Hồi Ký “Dang Dở

của cựu Đ/tá Dương Hiếu Nghĩa …

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang “Hồi Ký Dang Dở” ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy.

Dương Hiếu Nghĩa

Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình, tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp “may” ở lại để chứng kiến tận mắt những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, tự xưng là để “giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam “; của những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho “tạm mang dép râu, đội nón cối” (mà không biết!). Ở lại để chứng kiến những con “cọp 30”, những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!
Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam để giành lấy cho đảng cái chánh nghĩa “giải phóng dân tộc”.

Cho đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng, thù ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà con không ai ngờ là” cùng là người Việt Nam với nhau ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được. “
Do đó những gì chúng tôi kể lại đây không hẳn là những trang “hồi ký” của riêng cá nhân mình mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng, những sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe…, để tạm gọi là “luận cổ” (nói về chuyện xưa), để những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng ta có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam,mà “suy kim” (suy biết được cái hiện tại). tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai.

Người dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là “ngày quốc hận” vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và củaThế Giới Tự Do nói riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Ba Lê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước.

…………………

Ngày 1 tháng 2 năm 1973

Tôi và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành lập theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng giêng 1973 tại Ba Lê.

Từ hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán, sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất cứ điều khoản nào mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh, một bản dịch “thật sát nghĩa” từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc!

Đúng vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và chúng tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.

Tôi muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của chúng ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt ngay từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên ở Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một danh từ thật kêu là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

………………..

Ngày 28 tháng 4/1975: 8 giờ sáng,

Đại tá Ngyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại trực tiếp cho tôi nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng 4/75.(một bộ hạ thân tín của tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt. ) Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là CSBV và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng đại tá Đài cho tôi biết là “ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng”. Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình và cuối cùng phái đoàn của Tổng Thống Minh “được đồng ý cho vào trại Davis gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTMN” (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại).

(Xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn Văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là “Sĩ Kiến, Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị đối nghịch nhau tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh thì anh Sĩ lại được tướng Tràn văn Trà cho làm đại diện cho Cộng sản để “mật đàm với đại tá Nghĩa” nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải “đi một xuồng” với tướng Trà).

Phái đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết vì anh không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn ngoài câu “như đã thỏa thuận với anh hồi nãy”, tức phải được hiểu ngầm là “chỉ có viếng thăm xã giao mà không có bàn đến các vấn đề gì khác”

Tò mò hơn, qua điện thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi được biết là Ông Dương Văn Minh đã “mò” lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.

(Dương Văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý Cáp với gia đình tướng Minh từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản.)

Vẫn theo lời anh Đẩu thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là “chỉ còn một cách duy nhất là “đầu hàng vô điều kiện” mà thôi.

4 giờ chiều :

Tôi muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ tư dinh của ông ngay trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.

Anh còn ở đây chưa đi đâu sao anh Nghĩa?
Thưa thiếu tướng chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh em quân nhân của Ban Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai 29 thưa thiếu tướng.
Gia đình anh đi chưa?

Thưa thiếu tướng đã đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn ở đây?
Tôi và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên) cho phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau.
Nói đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp:
Phải đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về đây. Theo lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết rồi không còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!…, Ông Minh đã nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm gì nữa anh Nghĩa?
Nói tới đây ông sụt sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua điện thoại. Tôi nghĩ có lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời ngang dọc của ông coi như bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn chánh trị.. . . và xúc động thấy mình sắp phải rời khỏi quê hương.
Không thấy tôi nói gì nữa ông nói tiếp:

Vậy tôi đi hôm nay nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp nữa đó. Anh Tiên chắc cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân nữa, chắc phải đưa tất cả phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe, chúc anh may mắn
Xin chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an.
Cám ơn anh.
Một lúc sau đó anh Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia đình ông Kỳ vừa bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi đã nói gì với ông Kỳ làm cho ông khóc vậy? Tôi đáp :
Có lẽ ông cảm động trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của ông Minh Dương chớ tôi thì không có nói gì cả. ?
Từ sáng sớm hôm nay, căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân Sơn Nhất tất cả phi cơ các loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng các loại, tất cả nhân viên phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau về hết ở đây cho đến gần 7 giờ chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình hay thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng toàn bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả Vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà thôi.
6 giờ chiều

Chúng tôi vào D.A.O. đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ quan /Ban Liên Hợp Quân sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8).

Chờ cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp, vẫn phải trực như mọi người và mọi đơn vị.

10 giờ đêm:

Từ 10 giờ đêm, Bắc Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay ban chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều chỉnh vào khu vực sân bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu dân cư ở xóm Trương minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay. Nhưng từ 10 giờ đêm trở đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích kích pháo 82 ly và hỏa tiễn đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và các kho bom đạn cũng như Bộ chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng tôi cũng được hưởng mấy trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà bị cháy và gây tử thương vài binh sĩ, làm bị thương một số khác

Chúng tôi và đại tá Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng trước văn phòng nằm tránh đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng tôi chừng 15 thước bị một mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa. Từ đó, Bắc Việt pháo kích từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ loại, không ngừng cho đến sáng hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay tiềm kích nào cất cánh lên được suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có tiếng súng phản pháo nào.

Riêng trại Davis của hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng 100 thước, thì không bị một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền sát viên Bắc Việt giúp điều chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì trong 2 năm ở đây họ đã nắm rõ từng vị trí trong sân bay nầy rồi!

Ngày 29 tháng 4:
9 giờ sáng:

Chúng tôi qua Phòng họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo, từ đó mới xử dụng được đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt hại vật chất và nhân mạng đêm qua..

Đến 9 giờ sáng thì có một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống ngay trước phòng họp để bốc chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không chịu đi. Và tôi cho trực thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng bắn, người Nam Dương.

Tôi vẫn còn nhớ ơn đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo của phái đoàn Nam Dương nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ trận liệt ghi rõ tiến trình xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn chánh quy bộ binh Bắc Việt và các sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh nặng, vừa được cập nhật vào đầu tháng giêng năm 1975.

– lần đầu ngày 3 tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho Tổng Thống Thiệu ngày 4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo đúng tin tức tình báo mà phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất đầy đù, (nhưng sau đó tôi đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông bảo tôi phải mang sang cho Trung tướng Đặng văn Quang)

– lần thứ hai ngày 1 tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù của cộng sản là Ban Mê Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu và thời điểm tấn công của Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75. Tôi cũng đã mang tay bản đồ và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu, nhưng lần nầy thì ông bảo tôi mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng.. Tôi đã y lệnh thi hành. Dĩ nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội và Tổng Tham Mưu Trưởng hai ông đã có quyết định kịp thời về một “đường lối hành động” nào hay không. .

10 giờ sáng:

Tôi liên lạc với Đại tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân nhân các cấp, khoảng 30 người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy có các Đại tá Chuân, đại tá Đóa,v.v. thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số anh em sĩ quan và nhân viên còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng sẽ xuống luôn bến Bạch Đằng khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản thương xong cho một số anh em quân nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị thương đêm qua.

11 giờ 30 sáng:

Chúng tôi nghe thấy có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng cất cánh khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep mui trần có gắn liên thanh 12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm ngay giữa các phi đạo bắn lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất cánh rời khòi phi trường. (sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh nầy, mang súng lục đang đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra đây là một tên cộng sản nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis trong công tác ngăn chận không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng 4.)

Chúng tôi lên xe đi xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng lúc vừa đi ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại sao thình lình tôi lái xe Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu. Hai xe jeep và 2 xe 4/4 trong đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng theo xe của tôi.

Đến ngay Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội trường của Bộ Chỉ Huy nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không còn biết ất giáp trời trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ quan theo tôi từ Tân Sơn Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại tá Lộc, pháo binh thuộc Ban Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh, trung tá Hoàng chánh văn phòng v.v.) đều theo tôi vào hết trong hội trường vắng trống nầy.

Đến 4 giờ chiều, thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới tàu của Hải Quân nên lên tiếng hỏi:

Tàu của chúng ta đã chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?

Chạy đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung tá Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời.
Tôi bàng hoàng đứng ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ Tổng Tham Mưu. Bèn ra lệnh:
Anh em lên xe ngay đi để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt chắc chắn còn đợi tôi.
Không kịp nữa rồi ông ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không cho ai ra vô gì nữa hết, chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được.
Vậy là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè!
Trung tá Hoàng cố gọi chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . .
Thế là số mạng bắt ta phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy khi sực nhớ lại không biết vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch Đằng để xuống tàu. Về sau nầy tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ tôi không chịu nhổ neo tách bến nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng xuống tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa )

7 giờ chiều

Trung tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá nhân tôi và đại tá Nhận lên văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới biết được là ở Bộ Tổng Tham Mưu hiện giờ không cón Tham mưu Trưởng, không còn một số trưởng phòng quan trọng nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều đã tìm phương tiện di tản hết rồi, chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi. Không cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy được tình hình chung như thế nào rồi.

Đại tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất trong hiện tại, vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng Tham Mưu để tìm phương tiện di tản.

8 giờ 30 tối:

Các trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống D.A. O. (Phòng Tùy viên Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu để bốc người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa Kỳ. Không có một tiếng súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt từ dưới đất bắn lên, điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một mật ước nào đó rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ.

Có tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay ngang qua không phận Bộ Tổng Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp trực thăng bên D.A.O. ngay phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của Ban Liên Hợp (đang ở đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng và đã vượt rào kẽm gai của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O. (khoản 40 thước đường) trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ quan cấp úy khác. Riêng tôi thì không thích “chui rào” như họ, (có lẽ vì tự ái cá nhân hay vì số mạng không biết )

Ngày 30 tháng 4:
6 giờ sáng:

Do đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử Nam Anh và một số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực thăng Mỹ di tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham Mưu.

7 giờ sáng:

Nhân lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng tôi tháp tùng theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi đây được nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.

Ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là “đường ai nấy đi” vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số phận của Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi!

Tôi lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần áo và nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và chánh trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây gờ chỉ còn xem con đường nào thuận tiện nhứt để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng tàu thì hoặc phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu hay Gò Công? Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một vòng xem sao rồi mới quuyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng em họ kêu cho hay là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham Mưu trưởng..

11 giờ trưa

Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam “đơn phương ngừng bắn vô điều kiện”, một cách chơi chữ để nói lên một sự “đầu hàng Cộng sản Bắc Việt không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc Việt đã trao cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát thanh Sài Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu và kêu gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống!

Lắng tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và tướng Hạnh tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút bỏ bộ quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong mượn chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi thế là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng quá nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn là không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là cộng sản Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có giải pháp chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì đâu có chuyện anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa đi vừa suy nghĩ mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu lúc nào không hay. Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường Trương minh Giảng xuống Sài Gòn.

Lúc nầy đã quá 1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà đóng kín cửa. ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác từng biệt thự do người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân quá sợ cộng sản đã bỏ đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại quốc.

Tuy không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn còn lác đác một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ hướng trại Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp Quân sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của anh em “Biệt kích 81 Dù” đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng Cha Cả lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc tăng T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ mặc dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay.

Đường Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng người, không một chiếc xe nào chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài đường, gần cầu, hình như của bọn đặc công Bắc Việt.

Khắp các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và cả Gia Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống đạn dược đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn ngang từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống rãnh.. có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu hàng của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên đài phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người chạy long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi trần truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề tục tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan tâm khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản!

Bến Bạch Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá đông đang còn lóng nhóng chờ… tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc chắn không còn chiếc nào.

Tôi vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh sát dã chiến ở chốt đầu cầu đã được lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không cho một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến ngăn chận, như thế có nghĩa là từ 6 giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con đường ra khỏi Đô thành, khó mà dùng đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn cộng sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ đô nầy rồi.

Như thế là coi như tôi không còn khả năng và phương tiện nào thoát ra khỏi thủ đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ, đường thủy và đường bay. Thôi thì đành phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế tôi quay xe trở về Bàn Cờ.

Trên đường về, đột nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ Sài Gòn. Quá tò mò tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng chiến xa chạy rầm rập ở hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã xảy ra rồi, nhưng quá đau lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem, tôi vội chạy về Bàn Cờ ngay.

6 giờ chiều:

Tôi có ý định lên Hạnh thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp của mình. Nhưng khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một cảnh tượng quá đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh binh dìu nhau đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5 giờ chiều nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt vào hàng “chiến lợi phẩm chiến tranh”. Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất cả đều phải ra khỏi bệnh viện, và “ngay tức khắc” không được chậm trễ, không được mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ Ngụy, không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình.

Tất cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y tá, trợ tá xã hội, lao công dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại, không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ hay chưa? lành hay chưa lành? v.v. Thật quá khủng khiếp cho những anh em thương binh vừa được chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được mổ mà chưa khâu xong vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương lang thang xuất viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình có đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận.

Đây là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng, giữa Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau. Ngay như trong cả 2 thế chiến, người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và nhẫn tâm vô nhân đạo như thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng?

Để giúp cho những người khốn khổ nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh chùa Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu gọi được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô máy, xích lô đạp.. đưa giùm một số thương bịnh binh nặng, đang trong tình trạng giải phẫu dở dang.. đến các bệnh viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ Rẫy, Grall và một số bệnh viện tư của người Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện tư nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn văn Tạo, Nguyễn duy Tài ở đường Pasteur.. để nhờ tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho họ về với gia đình..

Giờ nầy thật tình thời gian đã trôi qua quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử hỏi dân chúng Miền Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai biết đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm nhất của anh em quân nhân chúng tôi, nhất là những anh em thương bịnh binh thuộc QLVNCH đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay một cách vô nhân đạo ra khỏi bàn mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của Cục Quân Y của Quân Đội Nhân Dân BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi là ngày chiến thắng của họ trong chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên gọi là chiến dịch Hồ chí Minh!!!

Đêm nay về Bàn Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi trước một bữa cơm ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ được chỉ mong cho trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh “đổi đời”! Ước gì cảnh đó phải hoàn toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều hôm qua ở Gò Vấp!

Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975

Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ “Văn Hóa đồi trụy” :

Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là “ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy” ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con “cọp 30”), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban.

“Văn hóa đồi trụy” được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).

Mục tiêu mà các “ông cọp 30” nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc gia (national library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ Thuật, Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v… mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị “cọp 30” xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ Encyclopedia lên xem mà ứa nước mắt… nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một “cọp 3O” khoảng 16 tuổi tới đuổi:

“Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì Ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!!”
Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!!
(Về sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm “mặt bằng” cho mướn làm tiệc cưới và tiệc “liên hoan” của cán bộ công nhân viên các cấp).

Mục tiêu kế tiếp của bọn “cọp 30” là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn… sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt, bỏ… nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy “ông cọp 30 trẻ” nầy.

Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại “nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy).

Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay vì đẩy Miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau… nhằm đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa đúng theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối thập niên 80, lúc tôi ra khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh nhờ chạy theo phong trào “đổi mới” của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng đó mới thấy được là đảng cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi lùi vào thời kỳ đồ đá… từ sau ngày cướp được chánh quyền mùa thu năm 1945 và nhất là để mất đi một cơ hội và một thời gian quá dài từ sau ngày nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam 30 tháng 4 1975.)

Ngày 4 tháng 5

Tôi đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về Sài Gòn qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được biết là người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành động phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn thân, trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rễ của Ngô công Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới được biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào tiếp thu Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên văn lời của ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau :

“Sau khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo suy đoán của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng quân sự cuối cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn vào sân thượng hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng sự viên thân tín nhứt trong Chánh Phủ của ông. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp.

-“Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông”

Sĩ quan nầy dùng danh từ “mầy tao” xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:

– “Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có “quyền” nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây.Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!

Mặt tướng Minh co dúm lại. ông chợt hiểu là ông không gặp được những người của MTGPMN mà là những người cộng sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe. Không phải là những người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất trận!

Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn ông nói tiếp:

– “Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua…

Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng:

– “Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao, một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn”

Sau đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng trưởng hiện diện vào một gian phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận và không khoan nhượng trước sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm vụ quay phim, chụp ảnh lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy.

Sau đó ông Minh bị “bộ đội” bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Ông được đưa đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,…

Đến 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng hầm. “

Cũng vẫn theo lời của anh bạn tôi:

– Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại dinh Độc Lập ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh, cùng với nội các của ông Vũ Văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xưng là thành phần thứ ba (như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v…). Khi ông Minh được đưa trở về đến Dinh Độc Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu “bất hủ” với sĩ quan chỉ huy Bắc Việt rằng:

-“Tôi còn ở đây chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng”.

Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc:

-“Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!”.

Và ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ngay chiều ngày 30/4/1975, trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện Bắc Việt, để chỉ dẫn họ cách thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng nầy. Sau đó ông Hảo vẫn bị đưa về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác”.

………………

Ở nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một cảnh “ngu dốt” của một toán bộ đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu đáng thương hại của người dân Miền Bắc nói chung:

Trong lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng khách trò chuyện thì có một toán chừng 6 anh “bộ đội” ập vào nhà “khám xét”.

Người chỉ huy cầm trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức :

Cái “đài” nầy là của anh?
Phải, của tôi
Anh làm “chức vụ” gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái “đài” nầy? anh dùng cái đài nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải bắt anh ngay về cơ quan để “làm việc”, mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc đó anh Đức ở trần)
Xin lỗi anh tôi không đi đâu hết, cái nầy là cái điện thoại chớ không phải cái đài.
Đồ ngoan cố, cái nầy là cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà anh có một cái điện đài mà không chịu đi khai báo.. . .
.. . . . . . .
Tôi rời khỏi nhà anh Đức trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội nghiệp cho cái anh chàng phản chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với thực tế có lẽ anh mới sáng mắt thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và mức độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào đối với dân chúng..! Tội nghiệp cho cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng thật quá tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng sắp tới… có lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt của kẻ xăm lăng thống trị, đến từ Miền Bắc…

Ngày 5 tháng 5/75

Tôi quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm trú và tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi “học tập”. Ở đây có lẽ yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ tôi), dù sao ở ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở tỉnh, như một số tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay tỉnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị họ kết án là “có tội với nhân dân” mà không thông qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu…Riêng anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.)
Sáng nay tôi phải lên thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì tại một ngôi chùa ở Hạnh Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công tác hậu sự cho quân nhân các cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo chăm nom săn sóc nơi an nghỉ cuối cùng của anh em quân nhân chúng tôi là “nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây” nằm ở đối diện không xa với chùa nầy.

Đưa tôi vào chánh điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ còn có hai chúng tôi thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp úng nói không thành lời. Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ cho tôi nghe là không phải ông khóc vì chuyện “mất nước”, nhưng khóc vì động lòng từ bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm săn sóc đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày mồng 3 tháng 5 vừa qua.

Mặc cho sự van xin cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng tọa) họ vẫn san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi mộ cuối cùng…… Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc:

” Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà trồng trọt để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy mà làm nghĩa địa thì phí của trời quá… độc ác với nhân dân quá!”
Thật tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình, nhìn sự việc qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy phải xuất phát từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng sản Miền Bắc, đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.! Dù họ là người Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày hôm nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo đúng lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều khiển họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy.
Ông bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho những lời “tố cộng” của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là những chuyện “đặt điều” cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán chính Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi, rồi đây có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản nầy. Nhưng từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ phải chịu nhiều cảnh thương đau cùng cực nữa… trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ.

Tôi mời ông thiếu tá tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa để xem thử là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã nhận được thì hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3 tháng 5.

Có đi đến nơi chúng tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm! Trước hết là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài “Thương Tiếc”, một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ đường ở mặt tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn, và ủi sạch không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến thành bình địa!

Trên đường về Hạnh Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một lời nào, tôi tin chắc là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác hẳn với cảm nghĩ của một chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước khi giã từ, tôi cũng nói rõ cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của tôi:

– Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã man nầy thật không đúng là hành động của bất cứ người Việt nào nhất là ở Miền Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo đạo lý và truyền thống của dân tộc Việt, người Việt Nam chúng ta ai cũng biết là “nghĩa tử là nghĩa tận” hay “chết là hết”. Dù giữa cá nhân anh và tôi có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay tôi có người đã nằm xuống rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn, không ai còn muốn nhắc đến nữa. Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc QLVNCH có nghĩa là gì đây? Nếu không muốn nói trước hết là nhằm “trả thù cho quân đội và nhân dân Miền Bắc”? sau đó lại “xóa sạch được vết tích của QLVNCH, người đã chết xóa trước, người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn bộ lịch sữ trong tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu tranh dai dẵng của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn chận làn sóng xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải xóa bỏ ? Tôi nghĩ chỉ có như vậy họ mới đang tâm có những hành động phi nhân đạo nầy. Và chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều phải chịu chung một số phận.Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận của chúng tôi… những chiến binh còn sống sót.

Nhưng ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá nhân tôi thì ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!!

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang “Hồi Ký Dang Dở” ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy.

Dương Hiếu Nghĩa

Truyện ngắn: ĐỨA CON TỪ “LÁN” TÙ

ĐIỆP MỸ LINH

Cho phi cơ lượn vài vòng trên không trung, Dinh cảm thấy vui hẳn lên với cảm giác được hoàn toàn tự do. Nhìn xuống, thấy đồng ruộng xanh ngát, tự dưng một giòng nhạc khởi lên trong lòng, Dinh hát theo điệu Valse Lente: 
“Làng tôi yêu mến có lũy tre đầm ấm,
khoát bóng lên lều tranh…
Tình quê hương ấy mỗi lúc sương chiều rơi,
quyến luyến dâng đầy vơi tâm hồn tôi.” (1) 
Lời ca khiến Dinh nhớ những chiều theo đoàn tù trở về trại, nhìn về phương Nam, Dinh cũng “ngân nga” những câu hát này cho vơi bớt nỗi niềm. Đang hát, Dinh chợt giật mình, vì chàng là sĩ quan Nhảy Dù chứ không phải sĩ quan Không Quân – thế mà tại sao chàng có thể lái máy bay? Vừa khi đó, nhận ra kim chỉ nhiên liệu xuống đến chữ E, Dinh vội vàng cho phi cơ đáp khẩn cấp.
Trời tối dần. Nhiều người tò mò kéo đến. Dinh cho nhóm người biết rằng phi cơ hết xăng, Dinh cần mua xăng. Nhóm người này bảo: Ở đây xăng chỉ dùng cho công xa chuyển vũ khí đi “B”. Thấy quân phục của Dinh nhiều người kéo đến, nhìn Dinh bằng đôi mắt sôi sục căm thù.
Nghe hai tiếng “đi B” rồi thấy ánh mắt căm thù, Dinh hãi sợ, bỏ chạy. Nhóm người đuổi theo. Nhiều âm thanh hãi hùng vang lên: 
-Ngụy trốn trại! Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!
Nhóm người vừa đuổi theo vừa lượm đá quăng về phía Dinh. Dinh trúng thương, ngã xuống.
Khi tỉnh giậy, trong nhiều tiếng lao xao/mơ hồ, Dinh nhận ra tiếng Duy, con lớn của chàng, quát đứa em:
-Dục! Xem ổng còn thở không?
Dinh muốn đáp: “Ba không sao đâu”, nhưng nói không được! Trong khi Duy và Dục bế Dinh để lên giường, Dinh cố nhớ lại giấc mơ. Dinh tự hỏi, tại sao những lần trốn trại và những trận đòn thù xưa cứ ám ảnh chàng hoài? Dinh muốn lấy điện thoại, gọi cho Huyền – chị của Dinh, ở Mỹ – nhưng Dinh không thấy được gì cả!
Trên taxi, sau khi bảo tài xế lái đến bệnh viện Đồng Nai, Duy than:
-Mẹ bà nó! Đây rồi ổng nằm một đống, đái ỉa một chỗ, ai lo được, Trời!
-Ông là anh cả, trưởng nam, ông phải lo chớ ông tính “bán cái” hả?
-Mẹ! Con c. tao chứ trưởng nam. Cũng vì hai chữ trưởng nam mà năm 75 ổng không chịu di tản; vì ông bà già của ổng không chịu đi. Mẹ bà nó! Ngoại trừ sĩ quan cấp nhỏ như ông Bảng – em của Dinh – ở tù ngắn hạn, Mỹ không nhận; còn ai ra tù cũng nạp hồ sơ xin đi Mỹ, mà ổng không nộp; vì bà già của ổng chỉ muốn ở với trưởng nam chứ không chịu ở với ông Bảng.
-Bởi vậy tui với ông mới bốc cứt mà ăn.
Dinh muốn gào lên: “Ba không xin đi diện H.O. vì bà Nội chỉ một phần; lý do chính là vì hai con đều trên 21 tuổi, không được chấp thuận. Lúc đó, chỉ vì thương bà Nội và thương hai con – và cũng vì Ba không biết được rằng Ba cứ qua Mỹ, từ từ Ba sẽ bảo lãnh bà Nội và hai con sang sau – mà Ba không đành đi Mỹ một mình. Ba đã quyết định sai; nhưng sự sai lầm đó là do tình thương mà ra.” nhưng Dinh không nói được! Dinh vừa đau xót, vừa tủi thân, vừa giận hai thằng con thiếu giáo dục!
Đây không phải là lần đầu tiên Dinh nhận ra sự thiếu giáo dục ở thế hệ trẻ. Ngay từ khi được ra tù, trên chuyến xe lửa về Nam, Dinh rất buồn lòng vì nhận thấy ngôn từ và hành động của người trẻ trên xe lửa cũng như tại ga xe lửa, đều khó chấp nhận. Về đến nhà, thấy Duy và Dục cũng ứng xử như những người trẻ vô học, Dinh rầy. Duy đáp: 
-Thời buổi này kiếm hột cơm đổ vô họng còn chưa có, ở đó mà lễ nghĩa/đạo đức!
-Con nên nhớ, ông bà mình dạy rằng: “Đói cho sạch, rách cho thơm.” 
-Lời ông bà, xưa rồi! Lời cách mạng là tiền. Tiền! Tiền! 
-Con nói chuyện với Ba mà tại sao con dùng những lời thiếu giáo dục vậy?
-Có ai giáo dục tui đâu mà thiếu với đủ? 
Dinh nghẹn lời! Từ đó, Dinh cố tình tránh mọi va chạm với hai con.
Lòng buồn vô hạn, nhưng khi nhận biết Duy và Dục, mỗi đứa một đầu, cố sức khiêng Dinh vào nhà thương, Dinh lại cảm thấy thương con vô vàn. Dinh muốn khóc nhưng khóc cũng không được, rồi Dinh từ từ lịm vào hôn mê.
Nghe giọng Bảng lay gọi, Dinh tỉnh lại và nghe tiếng Duy:
-Dục! Mày ở đây với ông Bảng, tính gì cho ổng thì tính; tao về lục hình của ổng, đem đi phóng lớn để lo hậu sự cho ổng.
Dinh muốn gào lên:“Con ơi! Ba chưa chết, con ơi!” nhưng nói không được! Bảng nạt Duy:
-Hậu sự cái gì? Để tao “điện” qua cho cô mày.
Duy mỉa mai:
-Bệnh của ổng như vậy tiền núi cũng chữa không lành nói gì xin bà Huyền. Mỗi lần xin bả cho có vài trăm đô chớ mấy!
Bảng im lặng, bấm số. Hay tin Dinh bị stroke Huyền khóc nức nở. Sau khi cơn xúc động dịu xuống, Huyền hỏi:
-Hiện tại bác sĩ đang làm gì cho anh Dinh?
-Bác sĩ nói trễ quá, không làm gì được. Họ cho ảnh ra phòng ngoài, nằm chung với mọi người rồi.
-Trời! Tình trạng của Dinh như vậy tại sao họ không cho nằm ở phòng hồi sinh?
-Em đâu biết.
-Tìm bác sĩ, yêu cầu bác sĩ trực tiếp nói chuyện với chị, nhanh đi.
Bảng “dạ”. Một chốc sau, Huyền nghe giọng Bảng văng vẳng: 
-Chị tôi mới là người có khả năng thanh toán “viện phí”. Bác sĩ không nói chuyện với chị tôi thì tôi với hai thằng này là ba mạng cùi chứ làm sao tụi tôi trả được.
Nghe giọng lạ “Allo”, Huyền hỏi:
-Thưa, có phải bác sĩ là người đã khám nghiệm cho em tôi, Trần Dinh, không ạ?
-Vâng.
-Thưa, theo bác sĩ thì em tôi có khoảng bao nhiêu phần trăm hy vọng sống sót?
-Một phần trăm. Nhưng bệnh viện này không đủ phương tiện để giúp ông Dinh.
-Thế thì bác sĩ làm ơn chỉ cho tôi bệnh viện nào có thể cứu em tôi?
-Nếu có phương tiện tài chánh, bà nên đưa ông Dinh đến bệnh viện Chợ Rẫy.
-Thưa, nhờ bác sĩ giúp bằng cách cho một xe hồng thập tự đưa em tôi đến Chợ Rẫy, được không ạ?
Một thoáng chần chừ. Huyền tiếp:
-Thưa bác sĩ, người em kế của Dinh là Bảng, người mà lúc nãy đã yêu cầu bác sĩ nói chuyện với tôi đó. Bảng sẽ làm giấy cam kết với bệnh viện rằng Bảng và tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả mọi phí tổn mà bệnh viện đã cung cấp cho Dinh.
-Vâng, nếu thế thì không gì trở ngại.
-Cảm ơn bác sĩ.
Trao điện thoại lại cho Bảng, bác sĩ bảo:
-Xong, anh vào gặp tôi ngay.
Sau khi “đăng ký” cho Dinh vào bệnh viện Chợ Rẫy, Bảng bảo Duy và Dục ở lại trông chừng Dinh, Bảng đến ngân hàng nhận tiền Huyền gửi về bằng Moneygramme; nhưng Bảng không cho Duy và Dục biết.
Khi trở lại bệnh viện, Bảng thấy Dinh đã được đưa ra phòng ngoài. Thấy Dinh nằm cùng giường, ngược đầu với một bệnh nhân khác, Bảng trách:
-Duy, Dục! Sao hai đứa mày không xin cho Ba tụi bay nằm riêng một giường mà để ổng nằm hửi cẳng người ta, tội quá vậy?
Duy đáp như Dinh là người xa lạ:
-Ổng nằm đây không lâu đâu mà lo.
-Mày nói cái gì, mày nói lại tao nghe?
-Thì bác sĩ ở đây cũng nói giống bác sĩ ở Đồng Nai chứ khác gì đâu. Ông không cho tui về rửa ảnh lo hậu sự cho ổng thì tui “điện” cho vợ tui, biểu vợ tui lục hình, đem đi rửa lớn, mua nhan đèn sẵn, thì cũng vậy thôi.
Những lời đối đáp của Duy và Bảng khiến Dinh chỉ muốn chết ngay tức thì! Bảng bảo Duy và Dục ở lại trông chừng Dinh, Bảng phải về Đồng Nai để thanh toán “viện phí”.
Bảng vừa rời bệnh viện thì y tá vào phòng, hỏi:
-Có ai tên Trần Duy ở đây không?
-Có. Tui.
Người đàn ông phía sau người y tá bước đến gần Duy:
-Ba mày tên gì?
-Trần Dinh.
-Mày có người bà con nào bên Mỹ không?
-Có. Chị của Ba tui.
-Bà ấy tên gì?
-Trần thị Huyền.
Vừa nói người này vừa ra dấu cho Duy bước ra sân:
-Bà Huyền emailed thông báo bệnh trạng của ông Dinh cho những người cùng khóa Sĩ Quan Thủ Đức với ông Dinh. Nhóm người này góp được một số tiền; anh tôi “điện về”, bảo tôi ứng trước số tiền đó để giúp ông Dinh.
Sau khi nhận tiền, Duy vào phòng bệnh, bảo Dục trông chừng Dinh, Duy phải đi gấp. Duy đến những chốn ăn chơi mà lúc nào Duy cũng mơ ước.
Hôm sau Bảng trở lại gặp lúc Duy đang xin bác sĩ cho Dinh xuất viện. Bảng cản:
-Không được. Bệnh của Ba mày như vậy mà mày đem ổng về nhà để ổng chết hả?
Duy muốn đem Dinh về vì Duy nghĩ tình trạng của Dinh, nếu sống được thì cũng chỉ báo đời thôi; càng để Dinh nằm bệnh viện lâu bao nhiêu thì “viện phí” càng tăng bấy nhiêu. Số tiền mà những cựu Sĩ Quan Thủ Đức gửi về biếu Dinh, tối hôm qua Duy “đi thoải mái” “chỉ tốn gần hai trăm đô chớ mấy”! Duy dự tính trả tiền nhà thương khoảng hai, ba trăm nữa, số tiền còn lại Duy sẽ mua một “quần bò” thật “xịn” để tặng con nhỏ làm ở quán bia ôm mà Duy thích. Nhưng Duy lại đáp khác:
-Đem ổng về có gì vợ tui lo giúp để tui còn đi làm ăn chứ bộ tui ở trong này để vợ con tui chết đói sao?
-Thì mày với thằng Dục thay phiên nhau ở đây.
-Ông đâu có bưng cứt đổ đái cho ổng. Ông đâu có ở đây để hửi mùi hôi/mùi thúi và nghe người bệnh rên la cả đêm.
Duy vừa dứt câu, bác sĩ bước vào. Bảng xoay sang bác sĩ:
-Xin lỗi bác sĩ, chị tôi bên Mỹ “điện” về, bảo tôi nhờ bác sĩ giúp cho anh tôi được nằm một phòng riêng.
-Ở đây không bệnh viện nào có tiêu chuẫn như thế.
-Cùng lắm thì xin bác sĩ cho anh tôi nằm một mình một giường. Bác sĩ giúp giùm, chị tôi không quên ơn bác sĩ.
Câu cuối Bảng nói chỉ vừa đủ cho bác sĩ nghe; và cũng chính câu cuối cùng của Bảng khiến bác sĩ gật đầu:
-Vâng. Tôi có thể giúp anh điều đó.
Bác sĩ rời phòng. Bảng hỏi Duy:
-Thằng Dục đâu?
-Nó cũng lo đi làm ăn chớ bộ nó ở đây lo ôm xác ổng sao!
-Mày ăn nói mất dạy. Ngày nào Ba mày có quyền có chức thì Mẹ con mày “dựa hơi”; khi Ba mày đi tù, Mẹ mày lấy cán bộ, giao hai đứa mày cho Bà Nội mày nuôi. Bây giờ Ba mày trong tình cảnh này thì hai đứa mày chỉ mong cho ổng chết nhanh, phải không? Chờ đó, tao gọi cho cô mày.
-Gọi cho bả làm “đe.” gì! Mẹ bà nó, cho nhỏ giọt, “đe.” thèm nhắc tên bả nữa!
Không muốn đối đáp với đứa mất dạy, Bảng bấm số điện thoại. Sau khi nghe Bảng trình bày, Huyền bảo:
-Bảng mở speakerphone, để gần tai bên phải của anh Dinh. Bảng cầm tay phải của anh Dinh và cố để ý phản ứng của anh Dinh.
Khi Bảng báo cho Huyền biết mọi điều đã xong, Huyền vừa khóc vừa nói rất chậm:
-Dinh ơi! Chị đây. Nếu chị nói gì mà Dinh nghe và hiểu được thì Dinh bóp tay Bảng, nha!
Tiếng Bảng reo lên:

  • Đó, đó, ảnh bóp tay em.
    Những người thăm nuôi và bệnh nhân nhẹ cùng phòng đều tò mò vây quanh giường của Dinh. Huyền tiếp:
    -Dinh biết ai nắm tay Dinh không?
    Nhiều tiếng reo lên: 
    -Ối Giời! Ông ấy biết đấy.
    Huyền tiếp:
    -Mấy anh Thủ Đức bên này và bên Úc chung lời cầu nguyện cho Dinh. Dinh gắng vượt qua, nha!
    Bảng không kềm được xúc động:
    -Anh Dinh nghe và biết hết, chị à!
    Cuộc điện đàm vừa đến đây thì phải ngưng; vì người nằm cùng giường với Dinh phải chuyển sang nằm chung với bệnh nhân khác. Và một bệnh nhân trẻ, tên Diên, bị băng nơi chân, được đưa vào, nằm nơi góc phòng.
    Duy và Dục ra ngoài ăn tối. Bảng tìm vị bác sĩ – mà lúc nãy Bảng yêu cầu ông ấy giúp cho Dinh được nằm riêng một giường – để “trả ơn”, như Bảng đã hứa. Sau đó, Bảng tìm nhân viên trực, tặng họ tiền; vì kinh nghiệm cho Bảng biết rằng nếu không có thủ tục “đầu tiên” thì đêm hôm Dinh có bề gì nhân viên trực sẽ không báo cho bác sĩ.
    Trên đường trở lại phòng bệnh, Bảng thấy một nhân dáng rất quen đang hối hả đi về phòng bệnh. Nhìn kỹ, Bảng nhận ra đó là Trang, vợ cũ của Dinh. Bảng gọi:
    -Chị Trang!
    Trang quay lại:
    -Ủa, chú làm gì ở đây?
    -Em cũng muốn hỏi chị câu đó.
    -Con của tôi bị tai nạn xe gắn máy, đưa vào đây. Tôi từ Long An, nghe tin vội lên thăm cháu. Còn chú?
    Sau khi nghe Bảng kể qua bệnh trạng của Dinh, Trang khóc. Bảng nói:
    -Chị với anh Dinh hết duyên hết nợ thì thôi; chỉ tội nghiệp cho anh Dinh là nếu anh Dinh bị xúc động mạnh trong tình trạng này thì anh ấy sẽ khó qua. Em yêu cầu chị là chị cố gắng đừng cho anh Dinh biết có sự hiện diện của chị trong phòng bệnh.
    -Chú cho tôi thăm cháu xem tình trạng của cháu như thế nào rồi tôi sẽ liên lạc với chú.
    -Chị ghi số điện thoại của em đi. À, chị cũng phải lánh mặt thằng Duy với thằng Dục nữa, nha! Hai thằng đó mất dạy lắm!
    Trang vừa ghi số điện thoại vừa hỏi:
    -Anh Dinh và Duy, Dục hiện sống ở đâu, chú?
    -Vẫn ở kinh tế mới…
    Bảng chưa dứt câu, Trang chợt nghe giọng Tâm, chồng của nàng:
    -Ôi Giời, Trang! Em đến sao không vào thăm con ngay mà lại ở đấy? Còn mấy đứa kia đâu, sao em không đưa các con đến thăm anh nó?
     

Vừa đẩy chiếc xe lăn có Dinh ngồi bên trong, Bảng vừa nói:
-Anh em mình ra nghĩa trang thăm mộ, cúng tạ Ba Má và mấy em xong, mình trở về để người ta làm vật lý trị liệu cho anh, nhen!
-Bảng cúng chứ anh đâu lạy được.
-Thì anh ra với em cho “dzui”.
Đến bên nghĩa trang nho nhỏ của gia đình, Bảng xoay xe lăn về hướng đường mòn, hỏi:
-Anh Dinh! Nhìn xem bà nào mà trông quen quá vậy?
Dinh nhìn ra đường mòn, hơi ngờ ngợ, không tin vào mắt chàng. Trang đến gần, lấy nón xuống, nhìn Dinh. Dinh gằn giọng:
-Cô còn gặp tôi để làm gì?
-Em biết em có lỗi với anh nhiều lắm. Nhưng anh nên cho em nói với anh những điều cần nói; nhỡ mai này chúng ta không thể gặp lại nhau.
-Gặp lại để làm gì?
-Anh cho em thố lộ với anh một lần, chỉ một lần thôi.
-Vâng. Cô muốn nói gì, nói đi.
Bảng lẻn đi về. Trang ngồi lên phiến đá nhỏ:
-Những lời của em không phải là những lời chạy tội mà chính là nỗi thống khổ của vợ một tù cải tạo.
-Chuyện cải tạo/cải tiết, xưa rồi, đừng nhắc nữa!
-Vâng. Em sẽ tôn trọng yêu cầu của anh. Ngược lại em cũng yêu cầu anh cho em được nhắc lại chỉ một chi tiết thôi.
-Chi tiết nào?
-Anh nhớ lần em đến trại Yên Bái thăm anh không?
Dinh gật đầu. Trang tiếp:
-Anh còn nhớ là hôm đó anh quyết liệt từ chối, không muốn nghỉ qua đêm với em trong “lán” cạnh cổng trại hay không?
Làm thế nào Dinh có thể quên được. Trước khi Trang được phép thăm nuôi, Dinh đã cố gắng thuyết phục bạn tù thực hiện những buổi văn nghệ đặc sắc. Dinh giả vờ hăng say, vui thích vừa đàn vừa hát những nhạc phẩm sặc mùi “cách mạng”. Dinh thực hiện mọi phương thức để tạo niềm tin nơi ban quảng giáo – chỉ với mục đích sẽ tìm cơ hội vượt ngục.
Sự thay đổi thái độ của Dinh làm bạn tù bất mãn bao nhiêu thì ban quảng giáo lại hài lòng bấy nhiêu. Nhờ sự hài lòng này, khi Trang ra thăm, ban quảng giáo cho Dinh một đặc ân là Dinh được ở lại “lán” với vợ một đêm. Dinh cương quyết từ chối. Nhưng…Trang tiếp:
-Chính em là người đã khóc và năn nỉ anh; vì em thương anh, em nhớ anh, em chỉ muốn được ôm anh trong vòng tay.
-Nhắc lại để làm gì?
-Em chỉ muốn anh biết sự thật.
-Sự thật gì? Cô lấy chồng cán bộ, tôi mừng cho cô.
-Anh đừng tàn nhẫn với em.
-Ai tàn nhẫn với ai?
-Anh Dinh! Anh phải biết rõ nguyên do trước khi anh phán xét.
-Rồi, Mẹ con cô nghèo khổ, vì trước 75 tôi là một sĩ quan sạch. Cô lấy cán bộ vì cô chịu cực không được. Còn gì nữa?
-Còn một đứa con – kết quả của hôm anh nghỉ qua đêm tại “lán”, với em – mà anh không biết, anh ơi!
-Tôi vừa về nhà sau thời gian quá dài nằm nhà thương, cô đừng đày đọa tâm hồn tôi nữa!.
Trang đứng lên, đổi giọng:
-Tôi sẽ trở lại trong vài phút.
Trang trở lại với Diên. Thấy Diên, Dinh ngạc nhiên đến sửng sờ! Diên có đôi mắt buồn buồn của Dục và đôi chân mày rậm, sóng mũi cao, cái cằm nhòn nhọn của Duy. Trang bảo Diên chào “Bác”. Diên chào. Dinh đưa tay phải ra. Diên lễ phép bắt tay Diên và miệng hơi mỉm cười. Ôi! Nụ cười của Diên sao lại y như nụ cười mà ngày xưa Dinh thường thấy mỗi khi Dinh soi gương! Trang bảo:
-Con ra tiệm bi-da chơi, chờ Mẹ một tý nữa thôi.
Diên lại chào Dinh một lần nữa rồi đi. Trang hỏi:
-Anh nghĩ gì?
-Thú thật với cô tôi không hiểu tôi nghĩ gì!
-Sau lần đi thăm nuôi anh ở Yên Bái, em không “to be”. Em vừa phải chống chọi với những cơn nôn mửa từng ngày, vừa chịu đựng những lời chửi rủa thậm tệ của Má anh và vừa suy nghĩ xem có nên cho mọi người biết sự thật hay là phá thai? Em không thể phá thai, vì em đạo Thiên Chúa. Cuối cùng em cho Má anh biết sự thật. Má anh lý luận: Ba anh cũng tù cải tạo, khi Ba anh chết Má anh còn không biết tin chứ đừng nói đến chuyện Ba anh được phép nghỉ qua đêm với Má anh. Chú Bảng là sĩ quan cấp nhỏ, cũng bị tù mà thiếm Bảng không được ở lại qua đêm; còn anh là một sĩ quan cao cấp, em là “cái thớ” gì mà được ở qua đêm với anh? Má anh than với mọi người rằng em đã lấy Tâm – một cán bộ thường theo tán tỉnh em mà quanh xóm ai cũng biết. Anh Dinh! Em có thể chịu cực nhưng em không thể chịu nhục.
-Má tôi mất lâu rồi, nên để Má tôi yên.
-Em không đổ lỗi cho Má anh. Em chỉ trình bày sự việc.
-Rồi, cô bất mãn Má tôi, cô đi. Nhưng tại sao cô lại bỏ Duy và Dục cho Má tôi nuôi?
-Sau 75, gia đình bên anh sa sút như thế nào thì gia đình bên em cũng vậy. Nhưng ít ra, bên anh còn có chị Huyền giúp đỡ. Em nghĩ, Duy và Dục ở lại, trước nhất là hai con có được miếng ăn; hai nữa là hai con có thể đỡ đần Má anh những lúc Má anh cần. Thứ ba là em không biết Tâm đã biết tin em có thai hay chưa? Nếu Tâm biết em có thai, chưa chắc Tâm chịu lấy em. Nếu Tâm không lấy em thì làm thế nào em nuôi được cả ba đứa con? Anh tưởng em không đứt ruột khi phải xa hai con hay sao?
Trang mũi lòng, khóc. Một lúc lâu lắm, Dinh hỏi:
-Chồng cô có biết chuyện của Diên không?
-Dạ, không. Sau khi em lấy Tâm, em năn nỉ Tâm xin thuyên chuyển thật xa để chôn vùi quá khứ. Khi sinh Diên em cho tiền bác sĩ và y tá, yêu cầu họ xác nhận Diên bị sinh thiếu tháng.
-Hiện tại Diên làm gì?
-Dạ, Diên vừa tốt nghiệp đại học, ngành tin học.
-Tại sao mãi đến nay cô mới cho tôi biết sự thật về Diên?
-Nếu anh vẫn khỏe mạnh và nếu em không thấy anh trong trạng thái hôn mê lúc ở nhà thương thì có lẽ em sẽ không tiết lộ.
-Sự tiết lộ này có mục đích gì?
-Dạ, mục đích thứ nhất, em muốn minh oan với anh; nhưng em không xin anh tha thứ. Mục đích thứ nhì, em muốn hỏi ý kiến anh xem em có nên cho Diên biết sự thật hay không?
Sau một lúc nhíu mày suy nghĩ, Dinh đáp:
-Thôi, hãy để cuộc sống của Diên phẳng lặng và tươi đẹp như vậy.
-Em cảm ơn anh. Chiều rồi, em phải về.
-Vâng.
Tần ngần một lúc, Trang để tay lên vai Dinh:
-Anh cho em đẩy xe anh vào nhà, nha!
-Thôi, tôi tự lo được.
-Lúc trẻ, anh cùng em đi không trọn đoạn đường. Bây giờ già, anh cho em đi cùng anh một khoảng ngắn của đoạn đường còn lại, nha!
Khi Trang đẩy chiếc xe lăn của Thịnh đến lề quốc lộ, cạnh tiệm bi-da, Dinh ra dấu cho Trang dừng xe, rồi bảo:

  • Cô vào bảo Diên ra đón xe về kẻo trễ.
    Biết Dinh muốn thấy Diên một lần nữa, Trang quay đi.
    Khi Diên chào, bắt tay từ giã Dinh, Dinh nhìn vào mắt Diên – chính lúc đó Dinh cảm nhận được niềm thương yêu vô bờ dâng ngập trái tim chai sạn của chàng. Dinh bịn rịn, không muốn rời tay Diên.
    Nhưng, Trang đưa tay đón, chiếc xe đò dừng lại.
    Xe đò từ từ lăn bánh. Dinh nhìn theo chiếc xe với tất cả xót xa và thương cảm như những lần Dinh nhìn theo Trang sau mỗi lần nàng đến trại tù thăm nuôi chàng. Vừa khi đó, từ tâm thức buồn thảm của Dinh, giòng âm thanh xưa vọng về: 
    “…Ôi! giòng nước mắt trong tim
    chảy lai láng vào hồn nửa đêm gọi đến mình…
    Giọt nước mắt thương em, theo vận nước điêu linh.
    Giọt nước mắt không tên, xin để lại Quê Hương…” (2)
    Khi xe đò khuất xa, Dinh kín đáo thấm nước mắt rồi tự lăn chiếc xe dọc theo đoạn đường còn lại của chàng!

ĐIỆP MỸ LINH
 https://www.diepmylinh.com/

1.- Nguồn Mến Yêu của Hoàng Trọng
2.- Nước Mắt Cho Quê Hương của Trịnh Công Sơn

Danh Nhân Người Việt

Nào ai đoán trước được Bill Gates và Mark Zuckerberg chỉ học năm thứ nhất Đại học Harvard lại nằm trong số lãnh đạo “5 Công nghệ kỹ thuật số” chi phối cuộc sống của nhân loại gồm có Amazon, Apple, Google, Facebook và Microsoft.

Có ai biết được tương lai huy hoàng khi Jeff Bezos (Amazon) và Elon Musk, (SpaceX) ở vào thời niên thiếu?

Dương Nguyệt Ánh

Các cô gái Việt Nam mảnh khảnh, e lệ mà khi đến Mỹ sau năm 1975 đã trở thành khoa học gia nổi tiếng như Dương Nguyệt Ánh đã chế bom “áp nhiệt” làm vô-hiệu-hoá nơi ẩn trú thiên nhiên an toàn nhất của các tên trùm khủng bố quốc tế, làm tàn lụi Tổ chức khủng bố quốc tế al Qaeda.

Nguyễn Thục Quyên

Nguyễn Thục Quyên đến Hoa Kỳ muộn màng, tiếng Anh chập chờn mà trở thành nữ khoa học gia nằm trong số 1% các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới suốt 4 năm liền.

Bà Giao Phan, tổng giám đốc mới của NAVSEA. (Hình: Hải Quân Hoa Kỳ)

Tổng công trình sư Giao Phan chịu trách nhiệm đóng 3 chiếc Hàng không mẫu hạm tối tân nhất thế giới với kinh phí 40 tỉ USD mà chiếc thứ nhất đã bàn giao cho Hải quân Hoa Kỳ, chiếc thứ hai xong ½, chiếc thứ ba đang khởi công.

Eugene Trinh

Eugene Trinh (Trịnh Hữu Châu) tham gia chuyến bay Columbia STS-50 của NASA kéo dài 14 ngày và Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ từ 25/06/1992 với nhiệm vụ thí nghiệm về “động lực học chất lỏng”.

Luật sư Đinh Đồng Phụng Việt

Luật sư Đinh Đồng Phụng Việt (tức Viet Dinh) tị nạn năm 1978, Phụ tá Bộ trưởng Tư pháp, Kiến trúc sư trưởng Đạo luật chống khủng bố “PATRIOT ACT” sau sự kiện 11 tháng 9 năm 2001. Từ năm 2003, Ông trở về Giảng dạy tại Đại học Georgetown.

Tony Phạm

ông Tony Phạm, một người Mỹ gốc Việt, được bổ nhiệm làm lãnh đạo cơ quan Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) của Mỹ

Người Mỹ gốc Việt

CỘNG SẢN LÀ ĐỒ CHÓ ĐẺ !

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

Tôi thách thức tất cả chóp bu cộng sản có thể chứng minh cho tôi thấy đảng cộng sản đã làm bất cứ một điều gì tốt, hữu ích cho nhân dân Việt Nam, để có lý do chính đáng lãnh đạo dân tộc Việt Nam. Còn tôi, tôi khẳng định chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa chó đẻ và tôi có thể chứng minh bằng những dữ kiện hùng hồn, mà cộng sản không thể chối cãi.

Chủ nghĩa cộng sản giương cao lý tưởng cao đẹp, như: làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, công bằng xã hội, không còn có cảnh người bóc lột người, cán bộ là đầy tớ nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nhưng trong thực tế, khi chúng cướp được quyền hành trong tay, thì bọn chóp bu cộng sản đều làm ngược lại những gì chúng đã hứa hẹn.

Tại sao chủ nghĩa cộng sản tồi tệ như thế, mà chúng có thể cướp quyền cai trị người dân? Tại vì trí thức ngu! Trí thức là người có kiến thức rộng, phải có bổn phận đem kiến thức của mình ra để dạy dân. Chủ nghĩa cộng sản phế truất quyền tư hữu, bần cùng hóa nhân dân là việc làm phi đạo đức. Quyền tư hữu là quyền thiêng liêng của mỗi người. Con mắt này là của tôi, cái đầu này là của tôi, thân thể này là của tôi. Tất cả những thứ đó là của tôi, thuộc về tôi. Không ai được quyền chiếm dụng. Cộng sản chủ trương thủ tiêu quyền tư hữu, tức là tước đoạt cái quyền chính đáng của mình, để cho mình không còn là mình nữa. Mình trở thành công cụ của chế độ. Trí thức không thấy điều đó, mà nhắm mắt đi theo, là vì trí thức ngu!

Tôn giáo dạy loài người về đạo đức. Phật dạy từ bi. Chúa dạy bác ái. Cộng sản dạy căm thù, cá lớn nuốt cá bé. Vì cái vũ trụ quan phủ nhận Thượng Đế, nên hai chữ sám hối không bao giờ có trong chủ nghĩa cộng sản. Vì cái nhân sinh quan phi đạo đức, cộng sản có thể giết người không gớm tay mà không cảm thấy hối hận. Đạo cộng sản chỉ đẻ ra những đứa mất dạy: con tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau, anh em giết nhau thì mới được đảng đánh giá cao về cái gọi là giác ngộ cách mạng, giác ngộ lập trường giai cấp.

Có nhiều người đã là nạn nhân cộng sản. Nhưng khi nghe tôi nói Chống Cộng là nghĩa vụ thiêng liêng của người không chấp nhận làm súc vật, thì họ tỏ ra khinh thường, châm biếm, chế giễu, cho rằng tôi nói một điều đã xưa như trái đất. Đúng! Đã xưa như trái đất, nhưng cho đến nay cộng sản vẫn sử dụng những thủ đoạn súc-vật-hóa con người tinh vi hơn! Phải chi cộng sản ngày nay biết tôn trọng quyền con người, biết tôn trọng sự thật, có nhân tính mà tôi vẫn “chửi” cộng sản là đồ chó đẻ, thì sự khinh thường, châm biếm, chế giễu của những người cho rằng tôi lỗi thời, được xem là đúng đi! Khốn kiếp thay! Cộng sản vẫn giữ nguyên bản chất cũ, vẫn lừa đảo, vẫn lưu manh, vẫn bạo hành, vẫn khủng bố, làm sao tôi có thể im lặng, quay lưng lại trước nỗi bất hạnh của con người?

Năm 1954, Mỹ cung cấp phương tiện cho người Miền Bắc di cư vào Nam để lánh họa cộng sản là chính đáng. Chúng ta cám ơn người Mỹ. Nhưng Mỹ bắt buộc Miền Nam xây dựng chế độ dân chủ là sai, giống như bắt buộc một đưa bé vừa mới biết lật sấp lật ngửa, mà phải đứng lên chạy là không đúng. Nếu Miền Nam không có cộng sản nằm vùng phá hoại, không có bọn phản phúc “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” thì còn có thể xây dựng dân chủ. Vậy Miền Nam muốn có dân chủ, thì trước hết cần có một chính quyền mạnh để vận động toàn dân phải diệt các ổ cộng sản từ trong trứng nước, không dung túng bất cứ một đứa nào thở ra cái hơi cộng sản để tuyên truyền phá hoại, thì mới may ra thành công.

Tổng thống Ngô Đình Diệm noi gương người xưa “Đem đạo nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, nên thất bại. Bằng cớ là thành phố Long Xuyên được bình an vô sự, trong khi tất cả các thành phố khác ở Miền Nam đều bị Việt Cộng tổng tấn công trong Tết Mậu Thân là nhờ tín đồ Hòa Hảo quyết liệt diệt trừ Việt Cộng! Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ bị Việt Cộng bắt đi, rồi thủ tiêu không trở về. Từ đó tín đồ Hòa Hảo quyết không đội trời chung với Việt Cộng, nên tỉnh Long Xuyên được bình yên.

Nếu các đảng Đại Việt, Quốc Dân Đảng đều quyết tâm trả thù cho lãnh tụ của mình bị Việt Cộng thủ tiêu, giống như tín đồ Hòa Hảo, thì Việt Cộng làm sao xâm chiếm được Miền Nam? Một đất nước muốn tránh họa cộng sản, nhà cầm quyền phải đoàn ngũ hóa nhân dân. Mỗi người dân phải là một cán bộ quân sự, chính trị, tình báo, phản gián để khám phá kip thời bọn phản quốc (phản lý tưởng tự do) nhằm có biện pháp thích nghi. Đừng bao giờ nuôi hy vọng sự tử tế có thể cảm hóa được cộng sản trở nên tử tế. Chiêu hồi nhưng phải theo dõi đường sự!

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều người giàu có như bà chủ hãng Cát Hanh Long Nguyễn thị Năm đã hy sinh tính mạng lẫn tài sản để ủng hộ cộng sản. Hồ Chí Minh từng xưng tụng bà Nguyễn thị Năm là Mẹ Chiến Sĩ. Thế nhưng khi “cách mạng” chưa thành công, Hồ Chí Minh đã đưa hàng vạn Bà Mẹ Chiến Sĩ ra đấu tố, làm nhục và giết một cách hết sức tàn nhẫn, dã man. Hãy đọc “Đèn Cù” của ông Trần Đỉnh – một nhà báo rất thân cận với Hồ Chí Minh – tường thuật, thì biết cái việc Hồ Chí Minh dùng bao vải bịt râu, Trường Chinh mang kính đen để ngồi chứng kiến cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm mà không ai có thể nhận diện. Hành động giấu mặt của Hồ Chí Minh, của Trường Chinh là đồ chó đẻ hay không? Trả lời đi!

Mỹ dùng Miền Nam làm phòng tuyến cho Việt Cộng, nhưng không hiểu trí thức Miền Nam tồi, Tướng lĩnh Miền Nam phản phúc là một khuyết điểm lớn của Mỹ. Lẽ ra Kennedy nghe lời dặn của Tổng thống Eisenhower giúp Tổng thống Ngô Đình Diệm có đủ thời gian đào tạo một đội ngũ quân sự, hành chánh có kiến thức hơn, có khả năng điều hành việc nước hơn, có lòng yêu nước hơn và đặc biệt có sự hiểu biết cộng sản là đồ chó đẻ, thì cái phòng tuyến mà Mỹ muốn dựng lên mới thành công. Ngược lại, Kennedy ra tay giết Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ đó tình hình chính trị Miền Nam trở nên nát bét. Đáng lý ra quân đội Mỹ phải tự mình diệt cộng sản từ nơi xuất phát cuộc xâm lăng để bảo vệ nền an ninh của nước Mỹ, họ lại cố gắng xây dựng cho Miền Nam có bộ mặt dân chủ, như tổ chức bầu cử Quốc hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp, rồi tổ chức bầu cử Tổng thống, Thượng Viện, Hạ Viện. Quả là một trò hề!

Nếu Tổng thống Lyndon Johnson thay Tổng thống John Kennedy thực tình muốn diệt quân xâm lăng Miền Bắc, đâu có gì là khó khăn? Vì chiến thuật leo thang chiến tranh từ từ, khiến cho Hà Nội được Liên Xô cung cấp cho Việt Cộng những vũ khí tối tân hơn như hỏa tiễn SAM để khắc chế các cuộc dội bom lên Đất Bắc làm chết nhiều dân lành vô tội, càng giúp Hà Nội có lợi thế tuyên truyền với thế giới. Ông Johnson chỉ cần ra tối hậu thư nếu quân xâm lăng Việt Cộng không rút quân về Miền Bắc, ông sẽ cho lệnh đánh vỡ con đê sông Hồng Hà vào mùa nước lớn, thì cả Miền Bắc trôi ra biển ngay. Bố thằng Hồ Chí Minh, thằng Lê Duẩn, thằng Võ Nguyên Giáp cũng không dám tiếp tục làm tay sai cho Trung Cộng để nhuộm đỏ thế giới!

Richard Nixon ra tranh cử năm 1968 hứa hẹn sẽ chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tôi tưởng Nixon thực hiện kế hoạch đánh vỡ đê sông Hồng Hà, nên trong lòng khấp khởi mừng. Không ngờ ông đưa ra chương trình Việt Nam Hóa (Vietnamization) để giao cho Việt Nam Cộng Hòa tự lo liệu lấy, mà lại cung cấp cho Việt Nam Cộng Hòa loại vũ khí phế thải. Phi cơ F-5, A-37 nguyên là phi cơ T-38, T-37 mà Không Quân Hoa Kỳ không còn dùng để huấn luyện phi công nữa, họ vứt đi, rồi biến cải thành phi cơ chiến đấu để thí cho Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, trong trận chiến Hoàng Sa, Trường Sa, Không Quân Việt Nam đành bó tay vì không đủ xăng để trở về căn cứ sau khi xong phi vụ oanh tạc.

Tổng thống Kennedy giết Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ba tuần sau Tổng thống Kennedy bị giết. Hoa Kỳ chơi đểu, vứt bỏ Miền Nam cho một chế độ chó đẻ. Gần 50 năm sau, Hoa Kỳ đang phải đối diện một chế độ chó đẻ phát xuất từ Trung Cộng. Ai quan tâm đến thời cuộc đều thấy đảng Dân Chủ với sự phụ họa của Tuyền thông Thổ tả đang thi hành biện pháp chó đẻ kiển cộng sản để giành quyền lực. Trong cuộc bầu cử ngày 3 tháng 11 năm 2020, chúng ta được dịp thấy rõ Triều đại Cha Con Bush (Bush’s Dynasty) cho đến Bill Clinton, Barack Hussein Obama đã tạo ra những tai to mặt lớn bị nhiễm sinh tử phù của Trung Cộng.

Tỷ phú Donald Trump vốn là một tay chơi, nhưng cực kỳ sùng bái Thiên Chúa và yêu nước Mỹ, thấy được mối họa từ cái đầm lầy, nên đã lìa bỏ nếp sống vương giả để liều mình dấn thân cứu nước. Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đã có ý định vào dòng tu, nhưng do sự yêu cầu của Hoàng Đế Bảo Đại, đành tiến tới bàn thờ xin Thiên Chúa phù hộ độ trì để cứu nước. Không may, Ngài bị một tín đồ Thiên Chúa lãnh đạo nước  Mỹ ra tay giết. Chẳng hay, Tổng thống Donald Trump có bị bọn phản Chúa như Nancy Pelosi, Joe Biden giết hay không?

Tất cả 6 vị Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện gồm Clarence Thomas, John Roberts, Samuel Alito, Neil Gorsuch, Brett Kavanagh, Coney Barrett đều là tín đồ Công giáo, trong đó có ba vị được Tổng thống Donald Trump đưa lên. Thế mà chỉ có hai ông Clarence Thomas và Samuel Alito đồng ý thụ lý đơn khiếu nại của Texas và 17 Tiểu bang Cộng Hòa về sự gian lận bầu cử. Còn 7 vị khác chưa thèm đọc đơn, đã phê Texas “không có tư cách pháp nhân”. Rồi đến đơn khiếu nại của Tổng thống Donald Trump thì Tối cao Pháp viện hứa sẽ cứu xét vào ngày 22 tháng Giêng, sau buổi lễ đăng quang Tổng thống vào ngày 20 tháng Giêng. Tối cao Pháp Viện gồm 9 vị quan tòa có nhiệm vụ phê phán vấn đề Hợp Hiến hay Bất Hợp Hiến mà có hành động khuất tất đáng khinh như thế, là vì Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa và bắt tay Trung Cộng. Ngày xưa cộng sản kêu gọi nhân dân lao động toàn thế giới đoàn kết lại để tiêu diệt bọn Tư Bản. Ngày nay chủ nghĩa toàn cầu hóa (một loại cộng sản trá hình) từ những tinh hoa (élites) giàu có bậc nhất hoàn cầu đang cấu kết nhau để đưa nhân dân toàn thế giới trở thành nô lệ cho bọn chúng. Bọn “Élites” này cũng là một thứ chó đẻ vì chúng học theo cách thức đấu tranh của cộng sản để cướp chính quyền. Chẳng hiểu đơn kiếm Donald Trump có thể diệt được đám quần ma trên nước Mỹ hay không?

Quanh Tổng thống, người ta không thể biết ai là bạn đồng hành, ai là kẻ phản bội. Đến như Mitch McConnel, thủ lãnh Khối Đa Số đảng Cộng Hòa tại Thượng Nghị Viện, mà cũng mở miệng chúc mừng Tổng thống Truyền thông Joe Biden, thì thật là chó má quá cỡ thợ mộc! Tôi hy vọng hơn 74 triệu cử tri người Mỹ bầu phiếu cho Tổng thống Donald Trump, hết lòng yêu thương Tổng thống qua các cuộc biểu dương lực lượng trên khắp nước Mỹ sẽ mạnh mẽ đứng lên chống lại bọn chó đẻ để nền văn minh của nhân loại tồn tại.

Tôi căm thù các Tổng thống Hoa Kỳ đã dùng đất nước Việt Nam làm tiền đồn Chống Cộng, mà không tiêu diệt mầm mống xâm lăng cộng sản, lại bắt nhân dân Việt Nam vừa mới thoát khỏichế độ phong kiến, thực dân phải đảm đương. Cuối cùng, Hoa Kỳ bỏ rơi Miền Nam cho cái chủ nghĩa chó đẻ để toàn dân Việt Nam bị giam hãm trong nhà tù vĩ đại, để cho hàng triệu người phải chết trên biển cả, để cho hàng triệu người lìa bỏ quê hương bị mất phẩm giá. Ngày nay chính quốc Hoa Kỳ bị họa cộng sản là vì Mỹ phạm sai lầm. Chưa bao giờ trong xã hội văn minh Hoa Kỳ mà có nhiều trí thức thượng thặng trở thành chó đẻ khốn nạn đến như thế!

Nghị viện Âu Châu ra Nghị quyết 1481 kết án chủ nghĩa cộng sản về tội diệt chủng, chống nhân loại. Tại Thủ đô Washington, người Mỹ dựng bức tường tưởng niệm 100 triệu nạn nhân cộng sản. Đáng lý ra nước Mỹ phải triệt để đặt chủ nghĩa cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Kẻ nào cổ súy chủ nghĩa cộng sản đều phạm pháp, cần phải đày chúng biệt xứ. Bởi vì, bao lâu còn chủ nghĩa cộng sản chó đẻ trên thế giới, nhân loại còn bị khốn khổ. Bởi vì chủ nghĩa cộng sản là một tổ chức tội ác được huấn luyện bằng cách nhồi sọ tư tưởng độc hại vào nhân dân, bất chấp đạo đức, nhưng luôn luôn nhân danh đạo đức để khống chế người lương thiện. Hiện nay bộ máy Tư Pháp, Lập Pháp, Hành Pháp của Hoa Kỳ đã bị bọn chó đẻ xâm nhập lũng đoạn. Tôi không hiểu Tổng thống Donald Trump dùng cách nào để tiêu diệt bọn chó đẻ mà không dùng những Tướng lãnh yêu nước, chưa bị trở thành chó đẻ, trong Quân Đội để cứu nước.

Cuộc chiến trong những ngày tới hứa hẹn vô cùng khốc liệt. Bọn tỷ phú đầy lòng kiêu ngạo, tự ví chúng ngang hàng với Thiên Chúa, coi con người là vật thí nghiệm các phát minh của họ. Chúng ta không lấy làm lạ khi chứng kiến những nhà tỷ phú như George Soros, Bill Gates, chủ Amazon, chủ Facebook, Twitter và các chủ Đại công ty đồng thời làm chủ các cơ quan truyền thông như CNN, ABC, NBC, CBS, MSNBC và ngay cả FOXNEWS đều gieo rắc tin giả để nhân dân trở thành đàn cừu tuân theo mệnh lệnh của họ.

Dẫu Tổng thống Donald Trump có ba đầu sáu tay cũng không thể nào chiến thắng bọn ma quỷ tình nguyện làm tay sai con quỷ chúa Trung Cộng quyết tâm hãm hại nước Mỹ. Tất cả mọi người đều cảm thấy bất lực, chỉ biết thành kính cầu nguyện Thiên Chúa ra tay. Nếu Tổng thống Donald Trump chiến thắng trận giặc này, con số nhân dân trên thế giới sẽ cúi đầu cảm tạ Thiên Chúa vô cùng đông đảo. Nếu Tổng thống Donald Trump bị thế lực ma quỷ đánh bại, tôi bảo đảm rằng thế giới sẽ bị sức nặng của 1 tỷ 400 người Trung Cộng đè bẹp, trong đó có cả bọn “Élites” giàu có và phát minh kỹ thuật cao (high teck) cũng không khỏi thoát nạn. Và lúc bấy giờ sẽ không còn một tôn giáo hiện diện trên trái đất.

Tôi biết tôi dùng hai chữ “CHÓ ĐẺ” để nói về chủ nghĩa cộng sản sẽ làm cho các nhà trí thức đạo đức Việt Nam cau mày. Nhưng sau nhiều đêm suy nghĩ nát óc tự hỏi tại sao nước Mỹ văn minh đứng đầu thế giới mà lại có những giáo sư Đại học, lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo chính trị  được trọng vọng lại trở nên tồi bại, đốn mạt đến thế này? Tại sao có sự kiện gian lận một cách trắng trợn về bầu cử trong một quốc gia có truyền thống dân chủ lâu đời?

Cuối cùng, tôi phải nghĩ đến luật nhân quả: Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa để giao du, làm ăn buôn bán với Trung Cộng nên mới bị lây nhiễm cái chứng bệnh cộng sản. Cái chứng bệnh đó tôn thờ quỷ, không cho phép ai được quyền yêu nước, được quyền sống làm người tử tế, cưỡng bức mọi người phải tuân hành luật pháp của giới cầm quyền khốn kiếp, khốn nạn. Tôi phải dùng chữ CHÓ ĐẺ mới diễn tả đầy đủ bản chất của chúng. Tôi đồng ý với nhà văn Dương Thu Hương đòi ỉa lên mặt những thằng lãnh đạo cộng sản.

Vậy ai muốn cho nền văn minh, văn hóa nhân loại còn, thì nhân dân toàn thế giới phải quyết tâm ỉa lên mặt bọn CHÓ ĐẺ để không bị chúng cám dỗ hoặc cưỡng bức đi vào con đường tội ác.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Telephone: 714 – 276 – 5600

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com  

Chiến hữu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.” Trung úy Đỗ Lệnh Dũng

Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cấp bực làng nhàng, cỡ như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khóa cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc … vài ngàn! Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi – với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ. Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân – sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung – đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người – toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch – nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông: “Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa  xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc – theo đường mòn Hồ Chí Minh – để đi cải tạo. Gần mười năm sau, năm 1982, trung úy Đỗ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam – và tiếp tục … ở tù!

Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn ) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được nhà văn Lê Thiệp viết lại, bằng một cuốn sách – dầy đến bốn trăm trang – lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Quê Hương đã cho phát hành phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu – như sau:

“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.

Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại song thân thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đọa đầy tại những trại tù …

Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt tại thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái – chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân – người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

Thiếu Tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa – đang tản mát khắp năm Châu – đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị – hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ.

Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức dậy. Gần như đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về … chốn cũ. Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều – theo kiểu “ngày ở / đêm về” – như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai – bao quanh trại cải tạo Tân Rai – ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.

Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn – của ký giả Bùi Bảo Trúc:

“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.

Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay. Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”

Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn. Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

“Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?

“Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống … Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội.

“Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: ‘Thưa anh chị chính tôi đây…’ Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấy tôi mà khóc. Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc, người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc…” (Nguyễn Cảnh Tân (2). “Nỗi Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung.” Việt Luận).

Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi – như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều cuối năm?

Chú thích:

(1) Cuốn Đỗ Lệnh Dũng giá 28 Mỹ Kim, kể cả cước phí, có thể đặt mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

(2) Địa chỉ liên lạc của ông Nguyễn Cảnh Tân: Hội Thiện Nguyện Cứu Trợ Thương Phế Binh Bị Lãng Quên Ở Việt Nam 42 Cardwell St – Canley Vale. NSW, Australia. Điện thoại: (02) 9728 3640. Điện thư: VASFIVV@yahoo.com.au.

Huấn luyện tại trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ, OCS Fort Benning

CHU TẤT TIẾN

Đầu tháng 4 năm 1967, tôi tình nguyện gia nhập quân đội, khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, vào lúc tình hình chiến sự bắt đầu leo thang trên cả hai phương diện, Trận Địa Chiến và Du Kích Chiến. Lúc đó, cuộc chiến đã hình thành rõ rệt giữa hai phe,

1) Phe Thế Giới Tự Do gồm Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc, Nam Hàn, Brazil, và Thái Lan.

2) Phe Cộng Sản, Bắc Việt Nam, Trung Cộng, Liên Sô, Tiệp Khắc, Bắc Hàn, Cuba, và một số quốc gia Cộng Sản Đông Âu. Số quân Mỹ, chưa kể đồng minh, năm đó lên đến gần 500,000 người.

Thời gian đó, tôi được miễn dịch vĩnh viễn, nghĩa là không bao giờ phải đi lính như những người trai thời loạn khác với lý do gia cảnh, Gia đình có 3 anh em trai, thì 2 anh đã nhập ngũ. Anh lớn nhất thụ huấn khóa 4 Thủ Đức (phụ) tại Đà Lạt, anh thứ hai phục vụ ngành An Ninh Quân đội (sau này được gửi đi thụ huấn tại Úc, và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hoàng Gia Úc).

Tuy nhiên, vì luôn theo dõi tin tức chiến tranh, tôi cảm thấy căng thẳng, thừa thãi, không biết làm gì để tiếp tay với mọi người chống lại bọn Việt Cộng dã man, cứ pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư vô tội, hoặc đắp mô, đặt mìn giết hại dân lành trên các con đường liên tỉnh.

Ngay tại thủ đô Saigon cũng không có an ninh vì bọn đặc công Việt Cộng cứ gài chất nổ, nay phá khách sạn này, mai nổ chỗ khác, hoặc ném lựu đạn vào đám đông, gây ra bao thảm cảnh, thây thiếu nữ, thanh niên, trẻ em nằm rải rác khắp nơi. Nhìn thấy những cảnh máu me tràn lan, tay chân vương vãi trên mặt đường, tôi nghẹn ngào muốn khóc, và rồi, một buổi sáng sớm, không nói với bất cứ ai trong gia đình, chỉ lẳng lặng cầm cái túi sách nhỏ đựng mấy thứ cần thiết, tôi đi xe buýt đến Quân Vụ Thị Trấn, vào hỏi chi tiết nhập ngũ, rồi ghi tên và leo lên xe GMC trực chỉ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

Tôi được thả xuống đúng trại nhập ngũ nơi anh lớn tôi là Chỉ Huy Phó trại, nhưng anh không hề hay biết, vì tôi không gọi. Nếu thấy bóng anh thấp thoáng đâu đó, là tôi trốn. Mãi đến khi tôi qua Quân Trường Thủ Đức 3 tuần rồi, tôi mới viết thư cho anh và Mẹ tôi hay. Mẹ tôi theo anh tôi lên trường, gặp tôi, bà khóc nghẹn ngào. Còn anh tôi mắng tôi ầm ĩ, “Sao mày ngu thế? Có khùng điên không? Thời buổi này, chiến tranh chết chóc như rạ!”

Sau đó, anh buộc tôi phải theo anh lên gặp ông Liên Đoàn Trưởng Sinh Viên Sĩ Quan, là bạn anh, để mong chút ân huệ nào đó cho tương lai của tôi, nhưng tôi cự lại, “Em tình nguyện đi lính để đánh giặc, chứ không phải để chạy chọt vào chỗ tốt. Nếu muốn nhờ cậy, thì em cứ ở nhà, khỏe re, cần gì đi lính!”

Và thế là tôi đã trở thành một người lính Việt Nam Cộng Hòa, hạnh phúc vì được phục vụ cho đất nước. Cũng vì tinh thần xung phong đó mà khi được bổ vào Đại Đội 9 của Trung Úy Sự, người Sĩ Quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt, lúc nào cũng phong độ uy nghi, tôi tình nguyện giơ tay làm Thư Ký Đại Đội luôn.

Qua 6 tháng huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Thủ Đức, nghe thông báo là Trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ muốn tuyển người đi thụ huấn bên Mỹ, tôi lại giơ tay tình nguyện nữa. Ngày đầu tiên, cùng với gần 400 người lên giảng đường thi Anh Ngữ, tôi “pass” cùng với vài chục bạn nữa, để lên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, thi thêm 2 lần. Qua khỏi 3 cửa ải Anh Ngữ này, tôi cùng với khoảng 30 bạn nhập vào một Trung đội Đặc Biệt (Special Platoon) cùng với khoảng 10 Thông Dịch Viên từ các đơn vị gửi về thành 40 người để được một Cố Vấn Mỹ, Đại Úy Isler, rèn luyện về thể lực trong 1 tháng, cũng ngay tại trường Thủ Đức, 24 giờ một ngày, nghĩa là bất cứ khi nào cũng có thể bị hành xác.

Từ sáng sớm đến nửa đêm, đôi khi đang ngủ cũng bị dựng cổ dậy, hít đất, trồng chuối ngược, móc chân vào thanh giường trên, tay chống xuống đất, rồi dí ngón tay trỏ vào nón sắt, chạy vòng vòng quanh nón đến khi nằm gục xuống thì nghỉ, để lại đứng lên ngồi xuống 20 lần, nghe quát tháo và chửi bới nặng lời. Chạy sáng sớm, chạy buổi tối, chạy đến lớp học, chạy đến nhà cơm, chạy từ nhà cơm về, chạy đi “toilet.”

Nếu ngưng chạy thì hít đất, nhẹ nhất là 20 cái, trung bình 50 cái…Nghĩa là chạy “đoạn đường chiến binh” liên tục trong 1 tháng. Nhiều sinh viên chịu không nổi, rớt đài từ từ, cuối cùng còn lại 10 Sinh Viên Sĩ Quan thuần túy cộng với 8 Trung Sĩ Thông dịch Viên của các Sĩ quan Cao cấp Hoa Kỳ là 18 người lên đường sang Mỹ vào đầu tháng 10 năm 1967.

1. Chuẩn bị

Nơi học đầu tiên là Viện Sinh Ngữ Quốc Phòng (Defense Language Institute) tại Căn Cứ Không Quân, Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas. Ở đây, ngày 2 buổi, chỉ học các danh từ chuyên môn quân sự cùng với các quân nhân đồng minh khác, Iran, Iraq, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan.

Chiều, tối, Thứ Bẩy, Chủ Nhật đi chơi. Đời sống thanh thản như một sinh viên thuần túy. Nhưng tại đây, xẩy ra một vụ đánh lộn ly kỳ. Một buổi sáng đi xe buýt ra phố chơi cùng với nhóm Iran, Iraq… Một tay Đại Úy Iran có cái mồm oang oang, nói vang cả xe, gây khó chịu cho một vị Thiếu Tá Nhẩy Dù Việt Nam. Ông nhỏ nhẹ nói,

“Làm ơn nói nhỏ chút!”

Tên này khinh thường người Việt, cứ tiếp tục nói liên tục. Vị Thiếu Tá nhắc đến lần thứ 3 mà hắn cứ tỏ ra khinh khỉnh làm ông nổi giận, chửi liền,

“Fuck you, Iran! Mày coi thường dân Việt tao hả?”

Rồi xông đến giáng cho hắn 2 quả đấm, tên này gục xuống, máu miệng phun ra. Xe buýt dừng. Cảnh sát đến. Vị Thiếu Tá bị cảnh sát điệu đi đến chiều thì được thả về, nhưng rồi ông bị gọi lên gặp Sĩ Quan Liên Lạc và nhận lệnh phải trở về Việt Nam gấp. Nghe tin này, dân Việt giận quá. Đêm hôm ấy, đúng 12 giờ, nhóm Việt chúng tôi im lặng tiến đến khu phòng ngủ của bọn Iraq đang ngủ say, thình lình đập cửa xông vào, đấm đá bọn Iraq mất dậy kia một trận tưng bừng rồi lặng lẽ rút lui, để chúng không kịp bật đèn nhìn thủ phạm. Hôm sau cả Viện nháo nhào vì tin đánh lộn, nhưng vì không ai khai, không ai làm chứng, nên mọi chuyện ồn ào một hồi rồi cũng qua.

Ba tháng học ở đây như lên thiên đường, riêng tôi, lại có 2 mối tình, Một chuyện tình với cô Giáo sư người Mỹ lai Tây Ban Nha, đẹp rụng rời; và một anh chàng Mễ là chuyên viên phòng Lab, bệnh Gay, mê tôi như điếu đổ, chưa kể hai chị em 17,18 con một bà bạn, từng chơi đùa, ôm nhau lăn lộn ngoài bãi biển (chuyện này kể sau.). Ngày tôi rời San Antonio, Cô giáo khóc nức nở trước mặt các giáo sư khác, rồi ký tên trên mảnh bằng tốt nghiệp của tôi là “You are the most wonderful man I ever meet in my life. Love you forever.” Còn anh chàng Mễ, khi biết tôi ra đi không trở lại, thì mấy ngày trước, lăn ra ốm gần chết. Hắn gửi lời nhắn cho tôi đến nhà hắn, nhưng tôi lờ đi. Thôi, bye!

Tháng 3, năm 1968, lên máy bay, đến Fort Benning, Georgia, để bắt đầu học Quân Sự tại Quân Trường Infantry Officer Candidate School, gọi tắt là O.C.S. (Trường Sinh Viên Sĩ Quan Lục Quân). Trong thời điểm có cuộc chiến Mậu Thân 1968, nên chương trình huấn luyện cực kỳ căng thẳng. Sinh viên Sĩ Quan phải trải qua 6 tháng kinh hoàng để có thể có sức khỏe mà chiến đấu trong một xứ nóng, đầy dẫy bom mìn, cạm bẫy, thương vong.

2. Thủ tục

Ngay ngày đầu tiên, lúc còn xách 2 vali nặng chĩu, ông Thượng Sĩ nhất cũa Đại Đội Sinh Viên đã gào thét bắt chúng tôi phải xách vali chạy lên, chạy xuống 3 tầng lầu. Vừa xuống đến đất lại phải chạy lên lại, mấy lần như thế…Vali rồi tung tóe, người ngã nghiêng, hơi thở đứt đoạn.

Sau khi thấy chúng tôi sắp xỉu, thì ông Thượng Sĩ gào lên, “Các anh vào đây, muốn sống sót thì phải quên mình là “con người” mà chỉ là những con vật, đui, què, là ổ cứt thối, là đồ đầu lừa đít bò, cứt chó (you’re animal, you’re shit, you dumb, deaf, donkey head, cow ass, dog shit)…

Nếu ai mà nghĩ mình là người thì chỉ có cách tự tử mà chết thôi!” Ông dậy chúng tôi làm quen với cách mở miệng nói. Bất cứ lúc nào muốn nói với cấp trên (ông Thượng Sĩ đó, Huynh Trưởng, hay Sĩ Quan Cán Bộ) thì phải gào lên, “Sir, Candidate Tien requests permission to speak!” (Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho được nói!), mặc dù chỉ là để trả lời câu hỏi của ổng. Đi bất cứ đâu, qua phòng ăn, phòng học, đi toilet, vừa nhìn thấy cấp trên, là phải vội vàng đập lưng cái “bốp” vào tường, mắt nhìn thẳng ra phía trước, và gào thật to, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho đi qua!”

Nếu ông cho qua, thì đi thẳng người qua, nếu ông không cho qua, thì phải đứng im, không nhúc nhích. Nếu ông bảo bò giữa hai chân ông, là phải bò như chó cún. Vào phòng ăn, sau khi lấy đồ trên khay, đứng thẳng người trước bàn ăn, tay vẫn cầm khay, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ngồi.”

Nếu có cấp trên, thì ổng sẽ nói, “Ngồi đi!” thì mới được ngồi. Ngồi xuống, đặt khay cho thẳng hàng với cạnh bàn, sắp dao, nĩa chéo góc 45 độ với cạnh khay, để hai tay xuống đùi, ngồi thẳng người, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ăn.”

Có một cấp trên nào đó, ra lệnh, “ăn đi”, thì mới được ăn, Tay trái để trên bàn, cùi chỏ thẳng góc với mặt bàn, tay phải cầm nĩa, chọc vào thức ăn, đưa thẳng lên, ngang miệng, há miệng, đút thẳng đồ ăn vào, trong khi đó lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, nhai không được mở mồm, không được liếc qua bên cạnh (eye ball!). Hễ nhai mà để người khác thấy răng là bị chửi, “Ê! Thằng chó chết kia! Mày ăn như heo vậy hả! Làm cho tao 50 cái coi!”

Nếu liếc qua bên cạnh, là lập tức phải bỏ ăn, hít đất 50 cái. Một anh SVSQ Mỹ kia vô phúc, đang ăn lại liếc, bị ông sĩ quan phạt chạy một vòng vũ trường, dài đúng 1 mile, chạy nửa chừng giữa nắng, lăn ra chết luôn! (Một anh khác bị phạt hít đất giữa trời nắng hơn 100 độ cũng chết ngắc! Tại một đại đội khác, một sinh viên Mỹ tự tử bằng súng M.14. vì nhục quá!)

Điều bực nhất là có một hôm, vợ của một sĩ quan đến ăn, thì ông kia nổi hứng, chỉ tay vào tôi, hất hàm bảo, “Thằng con lừa kia! Mày leo lên bàn, làm xiếc khỉ cho vợ tao coi. Vợ tao không cười là mày chết ngắc!” thế là phải bỏ ăn, leo lên bàn, nhẩy múa, làm con khỉ nhăn răng, cho vợ hắn coi, mong cho bà ấy cười, mặc dù trong bụng chửi thề, “Bitch! God damn you!”

Thật ra, vì cần sức khỏe phải ăn, chứ đôi khi mệt lả, miệng đắng nuốt không vào, vì trước khi đến cửa phòng ăn (Mess Hall), là bị cây hít “pull-up bar” chặn đường. Hai tay huynh trưởng đứng hai bên cột sắt, bắt nhẩy lên, bám lấy cây ngang, hít lên, hạ xuống 20 lần rồi mới cho vào phòng ăn. Khi nào rã rời, kéo lên không nổi thì hít 50 cái thay thế…

Trở lại ngày đầu tiên nhận phòng ngủ, cứ 2 người một phòng, 2 giường sắt, 2 tủ quần áo gỗ có 4 ngăn mà 3 ngăn dưới rộng ngang để quần áo gấp, 2 ngăn nhỏ trên cùng để trưng mu-xoa, insignia (huy hiệu…) 2 cái hòm gỗ đựng đồ, 2 cái bàn làm việc giao nhau và 2 tủ sắt đứng treo quần áo tập luyện vuông vức, mỗi chiều khoảng 4 feet, cao 6 feet. Tất cả kích thước trưng đồ đều được tính sẵn, không sai 1 ly, thí dụ, quần và áo trận thẳng nếp được gấp vuông 30” là phải đúng 30”, cách mép trong ngoài 5” là đúng 5”, chỉ cần lệch ½” là 50 hít đất. Ngăn kéo dưới kéo ra ngoài 20”, ngăn trên 15”, ngăn trên nữa 10”, ngăn trên cùng 5.” Sĩ quan Cán Bộ hay Huynh Trưởng cầm thước đi đo, nếu lệch chút xíu là 50 hít đất. Chăn phủ giường phải thẳng băng, một vết nhăn là 50 hít đất… Thật sự, hít đất tôi không ngán, vì có thể hít 70, 80 cái như chơi, nhưng tôi ớn nhất là cái bàn, trên đó để 1 miếng bìa 60” x 60” bằng giấy thật, vì một tay huynh trưởng đến chỉ vào tấm bìa giấy đó, ra lệnh, “Ê! Mày đánh bóng cái tấm bìa này sao cho giống như cái gương để tao soi mặt!”

Mới nghe lệnh, tôi tưởng hắn giỡn, và nghĩ thầm, “Mẹ kiếp! Chỉ hù! Làm thế quái nào mà cho tấm bìa trở thành cái gương được?”

Nhưng vì là lệnh, nên tôi cũng kỳ cọ, dùng Wax (xira) đánh, đánh mãi vẫn cứ thấy nó bì bì ra.. Khoảng tiếng đồng hồ sau, tay kia trở lại, thấy tấm bìa vẫn lì lợm, phạt tôi nhẩy xổm 20 cái, hít đất đúng thế 20 cái. (Hít đúng thế nghĩa là người thẳng băng, tay huynh trưởng kia cúi xuống dùng tay móc lấy cái thắt lưng của tôi kéo lên, ấn xuống theo từng nhịp đếm!) Làm không đẹp là bỏ, đếm lại… Mỗi khi nhúng người xuống thì gào to, “One, Sir!” rồi “2, Sir”, 3, Sir..” Gào không to, thì bỏ, làm lại từ đầu.

Vì thế, khi nói 20 cái là sẽ thành 50, 60 cái… Mỗi ngày, tên huynh trưởng ác ôn kia đều tới kiểm tra miếng bìa. Đến chừng 4,5 ngày sau, bìa vẫn hoàn bìa, tôi bị hắn lôi tôi ra ngoài vườn, bắt trồng chuối ngược, chân dựng lên cửa sổ, tay chống xuống.. đá răm! Hễ rớt chân xuống, là cái đầu gối dập vào đá, phun máu! Đau quá, tôi phải năn nỉ tên cùng phòng chỉ cho tôi cách đánh bóng rồi tôi phải “lén” bỏ ngủ mấy đêm liền để đánh xira tấm bìa cho đến 1 tuần lễ sau, thì quả thật, miếng bìa đã thành tấm gương sáng choang, cho tay huynh trưởng kia soi thấy mặt mũi mình, hết phạt! (nói là “lén” bỏ ngủ, vì đúng 10 giờ đêm là có tiếng hô, “Sleep!” thì tất cả đều phải nằm ngay như tượng, nhắm mắt. Chờ cho tay gác đi qua, thì nhổm dậy, bật đèn pin, rồi chà bóng mọi thứ, từ cái bàn đến sàn phòng.)

Nguyên tắc đánh Wax phải theo đúng, không sai một ly, một cái nắp hộp Wax đựng nước thật sạch, một miếng vài trắng tinh. Cuộn vải vào 2 ngón tay trỏ và giữa, nhúng vào nước, rồi nhúng vào Wax mà chà xoay một vòng tròn bằng đầu ngón tay cho đến khi nào cái vòng tròng bằng ngón tay ấy sáng lên, thì lan ra dần đần cũng theo kiểu vòng tròn. Nếu chà kiểu xẹt qua, xẹt lại thì đến Tết mọi cũng không sáng, mà không sáng thì cứ bị phạt liên tu bất tận. Việc đánh bóng sàn phòng cũng giống như thế. Vì lệnh đưa ra là sàn nhà phải bóng để cán bộ hay huynh trưởng vừa vào đến cửa phòng là cúi xuống nhìn sàn nhà, nếu thấy mặt của họ in trên sàn thì OK, và nếu chưa thấy thì chỉ có .. tắt thở! Để cho sàn nhà được bóng, thì hai thằng thay nhau chà Wax từ 8 giờ tối đến 10 giờ đêm, rồi leo lên giường, giả bộ ngủ, chờ kiểm soát đi qua, là chồm dậy, soi đèn pin đánh đến nửa đêm về sáng, cả tuần như vậy, thì sàn nhà sẽ bóng như gương.

Đau khổ nhất là sau khi sàn nhà sáng rồi, thì chính mình không dám bước lên sàn, mà mỗi khi đi học hay tập về, là phải bám tay vào thành trên của cửa chính để đu vào cái tủ gỗ, nhẹ nhàng như rắn, rồi từ từ đặt chân vào thành sắt của giường, từ từ đặt mình xuống bàn, hoặc đặt mình lên giường, vậy mà chiều hôm sau, đi về, thấy các dấu chân của cán bộ, huynh trưởng ác ôn, dùng mũi giầy chà qua chà lại làm cái sàn lại dơ, tim như nghẹt lại, nước mắt chẩy ra chan hòa! Lại phải thức khuya làm vài ngày nữa. Trong khi ấy thì bị phạt… Hoặc vác súng M.14 chạy 1 vòng 1 dặm, hoặc đi thao diễn cơ bản 10 vòng quanh sân, hoặc trồng chuối ngược trên sân đá răm, hễ rớt chân xuống là cái đầu gối đập vào mỏm đá, thì chẩy máu be bét…Nhẹ nhất là hít đất từ 50 cái lên đến 100 cái…

Nói chuyện chà bóng sàn nhà, bàn giấy mà không nói đến đánh bóng giầy và búp nịt thì thiếu sót lớn. Giầy bốt đờ sô của Mỹ là loại da bò dầy cui, lồm xồm, vậy mà phải đánh bóng thế nào cho đến khi cấp trên đến đứng trước mặt mình, cúi nhìn xuống, thấy cặp mắt của hắn nhìn lên! Nếu nhìn thấy mắt mà không rõ nét, thì bị tay kia lấy đế giầy của hắn đè lên chân mình mà day day…rồi ra lệnh đánh lại! Búp nịt cũng thế! Phải sáng choang hơn lư đồng ngày Tết, phải phản chiếu cái búp nịt của cấp trên như hai cái gương đối nhau. Áo trận có cái nẹp gài nút, phải thẳng tuốt từ trên xuống dưới, chạy đúng qua đường thẳng của cái búp nịt, xuống cửa quần… là một đường thẳng băng. Lỡ quay qua quay lại làm lệch cái đường áo với đường cửa quần là.. toi mất một buổi tối không được nghỉ ngơi mà chịu phạt.

Tôi nhớ một buổi sáng, tên SVSQ Đại Đội Trưởng (cũng là do huynh trưởng chỉ định), đứng giữa sân, đọc nhật lệnh. Bốn trung đội chúng tôi đứng thành hình vuông. Tay SVSQ/ĐĐT kia đang cầm hồ sơ đọc cái gì đó, thì bị một tên huynh trưởng đến đứng trước mặt, tò mò nhìn xuống mũi giầy của tên đang đọc, không nhìn thấy mắt hắn, liền ra lệnh cho tên SVSQ/ĐĐT kia cúi xuống tháo giầy ra để bên cạnh, rồi bắt cởi áo, bỏ xuống, đến cởi quần ngoài, rồi áo thung, rồi quần xịp….đứng trần truồng giữa sân!

Chưa hết, tên huynh trưởng bắt tên truồng này cầm bản nhật lệnh lên tiếp tục đọc. Bọn tôi nghiến răng lại, cắn môi đến bật cả máu ra, không dám cười, không dám liếc vì nếu nhúc nhích một chút mà bị bắt thì cũng lại phải cởi quần áo ra, đứng phơi giữa trời…thay thế cho tên kia. Hình ảnh tếu lâm này, tôi nhớ mãi không bao giờ quên.

………………………………………….

3. Lên huynh trưởng và hành xác

Sau 12 tuần huấn nhục, tôi đã được lên huynh trưởng, hãnh diện đeo lên cổ áo và cầu vai dấu hiệu (insignia) có 3 chữ tắt “O.C.S.” bằng đồng vàng trên nền nhung xanh da trời, khác với dấu hiệu của đàn em là nền nhung đen. Từ giai đoạn này, chúng tôi không còn bị hành hạ nữa, và được tôn trọng như một Sĩ Quan. Ngày đánh dấu lên huynh trưởng rất quan trọng bằng một cuộc Party lớn.

Một phong tục lạ với chúng tôi là để chuẩn bị cho cuộc party này, các SVSQ được mời các em độc thân ở ngoài phố vào chơi và “blind dating” (cặp bồ không biết mặt!) Một SVSQ đại diện đi hỏi hết 240 SVSQ về hình dáng, cơ thể của từng người, tóc đen hay đỏ, và hỏi xem muốn cặp với thiếu nữ loại nào, cao bao nhiêu, tóc vàng hay tóc đen….rồi gửi danh sách ra ngoài thành phố, để tuyển người tình nguyện cặp bồ trong một đêm thôi, vì sau Party chấm dứt, các SVSQ có quyền dẫn bồ ra khách sạn hoặc đi đâu đó tùy ý, sáng mai trở lại trường, phờ phạc!

Khi được ngỏ ý, chúng tôi từ chối liền vì nghĩ rằng “chắc toàn là gái gọi, lây bệnh chết ngắc!” Biết được nhóm An-nam-mít này từ chối, Ông Đại Úy Đại Đội Trưởng mời chúng tôi lên và hỏi ý xem có thích “cặp bồ” với người Mỹ không? Nếu không, thì ông sẽ gửi thư mời các nữ quân nhân, trợ tá.. Việt Nam đang thụ huấn tại các quân trường khác đến chơi…Trong khi anh em còn đang phân vân, tôi nói lời cám ơn với ông, và từ chối vì phong tục Việt Nam chúng tôi không cho phép làm như vậy.. (Bây giờ, nhớ lại thấy.. tiếc hùi hụi! Được đi chơi đêm với một thiếu nữ cùng quê hương là một giấc mơ tuyệt vời, vậy mà từ chối! Trời ạ!)

Sự thật chứng tỏ chúng tôi đúng là con “cù lần” mà là “cù lần lửa”! Buổi tối đó, các xe nhà binh rần rần chở các em đẹp ngây ngất bước xuống, mỗi người mang một bảng tên của SVSQ chọn mình lên áo. Các em 18, đôi mươi, già nhất chưa tới 30, thân thể no tròn, mắt long lanh, môi tươi hơn hoa hồng, và đều là sinh viên, công chức, tư chức….nhưng là dân chịu chơi, mê sĩ quan.

Các cô nháo nhác tìm tên của người chọn mình, rồi tiến lại ôm nhau như đã từng quen từ kiếp trước. Trong khi các SVSQ Mỹ tán hươu tán vượn, nhẩy đầm tưng bừng, thì nhóm Việt chúng tôi đứng nhìn, thèm chẩy nước miếng. nhất là sau khi party tàn, “chúng nó” kéo nhau ra khách sạn đã đặt phòng sẵn, 18 thằng chúng tôi nằm dài trên giường, nhắm mắt, tưởng tượng, buồn và giận mình ngu cho đến hết đêm…

Sau đêm đó, cứ cuối tuần, chúng tôi oai phong đi dạo phố. Theo luật, hễ đàn em mà gặp đàn anh ngoài phố thì không phải xin phép để đi qua như trong trường, nhưng phải nép mình sang một bên đường, và giơ tay chào. Nếu đàn em đi với gia đình, hay với đào, thì phải bảo người đi theo xếp hàng một sau lưng tên đàn em, khi đi ngang đàn anh, đàn em phải giơ tay chào và nói, “Good Morning, Sir!” Hôm đó, tôi đang đi lơn tơn, thấy một tên đàn em Mỹ trắng bóc, to kềnh, đi với bố mẹ và em gái. Hắn nhìn thấy tôi rồi tảng lờ quay đi. Tôi hùng hổ tiến lại, quát to,

“Ê, Sinh Viên kia! Đứng lại. Cấm cử động!” (Hey! Candidate! Stop right there! Don’t move!.” Tên kia lúng búng quay lại. Tôi tiến sát hắn, mặt tôi gần mặt hắn đến chỉ còn 1 inch nữa là đầu mũi tôi chạm vào đầu mũi nhọn hoắt của hắn, và gầm lên,

“Mày coi thường tao phải không? Mày thấy tao là dân Á Châu, mày kỳ thị hả? Sao mày không chào tao?”

Tên kia sợ quá, lắp bắp, “Không! thưa Ngài! Không! thưa Ngài! Tôi.. tôi…” (No, Sir! Sir! I.. I… don’t.. I.. .I…)

“Bây giờ mày có muốn bơm 50 cái hít đất trước mặt bố mẹ mày không? Thằng ngu kia?”

Tên đàn em vội trả lời, “Thưa Ngài, chào, chào!” rồi quay lại với gia đình, ra hiệu cho 3 người kia đang trố mắt ra nhìn thằng con bị hành, đứng thành hàng một sau lưng hắn, rồi nghiêm phắt lại, giơ tay chào tôi, và nói lớn,

“Good morning, Sir!”

Tôi gật gù, nói nhỏ giọng,

“Hôm này mày may mắn đó, tao tha tào, không bắt mày làm 50 cái bơm trước mặt bố mẹ mày đó! Mày có cám ơn tao không?”

Hắn vội vã, nói to, “Dạ, thưa Ngài, xin cám ơn Ngài. Chúc ngài mọi chuyện tốt đẹp!” (Yes, Sir! Thank you, Sir. Wish you the best!) rồi đi ngay, người thẳng băng, không dám quay lại. Tôi khoái chí, cười tủm một mình.

Với chính sách “đàn anh đì đàn em” thả giàn, làm cho những hình phạt hành hạ nhục nhã mất nhân phẩm như vậy mỗi ngày mỗi tăng, vì lớp này bị đì 9 phần, thì khi làm Huynh trưởng, lại tìm cách trả thù thêm thành 10 phần. Như cá nhân tôi, sau 12 tuần làm đàn em, thì đến tuần thứ 13 làm đàn anh, và kiếm cách hành thằng mới tới.

Hôm đó, ngày thứ Hai, theo tục lệ, mà tất cả những SVSQ vào trường đều phải gọi là “Blue Monday”, nghĩa là “Ngày Thứ Hai Buồn”, chúng tôi là đại đội đàn anh, hẹn nhau đúng 3 giờ sáng, lặng lẽ thức dậy, mặc quân phục chỉnh tề, lặng lẽ bước sang đại đội đàn em đang say ngủ, cứ một huynh trưởng đứng trước một phòng. Đúng 4 giờ sáng, đột nhiên chúng tôi lấy cả bàn tay đập cửa rầm rầm, hò hét vang trời,

“Dậy! Dậy! Đồ đầu lừa! Dậy mau!”

Đàn em đang ngủ say, giật mình dậy để thấy Thiên lôi, Hà bá đứng trợn mắt nhìn, thì hoảng hốt vùng lên. Tôi quát lớn,

“Thằng khốn này! Mày cởi quần áo ra mau! Tao không muốn thấy mày mặc quần áo!”

Tên kia lập cập tụt quần đùi, cởi may ô đứng tồng ngồng nhìn tôi, sợ hãi. Tôi quát,

‘Mày lấy kem đánh răng ra đây! Bóp hết hộp kem này lên người mày! Bôi vào.. chỗ kín kia thật nhiều! Mau! Mau!”

Đàn em cuống quít làm theo. Thấy người hắn đầy bọt trắng xóa, tôi đuổi ra ngoài,

“Mày dơ dáy quá! Đi tắm!”

Rồi tôi bắt hắn bò giữa hai chân tôi đến phòng tắm. Tới nơi, tôi mở vòi nước lạnh xịt lên người hắn. Tên kia rú lên,

‘Thưa Ngài, lạnh quá! Lạnh quá!”

Tôi gằn giọng,

“Lạnh hả! để tao đổi nước nóng!”

Tôi bắt hắn nằm chống tay xuống sàn tồng ngồng như con heo bị cạo lông, rồi xả ngay vòi nước nóng vào lưng. Tên kia gào lên,

“Ngài ơi! Nóng quá! Cháy! Cháy !”

Tôi lại tắt nước nóng, mở nước lạnh, làm mấy lần thì tên kia vật ra, thở hổn hển. Tôi ra lệnh cho hắn về phòng. Đứng trước giường, tôi quát,

“Mày leo lên đây nằm, mà tao không muốn nhìn thấy mặt mày trên giường, mày làm sao thì làm!”

Tên kia suy nghĩ, rồi vội vàng lật tấm nệm lên, chui vào nằm trên.. mớ lò xo, rồi đậy nệm lên, che người đi. Đứng từ xa, tôi hô lệnh, “Đằng sau, quay!” Tên đàn em lập cập xoay người dưới tấm nệm, bị lò xo nghiến thịt, đau quá, khóc òa lên. Thấy mình quá trớn, tôi cho hắn đứng dậy, ra ngoài hành lang, rồi bắt thêm 5 tên nữa, là 6 tên, ra lệnh cho cả 6 đàn em trần truồng hết, lôi cái hòm gỗ ra, xếp hai bên hành lang, mỗi bên 3 cái, cho 2 tên đàn em leo lên đứng, làm bộ đám cưới, bắt 2 cô dâu chú rể mặc đồ Adam, Eva kia cặp tay nhau đi đi lại lại, còn 4 mạng kia thì hát bài Wedding, “You by my side….” Tôi hành đàn em cho đến gần sáng thì mới tha Tào.

Thật ra những trò chơi ác này vô hại, trong khi bạn tôi, hồi mới vào, bị ngày “Blue Monday” này hành hạ đến bệnh nặng. Mấy tay huynh trưởng bắt cả nhóm SVSQ đàn em, trong đó có bạn tôi, trang bị đầy đủ, ba lô, mũ sắt, chạy ra sông cạn gần đó, bắt nhẩy xuống, lúc mặt sông lạnh gần đóng băng vào giờ 30 sáng, ngoài trời lạnh khoảng 40 độ. Cả toán nhẩy ùm xuống sông, lóp ngóp như rái cá một lúc mới được cho lên, tên nào tên nấy mặt cắt không còn hột máu, trở về trại là bệnh cả đám.

Ở quân trường này mà khai bệnh lại còn khốn hơn. Cá nhân tôi, có một lần cảm lạnh, khai ốm để ở nhà, rồi cạch luôn đến khi ra trường, không dám ốm lại. Buổi sáng ấy, chờ đại đội chạy đi học rồi, thì ông Thượng Sĩ đưa cho tôi một cuốn sổ bệnh, bảo tôi chạy lên bệnh xá ở trên đỉnh đồi, cách đấy hơn 1 dặm! “Chạy! Không được đi, nghe chưa!” và tôi chạy lên đồi cao, tới nơi thì gần tắt thở, ngồi chờ cả nửa tiếng mới gặp Bác Sĩ, nghe tim chớp nháng, rồi đuổi tôi về với mấy viên thuốc cảm. Chạy trở về, tim đập như trống làng, trình lại cuốn sổ bệnh, ông Thượng Sĩ hất hàm bảo,

“Mày xuống dưới hầm, thấy một cái thùng rác to, mày khiêng lên đây cho tao!”

Tôi đi xuống hầm, gần 20 bậc thang, nhìn thấy một cái thùng rác xanh đầy ắp, to cao y như thùng rác hiện tại của mỗi gia đình Mỹ, đột nhiên lạnh cả người. Nhưng biết làm sao, phải ôm lấy nó rồi vần dần dần từng bậc lên, hết 20 bậc thì lăn ra nằm thẳng cẳng. Một lúc mới tỉnh dậy, ráng ngồi lên, vần cái thùng rác đó ra chỗ chờ xe đổ rác (thùng rác không có bánh xe).

Không thấy xe rác đâu, tôi để thùng rác đó, lết tới văn phòng ông Thượng sĩ, ông ta nói, “Không có xe rác à! Không được để đó, sĩ quan đi tuần thấy, phạt. Mày phải vần nó trở lại dưới hầm!” Tôi chết lặng người, chân nhũn ra, nhưng vì không có lựa chọn, đành lê lết lại cái thùng rác khốn nạn kia, vừa ôm nó lăn đi, vừa chửi thề, “F. you! F. you!” vừa khóc lặng lẽ.

Lăn cái thùng rác vào chỗ cũ xong, thì chính mình cũng lăn quay. Tôi nằm thở hồng hộc một khoảng thời gian, thì thấy nhẹ người, mồ hôi toát ra đầy mình, ướt hết cả quần trong, quần ngoài. Đứng dậy về phòng, thay quần áo xong, chẳng cần uống thuốc mà hết cảm! Lúc đó mới biết đó là phương pháp giải cảm tuyệt vời của quân trường. Nhưng chỉ tốt với ai không bị bệnh tim mà thôi. Tên nào yếu tim mà theo học ở đây, thì chỉ có chết!

4. Tập thể lực

Chúng tôi nhỏ con hơn mấy tên Mỹ, có một bạn tôi, cao chỉ đến nách một tên Mỹ thôi, nhưng cũng ráng theo cho kịp, kẻo bị làm nhục. Ngoài việc hít đất từ 50 cái trở lên đên100 cái, tập đu và hít trên xà ngang 20 cái trở lên, việc tập thể lực trước hết là chạy, chạy lên thang gác, chạy xuống lầu, chạy đi cầu, chạy đi học, chạy đi ăn…không bao giờ đi bộ, chạy riết rồi hai cái đầu gối muốn long ra. Sáng, trời Fort Benning lạnh cắt ruột, mà phải ở trần, vác những cây gỗ dầu dài khoảng 5, 6 mét, đường kính cả 30 cm, vác lên vai, để xuống đất cả chục lần.

Leo thang dây theo tiếng còi, nhẩy qua các thanh gỗ ngang cao hơn một mét (lần đầu tôi nhẩy không qua,  cái chỗ “ấy” bị đập vào thanh gỗ, đau thấu trời xanh, té xuống, nằm thẳng cẳng. Tên nào lùn, nhẩy không qua thì phải chui theo tiếng chửi!), tập leo tường, đu dây tử thần từ đỉnh núi nọ qua đỉnh núi kia, dây kinh dị, tập leo núi, tuột núi, chạy qua đống vỏ xe (mỗi chân thọc vào một cái lỗ vỏ xe cồng kềnh). Tập cận chiến, tập đánh nhau bằng gậy.

Lần đánh nhau bằng gậy này cho tôi nhiều kỷ niệm. Không hiểu sao, một tên người Puerto Rico, (tên chạy nhanh kỷ lục, chỉ có 6 phút một dặm, trong khi tôi cần 10 phút, các bạn Mỹ khác từ 9 đến 12 phút.) lại gây với tôi. Hắn nói, “Tao chán cái dân tộc Việt Nam của mày. Tao không muốn chết ở Việt Nam!” thế là tôi nổi điên, lôi nó vào chỗ tập, thách nó đấu gậy với tôi, vì nghĩ rằng thằng này dám khinh dân tộc mình. Ai dè, hắn nhanh như sóc. Tôi vừa mới thủ gậy, chưa kịp vung lên, là hắn đã quất tôi một cái nháng lửa vào đầu. Tôi xiểng liểng, nhưng cố phóng tới chọc gậy vào bụng hắn. Lần này hắn dọng tôi một cú vào mồm, làm dập miệng và lợi, máu miệng bắt đầu phun ra. Tôi hung lên, quất túi bụi, trái phải, trên dưới như thằng điên, mà quên rằng nếu hắn đã là vô địch chạy nhanh, thì cái gì cũng nhanh. Hắn chỉ trúng đòn vài chỗ không quan trọng, còn tôi thì máu me tung tóe, máu mắt, máu tai, máu mồm chẩy đầy ngực. Thấy tôi chẩy máu quá nhiều, tên này đâm sợ, nó ngưng gậy và nói, “thôi, tao không đấu với mày nữa!” nhưng lúc ấy, tự ái dân tộc nổi lên, tôi cứ gào lên và xông vào,

“F. you! Tao đánh mày đến chết thôi, ai bảo mày dám khinh dân Việt tao!”

Nhưng mỗi lần nhào vô, là người tôi lại bị hắn quất bung lên như trái banh trong Baseball vậy! Trái  banh hơn 100 lbs tôi bắn ra cả thước! Người tôi nhễu nhão, máu me nhưng cứ cố gượng đứng dậy, xông vào nữa, miệng lảm nhảm, “F. you! I ….kill… you…” Thấy tôi lì quá, tên Puerto Rico kia đâm sợ, hắn quỳ xuống, chắp tay lạy tôi mấy vái, “Tao lạy mày rồi! Mày dữ như cọp ấy!”

Lúc đó, tôi mới buông gậy ra và ngồi phịch xuống cho bạn bè kéo lê đi tắm… Sau trận này, mấy tay Mỹ kia đặt tên tôi là “Tiến Cọp!” và bảo nhau, “Đừng đụng đến thằng Tiến Cọp. Nó điên rồi!” (Don’t touch Tien Tiger! He’s crazy!)

Thú thật, vì là du đãng, dù là du đãng vặt, tôi rất lì. Một buổi sáng, đang sắp hàng chuẩn bị đi học, không hiểu sao, tay Thiếu Úy Trung Đội Trưởng Trung đội 6, (tôi thuộc Trung Đội 5) đi ngang qua tôi và bật lên câu nói, “Tao chán mấy cái thằng Việt Nam chúng mày!” (I’m tired of your Vietnamese!)

Rồi quát lớn, “Nằm xuống, chống tay vào thế, bơm 50 cái!” Tôi hận quá, nằm xuống vừa hít đất vừà chửi thề nho nhỏ,

“One, Sir! Fuck you, sir! Two, Sir, Fuck you, Sir….”

Cứ thế mà tôi làm cả 100 cái rồi hết pin, nhưng vẫn chống tay vào thế. Lúc đó, đại đội bắt đầu đi học, Tay Thiếu Úy kia kêu tôi “đứng dậy! đi học!”, tôi tỉnh bơ, cứ chống tay, thỉnh thoảng hít một cái, “One hun…dred… and… five… sir!” Tên kia gọi mấy lần, tôi cũng không đứng dậy, mặc cho cả đại đội kéo đi rồi. Ông Đại Đội Trưởng nghe báo cáo, vội chạy ra, ngồi xổm xuống, hỏi tôi,

“Sao anh không đi học!”

Tôi gầm gừ,

“Thưa Ngài, ông Thiếu Uy kia nhục mạ dân tôi, tôi sẽ hít đất đến khi nào chết thì thôi.”

Ông ĐĐT nghe nói đến chữ “chết” thì lo quá, hỏi,

“Thế… thế .. anh muốn gì thì mới đứng dậy, đi học?”

“Tôi.. tôi.. muốn ổng xin lỗi dân tộc tôi…”

Ông ĐĐT đứng dậy, quát anh Thiếu Úy kia,

“Nghe rõ chưa? Làm được không?”

Tay Thiếu Úy bị Đại Úy la, đành phải ngồi xổm xuống, cạnh tôi, nói thật to,

“Tao xin lỗi mày, thằng Việt Nam kia!” (I’m sorry, Vietnam!) xong rồi bỏ giọng, chửi tôi thật nhỏ, “Fuck you!”

Tôi thấy chơi tới đây cũng đã đủ rồi, bèn run rẩy đứng dậy, chào ông ĐĐT rồi liểng xiếng lê thân đi học, nhưng không chạy. Ông ĐĐT thấy tôi đi bộ, cũng chẳng nói gì, mà bỏ vào trong. Tên Thiếu Úy chạy ngang tôi, quay lại chửi thêm lần nữa, “Fuck you!”

Tôi nhe răng cười.

Cùng với các môn cận chiến, chúng tôi tập bò trên bùn, dưới đạn đại liên, đạn thật, bắn xéo xéo trên đầu, tên nào ngóc đầu lên một chút là vỡ sọ ngay, nhưng không cái nào ghê bằng bò trong ống cống bằng thép! Cái ống cống để giữa trời, dài hàng mấy trăm mét, đứng ở đầu này nhìn đầu kia nhỏ như hòn bi, chỉ vừa đủ một người chui vào với súng, đạn, ba lô. Vừa chui vào, nhìn thấy lỗ ra hun hút bên kia, đã thấy sợ, nhưng không ớn bằng những tiếng hò la bên ngoài, và những cục gạch, đá ném tới tấp vào ống cống.

Trong khoảng không gian nhỏ xíu đó, tiếng đá, gạch đập vào thành sắt còn to hơn tiếng bom, người bò sợ hãi ráng bò thật nhanh, nhưng không thể được vì vướng cây súng ngang tay, lại không thể bò lùi, chỉ biết nhắm mắt mà lê lết cho đến khi chui ra khỏi cống thì như người chết rồi, lỗ tai lùng bùng, tim đập mạnh, đầu óc hoảng hốt gần như phát điên, bạn bè chờ sẵn lôi xềnh xệch ra vòi nước lạnh…

Thật ra, những cái tập thể lực này chả thấm gì với đòn tâm lý. Hôm đó, sau khi ăn cơm chiều, đột nhiên có lệnh là tối nay không được ngủ, chỉ đứng và chỉ đứng bằng 2 chân bằng nhau, cấm đứng 1 chân (1 chân thẳng, 1 chân cong), không được dựa vào bất cứ điểm tựa nào, nghĩa là lưng không dựa tường, bụng không tựa vào bàn, ghế, cầu tiêu… Trường thông cảm cho các SVSQ là được uống 1 ly cà phê đen, không đường, và chỉ 1 ly thôi. Đêm hôm đó là đêm kinh hoàng nhất trong đời, ban ngày tập như điên, cơ thể rã rời mà tối không được ngủ và không được nói chuyện! Đến nửa đêm, nhìn trong mắt nhau, đều thấy chung một điều, Chết, sướng hơn!

Mặt trời lên, tưởng bở là được nghỉ, ai dè lại nghe tiếng còi tập họp, không ăn sáng, chạy ra bãi, vác gỗ lên xuống như tập tạ! One, Sir! Two, Sir! Three, Sir!… Lúc đó, chỉ là cái xác không hồn! Mãi cho đến 11 giờ, nghe lệnh chạy đi ăn cơm, thì ôi thôi, y như lên Thiên Đàng, xơi luôn 2 hộp sữa tươi, 2 quả chuối, 2 trái táo, và một miếng thịt to đùng!

Tuần thứ 11 là tuần lễ ghê nhất, chạy 12 dặm (18 cây số) với đầy đủ súng đạn, balô, xẻng, mùng, lều bạt, cân nặng đúng 30 lbs. Chạy dặm đầu tiên thì còn đếm nhịp, One, two, three, four.. nhưng đến dặm thứ hai thì câm hết. Dặm thứ 3 là hổn hển. Thứ Tư thì phì phò như trâu thở. Thứ 5, thứ 6 thì vừa chạy vừa đi.. đến dặm thứ 10 thì ngã dúi dụi trên đường, súng một nơi, người một nẻo, 2 dặm cuối thì bò như chó bị thương…bò một lúc lại nghỉ, thở, rồi bò tiếp để khỏi bị chửi. Mấy sĩ quan ngồi xe díp đi theo sát bên,  hò hét, “Thằng ngu kia! Chạy đi! Đồ đầu trâu, đít chó! Mày có là người không? là người thì phải chạy… Đồ con lừa!”

Có mấy mạng chạy không nổi, giơ tay xin đầu hàng, thì được đứng dậy, và treo vào cổ cái tấm biển đề chữ, “Tôi là thằng hèn nhát!” (I am a coward!) rồi được thất thểu đi bộ, nhục nhã… Còn tôi, nghiến răng bò bằng hai bàn tay, và hai đầu gối, mãi đến chiều thì cũng tới địa điểm tập họp là một khu rừng hoang. Tại trung tâm, các sĩ quan cán bộ ngồi quanh một cái bàn gỗ dài, chia nhiệm vụ cho từng trung đội, kéo dài theo hình ngôi sao 6 cánh. Mỗi trung đội kéo dài thành một đường từ trung tâm tỏa ra. Trung Đội Trưởng chia vị trí cắm lều, mỗi lều 2 người và phải đào 2 cái hố cá nhân và có rãnh thoát nước mưa.

Tại đây, tôi lại phạm một lỗi lầm quan trọng có thể bị đưa ra tòa án quân sự, cố tình giết người! Tôi được chia ra cắm lều ở điểm cuối cùng của cánh sao, nghĩa là từ chỗ tôi tới trung tâm là phải qua 19 cái lều khác, và lều của tôi lại chỉ có một người, thằng bạn được chỉ định cùng lều với tôi, khi chạy đã gẫy xương ống quyển, phải chở vào bệnh viện, nên chỉ mình tôi dựng lều, đào rãnh, đào hố!

Chuyện bắt đầu từ tên SVSQ Trung đội Trưởng, thằng to con nhất trung đội. Nó kỳ thị tôi, nên đứng ngay tại trung tâm điểm, gào to, “Tiến! Mày đi chặt cây làm củi đốt lửa cho trại!” Tôi đang đào hố, chống cuốc lại và gào đáp, “Lều tao chỉ có một người. Thằng bạn lều tao đi bệnh viện rồi. Mày kêu thằng khác đi!” Nó không nghe, ngoắc ngoắc ngón tay, “Tao ra lệnh, mày phải nghe!” Tôi gào lớn, (cũng vì gào to mà tôi thoát tội!), “Mày kêu thằng nào ở gần đó đi, lều nào có 2 người đó. Tao chỉ có một mình, mà phải dựng lều theo lệnh Sĩ Quan, không theo lệnh mày được!”

Tên khốn kia không thèm nghe lý luận của tôi, cứ ngoắc ngoắc, “Mày phải lại đây! Ngay bây giờ! Tao không cần biết mày 2 người hay một người. Tao bảo mày phải tuân theo! Mày phải lại đây ngay! ” (Come here! Now! I don’t care two or one man! I told you do something, you do that! Come here!) Bất ngờ, tôi lại nổi cơn điên, gào lại, “O.K! I come!” rồi cầm cái xẻng hầm hầm tiến lại. Vừa tới chỗ hắn đứng, tôi vung xẻng lên chém vào cổ hắn liền, nghe cái “bụp!”

Mấy tay Quân Cảnh đang đứng theo dõi cuộc cãi lộn, vội nhẩy vào, đè tôi bẹp xuống đất, rồi lấy còng số 8 ra còng tay tôi liền. Nhưng mấy ông Sĩ Quan đã theo dõi từ đầu, biết là thằng kia quá trớn, nên ra lệnh cho Quân Cảnh thả tôi ra, cũng vì tên kỳ thị kia không việc gì, Hắn mặc áo lạnh quân đội, cổ áo có bông dầy cui, nên chiếc xẻng của tôi không làm hắn rớt đầu chỉ làm hắn ngã ngửa! Từ sự việc này, toàn thể đại đội nhìn tôi như thằng điên, không ai dám kỳ thị tôi nữa.

…………………………………

Tranh Chu Tất Tiến vẽ trên tường, ngay trước cửa phòng SVSQ. 

5. Học tập

Trường O.C.S là quân trường lớn thứ hai trên toàn nước Mỹ, sau West Point nhưng lại là quân trường đổ mồ hôi nhiều hơn West Point. So sánh một cách đơn giản, West Point là trường dành cho giai cấp quý phái, còn O.C.S Fort Benning là trường dành cho giới bình dân, nông dân. Tuy SVSQ tại 2 quân trường đều tốt nghiệp Thiếu Úy, nhưng tại West Point, SVSQ được học những môn sang trọng, xã giao cao cấp, lãnh đạo chỉ huy và các chuyên viên trong mọi ngành quân sự của Mỹ trong 4 năm, trong khi O.C.S chỉ học gấp rút trong 6 tháng để rồi quăng vào Việt Nam, đánh nhau chết bỏ.

Điều khác nhau nữa là trường West Point là trường gồm các thanh niên tình nguyện, trong khi O.C.S. gồm các thanh niên bị gọi động viên và một số tình nguyện, vì thế mà trình độ học lực của các SVSQ O.C.S khác nhau xa, có thể chưa qua Trung Học, và cũng có thể là Cử Nhân, Kỹ Sư, Giáo Sư.

Tại Fort Benning, SVSQ được học đủ thứ vũ khí, trang cụ hạng nặng nhưng học gấp rút. Tôi được học lái xe tăng, lái xe lội nước, tập đeo ba lô súng đạn rồi nhẩy không dù từ trực thăng xuống đất, học bắn đủ loại đại bác, từ 105 ly đến 155 ly, được xem biểu diễn bắn 175 ly mà một viên đạn cần đến 6 người khiêng, cùng các loại vũ khí tối tân.

Chúng tôi bắn đại liên M.60 như cao bồi, nghĩa là đứng thẳng, tỳ báng súng trên đùi, rồi bóp cò. Sức giật của đại liên làm mấy thằng nhỏ con Việt Nam té bật ngửa, đạn bay lên trời.. Với súng đại liên 50 thì phải đứng dưới hố mới bắn được, vì sức giật của nó làm cho người khỏe đến đâu cũng té ngửa.

Sau này, khi cuộc chiến Việt Nam tàn, suy nghĩ lại về vũ khí và cách huấn luyện, tôi mới thấy rằng NGƯỜI MỸ KHÔNG BAO GIỜ MUỐN THẮNG TẠI VIẾT NAM, mặc dù bề ngoài thì muốn thắng ở Việt Nam, vì trên bức tường nào cũng có hàng chữ khổng lồ “WIN IN VIETNAM”, và trên cặp sách đi học cũng có hàng chữ ấy. Trên đường chạy đến lớp học, chúng tôi hát những bài quân hành đều nói về chiến tranh Việt Nam, “Vietnam á a à a. Vietnam á a à à. Anh đi đâu thế? Tôi đến Việt Nam! Đến Việt Nam hả! coi chừng du kích. Khi anh ngủ, chúng nó bò vào, cắt cái đầu anh!” (Where are you going? I come to Vietnam. Be careful, when you sleep, VC come and chop your head… á a à a…)

Các bài khác nói về muỗi, mòng và cạm bẫy của du kích. Những bài hát ấy làm cho SVSQ Mỹ ớn lạnh. Bên cạnh đó, có những bài học về Du Kích Chiến (Guerilla Warfare) được giảng rất cẩn thận. Về thực tập, Quân trường đã làm sẵn những làng y hệt ở Việt Nam, cũng mái tranh, cũng tre vây quanh, cho Mỹ đóng giả du kích mặc áo nâu, đội nón lá. SVSQ Mỹ phải hành quân y như thật, kẻo bị VC (giả) bắt được thì nhừ đòn. Một anh bị VC bắt, bị đè xuống đất, tay chân bị cột vào cọc, mấy thằng VC tiểu vào mồm! Một anh bị trói úp vào cây, cho kiến cắn. Anh bạn Việt Nam của tôi, ngủ gật khi đang gác, bị chúng lôi đi xa, rồi cột hai tay vào thành trên của xe cam nhông, phóng đi trong rừng, tung lên tung xuống, người rã ra.

Sau đó, chúng thả anh về, nhưng lấy mất giây giầy, và nước uống, buộc anh phải lê lết trong rừng gai cả nửa ngày mới về. Còn tôi, một lần nhận nhiệm vụ làm liên lạc viên, theo địa bàn, đi xuyên rừng tre chằng chịt, mới đầu thì còn thưa, càng về sau càng kẹt, vì tre dầy đến nỗi tôi bị kẹp cứng giữa ba, bốn thân tre, không xoay sở được, hết hồn hết vía! Phen này chết đói, chết lạnh và chết vì kiến càng cắn! Kiến ở đây khổng lồ, chích một phát là nhẩy dựng lên, la trời. Đứng một lúc lâu cho hết sợ, rồi mới từ từ rút cây mã tấu đeo bên hông ra, cưa chầm chậm cả tiếng đồng hồ cho một thân tre gẫy xuống rồi mới cử động được cánh tay, rồi vung mã tấu chặt bừa, kiếm được lối mòn ra đường cái.

Trở lại về vấn đề vũ khí chứng tỏ là người Mỹ không muốn thắng ở Việt Nam mà chỉ muốn xài lính Cộng Hòa như những vật thí nghiệm. Năm 1968, chúng tôi đã bắn M.16 muốn gẫy cả tay. Một ngày tập trận phải mang theo trong ba lô 600 viên đạn mã tử, và phải bắn cho hết. Vì ba lô chứa rất nhiều thứ, nặng hơn 20 ký lô, nên tôi chỉ bắn một phần còn lại thì lén đào lỗ, chôn bớt! Vậy mà ở trận Mậu Thân, lính Việt Nam vẫn phải bắn Garant M.1, bắn phát một, đến sau khi nhiều thành phố bị Việt Cộng chiếm bằng AK 47, liên thanh của Nga, có khả năng bắn vài chục viên một phút, Mỹ mới chở sang M.16 mà chỉ cho các đơn vị trừ bị như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến thôi. Mãi sau mới hoàn toàn trang bị cho miền Nam súng M.16. Phải chi những năm 1960-1965, Việt Nam được trang bị súng trường M.14 như SVSQ Mỹ thì cuộc diện cũng có thể thay đổi. Hồi đó, vũ khí cá nhân mà tôi mang theo suốt thời gian quân trường là súng trường M.14, lúc súng không đạn thì nặng 4.1 ký lô, có lắp đạn là 10 kí lô, bắn liên thanh 20 viên, khi đặt xuống đất, kéo càng ra, là thành trung liên, lợi hại hơn AK 47 vì tầm sát hại mạnh hơn, bắn xa hơn, và chính xác hơn. M.14 cũng có thể dùng làm súng bắn xẻ vì tầm bắn xa trên 800 mét, tối đa là 1,200 mét.

Về súng cối, mỗi ngày một anh SVSQ Mỹ phải bắn 6 quả 4.2 inch khổng lồ. Loại súng cối này có thể bắn qua nóc nhà, rừng cây qua bên kia rất chính xác, và có thể để trên xe M.113 di chuyển, nhưng ở quê nhà, vẫn chỉ có súng cối 81, nhiều đơn vị vẫn phải dùng súng 60 ly là loại súng mà chúng tôi bắn chơi như cao bồi, tỳ đế lên đùi, một tay cầm nòng súng, một tay thả quả đạn vào và bóp cò.

Khi Việt Cộng tấn công các đồn bót miền Nam bằng B.40 hoặc B.41, thì đa số các đơn vị miền Nam vẫn còn dùng Bazoka, các SVSQ Thủ Đức vẫn học cách bắn Bazoka từ thế chiến thứ nhất! Sau này, Quân Đội Cộng Hòa mới có M.72 để chống lại B40, B 41. Riêng M.72 cũng có tác dụng bắn hạ các xe tăng loại nhẹ của Liên Xô, nhưng đến khi miền Bắc được tăng cường T-54 thì miền Nam khựng lại vì M.72 không xuyên thủng được lớp thép dầy của T-54, 80 mm hai bên thành xe, 30 mm trên nóc và 20 mm ở đáy.

Do đó trong các trận chiến sau này, đặc biệt là ở An Lộc, khi T-54 lùi lũi tiến vào thì các chiến sĩ miền Nam phải thay đổi cách đánh, bắn đứt xích T-54 bằng M-72 rồi xông ra, cận chiến. Các chiến sĩ anh hùng miền Nam đã phải dùng chính thân mình làm vũ khí để chống lại xe tăng hạng nặng của phe Cộng Sản quốc tế. Trong khi đó, cùng năm 1968, tôi đã được bắn hỏa tiễn XM-202 là khắc tinh của T-54! Loại hỏa tiễn để trên vai này, có 4 nòng, mỗi quả đạn 66mm, có thể xuyên thủng lớp thép 80 mm của Nga, rồi phóng thêm một quả đạn lửa vào bên trong. XM-202 cũng có thể bắn đạn chống biển người, cả hàng ngàn mũi tên thép bay ra một loạt thì một đại đội địch chỉ phút chốc là biến mất.

Nếu XM-202 mà được sử dụng ở An Lộc, Bình Long, thì không có những trân Xuân Lộc sau này. Đau lòng thay là mãi đến năm 1973, sau khi Việt Cộng đã lấn đất, giành dân nhiều nơi rồi, các SVSQ Thủ Đức mới được học loại hỏa tiễn này, và cũng không biết có bao nhiêu đơn vị miền Nam nhìn thấy loại vũ khí này trước khi thất trận!

Nhiều thứ vũ khí lợi hại vô cùng, cũng có thể dẹp tan các đợt tổng tiến công cấp Sư đoàn của Việt cộng trong vài phút, nhưng không hề được trang bị cho quân miền Nam. Trong một lần biểu diễn hỏa lực cho SVSQ coi, có nhiều loại xe tăng lạ lùng, khủng khiếp như xe tăng phun lửa, xe tăng có 4 nòng đại bác, xe tăng có 1 nòng cụt ngủn, nhưng chạy nhanh như xe hơi, xe tăng lội nước, và xe tăng bắn lựu đạn! Trong các loại xe tăng này, xe tăng bắn lựu đạn là khắc tinh kinh hoàng nhất cho các cuộc phục kích của Việt Cộng núp trong rừng cao su vì có thể phun ra 400 quả lựu đạn M.79 trong một phút như “bò đái”!

Nếu bắn đại bác, thì đạn có thể vướng cây to và nổ trên cao, không tác hại bao nhiêu, trong khi đó, chỉ cần một chiếc xe tăng này, phóng 400 quả M.79 từ trái sang phải là cả tiểu đoàn địch tiêu vong, vì lựu đạn nhỏ có thể xuyên qua rừng cây, mà tầm sát thương của một quả lựu đạn là 10 mét đường kính, thì cho dù núp dưới hố cũng bị banh xác. Vì Mỹ không muốn miền Nam thắng trận, nên không viện trợ cho loại xe tăng này.

Về đại bác, Quân Miền Nam được trang bị đại bác bắn đạn 105 ly đên155 ly là những loại đại bác hạng nặng và có tầm bắn tối đa là 14 cây số, trong khi đó, Việt cộng có những loại súng nặng bắn xa tới 22 cây số! Không cần nói đến khả năng sát thương, mà chỉ nói đến tầm bắn xa hay gần, đã thấy quân đội Cộng Hòa thua từ đầu, 8 cây số chênh lệch! Việt Cộng có thể đứng xa hơn mà nã trúng đồn của mình, trong khi mình chịu trận vì bắn không tới địch!

Sau này, để yểm trợ chiến thuật, Mỹ đã tăng cường cho vài cây đại bác khổng lồ 174 ly, bắn xa 40 cây số, nhưng điều kiện di chuyển thì không dễ vì sức nặng của chiếc xe tăng khổng lồ này sẽ làm sập tất cả các cây cầu ở các tỉnh nhỏ, cầy nát mặt đường đi chuyển của quân ta, do đó, chàng khổng lồ này chỉ đứng tại chỗ, ngó quanh mà thôi. Năm 1968, tại quân trường Mỹ có biểu diễn những chiếc xe díp chở đại bác 105 ly không giật, tuy tầm bắn ngắn, nhưng lại chạy vèo vèo trong rừng. Loại này nếu mà được cung cấp cho Việt Nam thì cả sư đoàn xe tăng Cộng Sản phải tan xác.

Đó là nói sơ về vũ khí, còn về chiến thuật cũng là một điểm báo trước ngày tử nạn của Việt Nam Cộng Hòa. Các Sĩ Quan Mỹ không được học về tình hình xã hội, lịch sử, văn hóa và dân tộc Việt Nam, nhất định sẽ gây ra những va chạm bất lợi cho người Mỹ cũng như Việt Nam. Thực tế đã xẩy ra như vậy. Khi nổ ra vụ Mỹ Lai, tôi đọc báo Times và thấy hình ảnh đàn bà, con trẻ nằm la liệt chồng chất lên nhau, hình ảnh những người lính Mỹ thản nhiên quăng mẹt lửa lên mái nhà, hình ảnh một đứa trẻ lúc trước còn chạy, lúc sau thì gục bên hào, tình đồng bào trong tôi làm tôi phẫn nộ, tôi ngồi khóc lặng lẽ cả buổi tối.

Để giải độc dư luận, giúp cho các SVSQ Mỹ dịu bớt căng thẳng, một buổi sinh hoạt đặc biệt được tổ chức gấp tại đại giảng đường với cả ngàn SVSQ tham dự. Khoảng 3 vị Tướng, Tá trên ngực đầy huy chương nói chuyện linh tinh, trên trời dưới đất. Nghe họ nói những diễn tiến có lợi cho viên Thiếu Úy Calley, người ra lệnh tàn sát làng Mỹ Lai, tôi nổi nóng giơ tay, xin phát biểu,

“Thưa quý ngài, tôi là SVSQ Tien xin có một câu hỏi.”

Một ông Tướng gật đầu, “Muốn hỏi gì, nói đi!”

Tôi nói, “Thưa quý Ngài, tôi có thắc mắc. Khi quý Ngài hành quân đến một khu làng mới, để tránh cho trường hợp Mỹ Lai tái diễn, các Ngài có phương pháp nào để phân biệt ai là Việt cộng, ai là dân thường không?”

Một ông Tướng trả lời, “Dễ lắm! Tôi chỉ việc kêu một người nào trong làng đó, đánh trống, và kêu gọi tất cả ra trình diện. Ai không chịu ra, người đó là VC”.

Tôi phản bác ngay, “Thưa Ngài, phương pháp này hoàn toàn bất lợi. Người già làng Việt Nam rất cổ hủ và rất tự ái, khi nghe một người lính Mỹ vào buộc ra mít tinh, thì họ nhất định không ra. Nếu Ngài ra lệnh bắt hoặc bắn mấy người không ra họp này, Ngài đã tạo cơ hội cho Việt Cộng lấy thêm lính.

Một ông Tướng thứ hai nói, “Theo tôi, thì tôi cho người đi xét thẻ căn cước. Ai không có căn cước thì là du kích.”

“Điều này càng sai hơn. Tại các làng xã xa thành phố, nhiều người không thích làm căn cước, hoặc lẩm cẩm cất đâu đó rồi quên, hoặc đánh mất mà không chịu đi khai. Trong khi bọn VC lại có thể đút lót để mua một căn cước giả rất dễ dàng.”

Một vị khác góp ý, “Ta có thể mua chuộc, gạ gẫm, hứa cho tiền thưởng một người nào đó để họ chỉ cho những kẻ nằm vùng?”

Tôi càng phản đối mạnh hơn, “Việc này càng nguy hiểm, vì kẻ bị mua chuộc có thể có tư thù cá nhân với ai đó, mà tố cáo bậy, thì chết người vô tội. Ngoài ra, cũng ít có kẻ dám làm vậy, vì nếu tố cáo VC ban ngày, là ban đêm sẽ bị VC vào cắt cổ cắm vào cọc đầu làng. Như vậy, thưa quý Ngài, việc thảm sát Mỹ Lai xẩy ra là vì quý Ngài không ai biết phong tục, văn hóa của người Việt.”

Nói xong, tôi ngồi xuống, người toát mồ hôi vì giận Mỹ mà thương người Việt mà không ngờ tôi bị ghi sổ đen. Cùng với các hành động chống đối khi trước của tôi, ông Thiếu Úy Cán bộ Trung đội Trưởng, gốc Ý, gọi tôi lên văn phòng và cho tôi biết là hồ sơ tôi đã bị ghi là “chống Mỹ” (Anti-American), nhưng ông chỉ nói cho tôi biết vậy thôi, và khuyên tôi nên cẩn thận, kẻo bị bắt hay bị tống về nước với cái lon Trung Sỹ. Ông nói nhỏ nhẹ vì ông đã mắc nợ tôi.

Trong lần Party lên huynh trưởng, tôi có chụp hình ông đứng với vợ, tấm hình nhỏ xíu thôi, và khuôn mặt của bà trong tấm hình chỉ chừng đầu ngón tay trỏ, nhưng tôi ngẫu hứng vẽ phóng ra, bằng Arcrylic, thành môt bức tranh khổ 15 x 30”, rồi lẳng lặng đem treo vào phòng làm việc của ông, một buổi tối. Sáng hôm sau, ông vào phòng làm việc, thấy bức tranh vợ, ngạc nhiên quá, đi hỏi mãi, biết tôi là tác giả, ông mời lên, cám ơn tôi rối rít.

Thật ra, tôi phát triển nghề vẽ của tôi trong khi học là vì.. tôi mệt quá với các công việc tạp dịch, lau cầu tiêu, chùi hành lang, lau phòng Cán bộ, làm vệ sinh chung quanh trại…nên nghĩ ra cách trao đổi công tác. Một hôm, tôi lên trình bầy với ông Đại Úy Đại Đội Trưởng là tôi muốn trang trí các bức tường trong Câu Lạc bộ SVSQ còn trống trải quá. Ông kia khoái quá, rút ngay tiền ra đưa cho tôi để mua đồ, nhưng tôi từ chối, vì .. sợ ! Sợ làm ông tốn kém mà vẽ không được thì bị đì chết tươi. Tôi bỏ tiền túi ra đi mua sơn dầu, Arcrylic, cọ vẽ.. rồi cứ ăn cơm chiều xong, là vác cái thang ra, gác vào bức tường ngay cửa ra vào và phác thảo môt bức tranh anh hùng David Crocket của Mỹ, anh chàng đứng tì tay lên mũi súng để dựng ngang chân, trông bất cần đời.

Mấy ngày đầu, tôi lo lắng vô cùng, vì đó là lần đầu tôi vẽ bằng cọ sơn! Tôi từng học vẽ nhiều năm khi còn trẻ, nhưng toàn là bằng Phấn Pastel, chưa bao giờ học pha mầu sơn, hay vẽ bằng cọ và lại vẽ thẳng trên tường! Liều mạng vẽ mấy ngày, chỉ một cái đầu thôi, mà không ra con giáp nào, mầu nọ chửi cha mầu kia, bị chúng chê bai, chửi quá chừng! Tôi sợ quá, nên đành bỏ ngủ, thức cả đêm để vẽ, mắt nhòe ra, nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ nhân ảnh.

Nhưng Trời thương, chỉ 5 đêm sau, là tôi biết cách pha mầu và cứ thế là phóng tay vẽ như điên. Bức tranh cao 3 thước, rộng 1 thước trấn ngay cửa ra vào, được hoan hô nhiệt liệt. Tới luôn đi, bác tài! Tôi cao hứng vẽ thêm môt bức tranh nữa trên bức tường đối diện, cũng ở trên cao, cách mặt đất 3 mét, một bức tranh đám cưới cổ Việt Nam, ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau. Lính khiêng heo, lính khiêng trầu, cau, lính che lọng, bề ngang 3 mét, bề cao 1 mét rưỡi (1). Ông Đại Đội Trưởng khoái quá, miễn tạp dịch cho tôi đến hết khóa.

Chưa hết, tôi đề nghị với ổng là tôi sẽ vẽ hình đầu cọp, báo, sư tử trên gỗ và cho treo trên khắp các tầng lầu, thể hiện tinh thần của từng trung đội, Trung đội 1 là đầu cọp, trung đội 2 mang đầu báo, trung đội 3 là đầu gấu, 4,5,6… mỗi trung đội một hình tượng. Ổng Ok liền và ra lệnh cho bên hành chánh đi ra phố, tìm tiệm gỗ, cưa gỗ theo đúng hình vẽ của tôi, rồi về cho tôi vẽ và treo lên trước cửa từng trung đội. Riêng trước cửa phòng tôi, tôi vẽ một con cọp khổng lồ đang đi xuống thang gác (2, hình đính kèm).

Rồi cũng ổng, năn nỉ tôi vẽ một bức tranh cho buổi Party khác, tôi vẽ một bức tranh cao hơn 3 mét, hình một chàng Cao bồi đang cưỡi trên một con ngựa đứng 2 chân, nhe răng. Tiếng đồn lên tới Tiểu Đoàn. Ông Tiểu đoàn Trưởng mời tôi lên, nhờ thảo cho một bức tượng người lính bộ binh để dựng trước văn phòng Tiểu đoàn.

Thế là tôi được nghỉ học, ung dung cầm bản vẽ, bút chì đi ngắm nghía và vẽ luôn một tượng đài vuông vức, trên là một anh lính đang giơ tay phải lên, xung phong. Chưa hết, trước ngày lễ mãn khóa, tôi vẽ một bức tranh Chùa Một Cột đem tặng cho Chỉ Huy Trưởng Trường, để kỷ niệm một anh SVSQ Việt Nam được thụ huấn ở đây… Thật là liều mạng vì như đã nói ở trên, tôi chưa từng học vẽ sơn dầu, chưa từng học kiến trúc, mà dám chơi luôn một cái tượng đài! Bức tượng này được hoàn thành gấp rút, chỉ trong vòng 2 tháng là đã đúc xong. Ngày mãn khóa, tôi đi qua, ngắm nghĩa và hãnh diện một mình. Dân Việt Nam chơi liều không thua ai.

Nhiều chục năm trôi qua, nhìn kỹ lại từng vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam, tôi nghĩ rằng, người Mỹ, nói chung, là một dân tộc trọng tinh thần Dân Chủ, Pháp Luật, và Quyền Tự Do cá nhân tối đa,. Nguòi Mỹ, trên phương diện hình thức, tôn kính Chúa Trời, cho nên trên đồng tiền cũng có Chúa, các lời thề nhậm chức hay ra trước pháp luật, đều có Chúa chứng giám. Do đó, họ có nhiều đức tính tốt vượt bực, có sự quan tâm đối với các dân tộc nhược tiểu, nhưng ngược lại, các chính phủ Mỹ, dù Cộng Hòa hay Dân Chủ, lại là một tập thể chính trị biệt lập. Chính phủ Mỹ, dù ngành nào, Tư Pháp, Lập Pháp, hay Hành Pháp, luôn dành hết khả năng của mình vì quyền lợi của nước Mỹ, làm cho nước Mỹ mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn.

Do đó, nếu có sự gì cản trở bước tiến của nước Mỹ, hoặc không làm cho nước Mỹ vĩ đại hơn, thì các chính trị gia lãnh đạo sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, có thể bất chấp đạo đức, dẹp bỏ mọi lời hứa với đồng minh, và tỉnh bơ trước mọi lời phê bình, chê trách. Như việc giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hứa yểm trợ đồng minh rồi lại bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho Trung Cộng và khối cộng sản, cho biệt kích sang Panama, tóm cổ Tổng Thống nước này đem về Mỹ, giam tù…

Hiện tại, lúc thì bắt tay khen ngợi Trung Cộng, lúc lại hăm dọa chiến tranh. Với Bắc Hàn cũng thế, hân hoan chào đón hay chuẩn bị phóng hỏa tiễn cũng là tùy theo tình hình và lời khuyên của các “Think Tank” đặc biệt (Không phải nhóm cố vấn trong Bạch Cung). Vì thế, mới có câu, “Làm kẻ thù của nước Mỹ thì tốt hơn là làm bạn với Mỹ” và “Với nước Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn cũng như không có bạn thân mãi mãi.”

Trên hết, Cám Ơn Nước Mỹ đã cho chúng tôi được Tự Do.

(Mùa Covid 2020)

HÒA THƯỢNG GIẢ

Admin <huynhhoang……….@gmail.com:

Kính gửi Diễn đàn Chiến Hữu Việt Nam CH. Nhân ngày Quốc hận 30/4/2020. Tôi là Đào Đức Thông, một trong những cộng tác viên nhiều trang báo Hải ngoại xin gửi đến Diễn đàn bài viết về 1 vị Hòa thượng quốc doanh-là tác nhân làm tan vỡ chế độ VNCH Đệ Nhị. Bài viết là nội dung nguyên lá đơn của 1 cô Phật tử gửi đến Ban Kiểm tra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Tôi đề nghị Ban BT Diễn đàn cho đăng bài viết này lên các trang báo mạng. Để những người còn u mê biết rõ bộ mặt của vị hòa thượng “giả” này.

Admin <huynhhoang……….@gmail.com>

Một số sai phạm của Hoà thượng “giả” Thích Đạt Niệm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Tp.HCM, ngày tháng năm 2017

ĐƠN TRÌNH BÁO

(V/v Trình báo những việc làm sai phạm, thiếu đạo đức của Ô. Thích Đạt Niệm –

Viện chủ chùa Pháp Trí, chùa Phước Thạnh và chùa Thới Linh Q.9, Tp.HCM)

Kính gửi: CHƯ TÔN ĐỨC BAN TRỊ SỰ PHẬT GIÁO TP.HCM

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN TÁNH – PHÓ TRƯỞNG BAN TRỊ SỰ PHẬT GIÁO TP.HCM

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Chư Tôn Đức!

Kính bạch Hòa thượng anh minh!

Con đứng đơn dưới đây là HOÀNG LÊ PHƯƠNG THẢO, sinh năm 1988, số CMND 201562576, nguyên quán Thừa Thiên Huế, cư trú tại 25 Cống Quỳnh, P. Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh là thành viên của Lực Lượng Phật Tử Hộ Pháp (Bảo vệ Chánh pháp của Đức Phật trên mạng Xã Hội).

Đầu tiên chúng con kính chúc Hòa thượng và Chư Tôn Đức Tăng Ban Trị Sự Phật Tp.HCM những lời chúc tốt lành nhất.

Kính bạch chư Tôn Đức!

Con viết đơn này thay mặt cho Lực Lượng Phật Tử Hộ Pháp trình báo những hành vi sai phạm, thiếu đạo đức của ông Thích Đạt Niệm – Viện chủ chùa Pháp Trí (Quận Thủ Đức), viện chủ Phước Thạnh và chùa Thới Linh Q.9, Tp.HCM. Kính mong Hòa thượng. Thích Thiện Tánh và Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM anh minh cho xác minh xử lý các sai phạm của vị Hòa Thượng “giả” Thích Đạt Niệm, trả lại sự trong sạch cho đạo pháp.

Ô. Thích Đạt Niệm có tên cha mẹ khai sinh là Nguyễn Văn Tèo tự Đợt nhưng ông ấy tự khai sinh cho mình bằng nhiều tên mỹ nhiều khác: Nguyễn Đạt Niệm, Nguyễn Đức Dũng, Nguyễn Kim Thạnh, v.v nhằm mục đích đánh lừa Phật tử.

Sinh năm 1949 tại Bình Sơn, Long Thành, Đồng Nai, theo trong hồ sơ thì Ô. Nguyễn Văn Đợt xuất gia năm 10 tuổi. Chính bản thân ông Niệm cũng tự giới thiệu với Phật tử rằng xuất gia ở độ tuổi 10-11, như vậy mọi người có thể hiểu ông Đạt Niệm phát tâm Bồ Đề từ lúc niên thiếu.

Vậy nhưng theo tìm hiểu của chúng con cho thấy thời gian Miền Nam Việt Nam chiến tranh ác liệt, Ô. Thích Đạt Niệm đang còn trong ngoại hình Sư Tăng chưa hoàn tục (còn mang giới) đã tham gia lực lượng biệt động quân Sài Gòn. Đây là một trong những trùm Biệt động SG có tội ác với nhân dân miền Nam. Là Biệt động SG, ông Thích Đạt Niệm đã nhiều lần đặt mìn ám sát địch nhưng lại sát hại luôn cả thường dân khi mìn nổ, phạm giới Sát của Đức Phật.

Điều này rất nhiều bạn bè thân thiết của Ô. Đạt Niệm xác nhận và từng đăng lên mạng Xã hội để quảng bá công lao với Cách Mạng để PR cho ông Đạt Niệm vì ông Niệm góp phần tích cực để tan vỡ chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Chiến tranh chấm dứt, ông Thích Đạt Niệm nhờ vào công trạng đã lập nên được nhà Chính quyền địa phương ưu ái giao nhiệm vụ Trưởng Ban Trị Sự Phật giáo Việt Nam huyện Thủ Đức liên tiếp mấy nhiệm kỳ. 1 mình làm viện chủ 3 ngôi chùa (Pháp Trí, Thới Linh, Phước Thạnh). Ông Đạt Niệm thường khoe với Phật tử và quan khách là bản thân mang hàm Đại tá Biệt Động Sài Gòn (Điều này cần xác minh làm rõ xem thật hay giả mạo) và thích kết giao với những cựu chiến binh.

Tính tình ngạo mạng, thường khen mình chê người, thưa kiện nhiều vị Tôn đức Giáo phẩm lỡ phật lòng ông Đạt Niệm.

Khi Hòa thượng Thích Thiện Nhơn lên làm Chủ tịch Hội đồng Trị Sự Phật giáo Việt Nam, trong 1 lần thuyết pháp, Ô. Thích Đạt Niệm đã tuyên bố với chư Phật tử là Hòa thượng Thiện Nhơn không có tài đức, không có trình độ, là bê đê… Nghe nói chuyện này hình như đến tai Ban Trị sự Phật Giáo Tp.HCM, ông Thích Đạt Niệm đã bị Hội đồng Trị Sự Phật giáo Việt Nam bãi tất cả các chức danh trong Giáo Hội, cách chức Ủy viên Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM, không công nhận chức danh viện chủ chùa Thới Linh, Phước Thạnh.

Chỉ duy nhất chức danh Viện chủ (chủ chùa)ngôi chùa Pháp Trí ở P. Linh Xuân, Q.Thủ Đức mang tính thừa kế (do mẹ nuôi của ông Niệm truyền lại) thì Giáo Hội Phật giáo Việt Nam không quyết định được. Ông ấy chỉ là Chủ chùa chứ không phải Trụ trì (không đại diện cho Giáo Hội Phật giáo Việt Nam). Chức danh Chứng minh Ban Trị Sự Phật giáo Việt Nam Q.Thủ Đức là do chúng đệ tử của ông Niệm phong cho ông Niệm, Hội đồng Trị Sự Phật giáo Việt Nam không công nhận chức danh này.

Những điều Sai phạm đáng lên án là:

1. Vi phạm giới luật Phật:

– Thời chiến tranh, Ô. Thích Đạt Niệm đang còn trong ngoại hình Sư Tăng chưa hoàn tục (còn mang giới) đã tham gia lực lượng biệt động quân Sài Gòn gài miền sát hại người. Đây là một trong những trùm Biệt động SG có tội ác với nhân dân miền Nam.

– Ông Thích Đạt Niệm là người xuất gia tu từ lúc 11 tuổi nhưng lại có 1 con ruột là Nguyễn Đình Mỹ, pháp danh: Thích Niệm Thuận là tu sĩ của Chùa Pháp Trí, sinh năm 1983 ở thời gian Ô.Niệm đang đứng đỉnh cao của quyền lực trong Giáo Hội Phật giáo Việt Nam.

Thích Niệm Thuận từ nhỏ sống với mẹ ruột tại miền Trung, khi lớn được Thích Đạt Niệm đưa về chùa Pháp Trí cho xuất gia tu học, hiện tại đang được ông Niệm cho đi du học tại Sri Lanka để sau này về làm trụ trì chùa Pháp Trí sau khi ông Đạt Niệm chết.

Gã trọc Thích Niệm Thuận lợi dụng là con ruột của Chủ chùa nên thường gây sự đánh các vị sư trong chùa Pháp Trí sứt đầu, mẻ trán. Tuyệt nhiên Thích Đạt Niệm không xử lý hành động này mà còn dùng quyền lực chính trị tác động đến Công an Phường sở tại để làm ngơ, đồng thời đe dọa đuổi những ai phản ứng việc làm của tên Thuận ra khỏi chùa Pháp Trí.

Cậy thế cha nên mặc dù trong ngoại hình Đại đức nhưng Thích Niệm Thuận lại có bạn gái, công nhiên đưa về chùa Pháp Trí quan hệ tình dục trong phòng riêng.

Điều nực cười qua theo dõi cho thấy Ô. Thích Đạt Niệm vận động Phật tử bá tánh tiền xây lăng mộ cho ông ấy nhưng lại che mắt bằng Danh từ: Tháp Tam Bảo, để Phật tử, mạnh thường quân nhầm tưởng đây là xây tháp thờ 3 ngôi Tam Bảo mà ủng hộ tiền nhiều.

2. Giả mạo cấp bậc chức vụ

– Ô. Đạt Niệm thường tự xưng trên mạng Xã hội và các cuộc hội thảo là Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học của Trung tâm UNESCO Nghiên cứu – Ứng dụng Phật học Việt Nam, là nhà khoa học đại trí tuệ thông minh, sáng suốt. Khi có người hỏi thì ông ấy thường trưng ra 1 văn bản Quyết định của UNESCO. Nhưng theo tụi con xác minh từ một số người bên UNESCO cho biết: Hòa thượng Thích Đạt Niệm đã không tham gia các hoạt động từ UNESCO rất lâu, UNESCO cũng chưa từng quyết định gì cho Hòa thượng, chủ tịch Hội đồng Khoa học hiện tại của Trung Tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam không phải mang tên Thích Đạt Niệm hay Nguyễn Văn Đợt…như vậy có khả năng Ô. Đạt Niệm giả mạo giấy tờ, giả mạo cấp bậc chức vụ để lừa đảo chư Phật tử.

Chư Tôn đức có thể xác minh qua các số ĐT:

TW Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam: (024) 3.7616880 – 3.7616879

Văn phòng đại diện phía nam của UNESCO Việt Nam: (028) 38409689 ĐTDĐ: 093 296 2779 (Trưởng VP- TS. Lê Văn Tuấn)

3. Gây mất đoàn kết Tôn giáo

– Ô. Thích Đạt Niệm chống Công giáo quyết liệt, thời chiến tranh Thích Đạt Niệm từng lên kế hoạch ám sát Tổng Giám mục Sài Gòn. Hòa bình vị Hòa thượng này thường xuyên viết bài chống Công giáo gửi lên mạng Xã hội và rao giảng trong khi thuyết pháp gây mất đoàn kết trong cộng đồng tôn giáo.

4. Kích động khiếu kiện bất hợp pháp

– Mượn danh gia đình Chính sách, Thích Đạt Niệm thường viết bài đăng lên mạng Xã hội kêu gọi Phật tử, Đệ tử khắp nơi chống quan tham; chống, chỉ trích những lãnh đạo Phật giáo lạm quyền, nhưng thật là mượn sức dư luận đấu tranh gây áp lực nhằm buộc Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM đưa ông Niệm quay về lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Ô. Thích Đạt Niệm thường làm thơ, kêu gọi Phật tử Việt Nam chống Trung Quốc, chống Tổng BT Đảng CS, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, cầm đầu xúi giục Phật tử tham gia khiếu kiện đất đai các nơi, viết bài đăng lên mạng xã hội bênh vực cho các tên khủng bố bị Nhà nước Việt Nam truy nã.

5. Không giữ oai nghi người xuất gia

– Là người xuất gia tu hành nhưng Ô. Thích Đạt Niệm rất thích ca múa, quy tụ các nhà thơ, văn nghệ sĩ (chủ yếu là nữ) thành lập nhiều CLB Đất Việt ca múa thường xuyên tại chùa Pháp Trí. Những nghệ sĩ nữ xinh đẹp sẽ được ưu tiên gần gủi phục vụ Hòa thượng. Đây là việc làm đáng lên án vì công khai vi phạm giới luật của Đức Phật. Giới luật nhà Phật đã có quy định rất rõ: cấm Tăng gần gũi phụ nữ, cấm nghe xem hát múa đờn kèn, thì sao một người xuất gia mang giáo phẩm Hòa Thượng có thể tổ chức thi múa hát, ngâm thơ ngay tại chùa Pháp Trí? Đúng ra là bậc Hòa thượng Ô. Đạt Niệm phải giữ gìn oai nghi tế hạnh để làm gương cho tứ chúng đệ tử Tăng Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, không làm ảnh hưởng đến đạo Phật.

Ca hát trước công chúng, là công việc của ca sĩ… việc này là của người ngoài đời, người xuất gia không được làm. Vì hát là còn tham đắm mà người tu thì cần lìa xa việc tham, sân, si. Vậy sao còn làm? Hãy để việc ca hát cho người đời họ làm. Chúng con đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam không thể đồng tình với những hành vi này của ông Đạt Niệm.

Mang giới phẩm Hòa thượng nhưng ông Đạt Niệm thiếu gương mẫu, nói chuyện với Phật tử hay đề cập đến tiền bạc, kêu gọi cúng dường. Hòa thượng mà không thọ Bồ Tát Giới nên đối với người nghèo khổ đến chùa xin không thương xót, tuy bố thí nhưng trong tâm như tiếc từng khúc ruột. Nói chuyện với tứ chúng đệ tử thường hay chống nạnh, quát nạt, mất oai nghi tế hạnh của người tu.

6. Vi phạm Nội quy Ban Tăng Sự Trung Ương

– Ông Thích Đạt Niệm nhận rất nhiều đệ tử xuất gia, tại gia, dẫn đến việc không làm tròn có trách nhiệm của Bổn Sư là giáo dục, hóa độ, dìu dắt cho đệ tử tu đúng, vi phạm Nội Quy Ban Tăng Sự Trung Ương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Vì bản thân Ô. Đạt Niệm không gương mẫu nên một số ít đệ tử xuất gia của ông Niệm không hiểu hết ý nghĩa của việc xuất gia. Tăng sĩ chùa Pháp Trí thường ngồi chung uống trà, nói chuyện với phụ nữ ở chỗ khuất, tiếp khách là phụ nữ ở phòng riêng, vi phạm giới luật Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa; hoặc Ba-dạ-đề.

7. Phát ngôn xem thường Chư tôn đức Lãnh đạo Giáo Hội

– Trên Facebook cá nhân của Hòa thượng Thích Đạt Niệm là Nguyễn Đạt Niệm thường xuyên viết bài chỉ trích chư tôn giáo phẩm Phật Giáo Việt Nam là vô ơn, bạc nghĩa khi loại ông ấy ra khỏi Ban Trị sự Phật giáo Tp.HCM, chỉ trích Hòa thượng Thích Huệ Cảnh, Thích Thiện Tánh là kẻ cướp chùa Phước Thạnh và Lộc Uyển của ông Niệm.

8. Phương pháp tu hành thuộc Tà giáo

– Ông Thích Đạt Niệm thường xưng với Phật tử là tu Mật Tông Tây Tạng và Tịnh Độ, nhận đệ tử truyền dạy Mật Tông Tây Tạng với phương pháp tu hành Tà Giáo:

Trước tượng Phật Chuẩn Đề hoặc Kính Đàn tự thủ dâm hoặc giao hợp với người cùng giới đạt cực khoái tình dục để tinh dịch (nam) hoặc dâm thủy (nữ) cùng xuất ra, rồi đem trộn với Bột nhang, Nước lã bắt đệ tử uống, ăn thứ hỗn hợp đó của ông Đạt Niệm để khai quang, điểm đạo làm đệ tử của Mật Tông Tây Tạng. Đây thật là phương pháp tu hành bậy bạ, hoang đường không thể tả.

9. Đố kỵ với người có tài

– Những người ngoài đến chùa Pháp Trí đều bị ông Đạt Niệm sử dụng theo phương pháp “Vắt chanh bỏ vỏ”, khi hết giá trị lợi dụng là bị ông Đạt Niệm đuổi đi.

– Người có tài bị kềm hãm không cho cơ hội phát triển. Buộc phải phục vụ cho ông Đạt Niệm. Ai phản đối là bị đuổi đi, bất kể sự đóng góp của họ cho chùa Pháp Trí nhiều như thế nào.

Tất cả các việc làm sai phạm của Thích Đạt Niệm được hợp thức hóa và che dấu bằng Tiền bạc của bá tánh.

Kính bạch Chư Tôn Đức!

Qua bài viết này chúng con muốn làm rõ những việc làm mờ ám của vị “Hòa thượng” Thích Đạt Niệm Viện chủ Thới Linh và chùa Phước Thạnh Q.9.

Kính đề nghị Hòa thượng. Thích Thiện Tánh và Chư Tôn Đức Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM làm rõ để mọi người nhất là các Phật tử đang u mê được hiểu rõ bộ mặt thật của “Hòa thượng” Thích Đạt Niệm và buộc ông Niệm phải có trách nhiệm những việc bản thân đã làm, nếu có cơ sở xác định ông Niệm phạm giới Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa; hoặc Ba-dạ-đề, chúng con kính đề nghị Chư Tôn Đức tước Tăng tịch của ông Đạt Niệm.

Kính gửi đến Hòa thượng. Thích Thiện Tánh và Chư tôn đức Ban Trị sự Phật giáo Tp.HCM lời chúc pháp thể khinh an, đạo tâm tăng trưởng.

Tp.HCM, ngày 12 tháng 2 năm 2017

Cư sĩ HOÀNG LÊ PHƯƠNG THẢO

Pháp danh. TỊNH CHIẾU

Kèm theo bài viết này là hình ảnh của ông Thích Đạt Niệm và con ruột của ông Niệm: Thích Niệm ThuậnTheo Hội Phật Bút Tự Do Việt Nam

Quân Phục, Cấp Hiệu, Huy Hiệu, Huy Chương từ Quân Đội Quốc Gia Đến Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà

Giới thiệu quí chiến hưủ.

Chủ tịch hội đồng đai diện Cộng Đồng Người Mỷ Gốc Việt, ông  Michael Đổ đã bỏ rất nhiều công sức vừa xuất bản quyễn “Remembering the ARVN” có tất cả cáp hiệu, phù hiệu và huy hiệu QLVNCH.

Sách bán trên Amazon, rất hửu  ích nếu ai cần tham khảo khi ăn mặc hoặc chỉ đễ biết. Các hội đoàn nên có một bản.

Sau đây một bài viết của một dân sự bình luận về quân phục của quân nhân VNCH khá vui:

Lời Giới Thiệu: Nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận , ông Nguyễn Ðình Phúc tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Ban Ðốc Sự Khóa 11, nguyên Phó Tỉnh Trưởng Phước Tuy, hiện cư ngụ tại Vancouver BC, Canada, đã có nhã ý sưu tập gửi đến độc giả tài liệu đặc biệt về huy chương, cấp hiệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xin cảm tạ ông Nguyễn Ðình Phúc và xin giới thiệu cùng quý độc giả.

Sau 30.4.1975, chủ quyền đất nước mất vào tay cộng sản (việt cộng và cộng sản Nga,  Hoa). Chánh Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Ngày nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi khác nhưng lý tưởng, chánh nghĩa người Chiến Sĩ một đời theo đuổi vẫn còn đó, Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm vẫn còn đó, Quê Hương-Dân Tộc vẫn còn đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù mang một hình thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đấu cho nền Ðộc Lập Dân Chủ Tự Do thực sự cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn dân. Một điều khẳng định, chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc, Ðồng Bào vì khi vừa nghe tin những Quần Ðảo Hoàng Sa, Trường Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản Giốc…vừa bị ‘’bạo quyền cắt đất cầu phong’’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp đoạt, dâng hiến… tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng vùng lên…Ðiều này chứng tỏ chúng ta vẫn mãi mãi là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày mai, khi công cuộc tranh đấu dành lại được chủ quyền từ tay cộng sản  cho toàn dân, nền Ðệ Tam Cộng Hòa được thiết lập, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tái tổ chức thì câu chuyện về quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…hôm nay chẳng là câu chuyện phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài liệu cần đến.

Từ hơn 2000 năm trước, Ðức Khổng Tử đã nói đến tầm quan trọng của nhung phục, đại ý Ngài dạy: ‘’Người tráng sĩ tự mình chưa đủ oai dũng khi lên yên chiến mã nếu như thiếu nhung y giáp trụ, thiếu cờ hiệu, cờ lệnh…’’ Bài viết xin được các Chiến Hữu, Ðộc Giả bổ sung, tha thứ vì hầu như hoàn toàn dựa  vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện ‘’lính kể lính nghe’’ trong những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị cháy.

Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5.6.1948 được ký kết giữa Ðại Diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc Trưởng Bảo Ðại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Ðộc Lập, Thống Nhất nhưng vẫn còn nằm trong Liên Hiệp Pháp. Quân Ðội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế mới chỉ là một lực lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu chống Việt Minh (cộng sản) bên cạnh quân đội liên hiệp Pháp. Cho đến những năm đầu thập niên 50. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia vẫn còn nhiều sĩ quan Pháp làm việc, nhiền đơn vị do sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp chỉ huy, quyền chỉ huy tối cao còn thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur (Tiểu Khu, Chi Khu Chiến) của Pháp tại địa phương. Sau đó một số Khu Vực mỗi lần được trao trách nhiệm lại cho Quân Ðội Quốc Gia như những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn thư, danh xưng còn dùng Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S. P (Secteur Postal) thay vì Bộ Tổng Tham Mưu  hay K.B.C Trong hoàn cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…tương tự như quân đội Pháp.

Trên toàn lãnh thổ có 4 Quân Khu: Ðệ Nhất Quân Khu (miền Nam). Ðệ Nhị (miền Trung). Ðệ Tam (miền Bắc). Ðệ Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/Sơn Cước). Lực lượng chính yếu gồm các Tiểu Ðoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien), Tiểu Ðoàn Nhảy Dù…Bên cạnh, chánh quyền địa phương cấp Phần, đứng đầu bởi Vị Thủ Hiến có tư cách pháp nhân riêng, ngạnh sách riêng, quân đội riêng như Bảo Chính Ðoàn (Bắc). Việt Binh Ðoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam), Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân và những lực lượng giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo,  Bình Xuyên…

QUÂN PHỤC

Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu, quân phục chưa quy củ, luộm thuộm vì ngay cả quân phục quân đội Pháp cũng không hơn. Nhiều Quân Nhân mặc chenise vàng, quần trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Ðến khi Quân Ðội Quốc Gia chính thức thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc Phòng Phan Huy Quát), quân phục mới được quy định tề chỉnh hơn.

Lễ phục Sĩ Quan ngoài màu trắng, có màu xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục màu nào thì phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh không kể màu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các Phòng, Sở, ra khỏi Doanh Trại (số 2) ‘’gabardine’’ hay ka-ki. ‘’béreto’’ cùng màu vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) màu xanh ‘’olive’’ riêng Nhẩy Dù thêm áo sô (saut) trông rất oai hùng.

Tới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa Ðại Lễ Phục Sĩ Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao cúc (nút) vàng, thắt lưng đen ‘’casquett’’ trắng, quần sậm, có sọc như các Quân Trường, có cả dạ phục. Còn Tiểu Lễ Quân Phục số 2 màu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa.

Nhớ lại sau Hiệp định đình chiến 1954, Quân Nhân ra Phố mặc đồ tác chiến sẽ bị Tuần Cảnh bắt giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại, quân phục vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên hay Khóa Sinh Quân Trường.

Chuyện trang phục của chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất là từ cấp Tướng Lãnh. Một Ðại Tướng vì gốc Dù nên mặc Ðại Lễ thay vì đội casquette, ông vẫn ‘’sính’’ đội beret đỏ. Một Vị Lãnh Ðạo Quốc Gia, vì gốc Phi Công ‘’anh dũng muôn đời’’ nên cứ diện phi bào với 2 sao để cho Tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một Tướng biệt phái sang Hành Chánh thường mặc đồng phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp Tổng Thống hay Thủ Tướng lại móc ngay 3 sao trong túi đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một Ðô Ðốc, quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong Quân Chủng…Vẽ lại vài ba hình ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi vì thời phong kiến đã có câu ‘’luật không áp dụng với người trên’’ nên nhằm nhò gì chuyện nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu.

Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở Quân Ðội Hoa Kỳ ‘’ngoài quy định từ Thống Tướng tới Binh Sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một quy định gì so với đồng ngũ đồng cấp’’. Sự đồng nhất triệt để tới cả mức gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau. Chắc các Chiến Hữu còn nhớ chuyện một Vị Tướng Hoa Kỳ, ông đã đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người chê sai, người bên vực đúng nhưng ông vẫn tự sát vì sự kiện này.

Tất nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động vì mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy trang, nhưng trong dịp Quốc Khánh, kỷ niệm Quân Lực…các Ðơn Vị mặc chiến phục diễn hành vẫn theo đầy đủ cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương thòng…để thêm oai dũng khác ngày thường.

Khi mới thành lập, chúng ta còn đi giầy đinh (có đinh ở dưới) gọi giầy ‘’săng đá’’ (do chữ Pháp Soldat-Quân Nhân), bước đi gây tiếng cồm cộp. Những toán hầu kỳ, chào kính còn mang ghệt (guêtre) trắng bằng da hay vải bố để túm ông quần lại cho gọn, đẹp. Hành quân dùng giầy bố. Sau này dùng giấy sô (botte de saut) cột dây, có nhiều loại khác nhau. Những Quân Nhân nào diện còn cắt ống giầy gắn fermeture, nhưng khi đổi giầy có thể bị phạt vì làm hư quân trang. Giống như một Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng vì nhu cầu an ninh đã sơn xe jeep mầu dân sự, khi đổi xe đã phải phạt và đền tiền sơn lại như màu nguyên thủy.

Những năm sau này, thêm nhiều Quân Binh Chủng được thành lập nên ngoài chiến phục của Bộ Binh có nhiều kiểu và màu sắc đặc thù riêng rất oai hùng như phi bào (Không Quân) quân phục trắng (Hải Quân) Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân…Ðây cũng là một trong những nét khác biệt của từng màu cờ sắc áo. Sau 1975 trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn rất rét, bị ám ảnh khi thấy hình bóng các thiên thần mũ đỏ, cọp biển…chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh ‘’nhiều cán binh sống sót về lại miền Bắc không dám đứng dưới quạt trần vì còn ngỡ cánh quạt trực thăng săn đuổi’’.

Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều. Xưa kia mũ ‘’béret’’ ka ki vải rất rộng (miền Bắc gọi là mũ bánh đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ ‘’calot’’ xám, đen trên đỉnh xẻ đôi có hai màu xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng đội  chapeau de brousse mũ vải cứng rộng vành (hơi giống Quân Nhân Úc) một bên vành mũ bấm gọn lên để khỏi vướng khi vác súng. Sang thời Cộng Hòa ‘’béret’’ xám đội theo quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tròn khác màu tùy mỗi hàng Binh Sĩ, Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 1963,  thường mặc ‘’tréllis’’ nên mũ vải lúc đầu cứng (như képi) sau như ‘’casquette’’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘’làm dáng’’ tay mũ cũng gắn nhành dương liễu như casquette đại lễ. Mũ sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như Biệt Ðộng Quân cũng tiện.

Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2 không kể cấp hiệu, phù hiệu được mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cấp phần sau. Chỉ riêng việc này đã làm mất tính bí mật quân sự. Ðịch dễ dàng nhận diện hay trên xác Tử Sĩ để lại chiến trường đủ tình trạng quân vụ (Ðơn Vị, cấp bậc…) ngoài những cáo phó, chia buồn góp vui đầy trên báo chí. Ngoài cổng Doanh Trại ghi đầy đủ hệ thống thuộc, Ðơn Vị đồn trú. Trong khi việt cộng đến khi chiếm trọn miền Nam trước cổng chỉ có tấm bảng ‘’doanh trại quân đội nhân dân’’. Như vậy, bài học vỡ lòng che dấu, ẩn nấp để ‘’ta thấy địch, địch không thấy ta’’ trở thành hài hước.

CẤP HIỆU

Cấp hiệu là quy ước có hình thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp ‘’Huynh đệ chi binh’’ là mối tương quan trong đời Quân Ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ khác một vạch, màu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.

Từ khi thành lập Quân Ðội Quốc Gia, cấp hiệu được gọi bằng lono (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như quân đội Pháp cho tới thời Cộng Hòa được thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện sách báo khiêu dâm…Ðây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp.

Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘’lon’’ Sĩ Quan, ngoại trừ Thiết Giáp Binh (Kỵ Binh) dùng vạch trắng. Từ ‘’adjudant’’ (ông Ách) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy dọc, ‘’aspirant’’ (Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt lúc đó chúng ta thường gọi Quan Một, Quan Hai…tới Quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan cao cấp (Officier Supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan cấp thấp (Officier Subalterne). Trên Quan Tư có khoanh trắng (Lieutenant Colonel) với 5 vạch (3 vàng 2 trắng) và Quan Năm khoanh vàng (Colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở lên). Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ mang vạch hình chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh tay.

Người viết không rõ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ Quốc Phòng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng Sĩ xuất xứ từ Lực Lượng Bảo Chính Ðoàn (Bắc Việt) đặt ra trước cùng lúc với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Ðoàn trong khi Sĩ Quan Chính Quy vẫn còn đeo ‘’lon’’ hoàn toàn như sĩ quan Pháp. Xin được mở dấu ngoặc nói thêm về cấp hiệu của Bảo Chính Ðoàn.

Bảo Chính Ðoàn là lực lượng quân sự cấp Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ huy hoàn toàn Việt Nam, không có một hạ sĩ quan hay sĩ quan Pháp nào. Tư Lệnh Phó Bảo Chính Ðoàn (có lúc gọi là Phó Giám Ðốc) là Ðốc Quân Ðoàn Chí Khoan (sau này là Ðại Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc). Ông Ðoàn Chí Khoan có thể coi như người soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo Chính Ðoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức Quân Ðội Trung Hoa Quốc Dân Ðảng và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân cho Sĩ Quan cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có 3 hạng: Phó Ðốc Quân hạng ba, hạng hai và hạng nhất (tương đương Thiếu, Trung, Ðại Úy) và Ðốc Quân cũng có ba hạng. Trên hết là Chánh Ðốc Quân (như cấp Tướng, nhưng chưa có ai được phong). Tư Lệnh Biệt Chính Ðoàn đầu tiên là Ðốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là một trong 6 Ðại Tá đầu tiên của Quân Ðội Quốc Gia). Tư Lệnh Phó là Ðốc Quân hạng 3 Ðoàn Chí Khoan. Giám Ðốc Trường Sĩ Quan Biệt Chính Ðoàn là Ðốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa).

Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân đều đeo hoa mai bạc (hạng 3 một bông…hạng 1 ba bông) nằm ở vạch ngân tuyến. Cấp Ðốc Quân thêm hai sợi ngân tuyến chạy kèm song song hai bên.  Kể cả hàng Binh (Bảo Chính Viên) trở lên đều đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo hình chữ V. Ðiểm đặc biệt là danh xưng Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ được đặt ngay thời đó và sau này vẫn còn được dùng. Riêng danh xưng Ðốc Quân, Phó Ðốc Quân không được duy trì vì không thuận tiện (nếu chỉ gọi Ðốc Quân sẽ không rõ cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu kê).

Nhân đây, xin nói về truyền thống, ý nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3 Quân Binh Chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống quốc tế vì thường có tầm hoạt động ngoài lãnh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng không gồm Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp Binh và Lực Lượng Cảnh Sát. Không hiểu lý do nào, khi quy định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ chỉ riêng Hải Quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo như Quân Ðội. Trước đây Ngành Cảnh Sát đã có tổ chức quy củ với những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên…đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều Sĩ Quan và có lẽ tiện việc sắp đặt chức vụ, đã dùng theo cấp bậc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bỏ quy chế, cấp hiệu cũ,  không quan tâm đến thời gian huấn luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng trình độ văn hóa và thời gian thụ huấn như một Chuẩn Úy Bộ Binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Ðại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc như Quân Ðội. Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có thẩm quyền gì với Quân Nhân lại tạo cho dư luận, cộng sản dễ chỉ trích quân phiện, cảnh sát trị trong khi chính bộ máy kìm kẹp, phá hoại của việt cộng có tới cấp bộ công an.

Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng quân sự địa phương chính quy hóa. Bảo An Ðoàn mang cấp hiệu riêng như Bảo Chính Ðoàn trước kia. Vì thiếu thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trong vừa giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhành lúa ôm hai bên  trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát Sĩ Quan Ðồng Minh kể cả cấp Tá cũng như Huấn Luyện Viên, một điều Yes Sir hai điều cũng yes, General với Thiếu Úy và còn chào kính túi bụi vì nghĩ thầm ít gì cũng Chuẩn…Tướng.

Trở lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mang mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) vì muốn cho Hội Ðồng Tướng Lãnh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘’Tướng trẻ’’ dễ dàng khống chế lớp ‘’Tướng không trẻ’’ hoặc để áp lực cho đi ‘’Ðại Sứ’’. Ðó là thời ‘’Loạn Tướng’’. Ðề cập đến loạn Tướng thiết nghĩ phải nói đến quy chế Tướng Lãnh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đã bước lên hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đã bỏ binh quyền, đời quân ngũ. Vì vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu Thiếu Tướng…mà là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa… Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ, dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lãnh, chỉ thêm chữ hồi hưu như General Westmoreland (Ret). Quân Ðội vẫn phải đãi ngộ Tướng Lãnh với đầy đủ quy chế,  nghi lễ, lương bổng, quân phục, cấp hiệu, Tướng Kỳ, Tùy Viên, Hộ Tống, chào kính…ngoại trừ binh quyền.

Ngoài ra tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp hiệu, phù hiệu của các Lực Lượng Ðồng Minh tham chiến tại Việt Nam trước kia. Ngoài những gì theo truyền thống quốc tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay Không Quân, chữ thập Quân Y…có những đặc thù riêng như Khối Liên Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan…) với Vương miện (Crown). Tháiland trọng bảo tháp (Phật) dành cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.

Nhiều người khen quân phục Hoa Kỳ đẹp, quy củ nhưng cấp hiệu không ý nghĩa. Thật ra Hoa Kỳ lấy biểu hiệu từ thấp lên cao, cấp Thiếu và Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và Ðại Úy 2 vạch trắng là kim loại còn nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với lá vàng, trắng.  Ðại Tá đeo hình chim đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn…(thường dùng danh hiệu đại bàng) Ngôi sao sáng hàng Tướng Lãnh mang biểu hiệu cao tột đỉnh, dẫn đạo chỉ huy.

Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hình chữ V ngược nơi tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cao cấp), còn hàng Hạ Sĩ Quan cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như sau này, trái lại quân đội Pháp còn quy định những Tướng lãnh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu Binh Nhất, Hạ Sĩ, Trung Sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như Ðại Tướng De Latter, được đeo thêm cấp Hạ Sĩ Nhất danh dự. Trung Tướng Cogny thêm cấp Hạ Sĩ. Ðây là quy định chính thức như chức Huyện, Phủ Hàm thời trước, không như cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là Hạ Sĩ danh dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các Ðại Ðơn Vị (commandant en chef/commander in chief) thay vì Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘’Tư Lệnh’’ nói lên sự toàn quyền ban phát lệnh thay vì chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp Chỉ Huy Trưởng.

HUY HIỆU HUY CHƯƠNG

Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rõ Ðơn Vị trực thuộc. Nhiều khi còn dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo, hoặc các ‘’nơ’’ màu để dễ nhận bạn.

Thời phôi thai, Quân Ðội mới có đến cấp Tiểu Ðoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra còn được làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp thuốc…). Các Quân Trường Võ Khoa Thủ Ðức, Liên Quân Ðà Lạt…cũng có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các Ðại Ðơn Vị, Binh Chủng…phù hiệu vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu Ðơn Vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta còn đeo thêm các bằng chuyên môn…như bằng Rừng Núi Sình Lầy, bằng Dù, cánh Bay…

Quân Ðội có nhiều hình thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn Ðơn Vị, cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de guerre, Médaille d’honneur…của Pháp, nhiều loại được lãnh phụ cấp hàng tam cá nguyệt. Sang thời chính thể Quốc Gia, Quốc Trưởng ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với 5 hạng, trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp thưởng rất khó khăn đòi hỏi những chiến công hiển hách, thành tích lớn lao đối với Tổ Quốc, Dân Tộc.  Nghi thức trao gắn rất long trọng, Quân Nhạc cử điệp khúc Quốc Thiều, người được ân thưởng tay nâng Huân Chương để Nguyên Thủ Quốc Gia chào kính. Nếu phạm trọng tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Ðối với hạng nhất, nếu tôi nhớ không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh Danh Dự Ngự Lâm Quân. Kế là Ðại Tướng De Latter, Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp tại Ðông Dương, nhờ chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng Ðệ Nhị Ðẳng. Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Ðại Tướng và truy tặng Ðệ Nhất Ðẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với Nhành Dương Liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ về chiến công và phạm vi tuyên dương trước Quân Ðội hay chỉ trước cấp Lữ Ðoàn, Sư Ðoàn.

Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của Quân Ðội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương thuộc các Quân Binh Chủng được ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương…chưa kể huy chương của nhiều Quốc Gia, Quân Lực Ðồng Minh cũng trao tặng.

Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang tên màu:Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương màu tam hợp đòi hỏi toàn thể Ðại Ðơn Vị phải lập chiến công và ít nhất phải được tuyên dương công trạng cấp Quân Ðội từ ba lần trở lên.

Huy chương khi được ban thưởng, ngoài văn thư có một bằng treo, không kể huy chương (thòng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải tuân theo các cách thức quy định. Huy chương cao hơn phải đeo từ trong phía ngực trái ra ngoài, hàng trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc Huân Chương Ðệ Ngũ và Ðệ Tứ Ðẳng dù thấp nhất trong Bảo Quốc nhưng cũng phải xếp trên cùng. Ðệ Tam đeo dây vòng qua cổ, Ðệ Nhị một bên cạnh sườn và Ðệ Nhất vắt ngang vai. Trong Tiểu Lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ có phần cuống).

Với dạ phục mang huy chương thòng nhưng thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một huy chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các Quân Binh Chủng, Ðại Ðơn Vị, cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đã được ban thưởng.

Với huy chương của các Quốc Gia Ðồng Minh, phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức, Quân Nhân đương sự mới được mang.

Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu…vì không được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn kém cho Quân Nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành.

NGHI THỨC CHÀO KÍNH

Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều cách thức chào kính như: Chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian.

Theo một số tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa ở Tây Phương. Khi gặp Vua Chúa,  Quan quyền, thần dân thuộc hạ phải dơ tay phải lên che mắt để không được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không võ khí. Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở Ðông Phương.

Ðến giữa thập niên 50, số Sĩ Quan cũng còn rất ít. Ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, một Thiếu Úy ra vào cổng chính, Lính gác đã phải đứng nghiêm, Từ Trung Úy phải chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc Binh Sĩ không đủ thời gian đem súng xuống. Tại các Ðơn Vị, từ cấp Ðại Ðội Trưởng (Thiếu hoặc Trung Úy) mỗi khi ra vào cổng, Toán Binh Sĩ trực đã phải dàn chào dưới sự chỉ huy của Ðốc Canh.

Thời trước, Binh Sĩ chào súng theo kiểu Pháp, súng dọc thân mình phía phải, tay phải đỡ đế súng, bàn tay trái khép để trước súng, lòng bàn tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, nòng súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Ðoàn, súng vác vai, tay trái đặt ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước, giữa thân mình. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng. M16 loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai tay trái giữ dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác thì bộ máy cò sát vai (ngược lại kiểu xưa ngửa lên trời), mặt ngước về Thượng cấp. Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai tay mang xách hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào kính bằng cách ‘’hất mặt’’ về cấp chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ, nhà ăn, chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù trình diện cấp trên cũng chỉ đứng nghiêm (không chào nữa).

Khi Sĩ Quan vào phòng, Quân Nhân cao cấp nhất thấy trước sẽ hô ‘’phắc’’ hay ‘’vào hàng phắc’’ đối với  từ cấp Trung Tá (Ðơn Vị Trưởng) trở lên. Khi Thượng cấp rời khỏi phòng chỉ hô ‘’nghiêm’’. Khi hô ‘’vào hàng phắc’’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy (xạ thủ về trước súng,  âm thoại về trước máy…).

Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào kiếm trong Lễ mãn khóa của Sinh Viên Thủ Ðức dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong, đàng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bải chỉ đúng có vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp dưới mắt Cụ, Nhà Lãnh Ðạo gốc dân sự, chưa quen Lễ Nghi Quân Cách nên bước ngay xuống, dơ tay bắt tay Sinh Viên Thủ Khoa. Phần này không dự liệu nên anh Thủ Khoa hốt hoảng vã mồ hôi, nhất là nhìn tay Quốc Trưởng đã đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp, chuyển kiếm sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong khi tay trái cầm kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ anh được lãnh ngay lệnh phạt gia tăng từ  Ðại Ðội Trưởng lên tới Tướng Chỉ Huy Trưởng với lý do ‘’chào kính Nguyên Thủ sai quy cách’’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được bắt tay).

Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy Tỉnh, Quận vào những dịp cúng tế tại Ðình Miếu đã rất lúng túng hoặc hành xử sai quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương…có ông tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường được hỏi về thái độ thích nghi và đã cố giải thích: ‘’Với Quân Nhân cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu tượng Quốc Kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo Quân Cách. Quân Ðội không dự trù có trường hợp Quân Nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh, Quận Trưởng, cho dù với tư cách Thượng Khách, khi được mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay vì các động tác này không hề có theo Quân Cách). Việc cử hành lễ là hoàn toàn là quyền hạn và trách nhiệm của Ban Hương Chức. Nếu muốn bày tỏ cung cách nào khác hơn, hãy mặc thường hay quốc phục’’. Không biết các ý kiến Niên Trưởng ra sao? (Đúng!)

Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu…rất dài, phức tạp. Ðủ thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu hay toàn thể Chiến Hữu chứ đâu phải do một anh Lính ‘’tốt đen’’. Tuy vậy, đã là Lính từng biết hô lớn câu ‘’tan hàng, cố gắng’’ nên cuộc đời ‘’cố gắng’’ đã quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy.

Nhìn lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Ðiều này sao tránh vì chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của Ðồng Minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.

Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh thì mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do mình chọn từ chiến công, hình ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Ðằng, mũi khoan Yết Kiêu (Hải Quân, Người Nhái), ngựa sắt Phù Ðổng (Thiết Kỵ), lò đúc Cao Thắng (Quân Cụ), nỏ thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa Thành (Công Binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trãi (Tâm Lý Chiến)…kể sao cho hết.

Người viết, một Khinh Binh Việt Nam Cộng Hòa, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào Quốc Kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc, chào Quân Kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Ðội. Kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Anh Hùng Liệt Sĩ, Chiến Hữu đã hy sinh. Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến Chiến Hữu, Ðộc Giả. 

Nguyễn Đình Phúc

***

Xin kính gửi vài trang trong sách để quý vị xem. Michael Đỗ

Michael Do (Do Van Phuc)
Chairman of the Board of Directorss.
The Vietnamese American Community of the USA

Ai là người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ

Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên sang Hoa Kỳ kết mối bang giao hòa hiếu đồng minh, thì có một người đã sang Hoa Kỳ trước đó 20 năm để trở thành cao bồi. Ông là Trần Trọng Khiêm quê Phú Thọ. Tuy không phải là một sứ giả, nhưng cuộc đời ông Trần Trọng Khiêm

Tìm Vàng nơi đất khách
Theo như nghiên cứu của học giả Nguyễn Hiến Lê, ông Trần Trọng Khiêm sinh năm 1821 quê làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, nay là xã Xuân Lũng (Lâm Thao, Phú Thọ).
Năm ông 21 tuổi, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Trần Trọng Khiêm trong cơn uất hận đã ra tay giết chánh tổng báo thù cho vợ. Sau đó, ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc.
Suốt 12 năm ròng, từ 1842 – 1854, Trần Trọng Khiêm đi qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến TP New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường cho bốn năm phiêu bạt ở đất Hoa Kỳ.
Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi đến Hoa Kỳ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về TP San Francisco và làm ký giả cho tờ Daily News trong vòng 2 năm.
Trong một cuốn sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1937, có tác giả đã kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch vào giữa thế kỷ XIX. Họ đến từ nhiều nước rồi hợp thành đoàn đi sang miền Tây tìm vàng.
Miền Tây – đó bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm để mua lương thực và vũ khí. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng.
Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu. Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

Trở thành nhà báo


Theo tìm hiểu của học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ XIX, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp nhưng Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Hoa Kỳ.
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên là Lê Kim. Vì vẫn bị truy nã nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.

Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.

Khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Gần 10 năm sau, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội. Trong gia phả nhà họ Lê gìn giữ ghi lại lời trăng trối thì trước khi chết, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con; đồng thời căn dặn các con giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi.
Nghĩa quân chôn Lê Kim ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó ông vừa tròn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Hoa Kỳ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước. Dù cuộc khởi nghĩa của ông không thành công nhưng cũng thành nhân” như lời của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học đã nói.

Không Bỏ Bạn Lại

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa

Tháng Tám năm 1985.  Thành phố Los Angeles với nhà cửa san sát và xe cộ đông như kiến hiện rõ dần dưới ánh nắng chiều, tiếng cô tiếp viên hàng không loan báo phi cơ chuẩn bị hạ cánh khiến tôi háo hức.  Nhân đi công tác ở Palo Alto ở bắc California, tôi bay xuống Los Angeles chơi cuối tuần với vợ chồng Canh; Canh là bạn đồng nghiệp dạy ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Minh Đức.  Cuối tháng Sáu năm 1975, tôi đã gặp Canh trong trại tỵ nạn Trại Pendleton, nhưng từ đó đến nay mặc dù thư từ và điện thoại thường xuyên, chúng tôi chưa gặp lại nhau.  Canh mừng rỡ khoát tay lia lịa khi thấy tôi ở cuối jetway (hành lang dẫn từ phi cơ vào phòng đợi phi trạm).  Hai đứa ôm chầm lấy nhau; tôi nhìn bạn từ đầu đến chân và cố dấu vẻ xúc động,
            “Mày không chịu bơ sữa đế quốc hay sao mà người ngợm tang thương thế kia?”
            “Còn mày trông như thằng cha thiếu thuốc, có khác gì tao?  Chúng mình già rồi Ba Hoa ạ,” Canh đỡ lấy chiếc cặp da trên tay tôi.
            “Cô Lòng Heo. . . à Long Huê có khỏe không?  Chiều nay cô ấy đi làm hả?”
Ngày còn là sinh viên ban Điện tử của Đại học Khoa học Sài gòn, Canh bị bạn bè gọi đùa là “Tiết Canh.”  Khi Canh cặp bồ với cô sinh viên lớp Lý Hóa Nhiên (hay “chứng chỉ” SPCN) Long Huê người Việt gốc Hoa quê ở Rạch Giá, lũ bạn bèn tức cảnh sinh tình phang ngay cho nàng cái tên “Lòng Heo” để đi đôi với Tiết Canh cho . . . hợp duyên.  Canh mỉm cười trách nhẹ,
            “Mày chứng nào vẫn tật ấy!  Hôm nay bà ấy nghỉ làm ở nhà nấu nướng đãi mày.”
            “Tụi mày nhiễu sự, bày vẽ làm chi cho mất công.”
            “Mười năm mới có dịp đón tiếp gã nhà quê từ nơi đồng nội North Dakota đến thăm viếng chốn thị thành ấy mà!  Hôm nay có thằng Tiễn và vài người bạn ở quanh đây.”
Dễ đến mười tám, mười chín năm nay tôi mới gặp lại Tiễn.  Ngày đó, lớp đệ nhất niên ban kỹ sư của ba trường Công chánh, Công nghệ, và Điện học chung và học các môn khoa học cơ bản; Tiễn thuộc ngành Công chánh và tôi là dân Điện.  Mặt rỗ chằng rỗ chịt, người bé loắt choắt, giọng nói oang oang, và tính ưa nghịch phá, Tiễn lân la làm quen rồi chơi thân với tôi.  Tôi nghe từ vườn sau Tiễn cười vang kể chuyện xưa,
            “Trong giảng đường gần tám chục mạng mà chỉ có hai thằng đứng thẳng lưng là tao và thằng Chích Chòe.  Bọn cù lần kia sợ thầy như đĩ thấy cha, tối ngày đứng khom lưng một điều ‘Thưa giáo sư,’ hai điều ‘Dạ vâng, giáo sư.’”
            “Còn mày, phét lác cho lắm mà sao bị xoọc-ti lát thành dở ông dở thằng?” có tiếng hỏi vặn lại; “xoọc-ti lát” là “sortie latérale” tiếng Pháp nghĩa là ra trường ngang hay bị đuổi học.
            “Hà hà, ‘anh mày’ là dân chơisố dzách!  Tình cờ thấy ông Thế Trưởng ban Khoa học Cơ bản vào cầu tiêu sau giảng đường có ổ khóa treo lủng lẳng bên ngoài, tao bèn tiện tay lật bản lề, móc khóa vào bấm lại, và bỏ chạy một nước.  Sau đó ông ta biết tao là thủ phạm và ra tay trù tới nơi tới chốn.  Làm sao tao thọ sang năm thứ hai?”
Tiễn bắt tay tôi với nụ cười mở rộng đến mang tai; tôi hỏi,
            “Hai mươi năm rồi mà sao bạn ta không lớn thêm được tí ti nào?  Đã vợ con gì chưa hay vẫn phòng không chiếc bóng?”
            “Thứ nửa người nửa ngợm nửa đười ươi như nó, con Chín dưới đò cũng chê, đàn bà con gái ai mà thèm?” Canh cười khà khà khiêu chiến; “chín dưới đò” nói lái thành “chó dưới đình.”
            “Hôm nay có thằng Chích Chòe phương xa lại, tao tạm tha cho thằng Tiết Canh.  Vả lại, cô Lòng Heo hứa cho ăn ngon nên ‘anh nó’ nhường nhịn một tí cho phải đạo,” Tiễn vênh váo trả lời và giới thiệu người bạn đứng bên cạnh với tôi, “Thằng Hoàn ở chung nhà với tao.  Xưa kia nó có vợ đình huỳnh, nhưng khi dzọt khỏi Sài gòn, gặp ‘hên’ vợ ngủm củ lèo nên thành ra độc thân vui tính như tao.”
Hoàn trông tương phản với Tiễn một trời một vực:  thân hình cao lớn, hùng tráng khôi ngôi, nhưng vẻ mặt u sầu với đôi mắt buồn thăm thẳm.  Hoàn bước lại gần tôi nói nhỏ nhẹ,
            “Tôi là dân trung học Võ Tánh Nha Trang, hồi đi thi tú tài đã nghe danh ‘ông.’  Trong lúc ‘ông’ làm bá chủ hội đồng Võ Tánh cả hai năm, tôi chật vật lắm mới qua được cửa ải Tú tài I, nhưng năm sau trượt vỏ chuối trong hai kỳ thi Tú tài II.”
            “Sau đó ‘ông’ làm gì?”
            “Tôi tình nguyện đi sĩ quan Không quân.  Sau thời gian thụ huấn tại trường Sĩ quan Không quân Nha Trang, tôi đi Mỹ học lái phi cơ vận tải.  Đầu năm 1975, tôi là đại úy lái C-130 ở Không đoàn Chiến thuật XX trong căn cứ Tân Sơn Nhứt.”

C-130 Hercules (Dũng sĩ Hercules) là máy bay vận tải có bốn động cơ tua-bin cánh quạt có thể cất cánh và hạ cánh trên phi đạo ngắn không dự bị trước.  Gần cuối bữa tiệc thịnh soạn do Long Huê khổ công nấu nướng, và khi màn đấu láo của đám bạn dịu lại, tôi gợi chuyện với Hoàn,
            “Năm 1975, ‘ông’ ra đi bằng gì?  Chắc hẳn không phải là tàu Hải quân như tôi rồi.”
            “Tôi lái C-130 chở gia đình quân nhân Không quân trốn thoát qua căn cứ U-Tapao bên Thái Lan.”  Căn cứ Không quân U-Tapao được Hoa kỳ dùng làm căn cứ cho phi cơ oanh tạc B-52 đi giội bom thời chiến tranh Việt nam.
            “’Bà’ ấy mất vào lúc nào?” tôi ái ngại hỏi.
            “Quế Hương cũng là dân Nha Trang; nàng ra đi trong chuyến bay định mệnh đó.  Ở Sài gòn chỉ có hai đứa tôi, gia đình hai bên ở hết và kẹt lại ngoài Nha Trang,” với giọng nói buồn tênh, Hoàn chậm rãi thuật lại quãng đời đau thương mười năm trước.
* * *
Trong mấy tuần lễ cuối cùng của Việt nam Cộng hòa (“VNCH”), quân nhân Không quân, nhất là các phi công như Hoàn, công khai thảo luận và chuẩn bị di tản gia đình bằng máy bay của mình.  Ba giờ rưỡi sáng ngày 29 tháng Tư, đợt pháo kích đầu tiên của Việt Cộng vào căn cứ Tân Sơn Nhứt khiến Hoàn và Quế Hương thức dậy và sửa soạn ra đi.  Khoảng chín giờ, Hoàn trông thấy ông Phó Kiền lên trực thăng bay theo hướng đông về phía Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ ngoài hải phận quốc tế.  Chín giờ 45 phút, ban Tình báo căn cứ loan báo đợt pháo kích sắp tới sẽ gây thiệt hại rất nặng nề; đó là hiệu lệnh giờ G đã điểm.  Giờ thì mạnh ai nấy bay.
Hoàn và Quế Hương chạy như bay và leo lên chiếc C-130 chàng bay thường ngày, phi cơ đã đầy ắp người.  Chàng vội kiếm chỗ cho Quế Hương ngồi rồi bước ngay vào phòng lái mở máy cho phi cơ chạy từ từ ra phi đạo; nhiều người loi nhoi chạy theo và cố nhảy lên cửa trước còn để mở.  Ra tới phi đạo, chàng ra lệnh đóng cửa, gia tăng tốc độ, và cất cánh bay về hướng tây giữa lằn đạn pháo kích.  Đáp phi cơ xuống U-Tapao an toàn, chàng thở phào một tiếng nhẹ nhõm và đợi hành khách xuống hết mới ra khỏi phi cơ.  Trong khi mọi người được đưa tới khu tạm trú trong các nhà để máy bay, ba-rắc lính, và lều vải nhà binh, chàng kinh hoảng nhảy bổ đi tìm Quế Hương; không ai thấy nàng đâu cả.  Cuối cùng, chàng gặp anh hạ sĩ quan cơ khí quen, anh ta mếu máo,
            “Đại úy ơi, ở Tân Sơn Nhứt, khi cửa còn mở, bà đứng nghiêng mình ra ngoài giúp kéo những người đất lên.  Họ níu kéo chen lấn và đẩy bà rớt xuống, bà bị máy bay cán lên người.”
Trời đất sụp đổ trước mắt Hoàn.  Người vợ yêu quý chết tức tưởi.  Đi ra ngoại quốc làm gì khi lẽ sống duy nhất trong đời không còn nữa?  Chàng phải trở về Việt nam tìm xác nàng mai táng cho trọn tình trọn nghĩa.  Dù chết cũng về, nhất định thế.
Căn cứ U-Tapao trở thành trại tiếp cư cho 3,900 người di tản.  Vị chỉ huy trưởng là Đại tá Harold R. Dallas, một sĩ quan có ba mươi năm quân vụ, phải chạy đôn chạy đáo lo ăn ở cho đám người này.  Nhưng khẩn thiết hơn là ông phải di chuyển họ ra khỏi Thái Lan ngay lập tức.  Chính phủ Thái sợ Việt Cộng kiếm cớ gây hấn và xâm chiếm, nhất định đòi trục xuất họ ra khỏi nước, và đe dọa sẽ tống giam và hành hình nếu họ không tuân lệnh.  Bộ chỉ huy Không quân Hoa kỳ vùng Thái bình dương đóng tại Hạ Uy Di cấp tốc gửi 21 phi cơ vận tải hạng nặng C-141 sang để chở tất cả qua đảo Guam.
Khi những chiếc C-141 đầu tiên đáp xuống U-Tapao, Đại tá Dallas lại đương đầu với khó khăn mới:  Kể cả người phi công vừa mất vợ, có 65 quân nhân VNCH trẻ nói đã ra đi lầm và muốn trở về Việt nam.  Tất cả đều đi trên chiếc C-130 do Hoàn lái sang và do một thiếu úy tên Lý cầm đầu; Lý cùng tuổi với Hoàn và phục vụ ở phòng Kỹ thuật Không quân.  Đại tá Dallas cậy một đại tá Không quân là vị sĩ quan VNCH cấp bậc cao nhất thuyết phục 65 người đó đi sang Guam tỵ nạn; ông này vạch rõ ra rằng nếu họ trở về, Việt Cộng sẽ không dung tha và đem ra xử bắn như không.  Rốt cuộc, 52 người đồng ý đi Guam, nhưng 13 người còn lại (gồm cả Hoàn) kiên quyết, “Về hay chết tại đây!”
Mười ba người cực kỳ bướng bỉnh đó đặt Đại tá Dallas vào một hoàn cảnh vô cùng khó xử, giao họ cho chính phủ Thái là điều sau chót một chiến binh yêu thương đồng đội như ông muốn làm.  Giữa lúc đó, y sĩ của căn cứ đưa ra đề nghị:  Truyền thống của quân đội Hoa kỳ là không bỏ bạn lại (“no one left behind”), và nếu vì một lý do nào đó quân nhân bị thương thà chết chứ không chịu rời chiến trường, quân luật Hoa kỳ cho phép toán quân y dùng thuốc an thần để cưỡng bách tản thương.  Trong khi chiếc C-141 cuối cùng để máy nổ nằm chờ trên đường ra phi đạo, vị chỉ huy trưởng buộc lòng chấp thuận giải pháp này.
Người đầu tiên bị tiêm thuốc an thần là Lý, Lý vùng vẫy kịch liệt khi bị khiêng vào trạm quân y.  Mười hai người kia ngập ngừng, nhưng không kháng cự.  Theo đúng thủ tục, đại tá Dallas phái bốn quân cảnh và một y tá đi theo hộ tống họ.  Đến Guam, 13 người phản đối dữ dội, biểu tình tố cáo lính Mỹ “dùng thuốc mê để bắt cóc” họ, và khiếu nại với văn phòng đặc trách thỉnh nguyện hồi hương của Hoa kỳ.  Báo chí đăng tin và làm lớn chuyện khiến Đại tá Dallas bị cách chức và bắt buộc phải giải ngũ.
Kể đến đây, Hoàn mím môi cố nén nỗi bực tức,
            “Phải công nhận thằng Lý có tài xúi giục và huy động đám đông.  Ở Guam, nó cầm đầu những vụ biểu tình, cạo đầu, tuyệt thực, và có lần bạo động đốt doanh trại và đánh lính Mỹ bị thương.  Nhưng khi chính phủ Hoa kỳ đồng ý cho đi về bằng tàu Việt nam Thương tín thì trước ngày lên tàu nó xin ở lại.”
            “Mẹ nó, đúng là thằng Việt Cộng nằm vùng!  Xong công tác đó, nó ở lại Mỹ để tiếp tục đánh phá cộng đồng tỵ nạn,” tôi buột miệng la lớn.
            “Ai cũng thấy vậy; tôi còn nghi nó là thủ phạm gây ra cái chết của Quế Hương.  Tôi bèn đổi ý xin ở lại, đó là quyết định sáng suốt duy nhất của tôi trong gần sáu tháng trời.”
Thấy tên “Lý” nghe quen quen, tôi hỏi,
            “Bây giờ thằng Lý đó ở đâu, ‘ông’ biết không?”
            “Nó lấy vợ, và hai vợ chồng sống ở San Francisco và kết nạp bọn thân Cộng, gây quỹ, và ra báo tuyên truyền cho Cộng sản trên đất Mỹ tự do.  ‘Ông’ biết trong giới người Việt tỵ nạn mình có một nhóm võ trang bí mật tên là Việt nam Diệt Cộng Hưng quốc chứ?  Khoảng ba năm trước, họ gửi thư ngỏ cảnh cáo vợ chồng nó, nhưng cặp Cộng con không những không ngưng hoạt động mà còn lên mặt thách đố.  Nhóm Hưng quốc ra tay, vợ chồng nó bị bắn chết trước nhà, và cảnh sát địa phương và FBI (Văn phòng Điều tra Liên bang) điều tra mà không tìm ra manh mối.”
            “Đáng đời hai đứa gian ác!  Tôi có đọc vụ này trên cả hai tờ Time và Newsweek,” tôi gật đầu; Time và Newsweek là hai tuần san nổi tiếng phát hành tại Hoa kỳ và lưu hành khắp thế giới.
            “Mười năm qua, tôi rất ân hận về việc mình làm:  Với tư cách một quân nhân đồng minh, Đại tá Dallas đã áp dụng nguyên tắc ‘không bỏ bạn lại’ để cứu giúp 13 quân nhân Việt nam Cộng hòa.  Vậy mà tôi nghe theo lời kẻ gian và góp phần vào việc chấm đời binh nghiệp của một sĩ quan đáng kính.”
Tôi thấy có đến hai người đáng kính:  Một người là Đại tá Dallas – đã đành, người kia chính là Hoàn.  Dù trải qua bao nhiêu khổ đau mất mát, chàng can đảm nhận lỗi lầm của mình.  Tôi đâm ra phục người bạn mới quen.
Nguyễn Ngọc Hoa
 Ngày 9 tháng Mười, 2019