy Thăng ĐĐT liền cho lệnh binh sĩ đào hố cá nhân chiến đấu tại chỗ và lập tức xin yểm trợ. Được phi pháo yểm trợ vòng ngoài vì thời tiết quá xấu hơn nữa quân ta và địch qúa gần không có khoảng cách an toàn.
Ngay chiều hôm đó mặc dầu trời mưa tầm tã. Đại đội 93/ND do Đại úy Đinh văn Tường, đã xuất phát lúc 5 giờ để kịp giao tiếp với với ĐĐ4/ND. Dưới quyền điều động của Đại úy Trần ngọc Chỉ tân Tiểu đoàn Phó TD9/ND, nhưng khi đại đội 93/ND mới vượt qua khỏi trảng trống vừa bám được vào bìa rừng cao su với Đại đội 94/ND thì chạm địch rất mạnh. Lại chơi trò “công đồn, đã viện” nữa đây chăng. Lúc bây giờ trời về chiều lại có mưa nên trong rừng cây tối đen. Ta và địch bắn nhau qua lại, lúc mạnh khi yếu, cầm chừng suốt đêm, vì bên này sợ bên kia mò tới.. Tình hình trở nên giằng co căng thẳng, bất phân thắng bại. Còn Pháo binh Nhảy dù cũng chỉ can thiệp yểm trợ vòng ngoài thôi vì quân hai bên gần như lẫn lộn nhau không còn khoảng cách an toàn cho pháo yểm.
Trung Tá Đĩnh, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 ND, cũng vừa nhận được lệnh của Chuẩn tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh chiến trường Xuân lộc báo cho LĐ1ND chuẩn bị triệt thoái toàn bộ của đơn vị ra khỏi Long Khánh, đây là lệnh của Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệng QĐ3/QK3 để bảo toàn lực lượng về phòng thủ Sài gòn”. Ông hết sức ngạc nhiên: “đơn vị mình vẫn vững vàng, tại sao lại bỏ Long Khánh?. Ông liên tưởng đến những cuộc rút quân, triệt thoái, di tản chiến thuật, tái phối trí lực lượng v.v.. trước đây ở QĐ1” cửa biển Thuận An, Tư Hiền” và ở QĐ2 “Liên tỉnh lộ 7B, Phú Bổn, Tuy Hoà”, Trung tá Đĩnh đứng lặng người nghĩ nhiều đến những chiến hữu thân thương, bạn bè đã hy sinh, đã nằm xuống trong các trận đánh để đời này. Vì Ông cho rằng chiến thuật đúng, chiến lược sai thì trận chiến có thể thắng nhưng cuộc chiến sẽ thất bại..”. Vậy xin Chuẩn tướng trình lại với Trung tướng..”.
Trung tá Đào thiện Tuyển TĐT/TĐ8ND với quyết tâm của một người lính Nhảy dù, thề đổ máu để bảo vệ quê hương mẹ Việt nam. Ông nói: “mặt trận Xuân lộc, niềm hy vọng cuối.. Các đơn vị ta ở Long Khánh vẫn còn vững vàng đang chiến đấu và xiết chặt vòng vây suốt sáu ngày qua, đạn đã lên nòng, mũi súng hướng vào đầu địch. Chỉ còn giờ hay phút để “bắt bọn chúng phải giơ tay lên ở mãnh đất Long Khánh rực lửa căm hờn này”. Vậy các anh không được ngã gục. Các anh không được quy hàng. Các anh không được tan rã ra từng mãnh. Trong tan rã của một đơn vị, các anh là người lính Mũ Đỏ, những anh em Biệt Động Quân, những chiến sĩ Bộ binh, những anh em Điạ Phương Quân, Nghĩa Quân, sẽ không chỉ là sự tan rã của một đơn vị, mà chính là sự tan rã của hy vọng, là sự ngã đổ của Thủ Đô Sài Gòn và từ đó có thể là sự nằm xuống dài hạn của một thân thể lớn quí tuyệt vời mà chúng ta thân yêu gọi là “Tổ Quốc”.
“Không, anh em chúng tôi, Nhảy Dù và các Quân Binh Chủng bạn. Chúng tôi không ngã gục ở Xuân Lộc, chúng tôi không tan rã, hơn thế nữa chúng tôi phải chiến thắng. Chúng tôi chỉa thẳng súng vào đầu địch hét lớn: ”Bỏ súng xuống, giơ tay lên không thì chết”. Nhưng chính Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh QĐ3/QK3, không cho chúng tôi có thời gian và phương tiện để làm điều đó. Ông đã hướng về phía chúng tôi và hạ lệnh: “Các anh phải ngưng bắn, các anh phải rút lui ra khỏi mặt trận Xuân Lộc”. Quân thù đang qùy gối liền đứng dậy, kéo theo ngọn cờ chiến thắng. Còn anh em chúng tôi thì gạt nước mắt lui quân.. Trung tướng Toàn ra lệnh cho Chuẩn tướng Đảo, Tư lệnh Sư Đoàn 18BB kiêm tư lệnh chiến trường Xuân Lộc – Long Khánh. Quân lệnh, được Ông lập lại “Đây là lệnh của thượng cấp..”.
Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long khánh, người chiến sĩ BĐQ can trường thề da ngưạ bọc thây, chấp nhận nhỏ máu xuống làm sống tốt tươi đất đai quê mẹ chớ không hèn. Ông nói: ”tôi phải ở lại bảo vệ Long Khánh đến cuối cùng, nếu tôi bỏ chạy xin anh em bắn chết tôi”.
Sáng hôm sau ngày 19/4, theo lời yêu cầu của Trung tá Đỉnh, LĐT/LĐ1ND, được một Chi đoàn Thiết vận xa M.113 tăng phái đặt thuộc quyền sử dụng trực tiếp của ĐĐ93/ND tiếp viện để thanh toán chiến trường nhanh gọn. Có được đoàn “cua sắt” trong tay Đại úy Tường, tung hoành ngang dọc như cọp được về rừng có thêm bánh. Với những khẩu đại liên 50 của Thiết vận xa M.113 cùng đại liên M.60, phóng lựu M.79 và M.16 của chiến sĩ Nhảy dù thi nhau nổ như pháo tết đêm giao thừa. Cây lá bị đạn chém tả tơi, mấy con chim “người VC” làm tổ ẩn núp trên những cành cây làm sao chịu nổi, phải rơi rụng như sung chín.
Rồi đến lựu đạn M.26 được ném ra cùng M.72 phá tung các cụm cây ngụy trang ở a thì trên miệng hầm trú ẩn. Vừa bắn ầm! ầm!, anh em chiến sĩ Đại đội 93/ND vừa bám theo Thiết vận xa M.113 tiến tới như thát đổ.. Tiếng Trung úy Thăng la bai bãi qua máy truyền tin: ”Coi chừng, đạn bắn gần quá, qua đầu tụi tui rồi đấy”. Có tiếng của Đại úy Tường đáp lại: “Bung ra chứ, bộ đợi tao cõng ra nữa hay sao?.
Thực ra thì Đại đội 94/ND kẹt ở hướng Nam vẫn cầm cự suốt hai ngày qua với quân số của địch đông gấp 3,4 lần. Nhưng bây giờ, thì đội hình bao vây của địch bị bể rồi, 2 Đại đội mới giao tiếp được với nhau. Đại úy tường liền cho đoàn Thiết vận xa chuyển xạ về hướng Đông Nam, thanh toán nốt đám tàn quân đang tháo chạy về cuối rừng cao su.
Địch quân bị ở thế gọng kềm trong bung ra, ngoài ép vào, thêm hỏa lực đại liên 50 trên Thiết vận xa M.113 bắn rà sát truy diệt, địch quân đã bỏ lại tại chỗ khoảng 200 tên “sinh Bắc tử Nam” không còn “Nguyên Giáp”.
Quân ta tổn thất: ”Thiếu úy Thoại và 2 binh sĩ hy sinh, 8 binh sĩ khác bị thương và 1 Thiết vận xa bị đứt xích”.
Sau đó, Chi đoàn Thiết vận xa M.113 được rời vùng, 2 đại đội Nhảy dù được lệnh đóng quân tại chổ, thiết lập một tuyến an ninh xa cho BTL/SĐ18/BB/HQ, tình hình chiến trận trên thực tế chưa hẳn êm ả hoàn toàn. Vì còn rất nhiều địch quân trong khu rừng cao su bát ngát mênh mông. Đêm về chúng có những toán trinh sát bám theo các Đại đội Nhảy dù và thường tác xạ trao đổi qua lại để thăm dò.
Sáng ngày 20/4, Trung tá Đĩnh lại được lệnh từ Tướng Đảo cho biết: “Đây là lệnh chuyển từ Sài Gòn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phải bỏ mặt trận Long Khánh..” Lại chiến lược đầu bé, đít to” đưa đến các cuộc triệt thoái ấm ức xảy ra tại QĐI và QĐII trước đây. Một buổi họp khẩn cấp được mở ra tại Trung tâm hành quân BTL/SĐ18BB/HQ, lệnh triệt thoái được Tướng Đảo, với tư cách Tư lệnh chiến trường Long Khánh, ban ra vắn tắt nhưng tương đối đầy đủ, tóm lược các điểm chính như sau:
Liên tỉnh lộ 2 nối liền giữa Long Khánh – Phước Tuy sẽ được sử dụng làm lộ trình rút quân về hướng Nam (Phước Tuy). LTL này đã từ lâu không sử dụng, hy vọng sẽ đạt được yếu tố bất ngờ. Nhưng còn mấy chục cây số đường rừng bị bỏ hoang phế trên LTL. 2 từ Tân Phong cho đến Đức Thạnh, Long Lể về Bà Riạ không phải là việc bình thường của một cuộc rút đoàn quân di tản có cả dân chúng người gìa, trẻ con lẫn lộn.
Trên đường rút quân có căn cứ Long Giao cách chi khu Xuân Lộc 8 cây số về hướng Nam, hiện là hậu cứ của Trung đoàn 48/BB, được coi như còn an toàn.
Từ đó tiến về hướng Nam khoảng 4 cây số là xã Cảm Mỹ được ghi nhận là có một tiểu đoàn VC cơ động trong vùng lân cận.
Lệnh tổng quát và thứ tự rút quân:
BTL/SĐ18BB và các đơn vị trực thuộc.
BCH/Tiểu khu Long Khánh và các đơn vị ĐPQ+NQ.
BCH/Lữ Đoàn 1Nhảy Dù.
Cuộc rút quân được khai triển ngay chiều tối ngày 20/4 với SĐ18BB mở đường và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đoạn hậu.
Đội hình chuẩn bị di chuyển chiến thuật của LĐ1ND lúc đó như sau:
Tiểu đoàn 1 ND đóng ở phía Đông ấp Bảo Định xa nhất, không chạm địch.
Tiểu đoàn 8 ND ở trong khu rừng chồi phía Bắc QL.1 đang bao vây đám tàng quân địch tại khu nhà kho của Tổng Thống Thiệu, ĐĐ1 CBND chuẩn bị chất nổ để cắt phá hàng rào.
Tiểu đoàn 9ND(-) làm trừ bị phía Tây LTL.2, còn 2 ĐĐ 93/ND và 94/ND vẫn giăng ngang làm tuyến án ngữ phía Đông Nam BTL/SĐ18BB/HQ. Hai Đại đội này tiếp tục chạm địch ngăn chận không cho chúng tiến ra LTL.2 để gài chốt chận.
Kế hoạch rút quân của Trung tá Đỉnh LĐT theo chiến thuật di quân “giương Đông, kích Tây”. Lợi dụng thành phần tiền phong của BTL/SĐ18BB di chuyển trước an toàn:
Tiểu đoàn 3PB/ND được chia ra làm 2 thành phần sử dụng quân xa kéo súng đại bác đi trước Lữ đoàn 1 Nhảy dù, theo đội hình “chân vẹt” để luôn luôn duy trì được hỏa lực yểm trợ liên tục cho các tiểu đoàn tác chiến đồng thời hổ tương yểm trợ lẫn nhau giưã các pháo đội trong lúc di chuyển.
Sơ khởi thành phần thứ 1, di chuyển bằng xe kéo pháo đến đóng tại căn cứ Long Giao sẵn sàng. Thành phần thứ 2, kế tiếp di chuyển qua khỏi Long Giao xuống phiá Nam khoảng 4, 5 cây số vào điạ thế sẳn sàng.. Khi cánh quân bạn đến trong tầm yểm trợ của thành phần 2, thì lập tức thành phần 1 xếp càng, kéo súng vượt qua thành phần 2, đến một vị trí xa hơn 4, 5 cây số về phiá Nam. Và cứ như thế mà thi hành luân chuyển. Mỗi thành phần được một trung đội Trinh sát Nhảy dù đi theo bảo vệ.
Thứ tự di chuyển:TĐ8ND, BCH/LD và các đơn vị yểm trợ, TĐ1ND, TĐ9ND(-) cuối cùng là hai Đại đội Nhảy dù đang chạm địch, đến giờ phút rút lui phải cho nổ mìn Claymore và súng tác xạ vờ xung phong phản công nghi binh rồi im lặng đoạn chiến. Hỏa lực pháo binh ưu tiên yểm trợ cho hai Đại đội này, chỉ có TĐ3PB/ND mới được di chuyển trên đường lộ cái.
Các đơn vị được thẩm quyền được thông báo tường tận về địch và bạn trong vùng tiếp cận. Tình hình mỗi lúc một thay đổi khác. Tôi cũng lưu ý anh em luôn luôn cẩn thận đề cao cảnh giác. Bộ chỉ huy LĐ1ND(+) do Trung tá Lê Hồng, Lữ đoàn phó chỉ huy.
Có thể nhờ vào yếu tố bất ngờ lúc đầu, nên các thành phần của BTL/SĐ18BB/HQ kể cả Thiết giáp rút đi an toàn. Lúc bấy giờ trời đã tối, tại ngã ba chi khu Xuân lộc, đông nghẹt người chen chúc đủ mọi thành phần: quân nhân thuộc các quân binh chủng, ĐPQ+NQ và gia đình, các nhà tu hành, dân chúng v.v.. Ngoại trừ các đơn vị Nhảy dù vẫn đóng quân tại chổ chờ lệnh, còn các thành phần khác mạnh ai nấy đi, không theo thứ tự như đã quy định trong lệnh di chuyển. Đoàn người chạy trốn “thần chết” nhưng cũng không thoát khỏi bởi cái gọi ‘quân đội nhân dân của CS” pháo kích truy đuổi đòi nợ máu dân tộc , cái thảm cảnh máu đổ thịt rơi như hồi Mùa Hè Đỏ Lửa 72, đại lộ kinh hoàng ở Quảng trị lại tái diễn..?
Khi đến Long Giao thì BCH/LĐ1ND(-) tạm dừng quân. 2 pháo đội 105 ly đã bố trí tại đây sẵn sàng yểm trợ cho thành phần rút chót của Lữ đoàn. Đồng thời 2 pháo đội khác cũng đã có mặt tại vùng xã Cẫm Mỹ. Trong khi đó, trên đỉnh đồi trọc bên kia đường phía Đông đối diện với căn cứ Long Giao địch quân đặt một khẩu thượng liên 12,7 ly để chế ngự cầm chân quân ta, mỗi vài phút thì chúng lại bắn trực xạ vào cổng căn cứ. Trung Tá Đỉnh liền quyết định làm câm họng khẩu thượng liên này bằng một loạt đại pháo với đầu nổ cao bắn đi từ 2 pháo đội ở xã Cẫm Mỹ.
TĐ8ND được lệnh khởi hành vào lúc 10 giờ đêm, gồm các thành phần thuộc LĐ1ND, kéo theo các đơn vị địa phương, gia đình và dân chúng chạy loạn. Các đơn vị Nhảy dù khai triển và phải luôn giữ đúng đội hình tác chiến và sẵn sàng phản ứng kịp thời khi chạm địch. TĐ9ND còn 2 Đại đội đang chạm địch rút đi đoạn hậu. Khi BCH/TĐ rút đồi Chuối sẽ có ĐĐ 94/ND của Trung úy Thăng tháp tùng. Khoảng 2 giờ sáng, Đại úy Tường cho lệnh ĐĐ 93/ND bấm mìn Claymore tấn công nghi binh, rồi đoạn chiến. Tiếng nổ vang ‘ầm! ầm!’ rồi ‘ầm! ầm!’ làm rung chuyễn cả một góc rừng trong đêm vắng, sau đó lặng lẽ lui quân.
Bây giờ Tướng Đảo, Tư lệnh chiến trường và Tướng Lưỡng, Tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù nhận được báo cáo thành phần Nhảy Dù sau cùng đã rời khỏi mặt trận Xuân Lộc – Long Khánh an toàn, lúc 2 giờ sáng 21/4. Nhưng đây mới là giai đoạn đầu, vì trên đường về khu tập trung làng Bình Gĩa, quận Đức Thạnh tỉnh Phước Tuy còn dài, sẽ còn rất nhiều bất trắc và lắm gian nguy trên LTL.2.
“Tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, trên nguyên tắc và định nghĩa là người chỉ huy trực tiếp Binh Chủng Nhảy Dù, nhưng trên thực tế kể từ ngày SĐND được bốc ra khỏi vùnh hỏa tuyến QĐ1/QK1, thì Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH đã xé nát Sư Đoàn Nhảy Dù ra từng mãnh, đẩy đi khắp các mặt trận. Do đó quyền chỉ huy chiến thuật trong Binh Chủng Nhảy Dù và việc điều động anh em trong đơn vị Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh Nhảy Dù có nhiều mưu lượt khả kính. Khi Ông nhìn thấy những chiến hữu đã từng “vào sinh ra tử” đang bị hiểm nguy trên trận địa, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng đã phải chạy ngược chạy xuôi, can thiệp phối hợp điều động lất TĐ7ND do Trung Tá Nguyễn Lô, Tiểu Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Nguyễn văn Qúy làm Tiểu Đoàn Phó chỉ huy cùng 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 thuộc Lực Lượng Xung Kích QĐ3/QK3, trừ bị tại tỉnh Biên Hòa, di chuyển gấp rút để tiếp ứng cho các thành phần của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đang trên đường rút quân từ căn cứ Long Giao về làng Bình Gỉa, Phước Tuy.
Đến khoảng 5 giờ sáng, đơn vị đoạn hậu của LĐ1ND đã đến căn cứ Long Giao, thì BCH/LĐ(-) đang đến với thành phần 2 pháo đội ở xã Cẫm Mỹ, trong khi đó thành phần 1 pháo đội ở Long Giao xếp càng, để di chuển vượt qua xã Cẫm Mỹ về vị trí mới ở phía Nam đúng theo kế hoạch. BCH/LĐ tiếp tục di chuyển trên LTL.2 ngang xã Cẫm Mỹ, hai bên đường phần lớn là những vạc rừng rậm, rừng tre gai xen lẫn rừng chồi cao thấp qúa đầu người, đi được khoảng 3,4 cây số thì trời vừa sáng, nghe có nhiều tiếng súng nổ liên hồi và đám bụi mù ở phía trước. BCH/LĐ dừng lại bố trí tạm bên lề đường quan sát, độ 30 phút sau có một số ĐPQ+NQ và gia đình chạy ngược lại, một sĩ quan ĐPQ cho biết:
Bộ Chỉ Huy Tiểu khu vừa tới khúc quẹo dưới dốc thì bị Cộng quân phục kích tấn công. Chúng trên đồi đông lắm, tràn ngập đoàn xe đang di chuyển. Trung tá Lê Quang Định, TKP bị đạn B.40 chết tại chổ, còn Đại tá Phúc Tỉnh trưởng, cũng bị thương nặng và bọn chúng đã kéo đi rồi..
Trung tá Đỉnh, quyết định cho Pháo Binh Nhảy Dù yểm trợ giải cứu, nhưng Ông nhận được báo cáo của sĩ quan Tiền Sát:
Thành phần pháo binh ở phía Nam chưa vào được vị trí sẵn sàng tác xạ.
Pháo đội ở phía Bắc đang bị địch tấn công biển người tràn ngập, Đại úy Điệp PĐT bị địch bắt đã dùng súng lục ‘tự sát’
Thế là BCH/LĐ cùng một số ĐPQ và gia đình đang bị kẹt giữa trận chiến: “phiá trước là BCH/Tiểu khu bị phục kích, sau lưng là Pháo Đội và Trung Đội Trinh sát Nhảy Dù bị tấn công tràn ngập”. Ông liền tung TĐ8ND lên tiếp ứng.
Trung tá Đào Thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND cho một đại đội lục soát đến vị trí của Pháo Đội, phần còn lại của Tiểu đoàn đánh bọc sườn phía Tây ngọn đồi chận địch. Cộng quân chỉ đánh chớp nhoáng lướt qua vị trí Pháo Binh, phá hủy 4 khẩu đại bác 105 ly, bắt một số quân nhân Nhảy Dù rồi rút chạy vội về hướng Đông. Đại đội Nhảy Dù lục soát đã tìm thấy 5 thương binh của ta, mau lẹ dìu họ theo. Có 12 chiến hữu hy sinh đành phải bỏ lại.
Khi tiếp giáp được với TĐ8ND, BCH/LĐ tiếp tục di chuyển về hướng Nam theo đội hình cũ, nhưng lộ trình thay đổi: “toàn bộ rời LTL.2, đi vào trong bìa rừng cách đường từ 500 đến 1000 thước tùy theo tình hình và địa thế “. Một đại đội của TĐ8ND cũng đến lục soát qua khu vực BCH/Tiểu khu Long Khánh vừa bị Cộng quân phục kích.
Kết qủa bi thảm, không còn gì..!.. Ngoài bãi chiến trường tang thương đẫm máu.. Xác Trung tá Lê Quang Định cùng một số quân nhân khác và gia đình tử thương cũng đành để nằm lại vĩnh viễn trên mãnh đất quê hương mà họ đã từng chiến đấu bảo vệ khi còn sống..
Toàn bộ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cũng không di chuyển được liên kết nối đuôi nhau. Từ Long Giao trở đi nhiệm vụ của từng đơn vị, cũng khác nhau tùy theo tình hình. Nhất là TĐ9ND có hai Đại đội chận địch phải đoạn chiến đi sau cùng.
Ngày 21/4, lúc này trời đã sáng hẳn, TĐ9ND dừng lại để lấy nước, sau khi đã điều động Đại Đội 92/ND do Đại úy Lê đình Ruân chỉ huy vượt qua Suối Cả, bố trí dọc theo ven rừng dọc sau ấp Suối Cả, sát ranh giới giữa hai tỉnh Long Khánh – Phước Tuy. Còn ĐPQ+NQ gia đình và dân chúng thì nằm ngồi nghỉ ngỗn ngang trên mặt lộ.
Thành phần đầu tiên của TĐ9ND vừa xuống đến mé suối, thì hàng loạt súng cối 61 ly và thượng liên của địch từ phía Tây trong rừng tre lá bắn ra xối xả. Phần đuôi của TĐ9ND cùng ĐPQ+NQ tạt ngang sang bên phải đường. Đại đội 91/ND có nhiệm vụ thanh toán chốt này. Tất cả các loại vũ khí của Đại Đội được tập trung bắn như mưa bão vào khu rừng tre, chỉ một lát sau là tiếng súng của địch đã câm họng. Thiếu tá Lê Mạnh Đường cho TĐ9ND rời đường lộ ép sang bên phải, đi sâu vào bìa rừng để tránh lọt vào ổ phục kích của Cộng quân. Đội hình di chuyển của TĐ9ND lúc bấy giờ: “Đại Đội 93/ND đi chuẩn, Đại Đội 92/ND đi bên trái và Đại Đội 94/ND đi bên phải, nhắm thẳng về hướng Nam dựa theo LTL.2.
Đặc biệt trong cuộc hành quân triệt thoái ra khỏi tỉnh Long Khánh, cấp trên lúc đó cảm thấy những khó khăn, đói khát, hiểm nguy đang chờ họ trên đoạn đường dài mà mọi quân nhân các cấp thuộc LĐ1ND đang phải hứng chịu, nên đã xin điều động TĐ7ND, do Trung Tá Nguyễn Lô, TĐT và Thiếu tá Nguyễn văn Qúy, TĐP thuộc lực lượng trừ bị tại tỉnh Biên Hòa với 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113, TĐ7ND được chia ra làm 2 đoàn quân, cánh bên phải do Trung tá Lô chỉ huy, cánh trái do Thiếu tá Qúy chỉ huy cùng di chuyển thần tốc càn rừng, leo đồi, vượt suối như Đức Phù Đổng Thiên Vương đuổi giặc để bảo vệ hai bên sườn cho LĐ1ND trên đường rút quân về đến khu rừng cao su phía Bắc làng Bình Giã cách chi khu Đức Thạnh khoảng 10 cây số thuộc tỉnh Phước Tuy được an toàn.
Khi giao tiếp được với TĐ7ND, Trung tá Đỉnh tâm tình: “khi bắt tay hay nói đúng hơn là được TĐ7ND cùng 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 đến yểm trợ giải nguy kịp thời, đúng chỗ, đúng lúc, anh em LĐ1ND như đang khát nước khô cả cổ trên sa mạc được gặp con sông nước mát chảy ngọt ngào tình “huynh đệ chi binh”. Vì khi LĐ1ND di chuyển đoạn hậu thì quân địch có đủ thời giờ để bu lại truy đuổi, do đó các đơn vị Nhảy Dù càng lúc càng chạm địch tứ tung trên đoạn đường rút quân..”.
Các đơn vị Nhảy Dù về đến quận Đức Thạnh lúc 4 giờ chiều, trể nhất là thành phần đoạn hậu sau chót của TĐ9ND khoảng 6 giờ tối ngày 22/4.
Toàn bộ LĐ1ND quay thành một vòng đai lớn quanh Chi Khu Đức Thạnh với TĐ8ND và TĐ1ND chiếm 2/3 vị thế hướng về phía Bắc, TĐ9ND vượt qua đơn vị bạn chiếm đóng phía Nam.
Sáng ngày 23/4, tổ tiền đồn của TĐ1ND đã bắn cháy 2 xe Molotova chở đầy đạn dược và chất nổ tại ngã ba Bình Giã, khi chúng định chạy rẽ về “mật khu Hát Dịch” hướng Tây Bắc tỉnh Phước Tuy.
Ngày 24/4, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SĐ3BB được giao trách nhiệm lập tuyến phòng thủ khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu với lực lượng tăng cường gồm có 1 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 thuộc Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù..
BTL/SĐ 3BB/HQ đóng tại BCH/ Tiểu Khu Phước Tuy bên trong Thị Xã Bà Rịa. Để thực hiện kế hoạch điều phối trách nhiệm phòng thủ giữa các đơn vị: 2 Tiểu Đoàn thuộc SĐ3BB, LĐ1ND và một Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 giữ phòng tuyến để bảo vệ QL.15 từ Long Thành về Bà Rịa. Theo lời của Thiếu tướng Hinh, thì quân số của các tiểu đoàn tác chiến thuộc LĐ1ND ở mức thấp, mỗi tiểu đoàn còn có khoảng trên dước 400 chiến sĩ.
BCH/LD1ND trấn đóng bên ngoài quanh thị xã Bà Rịa, ở đây LĐ1ND được thỏa mái một vài ngày với nhiệm vụ hành quân tương đối nhẹ nhàng hơn khi ở tỉnh Long Khánh. Trung Tá Đào Thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND được lệnh bổ nhiệm làm quyền Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh TĐP, được chỉ định xử lý chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ8ND.
Sáng 27/4 trên QL. 15 Sài Gòn – Vũng Tàu bị cắt đứt và Cộng quân đang hung hản tiến về Tổng Kho Long Bình. Trong khi đó , các đơn vị của SĐ18BB, SĐ3BB, LĐ1ND, TQLC.. đang tổ chức hệ thống phòng thủ ở phía Đông Sài Gòn và khu vực Bà Rịa.
Ngày 28/4, khi Đại quân của CSBV đã ào ạt tấn công vào tỉnh Phước Tuy, các đơn vị Nhảy Dù chống trả quyết liệt giữ vững tuyến phòng thủ đến chiều tối cùng ngày, LĐ1ND được lệnh rút về Vũng Tàu trước khi đơn vị Công binh và TQLC bảo vệ cho phá hủy cầu Cỏ May trong đêm 28 rạng ngày 29/4.
Nhìn lại lịch sử cuộc chiến Việt nam, từ những đỉnh cao có thể sẽ bị ghi nhận một cách thiên lệch hồ đồ bất xứng, nhằm mục đích để cố tình chôn lấp tinh thần và ý chí chiến đấu “chống cộng” của QLVNCH nói chung. Hay của một thế hệ thanh niên Miền Nam Việt nam đã đứng trong hàng ngũ chống xâm lăng của Cộng sản Quốc tế, đội lốt cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc bởi Hồ Chí Minh chủ đạo. Nhưng Quân sử của Binh Chủng Nhảy Dù QLVNCH nói riêng, chắc chắn sẽ đặt những sự kiện lịch sử oai hùng đó vào một chổ đứng đúng đắn xứng đáng và trang trọng của nó. Vì người chiến sĩ!. “Người Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đời đời không bao giờ chết”, mà “Tổ Quốc mãi mãi ghi ơn”..
Sự thật đó là: “Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù chưa bao giờ thua trận Xuân Lộc – Long Khánh”. Nhưng sự thử thách mà phóng viên chiến trường của nhật báo Chính Luận đề cập đến bên trên qủa thật đã còn tiếp diễn và kết qủa qúa rõ rệt “ LĐ1ND đã không bị đối phương quật ngã”. Hơn thế nữa LĐ1ND đã buộc đại quân của Tướng CS Võ văn Giáp dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tướng CS Trần Văn Trà với quân số và chiến cụ đông hơn gấp 10 lần, hung hản tiến ào ào như thác đổ cũng phải khựng lại ở cửa ngõ Sài Gòn để được sống còn.
Và theo ghi nhận của Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT/QLVNCH trong Hồi ký viết cho Trung Tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ, sản xuất: “.. sau hai tuần kịch chiến (với quân Cộng sản BV), SĐ18BB bị thiệt hại 30% quân số, Trung đoàn 52BB bị tổn thất nặng, ĐPQ và NQ tỉnh Long Khánh cũng bị thiệt hại rất nặng, hầu như không còn khả năng chiến đấu, chỉ có ‘Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù’ là ít bị thiệt hại..”.
Trận đánh Xuân Lộc đã kết thúc, xin qúy chiến hữu hãy nghe những lời tâm tình của Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù. Ông là vị Tư lệnh sau cùng của Binh Chủng Nhảy Dù, thân thương gởi về Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh LĐT/LĐ1 Nhảy Dù, người hùng trực tiếp trận đánh cuối cùng trong chiến sử của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt trận Xuân Lộc – Long Khánh, tháng 4/1975.
“Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tăng phái Quân Đoàn III, trấn giữ Xuân Lộc, tăng cường hành quân cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là chận đứng bước tiến quân của Việt cộng vào Sài Gòn. Anh em Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đã oai hùng làm tròn nhiệm vụ. Địch quân không chiếm thêm được một tấc đất. Đoàn quân viễn chinh của Tuớng CS Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng ngay ở cửa Sài gòn.
Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên rồi phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều anh em Nhảy Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Sư Đoàn 18BB được lệnh rút về Biên Hòa. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu đến cuối. Sau chót, đến đêm 28 rạng 29 tháng 4, bộ đội Cộng sản tấn công Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù ở Láng Cạn, Bà Rịa. Đánh đến giờ phút chót, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi có lệnh trực tiếp cho Trung tá Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, mà anh Nhảy Dù chúng tôi âu yếm gọi là Đỉnh “tây lai” đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những đứa con lên tàu.. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, luôn dành sự an toàn cho từng đứa con yêu qúy. “Đỉnh tây lai” là một trong những “thiên thần” lẫm liệt đó..”.
30/4/1975, ngày kết thúc cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”, trận chiến ý thức hệ giữa hai phe phái Quốc gia – Cộng sản đã trải dài trên quê hương Mẹ Việt Nam hơn 20 năm qua. ‘Ngày Quốc tang của nước Việt Nam Cộng Hòa’. Chiến tranh là thế đó, tàn khốc hơn giông bão, hủy diệt hơn cơn hồng thủy.. bẩn thiểu! Bần tiện…!!.
Thế rồi cũng từ đó, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đã trải qua một giai đoạn lịch sử của cuộc chiến khốc liệt để đưa đến việc chấm dứt đời binh nghiệp phục vụ cho Tổ quốc của anh em Nhảy Dù với những ‘người lính tình nguyện đem thân mình thề quyết bảo vệ Giang sơn của tiền nhân đã để lại..’ trước khúc quanh lịch sử dân tộc uất nghẹn không ngờ ..!. Và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được TAN HÀNG không có điệp khúc “Nhảy Dù Cố Gắng” trên ĐẠI DƯƠNG sau khi nghe lệnh buông súng đầu hàng quân CSBV “vô điều kiện” của Tổng Thống Dương Văn Minh, được tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975..!!. Mẹ Việt Nam ơi! Quê hương mình đã chết thật rồi Mẹ ơi..!!!.
XUÂN LỘC TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG,
TIẾC THƯƠNG CHIẾN SĨ ANH HÙNG HY SINH!
Viết đến đây để hồi tưởng lại, những người sống cũng như những người chết oan nghiệt, chiến hữu, bạn bè thân hữu đã hy sinh vì chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, tôi xin được một phút để kính cẩn nghiêng mình ngã mũ tưởng nhớ vinh danh những chiến sĩ Mũ Đỏ đã hy sinh xương máu để “bảo quốc an dân”, và thắp lên nén hương lòng để tri ân những “Thiên Thần Mũ Đỏ” đã vĩnh viễn nằm xuống để bảo vệ Tổ Quốc trong Danh Dự và Trách Nhiệm của người chiến sĩ QLVNCH nói chung. Việc đoàn chiến xa của Cộng quân tiến vào dinh Độc Lập, là việc tất nhiên khi đã có lệnh
QLVNCH phải buông súng xuống chân.
Sau cùng, người viết xin trân trọng cảm ơn các tác gỉa, nhà xuất bản, Đặc san Mũ Đỏ, Nguyệt báo KBC, Việt báo Online. Đặc biệt là bài viết về “Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong những ngày cuối tại Miền Nam Việt Nam” của Trung Tá Lê Văn Đỉnh Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong việc tham khảo trích dẫn các tài liệu và bài viết nói trên. Nếu có những lỗi lầm hoặc thiếu sót. Trân trọng kính xin qúy vị đại xá cho.
Một lần nữa tôi thành thật xin đa tạ./
Mũ Đỏ Trịnh Ân
Người Lính Già Phương Nam
Chiến Tranh Việt Nam, Từ Chủ Nghĩa Be-Bờ của Hoa Kỳ
THE VIETNAM WAR– Chiến Tuyến Việt Nam, Từ Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) của Hoa Kỳ với Chiến Lược Không “Đánh Thực”, “Không-Cốt-Thắng” Tới Ngày QUỐC HẬN Việt Nam.
GS TS Lưu Nguyễn Đạt, Ph.D., J.D., LL.M.
I. Căn Bản của Chủ Nghĩa Be-bờ
Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1]là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2] ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo. Chính sách này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt. Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947[5] và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6]
Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau:[7]
Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
Xôviết cộng sản tìm mọi cách kết tác với thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;
Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.
Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9] Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:
hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2, song song với việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quý Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund];
cảnh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới hình thức liên minh quân sự Bắc Âu [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
Thu thập tin tức cẩn mật từ quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]
Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy]. Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự, MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13]
1. Khai mở Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa ky tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.
TT Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO] trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông Dương.
TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản…[14] Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:
tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương;
Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến..
Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ. Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.
2. Việt Nam Thành Thí Điểm Chủ Nghĩa Be-Bờ
TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia. Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.
Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:
Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.
Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đãi của một thiểu số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo. Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng v.v., các nhà trí thức độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v. đã mất cơ hội tham dự vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến Tuyến này. Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá trên đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất đáng tiếc. Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự do.
Sau hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963. Nhiều tài liệu lịch sử [mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn của CIA Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17] dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở. Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô.. Ngô Đình Nhu.[18]
Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu là do [a] tình trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và [c] phần nào vì Ngô Đình Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đình Diệm v.v. với ý định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]
3. Biến Hoá Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô. Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:
— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22]để lấy cớ trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney;
— Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận để đưa tới thảo luận ngưng chiến;
— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy] tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh phòng chung quanh các phi trường và các địa điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đòi hoà bình của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng] phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử. Đó là lý do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt. Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến.
Về phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân quản” với 10 biến cố chính trị gồm những cuộc đảo chính hụt và những cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia, Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó. Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các nơi sôi động.
Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:
về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại.
Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN. Biến cố Tết Mậu Thân đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích. Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”. Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[23] Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30, 000 binh si tử thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện hằng ngày trên Ti Vi Hoa Kỳ.
4 Chấm Dứt Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Khi thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ. Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger đếu thấy rõ cuộc chiến không thể thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng không thể kéo dài tình trạng cầm cự này lâu dài thêm.
Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi” [“Détente”][24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms Limitation Talks],[25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”[26]tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.
Trong tinh thần đó, Nixon quyết định giảm thiểu quân số tác chiến từ 537,000 xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,[27]bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho Quân Đội VNCH. Trong giai đoạn này đã xẩy ra những chiến cuộc ác liệt như sau:
Cuộc Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc hành quân nầy, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham chiến. Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn.
Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972. Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt [QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lần nầy QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn 3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại. Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công. Sau 81 ngày đêm tranh đấu, các binh chủng Nhẩy Dù, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54 ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt hại khoảng 30 ngàn binh sĩ. QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh và Biệt động quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô tiến đánh Thủ Đô Sài Gòn. Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.
Sau nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng đồng minh và nhiều điều cam kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973, giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].
Năm 1973, Tổng trưởng Quốc Phòng Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ đem quân đánh lớn tại Miền Nam. Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để cấm việc thả bom này.[28] Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với TT NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu không muốn gọi là lừa đảo.
Trong khi đó, QBV thao túng dùng đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng tiếp viện để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới 1976. Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà đã đem lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà Nội. Sau khi Ban Mê Thuột bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975. Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]
hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàng tật].
khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong;
Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.
II. Phản Diện Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam: Ai Thắng, Ai Thua?
1. Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn: [A] Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower, [B] xác định vị trí “be-bờ“ do TT JK Kennedy & Co Vấn Bundy, [C] biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson, [D] để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30] với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger.
Sự thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản. Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :
vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[31]
vừa vận chuyển guồng máy sản xuất chiến cụ “phòng thủ chiến lược” do tư bản ứng vốn, thu lời.
Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[32] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng: “This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience…In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist. We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33]
Quyền lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực của dân chúng. Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111 Tỷ Mỹ Kim [tương đương 900 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2016], dù hạn chế vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ. Dân sẽ chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một.
2. Với cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”, nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc chiến lẫn định mệnh sống còn. Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt vô cảm. Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt. Nhưng chúng ta vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng minh kém vế.
Trong cuộc “Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính thể Quốc gia lẫn nhân dân Miền Nam đều thất bại.
3. Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập. Quân đội và Nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng. Quân đội CS Băc Việt thực sự đánh cho Nga, đánh cho Tầu. Họ là kẻ thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ đã chiếm được Sài Gòn, nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất Nước trong “hoà bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán đảo, bán dân.
VẬY AI LÀ LÀ PHE THẮNG TRONG (QUA) CHIẾN TRANH VIỆT NAM?
“Đồng Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất thành cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết Be Bờ/Chiến tranh lạnh/” đã tháo chặy với hội chứng “Vietnam Syndrome” trên đài truyền hình và tại hậu phương Hoa Kỳ, nhưng thực sự đã “thắng cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch] thế giới, tạm cho tới ngày nay.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ vì đảm nhận vai vế “hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối với nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác trên thế giớ, nhất là tại Trung Đông, Bắc phi, phần nào để duy trì kho bạc “petro dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ đại) phát triển kỹ nghệ chiến cụ –“Military Industrial Complex”, cánh tay phải của uy lực tư bản Hoa Kỳ.
Song song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung Cộng. Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi Tây, đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu “ping pong/coca cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War] với các chính thể Nixon-Kissinger và kế nhiệm, đế quốc cộng sản này đã trở thành “phó chủ” toàn cầu [với kỳ vọng trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam, Biển Đông, và bất cứ nơi nào thèm “tiền xì dâu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay thấy bắt buộc [chẳng đặng đừng] phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc “made in China”.
Phải chăng Trung Cộng đang trở thành con khủng long thế kỷ 21, và Việt Nam là cái đuôi xã hội mafia của nó?
TẠM KẾT:
Cuộc chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng là bài học chung cho những thế hệ sau. Đất nước là của chung, phải định đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại nhân, vì họ có mục tiêu và quyền lợi của họ. Cái khôn là biết hợp tác để trao đổi thế lực, trí tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc, từng thể chế tác động nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền lợi của đảng phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt. Không ai sống hộ chúng ta và cũng không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu chúng ta. Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi theo đuổi, thực hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương tự.
Chúng ta, con cháu chúng ta hãy tránh là nạn nhân lẫn tòng phạm của những cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng thế hệ này sang thế hệ khác. Hãy lật ngược những trang bi sử đó và nhất quyết trở thành sáng lập viên chung của một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững bền, tích cực, trọng sinh, trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo trọng, thân thương. Việt Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn bị vĩnh viễn xoá bỏ.
Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân dân Việt Nam, toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những Người Việt thực sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây giờ và tiếp nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc tài.
Dù là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít, hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ quyền lợi và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó, cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây dựng và bảo trọng một Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy.
Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University
Cập nhật March 7, 2019
www.vietthuc.org
CHÚ THÍCH
[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State
[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for acordon sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease.
[3] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.
[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State
[5] Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.
Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and intellectual respectability.”
[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine”Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727
[7] At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…
[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402
[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press
[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and the Triumph of Democracy. (1993). Gimbel, John, The origins of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).
[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives
[12] Amy B. Zegart, Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC
[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy
[14] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.”
[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)
[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia
[17] Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963 that “Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they will mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem, he should also be sent outside Southeast Asia.” He further went on to anticipate what he termed a “Gưtterdämmerung in the palace”. We should encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the Nhus should be banished to France or any other country willing to receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer, Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.
[18] According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese found themselves.”
[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.
[20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”
[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”
[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The New York Times, 1970-06-25
[23] Television brought the brutality of war into the comfort of the living room. Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.
[24] Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard University Press (2003).
[25] SALT [Strategic Arms Limitation Talk]
[26] With honor
[27] Vietnamization or Nixon Doctrine
[28] Senate passed the Case-Church Amendment to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam Syndrome. Karnow, Stanley (1991)
[29] Battlefield:Vietnam | Timeline
20 Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech University.
R.J. Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources & Calculations”. web site. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved 2010-01-01.
Tran Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site.http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm. Retrieved 2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF
Kevin Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.
[30] Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon & Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam’
[31] Effect of the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen Western institutions in order to render them invulnerable to the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet regime.
[32] Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.
[33] President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961