TÀI LIỆU THẬT HIẾM CÓ

Tài Liệu Quân Sử VNCH Rất Đầy Đủ Và Chi Tiết, Có Cả Hình Ảnh Và Bản Đồ.                  

Dinh cong Duc

………………………………………….
SVN Navy Coastal Security Service: The Gulf Raiders – (Trần Đỗ Cẩm) 
Thiết Giáp QLVNCH Tại Hạ Lào: Dấu Chân Chiến Mã … – (Trần Đỗ Cẩm) 
Vì Sao Tân Cảnh Thất Thủ? – (Cựu Đại Tá Hà Mai Việt) 
Đảo Chánh Ngày 1/11/1963 – (Phạm Bá Hoa) 
Mặt Trận Ban Mê Thuột – (Phạm Huấn) 
Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 Ngày 17/3/1975 – (Phạm Bá Hoa) 
Thung Lũng Iadrang – (Hà Kỳ Lam)
Trận Làng Vei (Phần 1) – (Trần Ðỗ Cẩm)
Trận Làng Vei (Phần 2) – (Trần Ðỗ Cẩm)
Trận Làng Vei (Phần 3) – (Trần Ðỗ Cẩm)
Trận Làng Vei (Phần 4) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Trận Làng Vei (Phần 5) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa – Bình Thuận – (Hồ Ðinh)
Vết Xích Chiến Xa Trên Ðất Kontum – (Lê Quang Vinh – Chi Ðoàn 1/8)
Hổ Cáp – Gia Ðình 9 Kỵ Binh – (Hổ Cáp Trần Hữu Thành) 
Cuộc Ðổ Bộ Trong Lòng Ðịch – (Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa) 
Hải Long, Mặt Trận Miền Ðông Phan Thiết – (Mường Giang) 
Ðịa Phương Quân & Nghĩa Quân Bình Thuận – (Mường Giang) 
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần – (Nguyễn Lý Tưởng)
Tướng Trần Thiện Khiêm … – (Trần Ngọc Giang)
Trận Ðánh Cuối Cùng Của Thiếu Sinh Quân … – (Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng)
Trung Úy Sơn – (Charles Kuralt – Hoàng Mai Ðạt chuyển ngữ)
Mùa Xuân Không Ðến – (Lê Bình)
Nguyên Văn bản Hiệp Ước Biên Giới Viêt – Hoa 1999
Oan Hồn Trên Xứ Huế – (Ngô Xuân Hùng chuyển ngữ)
Trận Phan Rang – (Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang)
The Easter Offensive (in English) – (Lt. Gen. Ngo Quang Truong) 
Ðảo Guam, 27 Năm Sau – Tuyên Úy Nguyễn 
Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn – Phạm Văn Liễu 
Ngày Quân Lực – Bùi Ðức Lạc 
Cái Chết Của Sử Gia Phạm Văn Sơn – Nguyễn Văn Dưỡng 
Trong Cảnh Sống Còn – Nguyễn Tấn Hưng 
Những Ngày Cuối Cùng Của Hải Vận Hạm Hậu Giang – Hoàng Sa NQT
Trận Phan Rang (Tháng 4/75) – Trương Dưỡng
Tây Nguyên Sóng Dậy – Bùi Ðức Lạc
Nhớ Về Tháng Tư 1975: Vùng IV Duyên Hải Những Ngày Cuối – Nguyễn Duyệt
Thiên Anh Hùng Ca – Bùi Ðức Lạc
Người Tù Trại Phong Quang – Ngô Xuân Hùng dịch
Phúc Trình Weyand (Phần 2) – Trần Ðỗ Cẩm dịch
Phúc Trình Weyand (Phần 1) – Trần Ðỗ Cẩm dịch 
Ban Mê Thuột: Những Ngày Ðầu Trong Tay Cộng Quân – Nguyễn Ðịnh
Biệt Hải: Chuyến Công Tác Thanh Hóa – Nguyễn Văn Kha 
Biệt Hải: Chuyến Công Tác Bầu Tró (Ðồng Hới) – V.12
Ðại Tá Ngô Thế Linh – Nhân Viên T 70 
Ban Mê Thuột Ngày Ðầu Chiến Cuộc – Nguyễn Ðịnh
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 8) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 7) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 6) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 5) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 4) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 3) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 2) – Phạm Văn Sơn 
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 1) – Phạm Văn Sơn 
Bí Mật Về Trận Thất Thủ Ban Mê Thuột – Lữ Giang 
Mặt Trận Tây Nguyên 1975 – Trung Tá Ngô Văn Xuân 
Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B – Khuyết Danh 
Nhìn Lại Trận Ðánh Ban Mê Thuột – Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật 
Trung Ðoàn 44 Trong Mùa Hè Ðỏ Lửa – Trung Tá Ngô Văn Xuân 
Tết Mậu Thân Tại QÐ II – Ðại Tá Trịnh Tiếu 
Hoạt Ðộng Của BK Dù Tại Bắc Việt – Trung Tá Nguyễn Văn Vinh 
Bắc Việt Tấn Công Xuân Lộc – Hồ Ðinh 
Máu Lửa … Charlie – Ðoàn Phương Hải
Tướng Nguyễn Khoa Nam: Hồi ký của SQ tùy viên– (Lê Ngọc Danh) 
Chuyến Công Tác Cuối Cùng Của HQ 09 – (Hoàng Ðình Báu) 
Tưởng Niệm Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh – (Ngô Xuân Hùng) 
Mùa Hè Ðỏ Lửa 72 – (Cọp Biển Trần Ngọc Nam) 
Cộng Sản Bắc Việt Xâm Lăng – (Trung Tá Trần Văn Hiển) 
Poulo Wai – Ðột Kích Thám Sát Người Nhái – (Trịnh Hòa Hiệp) 
Liên Ðoàn Người Nhái – (Lê Quán) 
Giang Ðoàn 26 Xung Phong: Những Giòng Sông Cũ … – (Trần Ðỗ Cẩm) 
HQ 802- Những Ngày Cuối Trên Biển Ðông – (Vũ Quốc Công) 
Từ Ban Mê Thuột Ðến Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên – (Tôn Quang Tuấn) 
Những Kỷ Niệm Gia Ðình Với Tướng Nguyễn Khoa Nam – (Nguyễn Thái Dương) 
Thương Tiếc Viết Về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam – (Nguyễn Khoa Phước) 
Tướng Cao Văn Viên Kể Lại 2 Buổi Họp Lịch Sử Tháng 3/75 – (Vương Hồng Anh) 
Tưởng Niệm Tướng Trần Văn Hai (1) – (Người Lính Già) 
Những Giờ Phút Cuối Cùng Của Tướng Trần Văn Hai – (Trịnh Văn Ngạn) 
Chiến Ðấu Ðến Cùng – (Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi) 
Phong Cách Anh Hùng Của Tướng Phạm Văn Phú – (Nguyễn Ðông Thành) 
Tướng Lê Văn Hưng (2) – (Bà Lê Văn Hưng, nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng) 
Tướng Lê Văn Hưng (1) – (Dale Andrade) 
Thiên Thần Mũ Ðỏ Ai Còn Ai Mất – (Tướng Lê Quang Lưỡng) 
Tướng Lê Nguyên Vỹ (2) – (Nguyễn Văn Tín) 
Tướng Lê Nguyên Vỹ (1) – (Thanh Sơn) 
Một Ngày Với Ðô Ðốc Chung Tấn Cang – (Phỏng Vấn – Phan Lạc Tiếp) 
Lực Lượng Ðặc Biệt Hải Quân: Sở Phòng Vệ Duyên Hải – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Mặt Trận Tam Biên 1972 – (Người Lính QLVNCH) 
Lam Son 719 Operation (in English) – (Maj. Gen. Nguyen Duy Hinh) 
Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm “Hổ Biển” – (Lê Bá Thông) 
Quân Sử: Chuyện Tiểu Ðoàn 1 “Quái Ðiểu” TQLC – (Bao Bất Ðồng) 
Hải Sử: Trận Ba Rài – (Phan Lạc Tiếp) 
Bài Nói Chuyện Của Ðại Tướng Nguyễn Khánh – (Lê Ðình Cai dịch) 
Quân Sử: Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo – (Nguyễn Tuyển) 
Quân Sử: Ngày Cuối Cùng Của Ðại Tá Lê Ðức Ðạt – (Vương Hồng Anh) 
Quân Sử: Biệt Cách Dù Và Quân Dù Trong Ngày 30-4-75 – (Vương Hồng Anh) 
Hồi Ký: Chuyến Di Tản Buồn – (Lê Bá Thông) 
Hồi Ký: Sanh Nam … Tử Bắc – (Cá Kình Nguyễn Văn Tâm) 
Thương Tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam – (Bào đệ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam) 
Hồi Ký: Huế, Mậu Thân và Tôi – (Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán) 
Hồi Ký: Vì Sao Tôi Bỏ Quân Ðoàn I ? – (Trung Tướng Ngô Quang Trưởng) 
Hồi Ký: Ngày Tàn Cuộc Chiến – (Ðại Tá Lê Nguyên Bình) 
Biên Khảo: Ðường Mòn Hồ Chí Minh – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 1/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 2/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 3/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 4/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 5/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 6/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Khái Lược Về Lịch Sử Hình Thành Của Quân Lực VNCH (Phần 1) – (Trần Ðỗ Cẩm & Trần Hội) 
Biên Khảo: Khái Lược Về Lịch Sử Hình Thành Của Quân Lực VNCH (Phần 2) – (Trần Ðỗ Cẩm & Trần Hội) 
Quân sử: Tống Lê Chân, Tiền Ðồn Quá Xa – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Phóng đồ Trận đánh tại Tống Lê Chân – (Trần Ðỗ Câm) 
Hình Ảnh Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 1 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 2 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 3 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 4 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 5 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Phóng Ðồ Kế Hoạch Ðiều Quân Lam Sơn 719 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Phóng Ðồ Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân Tại Hạ Lào – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Hồi Ký: Tô Phạm Liệu, người ở lại Charlie – (Phạm Anh Dũng) 
Mặt Trận Tân Cảnh – Kontum 1972 – (Ðại Tá Trịnh Tiếu) 
Cơn Uất Hạ Lào – (Bùi Ðức Lạc) 
Ðường Về Kotum – (Bùi Ðức Lạc) 
Tân Cảnh: Kẽm Gai Bọc Thây Anh Hùng – (Bùi Ðức Lạc) 

24. Lich Su VN 1945-2008:

 http://vietnamsaigo n.multiply. com/ 
http://vietnamsaigo n.multiply. com/journal/ item/69

25. Những đoạn vidéos này ghi lại đối thoại của anh Lữ triều Khanh tức Émile
một sĩ quan suốt đời phục vụ trong ngành tình báo, phản gián với những BK,
vì thế những đoạn vidéos này rất hữu ích cho ai muốn tìm hiểu về công tác hậu địch.

 Fort Bragg 01 

http://www.youtube. com/watch? v=-uxl-wdirgI 

 Fort Bragg 02 
http://www.youtube. com/watch? v=ToBrjwDdgio 
Fort Bragg 03
 

http://www.youtube. com/watch? v=xsWr4yE6myI 
Fort Bragg 04
 

http://www.youtube. com/watch? v=B1Z7CayFpFE 
Fort Bragg 05
 

http://www.youtube. com/watch? v=yDIuPMr3EwI 
Fort Bragg 06
 

http://www.youtube. com/watch? v=y1ikMiIfFss 
Hội ngộ tại Fort Bragg 07
 

http://www.youtube. com/watch? v=HopuvSsT6Q0 
Hội ngộ tại Fort Bragg 08 bis
 

http://www.youtube. com/watch? v=Dm6B7JVxWbM 
Hội ngộ tại Fort Bragg 09
 

http://www.youtube. com/watch? v=UjcyGPK3yT0 
Hội ngộ tại Fort Bragg 10
 

http://www.youtube. com/watch? v=dJrZoDUDS2A 
Hội ngộ tại Fort Bragg 11
 

http://www.youtube. com/watch? v=s6pgu_Rz09s 
Hội ngộ tại Fort Bragg 12
 

http://www.youtube. com/watch? v=M5koffq8ocE 
Hội ngộ tại Fort Bragg 13
 

http://www.. youtube.com/ watch?v=DEsqIT5i ZpM 
Hội ngộ tại Fort Bragg 14
 

http://www.youtube. com/watch? v=rMYjPHGOdMs 

Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 01 
http://www.youtube. com/watch? v=IG-LfAYO4lU 
Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 02
 

http://www.youtube. com/watch? v=KUmF9YvI7No 
Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 03
 

http://www.youtube. com/watch? v=yGA6HpMX0aM 
Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 04
 

http://www.youtube. com/watch? v=DFoKtm5Jzp8

26. Về cái chết của TT Ngô Đình Diệm
Tưởng nhớ Cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm 

Tổng hợp (29-Oct-2009 20:02) 
Những chương bi thảm 

Lữ Giang (01-Jul-2009 16:39) 
Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử
Lữ Giang (14-Apr-2009 23:51) 

JFK and Vietnam: Kennedy’s assassination 45 years ago today made it an American war
Gordon M. Goldstein (22-Nov-2008 11:54) 

Đánh giá lại Diệm: Cái nhìn khác về miền Nam
Tiến sĩ Kathryn Statler/ BBCVietnamese (21-Nov-2008 22:52) 

Thánh Lễ tưởng niệm nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm tại Rottenburg-Stuttgar t (Đức quốc)
Rosa & LhThanh tóm lược (03-Nov-2008 12:21) 

Thánh Lễ cầu nguyện cho Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại Nam California
Lm Thaddeus Bùi Công Hiến Linh, OH (02-Nov-2008 14:58) 

Nhân ngày lễ các đẳng linh hồn, nhớ về một ‘giáo dân cố tổng thống’
Alfonso Hoàng Gia Bảo (02-Nov-2008 13:36) 

Hương lòng dâng tặng Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Hồng Lĩnh (31-Oct-2008 13:11) 

Liên Minh bất hoà
Lữ Giang (23-Oct-2008 22:52) 

Mời tham dự Lễ giổ Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm
Khối Tinh Thần Ngô Đình Diệm (17-Oct-2008 13:11) 

Nhà Văn Hóa Linh Mục An-tôn Trần Văn Kiệm, bạn vong niên Cố TT Ngô Đình Diệm
Trần Vinh (30-Nov-2007 10:49) 

Đây là sự thật
Trương Phú Thứ (09-Nov-2007 19:09) 

Tài liệu lịch sử: Tràng chuỗi mân côi, một trong những dấu hiệu của người Công Giáo đạo dòng
LM. Augustinô Hồ Văn Quý (04-Nov-2007 07:18) 

Little Saigon: Tổ Chức Giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Nguyễn Hoàng Qúi (04-Nov-2007 06:41) 

Nhân đọc ”Triumph Forsaken : The Vietnam War, 1954-1965” (*) Lịch sử Việt Nam những năm 1954-1965 được xét lại:

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975 RVNAF, 1968-1975 (Bill Laurie, Historian)

Bài viết của sử gia Bill Laurie về Việt Nam

 

 

Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam. Nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc Trường Đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006.


Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm, song song với những ý kiến không quanh co che đậy về giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này dịch nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bầy lại, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ.


Trong bản dịch dưới đây, những chữ in nghiêng trong ngoặc đơn là chú thích thêm của người dịch để làm rõ nghĩa văn Mỹ của tác giả, những chữ in đậm là nguyên văn tiếng Việt mà tác giả viết trong tài liệu. Hình ảnh lấy từ website của Trung tâm Việt Nam, Lubbock, Texas.

 

QLVNCH thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của QLVNCH trước năm 1968.


Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay chối bỏ rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây hoạ cho khả năng của QLVNCH bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của
 QLVNCH không thể bị xóa khỏi trang lịch sử Vinh Quang.

 

o0o

 

 

Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971, phục vụ 1 năm tại MACV, rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở Phòng Tuỳ viên quân sự.


Khởi thuỷ, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự khoá huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, Tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Đông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng châu thổ sông Mekong. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao gồm công tác liên lạc giữa bộ Tổng Tham mưu QLVNCH, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh của Việt Nam, và cả các đon vị QLVNCH ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của VNCH, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và VNCH mà cả với người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao trong những buổi thuyết trình ở Tổng hành dinh của MACV cũng như ở bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tuần lễ sau đó tôi có thể đi lội trong những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong cùng với các binh sĩ Địa phương quân, hay bay ngang tỉnh Định Tường trên một chiếc trực thăng Huey của QLVNCH, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt động Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Đông.


Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu tất cả những người ở Mỹ quả là đang nói về Việt Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?”.


Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cơ quan nhỏ, với những bún, cà-phê, mì, chè… hao hức lắng nghe người dân, người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tơi từng học ở Hoa Kỳ.


* * *


Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hàng feet khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ những người cựu chiến binh gốc Đông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam và Đông nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những người ở những xứ ấy tự trình bầy thì lại không phù hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.


Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Đúng là có những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến với Sư đoàn 9 bô binh VNCH, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hoả lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư đoàn 7 bộ binh VNCH, cái đơn bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thể thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe doạ Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư đoàn 21 bộ binh VNCH phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến sĩ James H.Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư đoàn 21 tuy không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến truờng An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt.


Nói vắn tắt, QLVNCH, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày trước… và ngày nay cũng vậy.


* * *


Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết QLVNCH vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Điều này là hiển nhiên. Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và Tân Tây Lan tới đó.


Tuy nhiên, căn cứ những chỉ dấu cho thấy lực lượng VNCH khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu. Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt động quân VNCH đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ”. Đại Uý Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, Đại uý Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu đoàn 2 TQLC, mang huy hiệu Trâu Điên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản Miền Nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”…


Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hoá phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời kỳ, thời kỳ QLVNCH không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ qua dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của QLVNCH đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lai.


Rốt cuộc thì QLVNCH cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang bị thời thế chiến thứ hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội VNCH được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt cộng và bộ đội Bắc Việt. Đồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày: (bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính quy và Địa phương quân, Nghĩa quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 trịêu 48 ngàn quân. Trong đó, Không quân gia tăng quân số tới 163%, Hải quân tăng 110%, Lục quân tăng gần 8% quân số)


Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% QLVNCH (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ QLVNCH, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm Cảnh sát dã chiến, Nhân dân tự vệ, và các toán Xây dựng nông thôn. Lực lượng Xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế giễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của Tiểu khu yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào tài liệu.


Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (trích từ các sách vở của các tác giả người Mỹ)


“ Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân tự vệ khác xuất hịện, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M 1 (không ghi rõ garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly”


Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ”


Còn nữa: một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu huỷ tại An Lộc trong cuộc bao vây năm 1972.


Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây:


“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng ta (Việt cộng).”


Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại.


Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Địa phương quân với sự trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:


“ Chúng tôi vừa vuợt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hoả lực từ một rặng cây trước mặt bắn tới. Nước văng tung toé xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hoả lực địch. Khi toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ. Duới hoả lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá haỵ”


Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970:


“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”


Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của Việt Nam mà họ không hoà thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.


Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị, Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thuỷ quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thụôc Sư đoàn 1 Bô binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt. :


“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Đây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hiện những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hoả lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta’ Chúng tôi có các cố vấn người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau” (Tác giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii)


Ở Miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Định Tường thuộc quân khu IV, Sư đoàn 7 Bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ Sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của Sư đoàn 7 Bộ binh:


“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.


Ở Bến tre (tức tỉnh Kiến Hoà) Sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi” (tác giả trích dẫn David Chenoff và Đoàn Văn Toại, sách Chân dung kẻ địch, Random House ở New York xuất bản năm 1986).


Tình hình càng tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của Sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của Sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực lượng chính. (tài liệu trích dẫn)


Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt: (Bảng thống kê trang bị ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cụơc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9,8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%)


Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, duới tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Điều này xảy ra trong khi quân số tham chỉến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích.


Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và không có bằng chứng về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân đội Bắc Vịêt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu dịêt hoàn toàn, và những ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kịểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện, Định Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa Trong Hồ” (cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng “cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng”. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “rằng phía Việt cộng không phải là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn”


Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa xả om sòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn những điềm gở . Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu thổ:


“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đ tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng tượng đươc. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”


* * *


Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hoả tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hoả tiễn chống pháo điều khiển bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 đuợc yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hoả tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gẫy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó. Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “… Nam Việt Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc” Nhiều nhà bình luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: Không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vuợt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hoả tiễn 122 ly chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km). Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại tương đương, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nôi. Hà Nội có hằng trăm hoả tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm. Tựu trung, trở lại đề tài không lực, thì Không quân Việt Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lực vào vị trí quân Bắc Việt:


“Anh ta đâm chúi đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công của Không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hoả lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam.


“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công Không quân Việt Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vuợt hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ”.


Đây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ chứng thực:


“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972… Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu”

QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận Tết Mậu thân 1968, về khía cạnh quân số và hoả lực. Ước lượng có khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết ’68 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế (ngoại trừ ở Quân khu I).


QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hịêp định Paris gian lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc nhiệm VNCH đã đánh đuổi Sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới nỗi Sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau Sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba tỉnh Định Tường-Kiến tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hung Gia Lợi trong cái Ủy ban liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các đon vị Nhảy Dù và Thuỷ quân Lục chiến của VNCH.


* * *


Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Đến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu đội bắn trong một ngày: năm 1972 năm 1975 tỉ lệ giảm


Đạn 105 ly 180 viên 10 viên 94%

Đạn 155 ly 150 viên 5 viên 97%

Đạn 175 ly 30 viên 3 viên 90%


Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tuỷ. Nhiều binh sĩ bộ binh được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một TUẦN LỄ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của gia đình. Đói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém?


Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh Ông Thiệu rút khỏi vùng Cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối. Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được biết đến. Khi Quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, Sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh súng nặng do các Trung uý Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hoả lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các trung uý Thanh v Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu tá Trương Phụng và Đại uý Phúc lì, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng chỉ còn Đại uý Phúc sống sót, oanh kích đến khi hềt đạn. Hai Trung uý Thanh, Hiền và Thiếu tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!


Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, với thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp. Truớc một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt vịện trợ như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vô trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi Tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại.  Đoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi tết Mậu thân 1968.


Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hoả lực quyết định chiến trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị mất tích, trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 trịệu. Nước Mỹ với dân số 200 trịêu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ. Điều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:


“ Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hỏang quốc gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một trịêu quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều nàỵ” (được nhấn mạnh và thêm vào)


Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so với những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ:


“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”


* * *


Kế hoạch Việt Nam hoá có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực lượng chiến đấu có khả năng?


Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam hoá có hiệu quả, nhưng lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hố thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:


1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.


2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương laỉ: 57% đồng ý.

3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng Việt cô.ng- Bắc Việt trong tương laỉ: 25% nghi ngờ


4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%


Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân vân vân… cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi :”Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu”.


Điều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm luợc Bắc Việt trong năm 1972, thuờng là không cần tới sự yểm trợ hoả lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa quân và Địa phương quân. Điều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy.


Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hềt lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:


“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tuởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”


Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Đoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh huởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư:


“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng ta… Họ phải cung cấp vịện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba hãy can thiệp với họ. Nếu không, chng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị trí và khơng rút luị”


Con Ông Bửu hy sinh tại chiến trường!


Bác sĩ Phan Quang Đán là Quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối lập với ông Ngô Đình Diệm, nổi tíếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Đại úy Tuấn bị hoả lực phòng không địch bắn rơi, tử trận. Những cá nhân ấy không phải là duy nhất. Người viềt bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng vũ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “luỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn. Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tuỵ với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan truờng Võ Bị quốc gia Đà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:

“- Anh sắp bị giết đó!

– Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.

– Sao vậy? Đã kết thúc rồi mà!

– Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản”


Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết”


Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu  là trường nội trú, trong học trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:


“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều người trong số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các Thiếu sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”


Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.


Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình. 0,7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0,8% về bình định. 2,7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình, tức 2,7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi cơng Ong Cha lừng danh của trực thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không ai biết trung sĩ thuỷ quân lục chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu Đông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW của anh:


“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe tăng không có ý nói muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm phấn khởi đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính thuỷ quân lục chiến Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”


Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm Sư đoàn 7 Bộ binh VNCH, nơi đó trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do Tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của Sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt:


“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim. … Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.”


Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ Sư đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại Đông Nam Á đều nhìn coi giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay gắt.


Phải chi giới nảy chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại phản bội văn hoá và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ. Một thuỷ quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của điều quyết tâm ấy.


* * *


Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vô coi chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến QLVNCH, chỉ viết rằng :”Việt Nam họ thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân VNCH tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội VNCH đã tấn cơng trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở Cambodia. QLVNCH đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).


Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài lịêu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu Trung tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chề độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bỏ xoá tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của QLVNCH?


* * *


Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng QLVNCH đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: Đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức của chính phủ Hoa Kỳ.


Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần phải có hội nghị đó. Những chiến luợc giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh. Không có con đường này thì cuộc chiến tranh của Hà  Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Đông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực. Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù loà, lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn.


Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược giòng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh ( Việt Nam đã qua) là một cuộc chiến không thể nào thắng đưọc.


Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cạnh những chiến hữu của họ trong QLVNCH, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tuỵ, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Đông Nam Á đã biềt yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương”


Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của người Mỹ.  Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Đông Nam Á đã trải qua loại thử thách khổ đau nào. Đầy rẫy những dữ kiện lịch sử quý gía và những nét quan trọng sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người Lào,) Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diện. Những tác phẩm của Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Trần Văn Nhựt…, và nhiều người khác, đang kêu gào để được dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là chiến tranh Đông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của QLVNCH sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.


March 18, 2006.

By: Bill Laurie, Historian.

Nguyễn Tiến Việt dịch

.

VNAF1968-1975 Bill Laurie RVNAF, the … – ButtonDePress

                                      Thân kính
                                   Nguyễn Duy Tại

KHÔNG QUYẾT CHIẾN AI CHO DÂN ĐỘC LẬP: thơ Ý Nga 21.6.2018

MỎI MÒN ĐÔI MẮT MẸ: thơ Trần Văn Lương

Tranh: A.C.La.

Nước Không Nguyên, Nhà Không Yên: nhạc, hòa âm và trình bày: Nguyễn Văn Thành  

*
KHÔNG QUYẾT CHIẾN AI CHO DÂN ĐỘC LẬP: thơ Ý Nga 21.6.2018

Tiếp LỬA ĐẤU TRANH cùng Đồng Bào Trong Nước

*

VĂN NGHỆ ĐẤU TRANH

*

Trích tuyển tập THƯƠNG CA

*

Từng hồi trống, nhịp vang lừng

Từng trang sử nhắc sáng trưng hội trường

Em tân, chị cựu đôi đường

Một phương cùng hướng: gửi thương, lệ ròng.

Vàng cờ chính nghĩa mênh mông

Nhắc đau của núi, biển, sông… không ngừng.

 

Anh khen:

-Văn nghệ cay gừng!

Con tim rung động trước rừng tài hoa!

Đem chân chính đánh ngụy tà

Tấm lòng thương Nước, xót Nhà thiết tha

Cộng Hòa đẹp đẽ hôm qua,

Hôm nay? Cộng rất xấu xa, bạo tàn!

 

Bốn mươi năm, Cộng: dã man,

Lấp đầy hèn nhát, xóa tan hào hùng

Nhục này quốc thể nhục chung

Nhục này chẳng thể ngượng ngùng riêng ai!

 

Bao nhiêu tuổi trẻ nhân tài

Giữ gương sáng mãi, hẹn mai trở về

Chung tay xây dựng lại Quê

Ngược xoay thời thế, vẹn thề tổ tiên.

Ý Nga, 7.4.2016

ĐẢNG GÌ?

Càng nhiều Vai, Vế càng khom

Xôm xôm tài chánh phom phom ra ngoài.

Bên trong điếu đóm dâng hoài

Tay, Chân: hoạt động miệt mài “tham ô”!

 

Mắt nhìn, Mũi ngửi: “bác Hồ!”

Chú, cô” cán ngố điên rồ hết trơn!

Miệng, Mình: ngả ngớn lơn tơn

Đánh thuê, giết mướn: đỏ dờn Việt gian!

 

Răng, Môi: thủ đoạn đảng, đoàn

Chuyên môn ăn bẩn chẳng hoàn thứ chi!

Óc, Tim: toàn chứa phong bì

Vô nghì, vô kế khả thi giữ Nhà!

 

Ruột, Gan: thỏ đế nhát ma

Thi đua chiến sĩ”? Gian tà huênh hoang

Ngũ quan, lục Phủ: khoe khoang

Xếp hàng theo Hán, tuềnh toàng tay sai?

Kể thêm ngũ Tạng, hình hài?

Dân càng căm phẫn: cậy ai diệt thù!

*

Cửa Tù im ỉm si ngu

Ai người phá Ngục? Ai “tu”? Ai “thiền”?

Viết bài lục bát tràng thiên

Gửi thơ xuống biển, theo thuyền về Quê

Nhiêu khê ngọn Lửa gửi về

Chia dân giọt lệ não nề lo âu!

Ý Nga, 14.4.2016

 

*TU, THIỀN: xin hiểu theo nghĩa bóng

HƠN 40 NĂM 

TỰ DO

Người ta tang chế ba năm

Dân tôi tang chế Bảy Lăm đến giờ

Người khôn phải học giả khờ

Tự do tín ngưỡng? Giả vờ điếc, câm!

 

Tự do ngôn luận? Thì thầm!

Loa phường, quận, xã ầm ầm “chiến công”.

Ngày xưa Việt Cộng nằm vùng,

Bây giờ Tàu Cộng khắp cùng nhiễu nhương.

 

Người ta danh tiếng muôn phương

Dân tôi chỉ bị khinh thường, mỉa mai

Thanh niên phản kháng giặc ngoài

Thù trong vội vã giương oai “nhân quyền”.

 

Tự do bầu cử đảng viên

Những tên đảng chọn: không điên cũng khùng!

Đảng riêng hưởng, dân làm chung

Anh hùng nhốt hết, tôi trung cũng tù!

 

Tự do đi lại giặc thù

Dân đi? Lo lót Hồng Dù*: lao nô!

Phong bì càng dày tờ đô

Càng đi không “lại”*: đảng vồ vập ngay!

 

Tự do nuốt đắng, ngậm cay

Đảng “ta” hạnh phúc, ngủ ngày sướng thêm.

Bít, bưng độc lập màn đêm

Thương bao nhiêu Khúc Ruột Mềm* trống trơn!

Ý Nga, 13.4.2016

 

*Khúc Ruột Mềm: nhại 4 chữ “Khúc Ruột Ngàn Dặm” của VC

*Hồng Dù: nhại 2 chữ “ô dù” của VC, ám chỉ chính sách hối lộ và tham nhũng của đảng CSVN

*Không “lại”: đưa dân làm nô lệ xứ người, đảng chủ trương “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi

NỘI GIAN 

NUÔI NGOẠI XÂM

Người dân “đút cơm” mãi

Mới được Phường chép, ghi

Cám bộ chỉ lộ ý

Khi Quận nhận phong bì.

 

Dân đưa lên báo mãi?

Chẳng có tác dụng gì,

Mười “thằng” thì hết chín,

Không nhậu cũng ngủ khì.

 

Cứ “án treo” mà theo

Lại “bỏ qua đi Tám!”

Mai mốt hết “ì xèo”:

Khiển trách rồi cảnh cáo.

 

Xe đảng bóng cửa trước,

Tiền đảng đầy sân sau,

Trong nhà xà cừ cẩn,

Ngoài cửa vàng bóng au.

 

Phù phép Người Cấp… Phép

Tài cướp bóc, vơ càng

Đảng chắc nịch, mỡ màng

Bụng dân đói, dẹp lép.

 

Đảng nhạy bén khi gầm,

Giỏi “điều nghiên” lúc nghiến,

Nội gian nuôi ngoại xâm,

Tạm thời rồi vĩnh viễn!

Ý Nga, 8.4.2016

  Thơ

Trần Văn Lương

From: Tran V Luong
Sent: Thu, Jun 21, 2018 1:57 am
Subject: Co’c cuo^’i tua^`n — Mo?i Mo`n DDo^i Ma(‘t Me.

Kính gửi đến quý vị trưởng thượng và quý anh chị con cóc cuối tuần.

 

Dạo:

   Lạnh lùng ngưỡng cửa thiên thu,

Mỏi mòn mắt mẹ, mịt mù bóng con.

 

 

Cóc cuối tuần:

 

    Mỏi Mòn Đôi Mắt Mẹ

 

(Nhân chuyến đi thăm một người quen

                  trong nhà dưỡng lão)

 

Con có biết mẹ ngày đêm buồn khổ,

Từ khi con giận bố bỏ nhà đi.

Mẹ nhờ người liên lạc đã nhiều khi,

Nhưng con vẫn gan lỳ không nhượng bộ.

 

Con và bố từ lâu luôn cãi cọ,

Cả hai bên đều khó tính như nhau.

Mẹ loay hoay đứng giữa cũng điên đầu,

Chỉ còn biết khẩn cầu Trời ghé mắt.

 

Vì mỏi mệt, bố thường hay bẳn gắt,

Nói nặng lời làm mất mặt con trai.

Tuy nhiên khi cơn nóng giận nguôi ngoai,

Bố cũng biết nhận mình sai sau đó.

 

Nhưng lời đà theo gió,

Ngàn vó ngựa khó theo.

Nắng đã khuất sau đèo,

Đèn đêm leo lét lóe.

 

Cơn bệnh nặng giết dần thân xác mẹ,

Phút cuối cùng cũng sẽ tới liền ngay.

Đời sống nay chỉ còn tính từng ngày,

Nhà dưỡng lão chờ xuôi tay nhắm mắt.

 

Chỉ tội bố phải triền miên tất bật,

Sáng vô đây, nắng tắt mới về nhà,

Sức lực dần theo năm tháng tiêu ma,

Trí óc cũng theo tuổi già giảm sút.

 

Nhìn bố tay chân chậm lụt,

Một mình cun cút lo toan,

Mẹ âm thầm nghe rát buốt ruột gan,

Thương bố mãi chịu muôn vàn khốn khó.

x

x        x

Sao con chẳng nhớ những ngày còn nhỏ,

Bố mẹ đà lắm gian khổ vì con,

Lo cho con được no ấm vuông tròn,

Dù bố mẹ có buồn đau cũng mặc.

 

Con không nhớ đến những ngày túng ngặt,

Khi nước mình bị giặc Bắc tràn sang.

Bố đi tù, mẹ phố chợ lang thang

Cố liều lĩnh bán hàng chui kiếm sống.

 

Được qua Mỹ, lại nhọc nhằn lao động,

Nuôi hai con bé bỏng chóng nên người.

Đến tuổi già tưởng sẽ được thảnh thơi,

Ngờ đâu phải gặp cơ trời khe khắt.

 

Mẹ mong mỏi trước khi mình nhắm mắt,

Được một lần thấy lại mặt đứa con,

Cho bõ công những ngày tháng héo hon

Mang thân xác hao mòn chờ đợi mãi.

 

Chỉ sợ lúc con hồi tâm nghĩ lại,

Thì mẹ đà như trái chín rụng rơi.

Tội nghiệp con sẽ ân hận cả đời,

Chẳng còn mẹ để nghe lời hối lỗi.

 

Con yêu dấu, chốn đường xa lặn lội,

Nếu chẳng may lỡ lạc lối đoạn trường,

Hãy nhớ rằng dù cách trở muôn phương,

Lòng mẹ vẫn hoài thương con quặn thắt.

x

x        x

Nhà dưỡng lão nhuộm nắng chiều hiu hắt,

Trên xe lăn, ánh mắt đã nhạt thần

Còn gượng nhoài ra cửa ngóng người thân,

Đứa con vẫn chưa một lần ghé lại.

                    Trần Văn Lương

                   Arlington, 6/2018 

Nước Không Nguyên Nhà Không Yên

Nhạc, hòa âm và trình bày: Nguyễn Văn Thành

From: THANH NGUYEN

Sent: Wed, Jun 20, 2018 5:34 am

Subject: (DânChủCa) Dân Việt Ơi, Đứng Lên! – Nước Không Nguyên – Nhà Không Yên! – Nguyễn Văn Thành

DanChuCa.org kính mời quý vị vào links sau đây để nghe bài hát :

Nước Không Nguyên – Nhà Không Yên !

http://www.danchuca.org/128kbps/NuocKhongNguyenNhaKhongYen.mp3

Kính mời Quý Vị vào thăm trang nhà danchuca.org qua “link” sau đây: 

http://www.danchuca.org

Dan Chu Ca Nguyen Van Thanh & Than Huu

www.danchuca.org

Thưa Quý Vị và Các Bạn,

Tôi sẽ tiếp nối những bài ca này cho đến bao giờ Tự Do trên quê tôi.

Bạn bè ơi!

Ta ca vang để nhắc hoài: sức mạnh ngày mai trong tay ta, chẳng ai ngoài…

Kính

DanChuCa.org

Nước Không Nguyên Nhà Không Yên

Nguyễn Văn Thành

 

1.

Chờ gì nữa hỡi những người con Việt

Lời  tổ quốc đã núi đồi rung chuyển

Kia Nam-Quan còn ghi dấu khí thế dân hùng xưa

quân vong nô nào đã bán đứng cơ đồ.

 

Chờ gì nữa máu đã rực trong lòng

giờ đã tới khí thế này Diên-Hồng

nơi Nam-Quan một lần nữa sẽ thấy dân hùng xưa

hôm nay sẽ đứng cao ngọn cờ.

 

ĐK:

Dân Việt ơi đứng lên dành lại từng tấc đất linh thiêng

máu ngàn năm tổ tiên

loài giặc nào khiếp vía mau quên

chờ gì nữa, chờ gì nữa, chờ gì nữa

nước không nguyên thì nhà cũng cũng không yên.

 

2.

Chờ gì nữa núi sông đã mỏi mòn

bọn giặc Bắc quyết phen này sống còn

nơi Mê-Linh còn tiếng trống nghĩa khí kia Lam-Sơn

quân vong nô nào đã bán đứng cơ đồ

 

 

Chờ gì nữa hỡi con Việt anh hùng

một lần nữa núi sông vào nước cùng

vung gươm thiêng diệt cho hết lũ bán nước quân cầu vinh

bao lâu gieo rắc bao tội tình. ĐK

<span style=”line-height: 1.22em; margin: 0px;

[Message clipped]  View entire message

 
 

Thổn thức cho Việt Nam

From: Linh Huynh <linhbuuhuynh@yahoo.com>
To: Linh Huynh <linhbuuhuynh@yahoo.com>
Sent: Monday, June 25, 2018, 9:51:25 AM PDT
Subject: Thổn thức cho Việt Nam
…………………………………….
Năm 1989, ký giả và nhà hoạt động chính trị Đoàn Văn Toại bị bắn gần nhà ông ở Fresno, CA. Một viên đạn làm vỡ hàm răng và đã xuyên ra ngoài phía dưới lỗ tai của ông, theo ProPublica. Ảnh: Kendrick Brinson/ ProPublica
Toại là một nhà hoạt động chống chiến tranh, một người ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và phó chủ tịch hội sinh viên Sài Gòn năm 1969 và 1970. Tháng 1 1971, ông đã bay sang California để đọc những bài thuyết trình chống chiến tranh ở Berkeley và Stanford. Sau đó ông bị chính quyền miền Nam Việt Nam bỏ tù về những hoạt động chống chính phủ như là một lãnh tụ sinh viên. Sau khi nước Việt Nam thống nhất vào năm 1975, ông trở thành cán bộ của Ban tài chính dưới thời Chính phủ lâm thời miền Nam mới được thành lập. Chẳng bao lâu ông bất đồng ý kiến về các chính sách được đề ra của các cán bộ cấp trên, ông từ chức và sau đó bị bắt giam 28 tháng. Cuối cùng ông rời Việt Nam sang Paris vào tháng 5 năm 1978.[1]
Năm 1989, ông bị bắn và bị thương trầm trọng bởi 2 người đàn ông châu Á trong khi ông đang đi bộ trong khu vực nơi ông cư trú ở California, Mỹ…. *Theo Wikikedia
Ông Đoàn Văn Toại. Ảnh chụp ngoài căn nhà ông ở California ngày 27/10/2015. Nguồn: internet
“Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi“. – Đoàn Văn Toại (1945-2017)
Thổn thức cho Việt Nam
Đoàn Văn Toại
Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
        Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hòa bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cùng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
      Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hòa bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.
        Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hòa bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang; những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài. Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hòa bình.
        Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó.. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hòa giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.
        Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” Tôi hỏi: “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Sài Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).
        Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một ủy ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.
        Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố: “Miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.
        Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo ủy ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi: “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hòa nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hòa giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người; không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.
        Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tố chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.
        Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, Hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.
        Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!
        Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thức ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.
        Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tùy theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.
        Vào tháng 3, 1976 khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đã lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.
        Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hòa bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, thế mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo.
        Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản. Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.
        Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
      Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam. Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hóa Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:
      Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.
      Hơn thế nữa, Lê Duẩn, Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.
      Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hóa thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”. Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố: “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.
        Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hòa thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles.
        Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury: “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam. Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975. Lê Duẩn đã nói: “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”. Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói: “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.
      Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xóa sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay, trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.
‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.’
(Đời đời nhớ ông – Tố Hữu).
        Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một trong những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả – một công việc tốt, một gia đình sung túc – để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.
        Sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo: “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ đặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”. Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
        Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới. Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi.. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi. Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận, “Yếu tố chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh – những nhà trí thức ưu tú – và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.
        Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác họa chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu. Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
        Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi, “Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.
        Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.
      Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật. /-

CHÍNH TRỊ LÀ NHƯ THẾ !

Đặng Chí Hùng

Nước Mỹ không “mù”, lãnh đạo Mỹ càng không “mù”. Nhưng tại sao nước Mỹ vẫn cứ để cộng sản Việt Nam sống ? Đó chính là chính trị. Mỹ đang làm ăn với Tàu cộng, mà Tàu cộng đang là ông chủ của Việt Cộng. Vì thế, Mỹ chỉ nói đến nhân quyền, Mỹ chỉ cần phản đối CSVN vi phạm mà thôi.

Obama không dứt khoát như Trump. Đó là điều hiển nhiên. Nhưng chờ mong Trump xua quân đập tan cộng sản VN cũng là điều không tưởng. Chờ mong Trump cấm vận kinh tế, cắt vòi bạch tuộc của CSVN cũng là điều khó xảy ra.Trump là một TT có tài. Nhưng cái tài của ông là để giúp nước Mỹ chứ không phải lo thay cho người dân Việt Nam. Nước Việt Nam là của người Việt. Chúng ta không tự lo cho chúng ta thì không có ai làm điều đó thay cho chúng ta. Chắc chắn, Trump không thích đu dây với cộng sản Việt Nam, Trump cũng không cho CSVN quá nhiều điều lợi bởi vì Trump không giống Obama hay Clinton. Tuy thế, Trump sẽ không xóa bỏ cộng sản giúp được cho người Việt. Bởi vì chính trị là như thế !

Nguyễn Xuân Phúc đến Mỹ chỉ để xin ăn. Đó là điều không cần bàn cãi mà bất cứ đứa trẻ mới lớn nào chịu khó đọc kỹ tin tức, suy xét một chút cũng hiểu.Chẳng có thằng CSVN nào theo Mỹ cả. Chúng chỉ làm tôi mọi cho Tàu và qua Mỹ xin tiền mà thôi. Nói cho đúng, CSVN chỉ thích những đồng USD xanh biếc của nước Mỹ. Vì thế Phúc đến Mỹ

Hoàn toàn không có chuyện Trump mời Phúc. Phúc đã muốn đến Mỹ gặp Trump và nhờ Ted Osius bắc cầu nối. Báo chí CSVN nói rằng Trump mời Phúc qua là nói láo. Phúc chẳng là cái gì mà Trump phải mời, phải cầu cạnh qua gặp. Trong mắt Trump, Phúc hay cái đảng CSVN chỉ là bọn đu dây, tham tiền, độc tài và ngu dốt không hơn không kém. Nhưng Trump khinh trong bụng mà thôi, vì chính trị nên Trump vẫn phải tiếp Phúc dù phong cách tiếp đón khinh miệt vô cùng. Phúc đến Mỹ chẳng có thằng Mỹ nào ra chào đón, chẳng thảm đỏ, chẳng đại bác. Phúc đến trong im lặng với một nhúm người của đại sứ quán CSVN ra đón Phúc bước xuống từ một chiếc máy bay chui vào trong một cái garage chật chội. Phúc biết Mỹ khinh Phúc ra mặt. Nhưng Phúc vẫn cười tươi, vì đó là chính trị và Phúc đến Mỹ chỉ vì tiền. Bao nhiêu đầu óc, Phúc và đám CSVN đã bị nhồi vào đầu rằng “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao”…

Trở lại chuyện của chúng ta, chúng ta đã thấy chính trị là như thế. Trump khinh Phúc nhưng vẫn tiếp Phúc. Phúc làm tôi mọi cho Tàu nhưng vẫn cố đu Mỹ để kiếm “xèng”. Chúng ta là người dân thì sao ?

Như đã từng nói, dân gian Việt Nam có câu “Con có khóc thì mẹ mới cho bú” hoặc “Chẳng ai phù suy, người đời chỉ phù thịnh”. Cũng bởi vì người dân vô cảm nên Mỹ coi việc người VN sống trong độc tài CSVN là do họ tự lựa chọn. Mỹ chẳng làm gì hơn cả. Cũng bởi phong trào đấu tranh chỉ dừng lại ở một nhóm người, không phát triển được lực lượng, chỉ chăm chú vào đánh bóng cá nhân hoặc làm từ thiện nuôi dân thay cho CSVN nên Mỹ thấy họ không thể “phù suy” được. Chưa có một lực lượng thật lớn, chưa có sức mạnh của toàn dân để Mỹ có thể hậu thuẫn chúng ta đứng lên xóa bỏ cộng sản.

Công việc đó là công việc của chính chúng ta. Chúng ta không thể dựa vào Mỹ hay bất cứ nước nào như là một kẻ bề trên giúp chúng ta thoát cộng, chúng ta phải coi Mỹ là một đồng minh đúng nghĩa. Nước nào cũng có sức mạnh dân tộc. Nước Việt cũng không thiếu điều đó khi đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước, giữ nước, giữ tiếng nói Việt Nam. Nhưng nó chưa được kích thích đúng đắn nên nó chưa thể phát huy được hiệu quả. Chính vì thế, chẳng có ai chịu giúp chúng ta thật sự. Chúng ta có thể thấy Mỹ, Châu Âu lên tiếng về vài vụ vi phạm nhân quyền của CSVN.. Tuy thế, cũng chỉ dừng lại ở lên tiếng mà thôi. Cuối cùng thì đâu lại vào đó. Người khổ vẫn là người dân Việt Nam bởi vì chính trị là như thế !

Vai trò đầu tầu của cuộc đấu tranh này chính là sức mạnh toàn dân. Muốn làm điều đó thì lực lượng nòng cốt phải là những người đã sớm thay đổi nhận thức. Nhưng muốn có được sự hậu thuẫn của dân thì phải chịu khó đi vào lòng dân để vận động, truyền đạt ý thức lịch sử, xã hội cho người dân. Đa phần người dân ở VN không có điều kiện tiếp xúc Internet, vì thế các nhà đấu tranh cần phải lấy việc tiếp xúc người dân trực tiếp là điều quan trọng nhất thay vì lên mạng quá nhiều. Nhưng tiếp xúc với người dân không hẳn là làm từ thiện. Giúp người dân thay đổi nhận thức là giúp cái cần câu chứ không phải quăng tiền cho họ giống như giúp con cá. Ngoài ra, làm từ thiện chính là nuôi dân thay trách nhiệm của nhà cầm quyền CSVN. Dân được giúp đỡ sẽ chẳng cần phải đứng lên phản kháng nữa.

Một điều quan trọng cần làm đó là thôi ngay những lá đơn xin xỏ cộng sản, kiến nghị với chúng bởi vì CSVN không có chính danh, chúng ta không cần phải cầu xin cái quyền cơ bản của chúng ta với bọn cướp chính trị. Ngoài ra, chẳng bao giờ CSVN trả lời những gì một số người xin xỏ. Vậy thì chẳng có lý do gì phải năn nỉ chúng cả.

Muốn có một sự hậu thuẫn từ Mỹ hay những nước khác. Trước mắt chúng ta phải tự cứu chúng ta trước thì mới có người giúp. Nó cũng giống như anh phải có dự án thì mới có người cho vay tiền đầu tư. Không thể ngồi một chỗ mà chờ mong “sung rụng” xuống cho những ai lười biếng được. Trách nhiệm cứu dân tộc Việt Nam phải là của tất cả người Việt còn lương tri với dân tộc.

Phúc cứ đến Mỹ, Trump vẫn cứ tiếp. Chính trị là như thế. Người dân Việt thì vẫn ngày đêm sống trong tận cùng đau khổ. Vì vậy, hãy quên ngay những trò chơi chính trị mà người dân chúng ta luôn ở thế bị động đi. Chúng ta phải nắm lấy cơ hội chính trị sống còn cho dân tộc chúng ta. Chúng ta phải chuyển từ bị động sang chủ động. Chúng ta cũng phải quên ngay những buổi hội luận vô bổ chỉ để show cái tôi của cá nhân, hội đoàn. Chúng ta cũng nên quên ngay những câu nói thao thao bất tuyệt chỉ để mà hô hào cho chính chúng ta nghe đi. Chúng ta cần nói và làm việc cụ thể chứ không phải sắm vai diễn phụ trong những ván cờ chính trị.

Đã đến lúc, tinh thần dân tộc của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và chính đề Ngô Đình Nhu, tinh thần ái quốc của Ngô Đình Diệm phải được chúng ta phát huy và chuyển nó thành những hành động thực sự. Chỉ có thế mới giúp dân tộc VN thật sự hồi sinh !

Đặng Chí Hùng
30/05/2017

 

TÔI TỨC TÔI CÀO BÀN PHÍM

– Đỗ Ngà


Cuối những năm 90 của thế kỷ trước, ĐCS đứng trước ngưỡng phải thay đổi. Nếu theo dân chủ đa đảng như Liên Xô và Đông Âu thì phải chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đảng khác trên vũ đài chính trị. Điều này có nghĩa là đất nước bẻ lái theo chiều hướng văn minh.

Ba Lan khi mới chuyển đổi sang tự do thu nhập bình quân của họ chỉ có 3.900 usd/người/năm. Trong 2 năm đầu chính quyền Ba Lan đã vật lộn với những di sản của thời CS để lại, đến 1992 Ba Lan bị giảm thu nhập xuống chỉ còn 2.900 usd/người/năm bằng 38% thu nhập của dân Bồ Đào Nha và tương đương Liên Xô lúc đó. Thế nhưng rất ngoạn mục, 18 năm sau, tức đến 2008 thu nhập của dân Ba Lan tăng lên đến 23.000 usd/người/năm bằng 92% thu nhập dân Bồ Đào Nha cùng thời và gấp đôi thu nhập của dân Nga. Tức là Ba Lan đã tiếp cận được một số nước Tây Âu, điều mà thời XHCN Ba Lan có mơ cũng không thể tin được. Và cái được đất nước Ba Lan rất lớn. Giờ Ba Lan đã đạt 3 thứ, vừa độc lập kinh tế, vừa độc lập chính trị, vừa giàu có hơn chính nước Nga.

Cùng lúc đó, Nguyễn Văn Linh sợ mất Đảng nên sang Thành Đô – Trung Quốc năn nỉ Trung Cộng thay Liên Xô đỡ đầu cho ĐCSVN. Một nước đi ngược hoàn toàn Ba Lan. Lúc đó Việt Nam đang chết đói, mở cửa theo mô hình y hệt Trung Cộng. Kết quả, hôm nay Việt Nam thu nhập quanh quẩn những nước nghèo nhất Đông Nam Á, tức tầm Campuchia và Lào, hoàn toàn cách rất xa Thái Lan, Mã Lại, Indonesia. Kết quả, hôm nay dân Việt khá hơn là do tiền vay quốc tế, hoàn toàn không do thứ đổi mới gì ráo. Với khoản nợ 210% GDP, khi đáo hạn, chính quyền bắt toàn dân phải ói ra để trả nợ cho đảng. Nhà lầu xe hơi cũng tiềm ẩn bới rác mà ăn như Venezuela. Nợ đó nhân dân gánh trọn. Khoảng cách giữa Việt Nam và các nước khác ở Đông Nam Á không những không thể rút ngắn mà còn bị nới rộng. Việt Nam đã mất tất cả, nhân dân đang sống bần cùng, cả chính trị và kinh tế phụ thuộc ngay kẻ thù truyền kiếp.

Ngày nay ĐCS nhân danh nhân Việt Nam tiếp tục vay, và tiếp tục ăn mày khắp thế giới để bỏ túi riêng cho Đảng và đảng viên làm giàu. Đã vay tương rất nhiều và bắt thế hệ tương lai phải gánh 100 triệu để hiện nay mỗi đảng viên có tiền tư túi. ĐCS đã đem vận mệnh đất nước ra cầm cố để lấy thêm tiền lo cho riêng đảng ở thời điểm hiện tại. Vì sao tôi nói thế?

Đặc khu kinh tế là nơi ưu đãi dân Tàu hơn cả dân Việt ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Tàu được nhà nước CS cho phép thực hiện những điều người dân Việt không được làm. Và cộng thêm nó được sở hữu đất đến 1 thế kỷ. Đấy rõ ràng là cách CS đem giang sơn để bán thông qua hình thức biểu quyết của Quốc hội. Một loại trá hình đầy sự thâm hiểm. Chiêu này tôi tin Bắc Kinh vạch đường cho Hà Nội, tầm Hà Nội không thâm đến vậy. Lúc trước nhân dân phản đối gay gắt dự án Bauxite và lúc đó Đảng đã quyết là Quốc hội giơ tay biểu quyết. Hậu quả nay rõ ràng. Hôm nay lãnh thổ đất nước bị rơi vào tay Trung Cộng trong sự bất lực của toàn dân. Việc trả giá không còn xa nữa. Hiện nay Việt Nam đã hoàn toàn bất lực trên biển trước Tàu vì thái độ nhu nhược của ĐCS. Thực sự theo tôi, thái độ này là sự thông đồng 2 ĐCS để qua mặt nhân dân Việt Nam chứ chưa hẳn đã nhu nhược. Vở kịch nhu nhược để hợp thức hóa những thỏa thuận bán buôn trên đầu nhân dân. Vậy còn ngày mai?

Ngày mai sẽ không xa khi 3 đặc khu trải dài 3 miền đất nước gồm Bắc – Trung – Nam có đủ. Khi 3 cái đặc khu này biến thành 3 khu bất khả xâm phạm của Trung Cộng ngay trên đất liền thì lúc đó đã quá muộn. 3 điểm áng ngữ tại 3 miền là một vấn đề đáng sợ. Cộng vào đó sự thâu tóm của phe Nguyễn Phú Trọng trên toàn bộ lãnh thổ đất nước đủ để bảo đảm ĐCSVN có sự thuần phục hoàn toàn. Hiện nay biển đã mất và nhân dân có nguy cơ không giữ nổi đất liền vì ĐCS đã âm mưu bàn giao. Năm xưa Nam Tống nhờ thành Điếu ngư ngự trên cao mà quân Mông Kha hùng mạnh không thể nào vượt qua. Vì vậy mà quân Mông phải đi vạn dặm tổn hao hàng vạn binh mã mới đánh được Nam Tống nhờ đi vòng. Một khi kẻ tấn công dưới chân núi mà bò lên được đỉnh núi thì thành bị chiếm. Tương tự vậy, khi kẻ làm chủ biển đảo mà bò vào đất liền, thì giang sơn của kẻ yếu thế như mở toang cho cho quân giặc trong sự bất lực hoàn toàn của phía yếu. Hiện nay, quân Tàu đã thống lĩnh biển Đông, và họ đã được dọn đường để bước lên bờ bằng luật đặc khu và thuê đất 1 thế kỉ. Điều đó xem như kẻ tấn công đã tiến chiếm được đỉnh, việc lấy hết tòa thành là không cần phải bàn cãi. Việt Nam hết đường thoát.

Nhìn cảnh câm miệng của dân Việt hiện nay, tôi đau thấu xương. Nhìn Quốc hội khốn nạn làm theo lệnh ĐCS dọn đường cho giặc thì đau lắm, và bất lực. Không biết nói sao. Tôi đã không sợ CS triệt hạ để cào bàn phím gào thét. Nhưng buồn vì tất cả như kêu gào vào hư không. Bất lực! Buồn quá!

GIA ĐÌNH 81 BIỆT CÁCH DÙ, SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH

Thân gửi Tuổi Trẻ VN Quốc Nội & Hải Ngoại: Ý Nga 11.6.2018
♡♡VINH DANH NGƯỜI LÍNH CỘNG HÒA phần 12: 
GIA ĐÌNH 81 BIỆT CÁCH DÙ, SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH
Thân chuyển tuổi trẻ quốc nội BỨC TÂM THƯ của Bảo Trâm (ngày 5 &10.6.2018)
Tri ân văn nghệ: SAO KHUÊ đề tặng
…………………………………………………………………………
Thân gửi Tuổi Trẻ VN Quốc Nội & Hải Ngoại
 
“Longer with no freedom
What and how Vietnam will become?”*
   Câu này chúng tôi viết về biến cố 1975, nhưng nhìn tình hình hiện tại về sự việc csVN táo tợn dâng đất cho ngoại bang lộ liễu qua những “đặc khu kinh tế” thì tương lai một Việt Nam quay trở lại vòng nô lệ Tàu đang rất gần. Tương lai ấy chắc chắn sẽ đen tối hơn cả những gì các Bạn đã thấy từ sau 30.4.1975.
   “Quân Đội Nhân Dân” trong nước đã làm gì mấy chục năm qua để  bảo quốc an dân như QL VNCH hào hùng? 
   Các Bạn hãy tìm hiểu và sẽ thấy Việt Cộng sai chỗ nào ngay!
   Cho nên vinh danh QUÂN LỰC VN CỘNG HÒA không bao giờ là điều dư thừa cả.
   Chúng tôi muốn tha thiết kêu gọi quý Bạn: hãy nhìn những bước chân hào hùng đã đi qua của những CHIẾN SĨ CAN TRƯỜNG này để tiếp nối tấm lòng yêu dân, thương nước mà vùng lên lật đổ bạo quyền và đuổi hết giặc Tàu ra khỏi nước.
    Cộng sản không bao giờ đem lại tự do cho dân tộc xứ họ, mà nhất là cộng sản Tàu không thể nào lại thương dân tộc VN!
        Mấy chữ “Độc lập, tự do, hạnh phúc” mà Việt Cộng đã nói từ mấy chục năm nay không hề có, và một khi bị Tàu xâm lăng Bạn sẽ không có nhiều thứ khác nữa trên chính quê hương mình.
   Mong các Bạn hãy tự đứng dậy mà đi!
   Không phải chỉ bây giờ những người Việt tỵ nạn hải ngoại mới ủng hộ anh em đấu tranh trong nước mà ngay từ khi rời nước, đa số đều hướng lòng về quê hương.
*Không còn tự do nữa
Việt Nam sẽ về đâu?
Ý Nga, 11.6.2018
SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH HÀO HÙNG 
và KONTUM tháng 5,6-1972
*
Kính tặng tất cả những CHIẾN SĨ QLVNCH đã chiến đấu  trong trận đánh Kontum hào hùng.
*
Trừ Bị** được tung ra,
Tank 41 quân ta,
Dưới đất có Đội Pháo,
Mục tiêu quyết không tha.
 
Trên trời có phi công,
AD6*** anh hùng.
Đạn từ trên bắn xuống,
Đưa giặc vào đường cùng.
 
Màn oanh kích tuyệt vời,
Ngoạn mục giữa đất, trời;
Ta tha hồ biễu diễn,
Giặc tha hồ… xác phơi!
 
Không làm mồi phi pháo,
Địch dơ tay đầu hàng!
Dân lấy lại tinh thần,
Quân chủ động tình thế,
*
 
Nhận tiếp tế thả dù
Có  lúc địch và  ta
Cách nhau một con lộ,
Một dãy phố dân cư.
 
Dù bị địch bao vây,
Bộ Binh vẫn dạn dày,
Tuyến kháng cự phòng thủ,
Làm chủ tình hình ngay.
*
 
Một Sư Đoàn chọi ba*
Từ dòng sông Dabla,
Thuộc tỉnh lộ mười bốn:
Sư Đoàn Hai Mươi Ba,
 
Gồm: Chi Đoàn Chiến Xa,
Ba Trung Đoàn Cơ Hữu.
Bốn mươi ngày tự cứu,
Địch đọ sức với ta.
 
Một ngàn xác Việt Cộng,
Năm trăm súng tịch thu,
Chiến xa cháy khói mù.
Dân reo hò: CHIẾN THẮNG!
 
Ý Nga, 6.8.2006
 
*Dựa theo “Hồi ký 25 Năm Khói Lửa” [trang 129-132] của vị tướng cầm quân tại mặt trận:
tướng Lý Tòng Bá: 1 Sư Đoàn 23 BB/QLVNCH bị cả 3 Sư Đoàn khét tiếng của địch là
SĐ 2 Sao Vàng, SĐ 10 và SĐ320  bao vây tại Kontum từ 14.5 đến hết tháng 6.1972
**LựcLượng Trừ Bị
***Khu Trục AD6 của Không Quân QLVNCH
GIÀNH CÔNG
 
Tiến quân nhịp bước hùng hồn,
Hàng hàng lớp lớp bồn chồn súng gươm,
Chiến Binh lưu sử hương thơm
Dù “đồng minh” bỏ vẫn luôn kiêu hùng.
 
Địch quân vũ khí điệp trùng,
Cán cân quân số vô cùng khác nhau,
Sả thân bảo vệ đồng bào,
Hy-sinh mạng sống, anh hào lừng danh.
 
Hỏi ông-trốn-lính đất lành,
Ở đâu lúc ấy? Chiến-tranh không… giành.
Bây giờ viết sách, nhe nanh
Bút vung, phỉ báng những Anh Hùng nhà?
 
Ý Nga, 23.4.2006
CHIẾN-SĨ VNCH
 
Người ra bưng, lên núi,
Nguời âm-thầm trở về,
Mặc vợ con tiếc nuối
Đường chiến-đấu nhiêu khê!
 
Gom ước mơ, lý tưởng
Anh chọn đường hy-sinh
Quyết khước từ không hưởng
Dù đang sống thanh-bình.
 
Rõ hẹp-hòi bụng đảng
Đánh người không chỉ roi,
Giết người, giả “rộng lượng
Nên tự-do phải đòi!
 
Vì tự-do không có
Chữ thúc ép em ghi
Cho đồng-bào cố quốc
Lời của người-đã-đi.
 
Mấy tâm hồn tìm đọc
Lời người viết cô-đơn
Suốt nửa đời kêu cứu
Khi dân ngày… khổ hơn?
 
Nghe bằng tim mấy kẻ
Những uất nghẹn im-lìm,
Đã chôn vùi đáy biển,
Và núi rừng Việt Nam?
 
Ý Nga, 27.3.2006
LẤY CHỒNG
*
Kính tặng quý phu nhân Chiến Sĩ QLVNCH: Gia Đình 81 Biệt Cách Dù
*
Lấy được người chồng Thần Ưng
Cánh tung Đại Bàng Dũng Mãnh
Can trường đáng nể quá chừng
Những Biệt Cách Dù Tám Mốt.
 
Gan góc, can trường khắp nơi
Chiến binh Thám Kích Lôi Vũ
Nhận định, phản ứng kịp thời
Nhanh như phi pháo cất cánh.
 
Thử lửa, các Anh lao vào
Màng chi chiến trường nóng bỏng,
Đồng đội kết nối khít khao
Cản đường Việt Cộng thao túng.
 
Thương trai nhà Nam ngược xuôi
Vì dân xem thường chết chóc,
Các Anh chịu nhiều thiệt thòi,
Nên hậu phương luôn ái mộ!
 
Ý Nga, 11 tháng 6.2018.
BỨC TÂM THƯ của
Bảo Trâm
(nhuận sắc ngày 5.6.2018)
Subject: Re: Kính gởi quý vị trên các diễn đàn
 
Kính thưa Quý Vị, 
Chúng tôi đã gởi thư này đến Quý Vị rồi, nhưng nay có tin tức về thông báo mới cùa nhà cầm quyền cs Việt Nam cho biết sẽ “hoãn việc bàn thảo lập các đặc khu“, tôi mạo muội gởi lại lần nữa tới quý Đồng Bào trong nước và Đồng Hương Việt Nam trên khắp thế giới, với phần thêm một chút ý kiến của chúng tôi.
 
Lần này, rất đông trong chúng ta đều đồng tâm nêu chung một vấn đề, rất mừng là có chút kết quả, nhưng đa số người dân trong nước vẩn thờ ơ. Việc chúng ta cần làm là tiếp tục giữ được sự đoàn kết, và giữ được lửa đấu tranh.

<div dir=”ltr” id=”aolmail_aol