HÃY CỨU NƯỚC MỸ !

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

Kính thưa Đồng Bào Việt Nam,

Nhân danh một người Mỹ gốc Việt Nam, tôi xin khẩn thiết kêu gọi Đồng Bào Việt Nam Tỵ Nạn khắp thế giới hãy nắm tay nhau cứu Nước Mỹ đang bị lâm nguy.

Nước Việt Nam Cộng Hòa ta mất vào tay Việt Cộng vì nội thù. Vậy Nước Mỹ sẽ không thể tồn tại, khi bị nội thù đang manh tâm phá hoại nền độc lập lâu dài ngót 250 năm!

Dưới đây là bằng chứng bọn nội thù muốn giật sập nền Dân Chủ của Hoa Kỳ:

1/ Sau khi kiểm tra bản báo cáo của Bill Mueller, ông Tổng Chưởng lý William P. Barr tuyên bố Tổng thống Donald Trump không thông đồng với Nga và không cản trở công lý. Bọn Nghị sĩ Thượng viện của đảng Dân Chủ liền rộ lên phản đối, đòi xem xét toàn bộ nguyên bản báo cáo không bị biên tập (unredacted report). Chúng đòi ông Barr ra điều trần mà cung cách tra hỏi giống như côn đồ, rất thiếu văn minh – văn hóa. Chúng đã từng hành xử đối với ông Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Brett Kavanaugh như thế!Tiếp theo, bọn Dân biểu Dân Chủ ở Hạ Viện lại đòi ông Barr đến điều trần. Điều đó, chứng tỏ bọn Dân Chủ đang lạm dụng quyền dân chủ. Tại sao bọn Dân Chủ đòi ông Barr phải ra điều trần? Bởi vì trong cuộc điều trần tại Thượng Viện, ông Barr cam kết sẽ ráo riết điều tra nguyên nhân từ đâu mà có cuộc điều tra của ông Bill Mueller!Bằng mọi giá, bọn Dân Chủ quyết tâm triệt hạ Tổng thống Donald J. Trump do dân bầu, giống như băng đảng bọn Việt Cộng, trá hình giả dạng làm tu sĩ Phật giáo, quyết tâm lật đổ nền Đệ nhất lẫn Đệ nhị Cộng Hòa Việt Nam.

2/ Ứng viên đang dẫn đầu trong đảng Dân Chủ, cựu Phó Tổng thống Joe Bider, tuyên bố Trung Cộng không âm mưu đoạt ngôi vị bá chủ toàn cầu của Mỹ, trong khi ai nấy đều biết mỗi năm nước Mỹ bị thiệt thòi 500 tỉ Mỹ kim trên thương trường; Trung Cộng cài cấm gián điệp thuộc mọi địa hạt trên 50 Tiểu bang Hoa Kỳ; ăn cắp tài sản trí tuệ, lập Viện Không Tử dưới chiêu bài văn hóa để xây dựng Đạo quân Thứ năm (Fifth Column). Nếu Joe Biden là người yêu nước Mỹ, tại sao không nhìn thấy mối họa từ Trung Cộng? Có phải Joe Biden được Trung Cộng yểm trợ tài chánh để tranh chức Tổng thống?Chính bà Hillary Clinton công khai nài nỉ xin Trung Cộng cung cấp hồ sơ thuế vụ của Tổng thống Donald J. Trump là một bằng chứng đảng Dân Chủ thông đồng với kẻ thù để triệt hạ nước Mỹ. Sự kiện đảng Dân Chủ vu cho Donald Trump thông đồng với Nga là âm mưu của Trung  Cộng ngăn Mỹ liên minh với Nga để chống chúng nó.

3/ Nghị sĩ của đảng Dân Chủ, Bernie Sanders, được xếp hạng nhì trong cuộc chạy đua làm đại diện đảng để tranh chức Tổng thống vào năm 2020, quyết tâm thực hiện Xã hội Chủ nghĩa (một chủ nghĩa đã bị nhân loại kết tội diệt chủng) lên đất nước Hoa Kỳ, tức là Bernie Sanders muốn dìm nước Mỹ xuống hàng đàn em của Trung Cộng, chấp nhận sự thống trị của Trung Cộng.

4/ Các đài truyền hình, truyền thanh, báo chí mệnh danh “Dòng Chính” (mainstream media) chắc chắn đã ngầm ăn tiền của Trung Cộng, nên mới đồng thanh đánh phá một cách tàn bạo vị Tổng thống không lãnh lương đã mang lại nhiều thắng lợi trên thương trường, giảm nạn thất nghiệp chưa từng có trong suốt 50 năm.

5/ Tham nhũng đã đi vào ngành Giáo Dục mà ta đã thấy Trung Cộng đút lót để con được nhận vào trường Đại Học thì đủ thấy âm mưu của Trung Cộng “donate” tiền cho các Đại Học danh tiếng là thủ đoạn làm băng hoại tầng lợp lãnh đạo tương lai nước Mỹ.

6/ Từng đoàn lữ hành (caravan) mệnh danh di dân ồ ạt vào nước Mỹ mà các Nghị sĩ, Dân biểu đảng Dân Chủ chống lại chính sách bảo vệ biên giới của Tổng thống Donald Trump thì nhất định bọn này trót ăn tiền của Trung Cộng để làm hại nước Mỹ. Nên nhớ, đoàn di dân hiện nay không phải tự phát, mà đó là chiến lược của Trung Cộng nhằm triệt hạ nền dân chủ Hoa Kỳ. Tại sao tôi dám phát biểu như thế? Bởi vì sau khi thắng lợi cuộc tranh cử giữa kỳ năm 2018 vào Hạ Viện, dân biểu đảng Dân Chủ liền tranh thủ đệ trình dự luật cho phép di dân bất hợp pháp, tù nhân phạm pháp (dù bị án tử hình) vẫn được quyền bỏ phiếu. Ngoài ra, chúng còn đòi cho trẻ em 16 tuổi cũng được bỏ phiếu.

7/ Tổ chức Đảng của Mỹ không giống như Việt Cộng chủ trương hãm hại đảng viên ra khỏi đảng. Trước đây chúng ta đã thấy đảng viên Dân Chủ hoặc Cộng Hòa bỏ đảng này sang đảng khác, vì nhận thấy đảng của mình đi ngược lại lý tưởng phục vụ nhân dân. Ngày nay đảng Dân Chủ đang đi vào con đường Cộng Sản mà không có một Dân biểu hay Nghị sĩ nào trong đảng từ bỏ đảng, thì phải thấy bọn này là một lũ mất trí, tham tiền, chỉ biết quyền lợi bản thân, thây kệ đất nước đi về đâu.

8/ Việt Nam Cộng Hòa bị mất nước vì Việt Cộng xâm nhập các cơ cấu chính quyền. Nay bọn phản bội nước Mỹ đã đạt địa vị lãnh đạo các cơ quan FBI, CIA, NSA thì chắc chắn nước Mỹ sẽ tiêu vong, nếu bà Hillary Clinton đắc cử Tổng thống. Nghị sĩ Jeff Session ủng hộ tích cực Ứng Cử viên Donald Trump, khi được trao chức Bộ trưởng Tư Pháp thì trở mặt, rút chân ra khỏi cuộc điều tra Trump thông đồng với Nga, nhất định chúng ta phải nghi ngờ Jeff Session là một tên nằm vùng chiến lược!

Tôi không có ý trầm trọng hóa vấn đề nguy cơ của nước Mỹ. Đảng Dân Chủ lẫn đảng Cộng Hòa đã biến Washington DC thành một đầm lầy đầy rắn rết, cá sấu và dòi bọ. Chính Việt Cộng còn đặt tên cho tình trạng tham nhũng của nước chúng nó là giặc Nội Xâm (cuộc xâm lăng từ bên trong). Nước Mỹ đang gặp nạn vừa Nội Xâm vừa Ngoại Xâm. Giống như Việt Nam Cộng Hòa đã gặp nạn ấy trước năm 1975, nên mất nước!

Tổng thống Donald Trump đã nhìn thấy cái đầm lầy của nước Mỹ từ năm 1988, và ông đã viết sách cảnh báo; chứ ông không phải là một doanh nhân thành công trên thương trường, nay nhào ra tranh cử Tổng thống để kiếm chút danh.

Sự thắng cử của Tổng thống Trump là một phép lạ!

Không những tập đoàn cầm quyền Barack Hussein Obama sử dụng FBI, CIA, NSA cài đặt gián điệp vào Ủy ban Tranh Cử của ông, không những bọn truyền thông khốn kiếp xuyên tạc, bôi nhọ, mà còn cả đảng Cộng Hòa. Cha con George Bush, John McCain, Mitt Roney và băng đảng trong cái đầm lầy, cũng chống Donald Trump!

Sau khi chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm sụp đổ, các cuộc binh biến xảy ra liên tục, bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo gây rối liên tục, các đảng chính trị chống nhau liên tục. Mà trí thức im lìm thì sự mất nước chỉ còn là vấn đề thời gian.Lúc bấy giờ, tôi chỉ là một sĩ quan cấp thấp, sự cảnh báo của tôi về mất nước chẳng ai thèm đếm xĩa. Lại thêm vị Tổng Tư lệnh Quân đội cấm quân nhân viết báo nói lên quan điểm của mình trước tình trạng đất nước, thì người lính phải tuân hành kỷ luật. Ví dụ nhà văn Không Quân Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, viết một bài báo chỉ trích rất hiền lành, liền bị nhốt 30 ngày trọng cấm ngay.

Tôi bây giờ là một công dân Hoa Kỳ gốc Việt, không bị ràng buộc bởi luật ngăn cấm quyền tự do bày tỏ quan điểm, quyền nhận thức, xin mạn phép trân trọng mở lời kêu gọi đến những vị tị nạn cộng sản trọng danh dự, hãy tiếp tay với vị Tổng thống Chống Xã Hội Chủ Nghĩa để cứu đất nước này.

Dưới đây là những đề nghị của tôi:

1/ Những người cầm bút chân chính, gồm văn sĩ, thi sĩ, nhà báo có lòng tự trọng không làm tay sai cho Việt Cộng với bất cứ giá nào, hãy tiến tới thành lập một cơ quan truyền thông nhằm hướng dẫn tư tưởng quần chúng để họ hiểu rằng chúng ta đến sinh sống ở nước này vì hai chữ TỰ DO chứ không phải là một lũ tha phương cầu thực, giá áo túi cơm. Chúng phải tố cáo với đồn bào những cơ quan truyền thông tay sai Việt Cộng.

2/ Đừng viện cớ “tôi không làm chính trị” để có lý do thờ ơ, vô cảm trước nguy cơ của đất nước đã nuôi dưỡng mình đối với bọn chính trị gia lưu manh, xôi thịt, mị dân, bán nước. Im lặng trước những hành vi tồi bại của bọn buôn dân là phản quốc!

3/ Vận động quần chúng Mỹ gốc Việt bỏ phiếu và yểm trợ tài chánh cho ứng cử viên không chấp nhận Chủ nghĩa Xã hội.

Vốn gốc lính, tôi sẵn sàng làm người lính cho Đạo Quân Việt Tị Nạn Cộng Sản tích cực ủng hộ vị lãnh đạo Chống Cộng với chủ trương làm cho Nước Mỹ giàu mạnh để bảo vệ nền hòa bình thế giới. Dù cho tuổi già sức yếu, trí tuệ bình thường, nhưng tôi vẫn còn bầu nhiệt huyết, bởi vì Tổng thống Donald Trump bị bọn ma quỷ đánh bại, thì nòi giống Việt Nam sẽ bị tiêu vong dưới gót giày của bọn Trung Cộng.

Xin lặp lại, Trung Cộng đang trên đà tiêu diệt nòi giống Tây Tạng, Tân Cương, Việt Nam. Nếu Trung Cộng trở thành bá chủ hoàn cầu thì nhất định bọn Hán Tộc có dòng máu xâm lăng, bành trướng, với dân số gần 1 tỉ 500 triệu dân, sẽ đè bẹp nhân loại. Chỉ có Hoa Kỳ mới đủ sức mạnh ngăn cản ý đồ và tham vọng ngông cuồng của nòi giống Hán. Nếu Tổng thống Donald Trump không chiến thắng trận giặc Nội Xâm; chắc chắn quả dịa cầu này sẽ trở thành địa ngục bị quỷ sứ cộng sản thống trị!

Những lập luận của tôi hoàn toàn dựa trên bằng chứng của một dân tộc đã bị loài yêu tinh Cộng Sản chế ngự; chứ không phải hù dọa để làm công cụ cho Tổng thống Trump.

Với não trạng của bọn Dân Chủ bán nước, tôi tin rằng nếu Tổng thống chẳng may bị ám sát thì bọn Dân Chủ và bọn truyền thông thổ tả sẽ mở tiệc liên hoan, ăn mừng thắng lợi ngay. Vì thế, người Việt Tị Nạn Cộng Sản phải có nghĩa vụ ủng hộ tài lực, vật lực và cầu nguyện Ơn Trên bảo vệ tính mạng vị lãnh tụ thề xóa sổ Cộng Sản.

Nếu vị thức giả nào nhận thấy đề nghị của tôi là hoang tưởng, bất khả thi, xin hãy vui lòng lên tiếng chỉ giáo cho tôi một cách đứng đắn, nghiêm chỉnh.Nếu quý vị thức giả nào nhận thấy lời đề nghị của tôi là chính đáng, cần gấp rút thi hành, xin vui lòng đứng ra lãnh đạo cuộc chiến đấu vì lý tưởng TỰ DO, tôi sẽ tình nguyện đứng dưới cờ lãnh đạo của quý vị.

Đã đến lúc những người Việt Tỵ Nạn Việt Cộng phải đoàn kết lại để tiếp tay Tổng thống Donald J. Trump chiến thắng ma quỷ!

Trân trọng kính trình.

Bằng Phong Đặng văn Âu

10200 BOLSA AVENUEWESTMINSTER, CA.92683

TELEPHONE: 714 – 276 – 5600. 

EMAIL ADDRESS: bangphongdva033@gmail.com

Ngày 9 tháng 5 năm 2019

30 tháng 4, đọc gì, viết gì?

Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.

Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.

Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.

Trích bài “Những mũi giáo đâm sau lưng, hay những kẻ nối giáo cho giặc” của ông Đỗ Hồng Ngọc:
….
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc.
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản.

Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:

Trên đời có bốn cái ngu 
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu
Thứ năm ngu nhưng lại đứng đầu 
Đó là cuồng tín theo hầu cộng nô

Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như:Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH.

Vào ngày 20/12/1960, con bài“Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN” (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có:Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…

Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là“Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như:Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…

Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976.

Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.

Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…

Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…) Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.

Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.

Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)…

Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến (ông này là cha của ông Lê Khắc Nhàn tức Hằng Trường. Đại lão Hòa Thượng Tuyên Hóa đã đuổi ra khỏi Tăng Đoàn Vạn Phật Thành vì âm mưu chiếm chùa Vạn Phật và không được lấy pháp danh họ Hằng nữa), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên…

Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng.

Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam.

Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài…

Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng.

Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…

Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng. (ngưng trích)

Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ. Nào đoàn tụ gia đình, nào bảo lãnh thân nhân, nào hôn nhân (thật lẫn giả), nào “HO”, nào du sinh, nào đại gia VC và con cháu VC gộc, cùng nhau cấu kết với cựu tị nạn trở cờ…tạo thành một “đội ngũ” chuột đỏ rộng lớn dưới sự chỉ đạo giấu tay của các sứ quán VC, đã xâm nhập mọi sinh hoạt chính trị, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, báo chí, truyền thông … trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.

Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.

Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.


Ký‎ Thiệt

30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI

Tác giả: Trần Gia Phụng – 2019-05-01
Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.
Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.

1.- AI THẮNG AI?
Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa.
Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản.
Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc.
Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969.
Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ
Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3)
Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5)
Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.
Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.“(7)
Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9)
Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc.
Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh.

2.- THỰC TẾ SAU 30-4
Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.)
Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa.
Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước.
Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11)
Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách.
Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.)
Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12)
Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991?

3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC
Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13)
So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14)
Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa.
Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống.
Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15)
Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16)
Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn.

4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trung, cô lập, bắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam.
Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế…
Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18)
Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20)
Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay.
Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam.
Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc.
Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây:
· Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt.
· Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản.
· Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư…
· Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời.
Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt.
Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây.
Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21)
Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường.

.
TRẦN GIA PHỤNG (Toronto)

Sự thay đổi hoàng đế có ý nghĩa như thế nào với Nhật Bản?


Nguồn: What the change of emperor means for Japan”, The Economist, 29/04/2019.

Biên dịch: Phan Nguyên

Vào ngày 30/04/2019, Hoàng đế Nhật Bản Akihito (trong ảnh, bên phải) sẽ thoái vị sau 30 năm cai trị. Quyết định của vị hoàng đế 85 tuổi xảy đến như một cú sốc vì đây là lần đầu tiên một hoàng đế Nhật Bản thoái vị kể từ năm 1817. Con trai cả của Akihito, Thái tử Naruhito (trong ảnh, bên trái), sẽ trở thành hoàng đế thứ 126 của chế độ quân chủ lâu đời nhất thế giới, mà theo huyền thoại Nhật Bản có nguồn gốc trực tiếp từ nữ thần mặt trời Amaterasu trong Thần đạo (Shinto). Sự thay đổi ngôi vị hoàng đế có ý nghĩa như thế nào đối với Nhật Bản?

Hiến pháp sau Thế chiến II đã thay đổi tư cách của hoàng đế Nhật Bản từ một vị thánh sống với quyền lực chính trị lớn, bao gồm quyền tuyên bố chiến tranh, thành một vị trí mang tính biểu tượng của Nhật Bản. Akihito, người lên ngôi năm 1989, đã đảm nhận vai trò này khác với cha mình. Thay vì ngồi trong cung điện và cầu nguyện, ông đã biến vai trò hoàng đế của mình trở nên dễ tiếp cận hơn với công chúng. Ông kết hôn với một thường dân, vị quân vương đầu tiên làm như vậy trong gần 2.680 năm lịch sử hoàng gia Nhật, thăm các viện điều dưỡng bệnh nhân mắc bệnh phong, và thúc đẩy phong trào Paralympics. Sau trận động đất Tohoku năm 2011 khiến phần lớn vùng đông bắc Nhật Bản bị tàn phá, ông và Hoàng hậu Michiko đã đến nói chuyện với những người sống sót, quỳ trên sàn nhà và nắm tay họ. Ông đã làm nhiều việc để xin lỗi cho lịch sử thời chiến của Nhật Bản, đến thăm các chiến trường như Saipan và Palau để tỏ lòng thành kính với những người đã thiệt mạng trong chiến tranh. Và ông cũng đã không đến thăm Đền Yasukuni, ngôi đền gây tranh cãi ở Tokyo nơi thờ phụng 14 tội phạm chiến tranh cấp cao của Nhật.

Sự thay đổi rõ ràng nhất mà sự kế thừa ngai vàng của Naruhito mang lại cho Nhật Bản là sự khởi đầu của một triều đại mới, có niên hiệu là Reiwa (Lệnh Hòa), có nghĩa là sự “hòa hợp tươi đẹp”. Naruhito sẽ có những ý tưởng riêng về vai trò của mình. Vị Thái tử từng học ở Đại học Oxford và hoàng hậu – từng tốt nghiệp Đại học Harvard và là một nhà ngoại giao biết nói nhiều thứ tiếng trước khi gia nhập hoàng gia – có thể xuất hiện thường xuyên hơn trên trường quốc tế so với Akihito và Michiko, những người có xu hướng tập trung hỗ trợ các nhóm yếu thế của Nhật Bản. Nhưng ít có khả năng Naruhito sẽ đi lệch xa khỏi con đường mà cha ông đã đi trong ba thập niên qua. Tỉ lệ ủng hộ của người dân đối với Akihito dao động quanh mốc 80%. Naruhito sẽ tiếp tục đến thăm các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai và ủng hộ người khuyết tật. Ông cũng sẽ tiếp tục di sản của Akihito khi nhìn lại lịch sử thời chiến của Nhật và tránh không viếng thăm Đền Yasukuni.

Những nỗ lực của Akihito nhằm thu hẹp khoảng cách giữa hoàng gia và công chúng đã giúp hoàng gia được lòng dân. Nhưng các cuộc khủng hoảng hoàng gia vẫn xuất hiện mà ngay cả một vị hoàng đế được lòng dân cũng không thể khắc phục. Theo Luật Gia đình Hoàng gia Nhật Bản, phụ nữ không  thể trở thành hoàng đế, vì vậy sau khi Naruhito lên ngôi, người tiếp theo trong danh sách kế vị ngai vàng sẽ là anh trai ông, tiếp đến là đứa cháu trai 12 tuổi của ông. Gia đình hoàng gia sẽ giảm dần từ con số 18 thành viên hiện tại, vì các thành viên nữ sẽ phải rời khỏi hoàng gia nếu kết hôn với thường dân. Các ý tưởng để giải quyết những vấn đề này, như chấp nhận phụ nữ làm hoàng đế, đã gặp phải sự phản đối quyết liệt từ những người theo chủ nghĩa truyền thống, vốn là những người ủng hộ thủ tướng Shinzo Abe. Các nghi lễ hoàng gia, thường có yếu tố Thần đạo mạnh mẽ, cũng gây nhiều tranh cãi. Các nhà phê bình cho rằng việc sử dụng công quỹ cho các nghi lễ hoàng gia vi phạm nguyên tắc của hiến pháp là tách biệt tôn giáo và nhà nước.

Nhưng hiện tại, một hoàng đế mới đồng nghĩa với một sự khởi đầu mới. Sau một thời kỳ được đánh dấu bởi trì trệ kinh tế và thiên tai, nước Nhật đã sẵn sàng đón chào một kỷ nguyên mới.

CUỘC HÀNH QUÂN CẢM TỬ của Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt

SUICIDE MISSION of Frogman Nguyễn Văn Kiệt, Vietnam Navy


Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt

Lời ngỏ: Cuối năm 2001 người xem TV các chương trình “Suicide Missions” (History Channel), “Navy SEALs: Untold stories” (TLC – The Learning Channel) sẽ thấy một nhân vật Việt Nam tên Kiệt được nhắc đến trong những chuyến công tác chưa bao giờ được kể lại. Nhân vật này là ai? Tình tiết trong các phim tài liệu đó có chính xác không? Mời đọc giả đi ngược thời gian….Cách đây gần 30 năm về trước, vào mùa hè năm 72 được biệt danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Cộng sản Bắc Việt (CSBV) mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận: Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc. 30 ngàn quân CSBV trang bị vũ khí tận răng, tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch…


 Phi cơ thám thính điện tử EB-66

Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của không lực Hoa Kỳ bất thình lình bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hãi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người còn lại trong phi hành đoàn. Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ mình dưới đất. Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “tìm kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến. Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nhì ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.


 Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton.

Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một mình dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN. Hôm đó là ngày Phục Sinh, chủ nhật 2 tháng 4, 1972. Không quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta vì địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả mìn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần. Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton thì lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về. Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ. Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Đại Uý William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton. Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối. Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng. Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị CSBV lùng bắt được. Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command). Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch. Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.


Phóng đồ hành quân Bat 21 Bravo và Nail 38 Bravo giải cứu Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton từ ngày 2 đến ngày 14 tháng 4 năm 1972.

Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. Vì hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng vòng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng. Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt. Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ. Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton. Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ. Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người. Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy mình. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống còn…. Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.

Ngày 9 tháng 4, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công. 5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác. Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.

Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác: một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này? Câu trả lời: Biệt kích Mỹ và Việt. Đại Úy Thomas Norris – (hình trái) – US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị. Cùng lúc đó, không lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong lòng địch tìm cách tới điểm hẹn. Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt. Tối ngày 10 tháng 4 sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. Còn Trung Tá Hambleton cách giòng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua vòng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông. Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ. Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Phòng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô hình của US Navy SEALs.

Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược dòng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó. Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành. 6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đã bất chấp sức mạnh của không lực HK. Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược dòng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi dòng xuống. Nhưng vì dòng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông. Toán biệt kích chậm rãi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiểu thường xuyên canh phòng. Đây là một việc chậm rãi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đã dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn. Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.


Trực trăng Jolly Green HH-53 cấp cứu phi công lâm nạn.

Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi dòng sông. Đó chính là Trung Úy Clark. Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu thì một toán tuần tiểu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi dòng sông. Đến khi kẻ địch đã đi qua thì Trung Úy Clark cũng biến dạng trên dòng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark. Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông. Trời đã hừng sáng, tuy đã tìm được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn còn ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm rãi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành trình đào tẩu khỏi vùng địch. Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích còn ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong vì vẫn còn một phi công HK cần giải cứu. Ngày hôm sau, 11 tháng 4, toán biệt kích chuẩn bị lên đường. Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đã chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. Vì thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đã dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường. Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.

Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương. Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ còn lại 4 người: Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người còn lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu. Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào lòng địch. Càng vào sâu, nhìn thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trời đã hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui. Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không còn bao lâu trước khi ông ta gục ngã chết lịm trong rừng già. Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức thì không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn. Sức khoẻ của ông đã đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay thì có lẽ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. Họ cũng lượng định rằng trong tình trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi tìm cho ra được ông ta.


Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt và Người Nhái Hải Quân Hoa Kỳ Tom Norris.

Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất tình nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn tình nguyện đi vì yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng vì lòng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu. Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47. Họ quyết định dùng xuồng đi ngược dòng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rõ mồn một tiếng trò chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu. Họ chèo chậm rãi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp dòng sông che chở họ khỏi sự dòm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ. Khi nghe tiếng chân bộ đội Bắc Việt tuần tiểu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi dòng sông và tìm kiếm Trung Tá Hambleton. Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng tìm ra Trung Tá Hambleton, một thân hình tong teo gục ngã gần bờ sông. Ông ta chỉ còn thoi thóp thở. Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân hình ông ta. Họ bắt đầu cuộc hành trình rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm rãi như mọi khi. Lúc bấy giờ hừng đông đã ló dạng. Bất thình lình, Kiệt nghe tiếng gọi “Ê, lại đây!”. Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ. Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều bình tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam. Vừa chèo, Kiệt đã bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo. Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại bình thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu. Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm não của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời … Tom lập tức báo cáo bằng radio là đã giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong vì họ vẫn còn sâu trong lòng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. Vì thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào. Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đã báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu. Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn dòng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàng cây dầy đặc ven sông che dấu bớt hình ảnh chiếc xuồng mong manh. Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức. Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa. Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi dòng an toàn. Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đội hai bên dàn trận ra “tiếp đón” lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đội VNCH bên bờ Nam. Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt dìu Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn ….


Người nhái Nguyễn Văn Kiệt và Thomas Norris cứu sống được Trung Tá Hambleton đưa về phòng tuyến Việt Nam Cộng Hoà.

Cuộc giải cứu đã thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay thì những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng mình đi vào trong lòng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.

Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim với những tài tử quen thuộc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyện. Vậy mà 2 nhân vật “CHÍNH” nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến. Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ. Đại Úy Thomas Norris được trao tặng huân chương “Medal of Honor”. Huân chương cao quý nhất của quân đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đã có hành động dũng cảm phi thường. Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, người Nhái anh dũng của Hải Quân VNCH, được trao tặng huân chương “Navy Cross”. Huân chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh. Kiệt là người chiến sĩ Hải quân VNCH duy nhất nhận huân chương “Navy Cross” trong cuộc chiến Việt Nam.

The President of the United States
takes pleasure in presenting theNavy Cross 
toNGUYEN VAN KIET 
Petty Officer Third Class 
Republic of Vietnam Navy
for service as set forth in the following:Citation: 
For extraordinary heroism while serving with friendly forces engaged in armed conflict against the North Vietnamese and Viet Cong communist aggressors in the Republic of Vietnam.  On 13 April 1972, Petty Officer Kiet participated in an unprecedented recovery operation for a downed United States aviator behind enemy lines in Quang Tri Province, Republic of Vietnam.  He courageously volunteered to accompany a United States SEAL Advisor in an extremely hazardous attempt to reach the aviator, who was physically unable to move toward friendly positions.  Using a sampan and traveling throughout the night, they silently make their way deep into enemy territory, past numerous major enemy positions, locating the pilot at dawn.  Once, after being spotted by a North Vietnamese patrol, he calmly continued to keep the enemy confused as the small party successfully evaded the patrol.  Later, they were suddenly taken under heavy machinegun fire.  Thinking first of the pilot, he quickly pulled the sampan to safety behind a bank and camouflaged it while air strikes were called on the enemy position.  Due to Petty Officer Kiet’s coolness under extremely dangerous conditions and his outstanding courage and professionalism, an American aviator was recovered after an eleven-day ordeal behind enemy lines.  His self-discipline, personal courage, and dynamic fighting spirit were an inspiration to all; thereby reflecting great credit upon himself and the Naval Service.
For the President, Secretary of the Navy

Đến nay đã gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đã được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành động dũng cảm, anh hùng này đã được mọi người biết đến.

Thế Trân

Được đăng bởi suoinguontuoitre vào lúc 21:30 –Thứ Bảy, ngày 14 tháng 3 năm 2015

30 Tháng Tư : Hãy Gọi Việt Cộng Là Việt Cộng.

Trần Mộng Lâm.

Hồi tôi còn trẻ, sống tại Miền Nam, tức là nước Việt Nam Công Hòa, có một danh từ mà nghe đến ai cũng ghê sợ, đó là việt công. Không ai ưa việt cộng, không ai thích bị gán cho hai chữ việt công. Đối với tôi, việt cộng là người của một nước khác, và nước này đang tấn công vào Tổ Quốc của tôi. Tôi đã nhập ngũ, đã trải qua những năm tháng tươi đẹp nhất của cuộc đời chỉ để tránh cho đất nước và dân tộc tôi thoát khỏi nạn việt công.

Trong cuộc đời, nhiều khi chúng ta gặp phải những tai nạn hoàn toàn ra ngoài ý muốn, như bệnh tật chẳng hạn. Tai trời, ách nước, làm sao tránh khỏi. Do những lý do hoàn toàn không kiểm soát được như tình hình Thế Giới và sự dàn xếp của ngoại bang, Miền Nam rơi vào tay bọn việt công từ ngày 30 thánh tư năm 1975. Từ ngày đó, biết bao tang thương đã đến với Miền Nam.Việt Cộng đến, dân tình khổ sở, đàn bà bị bán ra nước ngoài, đàn ông phải làm lao công cho các nước giàu có, rồi cải tạo, rồi vượt biên, chết ngoài biển khơi hay kéo dài kiếp đời tàn trong các trại dành cho người di cư trái phép của các nước lân cận, kéo dài trong nửa thế kỷ và tiếp diễn mãi đến ngày hôm nay.

Bởi những lý do đó, tôi bao giờ cũng coi việt công như kẻ thù, giống như người Palestines coi người Do Thái, tuy sách vở viết rằng họ có cùng một tổ phụ là Abraham.

Nay có nhiều người không nghĩ như tôi, và kết tội tôi chia rẽ dân tộc vì những lý do  như cùng là đồng bào, con rồng cháu tiên…v…v Bọn việt cộng thì rêu rao những người tỵ nạn là như chúng ta là khúc ruột ngoài ngàn dậm của chúng…!!!

Xin đùng ru ngủ tôi bằng những điều đạo đức giả đó, làm ơn, làm phước.Việt cộng không bao giờ tốt đẹp, tuy bây giờ với sự giúp đỡ của Trung Cộng, chúng đã chiếm toàn thể nước Việt Nam và cũng với sự giúp đỡ của TC, chúng vẫn nắm chặt quyền hành trong tay. Nắm chặt quyền hành, nên chúng đang từng bước, từng bước, thi hành kế hoạch Đại Hán của bọn Trung Cộng, luôn luôn muốn làm chủ Thế Giới, không coi các dân tộc khác ra gì. Tấm gương Tây Tạng và Tân Cương còn đang sờ sờ trước mắt mà hình như nhiều người vẫn chưa sáng mắt ra, và vẫn vô tình hay cố ý tiếp tay cho bọn bán nước.

44 năm đã trôi qua kể từ khi Sài Gòn bị gót giây của bọn việt cộng giẫm nát nhưng nhiều người còn ngần ngại khi nói tiếng chống lại bọn việt cộng, không biết vì lý do gì. Theo thiển ý, chúng ta nên rõ ràng, minh bạch. Việt cộng không phải là người cùng tổ quốc với chúng ta, những người cựu công dân của Việt Nam Cộng Hoà. Việc đó rõ ràng, như 2+2=4.

Bổn phận chúng ta là chống lại bọn việt cộng, không giao du với bọn việt cộng, không dùng những chữ việt cộng, không buôn bán với bọn việt cộng. Chúng ta khẳng định như thế để chúng hết nói chúng ta là những khúc ruột ngoài ngàn dậm của chúng, không phải vì chúng ta kiêu căng, nhưng chỉ vì chúng ta lương thiện và minh bạch , không nói dối, không dấu diếm điều gì.

Thành hay bại trong cuộc chiến đấu này không phải là vấn đề. Vấn đề là khẳng định vị thế của chúng ta. Nếu chúng ta không rõ ràng như vậy, thì xương máu của những người đã ngã xuống trong cuộc chiến vừa qua để bảo vệ Miền Nam hoàn toàn vô nghĩa. Lương tâm và lý trí của chúng ta không cho phép chúng ta làm những điều như vậy tuy rằng sự bướng bỉnh sẽ đem lại cho đời sống chúng ta nhiều thiệt thòi, nhiều sự hy sinh.Nhưng những sự thiệt thòi và hy sinh của chúng ta rất nhỏ nhoi so với hiểm họa diệt chủng mà chúng ta đang bị đe dọa. Mong mọi người suy nghĩ lại. Không còn một giải pháp nào cho Việt Nam hơn là chống lại bọn việt cộng.

Trần Mộng Lâm.

Những ngày tháng cố quên

Phan Đình Linh

Anh tôi được thả về gần 3 năm, chuyển qua 4 hay 5 năm trại tù Cải tạo tại Miền Nam. Trại cuối cùng là trại Bù Đăng hay Bù Đốp gì đó, tôi cũng không rõ lắm. Anh tôi là anh cả trong gia đình gồm sáu anh em, toàn con trai. Anh thi keo nào, đậu keo ấy từ Trung Học tới Tú tài I, Tú tài I I và bước vào Đại học một cách dễ dàng.
Tuổi thơ chúng tôi lớn lên ở một thành phố nhỏ Qui Nhơn, nhà ở gần biển, bờ biển thật đẹp và dài, những hạt cát trắng nhỏ li ti. Bước đi trong buổi sáng lùa ngập vào kẻ chân, như muốn giữ lại mãi mãi bên đại dương yêu dấu.
Qui Nhơn, thành phố êm đềm, chỉ lớn hơn tờ napkin một tí nên nhà nào có con cái vào đại học, là cả thành phố ồn ào lên, dưới một lớp sóng ngầm thì thầm trong thị xã. Nhưng đến năm thứ 3 thì anh Cường vào lính, giã từ Đà Lạt với đời sống sinh viên, giã từ Đại học Thụ Nhân thật nhiều kỹ niệm. Ở những năm cuối này anh tôi đi bal, đi boom nhiều hơn là tới giảng đường.
Anh tình nguyện gia nhập Hải Quân theo nghiệp hải hồ, viễn xứ. Ô hay thế là anh tôi kém thâm niên hơn tôi rồi….Sở dĩ anh được tha về sớm vì anh chỉ là Sĩ
Quan Hải Quân thuần túy. Tốt nghiệp khóa 22 SQ HQ Nha Trang. Ra trường về Duyên Đoàn nào đó ở Hòn Khói, anh làm Hạm trưởng liền…Hạm trưởng Yabu cây (1) để tăng thêm vẻ kiêu hùng của dân đi biển lâu năm, bắt chước theo các đàn anh Dương Cưu, Xử Nữ…Cũng tập tành ngậm pipe và nhồi thuốc Half and Half hay 79 cho đúng gout dân chơi. Thỉnh thoảng đầu tháng lãnh lương, xin phép Duyên Đoàn trưởng cuối tuần về Nha Trang cùng vài Sĩ Quan trẻ làm một đêm nhảy đầm và vài ly Cognac cho thơm râu, sau đó trở về Duyên Đoàn ăn mì gói và ký sổ Câu lạc bộ. Ngày nối ngày, tháng kế tháng, cuộc đời buồn tênh và mênh mang như biển cả. Lương tháng chỉ đốt được có một đêm, đến nổi trả tiền cho đào xong khi rời cửa phòng trà, chị cai gà liếc tiễn mắt sắc như dao cạo.

  • Gớm, nhảy nhót cũng được. Mẹ kiếp, không có một xu pourboire (tip), thế mà lúc vào cũng hỏi có đào mới không ???!!!
    Một thời gian sau lại đổi về Bộ Tư Lệnh Hạm Đội làm SQ Hải hành trên chiếc Hộ Tống Hạm Chi Lăng 2 (PCE 08) dưới quyền của một đàn anh Khóa 15, vị Hạm trưởng này cũng chỉ thấp thua Đại đế Napoléon một tí nhưng nổi tiềng cập cầu nước ngược thuộc loại chiến nhất thời bấy giờ.

Không còn đồng bạc Cụ Hồ nào trong túi, cả đến cái bụng cũng lép xẹp. Trại tù chỉ cho đủ tiền từ Vùng 4 về đến Sài gòn. Anh phải ghé nhà người bác ở Cư Xá SQ cao cấp Chí Hòa ở lại một đêm và xin tiền xe về Qui Nhơn. Bác trai vẫn còn ở tù. Bác trai là SQ cao cấp trong sở Công Tác Nha Kỹ Thuật, nhà người bác cũng rách bươm như những gia đình Miền Nam sau cuộc đổi đời nghiệt ngã.
Thất thiểu qua những căn nhà cửa đóng nhiều hơn mở những dấu ấn loang lỗ, bụi bặm đã lâu chưa sơn phết lại. Rồi cũng về tới nhà, căn nhà phố lầu thân yêu của chúng tôi đây rồi, cửa sắt chỉ khép hờ, lách mình vào, căn phòng ngoài im ắng và ảm đạm, không có tiếng reo vui của trẻ thơ ngày nào của các em, khi có anh hoặc tôi về phép. Mẹ tôi là người đầu tiên thấy anh lúc bà đang ngồi dùng bửa tối trên chiếc bàn tròn bằng gỗ cáu bẩn chỉ có một cái bánh tráng khoai mì đã nhúng nước và một chén nước mắm nhỏ màu nâu nhạt, chắc là nhiều nước hơn mắm ???!!! Đó là bửa ăn tối “Hoành Tráng” của nhân dân Miền Nam sau gần 3 năm “Giải Phóng”.

  • Con về đó hả ?
  • Dạ, họ thả con 3 ngày rồi.
    Cuộc đối thoại ngắn ngủi cho một cuộc trùng phùng, sau biến cố lịch sử. Chỉ có vậy, ngưởi dân Miền Nam đớn đau và tuyẽt vọng đến nổi cả lời nói cũng không còn độc lập tự do. Như những kẻ thắng trận tuyên truyền.
    Mấy đứa em ở tầng trên nghe tiếng nói chuyện ở nhà dưới lục tục kéo xuống cầu thang lí nhí chào anh Hai trong miệng.
  • Anh Hai mới
    Những đứa em chỉ lớn hơn 10 tuổi, trông nhếch nhác và gầy còm thảm hại, những anh mắt của tuổi thơ, giờ đây là những khuôn mặt ủ rũ và sợ sệt… đau đớn thay.!!!
  • Ba đâu rồi Má?
  • Họ thả Ba mày được 2 tháng, rồi họ bắt lại đó
    !!!
    Đảo mắt nhìn một vòng quanh nhà, chợt anh dừng lại trên bàn thờ gia đình trên di ảnh của ông Cậu tôi treo trên tường phiá góc phải có một tấm hình nhỏ của tôi lấy ra từ thẻ học sinh trông thật trẻ và ngô nghê… Ông Cậu tôi là một Linh Mục Chánh Xứ ở Miển Bắc. Khi chia đôi đất nước năm 1954, Cậu tôi và một số Giáo hữu vào Nam và định cư tại Cam Ranh. Sau này được sự giúp đở của Chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà dưới sự lãnh đạo anh minh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã lập ra Giáo Xứ Tân Bình và Giáo Xứ Đồng Lác hiện vẫn con tồn tại và Chiên Chúa ngày càng đông đúc hơn…
  • Thằng Linh nó chết hồi nào vậy Má?
  • Ờ thì thằng Xá nó lên gặp tao, sau khi “ Giải Phóng” chừng một tháng, nó nói chính nó thấy thằng Linh bị bắn vở đầu cùng một vài người lính của nó tại Quận 5, quận 9 gì đó ở Sài Gòn mà !!!
  • Bậy, nó ở chung với con 1 năm, sau đó bị đưa ra Bắc rồi…(Xá cũng là dân La Salle với tôi, nhưng học sau một lớp và cùng ở một dãy phố, cu cậu lận đận mãi với cái bằng Tú Tài. Trên chiếc PBR chúng tôi lấy từ Căn Cứ HQ Bến Lức tôi gặp lại Xá anh ta một chữ V (2) và bánh xe nước mía.

Những ngày gần giữa tháng 4 năm 1975. Căn cứ HQ Trà Cú bị áp lực địch rất mạnh theo tin tức Tình Báo cho biết. Các đơn vị Đặc công thủy của Việt Cộng sẽ tiến chiếm nay mai..
Toán 2 của tôi và Toán 3 của Tr/úy Thắng được lệnh rời vùng công tác, về căn cứ Bến Lức bảo vệ Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sông. Trong những ngày 28 và 29 tháng 4 năm 1975. Tôi đã nhiều lần liên lạc về Biệt Đội Hải Kích và cả Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Người Nhái nhưng hoàn toàn không liên lạc được. Một sự im lặng vô tuyến tổng thể đầy hoang mang.
Trong khi đó vào chiều ngày 29 tại Căn cứ HQ Bến Lức, tôi chứng kiến tận mắt nhiều Binh lính kể cả Sĩ Quan đã âm thầm rã ngũ, họ thay đồ dân sự đi ra cỗng gác chính mà quân cảnh chẳng hỏi han gì cả…???
Tối đó trạm gác cỗng chính cũng bỏ hoang, một sự tan hàng âm thầm, không kế hoạch…. Khuya 29, khoảng 8 giờ, một SQ Thuyền Trưởng PCF lên gặp tôi, họ nói họ đi ra cửa Vũng Tàu, họ hỏi chúng tôi có đi với họ không ? Đây là 1 trong 4 chiếc PCF mà BCH / Hành Quân Sông sẽ xử dụng trong kế hoạch di tản.
Trước đó vài ngày, một vị Đại tá HQ đã kêu tôi lên trình diện và cho biết Toán 2 của tôi có nhiệm vụ bảo vệ họ khi di tản. Tôi nói với vị Đại Tá là tôi phải nhận được lệnh của BCH/Người Nhái trước đã. Ông ta nhìn tôi với cặp mắt hơi khó chịu khi tôi rời phòng (Công tác của Biệt Kích Người Nhái là thế này ư? Kể cả khẩu lệnh).
Sau đó tôi có tham khảo với Biệt Đội Trưởng của tôi – Ông này trước có ở Biệt Hải Đà Nẵng, hình như K 17 thì phải. Ông mới về nắm Biệt đội được 2 tuần, và theo Toán chúng tôi đi công tác để có kinh nghiệm và kiến thức điều hành giữa Biệt Hải (3) và Biệt Kích Người Nhái.
Cũng cần nói thêm cho rõ sự khác biệt giữa Hải Kích và Biệt Kích Người Nhái. Biệt Hải Đá Nẵng là đơn vị thuần tuý hoạt động cho Hài Quân. Trước khi đơn vị này giải tán vào năm 1973, họ trực thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Nằm trong Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu Còn Biệt Kích Người Nhái trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Thuôc Lực Lượng Trung Ương 214. Họ hoạt động theo từng toán. Mỗi toán có cấp số là 11 người, gồm 2 Sĩ Quan, Trưởng và Phó toán cùng 9 toán viên. Phạm vi hoạt động của họ rất rộng. Từ Muĩ Bùng, Năm Căn, Cà Mau, tới Đuyên Đoàn 11, Cửa Việt sát Vĩ tuyến 17 và cả những Hải đảo xa xôi lộng gió như các đảo Nam Yết, Sinh Tồn, Sông Tử Đông, Sông Tử Tây … (Trường Sa) hay Duy Mộng , Quang Hòa, Vành Khăn…(Hoàng Sa).
Các nhân viên Biệt Kích Người Nhái được huấn luyện và trang bị bằng các vũ khí tối tân và đặc biệt như Navy SEAL (4) của Hoa Kỳ. Họ hoạt động chung vói nhau cho đến năm 1973 khi các toán SEAL của Mỹ về nước. Navy SEAL Việt Nam đảm nhận toàn bộ công tác đầy khó khăn và nguy hiểm do trong tình trạng quân viện hoàn toàn bị cắt đứt.
Tính đến ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm bởi những người Cộng Sản phương Bắc nhân viên Biệt Kích Người Nhái không vượt quá con số 60. Họ đã ngã xuống cho quê hương rồi mà không một tiếng kèn truy điệu hay một tấm huy chương tưởng nhớ. Thân thể họ chìm sâu vào lòng sình lầy U Minh đầy muỗi mòng hay vĩnh viễn nằm lại trong cát trắng đảo Quang Hòa của Nhóm Nguyệt Thiềm (Hoàng Sa) trong cuộc chiến năm 1974 với kẻ thù muôn đời, muôn kiếp phương Bắc (Tàu Cộng):
“Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên…
Những Liệt Sĩ vào bia người tuẫn quốc …”
Đằng Phương (ngày tang Yên bái)
Khoảng 5 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi và Tr/úy Thắng quyết định rút 2 toán về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Người Nhái ở Cát Lái, mặc dù ông tân Biệt Đội Trưởng vẫn bảo là chưa có lệnh của Chỉ Huy Trưởng, bảo ráng chờ. Tôi ra lệnh cho toán viên sẵn sàng di chuyển, đạn đã lên nòng, gương mặt tôi lầm lì và cặp mắt đổ lửa, mong rằng giờ phút này đừng có sự gì cản trở tôi.
Tôi sẽ tapis cạn láng dù chỉ có 10 toán viên…Hai chiếc GMC chở 2 toán rời Bến Lức hướng về Sài Gòn. Tới cầu Bình Chánh thì bị chận lại. Một Đ/úy Biệt Động Quân cho chúng tôi biết là không môt đơn vị nào được vào Sài Gòn. Lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu có hiệu lực từ nữa đêm qua.!!!
Chúng tôi quay lại Căn Cứ HQ Bến Lức xuống cầu tàu lấy 3 chiếc PBR và một chiếc Foam – Hướng về Sài Gòn – Tôi gặp lại Xá trong lúc này. Khoảng 9 giờ sáng, đoàn tàu đã tới gần cầu Quận 8. Lủ khủ theo sau chúng tôi cũng có vài Giang Đỉnh của đơn vị Tuần Thám nào đó. Một loạt đạn nổ vang từ trên cầu, rít ngang tai, tiếng đạn nổ nghe quen quen. Mùì tử khí phảng phất đâu đây. Tình huống thêm căng thẳng, khi một quả B40 nổ ầm ngay trước mũi chiếc PBR đi đầu, tôi hét lớn trong máy PRC-25.

  • Tấp vào bờ!
    Bốn, năm chiếc PBR và Foam rất nhanh cắm mũi vào
    bên bờ trái, những con sói biển thuần thục và tinh nhuệ rất nhanh rời khỏi giang đỉnh. Tôi nghe rõ tiếng đại liên M 60 nổ giòn giã bắn trả về phía cầu….

Tôi không nhớ rõ lắm vì đã hơn 40 năm rồi, khoảng 10 giờ sáng ngày hôm đó (30 tháng 4 năm 1975). Khi được nghe có người tự xưng là Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi tất cả các binh sĩ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và các đơn vị Bán Quân Sự, Cảnh Sát bỏ súng để bàn giao Chính quyền cho “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “…
Chúng tôi thật sự hoang mang vô cùng, không khí lo âu, im lặng và ngột ngạt. Cho đến khi một vị mang cấp bậc Tr/Tá đến nói với chúng tôi nên bỏ súng xuống, đừng chống cự nữa, vì ông muốn sự bàn giao cho phía bên kia được êm thắm. Ông tự xưng là Quận Trưởng…
Sau đó tôi tập họp toán viên còn lại, xin phép ông cho chào cờ VNCH lần cuối, ông chấp thuận…

  • Tất cả toán viên theo lệnh tôi.
  • Nghiêm – Hạ kỳ.
    …Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi, đồng
    lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống….Vâng, chúng tôi đã làm theo hồn thiêng sông núi và Tổ quốc kêu gọi…
    Đó là quân lệnh cuối cùng của tôi – Một Sĩ Quan Biệt Kích Ngưởi Nhái – Với lời thề tâm niệm: “ Niềm Vinh dự và Hãnh diện của một Biệt Kích Người Nhái là Sẵn Sàng Phụng Sự, Chiến Đấu và Hy Sinh Cho Tổ Quốc một cách… Âm Thầm”.
    Khi trao lại lá quốc kỳ cho vị Tr/Tá tôi thấy ông mang trên áo bảng tên CHẤT

Sau này, trong những tháng năm miên viễn và trầm uất của tù đày – Tôi tự hỏi: Tại sao trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi lại có nhiều can đảm, dư nghị lực, đủ ý chí để trở thành một kẻ khiếp nhược… là không dám tự sát. Tôi cũng tự hỏi về sự lãnh đạo quốc gia của vị Tổng thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa và cả người Thủ Tướng, – Quốc gia hưng vong – Toàn dân hữu trách- sao các ông lại sớm bỏ nước ra đi…???
Và trong thời gian – chúng tôi, những người ở lại cho đến giờ thứ 25, trong cơn tù đày nghiệt ngã. Chúng tôi được biết Tổng Thống của chúng ta – Không do dân bầu lên lại không ở tù, lại còn được cho đi bầu trong chế độ mới – Và sau đó định cư cả gia đình tại Pháp. Không biết trên chiếc Air France rời Việt Nam qua trời Tây, ngài được ngồi ở ghế dành cho V.I.P hay V.U.P…!!! (5)


Trong thiên hùng ca Homère, hai ngàn năm trước Công Nguyên có đoạn đã viết : “Trong bất cứ một cuộc chiến chinh nào, những vị anh hùng và những kẻ gian hùng đều được tôn vinh lẫn lộn như nhau…”
Phan Đình Linh 2017
Ghi chú:
(1) Yabuta: ghe cây cuả Duyên Đoàn, sơn mũi đỏ có con mắt, trang bị một máy GM 3.71
(2) Thủy thủ nhất Vận chuyển
(3) Biệt Hải (Sea commando)
(4) Biệt Kích Người Nhái – SEAL team ( Sea Air and Land)
(5) V.I.P (Very Important Person)- V.U.P (Very Urgly Person)
NN. Phan Đình Linh và NN Lê Văn Đơn (đang học NV Seal tại Hoa Kỳ)

Video ‘Câu chuyện oanh liệt của Hộ Tống Hạm HQ-10 Nhựt Tảo’.


Tường trình Chủ đề của Đêm Dạ Tiệc Hải Quân Hội Ngộ chiều thứ Bảy ngày 30/3/2019 tại Portland Oregon.

“Câu chuyện oanh liệt của Hộ Tống Hạm H-10 Nhựt Tảo và Đại Lễ Tưởng Niệm 74 Tử Sĩ Hải Chiến Hoàng Sa’
Đúng 6 giờ chiều, xướng ngôn viên (XNV) HQ. Đào Duy Mỹ tuyên bố khai mạc dạ tiệc bằng nghi thức: Sĩ quan Nghi lễ HQ. Phạm Quốc Nam, cựu sinh viên SQHQ Tài nguyên Khóa 21 Sĩ quan Hải quân chào kính quan khách và cử hành nghi lễ chào Quốc kỳ do Hội Hải quân Oregon và Thủy quân Lục chiến phụ trách. Sau lời chào mừng và giới thiệu quan khách của Trưởng ban Tổ chức Đào Duy Mỹ và lời cám ơn quan khách của Hội trưởng HQ Nguyễn Văn Đông, HQ Phạm Quốc Nam và phu nhân được mời lên sân khấu trình bày lý do và ý nghĩa sân khấu được dàn dựng mang màu sắc, hình ảnh ‘Chiến hạm trên sóng biển’ với giây neo, tay lái, phao, cờ chữ Hàng hải Quốc tế và xa xa có chùm sao Bắc Đẩu, v.v… Theo HQ Phạm Quốc Nam cho biết sở dĩ ông dàn dựng sân khấu như vậy là do sáng kiến của phu nhân ông khi bà hoài niệm về qúa khứ binh nghiệp của người chồng là một người Lính Biển biền biệt xa nhà… Đồng thời HQ. PQNam cũng cho biết chủ đề Hải chiến Hoàng Sa là tâm huyết của ông đưa vào phần chánh của chương trình trong dịp hải quân Oregon-Nam WA hội ngộ vì lý tưởng Quốc Gia và tiếp tục lên tiếng chống lại sự đánh phá và boi nhọ Quân lực VNCH nói chung và Hải quân VNCH nói riêng của nhà cầm quyền CSVN, tay sai và Việt gian khi chúng xuyên tạc sự thật về trận Hải chiến Hoàng Sa (HCHS). Theo HQ. PQNam, chủ đề Hải chiến Hoàng Sa là cái khung để ông dàn dựng sân khấu. Đồng thời ông cũng không quên giải thích ý nghĩa sân khấu mang màu sắc hải quân là ông mong sao các chiến sĩ hải quân tham dự trong đêm dạ tiệc có được giây phút hoài niệm về qúa khứ kiêu hùng của người lính hải thủy trong sông cũng như trên biển ngày đêm gắn bó với chiến đĩnh hay chiến hạm bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của Tổ quốc thân yêu. Sau nghi thức tưởng niệm các chiến sĩ hải quân Oregon và Vancouver qúa vãng, gia đình Hải quân Oregon-Nam Washington và Seattle cùng hợp ca ‘Bài Ca Chiến sĩ Hải quân’. Chương trình bắt đầu đi vào phần chánh của chủ đề khi HQ Đào Duy Mỹ và HQ. Đỗ Cảnh thuyết trình vài chi tiết quan trọng của trận chiến Hoàng Sa và đặc điểm của quần đảo Hoàng Sa, cùng tố cáo hành vi của hai tên Việt gian Nguyễn Xuân Hùng (Nam California) và LS Hoàng Duy Hùng (Houston, TX). Kết thúc phần thuyết trình Thu Hương diễn ngâm bốn câu thơ tuyệt tác của nhà thơ Ngọc Bội để Vinh Danh – Tưởng Nhớ đến Cố Hải quân Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy Văn Thà cùng 74 Tử sĩ Anh hùng Hải chiến Hoàng Sa (Nhà thơ Ngọc Bội là nhân sĩ cộng đồng, nguyên cựu Thiếu Tá QLVNCH và Giáo sĩ Huỳnh Quốc Bình đã tích cực ủng hộ và vận động cho chủ đề HCHS bằng những bài viết rất gía trị đăng trên tuần báo Oregon Thời Báo và Đông Phương Times ngày 28/03/2019). Tiếp theo XNV Đào Duy Mỹ giới thiệu clip phim ‘Câu chuyện oanh liệt của Hộ tống Hạm HQ-10 Nhựt Tảo do HQ Phạm Quốc Nam biên soạn và dựng phim lần đầu tiên ra mắt tại Portland. Thước phim cho thấy HCHS năm 1974 là trận hải chiến vô cùng ác liệt với các chiến hạm của hải quân VNCH đã oai hùng lẫm liệt đánh đuổi các chiến hạm của Trung Cộng vào ngày 19/1/1974 nhưng sau đó phải rút quân không bảo vệ được Hoàng Sa trước lực lượng hạm đội mạnh gấp nhiều lần của quân địch kéo đến tăng viện và chiếm lấy Hoàng Sa sau một ngày xảy ra trận hải chiến. Hình ảnh và âm thanh của thước phim đã chạm vào nỗi bùi ngùi xúc động của người xem và không ít khán gỉa bật khóc từ đáy lòng khi xem thấy hình ảnh Hộ Tống hạm HQ-10 Nhựt Tảo chìm dần vào lòng đại dương… Tiếp theo clip phim Vinh danh Hải chiến Hoàng Sa là nghi thức Đại Lễ Tưởng Niệm 74 Tử Sĩ Hoàng Sa được thực hiện thật long trọng trên sân khấu với lễ nghi quân cách, nhạc tấu đón chào Chủ toạ (Võ khúc cấp Tá). Buổi Đại lễ Tưởng niệm diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm, đầy xúc động bởi tiếng trống kèn chiêu hồn Tử Sĩ và sự trân trọng của chủ toạ đoàn, do HQ Phạm Quốc Nam điều khiển nghi thức. Chủ toạ buổi lễ là cựu HQ Thiếu Tá Võ Minh Mẫn, sĩ quan Hải quân thâm niên hiện diện, nguyên cựu sĩ quan của Tuần Dương hạm HQ-1 Khu trục Hạm Trần Hưng Đạo, cùng tham dự đại lễ gồm có các cựu sĩ quan Hải quân từ các đại đơn vị của quân chủng hải quân như: Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận (HQ. Võ Văn Á), Bộ Tư Lệnh Vùng 3 Sông Ngòi (HQ Đào Duy Mỹ), Duyên Đoàn 43 Hòn Tre-Rạch Gía (HT/HQ Nguyễn Văn Đông), Căn cứ Hải quân (HT/HQ Đào Quốc Hiển – Seattle, WA) và Hải đội Tuần duyên – HQ-611 của BTL Hạm Đội (HQ Phạm Quốc Nam). Tiếp theo Họa sĩ Nguyễn Văn Nhớ diễn ngâm bài thơ ‘Tôi Luôn Nhớ Mãi’ của Kim Trúc Phùng (Trúc Lan) từ Canada gửi đến để Vinh danh Tử sĩ Hoàng Sa. Kết thúc phần một của chương trình bằng bài hợp ca ‘Phải Lên Tiếng’ của cố Nhạc sĩ Anh Bằng. Phần hai của chương trình Văn Nghệ là Dạ Vũ được khai mạc theo truyền thống của Hải quân. Những vị hải quân thâm niên hiện diện như HQ. Võ Minh Mẫn, HQ Võ Văn Á, HQ Đỗ Cảnh và các phu nhân được mời ra sàn nhảy khai bước với vũ điệu Paso doble trong bộ quân phục hải quân ngày nào… HQ. Phạm Quốc Nam tường trình.
HQ. Phạm Quốc Nam và Phu nhân trình bày lý do và ý nghĩa dàn dựng sân khấu với hình ảnh chiến hạm trên sóng biển.
Nghi lễ Tưởng Niệm Tử sĩ HCHS trên sân khấu