Nhìn lại vai trò của McNamara trong Chiến tranh Việt Nam

Nguồn: Fredrik Logevall, Rethinking ‘McNamara’s War’, The New York Times, 28/11/2017.

Người dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Ngày 29/11/1967, Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố rằng Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng, sẽ rời vị trí của mình để trở thành người điều hành Ngân hàng Thế giới. “Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không biết mình đã nghỉ việc hay bị sa thải nữa,” McNamara chia sẻ nhiều thập niên sau đó. “Có lẽ là cả hai.”

Thật ra mọi chuyện khá rõ ràng: Ông đã bị sa thải. Nhưng ông không phải người duy nhất bối rối. Bối cảnh mà McNamara rời khỏi Lầu Năm Góc quả thật mơ hồ – và sự mù mờ ấy nói lên nhiều điều về McNamara, về Johnson và chính trị trong nước trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.

Trong những tháng trước đó, Johnson đã rất thất vọng với sự bất mãn dâng cao của McNamara với cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam: mối ngờ vực dâng cao rằng chiến dịch không kích Bắc Việt đang không hiệu quả và sẽ không hiệu quả, rằng ổn định chính trị ở Sài Gòn vẫn khó đạt được và do đó chính quyền nên tìm kiếm một lối thoát bằng thương lượng. Johnson, nổi giận khi McNamara trở nên mềm yếu, đồng thời nghi ngờ rằng vị bộ trưởng đang bí mật lên kế hoạch ủng hộ Robert Kennedy, lúc ấy vẫn còn là thượng nghị sĩ Dân chủ của New York, ra thách thức Johnson để tranh đề cử ứng viên tổng thống Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm sau trên cương lĩnh hòa bình.

Tuy nhiên, Johnson không thể loại bỏ McNamara hoàn toàn; làm như vậy có nguy cơ khiến McNamara công khai ủng hộ Kennedy và lên án chiến tranh. Cách tốt hơn theo Johnson là đi tìm một vị trí mới cho McNamara, nơi ông có thể tin tưởng rằng vị cựu bộ trưởng sẽ duy trì sự im lặng kín đáo – một nơi, đại khái là, giống như Ngân hàng Thế giới.

Việc McNamara không cân nhắc tự ý rời bỏ chính quyền trong năm 1967 nghiệt ngã ấy đã nói lên nhiều điều về người đàn ông này, và sự đòi hỏi lòng trung thành từ các vị tổng thống Mỹ. McNamara đặt chân đến Lầu Năm Góc vào tháng 01/1961 với tư cách là một người mới trên chính trường, được John F. Kennedy tuyển chọn từ Tập đoàn Ford Motor, nơi ông đã lên chức chủ tịch. Ông nổi tiếng trong giới kinh doanh nhờ sự nhạy bén trong khâu tổ chức và tài định lượng, ông cũng sở hữu ngoại hình nổi bật mỗi khi sải bước trong hội trường quyền lực, mái tóc vuốt ngược và gương mặt quả quyết khiến ông trông “như thể một viên đạn mũi hếch,” theo lời miêu tả khéo léo của nhà báo A. J. Langguth. Ngay lập tức, McNamara có mặt ở khắp mọi nơi: tổ chức lại bộ máy quan liêu của Lầu Năm Góc, xây dựng kho vũ khí hạt nhân, và phát động nỗ lực chấm dứt phân biệt chủng tộc trong các khu nhà ở ngoài căn cứ quân sự.

Ở Việt Nam cũng vậy, McNamara cực kỳ xông xáo. Trong chuyến thăm đầu tiên tới Sài Gòn vào năm 1962, trong bối cảnh các cố vấn Mỹ nhanh chóng hiện diện ngày một nhiều, McNamara nói, “mọi yếu tố đo lường định lượng chúng ta có đều cho thấy chúng ta đang chiến thắng trong cuộc chiến này.” Sau vụ ám sát Kennedy vào tháng 11/1963, ông giữ vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc hoạch định chính sách, khiến Thượng nghị sĩ Wayne Morse, đại diện Đảng Dân chủ từ bang Oregon, vào tháng 04/1964 phải gọi Việt Nam là “Cuộc chiến của McNamara.” Vị bộ trưởng không phản đối.

Ở đây có sự tự tin, và nhiều hơn một chút kiêu ngạo. Tôi tự hỏi liệu McNamara có phải đã trở thành cột thu lôi đối với các nhà phê bình, bởi tên ông xuất hiện trên khắp mọi băng rôn trong các cuộc tuần hành phản chiến. Trong một lần xuất hiện tại Harvard vào tháng 11/1966, vị bộ trưởng đã khiến các sinh viên phẫn nộ khi vô tư thừa nhận rằng mình không biết quân đội Mỹ đã gây ra bao nhiêu thương vong cho dân thường. Khi ông cố gắng rời đi sau cuộc nói chuyện, hàng trăm sinh viên chặn xe của ông lại mà hét lên, “Quân giết người!” McNamara trèo lên nóc chiếc xe, vẫy vẫy tay áo và tuyên bố: “Tôi đã trải qua bốn năm hạnh phúc nhất trong đời tại khuôn viên trường Berkeley, làm một số việc mà các bạn làm hôm nay. Nhưng tôi đã cứng rắn hơn các bạn, và giờ tôi vẫn cứng rắn hơn các bạn. Khi ấy tôi đã lịch sự, và tôi hy vọng hôm nay mình cũng sẽ lịch sự.”

“Một trong những người đàn ông nhẫn tâm, kiêu ngạo nhất mà tôi từng thấy,” một trong các sinh viên sau đó đã nhận xét.

Những người biểu tình tức giận ngày hôm đó đã không biết rằng tính kiêu ngạo công khai của McNamara là để che giấu sự vỡ mộng riêng đang ngày một lớn của ông về cuộc chiến . Nó đã dồn nén suốt một thời gian dài; có lẽ ở một mức độ nào đó tình cảm này đã luôn ở đấy, gây nên một trận chiến trong tâm trí ông, chống lại những gì “các phép đo định lượng” chắc chắn đang thể hiện – rằng công nghệ của nước Mỹ cuối cùng sẽ thắng thế.

Ngay từ tháng 10/1963, trên băng ghi âm của Nhà Trắng thời Kennedy, người ta đã có thể nghe McNamara nói rằng, “chúng ta cần một cách để thoát khỏi Việt Nam.” Đầu năm sau, ông bày tỏ mối quan ngại với một Lyndon Johnson thiếu kiên nhẫn về tình hình chiến trường và các triển vọng tương lai; trong những cuộc trò chuyện được ghi âm này, chính Johnson dường như mới là người muốn duy trì chiến tranh (bất chấp nỗi sợ hãi và thất vọng của chính mình về cuộc xung đột), thậm chí thông qua việc leo thang nếu cần thiết. Thực tế, càng đào sâu vào hồ sơ nội bộ khổng lồ về việc ra quyết định của Mỹ, ta càng bắt gặp một McNamara hoàn toàn khác: một bộ trưởng quốc phòng mà từ cuối năm 1963 đã không còn – nếu ông đã từng – là một người tin tưởng thực sự vào cuộc chiến ở Việt Nam.

Đúng là McNamara đã ủng hộ đưa bộ binh sang Việt Nam vào đầu năm 1965 và là kiến trúc sư chính của chiến dịch leo thang trên không được thiết kế nhằm làm suy sụp tinh thần của Hà Nội (và củng cố tinh thần của Sài Gòn) bắt đầu vào tháng 3 năm đó. Nhưng chiến lược lại dần chuyển sang hướng để mở các lựa chọn – leo thang hoặc xuống thang, tăng tốc hoặc chậm lại – tùy thuộc vào phản ứng của kẻ thù.

Chuyến thăm mùa thu năm 1965 đến miền Nam Việt Nam đã khiến McNamara tuyệt vọng. Ông nói với Johnson rằng Bắc Việt dường như “tin rằng chiến tranh sẽ kéo dài, rằng thời gian là đồng minh của họ và sức mạnh sân nhà của họ vượt trội so với chúng ta,” và nói thêm rằng ông chỉ nhìn thấy cơ hội ở mức một phần ba – hoặc tối đa là một phần hai – để nước Mỹ có thể giành chiến thắng về mặt quân sự. Do đó, ông báo cáo cần nỗ lực nhiều hơn để đi đến con đường đàm phán.

Khi chiến tranh rơi vào bế tắc, vẻ ảm đạm của bộ trưởng càng thêm rõ. Bị ảnh hưởng bởi các viên chức Lầu Năm Góc như Paul Warnke, Adam Yarmolinsky và John McNaughton, những người mà khao khát chiến tranh cũng đang suy yếu dần, McNamara lo sợ rằng cuộc chiến đã làm tổn hại uy tín toàn cầu của Mỹ, khi các đồng minh và đối thủ nghi ngờ khả năng ra quyết định của chính quyền. Sự hủy diệt của chiến tranh đã khiến ông bận tâm rất nhiều, đặc biệt là về thương vong dân sự. Đến đầu năm 1967, McNamara kết luận rằng tinh thần của kẻ thù đã không bị phá vỡ và bối cảnh chính trị miền Nam Việt Nam hoàn toàn không ổn định. Cuộc chiến trên không đã thất bại – một xã hội nông thôn sẽ không thể bị tàn phá để ép khuất phục, McNamara xác định – và đã khiến chính quyền phải trả giá đắt trước dư luận trong nước và quốc tế.

“Hình ảnh siêu cường lớn nhất thế giới tàn sát hay làm bị thương nghiêm trọng 1.000 thường dân mỗi tuần, đồng thời cố gắng dồn một quốc gia nhỏ bé, lạc hậu phải đầu hàng về một vấn đề mà bản thân cũng đang gây tranh cãi gay gắt là một hình ảnh chẳng đẹp đẽ gì,” ông viết cho Johnson vào tháng 05/1967.

Khi về già, McNamara sẽ hối hận vì bản thân mình, cũng như những người khác, đã lặp đi lặp lại thất bại trong việc nghi ngờ những giả định đằng sau cuộc chiến. “Tôi vô cùng hối hận vì mình đã không tạo ra một cuộc tranh luận nhằm thăm dò liệu có thể tạo ra nỗ lực chiến thắng quân sự từ một nền tảng chính trị lỏng lẻo hay không,” ông viết. “Sau đó, mọi thứ dần trở nên rõ ràng, và hôm nay, tôi tin mọi chuyện đã rõ ràng, rằng lực lượng quân sự – đặc biệt là khi được sử dụng bởi một thế lực bên ngoài – sẽ chẳng thể mang lại trật tự ở một quốc gia không có khả năng tự trị.”

Vậy tại sao ông không cố gắng tạo ra cuộc tranh luận đó? Thêm vào đó, tại sao ông không chịu từ chức để phản đối?

Lòng trung thành với tổng thống là một lý do. McNamara phục vụ một tổng tư lệnh, người đã thề từ những ngày đầu cầm quyền rằng ông sẽ không trở thành vị tổng thống đánh mất Việt Nam; McNamara đã cống hiến hết mình để giúp thực hiện cam kết đó. Đối với vô số nhà phê bình, đây là lòng trung thành đặt không đúng chỗ: Thế còn sự trung thành với các nguyên tắc, với quốc gia, đối với mạng sống của người dân thì sao?

Ngoài lòng trung thành, McNamara đã thuyết phục chính mình – cũng như những người hoài nghi khác trong nội bộ như Hạ nghị sĩ George Ball – rằng ông có thể đem lại tác động tốt hơn cho chính sách bằng cách ở lại. Hơn nữa, ông không hoàn toàn chắc chắn về dự đoán ảm đạm của mình. Có thể, chỉ là có thể thôi, tình hình rồi sẽ trở nên tốt đẹp, hoặc ít nhất là đủ ổn định để bàn giao lại cho chính quyền tiếp theo, bảo vệ không chỉ uy tín lịch sử của Johnson mà còn của chính ông. Như lời Leslie H. Gelb, một cựu binh của Lầu Năm Góc thời McNamara (và sau này là thành viên của ban biên tập tờ Times), “Gần như là đòi hỏi quá mức khi chúng ta mong đợi một người chịu trách nhiệm phát động cuộc chiến” sẽ suy nghĩ lại về nền tảng cuộc chiến và sau đó hành động trên cơ sở của việc suy nghĩ lại này. “Bởi vậy, nghi ngờ chỉ đơn giản lửng lơ giữa không trung chứ không bao giờ được đưa vào chính sách.”

Những năm sau đó, McNamara đã tìm ra một lời giải thích khác cho chính sách và vai trò của chính ông trong đó: sự thiếu hiểu biết. “Giá mà chúng ta biết,” trở thành câu thần chú của ông – về quyết tâm của kẻ thù, về các vấn đề chính trị mang tính hệ thống ở miền Nam, về truyền thống chống ngoại bang lâu đời của Việt Nam, đặc biệt là chống lại người Trung Quốc. “Chúng ta đã không có chuyên gia về Việt Nam,” ông tự đưa ra khẳng định. Một khẳng định sai lầm. McNamara và Johnson thực sự có rất nhiều chuyên gia, những người họ có thể dễ dàng liên lạc chỉ bằng cách nhấc điện thoại lên. Hơn nữa, bản thân những chuyên gia này còn lâu mới “không biết gì” về tình trạng của Việt Nam. Họ chẳng cần một ai nói với mình về những vấn đề ngày càng sâu sắc và tồi tệ trong nỗ lực chiến tranh và tình hình chính trị ở Sài Gòn, và về triển vọng mờ nhạt trong việc đạt được một bước tiến thực sự ý nghĩa. Bằng chứng chỉ ra rất rõ ràng, và chính McNamara đã tự mình nhìn thấy nó trong nhiều chuyến thăm đến miền Nam Việt Nam.

Phán quyết cuối cùng về vai trò của McNamara trong Chiến tranh Việt Nam cần phải khắc nghiệt, một phần bởi vì ông chủ trì những giai đoạn đầu khi quân Mỹ ngày càng tham gia nhiều hơn trên chiến trường, nhưng quan trọng hơn, là vì ông không hành động mạnh mẽ hơn với những e ngại sau này của mình. Người ta có thể vinh danh ông, như Daniel Ellsberg đã làm, vì đã làm việc từ bên trong để hạn chế phạm vi các vụ không kích và khuyến khích các cuộc đàm phán, nhưng vẫn tiếp tục đặt ra tranh luận, như chính Ellsberg, rằng bộ trưởng đáng lẽ nên công khai những nghi ngờ của mình – không phải trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1995, hoặc trong một bộ phim tài liệu xuất sắc (“The Fog of War” của Errol Morris) công chiếu vào năm 2003, mà là ngay từ năm 1965, hoặc sau khi rời chính quyền vào năm 1968. Thay vào đó, McNamara lại là kẻ hai mặt, công khai rao giảng về sự lạc quan và kiên định (thậm chí, đôi khi còn làm thế trong các cuộc thảo luận chính sách nội bộ) ngay cả khi ông vẫn bày tỏ nghi ngờ về cuộc chiến một cách riêng tư.

Tuy nhiên, dường như quá dễ dàng nếu ta coi các phân tích và giải thích sau này của McNamara đơn giản chỉ là những nỗ lực buồn (hoặc, đối với một số người, là tức giận) nhằm rửa sạch một hồ sơ cá nhân đầy máu và xoa dịu một lương tâm tội lỗi. Chúng còn có nhiều ý nghĩa hơn thế. Thất vọng trong tuổi già vì những gì đã xảy ra ở Đông Nam Á dưới sự giám sát của ông, vì tất cả những cái chết trên nhiều cánh đồng lúa và bãi cỏ dài; đối với tôi, ông thực sự chân thành tự vấn để đúc rút kinh nghiệm và thừa nhận vai trò của chính mình trong toàn bộ vụ việc.

Liệu có bao nhiêu nhân vật của công chúng từng nỗ lực như vậy để chuộc lỗi cho những sai lầm và tội ác của mình, trong thời đại này hay bất kỳ thời đại nào khác? Quả rất ít. Henry Kissinger vẫn được hoan nghênh ở nhiều nơi như một nhà hiền triết vĩ đại của ngoại giao Mỹ, chưa bao giờ nói thật về Việt Nam, rằng “Chúng ta đã sai, sai lầm khủng khiếp.” (Ở Austin, Texas, năm 2016, khi được hỏi liệu ông có hối hận về cuộc chiến không, Kissinger từ chối trả lời, chỉ chịu thừa nhận những “sai lầm chiến thuật.”) Robert McNamara cuối cùng đã dám công khai nói lên điều đó, và ông xứng đáng nhận được nếu không phải lời khen thì chí ít cũng là sự ngầm thừa nhận thái độ đó của ông từ tất cả chúng ta.

Fredrik Logevall, giáo sư về các vấn đề quốc tế và lịch sử tại Harvard, là tác giả của nhiều cuốn sách, gần đây nhất là “Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam.”

Trận Mậu Thân có thực sự là một bất ngờ?

Nguồn: Tom Glenn, “Was the Tet Offensive Really a Surprise?”, The New York Times, 03/11/2017.

Người dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng 

Tôi đã học được bài học cay đắng trong Chiến tranh Việt Nam, rằng khi tình báo bị bỏ qua, sẽ có người phải thiệt mạng. Tôi dành phần lớn thời gian cuộc chiến trong hàng ngũ Cục An ninh Quốc gia (NSA), thường là bí mật. Hết lần này đến lần khác, tôi và các đồng nghiệp của mình cảm thấy chúng tôi chính là Cassandra, công chúa thành Troy có năng lực tiên tri nhưng lại bị nguyền rủa để không một ai tin lời nàng. Một ví dụ là Trận Đắk Tô. 

Đến thời điểm năm 1967, phần lớn giao tranh ở miền Nam Việt Nam đều tập trung ở Tây Nguyên, khu vực miền núi dọc biên giới Lào – Campuchia bao gồm các tỉnh Kon Tum, Pleiku và Đắk Lắk. Lực lượng quân sự Mỹ đã bị lôi kéo đến khu vực này vì hai lý do.

Thứ nhất, nó là nơi mà kẻ thù ẩn náu: Bắc Việt đã sử dụng vùng đất này làm nơi cố thủ. Địa hình gồ ghề và cằn cỗi với dân cư thưa thớt, hầu hết là các bộ lạc người Thượng sinh sống từ nhiều thế kỷ trước, bởi người Kinh đã chiếm các vùng đất thấp hơn. Thứ hai, nó là nơi chứa một phần quan trọng của mạng lưới xâm nhập bí mật được Bắc Việt sử dụng để đưa hàng ngàn quân vào miền Nam, mà người Mỹ gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh.

Mùa hè và mùa thu năm đó tôi cũng lên Tây Nguyên, cộng tác bí mật với lính tác chiến Mỹ. Tôi là một chuyên gia về thông tin liên lạc của Bắc Việt, sử dụng thành thạo tiếng Việt, tiếng Trung và tiếng Pháp, ba loại ngôn ngữ phổ biến tại Việt Nam. Không giống như nhiều chuyên gia tình báo tín hiệu (signals-intelligence) khác của NSA, tôi sẵn sàng tham chiến cùng các đơn vị mà mình cộng tác.

Tôi được chỉ định huấn luyện và hỗ trợ đội  tình báo tín hiệu của Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn Không vận 173, có trụ sở đặt tại Pleiku. Điểm đánh chặn tín hiệu của chúng tôi là một nơi được gọi là Đồi Kỹ sư (Engineer Hill), đủ cao để có thể phát hiện các tín hiệu truyền tin từ xa của kẻ thù; chúng tôi cũng xử lý thông tin được chặn bởi các đội tình báo khác, làm việc cùng các đơn vị Lực lượng Đặc nhiệm hoạt động sâu trong cao nguyên.

Suốt tháng 9 và tháng 10 năm 1967, tôi và các đồng sự đã theo dõi chặt chẽ mọi thông tin liên lạc của Mặt trận B3, trụ sở cấp cao của Bắc Việt ở Tây Nguyên, cũng như Phân khu 1 trực thuộc; và hai trung đoàn độc lập, số 24 và số 33. Trong những tháng đó, chúng tôi theo sát Mặt trận B3 khi họ thành lập một bộ chỉ huy tiền phương thiết lập liên lạc với Hà Nội – luôn là dấu hiệu của một trận chiến sắp xảy ra. Chẳng mấy chốc, họ đã trao đổi một lượng lớn thông điệp với Bắc Việt, chủ yếu được gửi đi vào ban đêm khi các máy phát tín hiệu của Cộng sản thường ngưng hoạt động. Bộ chỉ huy của lực lượng Bắc Việt và Trung đoàn 24 nhanh chóng di chuyển đến tỉnh Kontum. Trung đoàn 33, đóng tại hai tỉnh ở phía nam Đắk Lắk, đã bắt đầu liên lạc chiến đấu. Một đơn vị mới, chưa được xác định, xuất hiện ở tỉnh Pleiku, gần vị trí của chúng tôi.

Nói cách khác, có vẻ như kẻ thù đang chuẩn bị một cuộc tấn công trên toàn vùng cao nguyên.

Một đêm không trăng hồi cuối tháng 10, chúng tôi tìm thấy một đơn vị Bắc Việt mới, cách nơi chúng tôi đang ngồi khoảng 20 km. Và như thể để nhấn mạnh rằng kẻ thù đang ở rất gần, trong khi đang báo cáo về sự xuất hiện của đơn vị mới, chúng tôi đã bất ngờ trúng đạn súng cối. Thương vong duy nhất là một căn nhà di động. Dù vậy, chúng tôi thực sự lo sợ.

Trước khi kết thúc tháng 10, Sư đoàn 1 Bắc Việt và ba trung đoàn trực thuộc đã chuyển đến Đăk Tô thuộc tỉnh Kon Tum – một vùng có đồi dốc và thung lũng rừng rậm sâu hun hút. Lực lượng Đặc nhiệm có một căn cứ đóng tại Đăk Tô, xem chừng là một mục tiêu hấp dẫn, nhưng rõ ràng không phải là mục tiêu duy nhất. Thông tin liên lạc trinh sát cấp thấp xuất hiện, một dấu hiệu chắc chắn rằng đối đầu sắp xảy ra. Sau đó, chỉ huy sư đoàn phái một bộ chỉ huy tiền phương đến kiểm soát các trung đoàn. Họ đã sẵn sàng.

Chúng tôi đã thông báo cho Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn Không vận 173 rằng một cuộc tấn công vào khu vực Đăk Tô rất có thể sẽ bắt đầu trong khoảng từ ngày 30/10 đến ngày 04/11, thời gian mà chúng tôi thu được từ các điện tín của đơn vị trinh sát. Nhưng chúng tôi cũng cảnh báo rằng các đơn vị Bắc Việt trên khắp Tây Nguyên đang chuẩn bị chiến đấu. Và đó sẽ là một trận đánh rất lớn.

Ở thời điểm đó, chúng tôi gặp một trở ngại bất ngờ: sự tín nhiệm. Một vài trong số chúng tôi đã đến báo cáo trực tiếp cho chỉ huy của Sư đoàn 4, Thiếu tướng William Peers. Tôi cảnh báo ông: một cuộc tấn công gồm nhiều sư đoàn của Bắc Việt nhắm vào Đăk Tô sẽ diễn ra bất cứ lúc nào, cùng lúc với các cuộc tấn công trên khắp Tây Nguyên. Ông lắc đầu và chỉ vào trại của chúng tôi trên Đồi Kỹ sư. “Thế nên tôi phải tin vào cái thứ ma thuật khiến một lũ G.I. vớ vẩn sử dụng mớ ăng ten và mấy mẩu chuyện hài để bịa ra kế hoạch chiến đấu của kẻ thù à?” Ông xua tay đuổi chúng tôi đi. Buổi họp cũng theo đó kết thúc.

Nhưng chúng tôi đã đúng. Vào ngày 01/11, một chiếc B-57 đã thả bom xuống đâu đó gần Đăk Tô. Nó đánh trúng một bãi tiếp tế của Bắc Việt gây ra vụ nổ dây chuyền, bằng chứng rõ ràng rằng một số lượng đáng kể quân Bắc Việt đang ở ngoài đó. Tướng Peers đã phái một đơn vị từ Lữ đoàn Không vận 1 đi điều tra và liên lạc với Lực lượng Đặc nhiệm tại Đăk Tô. Hai ngày sau, một trong những tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 đã đổ bộ bằng trực thăng lên Đồi 979, gần Đăk Tô, hy vọng sẽ không gặp phải kháng cự. Thay vào đó, họ đối đầu hàng ngàn lính Bắc Việt trong các chiến hào và tất thảy sẵn sàng. Tiểu đoàn đã bị tàn sát. Cùng ngày hôm ấy, một tiểu đoàn Mỹ khác cũng rơi vào tình thế tương tự trên Đồi 882 gần đó. Tướng Peers và các tướng lĩnh khác đã sớm nhận ra mức độ nghiêm trọng từ những cảnh bảo của chúng tôi: rằng Bắc Việt đã đến tận khu vực này và sẵn sàng chiến đấu.

Một loạt các cuộc giao tranh kéo dài hàng tuần sau đó, gọi chung là Trận Đăk Tô, là một trong những trận đánh lớn nhất và dữ dội nhất của cuộc chiến. Bắc Việt đã thiết lập các vị trí phòng thủ trên một số ngọn đồi, buộc lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phải tiến đánh lên đó, đỉnh điểm là cuộc giao chiến đẫm máu kinh hoàng trên Đồi 875, từ ngày 19/11 đến ngày 23/11. Đến cuối Trận Đăk Tô, chín tiểu đoàn Mỹ từ Sư đoàn 4 và Lữ đoàn 173 – khoảng 16.000 người – đã tham chiến. Máy bay ném bom của Mỹ phải bay hơn 2.000 lượt. Người Mỹ cuối cùng đã giành chiến thắng, nhưng cả hai bên đều phải trả cái giá vô cùng đắt: Hơn 2.100 lính Bắc Việt đã thiệt mạng, cùng với 376 lính Mỹ và 61 lính miền Nam.

Tôi rời Tây Nguyên vào tháng 12 khi cuộc tấn công đã kết thúc, chuyển về phía nam để hỗ trợ một đội tình báo khác tại Biên Hòa, ngay phía bắc Sài Gòn. Khi đến đây, tôi lại tìm thấy tất cả các loại tín hiệu liên lạc tương tự với những gì chúng tôi tìm được ở vùng cao Đăk Tô trước đó. Lần này, chúng tôi không chỉ có một mình; các đơn vị tình báo khác của Mỹ ở vùng cực bắc của miền Nam Việt Nam cũng đánh chặn được những tín hiệu tương tự. Chúng tôi sớm hiểu rằng một đợt tấn công sẽ xảy ra trên khắp đất nước bắt đầu từ cuối tháng 01.

NSA tập hợp tất cả các bằng chứng, và một lần nữa chúng tôi trình bày chúng cho lãnh đạo quân đội. Và một lần nữa, các vị tướng từ chối tin vào chúng tôi. Vào thời điểm đó, Thủy quân Lục chiến ở phía Bắc đang bị bao vây tại Khe Sanh, và các tướng lĩnh hàng đầu ở Sài Gòn đã bị thuyết phục rằng bất kỳ hoạt động nào khác của Bắc Việt cũng chỉ là một trò đánh lạc hướng, một nỗ lực để kéo lính Mỹ khỏi những gì họ và Washington tin là kế hoạch của Hà Nội nhằm tái hiện chiến thắng trước quân Pháp trong cuộc bao vây Điện Biên Phủ 13 năm trước đó. Bất chấp các bằng chứng chỉ ra điều ngược lại, họ đã không chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện, và vào cuối tháng 01, họ gục ngã trước trận Tết Mậu Thân.

Nói cách khác, không hoàn toàn chính xác khi nói rằng trận Mậu Thân khiến người Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bị bất ngờ. Thông tin tình báo đã được thu thập, và kinh nghiệm ở Đắk Tô đáng lẽ phải đủ để thuyết phục Tướng William Westmoreland nghiêm túc cân nhắc tình hình. Thay vào đó, ông chọn không tin điều đó.

Vấn đề còn lớn hơn cả chuyện của Peers và Westmoreland; tám năm sau, sai lầm tương tự đã xảy ra với sự sụp đổ của Sài Gòn. Đến lúc đó, tôi đã là trưởng văn phòng tình báo trong thành phố. Tôi đã cảnh báo Graham Martin, Đại sứ Mỹ, về lượng bằng chứng áp đảo cho thấy Sài Gòn sắp bị tấn công. Ông ta chẳng buồn tin tôi, và cũng chẳng hề kêu gọi một cuộc di tản hàng ngàn thường dân Mỹ vẫn còn trong thành phố, cùng với các đồng minh Việt Nam Cộng hòa. Khi Bắc Việt tấn công vài ngày sau đó, cả thành phố rơi vào hoảng loạn. Tôi trốn thoát dưới làn đạn. Nhưng các đồng sự người miền Nam, những người tôi làm việc cùng, đã không may mắn như thế. Khoảng 2.700 người trong số họ đã bị giết chết, hoặc bị bắt giam và đưa đi “cải tạo.”

Nàng Cassandra được ban phước hay bị nguyền rủa? Những người trong số chúng tôi hoạt động  tình báo ở Việt Nam có lẽ đều biết câu trả lời.

Tom Glenn là cựu nhân viên Cục An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA) và tác giả cuốn tiểu thuyết “Last of the Annamese” (Người An Nam cuối cùng).

Chiến tranh Việt Nam: Cuộc chiến đầu tiên được truyền hình

Nguồn: Ronald Steinman, “The First Televised War”, The New York Times, 07/04/2017.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Giữa tháng 04/1966, tôi đến Sài Gòn với tư cách là giám đốc văn phòng mới của đài NBC. Công việc của tôi, nóimột cách đơn giản, là cung cấp cho NBC News một câu chuyện dài bất tận về cuộc chiến. Tôi hiểu rằng sẽ chẳng tài nào được thảnh thơi, chẳng thể có ngày nào được xả hơi khi những câu chuyện cứ ào ào đổ về văn phòng.

Việt Nam là nơi đầu tiên mà chiến tranh được truyền hình thực sự; không thể tách rời cuộc chiến với những phương tiện giúp hàng triệu người Mỹ trải nghiệm nó. Để hiểu chiến tranh, người ta cần hiểu cách mà NBC – cũng như các đồng nghiệp của chúng tôi tại CBS và ABC – đã định hình câu chuyện mà họ kể.

Dân trong ngành truyền hình hiểu rõ vai trò của mình. Chúng tôi có mặt ở khắp mọi nơi. NBC News đặt văn phòng trên khắp thế giới, nhưng về quy mô và phạm vi, không đâu giống như ở Sài Gòn.

Thông thường, chỉ cần một phóng viên cùng một đội hỗ trợ hai người, và một vài nhân viên văn phòng  là đủ để vận hành một văn phòng tin tức ở nước ngoài. Sài Gòn thì khác. Chúng tôi có năm phóng viên, năm đội quay phim, mỗi đội gồm một nhân viên camera quay hình và một người khác phụ trách âm thanh, ngoài ra còn có một phóng viên đài phát thanh làm việc toàn thời gian, và một kỹ sư giúp đảm bảo rằng thiết bị luôn hoạt động. Nhân viên tại văn phòng của tôi bao gồm người Nhật, người Đức, người Hàn Quốc vừa chạy trốn khỏi Chiến tranh Triều Tiên, người Pháp, người Anh, người Ireland, người Israel – và thậm chí một vài người Mỹ. Tôi có năm tài xế người Việt Nam, họ sở hữu xe riêng, và thường tự tay lái ra mặt trận để đưa tin, đặc biệt là ở khu vực Sài Gòn. Tôi cũng sử dụng nhiều nhà quay phim tự do, thường là người Hàn, để phụ trách tin tức ở những vùng miền khác của Việt Nam, nơi NBC News hiếm khi đi tới. Với khoảng 500.000 lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, thật khó mà tự tay thu thập được toàn bộ tin tức.

Trên cương vị giám đốc văn phòng, tôi còn thuê thêm một quản lý văn phòng toàn thời gian, một cô gái trẻ người Việt chịu trách nhiệm khâu giấy tờ xuất – nhập cảnh vào Sài Gòn, mua các nhu yếu phẩm, chi trả các hóa đơn và đôi khi còn tham gia đàm phán và phiên dịch nếu cần. Tôi cũng có hai phóng viên Việt Nam giàu kinh nghiệm trong đội ngũ của mình, những người rong ruổi khắp mọi ngõ ngách trên đường phố và trong các cơ quan của chính phủ Việt Nam, báo cáo lại những gì họ nghe được. Phần lớn những gì tôi nghe được từ họ đã giúp tôi hiểu về Việt Nam, nhưng rất ít trong số chúng được đề cập trong các bản tin. Dù vậy, những hiểu biết ấy vẫn là vô giá.

NBC sử dụng các thiết bị với công nghệ tiên tiến nhất trong thập niên 1960. Chúng tôi sở hữu camera có ghi âm Auricon, với cuộn film dài 400 feet (122 m) có khả năng ghi lại 12 phút phim, và một dải băng từ mỏng giúp ghi lại âm thanh. Tại hiện trường, các thành viên của đoàn luôn mang thêm các cuộn phim bổ sung và pin dự phòng được sạc đầy đặt trong túi màu đen để nhanh chóng thay những cuộn phim đã dùng hết. (Việc đổi cuộn phim trên chiến trường, dù nghe nhẹ nhàng, cũng là việc đặc biệt khó khăn và nguy hiểm.) Tính cả khung đeo trên vai, toàn bộ dàn đạo cụ có thể nặng tới 36 pounds (16,3 kg) – nặng ghê gớm, đặc biệt là khi ở trong rừng rậm hoặc trên sườn núi giữa một trận đánh. Mỗi người quay phim còn mang theo một máy quay Bell & Howell 16 mm loại nhỏ hơn, khó bị phá hủy hơn, có thể quay được ba phút phim câm. Đôi khi người phụ trách âm thanh còn mang theo một bộ ghi âm khá nặng, thường đi kèm băng cối và đèn chạy pin cầm tay.

Nhân viên người Việt của tôi thường tập khiêng chiếc camera Auricon nặng trĩu trên vai đi quanh văn phòng hàng giờ với hy vọng một ngày nào đó họ có thể trở thành người quay phim, một công việc mang lại nhiều tiền bạc và danh tiếng, nhưng đồng thời cũng nguy hiểm hơn – và mang về những câu chuyện dài bất tận để kể trên bàn cà phê. Một số đã đạt được ý muốn. Số khác thì không. Bản thân tôi thấy may mắn vì chẳng bao giờ phải mang theo máy quay phim và thiết bị. Tôi thực sự ngạc nhiên trước cách các đồng nghiệp người Việt đã làm được điều đó, đặc biệt là với những người có vóc dáng nhỏ thó.

Tuy nhiên, so với các văn phòng tin tức ở nơi khác, cơ sở vật chất của chúng tôi vẫn còn kém xa. Hệ thống điện thoại của quân đội Mỹ ở Sài Gòn cực kỳ ít. Hệ thống điện thoại của Sài Gòn cũng chẳng khá hơn. Phần lớn thông tin của tôi đến từ liên hệ trực tiếp, với các nguồn tin quân sự hoặc ngoại giao đang làm việc tại trụ sở, đôi khi tôi gặp họ trong bữa trưa, hoặc bữa tối, hoặc cùng nhau đi uống, hoặc thưởng thức cà phê và bánh ngọt tại địa điểm yêu thích của tôi, quán Givral.

Hầu hết mọi ngày đều bắt đầu từ lúc 4 hoặc 5 giờ sáng. Tôi gặp một vài nhân viên tại văn phòng khi họ chuẩn bị ghi lại những tin tức mới nhất về chiến dịch của người Mỹ. Không có giới hạn về địa điểm. Nếu chúng tôi đượcphép đến nơi đang triển khai một chiến dịch quân sự, chúng tôi sẽ đưa tin về nó. Trong phần lớn thời gian, quân đội Mỹ rất hợp tác. Các tài xế sẽ đưa đoàn phóng viên đến bãi trực thăng tại sân bay Tân Sơn Nhất, nơi các phóng viên sẽ lên một chiếc trực thăng quân sự để ra chiến trường. Đôi khi họ đi bằng máy bay và sau đó đi bằng xe jeep. Các đội sẽ trở về Sài Gòn khi họ có trong tay một câu chuyện. Thông thường phóng viên viết và ghi lại bản tin ngay khi còn đang ở trên chiến trường.

Khi có thông tin chi tiết về một câu chuyện, tôi liền cẩn trọng soạn một tin nhắn Teletype gửi về trụ sở ở New York. Bởi vì chúng tôi không thể tự xử lý hoặc biên tập phim ở Sài Gòn, tôi đã phác thảo câu chuyện và ý nghĩa của nó, liệt kê đội ngũ và mô tả những gì có trên mỗi cuộn phim. Tôi trình bày cho các biên tập viên cách xử lý cuộn phim và gửi kèm một bản sao của lời dẫn nếu có. Cạnh tranh là sống còn, vì vậy tôi sẽ thông báo nếu một đài truyền hình khác cũng có mặt ở hiện trường.

Người quay phim sẽ đặt bộ phim, bản hướng dẫn cách xử lý, nội dung bản tin đã ghi sẵn, cùng bất kỳ đoạn ghi âm hay các ghi chú nào khác vào một chiếc túi NBC màu đỏ đặc biệt. Nếu có thể, đội sẽ tự tay giao chúng, hoặc những người ở văn phòng sẽ làm thay, cho một hãng hàng không thương mại ở Tân Sơn Nhất để vận chuyển. Nó thường được một thành viên của đoàn mang đến Tokyo, Bangkok, London hoặc một nơi khác, để các nhà sản xuất biên tập và phát sóng.

Chúng tôi quay các cuộc biểu tình trên đường phố và các cuộc tấn công khủng bố, chúng tôi tạo ra những câu chuyện về tình hình chính trị và xã hội. Nhưng công việc quan trọng nhất của chúng tôi ở văn phòng này là cập nhật liên tục cho nước Mỹ về những gì chúng ta gọi là tình hình chiến trường, nghĩa là thể hiện càng nhiều càng tốt hình ảnh các quân nhân Mỹ khi tác chiến, các vấn đề của họ và sự nguy hiểm của chiến tranh.

Chúng tôi hiếm khi được chứng kiến các biên tập viên và nhà sản xuất biên tập câu chuyện của mình ra sao. Chất lượng và độ chính xác trong các sản phẩm của chúng tôi rất cao, vì vậy điều đó không hẳn là vấn đề đối với các nhân viên. Chúng tôi biết chương trình nào của NBC sử dụng câu chuyện của mình, bởi vì tôi luôn nhận được báo cáo mỗi ngày, thường đi kèm những lời phê bình đôi khi hữu ích, đôi khi không. Nhưng những báo cáo đó quan trọng là về mặt tinh thần, bởi đây là cách nhân viên biết rằng nhà sản xuất chương trình đánh giá cao công việc của họ.

Sự thật là phần lớn những gì bản tin của chúng tôi đề cập trong năm 1967 là cùng một chủ đề, ngày qua ngày. Đến thời điểm đó, việc xây dựng một đội quân Mỹ lên tới nửa triệu người đã hoàn tất. Chúng tôi đã ghi lại hầu hết mọi chuyển động, đặc biệt là những gì liên quan đến các chiến dịch lớn của Mỹ. Thời tiết hầu như không thay đổi, ngoại trừ vào mùa mưa. Ghi hình chiến trường quả là công việc không bao giờ dứt khi chúng tôi sống và làm việc cùng với các binh sĩ.

Chẳng có sự kiện nào khiến tôi phải gọi là trận đánh lớn hoặc đáng nhớ năm đó. Trong giai đoạn đầu, có những trận đánh gần Khe Sanh để giành quyền kiểm soát những con đường mòn vào Lào, vốn trở thành tiền đề của những sự kiện sau đó. Cũng có những trận đánh dữ dội ở Tây Nguyên, chủ yếu là xung quanh thành phố Pleiku và Đăk Tô. Ngoài ra, có Chiến dịch Buffalo đẫm máu với sự tham gia của dàn Thủy quân Lục chiến trên những chiến hào dọc theo khu phi quân sự, đặc biệt là tại Cồn Tiên. Cũng có những chiến dịch được triển khai gần Campuchia như Junction City, với hàng ngàn binh sĩ và một đơn vị nhảy dù cố gắng nhưng đã thất bại trong việc tìm kiếm cáccăn cứ địa của Việt Cộng.

Dẫu vậy, chúng tôi vẫn có thể cảm nhận được điều gì đó đang xoay chuyển – mặc dù không phải theo cách mà các vị tướng hy vọng. Thay vì tình thế cuộc chiến thay đổi và cho thấy sự tiến bộ, con số thương vong của Mỹ lại bất ngờ nhảy vọt lên 5.373 người vào năm 1967, cao hơn tận 2.000 người so với cùng kỳ năm trước. Chiến tranh tiếp tục không suy giảm, như thể có một sự bế tắc kỳ lạ đã xuất hiện mà không ai có thể nhận ra bao giờ nó sẽ kết thúc.

Đó là một năm khó khăn, và khốc liệt theo cách chỉ có thể gặp ở một cuộc chiến không có điểm dừng. Không có vinh quang. Chiến tranh làm mọi người suy sụp với những cuộc tranh giành lãnh thổ đầy gian khổ, chuyển từ taybên này sang bên kia, và không có kết quả rõ ràng nào, nhưng tôi tin rằng đó là điều đã chuẩn bị mọi người cho trận Tết Mậu Thân cuối tháng 01/1968. Là một nhà báo, làm việc cho lực lượng Mỹ, mọi thứ trong năm 1967 đềuchứng minh giá trị của nó trong việc ghi lại một cuộc chiến rất cơ động, ngày càng xấu xí và khó có thể chiến thắng.

Ronald Steinman là tác giả của cuốn hồi ký “Inside Television’s First War: A Saigon Journal.”

Vai trò của lực lượng Fulro trong Chiến tranh Việt Nam

Hình: Tác giả và các chỉ huy Fulro tại Phnom Penh, tháng 4/1973. Nguồn: NYT.

Mùa xuân năm 1967, khi ấy tôi đang là cậu trung úy 22 tuổi của Lực lượng Đặc nhiệm đóng tại một căn cứ nằm trên một đỉnh đồi ở Việt Nam, gần biên giới với Campuchia. Những người lính bên cạnh tôi là người Thượng, một tộc người sống ở vùng cao, khác với người Kinh ở miền xuôi. Hầu như ai trong số này cũng là thành viên của một tổ chức phiến quân tên gọi Fulro, viết tắt tiếng Pháp của Front unifié de lutte des races opprimée hay Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức, với mục tiêu đuổi người Kinh ra khỏi vùng cao nguyên. Căn cứ của tổ chức là một nơi nào đó bên kia biên giới.

Chúng tôi là một đơn vị trinh sát đặc biệt, không có chỉ huy nào người Việt Nam, đó chính là điều đã khiến quân du kích Fulro chịu hợp tác với chúng tôi, trở thành lính tuần tra và lính phản ứng nhanh của tiểu đoàn. Tôi là chỉ huy nhóm phản ứng nhanh. Chỉ thị nghiêm ngặt đã được tướng William Westmoreland đưa ra: cấm lính Mỹ hỗ trợ Fulro vì “chúng ta không ở Việt Nam để hỗ trợ cuộc nổi dậy chống lại chính quyền miền Nam.”

Điều này cũng dễ hiểu, dù vậy, nhiều người lính như tôi đã không tuân lời. Người Thượng không chỉ bảo vệ và an ủi chúng tôi giữa ghê rợn của rừng rậm, mà nguyên nhân khiến họ chiến đấu cũng giống như phong trào dân quyền ở quê nhà. Thế nhưng, khi vũ khí và đạn dược của tiểu đoàn bắt đầu biến mất, tôi dần có suy nghĩ khác.

Đến năm 1956, người Thượng đã cùng nhau hợp tác về chính trị, tạo thành một phong trào chống lại việc định cư của người Kinh ở các cao nguyên. Năm 1964, Fulro chính thức hình thành và bắt đầu các vụ tấn công chống lại chính quyền Nam Việt Nam. Đến năm 1967, sự ủng hộ của người Thượng cho phong trào này lên đến đỉnh điểm. Ngay cả bọn trẻ 4 tuổi trần truồng ở những thôn xóm xa xôi cũng suốt ngày ríu rít: “Tôi là Fulro.”

Nhà lãnh đạo của phong trào, Y-Bham Enuol, được tin là có khả năng trò chuyện với các linh hồn, cũng như với Charles de Gaulle. Người ta còn bảo rằng mãng xà nằm cuộn bên dưới giường ông ta. Hàng ngàn người đã theo ông đến Campuchia, rất nhiều gia đình cùng nhau cắm trại trong rừng.

Nhưng sự ra đời của Fulro vào năm 1964 lại là sự khởi đầu cho kết thúc của phong trào người Thượng. Vì quá chú trọng cách mạng, vốn đòi hỏi phải có một căn cứ bên ngoài biên giới Việt Nam, Fulro đã chấp nhận trợ giúp có tính toán từ Campuchia. Quốc vương Sihanouk của Campuchia, giống như Charles de Gaulle của Pháp, vẫn hy vọng thuyết phục được Mỹ rút khỏi Đông Dương. Sihanouk hẳn đã cho rằng hỗ trợ Fulro sẽ gây rắc rối cho miền Nam Việt Nam, từ đó cũng làm khó cho người Mỹ.

Nhân vật được Sihanouk chọn là một đại tá quân đội Campuchia, một người Chăm theo Hồi giáo tên là Les Kosem. Ngay từ khi còn nhỏ, Kosem đã quyết tâm khôi phục lại vinh quang của người Chăm bằng cách giành lại phần lãnh thổ đã mất trong những thế kỷ trước. Nghe như ảo tưởng, nhưng không phải là không thể, nhất là khi chiến tranh gần kề. Dùng một số biện minh lịch sử và ngôn ngữ, ông gọi người Thượng là “người Chăm ở vùng cao”, và toàn bộ Tây Nguyên là một phần của nước Champa cổ đại. Ông ta xem lý tưởng của người Thượng là của mình và đồng ý hỗ trợ. Nghiêm trang và thận trọng, nhưng vẫn có chút cuồng loạn, ông ta có phần giống Đại úy Ahab [nhân vật trong tiểu thuyết Moby Dick].

Năm 1964, cuộc nổi dậy đầu tiên của Fulro chống lại Việt Nam Cộng hòa đã có sự nhúng tay của Kosem, và có lẽ cả người Pháp. Việc cố tình sử dụng bạo lực đã đặt Fulro vào một con đường không thể quay đầu. Nhưng đến năm 1966, Sihanouk đã bắt đầu lo sợ Fulro vì tiềm năng tiến hành đảo chính của tổ chức này. Ông điều Kosem đi nơi khác và để Fulro suy yếu.

Thất bại của cuộc nổi dậy thứ hai đã làm sâu sắc thêm sự chia rẽ giữa nhóm ôn hòa, những người chủ trương đàm phán với Sài Gòn, và nhóm hiếu chiến vẫn hy vọng giành được quyền tự chủ thông qua chiến đấu. Nhận thấy rằng nhà lãnh đạo của họ, Y-Bham Enuol, đang nghiêng về phía đàm phán, các phiến quân trẻ đã thực hiện một cuộc “đảo chính” vào năm 1968, đưa nhà lãnh đạo lớn tuổi về quản thúc tại Phnom Penh và giải giáp những người theo ông. Hàng ngàn người ôn hòa đã đi bộ về Việt Nam và tái hòa nhập dần với xã hội, chỉ còn lại các phiến quân vũ trang – khoảng 200 người Thượng và trí thức trẻ người Chăm – ở lại căn cứ trong rừng của Fulro, phía đông Campuchia.

Tháng 03/1970, Sihanouk bị phế truất, thay thế bằng một vị tướng thân Mỹ. Sang tháng 05, các phiến quân Fulro còn lại, một số người sống cùng vợ, đã bị tấn công bởi lính Bắc Việt.

Trong hai đêm, họ đã chiến đấu chống lại những đợt tấn công dữ dội, nhưng khi nhận ra đêm thứ ba sẽ là đêm cuối cùng của mình, họ bèn tìm cách rút lui theo các nhóm nhỏ trước lúc bình minh. Vượt 100 dặm rừng ngay trong đêm, họ lẩn trốn lực lượng Bắc Việt trong hai tuần với rất ít thức ăn và nước uống. Bằng cách đi theo âm thanh của chiến trường, cuối cùng họ đã gặp lực lượng Mỹ đang xâm nhập Campuchia. Người Chăm, những cư dân miền xuôi mới lần đầu làm quen chiến trận, đã mất gần một nửa quân số, còn người Thượng không mất ai.

Các phiến quân sống sót đã được đưa vào Quân đội Campuchia. Nhóm người Thượng đóng quân trên một con sông để bảo vệ Phnom Penh, vốn cũng đang bị bao vây. Dần dần lực lượng Bắc Việt rút lui, bị đẩy lùi bởi không quân Mỹ (trong khi lực lượng Cộng sản Campuchia, Khmer Đỏ, vẫn đang tập hợp lực lượng ở các tỉnh). Thế nên, trong khoảng ba – bốn năm tiếp theo, cuộc sống tương đối bình thường ở Phnom Penh. Các lãnh đạo người Thượng chuyển đến sống ở thành phố, chia sẻ hai biệt thự và gửi con cái họ đến trường, một vài đứa là lần đầu tiên trong đời. Y-Bham Enuol cũng xin các phóng viên giúp ông ta đến Mỹ.

Năm 1973, tôi là một trong những phóng viên đó. Tôi đã rời Quân đội Hoa Kỳ để hoàn thành chương trình đại học, và sau đó theo đuổi các lớp tiền y sĩ, nhưng bí ẩn Fulro vẫn cứ mãi ám ảnh. Cuối cùng, tôi đã dùng đến tấm thẻ báo chí: cộng tác viên của tờ Harpers. Phát ngôn viên của Fulro, ba phiến quân trẻ, đã thẳng thắn nói về chuyện cuộc cách mạng của họ đang bị đình trệ. Campuchia, khi ấy đã là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, không còn có thể được sử dụng như một căn cứ chống Việt Nam.

Hai năm sau, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ. Một lần nữa, những lính người Thượng đóng ven sông phải rút lui vào ban đêm, lần này là qua vùng đầm lầy nước ngập tận cổ, để trở lại thành phố. Đủ điều kiện để tị nạn ngoại giao, họ tập hợp vợ con đến tị nạn tại Đại sứ quán Pháp. Nhưng, như những người đã chứng kiến “Cánh đồng Chết” vẫn nhớ, Khmer Đỏ chẳng màng gì khái niệm tị nạn và yêu cầu trục xuất mọi cá nhân không sở hữu hộ chiếu nước ngoài.

Ngày 21/04/1975, khoảng 150 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em người Thượng đã ra khỏi cổng sứ quán để bước vào địa ngục. Nhiều nhà quan sát ghi nhận sự bình tĩnh và trang nghiêm của họ, một điều khó thấy vào khoảng thời gian ấy. Người ta không biết rõ thực sự điều gì đã xảy ra sau đó. Nhiều khả năng là hầu hết những người này đã bị sát hại.

Hai người đã may mắn trốn thoát trước khi Campuchia lao xuống vực thẳm. Một người là Les Kosem, được phái đi làm nhiệm vụ ngoại giao một tuần trước đó, nhưng cũng qua đời trong năm tiếp theo. Người kia là một trong ba phát ngôn viên của phiến quân mà tôi đã gặp, Y-Bhan Kpor, người đang trải qua khóa huấn luyện quân sự ở Mỹ. Tôi đã trở thành một trong những người bảo trợ cho anh ta, và buộc phải cho anh biết rằng người Thượng đã bị trục xuất khỏi Đại Sứ quán.

Sau vài năm, anh ta lên đường tìm vợ con, rồi chúng tôi mất liên lạc. Khoảng 30 năm sau, tôi nhận được một email từ một nhà nhân học ở Campuchia. Y-Bhan đang tìm tôi. Tôi đến Campuchia và gặp lại anh ta đang làm nông dân trên vùng đất đỏ, cô độc một mình.

Anh ta mất 18 năm mới trở lại được Campuchia. Trong quãng thời gian đó, anh làm công nhân đóng chai cho nhà máy Coca-Cola ở Atlanta, làm quản đốc ban đêm ở Tulsa, Oklahoma, rồi làm ở xưởng sản xuất lốp xe, tìm kiếm nhân chứng ở Paris, những người đã ở trong Đại Sứ quán ngày ấy, và chờ đợi mòn mỏi trong một trại tị nạn ở Malaysia. Về lại Campuchia, anh ta gia nhập đoàn quân tìm kiếm người mất tích.

Anh ta tìm được một cựu tướng Khmer Đỏ, người đã đánh chiếm Phnom Penh và dành nhiều đêm uống rượu liên tục với ông ta đến tận sáng, nhưng chẳng thu được thông tin gì. Bất kỳ thông tin nào anh ta thu được cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng (như “một người lính Khmer Đỏ đã bắt vợ anh hát trước khi sát hại cô ấy), và điều đó còn đau đớn hơn cả sự im lặng. Sau ba năm, anh ta bỏ cuộc.

Gần đây, Y-Bhan đã gắng tìm gia đình mình thêm một lần nữa, với sự giúp đỡ của Ủy ban Sự thật Campuchia, nơi công bố danh sách người tị nạn ở Đại Sứ quán, với 78 cái tên, chủ yếu là trẻ em, xác định mỗi cá nhân sẽ khoảng bao nhiêu tuổi ngày nay. Danh sách đã được công bố hai lần, trên toàn quốc, nhưng anh ta không nhận được phản hồi nào.

William H. Chickering là bác sĩ cấp cứu, hiện đang hoàn thành một cuốn sách về Fulro.

Edward Lansdale: Người báo trước trận Tết Mậu Thân

Nguồn: Max Boot, “The American Who Predicted Tet”, The New York Times, 30/01/2018.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Diễn ra từ 50 năm trước và ngày nay được nhớ đến như một bước ngoặt trong Chiến tranh Việt Nam, sự kiện Tết Mậu Thân thực sự đã khiến người Mỹ bất ngờ. Một trong số ít người dự báo được điều sắp xảy ra là Edward Lansdale, nhân vật tình báo huyền thoại và vị tướng Không quân hồi hưu, người đã giúp kiến tạo nhà nước Nam Việt Nam sau khi Pháp rút lui. Ông trở lại Sài Gòn vào năm 1965 với tư cách là một quan chức làm việc tại Đại sứ quán Mỹ, cố gắng sử dụng mối quan hệ của mình để cứu vãn nỗ lực chiến tranh đang rơi vào thất bại.

Vào thời điểm mà nhiều nhà lãnh đạo Mỹ đang lạc quan một cách thận trọng về chiến tranh, chí ít là trên phương diện công khai, Lansdale đã nhiều lần đưa ra các lời cảnh báo. Cuối tháng 10/1967, ông báo cáo cho Ellsworth Bunker, Đại sứ tại Sài Gòn, “Tôi tin là Hà Nội đang đánh cược vào đỉnh điểm cuộc chiến trong năm 1968.” Ông đã dự đoán rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt sẽ cố gắng lặp lại thành công của họ trước người Pháp: “Các nhà hoạch định chính sách và sử gia ở Hà Nội nhận thấy rằng thất bại của lực lượng Pháp đạt tới điểm quyết định là nhờ vào tình cảm chống chiến tranh ở thủ đô nước Pháp, chứ không phải nhờ tình hình trên chiến trường Việt Nam; Việt Minh ra sức chiến đấu ở Điện Biên Phủ chủ yếu là nhằm định hình dư luận ở Paris, cậy dựa vào sự kịch tính hơn là chiến lược quân sự hợp lý. Điều đó đã phát huy hiệu quả.” Ông cảnh báo, Hà Nội sẽ thực hiện một kế hoạch tương tự để “khiến người Mỹ đổ máu” và “khiến công chúng Mỹ buộc chính phủ phải rút quân,” bởi “họ tin rằng công chúng Mỹ dễ bị thao túng tâm lý vào năm 1968.”

Đó là một dự đoán chính xác đến lạ kỳ, nhưng giống như hầu hết những gì Lansdale nói, nó cũng bị nhà chức trách ngó lơ. Ông từng cảnh báo vào năm 1963 rằng việc lật đổ người bạn và người được ông bảo hộ, Tổng thống Ngô Đình Diệm, là một sai lầm. Ông đã bị phớt lờ, và sau cái chết của Diệm trong một cuộc đảo chính quân sự, Nam Việt Nam nhanh chóng tuột dốc không phanh, buộc Lyndon Johnson phải đưa lính tác chiến của Mỹ đến để ngăn chặn một chiến thắng của Cộng sản. Khi ấy Lansdale đã lên tiếng rằng chẳng ích gì khi tìm cách thoát khỏi vũng lầy chỉ bằng hành động quân sự; nước Mỹ, ông nói, cần phải nuôi dưỡng một chính phủ hợp pháp ở Sài Gòn để có thể giành được sự ủng hộ của người dân. Một lần nữa, ông lại bị phớt lờ khi Mỹ mở chiếc hộp Pandora – lập các vùng bắn phá tự do (free-fire zones) cũng như thực hiện các nhiệm vụ tìm-và-diệt (search-and-destroy missions). Tướng William Westmoreland đã bị thuyết phục rằng ông có thể giết Việt Cộng nhanh hơn tốc độ họ có thể thay người.

Chiến dịch Tết Mậu Thân diễn ra vào ngày 30 và 31/01/1968, đã đập tan ảo tưởng của Westmoreland. Đến tận cuối mùa thu năm 1967, vị tướng người Mỹ vẫn nói rằng ông “nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm” – nhưng đó chỉ là suy nghĩ viển vông. Tám mươi nghìn quân Việt Cộng đã tấn công 36 trong số 44 thủ phủ tỉnh, 64 trong số 242 huyện, 5 trong số 6 thành phố tự trị và nhiều thôn làng khác. Trận chiến giành quyền kiểm soát cố đô Huế đã diễn ra suốt hơn một tháng. Ngay cả khuôn viên Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cũng bị một nhóm lính Việt Cộng xâm nhập.

Lansdale đến Đại sứ quán ngay sau khi những người lính Việt Cộng xâm nhập bị giết hoặc bị bắt. Ông lái xe dọc theo những con đường vắng vẻ, lướt qua những chiếc xe đầy vết đạn– “một trong số chúng, chiếc sedan với cửa mở hé, có một cái xác trượt dài từ ghế ngồi xuống vỉa hè,” ông kể lại. “Một người Mỹ mặc quần áo thường dân, đã chết. Tại tòa đại sứ, ông chứng kiến “những mảnh kính vỡ và gạch vụn dưới chân, cùng với nhiều lỗ hổng trong tòa nhà mới xây và trên các bức tường do tên lửa và thuốc nổ của Việt Cộng,” những chiếc xe hơi bên ngoài thì “cửa sổ vỡ tan, lốp xe xẹp lép, và thật nhiều lỗ đạn.”

Giao tranh vẫn tiếp diễn, còn trong căn biệt thự của Lansdale ở số 194 đường Công Lý, “bầu khí cứ như dân du mục” (gypsy air) – như chính lời vị tướng. Hầu hết các nhân viên người Việt đều vắng mặt vì đang nghỉ Tết, vì vậy Lansdale và hai phụ tá người Mỹ của mình phải tự tìm kiếm thức ăn và tự nấu nướng. Một trong những cấp dưới đã tìm được chỗ cung cấp bánh mì – Khách sạn Brinks, nơi đang được sử dụng như “cứ điểm” của những lính Mỹ độc thân. Lansdale và phụ tá đã đến thăm những người bạn Việt Nam của họ, đang bị mắc kẹt trong nhà, để mang cho họ bánh mì “lậu”.

Đại sứ Bunker, được người Việt Nam đặt biệt danh là “Ông già Tủ lạnh” (Old Man Refrigerator) vì vẻ ngoài lạnh lùng, đã đến qua đêm cùng lính gác tại nhà của Lansdale, sau khi nơi ở của ông được đánh giá là không an toàn. Lansdale ghi nhận rằng vị đại sứ, sau khi chợp mắt, “đã dần quen với cognac F.O.V. từ Hồng Kông sau lần đầu nếm thử.” Lansdale cũng cho một số người Việt đến tị nạn sau khi họ trở thành người vô gia cư bởi cuộc chiến – một cựu đầu bếp cùng với cô con gái nhỏ và cháu gái của bà. Để chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Lansdale vào ngày 06/02, bạn bè và gia đình ông đã gửi đồ ăn làm quà tặng, từ salami đến bia San Miguel. “Vậy nên,” ông viết, “một vài buổi tụ họp tại đường Công Lý thiếu vắng tinh thần bi kịch lớn thường thấy của người Việt, thay vào đó lại trông như thể mấy buổi dã ngoại kiểu cũ.”

Cuối cùng thì Tết Mậu Thân đã không thành công trong việc châm ngòi cho một cuộc tổng tiến công như các nhà lãnh đạo Cộng sản hy vọng. Thống kê chính thức của Mỹ cho thấy 58.373 lính cộng sản đã chết trong khoảng thời gian từ 29/01 đến 01/03/1968, so với con số 3.895 lính Mỹ, 4.954 lính Việt Nam Cộng hòa và 14.300 thường dân miền Nam. Các tướng Mỹ tuyên bố đây là một thất bại tuyệt đối của Việt Cộng. Còn Lansdale thì nghĩ khác.

Ông thừa nhận rằng kẻ thù “đã bị nghiền nát về mặt quân sự,” nhưng vẫn cảnh báo vào ngày 27/03/1968 rằng chiến dịch vẫn có khả năng đạt được các mục tiêu của Hà Nội: Nó có thể “gieo rắc nỗi sợ cho người dân thành thị bằng cách chứng minh sự bất lực của chính phủ trong việc bảo đảm an toàn,” và có thể “gia tăng áp lực buộc Mỹ rút quân, cả trong và ngoài nước, bằng cách chứng minh rằng chiến thắng là vô vọng và nguyên do để chiến đấu là vô đạo đức (ví dụ, qua việc sử dụng hình ảnh hỏa lực của Mỹ phá hủy các thành phố thân thiện ở Việt Nam). “Yếu tố cảm xúc trong chiến tranh Việt Nam lại càng lớn hơn kể từ sau cú sốc Tết Mậu Thân,” Lansdale cảnh báo. Trong những tháng tới, “nó hứa hẹn sẽ trở thành yếu tố xoay chuyển tình thế thực sự.”

Một lần nữa, Lansdale đã tiên lượng được nhiều hơn hầu hết các đối thủ của mình ở Sài Gòn, cũng như ở Washington, những người đã loại bỏ ông vì cho rằng ông là kẻ mơ mộng, là người của quá khứ. Cú sốc Mậu Thân đã thuyết phục Tổng thống Johnson từ chối đề xuất xin thêm 200.000 quân của Westmoreland, và đưa ông này về nước để trở thành Tham mưu trưởng Quân đội Mỹ. Sau đó, trong một bài phát biểu đầy kịch tính trên truyền hình vào ngày 31/03, Johnson tuyên bố rằng thay vì tìm kiếm cơ hội tái đắc cử, ông sẽ dùng tất cả năng lượng của mình để kết thúc cuộc chiến.

Hành trình tìm kiếm chiến thắng của người Mỹ ở Việt Nam đã kết thúc; câu hỏi duy nhất còn lại là tốc độ rút lui. Nhưng vẫn còn rất nhiều trận chiến theo sau – nhiều người Mỹ chết sau Mậu Thân hơn là trước đó – và Lansdale đã chứng kiến điều ấy trong những tháng cuối cùng trong nhiệm kỳ của ông.

Vào ngày 04/05/1968, Việt Cộng lại tấn công khắp miền Nam trong cái gọi là Tết-mini. “Trong khi Mậu Thân diễn ra,” Lansdale viết, “cây cối vẫn nở hoa. Bằng cách nào đó, vẻ đẹp của chúng chỉ khiến khung cảnh xung quanh trở nên xấu xí hơn bao giờ hết.” Tết-mini cũng bị đẩy lùi với tổn thất nặng nề. Nhưng bản thân Lansdale đã phải kinh hoàng trước mức độ hủy diệt gây ra bởi cuộc phản công của Mỹ.

Phụ tá của ông, Charlie Sweet, đã đến thăm một khu dân cư thuộc tầng lớp lao động ở Sài Gòn, được gọi là Quận 8 và đã giật mình bởi “sự giận dữ sâu sắc đối với tất cả người Mỹ” vì hỏa lực tàn bạo mà Mỹ sử dụng để chống lại 200 du kích Việt Cộng xâm nhập khu phố của họ. “Hai trăm ngôi nhà đã bị phá hủy cho mỗi lính Việt Cộng bị giết,” một người đàn ông phẫn nộ. Giao tranh ở Quận 8 đã phá hủy hơn 5.000 ngôi nhà, giết chết hơn 200 thường dân, làm bị thương thêm 2.000 người và tạo ra 40.000 người tị nạn khác. “Tôi hy vọng chúng ta không bao giờ sử dụng những chiến thuật này trong các cuộc bạo loạn ở Mỹ,” Lansdale viết, “nếu không chúng ta sẽ mất tất cả các thành phố của mình.”

Các báo cáo của Sweet về Quận 8 đã “có ảnh hưởng”, theo lời Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford, và khiến người kế vị Westmoreland, Tướng Creighton Abrams, ngăn Mỹ sử dụng các cuộc không kích và pháo binh. Đây là một phần trong nỗ lực của Abrams nhằm theo đuổi những gì mà một nhà sử học gọi là “một cuộc chiến tốt hơn” (a better war), nhưng lúc đó đã quá muộn: Công chúng Mỹ đã quay lưng lại với cuộc chiến.

Đến giữa tháng 06/1968, khi Lansdale chuẩn bị rời Việt Nam, Sài Gòn vẫn là một thành phố bị bao vây. Ông viết: “Hàng loạt dây thép gai, hiện đang rỉ sét dưới những cơn mưa từ tháng Năm, đường phố bị chặn chỗ này chỗ nọ. Rác thải chất đống trên vỉa hè bởi dịch vụ công cộng đã bị trì trệ.” Tên lửa Việt Cộng đã đâm xuống thủ đô, giết chết và làm bị thương hàng trăm người. “Xạ thủ địch thường tấn công bất ngờ,” ông nói thêm, “khiến cư dân sợ rằng mình có thể là mục tiêu tiếp theo.”

Khi rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 16/06/1968, Lansdale đã cố gắng thể hiện một bộ mặt dũng cảm, nhưng ông biết rằng mình đã thua trong cuộc chiến. Nhiều năm sau, ông bày tỏ “cảm giác đau buồn sâu sắc về việc tôi không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong giai đoạn 1965-1968 ở Việt Nam, để giúp người dân ở đó ngăn chặn thảm kịch mà cuối cùng đã nhấn chìm họ.”

Lansdale qua đời năm 1987, và đến tận ngày cuối cùng, ông hẳn vẫn tin rằng nếu lời khuyên của mình – tập trung nhiều hơn vào các vấn đề chính trị và giảm bớt hỏa lực – đã được nghe theo, Mỹ có thể đã tránh được một vũng lầy. Chẳng có cách nào để biết liệu ông có nói đúng hay không, và chắc chắn rằng Bắc Việt vẫn sẽ là một kẻ thù đáng gờm trong bất kỳ trường hợp nào, với khát khao chiến thắng lớn hơn nhiều so với Mỹ. Nhưng thật khó để tin rằng con đường mà Mỹ đã chọn – một thất bại khiến 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Việt Nam đã chết – lại là một lựa chọn tốt hơn.

Max Boot là thành viên cấp cao của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Bài viết này được trích và chuyển thể từ cuốn sách mới của ông, “The Road Not Taken: Edward Lansdale and the American Tragedy in Vietnam.”

Hình: Edward G. Lansdale (bên trái) đến Sài Gòn vào tháng 8/1965. Nguồn: AP.

Playboy và lính Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam

Nguồn: Amber Batura, “How Playboy Explains Vietnam,” The New York Times, 28/02/2017.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Khoảng giữa bộ phim Apocalypse Now có một cảnh nổi tiếng là khi con tàu chạy sông của Martin Sheen đến được một trạm cung ứng nằm sâu trong rừng rậm, trong lúc thủy thủ đoàn mua dầu diesel, nhân viên cung ứng đã cho họ những tấm vé miễn phí để xem một chương trình – “Các anh biết đấy,” anh ta nói, “những cô thỏ.” Không lâu sau, họ ngồi ở một sân khấu tạm bợ dựng quanh một bãi đáp, xem ba cô người mẫu Playboy nhảy xuống từ trực thăng và nhảy theo bài “Suzie Q.”

Cảnh phim đó là hoàn toàn hư cấu; các người mẫu Playboy gần như chưa bao giờ đến lưu diễn ở Việt Nam, và chắc chắn không phải là theo nhóm. Nhưng ngay cả khi không có cô thỏ nào thì chắc chắn tờ tạp chí vẫn có mặt ở đây. Trên thực tế, khó mà nói hết vai trò hết sức sâu sắc của tạp chí Playboy đối với hàng triệu lính và nhân viên dân sự Mỹ có mặt ở Việt Nam trong suốt cuộc chiến: để giải trí, đúng, nhưng quan trọng hơn nó còn là nguồn tin tức, và thông qua mục trao đổi thư từ dày đặc, nó còn là một nơi để tâm sự và xưng tội.

Playboy không chỉ có giá trị đối với những người lính nói riêng mà còn với cả quân đội nói chung. Ấn phẩm này đã trở thành một liều thuốc tinh thần hữu ích, đôi khi còn hơn cả những lá thư vốn được mong mỏi từ quê nhà. Playboy ghi dấu ấn lên cuộc chiến bởi nó là sự kết hợp độc đáo giữa phụ nữ, các mục tiện ích, với bình luận xã hội và chính trị, biến nó trở thành một di sản đáng kinh ngạc về sự can dự của Mỹ tại Việt Nam. Năm 1967, nhà báo Ward Just của tờ Washington Post tuyên bố, “Nếu Thế chiến II là cuộc chiến của tờ Stars and Stripes và cô đào Betty Grable, thì cuộc chiến ở Việt Nam là cuộc chiến của Playboy.”

Chuyên mục nổi tiếng nhất của tạp chí này là “Playmate,” nằm ở hai trang chính giữa. Tổng biên tập và cha đẻ của Playboy, Hugh Hefner, có sẵn trong tâm trí hình ảnh người phụ nữ mà ông muốn miêu tả. Playmate, ban đầu được giới thiệu với cái tên “Sweetheart of the Month,” là đại diện cho hình mẫu lý tưởng của Playboy. Nàng yêu nghệ thuật, chính trị, và âm nhạc. Nàng tinh tế, vui vẻ, và thông minh. Quan trọng hơn, người phụ nữ lý tưởng này cũng quan tâm đến tình dục nhiều như người đàn ông lý tưởng được mô tả trong tạp chí. Nàng không theo đuổi đàn ông để kết hôn, mà để thỏa mãn cho nhau và bầu bạn.

Người mẫu Playmate khác với những biểu tượng gợi cảm của Thế chiến II, dù đi theo di sản của họ. Hefner muốn tạo ra hình ảnh của những phụ nữ có thực mà độc giả của họ có thể gặp được trong cuộc sống hằng ngày – bạn học cùng lớp, thư ký, hay hàng xóm – thay cho hình ảnh những phụ nữ được cách điệu hoá và thường là người nổi tiếng của thế hệ trước đó. Dâm dục nhưng quen thuộc, hình tượng “cô gái nhà bên” là người bạn hoàn hảo cho những người lính đóng quân tại Việt Nam. Vẻ đẹp và sức hấp dẫn của người Mỹ được thể hiện chủ yếu bởi các cô người mẫu xa lạ đã nhắc nhở những người lính trẻ về những phụ nữ mà họ bỏ lại ở quê nhà, vì ai mà họ chiến đấu – và, nếu sống sót, họ sẽ được trở về với họ.

Playmate và các chuyên mục hình ảnh khác trong tờ tạp chí còn phục vụ một mục đích khác cho quân đội Mỹ tại Việt Nam, dù không chủ ý. Những hình ảnh và bức vẽ thường là thô tục của Playboy đã truyền tải những chuẩn mực xã hội và tình dục đang thay đổi ở Mỹ. Sự xuất hiện của người mẫu da màu, năm 1964 là China Lee, và năm 1965 là Jennifer Jackson, phản ánh thái độ thay đổi về chủng tộc. Nhiều người lính đã viết thư cho tạp chí và các người mẫu Playmate để cảm ơn sự xuất hiện của họ trên Playboy. Đặc biệt, những người lính da đen còn cảm thấy hình ảnh của cô Jackson đã mở rộng hứa hẹn về cuộc sống tốt đẹp mà Hefner dành cho họ. Xem những hình ảnh này buộc tất cả người dân Mỹ phải suy nghĩ lại về định nghĩa cái đẹp của họ.

Theo thời gian, Playmate đã dần thúc đẩy ranh giới của các chuẩn mực xã hội và cả các định nghĩa pháp lý khi họ đăng nhiều ảnh khoả thân hơn, đầu tiên là ảnh lông mu vào năm 1969 và ảnh khoả thân toàn bộ nhìn từ đằng trước vào năm 1972. Tờ Washington Post viết rằng các tù nhân chiến tranh người Mỹ đã “rất sốc” khi nhìn thấy ảnh khỏa thân trong một tờ Playboy lậu trên chuyến bay về nhà vào năm 1973. Sự khỏa thân, tính dục và sự đa dạng được thể hiện trong những bức ảnh ấy đại diện cho những thái độ mang tính dễ dãi hơn về tình dục và vẻ đẹp mà những người lính đã bỏ lỡ trong những năm bị giam cầm.

Sự hấp dẫn của Playboy đối với lính Mỹ không chỉ dừng lại ở Playmate. Họ thực sự đã đọc cả tờ tạp chí vì các bài viết. Tạp chí thường xuyên cung cấp các bài viết đặc biệt, xã luận, các bài bình luận và quảng cáo tập trung vào lối sống và giải trí của nam giới, bao gồm thời trang cao cấp, du lịch nước ngoài, kiến trúc hiện đại, công nghệ mới nhất, và xe hơi sang trọng. Playboy tự định hướng mình trở thành kim chỉ nam cho những người đàn ông mong muốn đạt được tầm nhìn về cuộc sống tốt đẹp của Hefner, bất kể họ ở San Diego hay Sài Gòn.

Với các thanh niên đang phục vụ ở Đông Nam Á, có độ tuổi trung bình là 19, nghĩa vụ quân sự thường là công việc đầu tiên cho họ thu nhập khả dụng. Họ đọc tạp chí để được tư vấn về những món đồ nên mua, những chiếc xe tốt nhất và những món đồ thời trang mới nhất – các loại sản phẩm mà họ thường mua được ở một trong những trung tâm trao đổi lớn tại các căn cứ của Việt Nam hay các trung tâm mua sắm đang mọc lên nhanh chóng, chẳng khác gì các món hàng mua được ở nhà.

“The Playboy Advisor,” chuyên mục tư vấn của tạp chí, khuyến khích mọi người đặt câu hỏi về tất cả các loại chủ đề, từ loại rượu tốt nhất đến tình hình cổ phiếu ở nhà, đến tư vấn phòng the, đến cách làm quen với cuộc sống thường dân. Binh lính xem Playboy như một công cụ hữu ích để tìm ra vai trò của mình trong một thị trường định hướng tiêu dùng mà giờ đây họ đã có thể tham gia vì tính cơ động và thu nhập mà nghĩa vụ quân sự đã cho họ.

Nội dung của tờ tạp chí đã vượt ra ngoài lối sống và giải trí khi sứ mệnh của nó được phát triển. Trong những năm 1960, Playboy đã cho đăng nhiều bài viết thẳng thắn về các vấn đề xã hội, văn hoá và chính trị quan trọng mà nước Mỹ đang phải đối mặt, thường được viết bởi các nhà báo đoạt giải Pulitzer, các nhà lãnh đạo trong chính phủ hoặc quân đội, và các cây bút văn chương hàng đầu. Tạp chí đã đề cập đến các chủ đề như nữ quyền, phá thai, quyền của người đồng tính, chủng tộc, các vấn đề kinh tế, phong trào phản văn hóa, và các vụ bỏ tù hàng loạt – những thứ binh lính không thể thấy trong tờ Stars and Stripes. Tạp chí Playboy còn cung cấp các cuộc phỏng vấn chuyên sâu với mọi tên tuổi, từ Malcolm X đến lãnh đạo Đảng Nazi Mỹ George Lincoln Rockwell, giúp những người lính trẻ biết đến các lập luận và ý tưởng về chủng tộc và quyền bình đẳng của người Mỹ gốc Phi mà có thể họ đã không được giới thiệu ở quê nhà. Nghĩa vụ ở Việt Nam khiến nhiều binh lính được tiếp xúc trực tiếp với các chủng tộc và các nền văn hoá đa dạng, và Playboy đã giới thiệu cho họ những ý tưởng và lập luận mới về các vấn đề xã hội và văn hoá ấy.

Ngay từ năm 1965, Playboy đã bắt đầu cho chạy các bài viết về Chiến tranh Việt Nam, với lập trường biên tập thể hiện sự phản đối leo thang xung đột. Dĩ nhiên, về chuyện này đội ngũ biên tập đã rất thông minh: Quan điểm của họ có thể chỉ trích tổng thống, chính quyền, các nhà lãnh đạo quân sự và chiến lược, nhưng họ cũng đảm bảo rằng những người viết bài sẽ làm hết sức mình để ủng hộ binh lính. Năm 1967, lính Mỹ được đọc lập luận của nhà kinh tế học tự do John Kenneth Galbraith rằng “không phần nào trong lý lẽ ban đầu” giúp biện minh cho cuộc chiến là “còn nguyên vẹn,” khi ông bác bỏ ý tưởng về sự thống nhất thành một khối của chủ nghĩa cộng sản và các biện minh cho cuộc chiến khác liên quan đến Chiến tranh Lạnh. Nhưng điều đó khác với việc công kích quân đội. Năm 1971, nhà báo David Halberstam viết trong một bài báo cho Playboy rằng “chúng ta ngưỡng mộ lòng dũng cảm và chủ nghĩa lý tưởng của họ, sự can đảm và sự cống hiến của họ khi đối mặt với những vấn đề bất tận. Chúng ta tin rằng họ là những đại diện tốt đẹp nhất của xã hội Mỹ.” Binh sĩ ở Việt Nam có thể quay sang Playboy để biết tin tức về cuộc chiến của chính họ mà không sợ mình bị chỉ trích.

Playboy cũng hữu ích trong vai trò là một diễn đàn cho những người đang tham gia cuộc chiến. Ấn phẩm này độc nhất ở số lượng các chuyên mục tương tác. Binh lính có thể gửi bài cho các mục như “Dear Playboy” để được tư vấn hoặc thể hiện phản ứng với các bài báo. Nhưng các thông tín viên ấy cũng được tự do kể lại những kinh nghiệm và mối lo thời chiến của mình. Họ thường mô tả cái mà họ coi là sự đối xử bất công của quân đội, thảo luận về những khó khăn trong việc trở lại cuộc sống dân thường, hoặc cảm ơn tờ tạp chí đã giúp họ vượt qua thời gian ở nước ngoài. Năm 1973, một người lính, R. K. Redini ở Chicago, đã viết cho Playboy về sự trở về của mình. “Một trong những thứ khiến chuyến đi Việt Nam dễ chịu hơn là được đọc Playboy hàng tháng,” ông nói. “Chắc chắn nó đã giúp tất cả chúng tôi quên đi những vấn đề của mình – dù chỉ trong một lúc ngắn ngủi. Tôi cảm ơn quý vị, không chỉ vì bản thân tôi, mà còn vì hàng ngàn người khác đã tìm thấy rất nhiều niềm vui trong tờ tạp chí của quý vị.”

Trong “The Playboy Forum,” một chuyên mục dành cho độc giả khác, nhiều người đã bình luận về những khía cạnh cụ thể trong loạt bài dài “The Playboy Philosophy” của Hefner về ma túy, vấn đề chủng tộc và đồng tính luyến ái trong quân đội. Hình thức diễn đàn cho phép những người đang phục vụ tại Việt Nam tiếp cận không chỉ với những người lính khác, mà còn với cả công chúng, cho họ một không gian an toàn để nói lên ý kiến và phê bình về quân đội. “Trong truyền thống, một người lính muốn phàn nàn thì sẽ được bạn bè khuyên nên thổ lộ với cha tuyên úy, hoặc báo cho tổng thanh tra, hay viết thư cho nghị sĩ của mình,” một người lính chia sẻ. “Bây giờ, có lẽ nhờ những lá thư về sự bất công trong quân đội trong The Playboy Forum, một tòa án thượng thẩm khác đã được thêm vào danh sách.”

Tầm quan trọng của tạp chí Playboy đối với những người lính ở Việt Nam đã vượt khỏi những trang Playmate. Họ thậm chí còn mượn linh vật con thỏ và logo của tạp chí để sơn lên máy bay, trực thăng, và xe tăng. Họ vẽ hình con thỏ trên các mảnh vá quần áo, và dùng từ “playboy” trong các mật hiệu và biệt danh. Đón nhận biểu tượng của Playboy là một cuộc nổi loạn nhỏ đối với quy tắc của đời sống quân đội, đồng thời là một bằng chứng về tác động của tờ tạp chí đối với cuộc sống và tinh thần của những người lính.

Và Playboy đã đáp lại sự ủng hộ này. Rất lâu sau khi cuộc chiến kết thúc, họ vẫn tài trợ cho các phim tài liệu về cuộc chiến, nghiên cứu về chất độc da cam và các nghiên cứu về rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý (của cựu chiến binh). Đó là một cam kết chứng tỏ mối quan hệ lâu dài giữa ấn phẩm này và những người lính, và cho thấy Playboy là một di sản đáng kinh ngạc đến thế nào của một trong những cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ.

Amber Batura là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành lịch sử tại Đại học Kỹ thuật Texas.

Chuyện kể: ’19 Thuyền Nhân Việt Nam Nổi Dậy Chống Lại Cướp Biển’


Vietnamese Museum..

Câu Chuyện Của 19 Thuyền Nhân Việt Nam Nổi Dậy Chống Lại Cướp Biển Thái Lan Theo lời kể lại của Ông Đoàn Văn Nguyên & Bà Trần Thị Ngọc. Vào ngày 9 tháng 1 năm 1981, 111 người dân trốn khỏi Việt Nam bằng cửa sông Rạch Giá trên một con thuyền dài 11.5 mét, rộng 3.5 mét. Sau hai ngày lênh đênh trên biển lớn, họ bị bọn hải tặc tấn công lần thứ nhất, cướp của và cưỡng bức 8 phụ nữ suốt đêm. Sáng ngày hôm sau, bọn hải tặc thả cho đi nhưng bắt cóc hai thiếu nữ, khoảng 17 tuổi. Đến sáng ngày thứ 3, ghe tỵ nạn bị tấn công lần thứ hai: 8 tên hải tặc trên chiếc thuyền đánh cá Thái mang số 12, chúng uy hiếp tất cả thuyền nhân sang tàu của chúng, lục soát mọi thứ để tìm cướp vàng. Rồi chúng dồn 111 người về lại con thuyền đã bị phá cả sàn lẫn máy; có thể bị chìm bất cứ lúc nào. Không ai chịu trở về thuyền. Bọn chúng đã ném một em bé 1 tuổi xuống biển và đâm lòi ruột người cha. 27 người hoảng sợ đã bị lùa xuống con thuyền sắp chìm. Còn lại 81 người đồng loạt la lên để trấn áp tinh thần 8 tên hải tặc, khiến chúng phải nhảy xuống biển. Tài công của thuyền tỵ nạn vào phòng lái, rồ máy chạy làm đứt dây nối giữa 2 con thuyền. Chiếc thuyền tỵ nạn chở 27 người lại bị cướp liên tiếp thêm 3 lần nữa, cuối cùng họ vào được trại tỵ nạn Songkhla. Sau 4 ngày trôi dạt, con thuyền số 12 chở 81 người Việt tỵ nạn bị tàu hải quân Thái kéo vào tỉnh Pattani, miền Nam Thái Lan, giáp ranh giới Mã Lai Á. 15 ngày sau, do sự tố giác của 3 tên hải tặc bơi thoát vào bờ (còn 5 tên kia mất tích) khiến 19 người thanh niên Việt Nam trên 18 tuổi trong số 81 người Thuyền Nhân đã bị giam chung với hàng trăm tên tù hình sự Thái tại nhà tù Pak Phanang, chờ ngày hầu tòa… Kính mời quý vị theo dõi khúc phim tài liệu kể lại những gì đã xảy ra cho 19 Thuyền Nhân tỵ nạn Việt Nam này tại nhà tù Thái Lan cách nay đã 40 năm. — [English below] Lịch Sử Qua Chuyện Kể là một trong những dự án của Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt để lưu lại những câu chuyện trong ký ức, trực tiếp qua lời thuật chuyện của những người đã từng tham gia hay là nhân chứng trong các sự kiện lịch sử cận đại. Dự án này là một công trình nghiên cứu mục đích sưu tầm, lưu trữ và giải thích lịch sử người Việt tỵ nạn. Những người Việt tỵ nạn sống sót cần có cơ hội trực tiếp chia sẻ cụ thể đầy cảm xúc về những kinh nghiệm mà mình đã trải qua, hoặc chứng kiến những biến cố lịch sử của dân tộc, trên con đường đi tìm tự do, cũng như là những khó khăn bước đầu định cư và lập nghiệp nơi xứ người. Đây là cơ hội để có thể thông cảm và hiểu biết lẫn nhau hơn giữa các thế hệ tỵ nạn; đồng thời cũng là tạo cho những thế hệ mai sau thấu hiểu, hãnh diện và nhớ ơn những hy sinh và can đảm của tiền nhân. Nếu quý vị có những kỷ vật và câu chuyện muốn được chia sẻ, xin vui lòng liên lạc với chúng tôi qua:

➤ Email: info@vietnamesemuseum.org

➤ Phone: 714-846-8438 (714-VHM-VIET)

➤ Website: http://vietnamesemuseum.org

➤ Facebook: https://www.facebook.com/vietnamesemu…

— The Story of 19 Rebellious Boat People Resisted The Thai Pirates FULL – The Story by Mr. Đoàn Văn Nguyên & Mrs. Trần Thị Ngọc VIETNAMESE HERITAGE MUSEUM | ORAL HISTORY PROJECT: Through these oral history interviews, we will be able to learn and celebrate the personal experiences of notable Vietnamese-Americans, who offer their own accounts of history. These interviews document aspects of the historical experience of Vietnamese refugees, immigration, and settlement, which tend to be missing from most mainstream sources. These oral history documentaries will provide an avenue for both understanding and appreciating of the present and future generations of Vietnamese refugees throughout the world.

➤ Email: info@vietnamesemuseum.org

➤ Phone: 714-846-8438 (714-VHM-VIET)

➤ Website: http://vietnamesemuseum.org/​

➤ Facebook: https://www.facebook.com/vietnamesemu…#boatpeople​​​​​#vietnameserefugee​​​​​#reeducationcamp​​​​#vietnameseheritagemuseum​​​​​#vietnamesemuseum​​​​#vhmusa

GS VŨ QUỐC THÚC

VÀI MẨU CHUYỆN VỀ “CON NGƯỜI” của GS VŨ QUỐC THÚC

Bài viết này đuợc giới hạn vào một số câu chuyện về “Con Người” của GS Vũ quốc Thúc, dựa trên mối tiếp xúc cá nhân của tôi với GS Thúc.

Kể các chuyện dưới đây để tưởng nhớ một Giáo sư mà tôi luôn kính mến.

Tôi là một môn sinh rồi có vinh dự là một đồng nghiệp của ông tại Đại Học Luật Khoa, Sài gòn.

A. “MỘT NHÂN CÁCH LỚN”.

Giáo sư Kinh Tế Mai Văn Lễ, một cựu đồng nghiệp, đến thăm tôi sau khi ông được Việt Cộng cho đi định cư ở Mỹ và thời gian đó ông còn tạm trú tại vùng D.C. ở Hoa Thịnh Đốn. Vì mới sang Hoa Kỳ và nhất là bị giam cầm trong trại tù Việt Cộng lâu và bị cô lập một thời gian khá dài, Ông muốn biết tin tức về sự sinh sống vào lúc đó của một số đồng nghiệp cũ ở trường Luật. 

Sau khi, tôi nói về Giáo sư Thúc, GS Lễ nhận xét: “Anh Thúc có ‘một nhân cách lớn’; một con người thông thái, hiểu biết sâu rộng về môn dạy, cởi mở, hoà nhã, nên mọi người kính mến.”

Để có một nhân cách lớn như ở “Con Người”của GS Thúc, tôi thấy ông còn có nhiều đức tính khác,ngoài những gì mà GS Lễ nói ở trên. Nhưng ở đây, tôi liệt kê vài điều ở GS Thúc, có liên hệ trực tiếp với tôi trong sinh hoạt ở trường Luật. Đó là Liêm Chính và Đc Khiêm Cung.

Nhân Cách là yếu tố tạo ra hấp lực để lôi cuốn người khác, hay nói khác đi là làmngười ta “đến với  ông” với lòng quý mến, kính trọng…..

Các thí dụ sau đây chứng minh điều này:

1. Nhóm cựu sinh viên Luật ở Nam CA đến với GS Thúc với lòng biết ơn đối với một ông Thày cũ.

Cách đây có lẽ trên dưới 15 năm, Đại tá Nguyễn trọng Liệu, nguyên Chánh Sở, Sở Pháp Chế ( thì phải), Nha Quân Pháp, Bộ Quốc Phòng, gọi cho tôi nói rằng “chúng tôi gồm một số cựu sinh viên Luật ở dưới này (Nam California) có bàn với nhau rằng chúng tôi muốn mời GS Thúc và phu nhân sang thăm Hoa Kỳ. Mọi chi phí di chuyển khứ hồi Pháp-Hoa Kỳ, trong nội bộ Hoa Kỳ, đi bất cứ nơi nào, gồm cả ăn ở, chúng tôi lo hết. GS Thúc nếu ở Hoa Kỳ cả tháng thì tốt. Tôi  nói rằng đấy là một sáng kiến hay. Đại tá Liệu tiếp: “Chúng tôi muốn nhờ Anh mời GS Thúc giúp”.Tôi hỏi: sao lại thế? Anh ở cùng quê ở Nam Định với GS Thúc, và anh là chủ biên Đặc San Nguyễn Khoa Nam. Mỗi khi ra báo, Anh đều gửi cho tôi. Tôi thấy Anh có liên lạc với GS Thúc xin bài. Ông ấy có viết bài cho Báo và có nhắc tên Anh mà. Vậy tại sao, Anh không liên lạc với Ông ấy mà lại nhờ đến tôi?. Đại tá Liệu trả lời “ Tôi có thể viết thư mời được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng dù Anh cũng là môn sinh của GS Thúc như chúng tôi, nhưng Anh ở vị trí thích hợp hơn. Để tỏ lòng kính mến Ông và nhờ Anh mời giúp, hơn là chúng tôi chỉ là cựu sinh viên”

Vì biết cách “cư xử” của GS Thúc, tôi phải viết thư thay vì gọi điện thoại. Trong thư tôi nhắc lại những gì ĐT Liệu nói với tôi. Thay vì cc cho ĐT Liệu, tôi chụp một Bản gủi cho ĐT Liệu biết. Ít lâu sau, Ông viết thư cho tôi trả lời : “rất xúc động được các anh em học trường luật trước đây (ông rất kỹ, không dùng các chữ khác, thí dụ  như cựu môn sinh chẳng hạn) có lòng quí mến như vậy khi đã về hưu….” Ông từ chối vì lý do Bà Thúc bị Alzhiemer, phải thường trực ở nhà trông nom, ngay cả khi Đài RFI phỏng vấn, phải dùng điện thoại….

Tôi thấy Nhân Cách của GS Thúc là yếu tố chính yếu làm nguyên động lực thúc đẩy nhóm cựu sinh viên này “đến với GS Thúc”.Họ mời ông sang chơi để tỏ lòng biết ơn vị  Giáo sư khả kínhcủa họ.

2. Một người được gọi là “Bạn” đến với GS Thúc để dang tay giúp đỡ vào lúc nguy khốn: Ông Raymond Barre.

Trong một thư viết tay gửi cho tôi, dài gần 20 trang, sau khi tới Pháp được chừng một tháng,  GS Thúc cho biết  ông được GS Lưu Văn Bình, ở Montréal cho địa chỉ của tôi.

Trong thư, GS Thúc kể rất nhiều điều mà ông trải qua sau khi VC chiếm Miền Nam. Vì ở trong tình thế khó khăn quá, ông tìm mọi cách, như đến cầu nguyện trước Tượng Đức Mẹ ở Bình Triệu, tìm cách gửi thư cho người  con gái ở Paris, xin gặp Ông Barre đang làm Thủ Tướng giúp. Trong thư ấy, GS Thúc kể rằng ông biết ông Barre lúc thi Thạc sỹ. Khi Phạm Văn Đồng sang Pháp xin Viện trợ 200 triệu MK, Ông  Barre nói với Phạm Văn Đồng rằng “tôi cho Anh $200 triệu MK, nhưng với điều kiện là Anh cho “Bạn” của tôi là Giáo sư Vũ quốc Thúc sang Pháp.Tôi mời ông ta dạy ở Đại Học Paris”. Thư nói tiếp: “Phạm Văn Đồng được tiền, nhưng vấn đề để tôi đi Pháp, thì chắng thấy gì cả. Rồi Nội các Raymond Barre sụp đổ.Ông Barre phải ứng cử Dân Biểu trở lại và đắc cử, rồi  sau đó được tái bổ nhiệm làm Thủ Tướng. Lúc đó, VC mới xét đến việc cho tôi rời Việt nam.Nếu ông Barre không được làm Thủ tướng nữa, thì việc đi Pháp của tôi sẽ không xảy ra.” 

Tóm lại, lý do mà Thủ tướng Barre đến với GS Thúc để cứuông vào lúc khó khăn nhất, vì ông có một Nhân Cách đáng phục. Như những gì Giáo sư Thúc nói, ông chỉ là người quen hay biết ông Barre, chứ không hẳn là người Bạn.*

*Tôi không bàn tới việc ông Barre, Thủ tướng của một đại cường quốc như Pháp đã dùng  cả một chính sách quốc gia để “ đánh đổi lầy một người bạn”- một việc mà tôi không bao giờ thấy trên đời này. Tôi chỉ xét xem GS Thúc có phải là “Bạn” với ông Barre theo nghĩa mà mọi người hiểu không.

Trong thư kể trên, GS Thúc nói rằng Giáo sư biết ông Barre, khi thi Thạc sỹ Kinh Tế. 

Tôi không bao giờ hỏi một cách chi tiết về việc GS Thúc là Bạn như thế nào. Tôi chỉ dựa vào vài thư của GS Thúc gửi cho tôi có ít chi tiết liên hệ, cũng như khi nói chuyện thì tình cờ Ông đề cập đến.

Tôi nhớ rằng GS Thúc được chính phủ Nguyễn Văn Xuân cho đi Pháp học để thi Tiến sỹ. Ông đậu Tiến sỹ năm 1950. Như vậy trong thời gian này, GS Thúc chưa gặp ông Barre. 

Có một lần khi tôi Paris, ông kể chuyện về thi Thạc sỹ:  Ngay sau khi đậu tiến sỷ (1950) , vì tò mò, Ông thử đi hỏi xem vấn đề thi Thạc sỹ như thế nào. Sau khi biết thể thức, ông quyết định xin thi. Có một trở ngại là Bằng Tiến sỹ của ông lại là Tư Pháp, nhưng vì nội dung đề cập đến kinh tế nông thôn, trong khi đó ông nhắm vào kinh tế để thi Thạc sỹ. Ông phải làm đơn xin đổi sang là Tiến sỹ Kinh Tế, và được chấp thuận. Và như vậy ông dự thi Thạc sỹ 4 tháng sau khi được cấp bằng Tiến sỹ.Tại kỳ thi này ông đươc “admissible”.Rồi trở về Việt nam dạy tại trường Luật Hà nội. Đến năm 1952, ông sang Pháp trở lại để dự thi, và đậu Thạc sỹ. 

Vậy câu hỏi là liệu có cơ hội và thì giờ để trở thành “Bạn”?Ông cũng như GS Nguyễn Cao Hách có cho tôi biết rằng thủ tục thi Thạc sỹ gồm có 2 phần: Phần thi viết 1 ngày.Xong rồi chờ kết quả. Biết đã đậu, thì đến lấy đề tài vấn đáp.Phần II, chỉ một ngày ở nhà để sửa soạn cho ngày hôm sau vào vấn đáp. Vấn đáp có 2 phần.Phần I thí sinh trình bày đề tài 1 giờ, đến phút thứ 60, Chủ khảo gõ búa, vào lúc dó thì Thí sính phải chấm  dứt nói. Sau đó đến phần câu hỏi của giám khảo và trả lời.

Ai bị rớt ở giai đoạn này, được phong cho chức “Hàm Thạc sỹ”(aggregatif). Ở trường Luật Sài gòn, có 2 Giáo sư ở trong tình trạng này. Đó là GS Vũ quốc Thông (Công Pháp) và GS Trần thiện Vọng (Kinh Tế).

Vậy GS Thúc ở Pháp rất ngắn, và chỉ gặp ông Barre vào lúc thi cử, và vào lúc thi cử như vậy, thí sinh bị “áp lực” rất nhiều.Tôi nghĩ rắng 2 người chỉ gặp nhau để “Bonjour”, “Bonsoir” mà thôi, và biết nhau như vậy.Tôi kết luận rằng Ông Barre và Giào sư Thúc không hẳn là Bạn như mọi người quan niệm.Và họ chỉ là người quen biết nhau.

B. MỘT SỐ ĐỨC TÍNH KHÁC:

1.Một người Liêm khiết:

GS Trần như Tráng thường trực trợ giúp tôi trong các kỳ thi. Ông nói với tôi rằng vào Kỳ thi này (Khoá I, niên học 1973-1974), có các Bà Thúc và Bà Hách thi tốt nghiệp. Tôi trả lời “Thế hả. Ông in lặng về vấn đề này. Các bà ấy cũng được đối xử như các sinh viên khác. Các bà ấy học giỏi thì đậu. Nếu không, phải học lại.”

Giáo sư Thúc và Giáo sư Hách hoàn toàn không ai can thiệp. 

2. Có Đức Khiêm Cung:  

Tôi nói tới thái độ và cách cư xử của GS Thúc. Khi còn ở trường Luật ở Sài gòn, GS Thúc  là người tỏ ra rất hòa nhã, thânthiện với đồng nghiệp; với sinh viên, ông không có gì biểu lộ “hống hách” hay “quan liêu”, hay “ xa cách” dù đã gia nhập ”giới quan trường” như đã làm Tri Huyện dưới thời Pháp lúc còn trẻ, (từ khoảng cuối  1944 thì phải), rồi Bộ Trưởng sau khi vào Nam năm 1954…

Từ khi ông sang Pháp định cư, tôi có cơ hội tiếp xúc, trao đổi quan điểm với GS Thúc nhiều hơn. Cách cư xử của ông đối với tôi thật là đặc biệt. Tôi đi Âu châu có hơn chục lần, và Paris là điểm đến và về. Hầu hết các các lần tới Paris, kể cả các lần đến nói chuyện cho cộng đồng, ông đều dành thỉ giờ gặp tôi, không để tôi tới thăm cho phải phép.

Câu chuyện sau đây là một thí dụ: Năm 2015, khi tôi sang Paris, GS Thúc mời tôi và 2 người em ăn cơm ở một Nhà Hàng Tàu, Quận 13.

Tôi đến trước và ngay sau đó Ông tới. Tôi thấy nước da mặt của ông có vẻ hồng hào, tôi nói 

đùa: trông Giáo sư trẻ, mặt hồng hào, lại đẹp trai. Ông nói với tôi rằng : “Anh sang đây, tôi phải đến gặp. Từ nhà tôi đến đây, tôi nghỉ tất cả 3 lần.Tôi đi một lúc, thấy mệt, tôi ngồi nghỉ 10 hay 15 phút, rồi đi tiếp.Tôi hỏi tại sao như vậy. Ông trả lời: “có 2 mạch máu đưa máu từ tim lên óc, thì một cái bị block 95%, cái bên kia: 65%.” Tôi có gợi ý về surgery, Ông trả lời rằng “tôi già rồi.” 

Tôi biết khi đi gặp tôi, ông phải nhờ một người nào đó đến trông nom Bà Giáo sư, dù tôi xin được miễn gặp.

3. Một người có lập trường kiên định (và  thêm bằng cớ về đức khiêm cung hiếm có, thí dụ như viết ‘Bản sao để kính tường’):

Một nhân sĩ tại Hoa Kỳ viết thư yêu cầu GS Thúc nhận xét về một dự án với ý nghĩ mời hợp tác với Chính quyền VC. Ông lịch sự từ chối. Ông chụp Thư trả lời và thông báo cho tôi biết như Bản sao dưới đây, dù gửi riêng cho tôi với dòng chữ viết tay thêm vào:

Bản sao kính gủi

gs Nguyễn văn Canh“để kính tường” (viết tay ở góc trái, phía dưới).

Hai thí dụ này là biểu hiệu cái cung cách mà ông đối xử với tôi. Tôi cũng thấy ông đối xử với người khác rất khiêm tốn.

Cước chú: Có vài điểm tôi cần thêm vào vấn đề này: a) Về Dự án này, trước khi nhận được thư của GS Thúc, tôi đã được GS Mai văn Lễ cho biết và ông đã có thái độ rõ rệt; b) Về cách GS Thúc cư xử với tôi như trên, thực ra tôi không tả nổi. Như tôi đã nói ngay ở đầu rằng Tôi là môt cựu sinh viên của ông và là đồng nghiệp như là một em út trong hệ thống hành chánh trước đây, đúng ra ông không cần thiết sử dụng cách thông báo như thế. Tôi không biếtdùng chữ gì đển diễn tả, nên dùng chữ “đức khiêm cung”.

4. Một nhà ái quốc nhiệt thành, hoạt động không ngưng nghỉ:

a). Một lần có lẽ là 1984. Khi tới Paris, GS Thúc bảo tôi sắp xếp thì giờ dành cho ông một buổi gặp. Ông đưa tôi tới một tiệm ăn khá sang trọng để ăn trưa. Ông rút trong cặp ra một hồ sơ dày, viết bằng tiếng Pháp và tôi nhìn trang cuối là 147. Ông trình bày vấn đề, trong khi tôi liếc mắt qua các đề mục của các Chương, các Đoạn.Tôi để ý các trang cuối, có vấn đề pháp lý ở đây…… Đến đó ông đưa cho tôi coi 2 thư gủi cho Ông: 1 của Giám Đốc một Nha thuộc Bộ Ngoại Giao Pháp, còn thư kia là của một nữ thư ký thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Kế đó, ông yêu cầu tôi đặt vấn đề với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, giúp giải quyết hồ sơ này.

Tôi nhận xét rằng đây là hồ sơ pháp lý. Tôi có nêu ra một số điểm không ổn khi đi thuyết phục người ta.Tuy nhiên, đó không phải là chính. Và tôi nhấn mạnh là mình không thể đạt đươc muc tiêu với hồ sơ này. Điều tôi có thể làm được là Giáo sư viết cho tôi một thư riêng, nhưng professional về hình thức, tiếng Pháp hay Anh cũng được. Trong thư Giáo sư nói rõ rằng giao trách nhiệm cho tôi đi yêu cầu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có hành động. Giáo sưchính thức gửi đến cho tôi ở Viện Nghiên Cứu Hoover Về Chiến Tranh Cách Mạng và Hoà Bình, Đại Học Stanford. Như vậy nó là cái cớ để tôi nhờ một đồng nghiệp mang tay sang DC cho ông Schultz, Bộ trưởng Ngoại Giao. 

Còn cái thư mà Giáo sư hiện có là do một thư ký gửi, vì họ lịch sự trả lời rằng Bộ này đã nhận được tài liệu mà thôi.

​Với tài liệu của Giáo sư, tôi không lạc quan vi lý do mà Bộ Ngoại giao sẽ không có hành động tích cực, vì vấn đề này có dính dáng với Quốc Hội mà Quốc Hội hiện bị đám tả chi phốinặng.Thêm vào đó, vụ Nixon trước đây còn tiếng vang. ….. 

Chừng 2 tuần sau,tôi nhận được gói tài liệu. Tôi cũng bóc thư và mở gói tài liệu, rồi mang cả lên lầu 13 của Tháp Hoover  vào văn phòng Phó Giám ĐốcHoover, Richard Buress (trước đây là Phụ Tá TT Nixon).Tôi nói rằng hồ sơ này là của GS Vũ Quốc Thúc, một ông Thày cũ dạy tôi tại trường Luật, Sài gon, nay ông là Giáo sư ở Paris.GS Thúc ưu tư vấn đề này, và đòi hỏi tôi phải nêu vấn đề ấy với Bộ trưởng Ngoại Giao George Schultz (Học gỉa danh dự của Hoover). Ông bàn với George xem có thể làm gì được không và tôi yêu cầu George hay Phụ tá viết thư trả lời GS Thúc dù thư này gửi cho tôi… Sau đó, Ông Buress mang thư và hồ sơ đi DC, gặp BT Ngoại Giao Schultz bàn về vấn đề này….. Gaston Sigur, Phụ Tá Bộ trưởng Ngoại Giao đặc trách Á Châu được mời đến và giao trách nhiệm nghiên cứu vấn đề. 

Cuối cùng, ông Sigur viết thư trả lời GS Thúc và có cc cho Ông Buress và tôi. GS Thúc có kể lại vấn đề này trong Hồi Ký.

b) Một dịp khác khi tôi đến Paris, tôi báo cho ông biết. Ông dặn tôi rằng dù Anh có  phải đi đâu, nên sắp xếp dành một buổi để gặp cụ Đỗ ( BS Trần Văn Đỗ). Cụ Đỗ mời anh ăn cơm và có chuyện muốn nói.

Đến ngày hẹn, ông bảo tôi đi tới trạm Métro ..(nếu tôi nhớ không lầm là Étoile). Tôi đi ra khỏi Metro, thì ông đã chờ sẵn, rồi dẫn tôi vào nhà Cụ Đỗ, ở Q. 16… Cụ cho rằng vấn đề Việt nam nay tuỳ thuộc vào Hoa Kỳ, chứ Âu Châu thì nên bỏ đi….. Cụ nói rằng Giáo sư (nghĩa là tôi) là người trẻ, có đủ yếu tố để đảm đương một số công việc…  và ở bên này  chúng tôi có chừng 4 hay 5 chục anh em sẽ “tiếp tay” với Giáo sư… Tôi  cảm ơn Cụ đã chỉ dạy, nhưng không gánh vác nổi… Đến đó GS Thúc đứng lên, nói rằng Cụ thấy anh có khả năng, lại ở vào vị trí thuận lợi và nhờ tôi mời anh đến đây, và anh nên nhận lời. Thấy GS Thúc đứng lên, tôi cũng đứng lên cho phải phép và thưa lại rằng: Thưa Cụ, GS Thúc trước đây là Thày dạy tôi tại trường Luật và thưa Giáo sư {Thúc], tôi hằng theo đuổi một nguyên tắc là Ông Thày bảo gì, thì học trò phải lắng nghe và cố gắng làm.Về vấn đề này, tôi xin thưa, tôi không làm nổi. Cụ giao cho tôi công tác cùng một số nhân lực đông đảo là một vinh dự lớn. Nhưng nếu để phô trương, thì tôi không dám….., vì không phải đạo.Trước đây, GS Thúc đã yêu cầu tôi làm một công tác khá quan trọng mà Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ bề ngoài có thẩm quyền. Trước khi làm,tôi có nói cho GS Thúc biết chỉ đạt được mục tiêu giới hạn mà thôi.

Và điều đó đã xảy ra như vậy.

5. Một người có giầu thiện chí

Tôi thực sự điều khiển và kiểm sóat hai kỳ thi của niên học 1973-1974 (1).

Việc cổ võ sự tôn trọng “Kỷ Luật” của GS Thúc  giúp tôi giải quyết khó khăn của trường . Một trong lý do là Giáo sư dạy năm I Ban Cử Nhân là các giáo sư hàng đầu của trường không chấm bài kịp vì số thí sinh đông quá.  Các vị ấy đã từng làm “Quan” như Tri Huyện, Tri Phủ thời Pháp, rồi về sau làm Bộ trưởng (thời Bảo Đại, rồi Ngô đình Diệm). Tôi không ở vị thế có thể thúc đẩy các vị ấy

Hàng đầu.Từ phải sang trái: GS Vũ Quốc Thúc, GS Nguyễn Cao Hách; Hài thứ 2: GS Nguyễn Huy Chiểu, GS Lưu Văn Bình, Chánh án Hà Như Vinh, GS NguyễVăn Canh, Hàng 3: góc cuối GS Vũ Quốc Thuỳ.…. 

Các Giáo sư tham dự Lễ  Phát Văn Bằng

Nhờ sự cổ võ và áp dụng Kỷ Luật của GS Thúc  và  cả GS Háchtrong hàng ngũ Giáo sư “hàng đầu” của Trường, tôi có thể giải quyết được khó khăn này. Như dự trù trong kế hoạch, vào tháng 10, kỳ thi II đã hoàn tất đúng hạn kỳ và sang  tháng 11,1974 trường tổ chức lễ phát văn bằng. Tân khoa lần lượt được xướng danh, tiến vào lễ đài, GS Vũ Quốc Thông, Khoa trưởng đích thân phát Bằng tốt nghiệp cho từng sinh viên, trong số hơn 1400 tân khoa ( khoá I:840; khoá II: hơn 600) sau 4 năm theo học, trước sự hiện diện của đa số Giáo sư.

Tôi nhắc lại rằng Sĩ số ghi danh năm 1970 là 10,000**. Đây là buổi lễ Phát Bằng long trọng đầu tiên từ khi trường được độc lập,khỏi tay người Pháp từ năm 1956. Và cũng là lần cuối cùng.

** Nhân dịp đề cập tới khó khăn này, tôi nói thêm rằng  Trường Luật Sài gòn  lúc đó rất “giầu” vè sĩ số , nhưng vô cùng “nghèo nàn” về phương tiện:

a.. Niên học 1973-1974 , số thí sinh ghi danh là 25,000 khoá I. Số hiện diện là: 15,000 cho cả 4 năm . Đa số lả sinh viên năm I. Việc chấm bài cho sinh viên năm Ilà khó khăn lớn. và các “ Anh Già” (như GS Hồ thới Sang gọi) là những người dậy, và chấm bài của các thí sinh này. Có thể là mỗi Giáo sư phải chấm tới 5,000 bài trong một vòng một thời gian ngắn. b). Niên học 1974-1975, số ghi danh là 58,000.

b. Chỉ có 36 giáo sư cơ hữu, dưới 20 nhân viên hành chính kể cả (1) lao công, (1) tuỳ phái, (1) tài xế; phòng ốc, lớp học ít ỏi và chật hẹp, ngân sách giới hạn.

VÀI TẤM HÌNH:

a). GS Thúc thăm Bắc California năm 1990.

Nhân dịp này, tôi dẫn GS Thúc thăm Đại học Berkeley và Giáo sư Scalapino,Giám đốc Viện Nghiên Cứu Đông Á đi xa chưa về.Trước khi sang,tôi dặn ông Douglas Pike, Giám đốc Indochina Archives mời GS Thúc đi ăn cơm ở tiệm Việt nam.Ông này đưa chúng tôi đến tiệm có tên là Le Cheval, ở Oakland. Anh Ngô ngọc Trung, CEO của Dự án Oral Life History có phỏng  vấn ông và tài  liệu được lưu trữ ở Indochina Archives, Viện Nghiên Cứu Đông Á. 

Tôi dẫn Giáo sư thăm anh chị em Luật gia, họp ở nhà LS Thống năm 1990.ở San Jose, Cali

Tại cửa nhà LS Nguyễn Hữu Thống

Từ trái sang phải: Hàng đầu: Đại sứ Nguyễn Quí Anh, LS Hoàng Cơ Long, GS Nguyễn Văn Canh, LS Đỗ Doãn Quế, LS Nguyễn Hữu Thớng, LS Nam Thị Hồng Vân, LS Trương Thị Hồng Trinh, ,?.

Hàng sau: LS Trần Thiện Hải, GS Vũ Quốc Thúc…?….

b). 2017, tôi nhờ một cựu Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh, anh Nguyễn đình Vương ở Paris mang tay đến nhà để biếu Giáo sư cuốn Hồ Sơ Hoàng Sa & Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc (tái bản).

Hình của Nguyễđình Vương,2017 GS Vũ quốc Thúc cầm cuốn sách.

Năm 2018, tôi gửi biếu bản tiếng Anh qua Bưu điện, không được trả lời. Email của tôi gửi đi, bị trả về. Trước đó, Anh Vương vẫn đến theo dõi sức khoẻ của Giáo sư và báo cho tôi biết. Về sau anh này, từ cuối 2017 cũng bị bệnh khá nặng, tôi gọi không được và email cũng không trả lời. Có lần, anh Vương gọi sang cho tôi biết rằng anh vào nhà thương, Bác sĩ giữ lai 2 tuần lễ trong phòng riêng, làm nhiều tests, vì thế không đọc email

(1) Trong một phiên họp Hội Đồng Khoa vào đầu năm  1972 tôi bị gọi tên để giao phó trách nhiệm “chấn chỉnh” lại (theo tinh thần của GS Hồ Thới Sang nói với tôi sau vụ GS Hách nêu ra với tôi)  sinh hoạt  của trường luật vì vào lúc này trường luật đã có nhiều vấn đề lắm. Và tình thế đã nghiêm trọng (nhận xét của GS Nguyễn cao Hách trước đó và muốn tôi phải nhận trách nhiệm cải tổ trường Luật), Tôi từ chối viện dẫn một trong nhiều khó khăn là trước đó có một niên học và  kỳ thi khoá I được tổ chức vào tháng 6, và chỉ kết thúc vào tháng 1 năm sau, Nếu các giáo sư chấm và không  trả bài, thì làm sao văn phòng có điểm để cộng, rồi công bố kết quả đúng hẹn được. Niên học vừa qua (1970-1971), văn phòng học vụ cho tôi biết có 10,000 sinh viên ghi danh năm thứ I. Như thế, tôi không làm nổi. (Tôi ám chỉ rằng giáo sư dạy năm I là giáo sư hàng đầu của trường, phải chấm tới 5000 bài trong khoảng thời gian rất ngắn) 

​Khi tôi nói tới đây, Giáo sư Thúc giơ tay ngay và tuyên bố: “Anh GS Canh nói thế là đúng. Đây là vấn đề KỶ LUẬT phải được đặt ra. Vậy tôi đề nghị rằng anh Giáo Sư (Canh )  phác hoạ một kế hoạch chi tiết trong một bản thời khoá biểu rõ cho mọi người, Ngày giờ nào phải nộp bài v.v , mọi người phải tuân theo”. Rồi mọi người nói ồn ào,rồi biểu quyết, giao cho tôi trách nhiệm thi hành,..  

Tôi biết rằng hai Giáo sư Thúc và Hách rất tích cực việc áp dụng kỷ luật trong hàng ngũ Ban Giảng Huấn về vân đề này.

xxx

 Tôi thấy tính khiêm cung không những có ở Con Người Giáo sư Thúc theo các kinh nghiệm của tôi kể trên và cả ở Giáo sư Vũ Quốc Thông. Ở đây, tôi còn thêm lòng nhân ái, bao dung của Giáo sư Thông để tạo một hình ảnh đạo đức truyền thống trong gia đình của 2 Giáo sư. 

Hai thí dụ sau đây là bằng chứng:

1.Một buổi sáng, GS Thông mở cửa văn phòng ông sang phòng của tôi (hai văn phòng sát nhau, có cửa ăn thông sang phía bên kia). Ông cầm một tờ giấy, có một người đàn ông đi theo. Tôi đứng dậy.

GS Vũ quốc Thông

Ông giới thiệu [tên người khách] và nói ông nàythời trước làm việc với tôi ở Phủ Lý (thì phải), có lẽ lúc đó ông là Tri Phủ. Ông này có đứa cháu thi ở đây, đến xin giúp vì cháu đã rớt và có thư giới thiệu.Ông Khoa trưởng nói rằng: “GS Canh là Phụ tá Khoa trưởng, lo vụ thi cử ở đây. Mọi quyết định là do GS Canh “ và đưa thư khiếu nại cho tôi. Tôi nói với GS Thông rằng: “Vâng thưa ông Khoa trưởng, để tôi nhờ một Phụ Khảo lấy bài vở của thí sinh ra coi xem như thế nào. Ông Khoa trưởng yên tâm”. Ông Khoa trưởng về phòng. Như thường lệ, tôi đã chặn trước với ông khách rằng các giáo sư chấm bài là người quyết định.

Tôi coi thư và thấy có in tên Bộ, và bên dưới có đóng dấu màu đỏ với chức vụ khá lớn. Nội dung thư nói là có đứa cháu (con gái),……. gọi người gửi thư bằng cậu, và mẹ cháu hiện đang làm công chức tại Tổng Nha Ngân Khố, xin cho cháu  được đậu. Chiếu theo đơn, tôi nhờ một phụ khảo mang cho tôi Biên Bản và các bài mà các giám khảo đã cho điểm. Tôi kiểm soát lại từng bài, từng điểm,rồi loan báo rằng không có gì sai. Sinh viên này rớt….

Không ai có thể làm gì được trong tình trạng này……..

Có 2 điều tôi muốn nêu ra về cung cách hành xử của GS Thông

a). Với ông khách,ông này là một  cựu thuộc cấp- một “thừa phái” và ông đích thân dẫn sang phòng tôi giới thiệu  một  cách trang trọng.

b). Với tôi, một cựu môn sinh, và là một thuộc cấp, dù Hội Đồng Khoa mà ông đứng đầu trao quyền quyết định rộng rãi cho tôi, ông nói rõ với ông khách rằng “GS Canh là quyết định”, chứ không phải ông.

Về cách hành động, Ông có thể ra lệnh cho tôi báo cáo tìnhtrạng của sinh viên này, rồi ông quyết định. Ông đã không làm như vậy.  

Nhưng trong trường hợp này, tôi muốn thêm một chi tiết, dù đi ra ngoài chủ đề: Tôi nói với ông khách rằng tôi có một ưu tư về bức thư. Đó là người gủi thư này, nay giữ chức vụ lớn và tôi biết anh ta tốt nghiệp khoá 4 QGHC, thời  GS Vũ quốc Thông làm Viện trưởng. Ưu tư của tôi gồm 2 điểm: 1) Cựu sinh viên viết thư cho Thày yêu cầu cho đứa cháu được đỗ sau khi thi đã bị rớt. Hành vi như vậy được coi như thế nào? 2) Sẽ hỏi Thủ Tướng Khiêm về hành vi của viên chức cao cấp này. Khi nghe đến đây, ông khách xin bỏ qua và xin ra về….

2. Trường hợp một sinh viên có hành vi vô lễ trong Văn Phòng tôi. Kỳ thi Khoá I, đã xong. Bảng điểm (từng môn của mỗi thí sinh) được công bố  dán, trong các “tủ” có khoá với kính hay lưới mắt cáo che, để sinh viên có thể đọc, bất cứ lúc nào.

Có 4 sinh viên năm I, xin cô thư ký cho vào gặp tôi để khiếunại. Một trong 4 sinh viên này nói rằng tên và điếm của anh ta bị một người nào đó, dùng bút nguyên tử xoá hết, không còn đọc được.Tôi bảo cô thư ký mời một phụ khảo gặp tôi để mang biên bản của nhóm trong đó có tên anh này. Xem xong, tôi bảo cháu đậu rồi.Ngay sau đó, Cậu này có hành vi “rất vô lễ”.Tôi áp dụngbiện pháp mạnh, rồi tuyên bố “Con nhà mất dạy. Tôi sẽ đuổi khỏi trường Luật và báo cho Bộ Quốc Phòng biết để quân đội dạy dỗ trở thành người lương thiện,lễ phép”. Rồi tôi đuổi cả nhóm đi ra ngoài ngay… 

Chừng một tuần lễ sau, ông Khoa trưởng sang phòng tôi, cho biết “có phải anh quyết định đuổi sinh viên đó hả. Bố mẹ nó đến gặp tôi, xin tha cho nó, tội nghiệp nó”. Lúc này tôi mới kể sơ qua những gì xảy ra. Ông Khoa trưởng tiếp:”thôi anh tha cho nó, nếu nó phải đi quân đội, tội nghiệp cho nó.” Tôi thưa rằng Ông Khoa trưởng có ý định như vậy, tôi phải theo và xin rằng ông cho TổngThư Ký gọi Bố Mẹ và cả nó đến bảo phải dạy nó. Nếu không, sau này nó làm luật sư, thẩm phán, thì hoạ cho đất nước.

Cái cung cách xử thế như trên  của GS Thông, tôi thấy cũng giống như cách hành xử của GS Thúc: rộng lượng nhân ái, khiêm cung… Thật là một gia đình đáng kính.

3.Nhân tiện tôi đi ra ngoài chủ đề để nói thêm về trường luật:Giải quyết vấn đề tham nhũng, ngoài các biện pháp trên.

Các giáo sư trường luật rất nghiêm chỉnh qua 2 kỳ thi năm 1974 mà tôi kiểm soát. Cách thức tổ chức, cộng điểm, công bố mau lẹ, giữ bài đã chấm rất cẩn thận, không ai làm gì được. Tuyệt đối các giáo sư” lớn” không lui tới trường trong thời gian này, trừ vài vị như GS Nguyễn huy Chiểu, Trần văn Liêm đến cộng điểm giúp. Trước đó, có tai tiếng, nhưng việc đó xảy ra từ phía nhân viên hành chánh. Việc này nay đã bị ngăn chặn. Vấn đề xem điểm cũngđược giải quyết bằng cách công bố toàn thể các điểm của mỗi thí sinh. Nhân viên hành chánh không phải bỏ thì giờ chép điểm cho sinh viên nhất là họ chen nhau xin xem điểm từng môn và mất tiền chè nước.

Để giúp cho toàn thể nhân viên được phụ cấp thêm mỗi tháng vì lương bổng theo qui chế công chức thì rất hạn hẹp. Số nhân viên ít, họ phải làm việc nhiều hơn. GS Tráng và Tôi thường ở trường tới 10 giờ tối mới về. Khi xuống hành lang tầng trệt , thấy có khi họ còn thắp đèn làm việc. Tôi đề nghi GS Thông cho thu lệ phí thi cử. ngoài lệ phí ít ỏi để ghi danh, có từ thời Pháp thuộc. GS Thông chấp thuận và tôi đưa ra vấn đề ra Hội Đồng Khoa. Có vài vị chống và tôi kêu gọi các vị bất cứ lúc nào đến trường trước 10 giờđêm để coi.Tôi nhấn mạnh rằng có nhiều Giáo sư làm Luật sư hay cố vấn công ty hay ngân hàng. It nhất có 2 người làm Tổng Thư Ký hay chức vụ tương đương trong cơ quan chính quyền.Các Giáo sư chỉ phải dạy 2 cours toàn niên, tổng số giờ từ 120 tới 160 giờ và ngoài ra không lui tới trường…

Cuối cùng, mọi người thuận. Đây là tiền thuộc loại ngoại ngân sách.Ông Khoa trưởng có quyền xử dụng, nhất là trợ cấp hàng tháng cho toàn thể nhân viên hành chánh./.

                                     Ngày 16 tháng 12, 2021

GS NGUYỄN VĂN CANH

Sự ra đời chiến lược ‘Việt Nam hóa chiến tranh’

Nguồn: Stephen B. Young, “The birth of ‘Vietnamization’,” The New York Times, April 28, 2017.

Biên dịch: Phạm Hồng Anh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Ngày 14 tháng 10 năm 1966, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, người chịu trách nhiệm chính cho cuộc chiến chống cộng sản tại Nam Việt Nam, đã thừa nhận thất bại của mình. Chỉ hơn một năm trước khi ông chính thức từ chức Bộ trưởng, ông đã gửi một báo cáo dài đến Tổng thống Lyndon Johnson, khéo léo thừa nhận rằng ông và Lầu Năm Góc không có chiến lược nào để kết thúc chiến tranh theo hướng có lợi cho Nam Việt Nam.

Johnson nhanh chóng tìm kiếm một cách tiếp cận mới từ những người khác. Một tháng sau báo cáo của McNamara, Tổng thống yêu cầu hai người – Walt Rostow, cố vấn an ninh quốc gia, và Robert Komer, thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia – phải đem lại một giải pháp hiệu quả hơn các chiến thuật chiến tranh tiêu hao và ném bom của McNamara.

Ngày 13 tháng 12 năm 1966, họ đề xuất “bổ trợ chiến dịch tấn công quân chủ lực phía địch và ném bom tấn công bằng các nỗ lực tăng cường nhằm bình định hóa vùng nông thôn và tăng cường sức lôi cuốn” của chính quyền Nam Việt. Thuật ngữ “Việt Nam hóa chiến tranh” đã ra đời một thời gian dài trước khi trở nên phổ biến.

Để triển khai kế hoạch này, Johnson đã chọn ba người: Ellsworth Bunker làm đại sứ Mỹ tại Sài Gòn; Komer chỉ huy một tổ chức chống nổi dậy mới; và Tướng Creighton Abrams tăng cường năng lực quân đội Nam Việt Nam để đánh bại quân chính quy Bắc Việt.

Bunker phải làm việc với lãnh đạo Nam Việt và đảm bảo sự phối hợp của mọi lực lượng – cả dân sự và quân sự, người Mỹ, và các nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam. Komer và Abrams đảm nhiệm vị trí phó cho Tướng William Westmoreland tại trụ sở của ông này ở ngoại ô Sài Gòn.

Nhưng Bunker mới là người mà Johnson đánh giá có vai trò then chốt. Vai trò đó còn hơn cả nhiệm vụ ngoại giao hàng đầu của Mỹ tại Nam Việt Nam. Đó là giúp Mỹ thoát khỏi cuộc chiến. “Tôi đã giúp ông ấy thoát khỏi Cộng hòa Dominica và đạt được mục đích chính trị ở đó,” Bunker nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn. “Ông ấy muốn tôi làm điều tương tự ở Nam Việt Nam.”

Trong một cuộc gặp riêng không có tài liệu ghi lại, Johnson nói với Bunker rằng ông muốn bắt đầu rút quân đội Mỹ khỏi Việt Nam. Nhưng trước khi các lực lượng này có thể rời đi, một quân đội Nam Việt Nam mạnh hơn, hoàn thiện hơn phải chịu trách nhiệm lớn hơn trong các chiến dịch tìm và diệt nhằm giữ chân quân đội Hà Nội trên núi và gần biên giới, tách biệt khỏi dân chúng.

Đồng thời, Johnson muốn người Nam Việt Nam phải tăng tốc quá trình phát triển dân chủ và chịu trách nhiệm hoàn toàn về vận mệnh chính trị của Nam Việt. Nói ngắn gọn, Johnson muốn vai trò của Mỹ tại Việt Nam giảm đi với tốc độ tương ứng với sự tăng cường tự lực của Nam Việt.

Johnson và đội ngũ lãnh đạo mới ở Sài Gòn đã tổ chức một cuộc gặp tại đảo Guam vào ngày 20 tháng 3 năm 1967, với hai người đứng đầu chính quyền Nam Việt Nam, Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Họ trình bày với tổng thống một bản hiến pháp mới cho Nam Việt Nam, trong đó kêu gọi các hệ thống kiểm soát và cân bằng, và phân quyền xuống cho các hội đồng địa phương dân cử tại các tỉnh và làng xã.

Tổng thống Johnson đã coi nhẹ tầm quan trọng của cuộc gặp; ông nhấn mạnh trước công chúng rằng cuộc gặp này không bàn về những khía cạnh quân sự của nỗ lực chiến tranh, mà chỉ nói rằng “Tôi nghĩ chúng ta có một vấn đề khó khăn, nghiêm trọng, kéo dài, dai dẳng, đau đớn mà chúng ta vẫn chưa có lời giải đáp.” Nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng của cuộc gặp ở Guam. Johnson đã dùng nó để thiết lập một hệ tiêu chí mới nhằm đánh giá thành công trong nỗ lực chiến tranh: xây dựng nhà nước, rút khỏi chiến tranh.

Hai ngày trước cuộc gặp tại Guam, Tướng Westmoreland đã yêu cầu tăng viện 85.000 lính nhằm tăng cường các chiến dịch trên chiến trường để “tránh một cuộc chiến kéo dài phi lý.” Tại Guam, Westmoreland bảo vệ yêu cầu tăng viện của mình. Bunker đã theo dõi phản ứng của Johnson trước báo cáo của Westmoreland. Tâm trạng và vẻ mặt của ngài tổng thống thể hiện sự không thoải mái khi nghe bản phân tích đầy lo ngại của Westmoreland, nó gần như khẳng định lại đánh giá trước đây của McNamara rằng chiến lược chiến tranh cường độ cao của Lầu Năm Góc không thể nào dập tắt quyết tâm của Hà Nội.

Quả thật là Johnson đã phản đối tăng viện. Khi Westmoreland đến Washington một tháng sau đó để tiếp tục yêu cầu tăng quân, Tổng thống trả lời: “Khi chúng ta tăng thêm các sư đoàn, chẳng lẽ phía địch không thể tăng thêm các sư đoàn tương ứng? Nếu cứ như vậy thì khi nào tất cả mới kết thúc?” Vài tháng sau, Johnson đáp ứng một phần đòi hỏi của Westmoreland, gửi thêm 45.000 quân chiến đấu, khoảng một nửa số lượng ông này yêu cầu.

Bunker tới Sài Gòn vào cuối tháng 4 năm 1967, nơi ông phải thể hiện rõ rằng cách tiếp cận của Washington đã thay đổi. Sẽ không còn là một cuộc chiến “sức mạnh cứng” được tiến hành chủ yếu bởi các đơn vị chiến đấu của Mỹ ở Nam Việt Nam, được hỗ trợ bởi chiến dịch ném bom miền Bắc của Mỹ, với tất cả mọi thứ đều phụ thuộc vào kết quả của cuộc chiến vũ trang này. Thay vào đó, ngày 28 tháng 4, Bunker nói với Thiệu rằng “bản chất của thành công” nằm ở việc đem lại an ninh cho tất cả các thôn ấp trên khắp vùng nông thôn.

Bunker đặt ra cho mình bốn nhiệm vụ chính: thuyết phục lãnh đạo Nam Việt Nam về nhu cầu xây dựng một chính phủ chính danh đại diện cho các lực lượng chính trị đa dạng trong nước; tiến hành một chương trình bình định hóa nhằm mang lại hòa bình và trật tự cho làng xã nông thôn; chuẩn bị cho quân đội Nam Việt Nam để tiếp quản gánh nặng chiến đấu trực tiếp với các lực lượng Cộng sản; và thúc đẩy sự phát triển kinh tế để cải thiện điều kiện sống và gây dựng ngân sách cho cuộc chiến chống lại Bắc Việt.

Nói cách khác, mục tiêu của Ellsworth là chuyển gánh nặng duy trì Nam Việt Nam tồn tại như một nước cộng hòa độc lập từ Hoa Kỳ sang cho chính Nam Việt Nam.

Được cử làm phó cho Westmoreland và phụ trách việc bình định hóa, Komer ngay lập tức bắt đầu xây dựng một tổ chức mới – tổ chức Phát triển Cách mạng và Hoạt động Dân sự (CORDS) – nơi tập hợp các cố vấn quân sự và dân sự Mỹ để phối hợp với Nam Việt Nam trong việc vận động dân chúng chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, hay Việt Cộng.

Tại thời điểm đó, mọi thứ có vẻ đang đi đúng hướng. Nam Việt Nam thông qua bản hiến pháp mới, các cuộc bầu cử mang lại một Quốc hội lưỡng viện, và hàng nghìn người đứng đầu các thôn ấp được người dân lựa chọn. Và một chiến dịch tranh cử tổng thống tương đối minh bạch kết thúc với kết quả là Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống và Nguyễn Cao Kỳ đắc cử phó tổng thống. Nam Việt Nam nay đã có một cơ sở hạ tầng chính trị để hỗ trợ các làng xóm, phát triển kinh tế và cung cấp nhiều nhân lực hơn cho lực lượng vũ trang.

Westmoreland cũng có những điều chỉnh đối với các nỗ lực quân sự theo chiến lược mới. Trong một bài phát biểu trước công chúng tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia ở Washington ngày 21 tháng 11 năm 1967, ông công bố kế hoạch kết thúc cuộc chiến của Mỹ tại Nam Việt Nam. Ông gọi đây là “Giai đoạn IV” hay “giai đoạn cuối cùng,” trong đó lực lượng quân đội Mỹ trở nên “dần dần không còn cần thiết” đối với việc phòng thủ Nam Việt. “Các đơn vị Mỹ có thể bắt đầu giảm dần quân số bởi Quân đội Nam Việt đã được hiện đại hóa và tăng cường năng lực đến mức cao nhất.” Xuất hiện trên chương trình truyền hình “Gặp gỡ báo chí” sau bài phát biểu, Westmoreland dự đoán rằng các lực lượng Mỹ sẽ bắt đầu rút khỏi Nam Việt Nam trong “hai năm nữa hoặc ít hơn.”

Ông ấy đã đúng: các lực lượng Mỹ đã bắt đầu rút quân khỏi chiến trường vào tháng 8 năm 1969 – nhưng đó là sau khi thêm 21.000 lính Mỹ nữa tử trận.

Stephen B. Young là giám đốc điều hành toàn cầu mạng lưới Caux Round Table. Ông làm việc cho Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.

Hình: Đại sứ Ellsworth Bunker trình quốc thư lên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 28/04/1967. Nguồn: NYT.

Xem thêm: Các bài khác trong chuỗi bài Vietnam 1967

Võ Văn Ba: Điệp viên hàng đầu của VNCH và CIA ở Nam Việt Nam

Tác giả: Tina Hà Giang p/v Frank Snepp

Chỉ gần đây mới có tin chính thức về cái chết của Võ Văn Ba, người từng được coi là ‘điệp viên hàng đầu của CIA ở Nam VN’, khi báo chí Hà Nội gọi đây là ‘tên nội gián nguy hiểm’, bí số X92, Frank Snepp đã biết chắc về cái chết sẽ đến của điệp viên này từ ngày 17/4/1975.

“Lúc ấy tôi biết tính mệnh của Võ Văn Ba đang lâm nguy, và có đủ lý do để tin là một nhân viên CIA biết rõ về nhiệm vụ của ông đã bị phe cộng sản bắt tại Phan Rang, và ngờ rằng khi bị tra tấn, người này sẽ khiến ông bị lộ. Một trong những ác mộng kinh hoàng nhất của tôi trong những ngày cuối cuộc chiến – là người anh hùng này, người đã liều lĩnh làm mọi thứ để hỗ trợ đồng minh – và đảm bảo sự thành công của đợt không vận khẩn cấp cuối cùng đưa nhiều người Việt di tản khỏi VN – có thể đã không sống sót.

Thiếu tá Cảnh sát VNCH Phan Tấn Ngưu, trong một bài viết về Võ Văn Ba trên trang CanhsatQuocgia.org đã gọi ông là “điệp viên giỏi nhất của VNCH, và nhớ lại ông Võ Văn Ba hay nói ‘Nếu cộng sản chiếm được miền Nam, tôi sẽ tự tử!’ và đó chính là điều ông đã làm, khi bị bắt giữ chỉ vài ngày sau khi Sài Gòn thất thủ.”

“Giờ đây tôi nhiều lần tự trách là đã không khăng khăng bắt Võ Văn Ba phải cùng mình rời khỏi Việt Nam,” nhà phân tích chính của CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) trong cuộc chiến Việt Nam thổ lộ điều vẫn còn khiến ông bị dằn vặt.

Cùng là gián điệp hai mang, nhưng không như Phạm Xuân Ẩn, cái tên Võ Văn Ba chỉ trong mấy năm nay mới được nhắc đến.

Truyền thông Việt Nam sau 1975 nói ông “chui sâu, leo cao vào nội bộ ta” trong suốt 10 năm và “gây tổn thất đáng kể cho cách mạng” (báo Nhân Dân hồi 2015, và báo Công an Nhân dân về điệp viên X92).

Võ Văn Ba là ai? Ông đã làm gì trong cuộc chiến Việt Nam mà được mệnh danh là điệp viên hàng đầu của CIA, giỏi nhất của VNCH ở Nam Việt Nam?

Trong cuộc phỏng vấn chúng tôi thực hiện cho BBC, Frank Snepp, người từng nhận lệnh của CIA đưa ông Nguyễn Văn Thiệu ra sân bay để rời VN tháng 4/1975, nói điệp viên Võ Văn Ba là một trong những lý do ông đang viết thêm một cuốn sách nữa về cuộc chiến cho đến giờ vẫn còn ám ảnh tâm trí ông.

Frank Snepp: Võ Văn Ba là một người yêu nước, được CIA đặt cho biệt hiệu ‘TU Hackle’ và là điệp viên giỏi nhất của CIA hoạt động trong lòng địch.

Ông từng là một đảng viên cộng sản tận tụy vào cuối thập niên 1940, chuyên tuyển mộ thành viên trẻ tại một tỉnh phía nam Sài Gòn. Ông làm việc với Việt Minh, rồi trở thành một kẻ khủng bố, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng khủng bố không phải là cách thu phục trái tim con người. Chán ngán việc phe cộng sản dùng giết chóc và đe dọa như một chiến thuật chiêu mộ, Võ Văn Ba rời bỏ hàng ngũ.

Tạm biệt chủ nghĩa cộng sản năm 1954 vào thời điểm Hiệp định Geneva, Võ Văn Ba trở thành người đốn cây trồng rẫy, và dọn về tỉnh Tây Ninh, phía tây bắc Sài Gòn. Tây Ninh là một tỉnh quan trọng, vì đó là địa bàn hoạt động của Trung ương Cục Miền Nam, từ một hang ở Núi Bà Đen.

Khi cán bộ Bắc Việt đi qua rẫy của Võ Văn Ba ở chân đồi, ngay bên dưới căn cứ chỉ huy Trung Ương Cục để tham dự các cuộc họp, ông dần dà quen biết họ. Cảnh sát VNCH trong khu vực này, biết lý lịch của Võ Văn Ba, nhận ra ông ở một vị trí lý tưởng. Họ tìm đến ông và nói: chúng tôi muốn ông giúp chúng tôi theo dõi cộng sản, và Võ Văn Ba trở thành gián điệp nhị trùng năm 1960.

Thoạt đầu Võ Văn Ba hợp tác với cảnh sát VNCH. Ông nhanh chóng là một điệp viên hiệu quả, làm việc với cấp chỉ huy cộng sản. Võ Văn Ba đóng vai người cộng sản lầm đường muốn trở lại Đảng, và mới đầu chỉ được tiếp cận với vòng ngoài của Trung ương Cục Miền Nam, nhưng sau đó đi hẳn vào trung tâm của Cục. Nhờ vậy, ông thu thập được mọi động tĩnh từ cơ quan này, biết hết các điệp viên hai mang của họ, và những điều họ đang làm.

Năm 1965, CIA bắt đầu đưa Võ Văn Ba vào quỹ đạo của mình sau khi nhận thấy ông là một nguồn tin có giá trị. Ông từ đó làm việc cho cả An ninh Cảnh sát VNCH lẫn CIA.

Năm 1968, Võ Văn Ba báo trước cho cảnh sát VNCH năm ngày về cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Thông tin tương tự đến được Đại sứ quán Hoa Kỳ, người Mỹ không đánh giá cao tin này lắm, nhưng cảnh sát VNCH thì có. Và đó là lý do tại sao khi lực lượng cộng sản tấn công Sài Gòn vào Tết Mậu Thân 1968, cảnh sát VNCH đã chuẩn bị trước và có mặt để đối phó.

BBC: Ông có thể kể lại kinh nghiệm làm việc với Võ Văn Ba?

Frank Snepp: Năm 1969, tôi đến VN làm chuyên viên phân tích cho CIA. Một trong những điều đầu tiên tôi phải làm là phân tích tài liệu chúng tôi vừa tịch thu được, một tài liệu của Cộng sản quan trọng nhất mà chúng tôi từng có.

Tài liệu đó là Nghị quyết 9, phân tích của Bắc Việt về những gì xảy ra năm 1968, cũng như hoạt động quân sự sau đó. Bắc Việt nhận định rằng quá nhiều quân sĩ của họ đã tử trận, nhiều đến mức họ dự trù phải thúc thủ trong vòng hai năm. Nói cách khác, họ không thể có cuộc tấn công lớn nào nữa. Khi CIA tịch thu được toàn bộ tài liệu này, tôi được giao nhiệm vụ cùng với ba hoặc bốn đồng nghiệp, cũng thuộc CIA, phải tìm hiểu xem tài liệu có xác thực hay không.

Chúng tôi nghĩ tài liệu đó thật, nhưng không chắc 100%. Làm thế nào để xác định được là tài liệu đó có giúp chúng tôi biết ý định sự thật của phía cộng sản không rất quan trọng, vì chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, chính sách mới của Nixon về việc rút lực lượng Mỹ và đưa lực lượng Việt Nam lên tuyến đầu, chỉ mới bắt đầu. Nếu tài liệu này đúng, có nghĩa là trong thời gian hai năm, khi Cộng sản không thể hoạt động mạnh trên chiến trường, chúng tôi sẽ rảnh tay thực hiện chính sách Việt Nam hóa.

Chúng tôi gặp Võ Văn Ba và được Võ Văn Ba xác nhận đó là tài liệu đúng. Đó là một đột phá tình báo lớn. Tôi biết Võ Văn Ba trong hoàn cảnh đó. Trong vòng hai năm, tôi bắt đầu gặp trực tiếp ông ta, không phải vì tôi giỏi, không phải vì tôi nói được tiếng Việt, tôi luôn phải có thông dịch viên khi làm việc với Võ Văn Ba, nhưng vì tôi đã nắm sẵn được nhiều bí mật. Là một nhà phân tích của CIA, tôi được truy cập vào những bí mật quan trọng và bạn phải biết bí mật thì mới có thêm được bí mật. Vì vậy CIA cử tôi đến nói chuyện với nhiều nguồn tin, trong đó có Võ Văn Ba, để lấy tin và xác minh xem những gì chúng tôi nhận được có chính xác không.

Tôi bị Võ Văn Ba mê hoặc. Ông có trí nhớ phi thường, có thể xem một tài liệu và nhớ nguyên văn mọi thứ cần nhớ về tài liệu đó. Không cần phải cầm tài liệu trong tay, chỉ cần đọc nó một lần, ông sẽ có thể mang tài liệu đó đến cho chúng tôi trong đầu của ông.

CIA huấn luyện cho ông tất cả những kỹ thuật căn bản trong nghề tình báo.

Phải nói rõ là Võ Văn Ba có người phụ trách trực tiếp tức ‘handler’ là Cảnh sát Đặc biệt của VNCH. Ông cũng có một ”handler” khác là một nhân viên CIA người Mỹ ở Tây Ninh. Nhưng người Mỹ này không thể trực tiếp gặp ông, bởi nếu Cộng sản nhìn thấy ông với một người da trắng, họ sẽ nghi ngờ.

Vì vậy, để gặp ‘handler’ người Mỹ, Võ Văn Ba phải vào một bệnh viện ở Tây Ninh, trèo lên một băng ca, kéo tấm trải giường lên người, giả như người đã chết. Sau đó, các nhân viên phụ trách người Việt của ông sẽ chuyển băng ca ra ngoài, đưa lên máy bay. Máy bay sẽ đưa Võ Văn Ba vào Sài Gòn nơi ông cải trang để gặp tôi hoặc một người Mỹ khác. Ông sẽ mặc áo dài nam hay đội bộ tóc giả lớn khiến ông trông giống một phụ nữ và đeo cặp kính đen khổng lồ giống như Greta Garbo, rồi đến gặp chúng tôi tại một nơi an toàn.

BBC:Ngoài trí nhớ phi thường như ông nói, Võ Văn Ba là người như thế nào và có đặc điểm gì, thưa ông?

Frank Snepp: Võ Văn Ba có hai nhược điểm. Một là rất thích bia Budweiser. Ông được bảo là người Mỹ thả bia Budweiser dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để làm chậm tiến độ xâm nhập của Bắc Việt, vì đang di chuyển họ phải dừng lại uống bia (cười). Chẳng biết điều đó có đúng không, tôi cho rằng đó là sự thật, dù không bao giờ kiểm chứng được. Dẫu sao Võ Văn Ba rất mê Budweiser.

Nhược điểm thứ hai là rất thích thuốc Salem. Nghe nói ông Hồ Chí Minh cũng mê thuốc lá Salem, và thường bỏ thuốc Bastos hoặc thuốc lá Việt Nam trong túi áo, và mời những thứ này cho các đồng chí. Nhưng khi muốn hưởng chút lạc thú, ông sẽ lấy Salem ra hút. Vì vậy, Võ Văn Ba, người thích trò trớ trêu, luôn đòi chúng tôi cung cấp bia Budweiser và thuốc Salem trước khi trao cho chúng tôi những bí mật.

Và những bí mật ông có được thì thật tuyệt vời. Toàn những tin từ nội bộ. Ông được hàng ngũ cộng sản tín nhiệm đến nỗi được tham gia các cuộc họp bên trong Bộ chỉ huy ở Núi Bà Đen.

Võ Văn Ba ở vào vị trí lý tưởng để giúp chúng tôi, và để giúp ông đóng được vai trò một thành viên Cộng sản tốt, CIA và Cảnh sát Đặc biệt VNCH dàn dựng nhiều việc. Chúng tôi tấn công vào các trạm kiểm soát của cảnh sát VNCH, tất cả đều là giả, và sau đó loan tin là phe cộng sản đã làm điều đó, dĩ nhiên Võ Văn Ba kiếm được điểm, vì vậy, tín nhiệm của ông ngày càng tăng trong giới chỉ huy Bắc Việt. Họ cho rằng ông đã thi hành tất cả những điệp vụ kinh tởm cho họ, trong khi thực sự ông làm việc cho chúng tôi.

BBC: Những tường trình của Võ Văn Ba đã giúp công việc của ông ra sao?

Frank Snepp: Tôi dần dà ủng hộ tuyệt đối những tường trình của Võ Văn Ba. Lúc trở về trụ sở CIA ở Mỹ vào năm 1971, tôi là thành viên của một đơn vị phân tích lớn, chuyên viết bản tường trình hàng ngày (Daily Brief) cho Tổng thống. Tôi quảng bá báo cáo của Võ Văn Ba, vì là một trong số ít người trong ban phân tích của CIA đã gặp được ông, và vì tôi biết ông là vàng ròng.

Năm 1972, chúng tôi bắt đầu nhận được báo cáo lạ của Võ Văn Ba. Lạ vì nó cho thấy Cộng sản đang làm một điều mà chúng tôi không bao giờ nghĩ họ sẽ làm. Họ cho cán bộ biết là có thể sẽ có một hiệp định hòa bình mà không cần phải có điều kiện họ luôn coi là tiên quyết, đó là Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Tôi sửng sốt khi đọc điều đó, vì tôi biết Võ Văn Ba là người đáng tin.

Tôi viết ngay bản tường trình hàng ngày cho tổng thống nói rằng tôi nghĩ một hiệp định hòa bình đang trong quá trình được thực hiện. Lúc ấy Henry Kissinger đang bí mật đàm phán ở Paris, nhưng không nói cho ai biết mình đang làm gì. Báo cáo của Võ Văn Ba là dấu hiệu đầu tiên cho chúng tôi thấy đã có bước đột phá trong cuộc đàm phán bí mật ở Paris giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. CIA, dù ít nhất là ở cấp của tôi, không ai biết gì về điều này. Vì vậy, chúng tôi đã được điệp viên giỏi nhất của mình báo về tiến trình các cuộc đàm phán tại Paris.

Sau đó tôi lại được cử về Sài Gòn vào mùa thu năm 1972 để thẩm vấn một tù binh Bắc Việt giỏi nhất mà chúng tôi bắt được. Vào tháng 10/1972, khi tôi đã có mặt ở Sài Gòn, chúng tôi nhận được một báo cáo hết sức sửng sốt của Võ Văn Ba. Báo cáo cho biết Kissinger đã có một thỏa thuận khủng khiếp với phe cộng sản, cho phép Bắc Việt giữ lực lượng của họ ở miền Nam.

Bản báo cáo của Võ Văn Ba không chỉ đến Tòa Đại sứ, mà còn đến tay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khiến ông Thiệu vào tháng 10/1972 phản ứng mãnh liệt, hỏi chuyện gì đang xảy ra, Kissinger đang làm gì? Ông Thiệu nhất quyết phản đối, nói sẽ không chấp nhận thỏa thuận mà Kissinger đang đàm phán dù đó là thỏa thuận gì, vì ông không được tham dự vào việc thương lượng. Khi ông Thiệu nhất quyết phản đối thì đến phiên Bắc Việt hỏi chuyện gì đang xảy ra, người Mỹ chắc đang lừa chúng ta.

Khi thấy thỏa thuận có nguy cơ bị hỏng, vì Võ Văn Ba đã cho chúng tôi biết sự thật, Nixon quyết định dội bom Bắc Việt để chứng minh với ông Thiệu rằng Mỹ vẫn đứng về phía ông, và cũng để làm cho Bắc Việt phải tiếp tục thương lượng, và họ đã trở lại đàm phán.

Võ Văn Ba đã cung cấp cho tổng thống VNCH thông tin đầu tiên về những gì Kissinger đang làm, và quan trọng nhất là quyết định cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam của Kissinger.

BBC: Ông có tiếp xúc với Võ Văn Ba thường xuyên không?

Frank Snepp: Trong thời kỳ ngừng bắn 1973 đến 1975, tôi thỉnh thoảng gặp ông để biết những kế hoạch mới nhất của cộng sản. Tôi cũng được trao một trọng trách mới, là giúp quản lý một đặc vụ mà chúng tôi đang có ở Hà Nội. Phải nói rõ rằng người phụ trách Võ Văn Ba là một nhân viên CIA khác rất giỏi, nhưng tôi được cử đến gặp ông định kỳ để kiểm chứng những phát hiện của ông với nguồn trực tiếp của chúng tôi ở Hà Nội. Tôi không giỏi gì, nhưng chỉ vì tình cờ mà tôi được liên lạc trực tiếp với điệp viên giỏi nhất của CIA và có dịp kiểm chứng những tin những điệp viên gửi về.

Khi Nixon từ chức, Võ Văn Ba cho chúng tôi những dấu chỉ đầu tiên về những gì Cộng sản sẽ làm vào cuối năm 1974. Ông nói Bắc Việt sẽ thử nghiệm để xem khả năng phòng thủ của VNCH lúc ấy yếu đến độ nào.

Ngày 8/4/1975, Võ Văn Ba cho chúng tôi báo cáo đầu tiên về những gì phe cộng sản sẽ làm để dứt điểm cuộc chiến. Tôi không được tin này trực tiếp, mà nhận qua người ‘handler” của ông. Tôi gửi ngay yêu cầu cho Võ Văn Ba thông qua người Mỹ này để hỏi thêm.

Sau đó, ngày 17/4, tôi trực tiếp gặp Võ Văn Ba và nhận được toàn bộ kế hoạch kết thúc chiến tranh của Cộng sản: Sẽ không có thỏa thuận nào, ông Thiệu từ chức hay không không thành vấn đề, cũng không thành vấn đề nếu chúng tôi muốn thành lập một chính phủ liên hiệp, Cộng sản nhất quyết tiến chiếm Sài Gòn kịp sinh nhật Hồ Chí Minh vào giữa tháng 5, và sẽ tấn công trước ngày 1/5, đúng y như những gì đã xảy ra.

Tin đó khiến các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ đã bị sốc mà phải tức thời lập chương trình cho những chuyến trực thăng khẩn cấp đưa người di tản. Vì vậy, với những ai đã được đưa ra khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Võ Văn Ba là người đã cứu họ…

PHẦN 2: FRANK SNEPP SO SÁNH ĐIỆP VIÊN CIA VÕ VĂN BA VÀ TÌNH BÁO CS PHẠM XUÂN ẨN.

Cùng là gián điệp nhị trùng, nhưng không như Phạm Xuân Ẩn, cái tên Võ Văn Ba chỉ trong mấy năm nay mới được nhắc đến.

Truyền thông Việt Nam sau 1975 nói ông “chui sâu, leo cao vào nội bộ ta” trong suốt 10 năm và “gây tổn thất đáng kể cho cách mạng”.

Võ Văn Ba là ai và số phận ông ta ra sao sau 30/04/1975 khi lực lượng chính quy của Bắc VN tiến vào Sài Gòn, xóa sổ chế độ VNCH.

Trong cuộc phỏng vấn chúng tôi thực hiện cho BBC, Frank Snepp, nhà phân tích chính của CIA trong chiến tranh VN, kể những gì ông biết về Võ Văn Ba, nêu ra ý kiến cá nhân về điệp viên này và chia sẻ những gì ông tin là ông biết được thêm sau 1975.

Frank Snepp: Theo thông tin mà chính Cộng sản đưa ra sau đó, Võ Văn Ba bị một nhân viên CIA, một người Mỹ bị bắt hai tuần trước khi cuộc chiến kết thúc làm lộ. Theo bản dựng lại vụ án của Cộng sản, được công bố sau chiến tranh, nhân viên CIA này, khi bị tra tấn đã khai ra Võ Văn Ba. Ngoài ra, hành tung của Võ Văn Ba cũng bị một thông dịch viên người Việt tiết lộ. Đây là người từng làm việc với Võ Văn Ba, người này bị bắt, tôi nhớ là ở Ban Mê Thuật. Tóm lại, hai cá nhân liên quan đến CIA, khi bị tra tấn đã khai ra vai trò của ông.

Khi tôi gặp Võ Văn Ba hôm 17/4, mạng sống của ông đang bị nguy hiểm nghiêm trọng, vì trong vòng vài ngày đó ông có lẽ đã gặp những người đã bị bắt, trong đó có một số người Mỹ. Khi Sài Gòn thất thủ, Võ Văn Ba chưa di tản. Với thông tin thu thập được từ các tù nhân, phe cộng sản bắt giam ông, và họ công bố trong các phân tích thời hậu chiến là ông đã dùng thắt lưng treo cổ tự tử để khỏi bị tra tấn. Vợ ông bán hoa ở Tây Ninh dường như không bị sát hại, và tôi tin là con trai của Võ Văn Ba cũng không bị cộng sản bắt bớ, mặc dù điều này không rõ ràng.

Với tôi, Võ Văn Ba là một người hùng, một người thực sự yêu nước. Ông là một Nathan Hale (1755-1776, sĩ quan, nhà hoạt động tình báo thời cuộc chiến Cách mạng Mỹ) của miền Nam Việt Nam, và cho đến gần đây, khi Bắc Việt công bố những tài liệu riêng của họ, công chúng vẫn biết rất ít về ông. Tôi đã viết về Võ Văn Ba trong cuốn Decent Interval, nhưng lúc ấy tôi rất cẩn thận, không tiết lộ bất kỳ chi tiết nào, không công bố danh tính hay thông tin xác định nào ngoại trừ việc nói rằng ông ở tỉnh Tây Ninh và là điệp viên tốt nhất của CIA. Lý do là khi viết sách, tôi không biết chắc số phận Võ Văn Ba lúc đó ra sao.

BBC: Có phải Võ Văn Ba là một trong những lý do khiến ông viết thêm một cuốn sách nữa về cuộc chiến Việt Nam. Ông biết tin Võ Văn Ba treo cổ tự tử vào lúc nào?

Frank Snepp: Kể chuyện Võ Văn Ba, tôi hy vọng sẽ tạo chất xúc tác để những người Việt tị nạn và người Việt sống ở hải ngoại tôn vinh người đàn ông này. Ông là một người miền Nam yêu nước một cách phi thường, nhưng chưa ai biết nhiều về ông, ít nhất là cho đến nay.

Tôi chỉ biết tin Võ Văn Ba chết khi an ninh Việt Nam ở Hà Nội công bố tài liệu của họ về vụ án. Trong bốn năm qua, Hà Nội đã công bố gần như tất cả những khám phá của họ về ông. Họ đã kiểm tra lời khai của tù nhân, thu giữ tài liệu và tổng hợp lại những chiến dịch mà họ cho là đã gây tổn hại cùng cực, và kết luận Võ Văn Ba là điệp viên nguy hiểm nhất từng hoạt động chống cách mạng. Họ xác nhận những gì tôi biết, đó là việc ông đã tiết lộ các tài liệu về kế hoạch và thiết kế quan trọng của Cộng sản từ năm 1965 đến khi kết thúc chiến tranh. Ông đã cung cấp hết cho CIA, vấn đề là CIA không phải lúc nào cũng tin ông.

BBC: Ông Phan Tấn Ngưu, người phụ trách liên lạc với Võ Văn Ba từ phía VNCH, viết là CIA có lúc không tin Võ Văn Ba là vì ông gặp vấn đề bị thử bằng máy phát hiện nói dối (lie detector test). Điều đó đúng không?

Frank Snepp: Vào năm 1971, có nghi ngờ rằng Võ Văn Ba là gián điệp nhị trùng hoạt động cho Cộng sản. Tôi đã có cuộc gặp kéo dài ba ngày với ông và xem qua tất cả những gì chúng tôi biết về ông, cùng với ông Phan Tấn Ngưu, sĩ quan cảnh sát của VNCH, ”handler” của Võ Văn Ba, hiện đang sống ở Quận Cam (California) và cũng là người đã công bố những gì ông biết về Võ Văn Ba kể cả việc chúng tôi đã gặp nhau.

Vào đầu năm 1971, tôi đã có thể xác minh rằng Võ Văn Ba đúng là những gì ông đã tuyên bố. Điều gây nghi ngờ là Võ Văn Ba đã đưa một số báo cáo cho các cơ quan tình báo khác của VNCH, như Phủ Đặc ủy Tình báo Trung ương và có thể cả cho cơ quan an ninh quân đội. Võ Văn Ba làm như vậy vì họ trả ông một ít tiền.

Ông cung cấp cho chúng tôi những bí mật chính, nhưng cũng kiếm thêm tiền bên ngoài. Và vì vậy, khi làm ‘lie detector test’, đồ thị của ông có những vết nhấp nhô. Ông cũng không nói với chúng tôi rằng ông trao một số bí mật cho những cơ quan đồng minh để kiếm thêm chút tiền. Đó là nguồn gốc những nghi vấn về ông. Nhưng những nghi ngờ này phần lớn đã được giải tỏa, chủ yếu là qua cuộc gặp gỡ ba ngày của tôi với ông ấy vào năm 1971.

BBC: Ông có thể so sánh Võ Văn Ba với Phạm Xuân Ẩn, điệp nổi tiếng hoạt động cho phe cộng sản Bắc Việt cũng trong cuộc chiến VN?

Frank Snepp: Phạm Xuân Ẩn nói chung là một hacker. Ông ta làm việc chống lại mục tiêu mềm yếu nhất ở miền Nam Việt Nam, đó là giới báo chí. Ông Ẩn thu thập những thông tin có giá trị mà báo chí lấy được từ Đại sứ quán Hoa Kỳ, và chuyển nó cho Bắc Việt.

Nhưng so sánh Phạm Xuân Ẩn với Võ Văn Ba, thì xin đừng làm thế. Võ Văn Ba là thứ thiệt. Ông như nhân vật trong phim James Bond. Võ Văn Ba nằm ở ngay Trung ương Cục Miền Nam của phe cộng sản, đầu não chính của họ ở miền Nam, giống như một điệp viên nằm ngay trong Lầu Năm Góc. So với Võ Văn Ba, Phạm Xuân Ẩn không là gì cả. Ý tôi là, Phạm Xuân Ẩn được ca tụng vì giới báo chí Mỹ kinh ngạc không thể tin được là họ đã bị ông ấy lừa. Vậy à? Nhưng, việc đưa ra đề xuất so sánh hai người, tôi nghĩ, là một xúc phạm với Võ Văn Ba. Thật đấy. Không phải là tôi muốn hạ giá trị Phạm Xuân Ẩn. Tôi biết ông ta là một điệp viên thông minh, nhưng xét về tầm cỡ, ông ấy không thể so với vai trò của Võ Văn Ba.

BBC:Theo ông, Võ Văn Ba đã có những thành tích gì đáng ghi nhớ?

Frank Snepp: Võ Văn Ba cho Nguyễn Văn Thiệu dấu chỉ đầu tiên là Henry Kissinger đang đánh lừa miền Nam Việt Nam. Ông đã cảnh báo cho chúng tôi về Tết Mậu Thân năm 1968 mặc dù Đại sứ quán Hoa Kỳ không công nhận tất cả những điều ông nói. Ông đã giúp chúng tôi chứng thực tài liệu cho thấy phe cộng sản đã chịu những thương vong khủng khiếp vào năm 1968 và sẽ không thể tiếp tục chiến đấu với mức độ ác liệt như cũ. Điều đó giúp chúng tôi khởi động chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Ông đã cho chúng tôi biết phản ứng đầu tiên của phe cộng sản về việc Tổng thống Nixon từ chức vào tháng 8 năm 1974.

Võ Văn Ba báo cho chúng tôi mọi quyết định quan trọng Cộng sản đưa ra. Đây không phải là nhận định của tôi mà là nhận định của chính Bắc Việt. Họ lập một danh sách, nói là Võ Văn Ba đưa cho CIA kế hoạch cho các năm 1969, 1970, cuộc tấn công lễ Phục sinh… Võ Văn Ba cung cấp tất cả thông tin về kế hoạch ngừng bắn của họ. Bạn không cần tin tôi, mà hãy đọc những phân tích của họ, những phân tích của chính phe địch.

Ngay Bắc Việt cũng phải công nhận là Võ Văn Ba qua mặt được họ là điều rất phi thường. Đại sứ Graham Martin dần dà cũng quý mến Võ Văn Ba, vì ông cho rằng thành công của Võ Văn Ba cho thấy phe cộng sản cũng dễ bị tổn thương và có điểm yếu kém, có lỗ hổng. Vì vậy, khi Đại sứ Martin cuối cùng quyết định không tin vào cảnh báo của Võ Văn Ba là sẽ không có thỏa thuận, điều đó làm tôi sửng sốt, vì ông đã từng tin rằng điệp viên này giỏi nhất trong số những người giỏi nhất.

Việc Đại sứ Martin và xếp CIA Polgar giảm tầm quan trọng của những gì Võ Văn Ba cảnh báo làm tôi kinh ngạc. Nhưng những điều Võ Văn Ba nói với chúng tôi hôm 17/4, cuối cùng cũng đã được gửi về cho tổng thống trong bản tóm tắt hàng ngày, và nhờ đó đã thúc đẩy ngay kế hoạch cho trực thăng bốc người, giúp nhiều người trong chúng ta vượt thoát.

Tóm lại, chúng ta không thể kể về Chiến tranh Việt Nam mà không nhắc đến thành tích của Võ Văn Ba. Lịch sử chiến tranh Việt Nam đã được kể lại nhiều lần, nhưng không mấy ai có thông tin về Võ Văn Ba, ngoại trừ những gì tôi viết trong cuốn hồi ký ban đầu, nhưng cũng không dám viết gì nhiều như bây giờ.

Giờ đây tôi đã viết về Võ Văn Ba, và đến nhiều viện bảo tàng và viện nghiên cứu khác nhau để nói rằng, quý vị phải cập nhận tài liệu của quý vị về chiến tranh Việt Nam, phải kể về một số đóng góp của người đàn ông này, bởi vì những gì Võ Văn Ba báo với chúng tôi đều là tin chính xác vào những thời điểm quan trọng. Và lịch sử phải ghi rõ những gì chúng ta biết, những gì không biết, những tin chúng ta đã vì đó có hành động thích hợp, và những tin chúng ta đã phớt lờ. Phải làm thế, vì sự thật là điều then chốt của lịch sử.

Nguồn: BBC Việt ngữ