BÀI DIỄN VĂN HAY NHẤT

.

Tác giả : Luật Sư Georges Graham Vest (1830-1904)
Tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ. Được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.

Thưa quý ngài hội thẩm
— Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta.
— Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là những đứa con vô ơn.
— Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành.
— Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ.
— Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể
sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận.
— Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con
người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở:
ĐÓ LÀ CON CHÓ CỦA TA.
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau.
Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.
Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó.
Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này.
Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một gã ăn mày.
Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời.
Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù….
Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ….
Thì khi ấy còn bên nấm mồ ta là con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi…

Chi Nguyen sưu tầm.

THÉP ĐEN ĐẶNG CHÍ BÌNH TỪ TRẦN 2/THÁNG 1/2023

Đặng Chí Bình sinh ngày 20 Dương Lịch tháng 2, năm 1933. Tên thật là Châu, còn có tên là Lê Viết Hùng, gián điệp của Việt Nam Cộng Hòa với bí danh X.20. Bị bắt vào năm 1962, khi đột nhập miền Bắc, bị tra tấn và tù đày 20 năm. Tác giả tập hồi ký Thép Đen nổi tiếng đã được tái bản nhiều lần.

Đã từ trần vào ngày 2 tháng 1, 2023.

🌺Web Thép Đen:

🌺BBC- Cựu điệp viên VNCH Đặng Chí Bình kể về điệp vụ ở Hà Nội:

🌺Thép Đen-Thư viện Úc:

Tập truyện Thép Đen Đặng Chí Hùng: Thép Đen 1/ Thép Đen 2/ Thép Đen 3/ Thép Đen 4

🌺Hà Giang Phỏng vấn Nhà Văn Đặng Chí Bình, tác giả ‘Thép Đen’:

https://danlambaovn.blogspot.com/…/phong-van-nha-van…🌺

.

Chuyện tàu Trường Xuân – Phạm Ngọc Lũy

.
Tàu Trường Xuân
.

Tháng 11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh, khiến những ghe nhỏ không thể cặp vào tầu để vợi muối. Số muối dự định chở sang Singapore phải bỏ lại đến 1 phần 3. Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng 6/75 mới có thể trở về Việt Nam. Tôi thật sự lo lắng miền Nam không thể đứng vững, vì đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc quân có cả một hậu phương rộng lớn: Trung Cộng và các nước trong khối Liên Xô.

Cựu Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy năm 1975

Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok, rồi đi Phi Luật Tân… Hết Cebu đến Manila, qua Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc Borneo. Tình hình đất nước ngày một khẩn trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm. Những sà lan, những ghe thuyền chở đồng bào tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển, không lương thực, không nước uống. Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ con đem từ các sà lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng hoàng và xúc động mãnh liêt.

Tôi không phải là một sĩ quan trong quân đội cầm súng chống quân thù. Tôi là một nhà hàng hải, có thể giúp được gì cho Quê Hương, cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này? Tôi rất muốn được giúp đồng bào tôi, được cùng chia xẻ với đồng bào trong giờ phút đau thương nàyNgồi trên con tàu cách xa quê hương ngàn dặm mà lòng tôi bồn chồn như lửa đốt…Tôi cố hồi tưởng và viết lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng nhau vượt biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng Sản và đi tìm Tự Do. Sau đây là diễn tiến của nhiều việc đã đưa đến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân. Những sự kiện mà sau này lúc ngẫm nghĩ lại thì tôi thấy dường như đã được sắp đặt một cách huyền diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi, để thử thách mọi người trên tàu phải phấn đấu để đạt được niềm ước vọng quí giá là hai chữ Tự Do.

image001.jpg

Bến kho 5 Khánh Hội Sàigòn, 30/4/1975

Tàu Trường Xuân rời bến Kho Năm, Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975 sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, và quân Cộng sản tiến chiếm Saigon hồi 10 giờ sáng…

(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số và đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.

(2) Lúc ghé Singapore, Cơ khí trưởng tàu Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu say, khi về đến cổng thương cảng thì bị vấp ngã, bị thương ở đầu bất tỉnh nhân sự. Cảnh sát phải chở đi nhà thương điều trị. Tàu Trường Xuân về đến Saigon, Cơ khí trưởng xin tạm nghỉ việc để điều trị vết thương. Vị Cơ khí trưởng này thường phát biểu ý tưởng có nhiều thiện cảm với phe bên kia cho nên tôi nghĩ rằng nếu anh ta không gặp tai nạn thì đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu xuống tàu để di tản và đến giờ phút cuối cùng thì không dễ gì tìm được một người Cơ khí trưởng.

(3) Tàu Trường Xuân về đến Saigon ngày 17/4/75, cặp bến Thương cảng Khánh Hội gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau tàu) ra biển. Tàu đã đến hạn lên ụ để tu sửa đại kỳ hàng năm. Vì công xưởng hải quân bận việc nên tàu chỉ tu sửa những bộ phận cần thiết ngay tại bến thay vì nằm ụ cả tháng trời. Tàu lấy hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100 tấn nước ngọt và 10 bao gạo để chuẩn bị đi Manila. Tàu có thể khởi hành ngày 24/4/75 nhưng tôi nấn ná chưa khởi hành vì tình hình đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng…

(4) Tôi xin Công Ty Vishipco tuyển dụng Cơ khí trưởng Lê Hồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công Ty mới chấp thuận cho Cơ khí trưởng Phi nhận việc.

(5) 5 giờ chiều ngày 29/4/75, tôi xuống tàu không gặp Cơ khí trưởng Phi, và sĩ quan phụ tá cho biết là Phi đã về nhà đưa gia đình ra bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75 hồi 11:30 sáng.”

(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên chở tôi ra tàu cùng với Phạm Trúc Lâm. Đường sang thương cảng Khánh Hội bị chắn nhiều khu phố. Sau khi quan sát tàu, Thuyên đưa tôi về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở khoảng 200 người gồm gia đình, thân nhân và bà con lối xóm, ra thương cảng…

(7) Bình thường trước khi tàu khởi hành, sĩ quan phụ tá phải cho thử tay lái trên đài chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, và chính tôi cũng thân hành tự kiểm soát lại. Tuy nhiên sáng 30/4/75, tôi nhớ là đã tự nhủ phải đi kiểm soát lại tay lái xem có gì trục trặc không, nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái vì bụng bảo dạ: “Giờ này mà còn đi lo những việc nhỏ… Cộng quân đã tiến vào Saigon rồi… Việc thử tay lái đã có sĩ quan phụ tá lo…” Rồi tôi lại tự trách sao lại đi lo những chuyện không đáng lo. Và thực ra không hiểu vì sao chính sĩ quan phụ tá lần đó cũng quên thử tay lái trước khi nhổ neo, vì nếu được biết trước tay lái đã bị hỏng hay bị phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến.

(8) 9 giờ sáng, Sĩ quan Vô tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình…

Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được… (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định cư ở vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)

Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc.

Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.)

 (9) Khoảng 12 giờ trưa, dân cũng như quân ào ào đổ xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị gãy. Cơ khí trưởng Phi báo tin tàu có thể khởi hành và tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho tàu tiến nhẹ, bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu chạy thẳng.

Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy, cặp lại bến. Tôi mới nhận ra là tay lái đã bị hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu ép để điều khiển bánh lái, nhưng sau được biết hệ thống điều khiển bánh lái đã bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra và cho nước vào. Thật là một sự kiện kinh hoàng đến choáng óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ chuyến đi…

Cơ khí trưởng sau khi xem xét lại hệ thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng được. Trong suốt cuộc đời làm Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử dụng tay lái phòng hờ, mà bây giờ lại không có lấy được một người thủy thủ biết lái. Chưa biết đối phó với tình huống nan giải thì một người đứng gần đó tự nguyện nhận điều khiển tay lái phụ…

(10) Khoảng 13 giờ, nước bắt đầu lớn – thủy triều lên. Tôi cho mở giây ở phía lái tàu để tàu tự động xoay 180 độ trên sông, hướng mũi ra khơi… Ngay lúc tàu vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi từ bờ đẩy tầu ra giữa sông. 13 giờ 25 tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu qua một ống loa dài chừng 20 thước dẫn đến người bẻ bánh lái ngồi trong một cái chòi ở phía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang phải 10 độ thì tàu lại hướng sang phía trái. Tôi chợt nhận ra ngay là núm điều khiển tay lái phụ chỉ ngược chiều với hướng tàu chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên phải thì tôi lại ra lệnh ngược lại. Cứ thế mà đi trên sông.

(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng Cơ khí trưởng hét lên qua ống loa: “Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay! Phải ngừng máy đèn!” Ai bỏ neo bây giờ? Bỏ neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy ngon trớn.

Đầu óc rối như tơ vò! Nhưng lúc này cần phải bình tĩnh, không thể làm một quyết định sai lầm. Tôi biết rằng không thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng và sẽ không dùng máy để kéo neo lên được. Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc bờ sông vì khi nước triều xuống thì tàu sẽ mắc cạn và tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại duy nhất mà tàu có thể tự cứu vãn là tìm cách cho tàu lên cạn, mũi ghếch lên bờ, chân vịt chìm dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ tự rút ra được.

Chiều xuống, tàu vẫn đâm mũi vào bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản mừng thắng trận nổ vang rền, sáng rực khu Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được vì không còn hơi ép cho nổ máy. Cái nguy căn bản nhất là không còn hơi ép để cho chạy máy đènMáy đèn chạy mới có thể có hơi ép làm nổ máy cái. Cơ khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn… Đây có thể là một hành động vô ý thức hay là phá hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc xét xử và điều tra mà phải làm sao cứu vãn được con tàu.

Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu nằm mắc cạn ở đây chắc chắn Cộng sản sẽ bắt hết mọi người. Cùng lắm chúng xử bắn mình là cùng…” Tự nhủ như thế để tâm trí không bị rối loạn vì nếu làm những điều sai lầm trong giờ phút này là mất hết.

image002.jpg

Tàu Trường Xuân chờ Tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975

Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi ngang vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy thẳng. Trong lúc đó có một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy từ hướng Saigon đến. Tàu Hải quân thấy vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ ầm vang chấn dội lồng ngực, Song An quay trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu Trường Xuân giây kéo đều bị đứt. Đến gần tối thì nước lớn, Song An mới kéo được tàu Trường Xuân ra sông, rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày 1/5/75 mới tới Vũng Tàu.

(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền Trung đã có bạo động trên những xà lan, cho nên tàu vừa rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập Ban Trật tự và Ban Cứu thương. Nhờ sự tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã có em bé sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được mẹ tròn con vuông.

(13) Vừa tới hải phận quốc tế, lệnh hạ khí giới được triệt để tôn trọng. Tàu khởi hành ra khơi mà tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và nhiều người có thể bị thương hay bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.

(14) Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt được anh Vũ Văn Thụ, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo lắng cho sự an nguy của một nhân mạng, mà mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị kỷ và nghĩ đến những người đồng cảnh ngộ với mình.

image003.jpg

Tàu Clara Maersk và Trường Xuân

(15) Nhờ có Sĩ quan Vô tuyến gửi đi những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần Clara Maersk đã đến cứu và đưa chúng ta đến bến bờ Tự Do.

(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi người đã được chuyển sang tàu Clara Maersk an toàn thì một người từ phòng máy đi lên, thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ huy.

Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk.

Tôi đã đi nhiều nơi và gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.

Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy Cơ khí trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ.

Ngày 12/6/2006, tôi được gặp lại Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt Bùi Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ từ Saigon chạy ra. Anh đã bắn phát súng thị uy bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự và một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu Trường Xuân trong lúc tàu Song An buộc dây kéo tàu Trường Xuân ra khỏi cạn.

image004.jpg

32 năm đã trôi qua mà hình ảnh và diễn tiến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Những sự kiện dường như đã được tiền định để cho tất cả chúng ta cùng gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu và cùng đến được bến Tự Do.

2007

Phạm Ngọc Lũy

CHUYỆN VỀ NHỮNG ĐÊM GIÁNG SINH RẤT BUỒN

I. “TÔI ĐÃ KHÓC TRÊN SUỐT ĐƯỜNG VỀ” HAY CHUYỆN CỦA
MỘT ÔNG GIÀ NÔ-EN CHUYÊN NGHIỆP

kim thanh kể lại từ báo Mỹ

Eric Schmitt-Madzen, 60 tuổi, cư dân Caryville, Tennessee, sinh ngày 6 tháng 12
(chú thích của KT: đúng ngày lễ Saint Nicholas –còn được gọi là Santa Claus bắt
nguồn từ Sinterklaas, tiếng Hòa Lan, thời Trung Cổ) là một kỹ sư cơ khí và giám đốc
hãng Packing Seals & Engineering tại Jacksboro. Chuyên đóng vai, và rất giống, Santa
Claus, mỗi năm, với thân hình hộ pháp 6-foot, 310 pounds, và chòm râu dài, tự nhiên,
trắng như tuyết. Sắm vai ông già Nô-En (chú thích của KT: rất quen thuộc trong ngôn
ngữ Việt, le père Noël trong tiếng Pháp, tương tự Santa Claus của Mỹ) rất thiện nghệ, và
đặt may riêng một bộ quần áo, màu đỏ. Để mang niềm vui cho bá tánh và tiếng cười hồn
nhiên cho trẻ thơ khi mùa đông và lễ Giáng Sinh tới.
Một hôm, ông kể, ông vừa từ sở làm về nhà, thì có tiếng điện thoại reo, của một nữ y
tá mà ông biết đang làm việc tại một bệnh viện. Cô nói, có một bé trai 5 tuổi đang bị
bệnh nặng sắp chết muốn gặp Santa Claus. Ông trả lời, để ông thay trang phục Santa cái
đã, nhưng cô bảo, không kịp đâu, bộ dây nâng quần của Santa (suspenders, mà ông luôn
đeo sẵn trên người) cũng đủ rồi, và giục ông đến ngay cho. Ông đến bệnh viện, 15 phút
sau, thấy mẹ của đứa bé và nhiều người trong gia đình. Bà mẹ đã mua một hộp đồ chơi

và nhờ ông trao cho đứa bé. Ông quyết định sẽ làm gì, và nói với mọi người hiện diện
đừng theo ông vào phòng, vì nếu thấy ai khóc, ông sẽ bị xúc động mạnh, và sẽ không
hoàn thành nổi công việc. Mọi người đứng bên ngoài, nhưng ghé mắt theo dõi qua cánh
cửa sổ, trong hành lang của Phòng Điều Trị Đặc Biệt, và khóc sụt sùi.
Ông kể tiếp (nguyên văn): “Khi tôi bước vào, bé nằm yên, yếu đến nỗi như đang sẵn
sàng rơi vào cơn ngủ. Tôi ngồi xuống giường, và hỏi: ‘Ông nghe nói rằng con lo sẽ hụt
mừng lễ Giáng Sinh, phải không? Không, con không thể nào hụt lễ Giáng Sinh được.
Tại sao, con là thằng bé Số Một của ông mà!’ Bé bèn ngước mắt lên, và hỏi: ‘Thật vậy
không ông?’ Tôi trả lời: ‘Chắc chắn rồi!’ Tôi trao cho bé hộp đồ chơi. Bé yếu đến nỗi
chỉ vừa đủ sức mở hết lớp giấy bọc. Khi thấy cái gì bên trong, bé nở một nụ cười rạng
rỡ, rồi đặt đầu lên gối trở lại. ‘Họ bảo rằng con sắp chết’, bé nói với tôi. ‘Con có thể nói
gì khi đến nơi dành cho con?’ Tôi bảo: ‘Con có thể làm cho ông điều này được không?’
Bé trả lời: ‘Được chứ!’ Tôi tiếp: ‘Vậy thì con sẽ nói với họ rằng con là đứa bé cưng Số
Một của Santa và ông biết chắc rằng họ sẽ cho con vào.’ Bé hỏi lại: ‘Thật thế sao?’ Tôi
trả lời: ‘Thật lắm!’ Bé làm động tác như ngồi dậy và ôm tôi, rồi hỏi thêm một câu nữa:
‘Santa, ông có thể giúp con được không?’ Tôi choàng tay ôm lấy bé. Trước khi tôi có thể
nói một lời gì thì bé đã chết ngay lúc ấy. Tôi để bé ngồi yên với tư thế đó, vẫn ôm bé
trong vòng tay. Mọi người ngoài phòng biết điều gì đã xảy ra. Mẹ của bé chạy vào, thét
lên: ‘Không, không, không, chưa đâu!’ Tôi giao cho bà đứa con trai, và rời khỏi phòng
rất nhanh với hết sức mình.”
Trên suốt đường về nhà, Schmitt-Madzen kể tiếp, ông đã khóc. Khóc nhiều đến nỗi
mắt nhòa lệ không còn thấy đường để lái xe. Trong lúc tuyệt vọng, ông đã toan treo lên
giá chiếc áo Santa Claus, bỏ nghề. Nhưng rồi gom hết sức lực, ông ráng làm một lần
chót: “Khi thấy những đứa nhỏ cười, tôi bị kéo trở lại với các cháu, và hiểu rõ vai trò
mình phải thực hiện. Cho các cháu và cho chính tôi nữa.”

Portland, 16 Dec. 2016 Lược dịch bài “I cried all the way home: Boy who asked for last wish
dies in Santa’s arms”, Sam Venable (Knoxville, Tenn.), trong USA Today Network, News
Sentinel 12:03 p.m. EST December 12, 2016

II. BUỒN BIẾT ĐẾN KIẾP NÀO NGUÔI

kim thanh

Quận Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân. Tôi nhận lệnh dẫn một nửa

Đại đội 202 CTCT, từ Ba Gi (Qui Nhơn), đại bản doanh của Sư Đoàn 22BB, ra tăng
phái cho Trung đoàn 40 –lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên đường Bồng Sơn và Tam Quan.
Nửa đại đội được chia làm hai toán, mỗi toán trên dưới mười người, do hai chuẩn úy chỉ
huy, hằng ngày đi xuống các xã ấp thuộc quận, hoặc bằng xe dodge cơ hữu, hoặc thỉnh
thoảng, vì lý do an ninh, bằng trực thăng của Sư đoàn I Không Kỵ (1 st Cav) Hoa Kỳ, để
làm công tác Tâm lý chiến, một cách độc lập, nhưng đôi khi phối hợp với Dân sự vụ
Mỹ. Xuống những xã, ấp xa xôi, hai toán chúng tôi phải tự bảo vệ, và vì thế được vũ
trang tương đối đầy đủ, và các toán viên thường là lính tác chiến đổi về, có nhiều kinh
nghiệm chiến trường. Ít khi phải nhờ đến sự trợ giúp của những đơn vị địa phương quân
hay nghĩa quân.
Tôi nhớ buổi sáng hôm đó là ngày 25 tháng 12, đúng lễ Giáng Sinh. Chuẩn úy
Hoàng, trưởng toán, bị bệnh. Tôi phải đi thay, dẫn toán của anh đến ấp Vĩnh Phụng, xã
Hoài Xuân –nằm dọc, cũng như những xã khác của quận Hoài Nhơn, theo dòng Lại
Giang chảy lững lờ ra biển. Không khí cuối năm vắng lặng, đơn điệu, đến độ nhàm
chán. Tại những vùng quê Việt Nam thời ấy không có nhà thờ, không tổ chức mừng
Giáng Sinh rầm rộ như dân thành thị, Sài Gòn hay Nha Trang của tôi, chẳng hạn, dù có
đạo hay không. Không có tiếng chuông giáo đường ngân vang, rộn rã. Không có, như
bây giờ, ông già Nô-En đứng trước cửa siêu thị Mỹ, rung chuông leng keng, chúc lễ và
phát quà cho trẻ em. Chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất tại thị trấn Bồng Sơn cho toàn
quận Hoài Nhơn, và dân Công giáo, từ các xã ấp, phải lên đó để dự lễ mỗi sáng Chúa
Nhật.
Chúng tôi đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân sự vụ và Tâm lý chiến. Như thường lệ.
Nghĩa là bắt loa kêu gọi dân trong ấp đến tập hợp trên một khoảng đất trống, rộng, và
chung quanh có bóng cây xanh mát, lại gần trụ sở ấp, rất an toàn, để được y tá khám
bệnh, phát thuốc tại chỗ, hoặc được chở về bệnh viện Bồng Sơn trong trường hợp bệnh
nặng, cần cấp cứu… Hay để nghe một toán viên, từ chiếc loa cầm tay, đọc lên những lời
viết sẵn đề cao chính nghĩa quốc gia, và kêu gọi đồng bào đừng bỏ xóm làng, “lên núi
thoát ly” theo Việt Cộng, đừng “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản” v.v… Các em nhỏ
được phát kẹo bánh, tập vở, bút mực, và sau đó được tập bài quốc ca VNCH hay những
bài hát quen thuộc, ví dụ, tôi nhớ, Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời… Việt Nam, hai
câu nói… hay Đây Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng…
Làm xong công tác thì đã hết buổi sáng. Tôi cho cả toán nghỉ ngơi, ăn trưa và tự do
đi lại trong ấp, chờ đến giờ trở về Đệ Đức. Còn tôi và một vài anh lính trải poncho nằm
bên gốc cây, ngước nhìn ánh nắng lấp lánh chiếu qua vòm lá và nghe tiếng chim hót líu
lo trên cành. Một số toán viên, còn trẻ, xin đi vào nhà dân, để thăm hỏi các cụ già và, tôi
đoán, để nhân dịp, tán tỉnh các cô gái mơn mởn đào tơ, má hồng môi thắm tự nhiên.

2. Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ chuyện đời, và một anh lính đang
nghêu ngao một bài vọng cổ, thì bỗng một tiếng mìn nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ
tôi nằm bao nhiêu. Giật mình nhổm dậy, chụp vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa
bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ hớt hải chạy về phía tôi: “Ông

Thiếu úy ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia kìa…” Cũng đoán biết được chuyện gì đã
xảy ra, chúng tôi tất tả chạy theo các em, về phía cánh đồng, súng cầm tay, trong tư thế
sẵn sàng nhả đạn. Đến nơi, thấy nằm nửa dưới ruộng, nửa trên bờ, một bé gái, tức “con
nhỏ Út”, độ chín, mười tuổi, cao và gầy như khúc củi, mình mẩy đầy máu, nhuộm đỏ cả
chiếc áo cụt trắng. Mấy đứa trẻ mách: Út ra ruộng sớm, mót lúa, đã đạp phải mìn gài
sẵn. Chưa biết của bên nào. Tôi thận trọng, đưa mắt quan sát hiện trường, xem có còn
quả mìn hay lựu đạn nào chưa nổ, hay một tên du kích nào đang rình chờ chúng tôi.
Y tá Thám cúi xuống, cầm lấy bàn tay Út bắt mạch, rồi đặt ống lên ngực nghe nhịp
thở, trong khi tôi choàng tay cẩn thận đỡ bé ngồi dậy. Người bé mềm nhũn, miệng rên
nho nhỏ. Vì trái mìn bẫy đặt ngược hướng, sợi dây kíp khá dài, và nổ khi Út đứng khá
xa, nên thân thể còn nguyên vẹn, không nát bấy, chỉ bị ghim đầy những mảnh sắt li ti.
Gương mặt xinh xắn lúc ấy xanh như tàu lá, và cặp mắt lờ đờ ngước nhìn tôi. Thám
quay sang, kín đáo khẽ lắc đầu, và tôi hiểu. Từ thân thể Út máu tiếp tục chảy từng giọt,
chắc bé đau đớn lắm. Bé kêu khát. Tôi mở bi đông, đổ nước vào nắp, cho bé uống vài
ngụm nhỏ. Vừa suy nghĩ rất nhanh. Tại các ấp, như Vĩnh Phụng, làm gì có trạm cấp cứu,
nhân viên y tế, hay thuốc men. Chở đi Bồng Sơn không kịp nữa, vì bé đã yếu lắm rồi, lả
người trong vòng tay tôi. Gọi máy PRC 25 về trung đoàn, buổi trưa, không gặp ai. Gọi
thẳng Sư đoàn 1 st Cav Mỹ xin trực thăng tải thương thì không biết tần số, và tốn thời
gian lắm, lại chưa chắc họ tin mình. Không còn biết làm gì hơn, tôi dùng khăn ướt lau sơ
máu trên mặt, trên tay của bé và cầu nguyện cho bé gắng gượng thêm khoảng một giờ
nữa thôi –thời gian vừa đủ để xe chúng tôi đưa bé về tới Bồng Sơn.
Bỗng Út mở to mắt, nhìn thẳng vào tôi, một cách lạ thường, ngơ ngác, như vừa tỉnh
cơn mê từ một cõi nào rất xa xôi. Bé hỏi, giọng thều thào:

-Con qua nổi không chú?
Tôi liếc nhanh về phía y tá Thám, rồi gật đầu:

– Qua nổi chứ con! Nếu con hứa là con gượng thêm một giờ nữa, các chú sẽ đưa con
về được bệnh viện Bồng Sơn…
Bé mở hé đôi môi, cố gắng mỉm cười, khó khăn, lắc nhẹ đầu, và đáp khẽ:

-Không kịp đâu chú, con biết con sẽ chết, con mệt quá rồi. Khi nãy ngủ mê, con có
gặp mấy cô áo trắng có cánh nói đang chờ để rước con đi…
Rồi Út nói tiếp, giọng rời rạc, càng lúc càng nhỏ dần, nhỏ dần:

– Chú ơi, con muốn được ôm, trước khi chết… Con là đứa mồ côi, không cha không
mẹ, không người thân thích… Con ở đợ, mót lúa cho nhà người ta… Không ai thương
con hết… Con muốn được ôm, một lần thôi…
Tôi bật khóc, ôm bé vào lòng, hôn lên hai má, mà nước mắt tuôn trào như mưa, chảy
xuống ướt chiếc áo trận, hòa lẫn với máu của bé chưa kịp khô. Vừa lúc ấy, trên cặp môi
tím ngắt, bé như cố nở một nụ cười mãn nguyện. Rồi ngoẹo đầu vào ngực tôi, bé làm
động tác muốn giơ hai cánh tay lên, nhưng không đủ sức, bỏ xuống, và nửa giây sau, bé
từ từ nhăm mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi. Tất cả diễn ra không đầy bốn
phút, từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng.

Tôi nhẹ nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn trong tấm poncho còn mới
của tôi. Bé đã được liệm bằng poncho, giống như một người lính chiến thật sự. Giống
như những đồng đội của tôi chết trận tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết, Quảng
Đức… năm nào. Nhìn quanh, tôi thấy mọi người vẫn đứng yên, lặng thinh, mắt đỏ hoe,
kể cả tốp lính địa phương quân vừa kịp đến để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này.
Tôi biết, cũng như tôi, những người lính, rất chai lì vì phải thường trực thách đố với cái
chết cận kề, không khóc dễ dàng. Nhưng trước thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út, một
bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh tàn khốc, phi lý, gỗ đá cũng khóc theo, huống chi
người. Khi tôi hỏi, mìn do ai gài, một anh địa phương quân nói lớn, giận dữ:

-Mìn của mấy thằng du kích Việt Cộng gài đó, ông thầy. Còn ai trồng khoai đất này.
-Sáng nay, tụi em chưa kịp đi gỡ thì con nhỏ Út ra ruộng sớm, đạp trúng. Tội nghiệp nó
quá.
Tôi giao tấm poncho gói xác Út cho nhóm địa phương quân và moi tiền từ các túi
quần, cộng với tiền gom góp của anh em tự nguyện trong toán, không đếm bao nhiêu,
nhưng đoán khá nhiều, đưa hết cho trung sĩ trưởng nhóm, và nói:

Bé Út mồ côi, nghèo khổ, tôi nhờ các chú mua cái hòm cho bé và làm ơn chôn cất
tử tế giùm. Còn thiếu bao nhiêu các chú bù giúp cho.

3. Trên đường về lại Bồng Sơn, cả toán không ai nói với ai một lời nào. Giống như
một lần trước đó không lâu, khi chúng tôi chở đến bệnh viện quận lỵ một bé trai mười
tuổi từ một ấp, xã khác, gần hơn, đã đạp phải lựu đạn cũng của Việt Cộng –bị thương
khá nặng, nhưng sống sót, vì được cứu kịp thời, chỉ phải cưa một chân. Tôi ngồi im, như
tượng đá, và mắt vẫn còn cay sè. Đến Bồng Sơn, đi ngang nhà trọ của Thơ Thơ, tôi bảo
tài xế dừng lại, chờ tôi mười phút. Nàng mở cửa, thấy quần áo tôi dính bê bết máu,
hoảng hốt hỏi dồn:

-Trời ơi, anh bị thương phải không?
Tôi lắc đầu, gượng mỉm cười. Nàng ôm tôi vào lòng, siết chặt, như sợ tôi bay đi, và
tôi kể hết câu chuyện bé Út. Nàng vừa nghe vừa rơm rớm nước mắt. Rồi nghẹn ngào nói
nhỏ:

Tội nghiệp bé quá. Tối nay em sẽ thắp nhang khấn vái cho hồn bé được siêu thoát.
Sau khi nghe chuyện này, em yêu anh quá, em yêu anh nhiều hơn, em yêu anh mãi mãi.
Mãi mãi, anh biết không? Cái chết cũng không bao giờ có thể chia lìa hai đứa chúng ta.
Hôm sau, Hoàng hết bệnh, tôi bèn trả lại toán cho anh để tiếp tục xuống công tác
thường nhật tại Vĩnh Phụng. Còn tôi, từ đó cho đến ngày rời bỏ Bồng Sơn trở về Bà Gi,
tức hơn nửa năm sau, không bao giờ đặt chân lên ấp đó nữa, dù chỉ ghé qua một lần. Để
tránh nhớ một trong những kỷ niệm thảm thương nhất, nếu không muốn nói một kỷ
niệm thảm thương nhất, trong suốt đời lính. Sau ba tháng, tôi được lệnh bỏ quận Hoài
Nhơn, điều động cả hai toán ra công tác ở Tam Quan –một quận lỵ nguy hiểm nhất của
Bắc Bình Định.

4. Rồi qua bao nhiêu thăng trầm, trong suốt hơn nửa thế kỷ, kể từ Noël 1969 đó, tôi
cố quên chuyện bé Út, giữa những chuyện khác về Bồng Sơn, cũng không kém buồn

đau, đã được kể rồi trong bài “Bồng Sơn, dòng sông tương tư”, như chuyện ba người
trong đại đội tôi bị phục kích chết, sau lần công tác ở Tam Quan trở về, hay Thơ Thơ,
người yêu dấu, bị mất tích, tháng 4, 1975, trên đường di tản từ Kon Tum. Muốn xem tất
cả như dĩ vãng tàn khốc và kỷ niệm thảm thương của chiến tranh, của một thời để yêu và
một thời để chết. Cố quên, nhưng không thể được.
Đặc biệt bé Út. Quả thế, cứ mỗi cuối năm khi mùa Giáng Sinh tới, và nhất là những
lần giơ tay ôm hug ai, hay toan ôm ai vào lòng, thì hình bóng tội nghiệp của bé bỗng
dưng lại hiện về trong tâm trí, với thân xác đầy thương tích, đau đớn, với những lời thều
thào, đứt quãng, “con muốn được ôm… không ai thương con hết…” Hỡi ơi, buồn này
biết đến kiếp nào mới nguôi? Như một ám ảnh dịu dàng, vời vợi. Như một linh hồn nhỏ
mồ côi, trắng tinh như tờ giấy mới, xua bao tăm tối ra khỏi trái tim cằn cỗi. Như một quý
nhân phù trợ mà anh linh còn mãi lẩn quất bên tôi, hơn cả chiêm bao, qua suốt nửa thế
kỷ. Để cùng với Thơ Thơ, một hồng nhan bạc phận, cầm tay tôi, dắt đi qua những phong
ba của cuộc đời này.

Portland, 19/12/2020
Bài viết này đã được chính tác giả ra Anh ngữ
Kim Thanh

III. ĐÊM GIÁNG SINH TRONG TRẠI TÙ LONG GIAO

kim thanh

1. Tháng 12 năm 1975. Chúng tôi bị lừa, bị lùa vào trại Long Giao, do bộ đội quản
lý, và đã ở đó hơn sáu tháng. Long Giao thuộc tỉnh Long Khánh, là một căn cứ cũ của
Sư đoàn 18, mà trước kia tôi chưa hề đặt chân đến, nói chi bấy giờ bị giam cầm tứ phía
lại càng thấy mù mịt hơn. Thời gian buồn hiu và không gian xám ngắt. Trời mưa, đất
Long Giao trơn như mỡ và biến thành bùn đỏ quyện vào chân và gấu quần, không khác
chi đất Pleiku, Kontum và Ban Mê Thuột mà tôi đã ghé ở qua những ngày chinh chiến
cũ.
       Tù binh được chia thành tổ, mỗi tổ gồm tám đến mười người. Bốn tổ lập thành một
đội, còn gọi là nhà, hay B. Dãy tù kế bên, ngăn cách bởi một hàng rào kẽm, dành cho sĩ
quan cấp tá, trong đó có Thiếu tá Lê Ân, Văn Hóa Vụ trưởng trường Đại Học CTCT Đà
Lạt, chỉ huy trực tiếp của tôi, mà thỉnh thoảng tôi được thấy mặt và chào hỏi qua lớp
kẽm gai. Có một khu giam riêng một số nữ quân nhân, từ cấp trung tá trở xuống, vài chị

trông rất trẻ, đẹp. Đôi khi gặp nhau tình cờ ngoài hiện trường lao động, các chị nhìn
chúng tôi với ánh mắt buồn bã, cảm thương, nếu không muốn nói tội nghiệp, mặc dù
cùng trong cảnh chim lồng cá chậu.

2. Tổ tù của tôi gồm tám người, thuộc đội 2, còn gọi là B2, Nhà 2, dưới quyền của
“nhà trưởng” tên Thạnh, người Huế, mập lùn, đại úy Công Binh, hiền lành, dễ dãi, ví dụ
mỗi lần phải thi hành “lệnh trên” anh đều lịch sự năn nỉ các đội viên (“xin các anh làm
ơn… cố gắng…”), thay vì hống hách, nạt nộ, đe dọa như một số B trưởng tiến bộ quá
nhanh, muốn lập công để được tha về sớm. Một nửa tổ tôi là sĩ quan ngành Y ‒ít nhiều
quen biết nhau ngoài đời, trong số có người bạn cùng đơn vị, bác sĩ Đặng Phùng Hậu,
trưởng bệnh xá Trường Đại Học CTCT, và bạn của anh, bác sĩ Trần Đại Quốc, nghe nói
có liên hệ bà con với một cán bộ cao cấp đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại
Hòa đàm Paris. Tuy vậy, tôi không coi điều đó quan trọng, vì Quốc là người bạn tù tốt,
chững chạc, cởi mở, có tư cách, và theo tôi nhận xét lúc ấy, thuộc loại “phản động” hạng
nặng. Thỉnh thoảng buổi chiều cùng tôi đi dạo mát trong sân, anh nhắc nhở: “Đừng bao
giờ tin VC. Đừng bao giờ khai thật, và khai sao thì nhớ giữ nguyên lời khai, không thay
đổi.” Y như lời ba tôi khuyên nhủ, trước ngày tôi chuẩn bị trình diện đút đầu vô rọ.
Ngoài ra, có bác sĩ Nguyễn Xuân Thanh, người Huế, và dược sĩ Trần Lương Ngọc, Bắc
kỳ di cư, cả hai rất tử tế, vui vẻ.
Bốn sĩ quan ngoài ngành Y Dược là anh tổ trưởng, đại úy đại đội trưởng Địa
Phương Quân Vùng 4 tên Lân, một trung úy Pháo Binh tên Thanh, ít nói, một đại úy
Hành Chánh Tài Chánh tên Thạnh, đều dân Nam kỳ, và tôi, quê Nha Trang, đại úy
Trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đó là một nhóm thân hữu dễ thương, chia cho nhau từng
mẩu bánh mì khô, từng lát thịt bò ướp mỗi lần một tổ viên được “thăm nuôi”, tin tưởng
nhau, phát biểu, bình luận thời cuộc một cách vung vít mà không sợ bị báo cáo. Trong
tổ, chỉ một mình tôi là Công giáo.
        

3. Mấy ngày trước Noël, Bác sĩ Nguyễn Xuân Thanh gọi tôi ra sân, vừa cùng đi
bách bộ vừa nói nhỏ:                                        
      – Đêm Noël một số anh em sẽ tổ chức mừng lễ. Mọi thứ đã được chuẩn bị. Bây giờ
nhờ anh viết lời bài hát “Đêm Thánh Vô Cùng” ra tiếng Pháp và Latin. Tiếng Anh thì có
người lo rồi, bản tiếng Việt thì tôi thuộc, vì trước kia tôi học trường đạo ở Huế.  
       Nói xong, anh bắt giọng, hát cùng với tôi, khe khẽ:
Đêm thánh vô cùng…                                                                                       
Giây phút tưng bừng…                        
Đất với trời…
Silent night, holy night,
All is calm, all is bright.
Round yon virgin mother and child,
Holy infant, so tender and mild.

Sleep in heavenly peace,
Sleep in heavenly peace …
       Phần tôi phấn khởi lắm, nhưng không hỏi thêm chi tiết. Và nhận viết lời Pháp mà tôi
thuộc từ hồi nhỏ. Còn Latin, tôi không biết nguyên văn, nhưng dựa theo tiếng Pháp mà
dịch đại ra, không tự điển, và bây giờ chỉ còn nhớ câu đầu: Tranquilla nox, sancta nox…
Sau đó, từng nhóm nhỏ tập dượt, bằng cách đi trong sân, khuất những cặp mắt ăng-ten,
nhất là hung thần tên Bái, ở cùng đội B2, bảo hoàng hơn vua, lúc nào cũng mặc bộ bà ba
đen cổ quấn khăn rằn, trông ngứa mắt không chịu nổi, chuyên lấy điểm cán bộ bằng
cách tố cáo, kết án đồng tù, và tôi cũng là một trong nhiều nạn nhân bị hắn đấu tố,
những buổi đội họp kiểm điểm, về cái tội “chây lười lao động” và là “sĩ quan dạy tại
trường đại học CTCT ác ôn”.
      Trong lúc tập dượt, nhóm chúng tôi hát thuộc lòng âm ư trong miệng. Chỗ nào vắng
vẻ, an toàn, thì lên giọng to hơn. Tôi hướng dẫn phát âm lời Pháp và Latin.
 
Douce nuit, sainte nuit!
Dans les cieux! L’astre luit.
Le mystère annoncé s’accomplit
Cet enfant sur la paille endormi,
C’est l’amour infini,
C’est l’amour infini …
 
4. Đúng đêm 24. Đêm Chúa sinh ra đời. Mới bảy giờ, trời đã tối. Từ trại, nhìn ra
quang cảnh chung quanh, tôi thấy có những ánh đèn leo lét, trong một xóm nhà về
hướng Tây, tức hướng Sài Gòn, và, cao hơn, một ngôi sao khổng lồ thắp sáng trên nóc
một ngôi thánh đường. Các bạn bảo tôi, “đó là xóm đạo di cư Long Giao”, nhưng không
ai biết họ đạo ấy tên chính xác là gì. Một lúc sau, từ nhà thờ vọng lại, liên hồi, tiếng
chuông Noël giục giã, quen thuộc. Quen thuộc, vì thời gian trước 1975, không bao giờ
tôi thiếu vắng nó, vào mùa Giáng sinh, dù phải xa gia đình êm ấm, kể cả những đêm
hành quân ngủ bờ ngủ bụi, lúc chiến tranh trở nên khốc liệt.
Đêm ấy, trong trại tù Long Giao tình cờ được nghe lại, tôi nghĩ đó là một ân sủng từ
Chúa Hài Đồng còn xót thương, một lần duy nhất như kỷ niệm bền lâu, vì những năm
sau, bị đưa ra Bắc, tôi không còn bao giờ được nghe nữa. Tiếng chuông Noël thân
thương tắt lịm, chết đi –như cuộc đời chúng tôi. Không có cả tiếng chuông gọi hồn
ai, for whom the bell tolls, như trong Hemingway.
      Tự dưng thấy lòng bồi hồi, xúc động. Nước mắt lưng tròng. Chợt nhớ một đoạn văn,
trong quyển Souvenirs de la maison des morts, đã đọc thời trung học, của văn hào Nga,
Dostoïevski, bị lưu đày ở Sibérie, cũng kể rằng đêm Noël ông nghe từ một xóm đạo xa
xa tiếng chuông nhà thờ vẳng lại. Vừa lúc ấy, Dostoïevski viết, tình cờ tên cai ngục mở
cửa, và ông có cảm tưởng Thiên Chúa đã hiện ra với ông. Đối với một tử tù biệt giam,
xa cách thế giới loài người, sự hiện hữu của bất cứ ai, kể cả tên cai ngục, là một đặc ân,
niềm an ủi và mừng vui vô biên Chúa gửi đến.

Bao nhiêu năm qua rồi, những đêm Giáng Sinh cứ tiếp nối trên xứ sở tự do, sung
sướng, mà sao tôi vẫn không tìm lại được cảm xúc êm đềm, niềm hoan lạc vô giá, từ
một đoạn văn cũ ấy –cái cảm xúc kỳ lạ, lâng lâng, bình an trong hồn những tù nhân cô
đơn, tuyệt vọng. Và gần hơn, từ đêm Noël đầu tiên tại một trại giam Việt Cộng. Từ tiếng
chuông vọng về của một xóm đạo, phía bên kia đời văn minh, gần gũi mà sao thấy xa
vời vợi, còn sót lại phủ đầy ánh sáng và yêu thương, dưới chế độ vô thần, bạo tàn, rừng
rú. Từ những bài hát Giáng sinh được tập dượt trong những buổi chiều lén lút, lo âu tại
trại tù Long Giao.
     
5. Tám giờ. Trên sân bên hông tổ chúng tôi, một bó lửa được thắp lên giữa những
thanh củi xếp theo hình ô vuông, và các anh em từ những đội khác nhanh chóng kéo tới
tập họp làm thành vòng tròn lớn, nắm tay nhau hát to bài “Đêm Thánh Vô Cùng” bằng
bốn thứ tiếng, do Nguyễn Xuân Thanh, cùng vài anh khác, điều khiển và bắt giọng.
Những khúc củi được thảy vô thêm, và ánh lửa vươn cao, bập bùng, vui như trong đêm
lửa trại của hướng đạo sinh. Không có cây sapin, không có hoa đèn rực rỡ, không có cả
một linh mục nào chủ lễ, xướng kinh. Chỉ có tấm lòng và đức tin bền vững của tù nhân
dành cho Thượng Đế trước những bất hạnh, tủi nhục, đọa đày. Những tù binh không
tham gia cũng đứng chung quanh, tò mò nhìn, trong số, dĩ nhiên, có vài tên ăng-ten mà
ai cũng biết tiếng.
       Khoảng mười phút sau, hát xong, trong khi anh em đứng lặng im, trầm tư, có người
lâm râm cầu nguyện, thì bỗng nghe tiếng chân bộ đội rầm rập chạy về phía chúng tôi,
súng lên đạn kêu răng rắc. Lập tức, tất cả tự động giải tán, ai về phòng nấy, biến mất như
những bóng ma, cũng nhanh chóng như khi tập họp. Tôi nán đứng lại xem, bên đống lửa
gần tàn, với vài người trong đám hiếu kỳ. Một thằng ăng-ten nổi danh, thuộc một B
khác, cựu phi công trực thăng tải thương, đứng chỉ chỏ, báo cáo. Bọn lính và quản giáo
luôn mồm hỏi: “Anh nào cầm đầu tổ chức phản động? Anh nào?”. Không ai biết, kể cả
những tên ăng-ten. Mà biết cũng không ai nói, trừ bọn này, dĩ nhiên. Cuối cùng một anh,
nói giọng Bắc, bước ra “nhận tội” thay cho tất cả. Sáng hôm sau, anh tù binh Lê Lai cứu
chúa ấy, các đội trưởng và một số “nghi can” khác bị dẫn đi làm việc. Rất may, không ai
bị kỷ luật, yên ổn trở về các đội.
       Trong một cuộc điện đàm mới đây, Bác sĩ Hậu cho biết thêm: “Khi cán bộ và bộ đội
chạy đến sân hỏi ai là người tổ chức, anh trưởng đội B1, mà rất tiếc moa không nhớ tên
và binh chủng, hình như là một phi công, bước ra nhận chính anh là người tổ chức đêm
nguyện cầu đó”. Nghe Hậu nói, tôi mới kịp nhớ và óc tự động quay lại đoạn phim này,
lúc ấy không quan trọng lắm, nhưng bây giờ rất quý báu vì chứng tỏ thái độ hiên ngang
và cái dũng hiếm hoi của một cựu sĩ quan QLVNCH trong lúc sa cơ. Nguyễn Xuân
Thanh, tôi biết, chỉ là người được phân công móc nối trong B2 chúng tôi, không phải
người đứng ra tổ chức.
       6. Khi bài viết của tôi được các cư dân Mạng, Netizens, đọc thì một cựu tù nhân
không quen, viết cho tôi, qua email, nguyên văn: “Khi nằm ở Nam Hà B, tôi gặp anh
Lộc (hình như Trần Tấn Lộc), truyền tin, nói chính anh ấy đề xướng vụ hát giáng sinh

này.” Rất có thể như thế lắm. Vì tù binh quá đông, không ai có thể biết hết tất cả. Vả lại,
tại trại, khi tiếp xúc với Nguyễn Xuân Thanh, tôi không hỏi ai tổ chức, mà Thanh cũng
không tự động nói.
      Về  sau, chuyện này, cán bộ trại không nhắc đến nữa. Riêng tôi vẫn nhớ mãi, kể từ
đêm ấy đến nay đã 45 năm. Rồi một số được đổi đi trại khác, phần đông là giới Y Dược,
trong đó có bốn chàng mousquetaires của tổ tôi, về trại Kà Tum ở thêm hai năm nữa,
trong điều kiện khắc nghiệt hơn Long Giao nhiều, Hậu kể. Còn lại, rất đông, có tôi, bị
“biên chế” phân tán đi các đội khác, để vài tháng sau được tàu Sông Hương chở ra Bắc
ưu ái bán cái cho Công An, bắt đầu một cuộc hành trình mới gian nan hơn, khổ cực hơn,
dành cho những “tù nhân chính trị” chánh hiệu.
 
      Một buổi chiều, cách đây 17 năm, tiếng điện thoại vang lên. Bác sĩ Nguyễn Xuân
Thanh bất ngờ gọi tôi từ Oakland, CA. Mừng rỡ. Ôn lại biết bao kỷ niệm. Nhất là về cái
đêm Giáng Sinh 1975 tại Long Giao. Sau đó, thỉnh thoảng tôi gọi Thanh. Tháng 12 năm
2011, máy nhắn trong điện thoại của anh trả lời “no longer in service”. Về đâu rồi, hỡi
bạn Nguyễn Xuân Thanh, một trong những người hùng đêm Noël 75? Còn Bác sĩ Trần
Đại Quốc, theo lời một người cháu họ của anh cho biết, hiện còn ở Việt Nam. Bác sĩ
Đặng Phùng Hậu đang có phòng mạch tư tại Port Arthur, Texas, và năm 2004, đã đến
Portland cùng với bà xã, tham dự lễ hôn phối của vợ chồng tôi. Dược sĩ Trần Lương
Ngọc, nghe nói, đang làm việc tại một bệnh viện Sài Gòn. Những bạn đồng tù thân thiết
khác thì bặt vô âm tín. Trừ một anh tên Nam họ Huỳnh, cựu đại úy Hải Quân, cùng đội
B2, hiện ở San José, một lần tìm đâu được số điện thoại của tôi, đã gọi lên thăm…

Portland, 19 tháng 12, 2020
Kim Thanh

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn- NGƯỜI VỢ LÍNH Ở THỦ ĐỨC

.

Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.

Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ.

Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến.

Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội.

Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn.

Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.

Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.

Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.

Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được.

Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới.

A, tay này ngon.

Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp.

Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng.

Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.

Giây phút cuối của Chương Thiện,

Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:

“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua.

Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975.

Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá.

Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “

“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.

“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”

Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”

Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.

“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.

Tôi hỏi tiếp:

“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.

“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo.

Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.

Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.

” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.

“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.

Bà Cẩn thật thà nói rằng.

“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”

Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính.

Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức.

Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.

Tác giả: Giao Chỉ, San Jose

Tôi Đã Có Một Việt Nam Như Thế

Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Biển Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó.

Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.

.

Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.

.


Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn. Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.

.


Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.

.


Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.

.


Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.

.

Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế

.

Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế.
Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.

.


Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m Vietnamese.”
Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế …!

.
Ku Búa @ Café Ku Búa
PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa !!!

Coi phim xưa

Kính chuyển đến đến các bạn hàng trăm phim xưa hay và giá trị của thế kỷ 20 (có phụ đề Việt ngữ) như: Cleopatra, Titanic, Love Story, God Father, Romeo Juliette, 7 hiệp sỹ đạo, Bạch Tuyết 7 Chú Lùn, James Bond …

https://fsharetv.com/movie/seven-years-in-tibet-episode-1-tt0120102

Seven Years in Tibet
 – Bảy Năm Ở Tây Tạng – 1997 –  Brad Pitt,  David Thewlis,  BD Wong  Mako

https://fsharetv.com/movie/the-great-buddha+-episode-1-tt7010412

The Great Buddha


https://fsharetv.com/movie/romeo-and-juliet-episode-1-tt0063518

Romeo and Juliet – 1968

https://fsharetv.com/movie/romeo-+-juliet-episode-1-tt0117509

Romeo + Juliet – 1996 –  Leonardo DiCaprio,  Claire Danes,  John Leguizamo,  Harold Perrineau

https://fsharetv.com/movie/rambo-iii-episode-1-tt0095956

Rambo III – 1988 – Sylvester Stallone

https://fsharetv.com/movie/rocky-iii-episode-1-tt0084602

Rocky III – Tay Đấm Huyền Thoại 3 – 1982 – Sylvester Stallone,  Talia Shire

https://fsharetv.com/movie/the-man-in-the-iron-mask-episode-1-tt0120744

The Man in the Iron Mask – Người mang mặt nạ sắt – Leonardo DiCaprio

https://fsharetv.com/movie/jfk-episode-1-tt0102138

JFK – Ám Sát John F. Kennedy 
– 1991 –  Sally Kirkland  Anthony Ramirez  Ray LePere  Steve Reed

https://fsharetv.com/movie/the-getaway-episode-1-tt0068638

Getaway
 – Steve McQueen  Ali MacGraw 1972

https://fsharetv.com/movie/cleopatra-episode-1-tt0056937

Nữ Hoàng Cleopatra – Liz Taylor – 1963

https://fsharetv.com/movie/titanic-episode-1-tt0120338

Titanic – 1997

https://fsharetv.com/movie/the-warlords-episode-1-tt0913968

Thống Lĩnh – Jet Li, Andy Lau

https://fsharetv.com/movie/the-kid-episode-1-tt0012349

The Kid
 – Charles Chaplin 1921

https://fsharetv.com/movie/snow-white-and-the-seven-dwarfs-episode-1-tt0029583

Bạch Tuyết và 7 Chú Lùn


https://fsharetv.com/movie/gone-with-the-wind-episode-1-tt0031381

Cuốn Theo Chiều Gió  –  1939

https://fsharetv.com/movie/red-sun-episode-1-tt0067770

Mặt Trời Đỏ 
– – 1971 -Charles Bronson, Ursula Andress, Alain Delon, Toshirô Mifune

https://fsharetv.com/movie/casablanca-episode-1-tt0034583

Casablanca – Chuyện Tình Thế Chiến – 1942

https://fsharetv.com/movie/seven-samurai-episode-1-tt0047478

Seven Samurai – Bảy Võ Sĩ Đạo – 1954

https://fsharetv.com/movie/the-bridge-on-the-river-kwai-episode-1-tt0050212

The Bridge on the River Kwai
 – Cầu Sông Kwai – 1957

https://fsharetv.com/movie/lolita-episode-1-tt0056193

Chuyện Tình Nàng Lolita – 1962

https://fsharetv.com/movie/the-great-escape-episode-1-tt0057115

The Great Escape – Cuộc Đào Thoát Vĩ Đại – 1963 –  Steve McQueen

https://fsharetv.com/movie/doctor-zhivago-episode-1-tt0059113

Doctor Zhivago – 1965 –  Omar Sharif

https://fsharetv.com/movie/the-good,-the-bad-and-the-ugly-episode-1-tt0060196

The Good, the Bad and the Ugly – 1966  –  Clint Eastwood

https://fsharetv.com/movie/bonnie-and-clyde-episode-1-tt0061418

Những Kẻ Cướp Nhà Băng
 –  1967 – Warren Beatty

https://fsharetv.com/movie/golden-swallow-episode-1-tt0063105

Golden Swallow – Kim Yến Tử 1968 – Trịnh Phối Phối, Vương Vũ

https://fsharetv.com/movie/shi-er-jin-pai-episode-1-tt0192601

Thâp nhị kim bài – Lý Thanh,  Nhạc Huê

https://fsharetv.com/movie/tora!-tora!-tora!-episode-1-tt0066473

Đột Kích Trân Châu Cảng – 1970

https://fsharetv.com/movie/love-story-episode-1-tt0066011

Love Story – 1970 – Ali MacGraw,  Ryan O’Neal

https://fsharetv.com/movie/the-big-boss-episode-1-tt0067824

Đường Sơn Đại Huynh – 1971 – Lý Tiểu Long

https://fsharetv.com/movie/diamonds-are-forever-episode-1-tt0066995

Diamonds Are Forever – 1971 – Sean Connery,  Jill St. John

https://fsharetv.com/movie/the-delightful-forest-episode-1-tt0068821

The Delightful Forest –  Võ Tòng 1972

https://fsharetv.com/movie/one-armed-boxer-episode-1-tt0067009

One-Armed Boxer – Độc Thủ Quyền Vương
 – Vương Vũ 1972

https://fsharetv.com/movie/fist-of-fury-episode-1-tt0068767

Fist of Fury – Tinh Võ Môn   1972 – Lý Tiểu Long

https://fsharetv.com/movie/live-and-let-die-episode-1-tt0070328

Live and Let Die – 1973 Roger Moore

https://fsharetv.com/movie/enter-the-dragon-episode-1-tt0070034

Enter the Dragon – Long Tranh Hổ Đấu – Lý Tiểu Long 1973

https://fsharetv.com/movie/the-man-with-the-golden-gun-episode-1-tt0071807

The Man with the Golden Gun – 1974 – Roger Moore,  Christopher Lee

https://fsharetv.com/movie/all-the-president’s-men-episode-1-tt0074119

All the President’s Men – Đoàn Tùy Tùng Tổng Thống 1976


https://fsharetv.com/movie/superman-episode-1-tt0078346

Superman – Siêu nhân 1978 – Marlon Brando, Christopher Reeve,  Gene Hackman

https://fsharetv.com/movie/superman-ii-episode-1-tt0081573

Superman II – Siêu Nhân 2  –  1980 – Gene Hackman,  Christopher Reeve,  Ned Beatty,  Jackie Cooper

https://fsharetv.com/movie/snake-in-the-eagle’s-shadow-episode-1-tt0078252

Snake in the Eagle’s Shadow – Xà quyền diệt độc ưng 1978 – Jackie Chan,  Siu Tin Yuen,  Jung-Lee Hwang

https://www.youtube.com/watch?v=8_xYdnSRlXU

Tội ác của pôn pốt

https://www.youtube.com/watch?v=97BJ3-7dd24

The Killing Fields – Cánh Đồng Chết 1984

https://fsharetv.com/movie/the-killing-fields-episode-1-tt0087553

The Killing Fields –  Cánh Đồng ChếT – 1984 – Sam Waterston,   Haing S. Ngor

https://fsharetv.com/movie/never-say-never-again-episode-1-tt0086006

Never Say Never Again – 1983 – Sean Connery,  Klaus Maria Brandauer

https://fsharetv.com/movie/snake-in-the-eagle’s-shadow-episode-1-tt0078252

Snake in the Eagle’s Shadow – Xà quyền diệt độc ưng –  Jackie Chan,  Siu Tin Yuen  1978

https://fsharetv.com/movie/first-blood-episode-1-tt0083944

First Blood –  Rambo Đổ Máu – 1982 – Sylvester Stallone,  Richard Crenna

https://fsharetv.com/movie/shaolin-temple-episode-1-tt0079891

Shaolin Temple  –  1982 –  Jet Li,   Hai Yu

 https://fsharetv.com/movie/top-secret!-episode-1-tt0088286

Top Secret! –  Nhiệm Vụ Bí Mật – 1984 – Val Kilmer,   Lucy Gutteridge

https://fsharetv.com/movie/splash-episode-1-tt0088161

Splash – Nàng Tiên Cá – 1984    Tom Hanks,   Daryl Hannah

https://fsharetv.com/movie/the-karate-kid-episode-1-tt0087538

The Karate Kid – Môn Đệ Karate – 1984 – Ralph Macchio,   Pat Morita

https://fsharetv.com/movie/a-view-to-a-kill-episode-1-tt0090264

A View to a Kill – 1985 – Roger Moore,  Christopher Walken,  Tanya Roberts,  Grace Jones

https://fsharetv.com/movie/martial-arts-of-shaolin-episode-1-tt0091607

Martial Arts of Shaolin – 1986 – Jet Li

https://fsharetv.com/movie/wall-street-episode-1-tt0094291

Wall Street – 1987 – Charlie Sheen,  Tamara Tunie,  Franklin Cover,  Chuck Pfeiffer

https://fsharetv.com/movie/eastern-condors-episode-1-tt0090956

Eastern Condors – Phi Ưng Phương Đông – 1987 – Sammo Kam-Bo Hung,  Biao Yuen,  Haing S. Ngor

https://fsharetv.com/movie/prison-on-fire-episode-1-tt0093304

Prison on Fire – 1987 – Yun-Fat Chow,  Tony Ka Fai Leung,  Ka-Kui Ho,  Roy Cheung

https://fsharetv.com/movie/the-last-emperor-episode-1-tt0093389

The Last Emperor – Vị Hoàng Đế Cuối Cùng – 1987 –  John Lone,  Joan Chen,  Peter O’Toole

https://fsharetv.com/movie/qun-long-duo-bao-episode-1-tt0095946

Quần Long Đoạt Bảo – 1988 – Hsiao-mei Chang,  Kar Lok Chin,  Tat-wah Cho,  Norman Chu

https://fsharetv.com/movie/red-sorghum-episode-1-tt0093206

Red Sorghum – Cao Lương Đỏ – 1988 – Li Gong,  Wen Jiang,  Rujun Teng,  Ji Liu

https://fsharetv.com/movie/mr.-canton-and-lady-rose-episode-1-tt0098019

Mr. Canton and Lady Rose – Kỳ Tích – 1989 –  Jackie Chan,  Anita Mui,  Ah-Lei Gua,  Chun-Hsiung Ko

https://fsharetv.com/movie/the-killer-episode-1-tt0097202

The Killer – Điệp Huyết Song Hùng – 1989 – Yun-Fat Chow,  Danny Lee,  Sally Yeh,  Kong Chu

https://fsharetv.com/movie/batman-episode-1-tt0096895

Batman – Người Dơi 1989 – Michael Keaton  Jack Nicholson

https://fsharetv.com/movie/licence-to-kill-episode-1-tt0097742

Licence to Kill – 1989 – Timothy Dalton,  Carey Lowell,  Robert Davi,  Talisa Soto

https://fsharetv.com/movie/miller’s-crossing-episode-1-tt0100150

Miller’s Crossing – Vượt Mặt Thù Địch 1990 –  Gabriel Byrne,  Marcia Gay Harden,  John Turturro,  Jon Polito

https://fsharetv.com/movie/pretty-woman-episode-1-tt0100405

Pretty Woman – Người Đàn Bà Đẹp – 1990 –  Richard Gere,  Julia Roberts,  Ralph Bellamy  Jason Alexander

https://fsharetv.com/movie/to-be-number-one-episode-1-tt0101490

To Be Number One – Đại Ca Hào Què – 1991 – Lữ Lương Vĩ

https://fsharetv.com/movie/beauty-and-the-beast-episode-1-tt0101414

Beauty and the Beast – Người đẹp và quái vật 1991 –  Robby Benson,  Jesse Corti, Rex Everhart  A

https://fsharetv.com/movie/aladdin-episode-1-tt0103639

Aladdin 1992 –  Scott Weinger,  Robin Williams

https://fsharetv.com/movie/di%C3%AAn-bi%C3%AAn-ph%C3%BA-episode-1-tt0104105

Điện Biên Phủ 1992 – Donald Pleasence,  Patrick Catalifo

https://fsharetv.com/movie/tai-chi-master-episode-1-tt0108281

Tai-Chi Master – Thái cực Trương Tam Phong – 1993 – Jet Li (Lý Liên Kiệt)

https://fsharetv.com/movie/farewell-my-concubine-episode-1-tt0106332

Farewell My Concubine –  Bá vương biệt cơ – 1993 –   Leslie Cheung,  Fengyi Zhang,  Li Gong,  Qi Lü

https://fsharetv.com/movie/sirens-episode-1-tt0111201

Sirens –  Mỹ Nhân Ngư – 1994 – Hugh Grant,  Tara Fitzgerald

https://fsharetv.com/movie/fist-of-legend-episode-1-tt0110200

Fist of Legend –  Tinh võ anh hùng – 1994 – Jet Li (Lý Liên Kiệt)

https://fsharetv.com/movie/goldeneye-episode-1-tt0113189

Golden Eye – Điệp Viên 007: Mắt Vàng – 1995 – Pierce Brosnan,  Sean Bean,  Izabella Scorupco

https://fsharetv.com/movie/casino-episode-1-tt0112641

Casino – 1995 –   Robert De Niro,  Sharon Stone,  Joe Pesci, James Woods

https://fsharetv.com/movie/heat-episode-1-tt0113277

Heat –  Kỳ phùng địch thủ – 1995 –  Al Pacino,  Robert De Niro,  Val Kilmer,  Jon Voight

https://fsharetv.com/movie/hackers-episode-1-tt0113243

Hackers – 1995 – Jonny Lee Miller,  Angelina Jolie,  Jesse Bradford,  Matthew Lillard

https://fsharetv.com/movie/congo-episode-1-tt0112715

Congo – Kho Báu Công Gô – 1995 -Laura Linney,  Dylan Walsh,  Ernie Hudson,  Tim Curry

https://fsharetv.com/movie/aladdin-and-the-king-of-thieves-episode-1-tt0115491

Aladdin Và Vua Trộm – 1996

https://fsharetv.com/movie/secrets-&-lies-episode-1-tt0117589

Secrets & Lies – Bí Mật Và Dối Trá – 1996 –  Timothy Spall,  Phyllis Logan,  Brenda Blethyn, Claire Rushbrook

https://fsharetv.com/movie/the-hunchback-of-notre-dame-episode-1-tt0116583

The Hunchback of Notre Dame – Thằng Gù Ở Nhà Thờ Đức Bà – 1996 –
 Jason Alexander,  Mary Kay Bergman,  Corey Burton,  Jim Cummings

https://fsharetv.com/movie/hero-episode-1-tt0136242

Hero – Mã Vĩnh Trinh – 1997 – Kim Thành Vũ,  Biao Yuen,  Jessica Hester Hsuan,   Wah Yuen

https://fsharetv.com/movie/armageddon-episode-1-tt0120591

Armageddon – Ngày Tận Thế – Bruce Willis,  Billy Bob Thornton,  Ben Affleck

https://fsharetv.com/movie/the-sixth-sense-episode-1-tt0167404

The Sixth Sense – Giác quan thứ sáu –  Bruce Willis,  Haley Joel Osment,  Toni Collette,  Olivia Williams

https://fsharetv.com/movie/three-kings-episode-1-tt0120188

Three Kings – Kẻ săn vàng – George Clooney,  Mark Wahlberg,  Ice Cube

https://fsharetv.com/movie/pirates-of-silicon-valley-episode-1-tt0168122

Pirates of Silicon Valley – Lịch Sử Apple Và Microsoft –  Noah Wyle,  Joey Slotnick,  J.G. Hertzler

https://fsharetv.com/movie/blue-streak-episode-1-tt0181316

Blue Streak – Kẻ Trộm Kim Cương – Martin Lawrence,  Luke Wilson,  Peter Greene

https://fsharetv.com/movie/the-tricky-master-episode-1-tt0212864

The Tricky Master – Bịp vương – Stephen Chow,  Nick Cheung,  Sandra Kwan Yue Ng

https://fsharetv.com/movie/the-thomas-crown-affair-episode-1-tt0155267

The Thomas Crown Affair – Tay Trộm Hoàn Hảo – Pierce Brosnan,  Rene Russo,  Denis Leary


https://fsharetv.com/movie/a-better-tomorrow-episode-1-tt0092263

A Better Tomorrow – Bản Sắc Anh Hùng – 1986 – Lung Ti,  Yun-Fat Chow,  Leslie Cheung,  Emily Chu

https://fsharetv.com/movie/a-better-tomorrow-ii-episode-1-tt0094357

A Better Tomorrow II – Bản Sắc Anh Hùng 2 – 1987 – Lung Ti,  Yun-Fat Chow,  Leslie Cheung,  Dean Shek


https://fsharetv.com/movie/a-better-tomorrow-iii:-love-and-death-in-saigon-episode-1-tt0098691

A Better Tomorrow III: Love and Death in Saigon – Bản Sắc Anh Hùng 3 – 1989 –
Yun-Fat Chow,  Tony Ka Fai Leung,  Anita Mui,  Kien Shih

https://fsharetv.com/movie/back-to-the-future-episode-1-tt0088763

Back to the Future – Trở lại tương lai – 1985 – Michael J. Fox,   Christopher Lloyd

https://fsharetv.com/movie/back-to-the-future-part-ii-episode-1-tt0096874

Back to the Future Part II – Trở lại tương lai phần 2 – 1989 – Michael J. Fox,  Christopher Lloyd,  Lea Thompson

https://fsharetv.com/movie/back-to-the-future-part-iii-episode-1-tt0099088

Back to the Future Part III –  Trở về tương lai phần 3 – 1990 – Michael J. Fox,   Christopher Lloyd,
Mary Steenburgen,  Thomas F. Wilson

https://fsharetv.com/movie/the-gods-must-be-crazy-episode-1-tt0080801

The Gods Must Be Crazy – Đến thượng đế cũng phải cười – 1980 – Marius Weyers,  Sandra Prinsloo

https://fsharetv.com/movie/the-gods-must-be-crazy-ii-episode-1-tt0097443

The Gods Must Be Crazy II – Đến thượng đế cũng phải cười 2 – 1989

https://fsharetv.com/movie/the-terminator-episode-1-tt0088247

The Terminator – Kẻ Hủy Diệt 1984 – Arnold Schwarzenegger,  Michael Biehn

https://fsharetv.com/movie/terminator-2:-judgment-day-episode-1-tt0103064

Terminator 2: Judgment Day – Kẻ Hủy Diệt 2: Ngày Phán Xét – 1991 –   Arnold Schwarzenegger, Linda Hamilton

https://fsharetv.com/movie/last-action-hero-episode-1-tt0107362

Last Action Hero – Người Hùng Cuối Cùng 1993 –  Arnold Schwarzenegger,  F. Murray Abraham

https://fsharetv.com/movie/the-godfather-episode-1-tt0068646

Bố Già – God Father – Marlon Brando – 1972

https://fsharetv.com/movie/the-godfather:-part-ii-episode-1-tt0071562

Bố Già 2 – God Father 2 – Marlon Brando – 1974

 https://fsharetv.com/movie/the-godfather:-part-iii-episode-1-tt0099674

Bố Già 3 –  The Godfather: Part III – 1990 –   Al Pacino,  Diane Keaton,  Talia Shire,  Andy Garcia

https://fsharetv.com/movie/jaws-episode-1-tt0073195

Jaws – Hàm Cá Mập

https://fsharetv.com/movie/jaws-2-episode-1-tt0077766

Hàm Cá Mập 2 – 1978

Xem phim Jaws 3-D -Hàm Cá Mập 3








































































Cựu Sĩ Quan HQ Các Khóa Lưu Đày

You received this message because you are subscribed to the Google Groups “Cựu Sĩ Quan HQ Các Khóa Lưu Đày” group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to luuday+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/luuday/PH8PR11MB67294F0D65558D0B44AE7FBBA41D9%40PH8PR11MB6729.namprd11.prod.outlook.com.

Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức kỷ niệm 71 năm ngày thành lập ngày 3/10/2022

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Chủ đề “47 năm phiêu bạt, Thủ Đức gọi ta về” đã thu hút đông đảo quan khách, các bạn đồng môn với nhiều màu áo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong buổi kỷ niệm 71 năm ngày thành lập Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức, do Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Trừ Bị Thủ Đức Nam California tổ chức tại nhà hàng Paracel Seafood, thành phố Westminster, vào chiều Chủ Nhật, 2 Tháng Mười.

Tân Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Nam California. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Thủ Đức gọi nhau về để các bạn đồng môn có dịp nhìn lại nhau, hàn huyên tâm sự sau những năm xa cách kể từ ngày mãn khóa, từ giã đồi Tăng Nhơn Phú để ra đơn vị. Giờ đây, họ được gặp lại nhau qua những mái tóc bạc phơ trong tuổi xế chiều lại càng thương nhau hơn trong tình huynh đệ chi binh, tình người trên đất khách.

Nhân dịp này, ban tổ chức cử hành nghi thức bàn giao chức vụ hội trưởng giữa cựu Hội Trưởng Nguyễn Trọng Thu (cựu SVSQ Khóa 12/Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức) và tân Hội Trưởng Vũ Đình Trung (cựu SVSQ Khóa 1/70 Trừ Bị Thủ Đức).

Tân Hội Trưởng Vũ Đình Trung nói: “47 năm phiêu bạt, Thủ Đức gọi nhau về để hoài niệm quá khứ của đồng đội, có những tuần lễ huấn nhục và những buồn vui trong quân trường, để nhớ lại những tháng ngày sinh tử có nhau trong các đơn vị, trên các chiến trường và để xem ai còn, ai mất. Đồng thời cũng để nhớ lại những đắng cay tủi nhục trong các trại tù ‘cải tạo,’ những mất mát trong các cuộc mạo hiểm đi tìm tự do.”

Nghi thức Truy Điệu Anh Linh Tử Sĩ. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

“Giờ này, những người may mắn còn sống sót vẫn hằng năm gọi nhau về, cùng ôn lại quá khứ hào hùng, và tưởng niệm những bạn đồng môn đã ra đi vĩnh viễn với niềm tiếc nuối khôn nguôi, qua những công lao xương máu của hàng hàng, lớp lớp đồng môn đã ngã xuống vì lá cờ vàng ba sọc đỏ và tự do, hạnh phúc cho đồng bào miền Nam Việt Nam trước năm 1975,” tân hội trưởng chia sẻ thêm.

Ban tổ chức long trọng cử hành Lễ Truy Điệu các bạn đồng môn và anh hùng tử sĩ trước bàn thờ anh linh tử sĩ. Cựu SVSQ Nguyễn Văn Chuyên đọc văn tế: “Vị quốc vong thân anh hùng tử sĩ, nghìn thu, vạn kỷ tổ quốc ghi danh. Hồn phách hiển linh về đây chứng giám. Nhớ những linh xưa bao mùa ly loạn, gối đất, nằm sương chiến trường u hiểm, đánh giặc ngày đêm giữ gìn non biển, giữ gìn từng tấc đất ông cha. Chính các anh, những người lính Cộng Hòa đem máu đỏ thắm tô cờ tổ quốc…”

Sinh Viên Sĩ Quan Nguyễn Văn Chuyên (trái) và Sinh Viên Sĩ Quan Vũ Đình Trung, tân hội trưởng phát biểu. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Cựu Đại Tá Lê Bá Khiếu, nguyên tỉnh trưởng tỉnh Quảng Ngãi, chủ tọa buổi tổ chức phát biểu: “Trường Bộ Binh Thủ Đức là một trong những quân trường lớn của VNCH. Cho đến cuối Tháng Tư, 1975, trường đã đào tạo trên 70,000 sĩ quan ưu tú cho tất cả Quân, Binh Chủng QLVNCH đã từng tham dự khắp chiến trường trên bốn vùng chiến thuật tại miền Nam Việt Nam, trong số đó có nhiều sĩ quan đã lên cấp tướng. Cho nên chúng tôi rất hãnh diện là một sĩ quan được xuất thân từ Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức.”

Trong số quan khách đến dự, Nghị Viên Kimberly Hồ của thành phố Westminster nói: “Cha của tôi là cố Đại Tá Hồ Sĩ Khải, cựu SVSQ Khóa 3/Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Là một hậu duệ của Quân Lực VNCH, cũng là hậu duệ của cựu SVSQ Trường Bộ Binh Thủ Đức, nên tôi phải có mặt trong ngày hôm nay.”

Đại Úy Đỗ Duy Tim (trái), Binh Chủng Nhảy Dù Quân Đội Hoa Kỳ, và cựu Đại Tá Lê Bá Khiếu. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Đại Úy Đỗ Duy Tim, Binh Chủng Nhảy Dù Quân Đội Hoa Kỳ, nói với nhật báo Người Việt: “Tôi là con cháu, hậu duệ của Quân Lực VNCH, và đang là quân nhân của Quân Đội Hoa Kỳ. Hoài bảo của chúng tôi là gìn giữ hòa bình cho thế giới, trong đó có Việt Nam. Các cựu quân nhân Quân Lực VNCH là những vị anh hùng đã từng chiến đấu trên khắp chiến trường miền Nam Việt Nam, trong số đó có thân nhân của chúng tôi. Tinh thần yêu chọn hòa bình và yêu tổ quốc của các chiến sĩ Quân Lực VNCH là gương sáng cho hậu duệ chúng tôi noi theo.”

Cựu Trung Tá Phan Khắc Nhượng, cựu SVSQ Khóa 4/Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, nói: “Tôi rất vinh hạnh và cảm động được tham dự buổi sinh hoạt của các bạn đồng môn, đã gợi cho tôi nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa tại trường Bộ Binh Thủ Đức, và những thời gian phục vụ trong quân đội cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975. Những kỷ niệm đó tôi không bao giờ quên được từ những khổ cực tại chiến trường, và sự ngược đãi của Cộng Sản đối với anh em của chúng tôi trong những trại tù ‘cải tạo.’ Với tinh thần võ biền, danh dự quân đội, chúng tôi vẫn duy trì truyền thống bất khuất của cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức để truyền lại cho những thế hệ mai sau.”

Nhóm Hậu Duệ Biệt Kích Biên Phòng trong nhạc cảnh “Những Đóm Mắt Hỏa Châu.” (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Nghị Viên Phát Bùi của thành phố Garden Grove và là chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California tâm tình: “Tôi rất mong trong một ngày nào đó, đất nước của chúng ta sẽ thay đổi để trở thành một quốc gia có tự do và dân chủ thật sự, để không phụ công ơn các chiến sĩ trong Quân Lực VNCH đã hy sinh thân xác và mạng sống của mình cho quê hương đất nước.”

Một chương trình văn nghệ phong phú với nhiều bài ca, tiếng hát trong gia đình của cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức, và hội đoàn bạn đến dự. Sau cùng là phần dạ vũ.

Ban văn nghệ Hội Ái Hữu San Diego đồng ca bài “Nước Nam Của Người Việt Nam.” (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Vào những đầu thập niên 1950, sau khi sáp nhập hai quân trường Sĩ Quan Nam Định và Sĩ Quan Thủ Đức, QuânTrường Bộ Binh Thủ Đức được thành lập. Trường được giao phó thêm nhiệm vụ đào tạo chuyên viên các ngành trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, như Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin, Quân Cụ, Thông Vận Binh (Quân Vận sau này) và Quân Chính, và được cải danh là Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức.

Tháng Tám, 1963, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH quyết định nhiệm vụ của trường là để đào tạo sĩ quan trừ bị cho quân đội, nên được đổi tên là Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau đó được đổi tên là Trường Bộ Binh Thủ Đức cho đến ngày tàn cuộc chiến.

Chương trình khiêu vũ sống động. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Năm 1962, Đại Tá Lam Sơn về làm chỉ huy trưởng, ông đã lấy phương châm cho trường là “Cư An Tư Nguy” để ghi trên phù hiệu và quân kỳ của các khóa sinh, có nghĩa là “Muốn sống yên ổn, phải nghĩ đến lúc hiểm nguy,” cũng có nghĩa là “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh.”

Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức được thành lập trên đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức. Cho đến 30 Tháng Tư, 1975, vị chỉ huy trưởng cuối cùng là Đại Tá Trần Đức Minh, Khóa 1 Nam Định. [qd]

CUỘC VƯỢT THOÁT KỲ DIỆU Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm

Hồi Ký từ Mặt Trận Khánh Dương. Đèo M’s Drak – Cuối Tháng 3/1975

Lời giới thiệu Của NT Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5ND:

Bác sĩ Liêm là Y sĩ trưởng cuối cùng của TĐ5ND khi tôi là TĐT. Trong trận Khánh Dương, khi theo lệnh BCH/ LĐ3ND triệt thoái về sau tuyến II, tức phía sau khu vực TĐ6ND. Tôi quyết định cho TĐ đoạn chiến và triệt thoái vào ban đêm. Khi ĐĐ54 dẫn đầu cánh quân B chạm địch, BS Liêm lại đi cùng cánh quân này vì còn chuyện trò tâm sự với Đại úy Huỳnh Quang Chiêu, ở gần nhà BS Liêm và là SQ được tôi chỉ định kèm cho Trung úy Vũ, tân ĐĐT/ ĐĐ54. Tr.Úy Vũ hy sinh và Đ.Úy Chiêu cùng BS Liêm mất tích. Khi về đến Sài Gòn tôi đến nhà 3 SQ này để phân ưu. Không ngờ khoảng 1 tuần sau, Quân cảnh Vũng Tàu liên lạc với TĐ để xin xác nhận có 2 SQ tên Chiêu và Liêm theo thuyền dân cập bến Vũng Tàu và nhất là họ mang theo chiến lợi phẩm là súng AK-47 của VC. Sau khi xác nhận, ngày sau 2 vị này về Sài Gòn. Tôi rất vui song lúc đó BS Liêm chỉ kể qua loa chuyện vượt thoát của ông. Hôm nay được đọc bài bS Liêm viết chi tiết về cuộc vượt thoát này, tôi rất vui và xin giới thiệu với bạn đọc câu chuyện vượt thoát hy hữu của 1 y sĩ quân y nhẩy dù.

Đã 42 năm qua, tôi những tưởng câu chuyện vượt thoát y như phim ảnh nầy đã chìm vào dĩ vãng. Nào ngờ các bạn Mũ Đỏ gần xa yêu cầu tôi nên ghi lại để được tỏ tường Nhảy Dù là Cố Gắng. Tôi cố gắng nhớ lại để không phụ lòng anh em mong đợi.

Ngày 1 (28/3/1975): Trời chiều của Tháng 3 thật là nóng bức. TĐ5 ND đóng trên sườn đồi gần đèo M’Drak. Đó là khúc đường trên Quốc Lộ 21 dài khoảng 20 Km. Đầu đèo cách Buôn Ma Thuộc (hay Ban Mê Thuộc) 96Km. Đoạn đường đầu đèo dài 4 Km nằm giữa hai dãy núi khá cao, vách núi dựng đứng. Núi Chu Kroa cao 958 m về phía Bắc. Các triền núi nhỏ hơn mà đỉnh cao nhất là 609 m về phía Nam. Các bạn cũng biết, Quốc Lộ 21 nằm giữa Quận Khánh Dương và Quận Ninh Hòa. Từ trên đồi cao, tôi nhìn qua Quốc Lộ 21 là Buôn Làng M’Mo của người ÊĐê với chừng năm ba mái nhà sàn xưa cũ. Tiểu Đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ Ban Mê Thuộc kéo về Nha Trang. Tôi nhìn thấy nhiều Thiết Vận Xa M113 án ngữ trước Buôn M’Mo, gần cây cầu xi măng trên Quốc Lộ 21. Tất cả đều ở tư thế sẳn sàng chiến đấu. Pháo địch bắt đầu rơi, băng qua ngọn đồi rồi rớt ầm đâu đó dưới chân đồi. Tiểu Đoàn vô sự. Đêm xuống dần, Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5 ND tiên liệu địch sẽ trèo lên đồi theo chiến thuật tiền pháo hậu xung nên ra lệnh cho mọi người đều phải sẵn sàng. Trời tối đen như mực, dưới đồi có tiếng chân người đạp lá rừng nghe xào xạc, có vẻ như rất đông người đang bò lên đồi. Lệnh triệt thoái, đi hàng một, im lặng, súng cầm tay, đạn lên nòng; cả tiểu đoàn di chuyễn theo nhau về hướng Đông Nam. Lúc đó là 7 giờ tối. Tôi đi theo theo Tr. Tá Quyền, cố gắng đi gần ông. Phải cố gắng lắm vì trời tối quá, đường đồi nhiều cỏ tranh và khó bước vì trơn trợt. Cũng may có Đại Úy Chương lâu lâu gọi khẻ “Bác Sĩ đâu rồi”. Khoảng 10 giờ đêm thì Tiểu Đoàn dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Pháo địch từ chân đồi phóng lên, nhìn rất đẹp y như mấy trái hỏa châu, hướng về TĐ 5 và nổ loạn xạ. Phân tán nhanh. Phân tán nhanh. Mọi người phóng nhanh về điểm hẹn để trực thăng xuống bốc. Tôi lạc đàn từ phút ấy!!!

Ngày 2 (29/3/1975): Nhiều tiếng hét đồng loạt “hàng sống chống chết” vang lên hung bạo và đầy hận thù từ dưới đồi dần dần to hơn, rõ hơn. Miệng tôi đắng lạ thường, tay chân tôi luống cuống, mắt tôi may còn kính cận thị chưa bị rớt. Tôi chui lẹ vào đám rể cỏ tranh rậm rạp mọc cao hơn đầu người, sau khi còn đủ trí khôn lăn long lóc xuống chân ngọn đồi nhỏ. Lúc này, địch dàn hàng ngang, cầm AK có lưỡi lê nhọn gắn đầu súng, vừa đi vừa xâm xoi tìm lính Dù để đâm cho chết hoặc bắt làm tù binh. Trong số đó không có tôi.

Tôi bình an vô sự. Lục soát đã ngưng, địch rút lui trong yên lặng. Suốt đêm đó tôi nằm yên, lạnh và ướt dưới đám cỏ tranh. Trổi dậy khi trời vừa sáng, tôi nghe có tiếng gọi của ai đó, nằm rất gần. Té ra là Minh, y tá Dù của tôi. Thầy trò mừng quá, ôm nhau và tôi lại có một túi cứu thương khá đầy đủ thuốc men do Minh trao lại “Em giao lại cho Bác Sĩ”. Hai thầy trò cứ nhắm hướng Đông mà đi vì nghĩ đó là hướng biển, hy vọng gặp lại những người cùng cảnh ngộ với mình. Băng rừng mà đi, bụng đói, miệng khát. Nhưng hai thầy trò may mắn gặp được Thiếu Úy H. và Trung Sĩ Q. cùng 3 lính Dù của TĐ5. Riêng Th. Úy H. còn bản đồ hành quân và địa bàn, và mọi người vẫn còn súng M16 và lựu đạn. Ngày nghĩ, đêm đi, cả đoàn 7 người đều còn sức khỏe.

Chúng tôi đạp nước theo dòng suối mà đi để địch không tìm ra dấu giày. Dọc đường dây điện thoại màu đen lẫn với lá rừng, nằm chơ vơ khi ẩn khi lộ thiên, đi không khéo đụng chạm, địch sẽ biết. Chúng còn khắc chữ K lên thân cây để chỉ hướng tiến quân về Nha Trang (dấu I và dấu < nhập lại thành chữ K, dấu < mũi nhọn là hướng tiến của địch) Nhờ có thuốc lọc nước Iodine mà chúng tôi uống nước dơ ngon lành. Lại có rau tàu bay và mấy con cua kẻ đá, chúng tôi ăn sống cho khỏi chết vì đói. Nhưng tôi bị kiết lỵ, dài dài cho đến ngày về đến Sài Gòn. Bình thường lính Dù ai cũng khỏe mạnh nên túi cứu thương không có thuốc trị kiết lỵ!

Ngày 3 (30/3/1975): Đêm nay cả 7 người tiếp tục băng rừng, đi đầu là Th.Úy H. kế đó là tôi, sau tôi là y tá Minh, rồi đến A Chãy (Chãy có nghĩa là Trai) và 2 lính Dù, Tr. Sĩ Q. đi đoạn hậu. Chúng tôi yên lặng đi cách nhau 2 sãy tay, vậy mà đôi lúc người không nhìn thấy bóng bạn phía trước. Tôi nhiều lần kêu khẽ “Th.Úy chậm bước chút xíu”. Cây rừng đan dày đặc, có cây to gốc 3 người ôm mới giáp vòng. Trong đêm tối có cây màu đen, có cây màu trắng do vỏ cây có lân tinh chiếu sáng. Tôi đưa tay vịn một sợi dây mây, ai ngờ “rột một cái” dây đó rút lẹ lên trên cành cây to, đó là một con rắn lớn thòng xuống rình mồi. Thật hú hồn! Đoàn người cả đêm đi không ngừng vì ngó lại hướng đóng quân cũ thấy ánh lửa sáng rực xa xa, chắc là địch đang đốt cháy tại nơi chúng vừa chiếm đóng. Th. Úy H. nói “mình phải đi thật nhanh hơn nữa”.

Ngày 4 (31/3/1975): Gần sáng, cả đoàn mệt và chân đã mỏi nhừ, tìm được một chổ ẩn núp khá an toàn là dưới một thân cây thật to bị đốn ngã nằm ngang do dân làm rừng để lại. Bố trí an toàn xong, cả đoàn nghỉ, nằm với lá cây phủ đầy người mà không dám thở mạnh. Đó đây, nhiều tiếng vượn hú “Húhu u u…Chóc chóc chóc” chúng gọi nhau trên các cây chà là rừng to cao để báo động có người. Lại còn có tiếng chim gì kêu nghe lạ tai “cọc cọc cọc” y như điệp khúc, nghe cũng ơn ớn. Những con vắt, đĩa và sâu đo, mấy ngày qua hút máu ở kẻ ngón chân và trong nách được chúng tôi “giải phóng” với cái bụng no nê đầy máu sau khi chúng tôi cởi giày ra và giủ áo mới thấy chúng còn bám chặt trong nách và các kẻ ngón chân. Miệng tôi đã khô đến nỗi không còn đủ nước bọt mà quyện với cỏ để dùng tay rứt chúng ra!

Ngày 5 (1/4/1975): Đã xa vùng hỏa tuyến, chúng tôi thử đi ban ngày và ngủ vào ban đêm, nhưng vẫn cảnh giác đề phòng địch. Đang đi, bất chợt Th.Úy H. ra dấu dừng lại. Phía trước mặt, chỗ mấy cây cổ thụ to, có một đám lá rừng chất đống bất thường, một bầy ruồi nhăng bay lên với mùi hôi thối của xác chết!!! Địch đã giết chết nhiều lính Dù và lính Bộ Binh, tháo giày vì các xác đều chân trần, rồi phủ lá rừng che lại. Chúng tôi đứng nghiêm chào kính và ngậm ngùi chào tiễn biệt các anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân. Mong các anh thông cảm cho chúng tôi phải vượt thoát lẹ, cầu mong các anh phù hộ cho chúng tôi về được đến nhà. Bước đi rồi, tôi mới thấy mặt mình sao ướt ướt! Có thể vì tôi vẫn còn nhớ khi học “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn:

“Hồn tử sĩ gió ào ào thổi.
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người.
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn!”

Trên đường đi, chúng tôi còn gặp các tử sĩ dụm năm dụm ba, phủ lá đầy ruồi nhặng và đã phân hủy, do địch giết hại. Đếm được 4 chỗ như vậy, chúng tôi nghĩ là còn nhiều nữa trong cánh rừng Khánh Dương này.

Ngày 6 (2/4/1975): Vẫn di chuyển hàng một với Th. Úy H. đi đầu và Tr. Sĩ Q. đoạn hậu. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đang đi vào vùng đất Cọp Khánh Hoà Ma Bình Thuận. Nhiều dấu chân Cọp được chúng tôi nhìn thấy gần các bụi tre gai rừng màu vàng sẩm. Đang đi cả đoàn phải ngồi thụp xuống, ô kìa, phía trước mặt, một bầy nai lông xám, chừng 8 con đang cúi đầu xuống uống nước hố bom, có một con nai đực có gạc to đứng canh chừng. Đừng bắn, đừng bắn, địch nghe tiếng súng M16 sẽ bao vây và chúng ta khó thoát. Cả đoàn nghe lời tôi, mặc dù ai cũng đói vì đã đi 5 ngày rồi. Đàn nai đánh hơi, thấy động, thoáng một cái đã biến nhanh vào rừng. Chúng tôi lấy bi đông ra lấy nước, sau khi bụm tay lấy nước rửa mặt và uống thật no. Tôi cảm thấy cũng không xong vì đói lâu ngày chỉ nên uống vài ngụm. Tiếp tục đi, độ nửa giờ sau, chúng tôi gặp một cái chòi che đậy bằng cành cây lá rừng. Chắc là địch di chuyển nhanh về Nha Trang nên bỏ trống. Dưới nền đầt đào sâu đủ cho 3 người núp, chúng tôi gom được nhiều lương khô, là các bánh cơm và các thẻ đường vàng bọc ngoài giấy in đầy chữ tàu. Bây giờ, đoàn gặp phải một cái hào nước không sâu nhưng chạy dài về hướng Đông. Thôi đành phải lội, nước ngập tới ngực, súng phải kê cao khỏi đầu, đoàn lội hàng dọc, vén lau sậy mà đi.

Vừa lên bờ, chúng tôi chạm trán 2 cán binh địch với 2 súng AK 47 chỉa thẳng vào và bắt tất cả chúng tôi buông súng. Gần đó có một ngôi chùa, chúng tôi bị 2 tên cán binh này dẫn độ về đó. Đến nơi chúng bắt chúng tôi ngồi chung một chỗ ngoài hiên chùa. Chúng gom hết súng và lựu đạn của chúng tôi để một chỗ xa hơn trong chùa, xong cả 2 đứa bình tĩnh đi chiên cá chờ đơn vị bộ đội của chúng sắp về ăn cơm chiều. Chúng gác 2 cây súng AK gần bên chảo dầu đang sôi sùng sục thơm nức mùi cá chiên chừng 5 con vừa bắt ở dưới hào.

– Hành động ngay. Hành động ngay.

Th.Úy H. và Tr. Sĩ Q. bàn chuyện cướp súng và hạ 2 tên này. Kế hoạch được thi hành ngay trong chớp nhoáng, 2 tên ngã quỵ vì đòn hội đồng với que củi tạ. Chúng tôi gom hết cá chiên vào 2 nón cối, quơ luôn 2 súng AK, dép râu cùng dây nịt bằng da nâu. Toàn là chiến lợi phẩm rất hữu dụng sau này trên đuờng vượt thoát gian nan. Thật nhanh và thật gọn, 7 người chúng tôi chạy nhanh ra khỏi chùa để tránh địch trở về biết được và truy lùng. Trời đã về chiều, ống cống thông thủy gần quốc lộ hiện ra cứu chúng tôi. Cả đoàn chui ngay vào và chạy thật lẹ trong đường cống có đường kính cao hơn đầu người. Đường tối om om, chân tôi đạp nước cống bì bõm, mồ hôi nhể nhại, người nóng, tim đập thình thịch. Ra khỏi đoạn đường ống cống là khoảng đất trồng bắp của dân quê vắng ngắt, chúng tôi dừng lại, xúm nhau bốc cá chiên còn nóng và ăn vội vàng. Thật tuyệt vời làm sao! Đói quá nên tôi chưa kịp nhai đã nuốt, may mà không bị hóc xương cá, hay là đã nuốt luôn xương cá nhỏ rồi chăng?! A. Chãy còn đi vào rẫy bẻ trộm bắp non được vài trái, xong cả đoàn chạy bang vào lùm cây trước mặt, thì trời đã tối hẳn, bỏ lại sau lưng tiếng la của dân làng và tiếng chó sủa truy đuổi. Lại một đêm ngủ trong rừng lá thấp, chúng tôi lấy Iodine bỏ vào bi đông nước để lắng chết mấy con đĩa nhỏ, uống ngon lành, chia phiên gác xong, tôi ngủ thiếp đi.

Ngày 7 (3/4/1975): Khi mặt trời đã lên cao, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Đông do địa bàn chỉ hướng. Khi qua một bụi tre cao có hai con chim nhỏ như chim cu, cứ bay trên đầu chúng tôi, một con kêu “te te”, con kia kêu “hoạch hoạch”, ai nuôi hay chim rừng? Chúng tôi sợ bị lộ nên cứ chạy thật nhanh để rút vào rừng cây trước mặt. Đến nơi, vừa lăng xuống đất nằm để thở, tôi nhớ lại chuyện Tấm Cám mà mỉm cười một mình “Te Te hoành hoạch, giặt áo chồng tao, phải giặt cho sạch, đừng phơi hàng rào, rách áo chồng tao”. Đường đi bây giờ là con đường quanh co và xuống dốc, không còn những cây to và gai rừng cản trở nữa, nhưng vượt qua những khoãng trống thật không phải dễ. Để tránh địch thấy và bao vây bắt trọn, chúng tôi ngụy trang, người cắm đầy cành lá cây rừng địa phương. Bảy bụi cây người di chuyển chậm qua các khoảng trống. Đến chân một gò cao, ô kìa có cây cam rừng nặng trĩu trái chín xanh xanh vàng vàng. Thế là chúng tôi xúm nhau rung gốc cây, thu được vài chục trái cam chín rụng xuống.

Thôi rồi, nước cam đắng như nước trái khổ qua! Đàng kia có một cái mương nước đã khô nhưng kẽ đá chặn có nước nhỏ giọt, chúng tôi hứng được nửa bi đông. Đến chiều chúng tôi lọt vào vòng đai của Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Nha Trang). Tối hôm đó chúng tôi yên lặng nằm nghỉ bên mấy gò mả, nhưng lại thức giấc vì tiếng thở phì phò của vài con bò bị chủ chạy giặc bỏ lại. Tr.Sĩ Q. và ba lính Dù thịt con bò nhỏ, cắt một cái đùi bỏ vào ba lô và lấy lá gan còn nóng hổi chia cả đoàn cùng ăn sống cho đỡ đói. Gan bò sống, tanh, còn ấm, khó nuốt, nhưng đói quá, tôi cũng nuốt được. Bây gờ, bệnh kiết lỵ của tôi đã bớt nhiều, người gầy ốm và râu cũng mọc dài lưa thưa. Nhờ trời, hai chân tôi vẫn còn đi khỏe lắm.

Ngày 8 (4/4/1975): Trời gần sáng, chúng tôi chạy vội lên một ngọn đồi, lên cao, ngắm nhìn biển đã hiện ra về phía Đông. Xa xa có một hòn đảo nhỏ, bản đồ hành quân ghi là Hòn Bà Lớn. Mặc kệ là Bà Lớn hay Bà Nhỏ, bằng mọi cách cả đoàn phải bơi qua bên đó vì Nha Trang sắp mất hay đã mất. Qua hòn đó rồi coi có chiến hạm Hải Quân mình vớt hay không? Cả đêm nằm suy nghĩ liên miên, tôi khấn vái liên tục mỗi khi thấy một sao sa trên bầu trời đầy sao, rồi khấn nữa khi nhìn xuống quốc lộ xa xa, cả một đoàn xe Molotova chở đầy lính địch ngụy trang lá rừng tiến về hướng Nha Trang.

Ngày 9 (5/4/1975): Hừng sáng, cả đoàn chạy như điên xuống mé nước. Thật là kỳ diệu, nói ra không ai chịu tin, một chiếc ghe nhỏ cắm sào ở mé nước trong bờ lau sậy và rong biển. Tôi định gọi chủ ghe xin quá giang nhưng ghe vắng chủ. A. Chãy nhảy vào khoang ghe và kêu to “có cá kho. Có cá kho, Bác Sĩ ơi!” Thế là cả đoàn lại được một bữa tiệc Trời cho. Lập tức, 7 người chúng tôi leo lên ghe, nhưng A. Chãy xin ở lại về với bà Dì còn kẹt ở Nha Trang, nên cậu ta khóc từ giã, cởi hết quân phục bỏ lại, chỉ mặc áo thun quần đùi, đi chân không, chạy về phía cây số 4 trên quốc lộ hướng về Nha Trang. Sáu người còn lại, chia nhau 2 tay chèo, 2 tay gỡ ván làm chèo phụ, còn 2 người thì dùng 2 nón cối tát nước trong ghe để ghe nhẹ đi nhanh. Chúng tôi hì hục, vội vã chèo ghe qua Hòn Bà Lớn. Nắng lên cao, sóng biển không to, nhưng gió thì mạnh và lạnh. Ghe lại bị lỗ mọt, hở, nước biển tràn vô. Phải chèo gấp, nước vô ghe sẽ chìm giữa biển! Độ 30 phút sau, ghe cập bến cát và đá ngầm, chúng tôi ướt át hoàn toàn, đem chiến lợi phẩm vào gấp và núp trong một góc đá để nghe ngóng tình hình, chờ hết mệt mới tính tiếp. Đến 10 giờ sáng, cả đoàn họp lại bàn chuyện. Nếu không thoát khỏi đây, thì chắc 6 người sẽ là tù binh của địch.

Ngoài khơi, tuyệt không thấy bóng một chiếc tàu của Hải Quân Việt Nam mình. Mọi người buồn và suy nghĩ lung lắm. Tôi nghĩ không lẽ mình sẽ chết ở đây?! Ý nghĩ loé lên, đề nghị với Th.Úy H và Tr. Sĩ Q., tôi nói “Đã nằm trong lòng địch, tại sao mình không ăn mặc và nói năng giả làm địch, Th.Úy, Tr. Sĩ và tôi đội nón cối, mang AK và đi dép râu, còn 3 lính Dù thì trói lại, cởi giày làm như tù binh ngụy bị ta bắt được giải về Nam điều tra gì đó theo lệnh cấp chỉ huy. Tôi có cây súng lục nhỏ đi đầu làm chỉ huy, kế đó là Th. Úy, còn Tr. Sĩ cầm AK đi đoạn hậu canh 3 tù binh giả đi ở giữa. Tất cả quần áo Dù và giày, súng M16, nón sắt coi như chiến lợi phẩm, mình tọng vào cái bao tải lớn của bộ đội này rồi Tr. Sĩ mang đi sau chót. Phải đóng kịch cho thật khéo, lộ ra là chết cả đám”. Cả đoàn đồng ý làm theo kế hoạch của tôi, mọi sự phó cho Trời Phật giúp đỡ. Hoá trang xong, cả đoàn theo thứ tự di chuyễn về phía Nam trên Hòn Bà Lớn.

Chúng tôi gặp một nhà sư tuổi trạc trung niên, mặc áo vàng, trong cái chòi nung than cây bán vào đất liền đang làm việc đốt than. Nhà sư thấy chúng tôi, đứng lên, từ tốn hỏi “quý vị có cần bần tăng giúp gì không?” Tôi trình bày là tiến quân vào Nam, bắt được 3 tên ngụy hết sức nguy hiểm, lệnh Đảng chỉ thị dẫn độ chúng vào Nam, ở đây có phương tiện đường thủy gì không. Sư bèn chỉ về cuối đảo này, có dân quân và dân làng chài có thể giúp đỡ cho các đồng chí. Chúng tôi cảm ơn nhà sư, và tiếp tục đi thong thả về phía cuối đảo mà trong lòng vô cùng căng thẳng, chưa biết lành dữ ra sao. Lúc đó là 6 giờ chiều, trời nhá nhem tối. Đang đi, chúng tôi bị rất nhiều dân quân bao vây, chúng nổ AK đùng đùng chỉ thiên bắt chúng tôi dừng lại. Xong chúng tiến lại gần, tên chỉ huy trông có vẻ nhà quê, hắn hỏi, tôi trả lời y như khi gặp sư làm than. Chúng tạm tin và dẫn chúng tôi về làng chài mà không hỏi giấy tờ gì cả. Độ 1 giờ sau, chúng thắp đèn dầu và mời tôi ngồi, rồi rót trà mời uống và nói chuyện. Đến 10 giờ đêm, tên chỉ huy cho mấy dân quân dẫn chúng tôi ra một chiếc ghe chài lớn, trên đó có vợ chồng chủ ghe và 1 em bé còn ẳm trong tay, còn có 1 cậu dân làng theo phụ. Đám dân quân chào tạm biệt chúng tôi y như chúng chào các đồng chí của chúng. Ghe bắt đầu nhổ neo, chúng tôi thở phào thoát nạn.

Máy ghe chạy tạch tạch thật mau, Nhưng Tr. Sĩ Q. vội la lên “Ê! chạy đi đâu? Tính chạy vào nội à?” Nhanh như chớp, Th.Úy H nhảy vào buồng lái, kê súng AK vào ngực chủ ghe bắt hắn lái về Nam theo hướng Sao Nam Tào đang loé sáng trên nền trời đêm. Cậu phụ ghe thấy mưu gian bị lộ, nhảy ùm xuống biển thoát thân Vợ chồng chủ ghe khai thật, là dân quân bắt họ lái ghe vào đất liền (nội) để giao cho bộ đội lập công. Bây giờ xin các ông tha cho, tụi tôi không dám về lại Hòn nữa, mà theo các ông về Nam, nhưng ghe sắp cạn dầu, không đủ dầu để về đến Vũng Tàu. Sẵn ngụy trang là địch, chúng tôi phải liều một phen nữa. Th.Úy H. đứng đầu ghe, Tr. Sĩ Q. ghìm súng AK ở buồng lái canh chừng tên chủ ghe đang cầm tay lái. Ở phía ngược lại đi về hướng Nha Trang có một ghe chài lớn mang cờ đỏ sao vàng đang lướt tới, đầu ghe có một cán binh địch cầm AK. Th.Úy H. cho ghe chậm lại. Tr. Sĩ Q. hét tên chủ ghe hãm tốc. Ghe bên kia, chưa biết chuyện gì, cũng hãm tốc. Khi 2 ghe cập lại, Th. Úy H. xưng đồng chí, nhờ giúp dầu để về đến Vũng Tàu giao 3 tên ngụy nguy hiểm này theo lệnh đảng. Lập tức 4 thùng dầu được chuyển qua ghe chúng tôi. Nhờ vậy chúng tôi đi suốt đêm, hướng về Nam.

Ngày 10 (6/4/1975): Dọc đường biển, ghe chạy ngoài khơi, đất liền khó thấy. Nhưng Th. Úy H. canh địa bàn đúng hướng, im re không nói gì, tôi cũng yên bụng, nhưng lại ói vì say sóng. Uống thuốc vào thì bụng tôi lại yên. Ghe có ghé vào một đảo nhỏ để mua thêm dầu, chúng tôi kè sát vợ chồng chủ ghe vì sợ họ trốn mất. Cả đoàn bây giờ ăn mặc quân phục Dù lại như cũ. Chúng tôi cám ơn lẫn nhau cho màn đóng kịch gạt địch quá phiêu lưu mạo hiểm như thế này. Binh pháp Tôn Tữ chắc cũng có câu “phải đặt mình vào đường chết mới mong tìm ra lối sống”.

Ngày 11 (7/4/1975): Phải mất thêm một ngày ghe chúng tôi mới cập bến Bãi Trước (Bãi Tầm Dương) của Vũng Tàu. Sống thật rồi! Sống thật rồi! Cả đoàn hân hoan nhìn rất nhiều ghe chạy giặc đang bỏ neo, nhấp nhô lên xuống theo sóng biển vỗ vào bờ đá Bãi Trước. Lúc đó là 11 giờ đêm. 12 giờ đêm là giờ giới nghiêm. Sáu anh em chúng tôi từ giã và cám ơn vợ chồng chủ ghe, sau khi tôi tặng 1 số tiền vài ngàn gọi là đền ơn. Chúng tôi phóng lẹ lên bờ, đi tìm một cái quán gần đó, gọi chủ quán nấu cho 1 nồi canh chua cá bông lau với chục trái ớt dầm nước mắm thật cay. Chủ quán chịu chơi còn mang ra 3 gói thuốc Salem và hộp quẹt. Chưa bao giờ anh em chúng tôi vui mừng ăn cơm canh chua và uống bia, hút thuốc đầy tinh thần Mũ Đỏ sống chết có nhau, tương thân tương ái đến như thế này. Giờ giới nghiêm đã tới. Chủ quán đóng cửa. Đường phố vắng tanh. Anh em chúng tôi lúc này vô gia cư nên đành nằm ngoài sân trước quán mà ngủ.

Ngày 12 (8/4/1975): Trời đã hừng đông, người qua lại thật tấp nập, lộn xộn, ngơ ngác. Loạn lạc có khác. Sáu anh em Nhảy Dù ra đón xe đò về Sài Gòn. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt ngạc nhiên, chắc có một chút thán phục và thương hại vì Th. Úy H. luôn miệng nói “chúng tôi về từ mặt trận Khánh Dương và đây là Bác Sĩ Liêm, người về từ cõi chết”. Xe đò dừng lại, phụ xế mời anh em chúng tôi lên xe đang đông nghẹt khách, cho ngồi ghế “súp” vì xe hết chỗ, không tính tiền vì nể lính Nhảy Dù.

Xe về đến Ngã Tư Hàng Xanh thì Quân Cảnh chận lại để xét. Chúng tôi ngồi yên. Quân Cảnh 204 (là Quân Cảnh của Sư Đoàn Nhảy Dù) lên xe và kêu “Ồ! Bác Sĩ Liêm còn sống à! Chào Bác Sĩ, cả Sư Đoàn đều nói Bác Sĩ đã chết. Mời BS và Th.Úy, Tr.Sĩ và 3 anh em đây lên xe Jeep về thẳng Bộ Tư Lệnh. Các nón cối, súng AK, dây nịt, dép râu của địch, tụi tôi xin phép mang về Bộ Tư Lệnh luôn”. Tôi xin phép đi riêng về nhà để tắm rửa, cạo râu và mặc quân phục chỉnh tề, rồi tôi sẽ vào trình diện diện Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng và Trung Tá Bùi Quyền sau. Vừa về đến nhà, chưa kịp hàn huyên với gia đình thì “Két” một cái, xe Jeep của Tiểu Đoàn 5 ND do đích thân Trung Tá Bùi Quyền lái, đến nhà đón tôi về hậu cứ của TĐ là trại Ngô Xuân Soạn ở Tam Hiệp, Biên Hòa, mổ một con bò khao quân và mừng Bác Sĩ Liêm trở về bình an vô sự. Nhảy Dù Cố Gắng.

Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm,
Cựu Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù