Tạp ghi ‘ÔNG HỒ CHÍ MINH YÊU CÁI GÌ?’

Báo Anh đăng lại hình ảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Chú thích của báo Dân Trí

ĐIỆP MỸ LINH

Vừa “bấm” vào BBC tiếng Việt, thấy tựa đề Thảm Kịch 39 Người Việt được BBC Làm Phim Tài Liệu, tôi lặng người, cảm thấy tức giận, nhưng không biết giận ai và giận cái gì!
Sự việc “thùng nhân” của 39 người Việt chết trong xe tải đông lạnh ở Essex, Anh quốc, ngày 23/10/2019, tưởng đã chìm vào quên lãng để linh hồn của những nạn nhân khốn khổ này được yên nghỉ; nay bỗng được BBC khơi dậy.
Sự khơi dậy một cách cố tình của BBC là một vết đâm sâu hút vào nỗi đau thương vô tận của cả một dân tộc và cũng là một cái tát “nẩy lửa” vào mặt nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (csVN)!
Dân tộc Việt, từ thời cổ đại, đã có nhiều Tiền Nhân vĩ đại như Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, v.v… oai hùng đánh đuổi quân Tàu Ô xâm lược.
Trong thời gian ngắn ngủi – từ 1954 đến 1975 – nền độc lập non trẻ của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) luôn luôn bị csVN dùng mọi thủ đoạn để dánh phá và tiêu diệt. Thế mà, ngày 19 tháng 01 năm 1974, Hải Quân VNCH cũng đã anh dũng chống lại – nhưng không đuổi được – quân Tàu Ô khi quân Tàu Ô cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Thế thì, tại sao, sau khi ông Hồ Chí Minh thành lập đảng csVN rồi gieo không biết bao nhiêu đau thương và tang tóc cho dân Việt thì người Việt chỉ biết…chạy?
Thời Việt Minh – tay sai rất đắc lực của đảng csVN – kháng chiến, Ba tôi theo kháng chiến chống Tây. Tôi vẫn nhớ từng nhóm người rách rưới, “đùm túm” nhau, chạy hết làng này qua làng khác, làng kia qua làng nọ; vì Việt Minh đốt nhà, phá hoại toàn diện để thi hành chính sách “tiêu thổ kháng chiến” và “bần cùng hóa nhân dân”. Thế nhưng, ngay sau khi bộ đội cụ Hồ đốt phá nhà dân, Việt Minh lại giăng khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp tàn phá quê hương ta”.
Năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi nước Việt được ký kết, ngày 20-07-1954 – csVN phía Bắc, Quốc Gia VNCH phía Nam – cả triệu người Bắc đã rời miền Bắc, trốn chạy khỏi xã hội chủ nghĩa cộng sản để vượt sóng vào Nam.
Tại miền Nam, suốt cuộc chiến tương tàn gần 21 năm, hễ nghe hoặc thấy bóng dáng của Việt cộng – người miền Nam gọi Việt Minh là Việt cộng, do rút gọn hai danh từ kép Việt Minh cộng sản – ở đâu thì người dân ở đó cũng vội vàng chạy về phía VNCH.
Điễn hình cho các cuộc trốn chạy khỏi csVN là năm Mậu Thân, 1968, khi csVN tấn công Huế; năm 1972 csVN tấn công Quảng Trị, lưu lại nhóm chữ hãi hùng “Mùa Hè đỏ lửa”; năm 1975 csVN tấn công Cao Nguyên Trung phần, tạo nên “suối máu” trên liên tỉnh lộ 7; khi csVN dốc tất cả lực lượng tấn công toàn cõi miền Nam Việt Nam thì danh từ kép “Ngày Quốc Hận” ra đời!
Trong Ngày Quốc Hận, 1975, Hạm Đội Hải Quân VNCH phải lìa biển Mẹ, đưa cả mấy mươi ngàn người Việt thoát khỏi gông cùm của csVN.
Sau khi đài BBC loan báo số người Việt do Hải Quân VNCH giúp vượt thoát đã và đang được các nước Tự Do cứu trợ thì không biết bao nhiêu ngàn người Việt khác đã liều chết vượt biển – được gọi là “thuyền nhân” – hoặc vượt biên bằng đường bộ, qua ngã Cam-bốt, để xa lìa sự cai trị sắt máu của người csVN.
Theo bài của giáo sư Lê Xuân Khoa đăng trên BBC ngày 17/04/20, thì: “…Chính sách bóc lột và trả thù tàn ác của csVN đối với nhân dân miền Nam là nguyên nhân chính đã khiến trên hai triệu dân phải bỏ hết tài sản và sự nghiệp {…} Theo các con số của Liên Hiệp Quốc, cho tới khi quốc tế chính thức chấm dứt chương trình tị nạn Việt Nam, năm 1995, tổng số người ra đi được liệt kê như sau:
Đợt I.- Cuối tháng Tư 1975: 140.00 người
Đợt II.- 1975-1979: 327.000 người
Đợt III.- 1980-1989:450.00 người
Đợt IV.- 1990-1995: 63.000 người
Chương trình ODP.- 1979-1995: 624.000 người
Số người chết hoặc mất tích trên đường vượt thoát: 300.000 người. (Hết trích)
Ai cũng tưởng rằng, sau khi quốc tế chính thức chấm dứt chương trình tị nạn thì người Việt không còn chạy được nữa!
Không ngờ, sau đó, người Việt lại chạy khỏi Việt Nam bằng đủ mọi phương tiện, mọi hình thức, như: Xuất khẩu lao động để phụ nữ làm điếm, ăn cắp, đàn ông trồng cần sa; kết hôn với người “nước ngoài” rồi “òn ỉ” để người hôn phối “nước ngoài” mua bảo hiểm nhân thọ thật cao cho chính người hôn phối “nước ngoài”. Chỉ có Trời mới hiểu được ý đồ thâm độc của người hôn phối từ Việt Nam sang! Cán bộ hoặc sĩ quan cao cấp, như Bùi Tín, đi công tác rồi không về; du học “nước ngoài” rồi ở lại, v.v… chứ người Việt không dám chống lại sự dã man, tàn ác của người csVN?
Những sự kiện cả triệu triệu người tháo chạy khỏi chế độ csVN – cũng như 39 “thùng nhân” người Việt chết ngộp trong xe tải, tại Anh – đã cho thế giới thấy rõ bộ mặt thật của nhà cẩm quyền csVN.
Khi phim tài liệu về 39 “thùng nhân” người Việt được trình chiếu thì dư luận thế giới sẽ nghĩ gì về một thể chế dã man và tàn độc như nhà cầm quyền csVN mà vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay? Người ta cũng có thể đặc câu hỏi: Tại sao dưới thời cai trị của thực dân Pháp cũng như dưới sự “xâm lăng” của “đế quốc” Mỹ mà không một người Việt Nam nào phải rơi nước mắt để lìa bỏ Quê Hương? Và dư luận thế giới sẽ nhìn những thế hệ hậu duệ của Đức Thánh Trần Hưng Đạo, của Hai Bà Trưng, của Ngô Quyền như thế nào khi mà đa số thanh niên Việt Nam chỉ biết dong ruổi bằng xe gắn máy hoặc giết thì giờ trong quán cà-phê mùng, bia ôm, quán vĩa hè; thiếu nữ Việt chỉ dành dụm tiền để độn mông, độn ngực, mong “vớ” được chàng Tây, chàng Mỹ để chạy khỏi Việt Nam một cách an toàn?
Ngày xưa, ông Hồ Chí Minh và đảng csVN lập ra chiêu bài chống Tây chống Mỹ để đưa cả mấy triệu người Việt – cả Nam và Bắc Việt Nam – vào chỗ chết! Với phương thức bưng bít thông tin của csVN và phương tiện thông tin yếu kém, người dân Việt cứ nhầm, tưởng “bác Hồ cổ xúy chống Tây chống Mỹ là vì lòng yêu nước”.
Thời đại “a còng” – @ – ngày nay, dù dư luận viên csVN cố tình chỉnh sửa, thay đổi hoặc xóa mờ lịch sử và hình ảnh thì người nào tinh ý cũng vẫn có thể nhận ra những điểm quan trọng trên vài phương tiện truyền thông quốc tế.
Nhờ truyền thông quốc tế, lý do ông Hồ Chí Minh chống Tây chống Mỹ để đưa cả một dân tộc vào hai cuộc chiến đầy kinh hoàng và thảm khốc đã được phơi bày.
Kính mời quý vị đọc vài đoạn trích dẫn và link sau đây:
“In 1911, Hồ Chí Minh went to the South to Gia Dinh (Saigon) and joined a ship en route to Marseille, France as a cabin-boy. Hồ Chí Minh’s first time abroad was not easy; he worked hard as a cleaner, waiter, cook’s helper
Hồ Chí Minh applied for a course at the French ‘Colonial Administrative School’ immediately after he arrived in Marseille. However, his application was rejected…”
“… travelled to the United States, first arriving in New York in 1912 during a stop-over while working as an on-board cook on a ship…
“Following World War I, as Nguyễn Ái Quốc (Nguyen the Patriot), on behalf of the ‘Group of Vietnamese Patriots’ he petitioned the great powers at the Versailles peace talks for equal rights in French Indochina but was ignored. He asked sitting U.S President Woodrow Wilson for help to remove the French by any means possible in Vietnam, for a new nationalist movement and new government, but this idea was ignored…”
“…He returned to Vietnam in 1941 to lead the Việt Minh {…} At one point he was captured by the Japanese but escaped. However he suffered under their torture and was nursed back to health by American doctors…” Link:
https://www.cs.mcgill.ca/~rwest/wikispeedia/wpcd/wp/h/Ho_Chi_Minh.htm
Qua vài phân đoạn trích dẫn bên trên, chúng ta thấy: Ông Hồ Chí Minh làm bồi phòng, lau dọn, phụ bếp trên một thương thuyền của Tây. Sau khi đến Marseille, Ông Hồ Chí Minh xin học trường Colonial Administrative School – mà không được chấp thuận.
Ông Hồ Chí Minh ôm hận với Tây.
Ông Hồ Chí Minh đến Hoa Kỳ, cũng trong vai trò phụ bếp. Ông thỉnh cầu U.S President Woodrow Wilson giúp đánh đuổi Pháp khỏi Việt Nam – nhưng bị “phớt lờ”!
Ông Hồ Chí Minh ôm hận với Mỹ! Nhưng ông Hồ Chí Minh đã “phủi” ơn các bác sĩ Mỹ đã cứu mạng sống của ông sau khi ông bị người Nhật bắt và hành hạ!
Qua ba sự kiện kể trên, người đọc thấy rõ – chứ người viết không hề “đánh tráo khái niệm” – ông Hồ Chí Minh là một người vong ơn, chỉ biết yêu “cái tôi” của ông ấy, đã biến sự tự ti mặc cảm nặng nề của cá nhân ông ấy thành hận thù đối với Pháp và Mỹ. Từ đó, ông Hồ Chí Minh khởi động hai cuộc chiến chống Tây và chống Mỹ, gây nên không biết bao nhiêu tang tóc, chia lìa cho người dân Việt suốt hơn 90 năm!
Nỗi đau âm thầm và dai dẳng của người dân Việt, dưới sự cai trị dã man và tàn bạo của người csVN, sắp được BBC phơi bày. Một lần nữa, nhân loại được nhận thức một cách sâu sắc hơn về cộng sản; rồi nhân loại sẽ hiểu rằng những tệ trạng trong xã hội cũng như trong tâm hồn người Việt Nam – trong nước – hôm nay xuất phát từ sự cai trị mong muội của đảng và người csVN chứ dân tộc Việt Nam tính bổn thiện!

ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/

Đại lễ kỷ niệm Đức Thánh Trần do Hội Hải Quân Trùng Dương Dallas -Forth Worth tổ chức

This image has an empty alt attribute; its file name is TDOL.png

Arlington – Trong tinh thần nhớ ơn các anh hùng dân tộc đã dày công dựng nước và giữ nước, đại lễ kỷ niệm Đức Trần Hưng Đạo cũng là vị Thánh Tổ của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã được hội Hải Quân Trùng Dương DFW tổ chức rất trang trọng vào lúc 12 giờ trưa ngày Chủ Nhật 26 tháng 9 năm 2021 tại New York Events Center nằm trong Khu thương mại Bến Thành Plaza, thành phố Arlington, Texas với khoảng 250 người tham dự.

Từ phải, quý niên trưởng Đinh Thạch On, Lê Chu, Nguyễn Quang Vinh cùng phu nhân và bà Nguyễn Thanh Thúy, Hội trưởng Hội Cao Niên Tarrant County

Một góc buổi lễ

Hiện diện có quý niên trưởng Đinh Thạch On, Trần Thiện Kính, Lê Chu, Trịnh Thiên Khoa, Nguyễn Quang Vinh. Nhị vị Chủ tịch cộng đồng Dallas và Tarrant County, Jason Lý và Hồ văn Điền, Chủ tịch đắc cử cộng đồng Tarrant County, Nguyễn Hữu Đoan Trang. Quý hội trưởng các hội đoàn dân sự gồm có Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo Arlington Fort Worth, Hội Quãng Ngãi, Hội Bình Định, Hội Thừa Thiên Huế, Hội Phụ Nữ Quốc Gia Việt Nam DFW, Hội Cao Niên Dallas, Hội Cao Niên Tarrant County, Hội Người Việt, Hội Linh Hướng, Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm, Trung Tâm Tuổi Vàng Arlington với Giám đốc trẻ, Annie Phạm. Các hội đoàn quân đội như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Nha Kỷ Thuật, Lực Lượng Đặc Biệt, Quân Cảnh, Thủ Đức, Hải Quân. Chủ tịch Ủy Ban Bảo Tồn Tượng Đài Việt Mỹ, Bác sĩ Đàng Thiện Hưng. Tổng Hội Trưởng Nha Kỷ Thuật, Hoàng Như Bá. Cựu Tổng Hội Trưởng Hải Quân, Nguyễn Xuân Dục. Phó Chủ tịch Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam, Bùi Quang Thống. Truyền thông báo chí có Bút Việt News và TrẻĐẹpOnline Daily News. Chương trình do MC Châu Đình Hiếu điều hành.

Lễ chào quốc kỳ và tế lễ cổ truyền

Đại lễ bắt đầu với nghi thức Lễ trao Thánh Kỳ,Hội trưởng Hải Quân DFW, Nguyễn văn Lạc nhận Thánh Kỳ từ một Hải Quân trao lại rồi  trịnh trọng cắm bên trái bàn thờ vị anh hùng dân tộc, Đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tiếp theo là Lễ chào quốc kỳ, mặc niệm, và tế lễ cổ truyền theo nghi thức Hải Quân, xong quý niên trưởng và đại diện hội đoàn lên niệm hương trước bàn thờ Đức Thánh Trần.

Hội trưởng Nguyễn văn Lạc chào mừng quan khách

Tiếp đến Hội trưởng Hải quân DFW, Nguyễn văn Lạc lên chào mừng quan khách, cãm tạ mọi đóng góp  giúp cho buổi tổ chức này thành công và sơ lược chương trình tổ chức đại lễ này để kỷ niệm húy nhật Thánh Tổ Hải quân VNCH

Sau đó, cựu Tổng Hội Trưởng Hải Quân Nguyễn Xuân Dục lên lược sử Đức Trần Hưng Đạo và chiến công ba lần đại thắng quân Nguyên Mông vào thế kỷ thứ 13. Bài khá dài nên chúng tôi xin sơ lược, Đức Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con của An Sinh Vương Trần Liểu, cháu gọi Vua Trần Thái Tôn bằng chú ruột. là người đã quên thù nhà để trả nợ nước, thống lãnh tam quân đánh giặc cứu giang sơn tổ quốc. Lúc bấy giờ quân Mông Cổ là đạo quân bách chiến bách thắng khét tiếng xâm lược, vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu cỏ cũng không mọc được đến đó, dưới sự thống lãnh của Hốt Tất Liệt là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn đã chiếm được 1/3 Âu Châu và gần hết Châu Á.

Ảnh tượng Đức Trần Hưng Đạo tại Bến Bạch Đằng Saigon

Tháng 9 năm 1257 Hốt Tất Liệt sai Tướng Ngột Lương Hợp Thai từ Vân Nam đánh xuống nước ta. Vua Trần Thái Tông sai Tiết Chế Trần Hưng Đạo ( Tiết Chế tức là Tổng Tham Mưu Trưởng ngày nay) thống lãnh quân thủy bộ chống lại, nhưng thế địch quá mạnh nên phải lui quân về Sơn Tây, triều đình dời đô về vùng Thiên Mạc và cũng cố quân lực, đến đầu năm 1258 ta phản công địch tại Đông Bộ Đầu khiến địch thua trận phải rút lui về lại nơi xuất phát. Đây là chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, lúc dó Tướng Trần Quốc Tuấn mới 29 tuổi.

Năm 1283, Hốt Tất Liệt sai Lễ Bộ Thương Thư, Sài Thung sang bắt Vua Trần Nhân Tông sang chầu và nộp cống phẩm, Vua ta cho chú là Trần Di Ái đi thay, Trần Di Ái bị chiêu dụ theo giặc và được phong là An Nam Quốc Vương được Sài Thung đưa về nước, vào đến Đại Việt, Sài Thung bị bắn mù mắt còn Trần Di Ái bị bắt đem về trị tội phản quốc. Hốt Tất Liệt sai con là Thái tử Thoát Hoan cùng các tướng Ô Mã Nhi, và A Bát Xích đem 50 vạn quân lấy cớ mượn đường đánh Chiêm Thành để xâm lược nước ta, Vua mở Hội Nghị Diên Hồng hỏi ý kiến hòa hay chiến, các vị bô lão đều hô quyết chiến. Năm 1284 quân Nguyên quá mạnh liên tiếp chiến thắng Ải Chi Lăng, Vạn Kiếp, và vùng Thanh Hóa Nghệ An, vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường, Vua Trần Thánh Tông muốn hàng giặc nhưng Trần Hưng Đạo khẳng khái trả lời “Bệ hạ muốn hàng giặc hảy chém đầu thần trước”. Sau đó Trần Hưng Đạo vạch kế hoạch phản công, và năm sau 1285 lần lượt tái chiếm Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, và Vạn Kiếp, tướng giặc Toa Đô, Lý Bằng, Lý Quán bị giết, Ô Mã Nhi theo đường biển thoát thân, Thóa Hoan phải chui ống đồng trốn về Tàu. Đây là chiến thắng Nguyên Mông lần thứ hai.

Mùa xuân năm 1287, Thoát Hoan lại dẫn 30 vạn quân sang xâm lược nước ta lấy cớ đưa Trần Ích Tắc về làm An Nam Quốc Vương, Thoát Hoan theo đường bộ, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp theo đường thủy tiến đánh nước ta, Vua Trần Nhân Tông  phải dời về Thanh Hóa tuy lúc này giặc chưa vào được thành Thăng Long. Tại Vân Dồn, thuyền lương của tướng giặc Trương văn Hổ bị đốt sạch và chạy thoát về Quỳnh Châu. Tháng 3 năm 1288, địch mất hết lương thực trong trận Vân Đồn nên muốn rút lui, bị Tướng Phạm Ngũ Lão mai phục ở Lạng Sơn, và Tướng Trần Hưng Đạo dùng cọc đóng trên dòng sông Bạch Đằng, lúc nước lên thì khiêu chiến và rút lui dụ quân Mông Cổ đuổi theo, khi nước rút quân ta dừng lại phản công, quân Mông Cổ đánh không lại tháo chạy, thuyền bị cọc gổ đâm thủng chìm không chạy được và bị tiêu diệt, tướng giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bị giết, Trương Quân, A Bát Xích và Trương Ngọc bị bắt sống, Thoát Hoan chạy trốn về Tàu. Đây là lần thứ ba đánh tan quân Mông Cổ, khiến Hốt Tất Liệt phải than rằng ” Mỗi khi nhắc đến Đại Việt, trẫm như bị cái gai đâm vào cổ”.

Lịch sử chống xâm lược nước ta, Nhà Trần xuất hiện nhiều tướng tài nhất trong quân sử mà trong cuốn Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính và sách lịch sử có ghi tên bằng những câu thiệu đằng trước như Anh Hùng Bán Than, Trần Khánh Dư. Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân, Trần Quốc Toản. Một Mình Một Ngựa Mà Bình Được Giặc, Trần Nhật Duật. Ngồi Đan Sọt Mà Lo Việc Nước, Phạm Ngũ Lão. Thà Làm Quỷ Nước Nam Còn Hơn Làm Vua Đất Bắc, Trần Bình Trọng, chưa kể các danh tướng khác như Thượng Tướng Trần Quang Khải, và hai tướng thông thạo thủy tánh như Yết Kiêu, Dã Tượng. Còn riêng Tướng Trần Quốc Tuấn thì tài kiêm văn võ đã viết ra Hịch Tướng Sĩ  được xem như một tuyên ngôn độc lập nổi tiếng động viên tướng lãnh chống giặc, Ngài còn soạn ra hai bộ binh thư như Vạn Kiếp Bí Truyền và Binh Thư Yếu Lược để huấn luyện hành quân tác chiến.

Chương trình tiếp theo với phần phát biểu của nhị vị Chủ tịch cộng đồng Dallas và Tarrant County, Jason Lý và Hồ văn Điền ca ngợi công đức của anh hùng dân tộc Đức Trần Hưng Đạo và cãm ơn Hội Hải quân DFW đã tổ chức đại lễ này để giữ gìn truyền thống yêu nước và văn hóa dân tộc cho giới trẻ noi theo. Còn niên trưởng Lê Chu tán thán công đức của Đức Thánh Trần, Ngài đã quên thù nhà trả nợ nước, đã ba lần đánh tan quân Mông Cổ mở ra một thời kỳ độc lập khá dài của dân tộc ta thời Nhà Trần. Xen kẻ chương trình là phần văn nghệ yêu nước do Ban văn nghệ Hoàng Lan và  Nhóm Thu Hoàng trình diễn cùng Ban nhạc The Sound Band quen thuộc trong cộng đồng với các bài hát vui tươi lành mạnh và các điệu vũ dân tộc.

Hợp ca  bài Tiếng Sóng Vân Đồn 

Cuối chương trình, Hội trưởng Nguyễn văn Lạc tuyên bố mãn nhiệm kỳ ngay lúc này (sau hai nhiệm kỳ và thêm gần một nhiệm kỳ lưu nhiêm vì Covid) , xin cãm tạ anh em trong Hội đã yễm trợ trong thời gian qua và mời Tân Hội trưởng Hải Quân Trùng Dương DFW, Võ văn Hiệp, lên thông báo tân Ban chấp hành gồm có: Hội trưởng Võ văn Hiệp. Phó nội vụ Châu Đình Hiếu. Phó ngoại vụ, Nguyễn văn Lạc kiêm cố vấn danh dự của Hội. Tổng thư ký, Tiến sĩ Hà Mạnh Chí. Nguyễn văn Sa, Đặc trách vùng Fort Worth. Đàm Thanh Tâm, Đặc trách vùng Arlington. Nguyễn văn Nở, Đặc trách vùng Dallas & Garland. Tân hội trương Võ văn Hiệp cũng xin anh chị em hội viên tích cực ủng hộ tân ban chấp hành làm tròn nhiệm vụ được giao phó.

Tân hội trưởng Võ văn Hiệp trình diện tân Ban Chấp Hành Hội Hải Quân Trùng Dương DFW

Trong quân sử nước ta chưa có một vị tướng nào đánh giặc qua ba triều vua Đại Việt nhà Trần như tướng Trần Hưng Đạo, và Ngài được tuyên xưng danh hiệu rất dài là ” Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc Đại Nguyên Soái Long Công Thịnh Đức Vỹ Liệt Hồng Huân Nhân Vũ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn”. Người đời tôn vinh Ngài là một vị anh hùng dân tộc được thờ phượng như một vị Thánh gọi tắt là Đức Thánh Trần, và lập đền thờ khắp nơi trong nước, Binh chủng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa tôn vinh Ngài là vị Thánh Tổ và hàng năm đều cử hành Lễ kỷ niệm vào ngày húy nhật tức là ngày mất 03 tháng 10 năm 1300 của Đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Còn quân sử thế giới cũng tôn vinh Ngài là một trong 10 vị tướng tài giỏi nhất thời trung cổ.

NGÀY TÔI NHẬP NGŨ

Trường Quân Y

Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y: Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân

Kỷ Niệm của tôi ở trường Quân Y là được tham dự hai buổi chào cờ, vào sáng thứ Hai mỗi tuần.
Nhìn hình ảnh Đại Tá Hoàng Cơ Lân: Quân phục thẳng tắp, beret đỏ, người to cao đẹp, rõ nét
oai hung, đi duyệt đoàn quân là tôi thích, khoái chí, và say mê!

Vì tình nguyện nhập ngũ, nên chưa có khóa học quân sự. Trưởng Khối Học Vụ Trường Quân Y năm
1973, khi tôi vào lính là Thiếu Tá Tín (Lê Trọng Tín thì phải, sau 75 ông ta ở Liberty, Kansas City-
Missouri) chỉ định tôi dạy mấy lớp CC2 (Hạ Sĩ Quan Quân Y).

Hình tác giả bài viết khi mới đến trường Quân Y

Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt
Sau 2 tuần ở Trường Quân Y, tôi được tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa Không Quân – Tân Sơn Nhứt.
(TTYKKQ-TSN). Ở Tân Sơn Nhứt, Ngành Quân Y có 3 đơn vị (Tôi chỉ biết đại khái, vì tôi là lính tăng
phái nên không biết nhiều và cũng không muốn tìm hiểu thêm nhiều vì rất phức tạp, và cũng để giới
hạn trong chuyện tôi kể về những kỷ niệm của tôi ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân-Tân Sơn Nhứt).

  1. Hành Chánh Quân Y Không Quân: 1973.
    Y Sĩ Đại Tá Đỗ Xuân Giụ: Phụ Tá Quân Y Không Quân
  2. Bệnh Xá Sư Đoàn V Không Quân:
  • Chỉ Huy Trưởng Y Sĩ Thiếu Tá Cường (tôi quên họ)
  1. Trung Tâm Y Khoa Không Quân (gần trại Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám)
  • Chỉ Huy Trưởng: Y Sĩ Trung Tá Vũ Hữu Bao
  • Chỉ Huy Phó: Y Sĩ Trung Tá Vũ Xuân Bôi
    Trung Tâm Y Khoa Không Quân gồm 4 khối:
  1. Khối Giám Định để khám bệnh cho mấy ông Pilots, tiếp viên hàng không… Thiếu Tá Phạm Gia
    Lữ chuyên về nhãn khoa (Ophthalmologist). Người cao dong dãi, đẹp, nói oang oang. Sau khi di
    tản 1975 ông định cư ở California. Trong thời gian này tôi ở Kansas City-Kansas nên chưa bao giờ
    gặp lại, có lẽ ông đã mất. Những quân nhân muốn được tuyển chọn vào Không Quân sợ BS Lữ
    đánh rớt về mắt.
  2. Khối Tiếp Liệu
  3. Khối Hành Chánh
  4. Khối Chuyên Khoa- Bệnh Viện để chửa bệnh:
     Phòng Cấp Cứu,
     Khu Nha Khoa,
     Phòng Tiểu Giải Phẩu: tôi hay lợi dụng nơi này để cắt da quy đầu (circumcision), cột ống dẫn
    tinh (vasectomy), removed sebaceous cyst, ganglion, và làm đẹp cho các y tá, các quân nhân
    tôi quen biết. Những công việc này tuy có vẻ đơn giản, tiểu giải phẩu, nhưng cần nhiều kinh
    nghiệm. Nếu không, những cyst, những ganglion đã được removed sẽ mọc trở lại sau một
    thời gian ngắn, và có thể bị hematoma, atrophy of testicle sau khi làm vasectomy.

Circumcision
Tuy là một minor surgery, nhưng đây là một nghệ thuật cắt da quy đầu cho người lớn. Khi
còn nhỏ (khoảng 12 tuổi) tôi thấy ở bệnh viện Huế có nhiều người không biết là y tá hay bác
sĩ cắt da quy đầu bằng cách dùng 2 straight forceps kẹp 2 bên prepuce (foreskin) kéo lên khỏi
glans rồi cắt ngang khâu lại. Cắt như vậy không có cái gì gọi là nghệ thuật giải phẫu cả. Có học
mới biết, không học làm sao biết. Khi tôi là một quân y sĩ, làm circumcision, vasectomy tôi
được bạn bè đải bia, rượu: cổ xanh, cổ đỏ nhậu nhẹt liên miên!

Vasectomy:
Để giới hạn dân số ở Bombay-Ấn Độ (4 triệu người) Dr. Datta Pai tìm cách cột ống dẫn tinh
(vasectomy) năm 1960: Không có cá (sperm) nhưng nước (seminal fluid) vẫn chảy.
Nhưng nếu làm vasectomy không tinh tế, khéo tay có thể đưa đến hematoma ở scrotum, teo
luôn hòn dái (testicle atrophy). Vì vậy phải luôn luôn nhớ 1 trong 3 đức tính của người làm
phẩu thuật (surgeon): lady’s hands!
Một chút kinh nghiệm về Ganglion và Sebaceous Cyst.
Tôi muốn ghi lại đây chút kinh nghiệm của một người chuyên về giải phẩu chỉnh hình.
Ganglion Cyst mọc từ tendon sheet, nên khi remove ganglion cyst phải cắt (excise) một
phần của tendon sheet, và nhớ chích glucocorticoids vào tendon sheet, trước khi khâu da.
Nếu không, ganglion cyst sẽ mọc trở lại sau vài tháng.
Khi remove sebaceous cyst nhớ phải remove totally capsule của nó. Có những người “tấp
tểnh người đi, tớ cũng đi…”, nhiều khi vụng về làm rách capsule của nó, chất sebaceous
substance có màu đen nhuyễn như bùn (sebum) chảy ra, có mùi hôi thối… họ, bóp
sebaceous cyst cho chất này chảy ra, tưởng hết, rồi khâu da lại. 100%, cyst sẽ mọc lại sau vài
tuần-hay vài tháng. Nếu capsule của cyst bị vỡ, dùng mosquito bên tay trái kẹp đầu
capsule của nó, tay phải dùng curved mosquito từ từ tách nó ra, lấy cho hết (những người
thuận tay trái cầm mosquito ngược lại). “Nhổ cỏ, nhổ tận góc!” Một gợi ý khác nên dùng
instrument “Stainless Germany”
Chút kinh nghiệm: ví dụ một cyst có đường kính 1.5 – 2 cm, không cần làm 2 incisions >2 cm
xung quanh cyst mà chỉ làm 1 incision ngay trên, hay một bên của cyst (one incision only)
vào khoảng 1cm, dùng curved or straight mosquito forceps, skin kooks, curved scissors… từ
từ tách hoàn toàn caspule của nó và kéo toàn bộ ra ngoài, khâu da và subcutaneous tissue
kín lại. Sebaceous Cyst không bao giờ trở lại!
 Phòng Giải Phẩu: Y Sĩ Thiếu Tá Vũ Tiến Thông – Trưởng Phòng.

 Phòng Gây Mê: Y Sĩ Đại Úy Đặng Đông Mỹ – Trưởng Phòng.
 Trại Ngoại khoa: Y Sĩ Thiếu Tá Vũ Tiến Thông trưởng trại, Y Sĩ Đại Úy Bùi Xuân Mẫn (người to
cao như Từ Hải, vai 5 tấc rộng, lưng 10 thước cao), có dáng đi hơi nghiêng nghiêng phụ tá.
Tôi là Y Sĩ Giải Phẩu tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa Không Quân, nên rất gần gũi với Thiếu
Tá Vũ Tiến Thông, Đại Úy Bùi Xuân Mẫn, Đại Úy Đặng Đông Mỹ.
 Trại Nội Khoa: Y Sĩ Đại Úy Đoàn Lân (anh ruột của BS Đoàn Yến, YK-Huế khóa 1) trưởng trại, Y
Sĩ Đại Úy Nguyễn Dương phụ tá.
 Phòng Quang Tuyến: Y Sĩ Đại Úy Đào Hữu Lân, trưởng phòng. Ông ta có phòng mạch ở
đường Huỳnh Quang Tiên, gần nhà tôi, nên thỉnh thoảng tôi có ghé thăm, chuyện trò.
 Phòng Cấp Cứu: là nơi tôi hay ghé vui chơi với toán y tá cấp cứu, toán y tá xe cứu thương,
khi rảnh rỗi, lúc chiều về.
 Phòng Dược Liệu, v.v…

Xin kể một vài câu chuyện… khi tôi làm việc ở Trung Tâm Y Khoa Tân Sơn Nhứt, năm
1973:

Ngày đầu làm việc ở trại ngọai khoa, bệnh nhân khá đông…, tôi gặp Đại Úy Ngô Ngọc Châu (NNC),
có lẽ ông là bệnh nhân có cấp bậc cao nhất trong giai đọan này. Ông bị sưng khớp xương đầu gối vì
tai nạn xe Vespa. Ông đi nắn gân xoa bóp, ở Chợ Lớn với ông thầy Cường. Đầu gối càng sưng, càng
đau thêm. Tôi chửa cho ông lành bệnh, từ đó ông ta và tôi quen thân nhau. Đại Úy NNC là pilot
C 130, khi tôi có phép về Huế thăm gia đình, tôi điện thoại cho ông, trên đường đi vào Tân Sơn
Nhứt, ông lái xe Vespa ghé đón tôi ở Nhà Thờ Ba Chuông, góc Huỳnh Quang Tiên. Giấy tờ liên quan
đến chuyến bay, ông lo hết, cả chuyến đi, chuyến về (ông gọi điện thoại lòng vòng là mọi chuyện
xong xuôi), ông đưa tôi lên phi cơ. Khi trở lại Sài Gòn, tôi mua ít nem, chả, tré, mè xững Huế tặng
ông….

(…Sáng 28 tháng 4, 1975 Tôi vào tá túc ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân (chuyện lòng vòng, quý vị
đọc hồi sau sẽ rõ…) Chiều 28 tháng 4, 75 Trung Úy Nguyễn Thành Trung dội bom, Tân Sơn Nhứt
(TSN)… Ở Trung Tâm Y khoa TSN, lúc này chỉ mình tôi, tôi lo cấp cứu những bệnh nhân nhẹ như gãy
xương, rách da (laceration), trật khớp (dislocation) và tải thương những quân nhân bị thương nặng
(lòi ruột…, phỏng cháy nặng) đi Bệnh Viện Cộng Hòa.
Sáng 29 tháng 4, 1975 Không Quân, Quân Lực VNCH, được lệnh di tản lúc 9.30 sáng. Đại Úy NN
Châu giúp đưa tôi đi Utapao-Thái Lan, trên chuyến C130 thứ hai của KQ rời khỏi VN. Đến Utapao, tôi
có lập một trạm y tế nhỏ để phát thuốc ho hen cảm cúm, tiêu chảy, nước uống, thuốc hút v.v…Vài
giờ sau, tôi gặp Y Sĩ Trung Tá Vũ Tiến Thông (lúc này ông đã thăng cấp rồi), và phu nhân BS Vân. Còn
những Y Sĩ của Trung Tâm Y Khoa Tân Sơn Nhứt khác hình như họ không đi Utapao, Thái Lan. Nhưng
đa số bây giờ, họ đang hành nghề Y Khoa tại Dallas, TX

***

Người bệnh thứ hai tôi gặp ở Y Khoa Không Quân TSN là một binh nhì, trật khớp xương cùi chỏ, bên
mặt (right elbow) do té xe Honda. Cậu này khoảng 18, 20 tuổi, nằm ở trại ngoại khoa hơn 2 tuần,
đầu xương quay (radial head) lòi ra phía sau (posterior dislocation of the right elbow). Cậu mang cái
long arm sling vòng qua vai, cổ. Cùi chỏ gấp 90 mươi độ. Máu huyết ở bàn tay, cổ tay lưu thông tốt.
Các ngón tay, cổ tay (wrist) di chuyển bình thường (range of motion (ROM): normal). Bệnh nhân
không còn đau đớn gì.
Tôi muốn giải phẫu sửa lại khớp xương cùi chỏ. Tôi trình bày cách thức tôi sẽ làm, cho hội đồng Y
Khoa nghe. Nhưng theo thủ tục, các BS ở đây phải gởi đi Bệnh Viện Cộng Hòa xin ý kiến (second
opinion).
Trong khi chờ đợi khóa học quân sự, tôi nghe tin đồn Trung Tá Y Sĩ Trưởng Giải Phẩu Chỉnh Hình của
Bệnh Viện Cộng Hòa (BVCH) là VC (xin lỗi không phải như tên ai đó cũng viết tắt VC). Vì ở BVCH có
quá nhiều thương bệnh nhân bị cắt bỏ cánh tay, cẳng chân như cố tình làm giảm bớt tiềm năng
chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Thật ra nhiểm trùng xương (Osteomyelitis) rất khó chửa vì xương ít được blood supply như ở ruột,
tử cung, vú v.v…nên nếu chỉ chữa bằng Trụ sinh: uống, chích bắp thịt (IM), hay qua IV không mấy
hiệu quả.
Vết thương nhiều khi có cả rác rến, bùn lầy, phân trâu bò, dẻ rách của áo quần mục nát trong đó…
Nhiều khi gặp trời mưa, sương mù, chiến trận kéo dài, tải thương không kịp làm nhiểm trùng nặng
thêm, nên cách dể nhất là cắt bỏ (amputation). Còn muốn chữa thì rất khó khăn, vì phải lấy hết
phần hoại tử xương (remove necrotic bone and tissue), phải biết cách làm irrigation với trụ sinh
nhỏ giọt trên khúc xương bị nhiểm trùng, và IV antibiotic perfusion cho toàn cơ thể…Nhiêu khê và

mất công, tốn nhiều thì giờ, tiền bạc chỉ để săn sóc cho một bệnh nhân. Giường bệnh lại hạn chế.
Nên chuyện thiên hạ đồn có lẽ không đúng, hay chỉ đúng một phần vì họ không chuyên về
reconstructive orthopaedic (orthopedic). Họ chỉ chuyên về traumato orthopaedic trên toàn quốc
VNCH (dân y và quân y), chứ không phải chỉ Quân Y viện mà thôi.
Khi bệnh nhân được chở đi BVCH xin ý kiến trở về, tôi nhận được chỉ thị của Trung Tá…., Trưởng
Khối Chỉn Hình: “cắt bỏ đầu xương quay (excision of radial head), đăng bột”. Tôi không bằng lòng với
đề nghị này. Lại một lần nữa, tôi xin mổ để sửa lại annular ligament đã bị đứt rách hơn 2 tuần. (Khi
bị trật khớp xương nên làm emergency closed reduction trong 8—> 12 hrs, tốt nhất < 6 hrs. Nếu
không, những ligament bị căng quá lâu, sẽ đứt rách, và khớp xương sẽ dính lại ở một vị trí không
đúng chổ của nó; để lâu hơn, đầu xương có thể bị necrotic (xương chết).
Tái tạo lại annular ligament: Nghe có vẻ mới lạ và mơ hồ!
Vì xưa nay, người ta chỉ biết BS Giải Phẩu Chỉnh hình (orthopaedic surgeon) chỉ để đóng đinh, bắt
vít, kéo xương, đăng bột mà thôi! (Traumato Orthopaedic), cũng như mấy ông thợ mộc (carpenter):
cũng cưa, cũng khoan, cũng đóng đinh, bắt vít….Chỉ khác một điều là gỗ không chảy máu.
“an orthopaedic surgeon is a carpenter but wood does not bleed” Vả lại, tôi là người lính mới tọ tè,
tăng phái cho Tung Tâm Y Khoa Không Quân, mang lon Trung Úy hơn 2 tuần, nhưng chưa thụ huấn
quân sự ngày nào!
Nhưng với một ý chí và giọng điệu đầy thuyết phục của tôi, hội đồng y khoa cũng bằng lòng cho tôi
lên ca mổ. Y Sĩ gây mê là Đại Úy Đặng Đông Mỹ (Nghe tin BS Đ. Đ. Mỹ qua Hoa Kỳ sau 1980).
Tôi mổ bệnh nhân với 2 y tá phụ giúp: một phụ tôi lo banh (separation), lo kéo (traction), thấm máu
(hemostasis)…, một y tá khác lo khay dụng cụ y khoa: cưa (saw), búa (mallet), đục (chisels), dao kéo
(blades), kim chỉ (chromic, nylon)… Y Sĩ Đại Úy Bùi Xuân Mẫn đứng quan sát, sẽ phải tham dự nếu có
trục trặc gì trong ca mổ. Tôi mổ ca này dựa vào sách Campell’s Reconstructive Orthopaedic Surgery.
Bệnh nhân được chuyền nước biển với trụ sinh nhỏ giọt. Bắp đùi bên mặt (right thigh), right arm
and right forearm được cạo lông, rửa sạch với phisohex, betadine solution, alcohol và được bọc lại
với steri-drape lớn.
 Tôi mổ ở bắp đùi bên mặt trước (right thigh) để lấy một dải fascia lata 1/2 x 5 inches (1.2cm
rộng, 13cm dài), rồi bỏ vào trong một metal cup đựng normal saline (NS). Vết thương ở bắp
đùi bên phải được cầm máu, khâu vá, băng bó cẩn thận, và dùng drape vô trùng bọc lại.
 Sau đó, tôi mổ ở cùi chỏ phía bên mặt (Right elbow). Làm lateral incision từ R arm đến R
forearm khoảng 5 inches (13 cm). R radial head lộ ra (exposed), annular ligament bị đứt rách
được cắt bỏ sạch sẽ. Vết thương được rửa sạch (irrigation) với NS. Đưa radial head về vị trí
cũ của nó tiếp giáp với cubital process. Tôi khoan một lổ ngang (drill a hole transversely)

đường kính khoảng 1 cm ở cubital process. Rồi đưa dải fascia lata lấy ở trên xuyên qua lổ ở
cubital process vừa mới khoan, làm lại annular ligament mới, xung quanh đầu xương quay,
không căng quá, rồi khâu 2 đầu fascia lại với nhau.

Vết thương được cầm máu, rửa sạch (irrigation), khâu lại, và băng bó. Sau đó đăng bột, long arm
cast applied, cùi chỏ gấp (flexion) # 90 độ, forearm in neutral rotation (không supination, không
pronation).
Antibiotics vẫn tiếp tục nhỏ giọt 24 hours postoperatively.
Bệnh nhân được chuyển về phòng hồi sinh: Bệnh nhân hồi phục nhanh, mấy ngón tay cử động bình
thường, máu huyết lưu thông tốt. Không nóng sốt, bệnh nhân được chỉ dẩn cách co duổi mấy ngón
tay, tập xoa bóp trái banh tennis ngày hôm sau và tiếp tục khi về nhà.
Bệnh nhân xuất viện với một long arm sling như thường lệ, hẹn một tuần tái khám, cắt chỉ, thay
băng…
Khi trở lại thay băng, bệnh nhân kể chuyện: bà chị nghe nó nói “đi mổ”, tưởng là mổ ở cùi chỏ
(elbow), vì thường ngày thấy nó mang sling nơi tay vì nó bị trật khớp xương cùi chỏ thì quen mắt,
biết rồi. Nay thấy băng ở chân, một đường băng dài nên bà quá ngạc nhiên hỏi:
“bộ ông bác sĩ của mày khùng hả? mày đau trên tay sao ông ta lại mổ dưới chân?”

***

Thỉnh thoảng tôi được xe Hồng Thập Tự chở đi khám bệnh ngoại chẩn ở SĐ 5 KQ Tân Sơn Nhứt và
SĐ 3 KQ, Biên Hòa. Ở SĐ 3 KQ, tôi gặp Y Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Bửu, em ruột GS Nguyễn Hữu người làm
rạng danh YK Việt Nam ở Paris. Bác Sĩ Bửu người tầm thước đẹp, không mập và bệ phệ như GS
Nguyễn Hữu, ông thường mặc đồ bay, trông đẹp, có râu mép, có nét tài tử. Tôi thích những hình
ảnh này ở Không Quân!

***

Một hôm bà Trung Tá Hạnh Nhơn Chỉ Huy Trưởng Nữ Quân Nhân Không Quân đưa cậu
con trai khoảng 12 tuổi vào vì bị gảy xương cánh tay (Forearm Fx) Tôi đóng đinh bắt plate cho cậu
ta.
Trung Tá Hạnh Nhơn là người Huế, tôi cũng nói trọ trẹ nên dể quen thân với bà như người nhà. Bà
còn trẻ, ngày xưa là huynh trưởng Hướng Đạo, đúng ra tôi gọi bà bằng chị như một hướng đạo sinh.
Nhưng tôi cũng quen thân với cháu bà, một Đ/U không Quân, không phi hành, nên tôi gọi bà bằng
Cô như em của ba tôi, ba tôi cũng là lính, như một gia đình quân nhân.

***

Một bệnh nhân khác, một Thượng Sĩ thuộc Sư Đoàn IV không Quân, khoảng 30 tuổi…chuyển đến
Trung Tâm Y Khoa Tân Sơn Nhứt từ bệnh xá SĐ 4 Không Quân, Bình Thủy-Cần Thơ. Ông này thấp, đi
đứng nói chuyện vui vẻ, bình thường. Nhưng trên đầu mất một một miếng xương sọ và tóc 5x 8 cm
phía bên trái, vùng parietal. Nhìn thấy não (dura mater) bên trong.
Ông ta kể chuyện do một tai nạn máy bay: Ông ta ngồi trên chiếc L19 đi về Cần Thơ. Mấy ông pilot
trên L19 chuyện trò vui vẻ với mấy ông bạn pilot trên chiếc Trực Thăng cũng cùng bay về Cần Thơ.
Ông L19 nói với Ông Trực Thăng: mày bay như rùa bò. Ông Trực Thăng nói lại, tau bay như rùa bò,
nhưng tau đang rửa chân trên dòng sông, mày làm được như tau không? Ông L19 trả lời: chuyện
nhỏ, mày coi đây….. Rồi ông ta hạ xuống, bay sát mặt sông. Không may, chiếc L 19 đâm sâu xuống
nước. Ông bệnh nhân của tôi bất tỉnh, mất miếng xương đầu, máu chảy xối xả. Bệnh nhân được chở
về Bệnh Viện Cộng Hòa (BVCH) cấp cứu. Sau những ngày dài ở BVCH, ông được xuất viện về Trung
Tâm YK Tân Sơn Nhứt để follow up, rồi chuyển về bệnh xá SĐ 4 KQ Bình Thủy, Cần Thơ. Thỉnh
thoảng được gởi lên Trung Tâm Y Khoa KQ-Tân Sơn Nhứt tái khám. Ông này bị mất da đầu và xương
sọ của một phần parietal bone.

Xương đầu (skull) gồm 3 phần:
 External table
 Diploe
 Internal table
Dưới xương đầu là Meninges, gồm 3 màng:

 Dura mater (màng cứng)
 Arachnoid mater (màng nhện)
Subarachnoid space, trong phần này có động mạch và tỉnh mạch
 Pia mater (màng nuôi)
Tôi cũng xin giải phẩu để tái tạo lại xương đầu, để khỏi nhìn thấy màng não (dura mater) bên trong.
Bệnh nhân cũng được gởi đi xin 2 nd opinon…Cuối cùng, tôi mổ ca này. Y Sĩ gây mê, Đại Úy Đặng Đông
Mỹ.
Bệnh nhân được cạo tóc và scrubed như thường lệ quá nữa phần đầu bên trái. IV antibiotic nhỏ
giọt. Glucocorticoids chích thịt (IM) để ngăn ngừa màng não bị sưng trong khi giải phẩu. Tôi dùng
electric drill khoan 4 lổ qua xương đầu, rồi dùng dây cưa (Gigli saw wire) để cưa, lấy phần ngoài
cùng của xương đầu (external table) vùng parietal 5 x 8 cm. Quay phần xương đầu vừa lấy ra để che
kín phần xương đầu vùng parietal đã bị mất, làm như kiểu rotation flap graft. Tôi dùng electric drill
khoan thêm 2 lổ nữa ở parietal bone. Kiểm soát chảy máu, dùng chromic # 1 khâu kín lại những
mảnh xương với nhau. Bôi antibiotic ointment xung quanh xương vừa ghép, vết thương được băng
bó cẩn thận. Bệnh nhân được chuyển về phòng hồi sinh…
Bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, tỉnh táo X 3, nói cười vui vẻ, không nóng sốt. Chỉ khác một điều là
phần dura mater được che kín, không còn thấy phần não bộ bên trong. Thay băng hằng ngày, làm
irritation chổ xương được ghép để granulation tissue của xương mọc nhanh hơn.

***

Cắt ruột thừa (appendectomy) Khi tôi học Y Khoa Huế năm thứ hai, nghe mấy vị khóa đàn anh nói
“Mỗ ruột thừa dể nhất, mà cũng khó nhất”.

  • Thật sự khi nào cũng dể, nếu mình đã quen mỗ bụng (laparotomy) cho bệnh nhân để: cắt bao tử
    (gastrectomy), cắt tử cung (hysterectomy), lấy con vì mẹ sinh khó (cesarean section), v.v…
  • khó là khi BS Tê Mê chưa làm cho ruột non (small intestine) xẹp lại mà vẫn còn phềnh lên
    (bloated, bulgy). Mình đè chổ này, ruột non (phần Ilium dài 3.5 mét) lại phềnh lên ở chổ khác qua
    vết mỗ nhỏ khoảng 5- 7cm ở vùng McBurney; vì vậy không thể tìm ruột thừa (appendix) được. Nếu
    mình nói BS Tê Mê cho thuốc để ruột non xẹp lại, thì tìm ruột thừa không khó, cho dù là retrocecal.
    Nên nhớ ruột già cố định, ruột non bềnh bồng gồm Duodenum dài 25 cm, Jejunum dài 2.5 mét và
    Ileum dài 3.5 mét. Tổng cộng ruột non dài khoảng 6m và 25 cm. Cách nhớ Don’t Jump In
    (Duodenum, Jejunum và Ileum). Tôi cũng đã gặp một lần ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân TSN.

Cái gì cắt vất đi cũng dể, Ví dụ khi ruột thừa bị sưng (appendicitis) cắt ruột thừa vất đi. Tử cung bị
ung thư, cắt tử cung vất đi (hysterectomy)…v.v… như cành cây hoa đào bị khô héo vì bị sùng (sâu
ăn), chặt vất đi, đã là người từng cầm dao, kéo, ai làm cũng được.
Nhưng nếu chịu thức khuya dậy sớm, chịu bắt sâu, ghép cành, vun xới cho cành hoa đào nở trăm
hoa ngàn cánh, mà đừng vất nó đi thì rất khó khăn vất vả, và đòi hỏi nhiều tinh tế về chuyên môn và
thời gian. Đó là Reconstructive Orthopaedic Surgery.
Nói tóm lại: Một BS chuyên về Mổ Xẻ (General surgeon) cần luyện tập nhiều, và biết về cơ thể học
(anatomy) nhiều để cắt bỏ vất đi những phần cơ thể bị hư hỏng…; nhưng không khó và công phu
bằng một BS chuyên về tái tạo lại một phần cơ thể không bình thường, để trở nên gần như bình
thường, hay bình thường trở lại. Ví dụ:
 Như một bịnh nhân bị cerebral palsy (CP) đi 2 chân chéo nhau như cái kéo (scissors gait) thì
không thể cắt 2 chân bịnh nhân vất đi mà phải tái tạo lại dáng đi bình thường cho bịnh nhân,
đòi hỏi nhiều công phu và hiểu biết nhiều hơn và chi tiết hơn về anatomy. Phải biết và tìm
cho ra obturactor nerve nằm ở đâu rồi làm neurectomy of anterior branch of the obturator
nerve …, làm physical therapy sau khi mổ …nhiêu khê và phức tạp…! Ở Mỹ đến thế kỷ 21 này,
vẫn còn nhiều trẻ em bị CP với dáng đi scissors gait!
 Một ví dụ đơn sơ khác như khi release Carpal Tunnel Syndrome nếu không thuộc anatomy
nhiều, đôi bàn tay của người giải phẩu không nhẹ nhàng (lady’s hands), họ có thể làm đứt
nhánh recurrent branch của median nerve, đưa đến mất chức năng của ngón tay cái (loss function of the thumb).

Ba đức tính cần cho một BS Giải Phẩu:

 Lion’s Heart (can đảm, vững tin)
 Eagle’s eyes (quan sát tỉ mỉ, tường tận)
 Lady’s Hands (nhẹ nhàng, khéo tay)

***

Một bệnh nhân khác: Ông này là Đại Úy Trưởng phòng Tiếp Liệu Không Quân-Biên Hòa, cùng
Họ Nguyễn Đăng với tôi, nhưng ông này người Bắc, tôi quên tên, chỉ nhớ họ. Tôi mổ trĩ (nội-
ngoại) cho ông ta. Kết quả tốt đẹp, lần tái khám cuối cùng Ông tặng tôi 2 bình chữa lửa màu
đỏ, nhỏ nhắn dể thương, và mấy trái sáng flaires. Tôi không có xe hơi, tôi tặng lại cho ông
bác của tôi ở Sài Gòn.

Nhân một buổi tiệc, tôi không nhớ vì lý do gì. Chỉ nhớ là được dự một buổi tiệc rất trọng thể tại Câu
Lạc Bộ Huỳnh Hửu Bạc, Tân Sơn Nhứt, có Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân
VNCH chủ tọa, có Đại Tá Giụ, Phụ Tá Quân Y Không Quân và tất cả Y Nha Dược Sĩ Không Quân ở Tân
Sơn Nhứt, cũng có thể có Đại Tá Nghiêm Xuân Húc và Tham Mưu Trưởng Không Quân, Chuẩn Tướng
Võ Dinh tham dự, nhưng hồi đó tôi chưa nghe và biết mặt những vị này…
Thiệp Mời đại khái ghi: mời toàn thể quý Y Nha Dược Sĩ Không Quân Tân Sơn Nhứt và phu nhân.
Trong thiệp mời có ghi rõ: Quý vị phải ghi rõ tên Quý Vị và tên phu nhân, nếu phu nhân quý vị không
tham dự cho biết lý do…Tôi đi dự lễ một mình, vợ tôi đang ở Huế.
Trung Tá Vũ Hữu Bao, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Y Khoa Không Quân (TTYKHQ), thỉnh thoảng gọi tôi
đến văn phòng ông, chuyện trò, thân mật (kiểu đàn anh, đàn em). Ông muốn tôi sau khi học quân sự
được ở lại làm việc ở TTYKHQ. Trước khi ông đi nghỉ phép, ông nói cho tôi biết như một lời báo
hiệu: Những chuyện đã xảy ra cho những Y Sĩ Phi Hành (Fly Surgeon) do ông Giụ gởi đi Mỹ Học, ngày
sắp về mà không nghe tin tức quà cáp của mấy phu nhân ở nhà cho Ông Giụ là Ông thuyên chuyển
về các Sư Đoàn, không cho ở TTYKKQ nữa. Tôi nghe và biết vậy, tôi còn trẻ, bạch diện thư sinh, chỉ
có tấm lòng hăng say làm việc…!
Không mơ ước, nhưng tôi được một điều vui mừng cá nhân khác, đó là tôi nhận được bản sao văn
thư của Tham Mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Không Quân VNCH, Chuẩn Tướng Võ Dinh, yêu cầu Đại Tá
Cục Phó Cục Quân Y, Đỗ Xuân Giụ, giử tôi lại ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân. Chuyện này có lẽ do
TTYKHQ gởi văn thư cho Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng Không Quân đề nghị. Cá nhân tôi, lần đầu
tiên nghe tên ông. Tôi hoàn toàn không quen biết Chuẩn Tướng Võ Dinh, chỉ biết sau này, ông ta ở
gần Trường Đoàn Thị Điểm, trong Thành Nội-Huế.
Tôi tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa KQ Tân Sơn Nhứt cũng một thời gian khá lâu, vì chưa có khóa
học quân sự. Thời gian ở Không Quân, quý vị niên trưởng như Trung Tá Vũ Hữu Bao Chỉ Huy Trưởng,
Trung Tá Vũ Xuân Bôi, Chỉ Huy Phó, Thiếu Tá Vũ Tiến Thông, Đại Úy Bùi Xuân Mẫn (Phòng Giải Phẩu,

Ngoại Khoa), Đại Úy Đoàn Lân (Nội Khoa), Đại Úy Đào Hữu Lân (Quang Tuyến), tất cả đều…coi tôi
như người em út của gia đình YK-KQ, đầy tình thân ái, mến thương.
Đại Tá Nghiêm Xuân Húc được thăng Phụ Tá Quân Y Không Quân- Tân Sơn Nhứt, thay thế Đại Tá Đỗ
Xuân Giụ được thăng Cục Phó Cục Quân Y. Thiếu Tá Trần Bá Cơ, chánh văn phòng Quân Y Không
Quân, sau này được thăng Trung Tá.
Một hôm, Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y, Đỗ Xuân Giụ, trở về thăm lại Trung Tâm Y Khoa Không Quân.
Một hàng Y Nha Dược Sĩ Không Quân từ cấp Trung Úy (tôi), Đại Úy đến Trung Tá, Đại Tá và khoảng
10 y tá, tất cả độ 40 người, đứng nghiêm chào mừng 2 bên. Khi Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y đi giữa
đoàn quân, người nói lớn tiếng nhất là Đại Úy Bùi Xuân Mẫn, cùng một số BS khác của TTYK Không
Quân: “Yêu cầu Đại Tá Cục Phó giử BS Nguyễn Đăng Tri lại cho Trung Tâm Y Khoa Không Quân”. Mọi
người vỗ tay hoan hô, tôi âm thầm vui mừng, hãnh diện! Vì đó “như một lời khen ngợi giữa đoàn
quân!”
Đây không phải là chuyện gởi gắm bình thường qua ly rượu, hay canh bài Mạt Chược (mahjong) giữa
bạn bè. Không phải là chuyện úp mở, thương lượng dưới mặt bàn (negotiate under the table). Cũng
không đơn thuần khen ngợi một cá nhân, một tập thể nào dưới hình thức giao tế. Mà là chuyện
quang minh chính đại có văn thư của Tham Mưu Trưởng Không Quân, Chuẩn Tướng Võ Dinh, và sự
hiện diện của toàn thể Y Nha Dược Sĩ Không Quân Tân Sơn Nhứt. Đời một quân nhân Quân Y, có
niềm hảnh diện nào hơn?

Phút huy hoàng bình yên chợt tắt, Tôi Thật Sự Vào Lính…

Tôi, tuổi Quý Mùi, một đời sôi động, một đời lang thang như mấy con Dê quanh năm lủi thủi gặm
cỏ một mình:
 Bỏ Phước Tuy-Bà Rịa, bỏ Đại Học Y Khoa Huế, bỏ Bệnh viện Quảng Trị đặt tại Đà Nẳng (Mùa
Hè Đỏ Lửa).
 Bỏ giấy hoản dịch gia cảnh, tôi tình nguyện vào lính, tôi có mộng ước cao xa…, mong một
ngày dõng dạc, hãnh diện tôi sẽ gọi thanh sinh viên VN đi lính như tôi hôm nay…

“Đừng hỏi
Tổ quốc đã làm gì cho bạn, mà bạn nên tự hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc?” J F Kenndy.
(Chuyện lính tráng của mấy ông Tổng Thống Mỹ đến thế kỷ 21 này vẫn còn chê bai, nói xấu nhau)

Tôi không nhớ rõ ngày, chỉ nhớ vào tháng 8, 1973 tôi đi học 9 tuần quân sự ở Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung (TTHLQT). Trong giai đoạn này Chỉ Huy Trưởng, TTHLQT là Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, sau khi ông nghỉ bệnh một thời gian ở viện Bài Lao Ngô Quyền.

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau đó được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, Vùng II chiến
Thuật………. Thời gian nhàn hạ đã làm mất đi cái tinh nhuệ của một Tướng Lãnh ngoài chiến
trường. (Giống như một tay cờ tướng, xì phé lâu ngày không đánh, nay đánh lại có chút ngập ngừng…!)

Sau khóa học quân sự 9 tuần ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tôi đi dự lễ chọn chổ. Đại
Tá Cục Phó Cục Quân Y chủ tọa buổi lễ.
Một Sự Chọn lựa:
Đại Tá Đỗ Xuân Giụ, Cục Phó Cục Quân Y, gọi 2 người đầu bảng danh sách: BS Nguyễn Hữu Hạnh
và tôi lên trình diện chọn chổ. Đại Tá Giụ nói có 2 chổ BĐQ vùng 1 và vùng 2 Chiến Thuật…
BS Nguyễn Hữu Hạnh chọn vùng 1 Đà Nẳng, tôi chọn vùng 2 Pleiku. Sau khi chúng tôi chọn chổ,
Đại Tá Giụ hân hoan ra về.
Danh sách còn lại do một Đại Úy Hành Chánh Quân Y đọc, tất cả đều đi Bệnh Viện Dã Chiến.


Đành dấu con “dao mổ” trong túi quần, trong Sack Marine (Duffel Bag-Air Force). Tôi theo Liên
Đoàn 24 BĐQ , đóng quân khắp vùng II chiến Thuật: Khi Pleime-Pleiku, khi Tân Điền, Đồi 3 Chấm-
Kontum, Khi Ban Mê Thuột, khi Cheo Reo-Phú Bổn, khi Quảng Đức tiếp giáp với vùng III chiến
Thuật. Cũng may mắn suốt thời gian ngoài chiến trường, tôi không bị thương, nhưng được Anh
Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc với dây Biểu Chương Màu Bảo Quốc Huân Chương của Thiếu Tướng
Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh tặng, và Ngôi sao Đồng của Trung Tá Từ Vấn Liên
Đoàn Trưởng LĐ 24 BĐQ trao tặng cho sự hăng say đời binh nghiệp của tôi.

Trong hơn một năm làm lính Biên Phòng Vùng 2 Chiến Thuật, đêm ngày canh giặc, Việt Cộng
xâm chiếm Miền Nam…Đôi khi, tôi cũng làm closed reduction, khâu vá da thịt, ghép da (skin
graft), không cần dermatome, cho vài quân nhân bị thương ngoài chiến trường, không có cơ hội
được tải thương…
Những lúc này, tôi nghĩ đến GS Nguyễn Mạnh Hùng, một Giáo Sư về Pharmacology nổi tiếng của
VN, sau cách Mạng 1-11-63, bị đày đi A sao (A shau), A lưới để thử máu cho muỗi…, may mắn
được Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I, Vùng I Chiến Thuật thỉnh về làm
Giáo Sư Pharmacology cho Trường Đại Học Y Khoa Huế. (Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng có người
em ruột, Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Tuấn Anh, y sĩ trưởng của Lữ Đòan Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng
Thống thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông chửa bệnh gastritis và đổ mồ hôi tay cho tôi năm
1963 bằng Genatropine nhỏ giọt, (uống), hiệu quả vô cùng. Uống hôm nay, ngày mai tay khô
ráo; nhưng nước mắt, nước miếng cũng khô, nên phải nhỏ mắt với artificial tears (eyedrops) và
uống nước lai rai suốt ngày. Không cần mổ xẻ lôi thôi, không cần Châm Cứu (chẳng có hiệu quả
gì).Tôi vẫn luôn luôn nhớ và kính trọng ông.

Trước Tết năm 1975, vào khoảng tháng 2 tây, tôi được phép về Sài Gòn, ghé thăm LS Lê Tọng
Quát-Quốc Vụ Khanh VNCH…, và Trung Tâm Y Khoa Không Quân TSN, được mấy y tá phòng cấp
cứu cho hay: mấy BS đàn anh được thăng cấp như Trung Tá Vũ Tiến Thông, Thiếu Tá Đặng Đông
Mỹ, Thiếu Tá Bùi Xuân Mẫn, Thiếu Tá Đoàn Lân, Thiếu Tá Đào Hữu Lân… v.v.

Và cũng cho hay: một số Nữ Y Tá KQ khi đi Mỹ họ có bằng Tú Tài II, học 4 năm về Điều Dưỡng.
Khi trở về, họ có bằng Bachelor of Nursing (như RN 4 năm của Mỹ), mang cấp bậc Trung Úy. Họ
có đọc hồ sơ bệnh nhân ở TTYKKQ, họ có lời khen cho tôi…, họ nghĩ BS Tri chắc cũng du học ở
Mỹ về, vì họ đọc những ca mổ lạ, và vì tôi viết operative procedure bằng tiếng Anh, nên cũng
quen thuộc với họ, còn những BS khác của TTYKKQ đều viết bằng tiếng Pháp (protocole
operatoire) như thường lệ, họ không quen và hiểu mấy.
Hết mấy ngày phép, tôi đi Quảng Đức tiếp tục làm lính Biên Phòng Vùng II Chiến Thuật, khoảng 3
tuần sau, tôi đi công tác ở Nha Trang. Cầu 42 Từ Ban Mê Thuột đi Nha Trang bị VC dựt sập, tôi
quay về khách sạn Anh Đào-Ban Mê Thuột nghĩ đêm…
Ngày mồng 10 tháng 3, 1975 khoảng 2.30 sáng, VC pháo kích vào Ban Mê Thuột, 7 giờ sáng VC
tấn công khách Sạn Anh Đào, tôi bị VC bắt. Nhưng số trời đã định, tôi may mắn vượt thoát, tôi
băng rừng lội suối, vượt Trường Sơn với 2 quân nhân cùng đơn vị, chúng tôi về Sài Gòn bình
yên…(Nếu không mất nước, chắc tôi cũng được thêm một Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh
khác…!)

***

Sáng 28 tháng Tư 75, tôi nhờ Bà Trung Tá Hạnh Nhơn đưa tôi vào TTYKHQ… Cuối cùng, Pilot C
130-Đại Úy Ngô Ngọc Châu cũng đưa tôi đến vùng trời bình yên, tự do (Mỹ) như Thượng Đế đã
an bài! (Như chuyện tôi kể về Trung Tâm Y Khoa Không Quân, giữa Đại Úy Ngô Ngọc Châu, Trung
Tá Hạnh Nhơn và tôi)
Khi gặp lại nhau ở Fort Chaffee, Akansas tháng 5-1975, BS Bùi Xuân Mẫn có ý định rủ tôi đi
Canada. Nhưng sau đó ông đổi ý, chúng tôi ở lại Mỹ, BS Mẫn đi Dallas, TX. Tôi đi Kansas City-KS.
Đại Úy Ngô Ngọc Châu cũng rủ tôi đi Washington D.C…, khu Harlem NY , nhưng tôi cũng từ chối,
vì tôi muốn ở lại với bạn bè Y Khoa Huế (BS Đồng Sĩ Nam, Bùi Cao Đệ, Patrick Trần Lương Hoa…)
Khi học luyện thi bằng hành nghề ở Oklahoma City, Oklahoma. Tôi gặp lại hầu hết các BS của
Không Quân VNCH. Trong đó có Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y Đỗ Xuân Giụ, Đại Tá Nghiêm Xuân
Húc (Phụ Tá Quân Y Không Quân). Trung Tá Vũ Xuân Bôi, Thiếu Tá Bùi Xuân Mẫn…Ngoài ra có BS
Nguyễn Lưu Viên (Phó Thủ Tướng VNCH), BS Tôn Thất Niệm (Nghị Sĩ VNCH), BS Trần Ngươn
Phiêu (Phụ Tá Quân Y Hải Quân) …
Thi đậu, các BS TTYKHQ đi Dallas, TX hành nghề y khoa. BS Bùi Xuân Mẫn bị nhồi máu cơ tim, sau
mấy năm hành nghề ở Dallas, ông đã ra đi vĩnh viễn để lại trong tôi nhiều luyến thương. Nhắc lại
lòng xốn xao buồn!
Rồi ngày tháng trôi qua, tôi cũng hăng say làm lại cuộc đời:”tấp tỉnh người đi tớ cũng đi, cũng
lều, cũng chõng, cũng đi thi… (Trần Tế Xương).

Khăm Đi, Tháng 4, 2019.

CON TÀU CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI

Phan Xuân Sinh

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
” Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng”
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v… anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
“Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu”
Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn”, để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: “Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”
Anh lắc đầu: “Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.. “
“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.”
Người cán bộ nói tiếp: ” Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.”
Anh ấp úng: “Vâng, thưa cán bộ.”
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: ” Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn.. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn” kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi…xin lỗi chị”.
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi.. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật.. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện…
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?… Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

Phan Xuân Sinh