Truyện ngắn ‘ĐÊM GIAO THỪA’

Trường chúng tôi dạy học là một ngôi trường tiểu học không lớn, có tất cả 10 lớp buổi sáng và 10 lớp buổi chiều. Sau tháng Tư năm 1975 trường được điều hành bởi một chị Hiệu trưởng còn trẻ cỡ tuổi chúng tôi và một chị Hiệu phó lớn hơn chúng tôi chừng mười tuổi. Chị hiệu phó này rất độc ác và là hung thần của chúng tôi nên chúng tôi thường nói riêng với nhau, gọi lén chị ta là “bà phù thủy.”
Ngay từ tuần lễ đầu chị về trường, chúng tôi nhiều người đã không thích chi.  Chị là người miền Nam. Tôi thường nghe người ta nói rằng người miền Nam hiền lành, thật thà và nhân hậu. Nhưng chị hiệu phó này thì ngược lại. Chị cao, thân hình lép và lỏng chỏng. Chị có gương mặt dài, hơi gẫy, xương xẩu và một màu da thâm xám. Mắt chị sâu hoắm và nhanh như mắt diều hâu. Chị ghê gớm, hiểm ác như con sói. Chị theo dõi chúng tôi từng giờ, từng phút. Những lúc học trò ra chơi, chị luôn luôn đi dạo ở hành lang, dòm vào từng lớp xem cô nào đến lớp nào và ai hay nói chuyện với ai.  Nhất là những cô giáo có chồng tù cải tạo thì chị ghét ngay ra mặt và luôn tìm lúc bất ngờ, làm cho luống cuống, khó xử trước mặt mọi người. Chị kiểm soát giáo án gắt gao, thấy chữ nào bẻ được là chị bẻ ra làm nhiều mảnh vụn theo sự suy diễn một chiều của chị để làm chúng tôi lo sợ. Chị dự giờ liên tục và hay bới móc để hỏi những câu hóc búa về tư tưởng chính trị thật bất ngờ.

Chúng tôi, phần lớn là giáo viên lưu dụng từ chế độ cũ nên ai cũng ngán và sợ chị bởi chị rất có uy quyền. Đôi khi chúng tôi có cảm tưởng uy quyền của chị đã lấn át cả chị Hiệu trưởng từ ngoài Bắc được bổ nhiệm vào. Chị có chồng nằm vùng chức huyện ủy.  Mười mấy năm trong nghề giáo, chị đã cùng chồng nằm vùng. Chữ “Nằm Vùng” được chúng tôi hiểu theo nhiều kiểu. Theo kiểu xã hội chủ nghĩa mà chúng tôi được cán bộ vừa tốt nghiệp bình dân học vụ giảng giải trong những buổi học tập chính trị thì những gia đình như gia đình chị là một mẫu gia đình có công lớn với cách mạng vì chị đã hy sinh nhiều công sức và tiền của trong thời gian “đánh Mỹ cứu nước.” Nhưng theo kiểu Ngụy của chúng tôi thì chị là người phản bội lại cái chế độ đã cho chị no cơm, ấm áo, cái chế độ đã cho chị được sống bình yên, có cơ hội ăn học để chị thành hiệu phó của cái xã hội chủ nghĩa hôm nay. Để có được cho chị và chồng chị những ngày yên lành vui sống đó, tài sản của chị được nguyên vẹn và giàu có hơn lên đó thì ở những phần đất nào trên quê hương, máu những người chiến sĩ đã đổ, những mảnh đời còn xanh đã bị bom đạn cướp đi mà chị không hề biết ơn và đau xót. Nghĩa là, chị đã ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản. Chị đã phản bội lại nguồn ơn đó bằng việc nuôi dưỡng, giấu giếm, cung cấp tin tức của miền Nam và tiếp tế tiền bạc, thuốc men cho những người theo Việt Cộng ở bưng.Chị giàu. Rất giàu nên chị không bao giờ biết được những khó khăn về vật chất mà người dân của chế độ cũ như chúng tôi đang nhận chịu sau khi miền Nam được chị và các đồng chí của chị giúp công “giải phóng. “Chị là giai cấp thống trị nên chị không hiểu được những nỗi đau tinh thần của người bị trị. Chị đứng vào hàng ngũ của kẻ “chiến thắng” nên chị không biết thế nào là nỗi đau khổ của người bị bức bách đầu hàng. Chị vui mừng trước tai họa của đất nước nên chị không có tâm trạng đau thương của hận quốc vong. Chị không biết thế nào là giọt nước mắt tủi nhục xót xa của người vợ đi thăm chồng tù cải tạo.Chị lại không có con, vì thế, chị không bao giờ biết thông cảm và tội nghiệp cho chúng tôi, những người mẹ trẻ có con nhỏ, nuôi con một mình và còn nuôi chồng tù cải tạo trong một tình huống rất cô đơn và cực kỳ khó khăn của cả hai mặt tinh thần và vật chất. Bởi vậy, cô nào có con đau, xin nghỉ để săn sóc con là khốn khổ với chị. Chị bảo là tắc trách, không làm tròn và không coi trọng chức năng của người “kỹ sư tâm hồn”. Chị tìm mọi cách từ chối và ngầm hăm dọa để chúng tôi hiểu là sự việc có thể sẽ được báo cáo lên Phòng Giáo Dục và như vậy có nghĩa là chúng tôi sẽ có thể không được vào biên chế. Lúc đó, hai chữ “BIÊN CHẾ ” như liều thần dược, như lá bùa hộ mạng mà những người vợ Ngụy như chúng tôi cần hai chữ đó như cái phao của kẻ bị đắm tàu. Không được vào biên chế đồng nghĩa với có thể bị cho nghỉ việc và tương lai là đi kinh tế mới. Bọn giáo viên chúng tôi, phần lớn có con nhỏ và không biết làm ruộng nên ai nấy nghe thấy ba chữ Kinh Tế Mới đều kinh hoàng sợ hãi. Vì thế, ngoài việc phải gặp chị có chuyện cần, các giáo viên đều tránh chị. Tôi cũng ở trong trường hợp đó. Có lần giáo viên đi học tập chính trị, con tôi đau, không có ai coi sóc, tôi phải ẵm thằng con đang sốt nóng đi theo. Chị nhìn tôi cười cười đắc ý khi thấy gương mặt thiểu não, hốc hác của tôi bồng đứa con đang đau, đặt nằm trên một bàn học trống trong phòng rồi vội vã ngồi vào bàn hội thảo. Cuối cùng, chị và chúng tôi tuy cùng giới phụ nữ nhưng ở hai thế giới mà không bao giờ có thể gần gũi và thông cảm được nhau.Chung đụng và gặp gỡ nhau dưới một mái trường hằng ngày, chúng tôi vẫn phải gượng gạo chào hỏi chị nhưng nếu vô tình phải gặp chị trong những buổi sinh hoạt khác như đám cưới đám hỏi của đồng nghiệp hay tất niên chẳng hạn, chúng tôi thường ngồi túm lại với nhau và chị thường ngồi hoặc với vài người mới về trường hay với vài người quen xu nịnh. Thấy thế, chị càng căm chúng tôi.
Một lần tất niên, nếu tôi nhớ không lầm thì vào năm 1978, ban giám hiệu bảo chúng tôi góp tiền chung nấu một nồi bún măng giò heo để làm tiệc. Nhà trường dưới chế độ XHCN thật là ưu việt và sáng tạo, vì thế, khi có tiệc, giáo viên chúng tôi mỗi người phải tự đem một cái tô, một đôi đũa, một cái muỗng theo mà…ăn tiệc! Kim, một cô giáo mới về trường, chiều hôm ấy cô đến nhà tôi chơi để sau đó cùng đi dự “tiệc” cho vui. Cô còn trẻ lắm, bố chết, mẹ bị tê liệt, nhà đông em nên cuộc sống lại càng thêm eo hẹp. Sau khi tôi khóa cửa lại, dặn dò bày con xong, cô vừa đi bên cạnh tôi vừa giơ cái túi vải trong tầm mắt, nhìn tôi cười như mếu:
– Chị ạ, em phải đem theo cái tô lớn để ăn được nhiều!
Tôi nghe, cảm thấy buồn tê tái. Thương cô và cũng thương chính tôi ghê lắm nhưng tôi không hỏi cái tô lớn cỡ nào. Đến khi nhập tiệc, mỗi người cầm tô của mình ra chỗ nồi bún, múc một tô, bỏ thêm chút ớt, chút tiêu, chút hành ngò rồi tìm chỗ ngồi vừa ăn vừa trò chuyện cho đúng nghĩa một buổi tiệc của XHCN. Cô bưng tô bún đến ngồi bên tôi, mới cho vào miệng được gắp bún thứ hai thì giọng nói của chị hiệu phó reo lên như bắt được vàng phía sau lưng:
– Ô, Coi kìa, cái tô của cô Kim gì mà bự dữ thần không. Ăn gì mà khoẻ quá trời quá đất!Chúng tôi không ai bảo ai, như một phản xạ, đều nhìn về phía Kim. Kim ngưng ăn, đôi đũa trên tay bất động. Mặt Kim đỏ gay rồi chuyển sang màu tái . Kim nhìn xuống tô bún, ánh mắt lóe lên một nỗi đau thương. Tôi quay nghiêng người lại, ngước nhìn vào gương mặt người vừa thốt ra lời đó. Nhìn cặp môi mỏng của chị cười cười và nét mặt hân hoan tự mãn tôi có cảm nghĩ rằng chị phải vui lắm vì vừa nói được một câu mà chị cho là đầy tính “đạo đức cách mạng”. Bỗng nhiên, tôi thấy thật là tội nghiệp cho bề ngoài sang trọng của chị: mái tóc vừa được cắt uốn gọn ghẽ, bộ quần áo may bằng vải đắt tiền và đôi bông hột xoàn to như hai hạt bắp lấp lánh trên tai. Tôi vốn chậm chạp ứng phó, không biết phải nói gì cho Kim bớt ngượng thì may quá, thày Tùng lên tiếng:
– Đáng lẽ tất cả mọi người phải đem theo một cái tô to như thế để ăn mới đúng. Tôi sẽ ăn hai tô. Bún nấu ngon quá các cô các thày ơi …
Tuy có câu nói đỡ đòn của thày Tùng nhưng không khí buổi tiệc tất niên của nhà trường XHCN hôm ấy vẫn không thể “siêu việt ” được thêm. Chúng tôi yên lặng ăn cho xong và cùng đi về sớm hơn dự định.Qua tết, chúng tôi lại đến trường tiếp tục công việc “trồng người”, cái việc trồng tỉa lạ lùng có những bài tập đọc không đúng sự thật. Nói trắng ra, chúng tôi phải làm bổn phận của “người giáo viên nhân dân trong nhà trường cách mạng”, “người kỹ sư tâm hồn là nhồi nhét vào đầu óc trong lành của những em bé Việt Nam những huyền thoại, chuyện phong thần. Hay nói theo cách nói lén của một số nhỏ chúng tôi ” những tư tưởng nhớn của bác Hồ dĩ đại ” .*Thế mà 17 năm sau tôi lại gặp chị hiệu phó của nhà trường XHCN tại Hoa Kỳ, xứ sở của đế quốc Mỹ, kẻ thù số một của bọn chị. Gặp tôi, chị còn ngờ ngợ nhưng tôi thì nhận ra ngay đôi môi mỏng, gương mặt xương, hơi gẫy và dài. Duy chỉ có cặp mắt hoắm sâu độc ác, thất thần là khác với khi xưa.Cứ mỗi cuối năm, cộng đồng Việt Nam tị nạn CS ở tiểu bang chúng tôi lại tổ chức Tết để giữ tập tục cổ truyền là lì xì cho các em thiếu nhi đồng thời tạo cơ hội cho đồng hương họp mặt. Tôi đã gặp lại chị trong ngày đó. Chị đi với một gia đình tôi quen, anh chị Khang. Khi chị Khang và tôi chào nhau thì chị hiệu phó của XHCN giương đôi mắt đờ đẫn, thất thần nhìn tôi ngờ ngợ, e dè:
– Có phải…. cô là…cô Phương không? … cô Phương xưa dạy ở trường TB phải không?
Tôi nhìn chị mỉm cười:
– Thưa đúng. Chào chị hiệu phó. Không ngờ lại gặp chị ở đây.
Chị Khang ngạc nhiên:
– Ủa, thế ra hai bà quen nhau à?
Tôi lại cười:
– Không dám. Nói quen thì phạm “đạo đức cách mạng” của nhà nước ta mất thôi . Khi xưa, tôi làm việc dưới quyền chị hiệu phó đấy. Ngày ấy, có nhiều kỷ niệm lắm. Kỷ niệm nào cũng rất khó quên.
Hiểu ý, chị hiệu phó thở dài, nhìn xuống như lẩn tránh ánh mắt của tôi, giọng chị thật buồn:
– Tất cả đã hết rồi . Tha lỗi cho tôi, cô Phương.
Nghe chị nói, dù không hiểu rõ câu “tất cả đã hết rồi” ý nghĩa ra sao nhưng tôi cảm được sự ân hận trong giọng nói như nghẹn ngào của chị và tôi không hỏi gì thêm.
Hôm sau chị Khang điện thoại cho tôi và hỏi:
– Ngày xưa, bà làm việc với bà Thanh hả ?
– Vâng.- Gia đình cách mạng đấy. Giàu và ghê gớm bất nhân lắm. Nhưng nay thì sáng mắt ra rồi.
Rồi không đợi tôi hỏi, chị Khang nói luôn một mạch:
– Tên Tư Công, chồng bà ấy, giàu có lắm nhưng lại rất bạc ác tham lam. Hắn ta được bọn đàn anh XHCN của hắn phong cho chức giám đốc một cơ sở tơ sợi gì đó nhưng mục đích là để cho hắn có điều kiện thụt két, tham nhũng, ăn cắp tài sản nhà nước chia nhau.  Nhưng hắn xử không đẹp với đồng bọn sao đó nên bị bọn đàn em nó tố. Khi hắn ta bị tù và sắp đến ngày ra tòa lấy cung thì lại bị bọn đàn anh chơi đểu. Bọn này sợ hắn ta khai thật thì chết cả lũ nên vội đưa hắn ra tế thần bằng một phiên tòa đặc biệt, kết quả là hắn bị án tử hình. Bà thấy bọn Việt Cộng ghê không. Khi không còn dùng hắn được nữa, bọn nó giết hắn bịt miệng bà ạ.
– Bởi vậy bọn mình mới phải rời bỏ quê hương mà đi chứ. Nhưng làm sao bà Thanh sang đây được, chị ?
– Thì sau khi chồng bị tử hình, tài sản từ bao lâu bị bọn Cộng Sản tịch thu sạch hết, bà ta hết yêu XHCN nữa mà lại thù đến xương đến tủy. Bà ta làm đơn tính tố bọn đàn anh kia thì đơn viết vừa xong, chưa kịp gởi đi, không biết ai báo cáo lập công, bả bị bắt bỏ tù. Trong tù, uất ức quá, bà ta bị điên. Thấy bả điên, bọn nó thả ra. Gia đình bả lo thuốc men chạy chữa mãi mới tỉnh. Tỉnh xong, bả vượt biên.
– Vâng. Thế bà Thanh quen hay bà con với chị ?
– Bả là bạn học cũ của bà chị mình. Tết, thấy bả một mình tội nghiệp quá, bà chị mình đón về ăn tết.
Tôi chúc gia đình chị Khang có một năm mới bình an và gác máy điện thoại. Lòng không vui không buồn, tôi nghĩ đến Kim và những tháng năm kinh hoàng khốn khổ mà chúng tôi đã trải qua trong ngôi trường XHCN của chị Thanh. Tôi nghĩ đến buổi tiệc tất niên và tô bún của Kim. Tôi thương Kim quá. Cũng như mẹ con tôi, Kim đi tìm tự do nhưng bến bờ lại xa tầm tay với. Mộng ước của Kim đã bị hải tặc Thái Lan vùi sâu trong lòng biển.
Tết năm ấy cúng giao thừa, sau khi lễ tổ tiên, tôi đã thắp thêm một nén hương và thủ thỉ với Kim:
– Kim ơi, em có linh thiêng thì chắc em đã biết chuyện bà Thanh phù thủy rồi chứ. Bà ấy đã và đang trả giá một cách đau đớn cho sự nghiệp cách mạng của bà ta. Mong em tha thứ cho bà.  Cầu xin linh hồn em được bình an và siêu thoát.

Ngô Minh Hằng

NHỮNG QUYỂN SÁCH CŨ “SÀI GÒN TRƯỚC 75” NAY Ở ĐÂU?

NGUYỄN VĨNH NGUYÊN

Có cuốn mới tinh, có cuốn rách bìa, đa số thì ố vàng và đã nhạt màu mực. Mỗi cuốn sách một số phận, trôi nổi qua biết bao biến cố, bỗng một hôm trở về với người sưu tầm, người đọc như những báu vật của thời gian… Gọi đó là “sách Sài Gòn trước Bảy Lăm.”
       Trên đường sách Sài Gòn giữa Quận Một ngày nay, có mấy kiosk bán sách cũ Sài Gòn xuất bản trước 1975. Ngoài sách, các ấn phẩm của thời kỳ này như báo chí, bản đồ, postcard và tờ nhạc cũng xuất hiện trở lại một cách công khai.

Quán Sách Mùa Thu là nơi có hàng ngàn đầu sách đầy bất ngờ tụ về từ những thư viện gia đình khóa kín gần nửa thế kỷ. Nếu các ông Duyên Anh, Phạm Công Thiện mà sống lại, dạo bước qua mấy chỗ này hẳn sẽ bất ngờ vì tác phẩm của mình còn được đám hậu duệ sưu tầm đủ. Các sách văn học, triết học, chính trị… đình đám của một thời kỳ xuất bản tự do đã trở lại với độc giả hôm nay, bằng chính nguyên bản như mới, được người bán trau chuốt giữ gìn, đóng bìa, may lại gáy. Màu giấy vàng, lối làm bìa sách thanh nhã của một thời… khoác lên những giá sách quý một màu thời gian sâu thẳm.
       Trong một cuộc triển lãm sách cũ do các bạn sưu tập tổ chức, tôi đã gặp một độc giả năm xưa đứng khóc ròng như trẻ thơ khi cầm trên tay cuốn sách “Quốc Sử” của Lớp Nhất, vì cuốn sách gợi nhớ đến một người bạn chung lớp đã bỏ xác trên biển hồi sau 1975.
       Sách chạm vào ký ức của từng người theo một cách thế riêng, âm thầm. Tôi cũng từng dẫn những bạn bè lớn tuổi đến đây sau nhiều năm xa nước, họ mân mê những bản sách cũ đã trôi dạt qua những biến cố lịch sử như chính cuộc đời họ, mà quên cả thời gian trở về với thực tại.
       Gặp lại sách là gặp lại những người bạn thân thiết đã trải qua biết bao thăng trầm dâu bể. Những cuốn sách cũ khơi gợi lại kỷ niệm và gợi nhắc những ký ức đẹp đẽ hay đau buồn. Những quyển sách cũ lặng lẽ nối chuyện thời cuộc và ký ức cá nhân đã trở nên là một.
       Vào khoảng thời gian sau 1975, nhiều người kể lại rằng, nhiều tủ sách, kho sách Sài Gòn đã bị đẩy ra vỉa hè để đốt. Một kiến trúc sư nói với tôi trong nước mắt rằng, cha anh đã phát điên bởi vì thương sách. Ông ta nhìn cái cảnh những cuốn sách mình nâng niu trân quý trở thành mồi cho ngọn lửa trong suốt vài ngày trời mới hết, và nghĩ mình chỉ còn một con đường hoặc ra đi hoặc tự sát.
       Nhưng ở vào thời kỳ đó, đâu chỉ ba của bạn tôi, nhiều người đã phải lựa chọn. Họ phải chôn xuống đất những gì chế độ mới coi là “tàn dư” để bảo toàn mạng sống và tránh những liên lụy cho người thân. Sau cùng người ta đã chọn những cách thế tồn tại trong một hoàn cảnh đầy ngặt nghèo và khốc liệt. Người nâng niu sách như những hiện thân của giá trị văn hóa, của đời sống thanh tao làm sao không đau đớn phát điên cho được khi phải lựa chọn thiệu sách để tự cứu lấy mình.
       Ấy vậy mà bằng những phương cách nào đó thật lạ lùng, những cuốn sách cũ của một thời đã lách qua những cơn bão lửa của thời cuộc để neo giữ một tinh thần, tái hiện một vàng son. Những pho sách qua thời gian đã làm toát lên một phong vị văn hóa khó lẫn, một sự quyến rũ như người giàu có trải nghiệm đang kể câu chuyện cuộc đời mình, đầy mê hoặc.        Đã có lúc, đâu chừng mươi mười năm trước, dân sưu tầm những sách “trước Bảy Lăm” còn rón rén rụt rè. Tôi còn nhớ thời đó, một tập thơ của Thanh Tâm Tuyền còn được đem ra đấu giá trong giới chơi sách, trong tình trạng lén lút vì sợ bị an ninh theo dõi tịch thu. Sau đó, một tờ báo đã bị nhắc nhở vì đăng bản tin bán đấu giá sách có nhắc đến tên một nhà thơ Sài Gòn cũ. Nhưng nhu cầu quy hồi những giá trị thuộc về văn hóa một thời đã dẫn dắt thị trường sách cũ theo một chiều hướng lạ lùng. Nó buộc những gọng kìm bấy lâu khóa chặt phải mở ra để văn hóa được liền lạc.

Về Sài Gòn bây giờ đi tìm sách cũ, sẽ không lạ gì chuyện các nhà sưu tầm, giới chơi sách cho đến buôn bán sách cũ đa phần là trẻ. Nhiều người sinh ra sau 1975, nhưng họ có một thao thức, bằng cách này cách khác, làm cho những di sản của một thời kỳ xuất bản được xuất hiện lại một cách tự nhiên, công khai, không rón rén. Họ nói về lịch sử xuất bản, tiểu sử các tác giả… một cách thông thạo như thể những người đã đắm mình trong sinh khí văn hóa một thời Sài Gòn.
       Cùng với các nhà sách offline, các diễn đàn sách xưa trên mạng cũng nhộn nhịp. Thông tin về từng đầu sách được giới thiệu trở lại một cách chi tiết. Như vậy, những ai chuyên tìm kiếm sách cũ có thể hình dung đến một không gian riêng mà đám an ninh không muốn dây vào cấm đoán nhưng cũng không công khai thừa nhận. Từ nguồn sách này, sẽ phát lộ nhiều chất liệu quý để thấy rõ những giá trị tinh hoa của trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời kỳ đã qua. Chúng như những chứng tích này sẽ giúp người đọc hôm nay có một cái nhìn thấu suốt, khách quan về một giai đoạn văn hóa.
       Nhiều cuốn sách cũ đã được giới xuất bản tìm cách tái bản. Trường hợp tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bà Tùng Long, Du Tử Lê, Võ Phiến, Lê Tất Điều hay Dương Nghiễm Mậu… được giới làm xuất bản sinh sau đẻ muộn tìm kiếm ấn bản gốc từ những kho sách cũ như vậy để nhập liệu, làm văn bản và tìm cách tái bản. Dù việc này cũng chưa thật sự suôn sẻ trong bối cảnh kiểm duyệt xuất bản, nhưng những nỗ lực khai thông các trở lực để đặt một gạch nối hôm nay với hôm qua trong văn hóa Sài Gòn, ở giai đoạn này, đáng được nhìn với ánh mắt hoan hỉ hơn xét nét nghiệt ngã bởi những định kiến.
       Quá khứ không còn biến thành những thêu dệt huyền hoặc, những cuốn sách cũ nói với hôm nay về thực tại của văn hóa hôm qua một cách chi tiết. Cho dù, chúng trở thành những báu vật (và được định giá rất cao so với sách mới xuất bản) nhưng những người cần vẫn không ngại ngần để đón về một di chỉ của ký ức.
       Đi qua thời gian và những thăng trầm, những cuốn sách cũ “Sài Gòn trước Bảy Lăm” đang quay trở lại trong đời sống hôm nay thật lộng lẫy, huy hoàng, điều mà có lẽ nhiều người viết ra chúng, người ấn hành chúng, người bảo vệ chúng trong những kho tàng ẩn mật khó hình dung được.
       Nói mỗi cuốn sách có một số phận, là đúng. Như người Sài Gòn, mỗi người một cách thế phiêu dạt cùng thành phố, cùng thời cuộc. Tiếng nói, ngôn từ của người một thời đã được ghi trên giấy, kinh qua những biến cố, đã không hư nát và chìm vào thăm thẳm thời gian, mà còn vang vọng, bằng cách này, cách khác. Dù trong lặng lẽ, thì vẫn là những chứng tích của một khoảnh khắc bừng sáng trong thời gian.


Đó chẳng phải là điều đáng để vui, dù là vui trong nước mắt?!


Nguyễn Vĩnh Nguyên

Cõi vô hình

Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.

Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.

Giáo sư Evans-Wentz vào đề:

 – Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…

Pháp sư thản nhiên:

 – Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.

 – Như thế ông tin rằng có ma…

Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết:

 – Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.

 – Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?

 – Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?

 – Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên…

 – Được lắm, các ông hãy nhìn đây.

Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả:

 – Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.

Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy:

 – Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?

Vị pháp sư nghiêm giọng:

 – Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này.

 – Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác.

Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú.

Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ.

Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.

Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?

Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:

 – Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford…

Giáo sư Harding giật mình kêu lên:

 – Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?

 – Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.

(Ghi chú của giáo sư Spalding: Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý).

 – Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?

 – Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với khoa huyền bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.

Giáo sư Evans – Wentz ngập ngừng:

 – Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?

 – Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…

 – Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ?

 – Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…

 – Như thế có nguy hiểm không?

 – Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn… Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa…

 – Ông có thể làm như vậy không ?

Vị pháp sư nghiêm mặt:

 – Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.

 – Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.

 – Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể: thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau.

Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.

Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận..v..v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.

Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ..v..v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves)..v..v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”.

Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông ta. Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc.

Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán.

Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau, và đôi khi kết những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia.

Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đây có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảm đục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại.

Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tế nhị, không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng trước khi siêu thoát lên cảnh giới cao hơn.

 – Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ?

 – Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.

Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học ?

Hamud mỉm cười tiếp tục:

 – Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thỏa mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh.

Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.

 – Nhưng còn các ma quỷ thì sao ?

 – Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng… Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc.

Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích:

 – Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa ?

Quả thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai mua. Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.

Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc:

 – Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?

 – Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả.

Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi cơ thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng.

Giáo sư Allen ngập ngừng:

 – Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?

Hamud lắc đầu:

 – Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thỏa mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.

 – Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thỏa mãn không ?

 – Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thỏa mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.

 – Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?

 – Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử ‘dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là mạ Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.

 – Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ?

 – Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.”

 – Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ?

 – Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.

 – Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ?

 – Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.

 – Như vậy thì họ ở gần hay ở xa chúng ta ?

 – Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.

 – Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?

 – Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến.

 – Ông du hành sang cõi âm thế nào ?

 – Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác.

 – Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?

 – Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng.

Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác.

Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh.

Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát…

 – Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?

 – Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.

 – Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?

 – Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.

 – Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ?

 – Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử. Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này.

 – Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ?

 – Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh.

Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau: 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cõi trần.

Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có…

 – Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ?

Hamud mỉm cười:

 – Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.

Đọc  & Ngẩm

  1. Người giàu chưa chắc sung sướng, nhưng người nghèo chắc chắn khổ. Tiền không cho bạn tất cả nhưng cho bạn nhiều thứ.
  2. Tất cả những chàng hoàng tử và nàng công chúa trong truyện cổ tích hồi nhỏ đều đang bận sống hạnh phúc mãi mãi về sau trong trang giấy rồi. Họ sẽ không bước ra ngoài thế giới thật đâu. Thế nên là: Ảo tưởng ít thôi!
  3. Tiền thì mua được đồ ăn. Nhưng tiền lại không mua được tình yêu. Trớ trêu thay, tình yêu lại là thứ không ăn được!
  4. Ngay cả khi bạn nỗ lực nhất, sẽ vẫn luôn có những người khác nỗ lực hơn cả thế. Sự nỗ lực không bao giờ là đủ, là nhiều, thế nên đừng bao giờ ngừng cố gắng trong bất cứ chuyện gì. Tôi không nói bạn nỗ lực rồi sẽ thành công, nhưng muốn thành công bạn bắt buộc phải nỗ lực.
  5. Đừng nói rằng ai đó may mắn khi họ thành công khi bạn không hề biết câu chuyện của họ.
  6. Khi bạn chết, bạn sẽ không nhận thức được điều đó mà chỉ có những người xung quanh biết và chịu đựng thôi…. và khi bạn ngu cũng vậy.
  7. Tất cả mọi người đều có những câu chuyện của riêng mình, đều có những nỗi buồn, những lo lắng, không dưới cách này thì cách khác. Bạn không phải người duy nhất, tôi không phải người duy nhất. Thế nên có thể thôi ngay cái suy tưởng rằng mình là kẻ bất hạnh xui xẻo mỗi khi gặp vấn đề gì đi.
  8. Đừng mong đợi cỗ xe bí ngô bí đỏ nào đó sẽ đỗ trước cổng nhà đợi bạn, hãy kiếm tiền và tự mua cho mình một cái xe, xe đạp, xe máy, xe hơi, miễn là bạn tự làm ra nó. Vì trông đẹp vậy thôi, chứ xe bí ngô có lẽ cũng xóc lắm!
  9. Làm Tấm cũng được, làm Cám cũng được, nhưng đừng làm con cá bống chỉ há miệng chờ cho ăn.
  10. Đừng cảm thấy buồn nếu bạn sinh ra không phải con của tỷ phú, hãy làm sao để con bạn sinh ra là con của tỷ phú. Hoặc triệu phú thôi cũng được rồi.
  11. Nếu ước mơ của bạn không thành, vậy thì mơ ước mơ khác là được rồi. Nếu tình yêu kết thúc, vậy thì yêu tình yêu khác là được rồi. Vì dù thế nào Trái Đất vẫn quay và cuộc sống vẫn tiếp tục đã bao giờ ngừng lại được đâu.
  12. Pháo hoa lấp lánh rực rỡ là vậy nhưng rồi sẽ tan ngay đi. Nhưng ít nhất, thà một lần được tỏa sáng còn hơn mãi vô hình trong bóng tối.
  13. Cuộc đời có hai loại người đáng sợ nhất: kẻ có tất cả mọi thứ trong tay, và kẻ không còn gì để mất
  14. Nếu phải lựa chọn giữa tình cảm và tiền bạc, tôi sẽ chọn tình cảm vì tình cảm có thể giúp bạn vay tiền, còn tiền thì không bao giờ mua được tình cảm thật sự
  15. Nếu thế giới này không có tiền bạc và phụ nữ thì nhà tù sẽ trở nên vô dụng
  16. Đừng tin vào những câu triết lí của người khác, hãy tự tìm lẽ sống cho riêng mình. Vì cuộc đời không phải là khuôn mẫu, nó là sự thiên biến vạn hóa.
  17. Đừng bao giờ sống cuộc đời của người khác. Vì sao ư? Vì bạn không làm được như người ta đâu, thế nên đừng có cố.
  18. Bạn nghĩ rằng tiền bạc là vạn năng ư? Vậy là bạn đang suy nghĩ đúng hướng rồi đấy.
  19. Những kẻ ngu ngốc thường suy sụp sau thất bại, những người mạnh mẽ thì sẽ học được nhiều thứ sau thất bại, còn những kẻ thông minh thì sẽ cố gắng học hỏi từ thất bại của người khác.
  20. Sẽ thật nguy hiểm khi bạn nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ, nhưng còn nguy hiểm hơn khi bạn tự coi mình là rác rưởi của xã hội.
  21. Tiền bạc không làm cho bạn hạnh phúc, chính cách bạn tiêu tiền mới làm cho bạn hạnh phúc. Người nào có tiền mà không hạnh phúc là do họ chưa biết cách tiêu tiền.
  22. Trong một cuộc tranh luận với sếp. Chỉ có hai khả năng có thể xảy ra: thứ nhất là bạn sai, thứ hai là sếp bạn đúng.
  23. Tất cả mọi khó khăn chỉ là thử thách?. Dĩ nhiên !. Khổ nỗi không phải thử thách nào bạn cũng có thể vượt qua được.
  24. Chấp nhận tốt hơn oán trách nhiều, đối với những sự thực không thể thay đổi, ngoài chấp nhận ra, không có cách nào tốt hơn cả.
  25. Đừng có lúc nào cũng cảm thấy mình bất hạnh, thế giới này có nhiều người đau khổ hơn chúng ta nhiều.
  26. Người ngốc nghếch, một mực muốn người khác hiểu mình. Người thông minh, lại nỗ lực hiểu chính mình.
  27. Thay đổi phương hướng, đường cùng sẽ trở thành đường bằng phẳng.
  28. Một số người giống như tôm vậy. Không ruột, không xương sống, đầu thì đầy chất thải, nhưng mà giá thị trường thì lại cao.
  29. Lương tâm trong sạch thường là dấu hiệu của trí nhớ kém.
  30. Ánh sáng di chuyển nhanh hơn âm thanh. Có phải đó là lý do vì sao mọi người đều trông có vẻ rất thông minh cho đến khi họ mở miệng không?
  31. Nếu bạn cảm thấy mình vừa nghèo vừa dốt. Đừng buồn. Ít nhất khả năng nhận xét của bạn là chính xác

Nguồn internet

Bút ký: ‘VUI BUỒN GIÁNG SINH’

ĐIỆP MỸ LINH

Từ phòng khách, tiếng Piano rộn ràng trong nhạc khúc Jingle Bells của James
Lord Pierpont gợi lại trong hồn bà Mai mùa Noel đầu tiên trên đất Mỹ, sau khi gia
đình Bà vượt biển, đến Mã Lai.
Chiều gần Noel, năm 1977, Mai, sau khi tan sở, về nhà, cùng các con đi bộ đến
chợ Safeway, mua thức ăn.
Trong chợ, vừa theo Mẹ chọn hoa quả, thịt, cá, v.v… vừa nghe ca khúc Jingle
Bells chơi liên tục, các con của Mai đều ngạc nhiên và vui thích.
Trên đường về, Mai và các con, mỗi người ôm một bao giấy – thời điểm đó
chưa có bao nhựa – bên trong đựng thức ăn. Bất ngờ, một chiếc xe dừng lại. Cụ bà
người Mỹ, quay cửa kính xuống, hỏi:
-Mấy người đi về đâu?
Mai đáp:
-Về đường Walnut.
-Tôi cũng ở đường Walnut. Lên xe tôi đưa về. Trời lạnh thế này, để mấy đứa bé
đi bộ, không có áo lạnh, dễ bị bệnh!
Trong khi các con ngồi vào băng sau, Mai vừa bước vào, ngồi cạnh bà lái xe,
vừa đáp:
-Thưa bà, tôi tên Mai. Tôi biết trời lạnh, nhưng chúng tôi không có áo lạnh,
đành chịu thôi!
Vừa cho xe chạy từ từ, bà Kelly vừa nói:
-Hân hạnh được biết em. Tôi tên Kelly. Tại sao em không đi chợ sớm hơn cho
đỡ lạnh?
-Sau khi tan sở, tôi phải đạp xe đạp gần một tiếng đồng hồ mới về đến nhà.
-Em có chồng hay không?

-Có. Chồng tôi tên Hảo, phải dọn dẹp khu vực trailers của người già cho xong;
hơn nữa, đàn ông Á Đông, ít người biết chuyện nội trợ.
-Ở đây, trẻ con dưới 14 tuổi không được ở nhà mà không có người lớn, em biết
không?
-Rất tiếc, tôi không biết!
-Chốc nữa tôi sẽ đưa số điện thoại của tôi cho em; khi nào em cần, gọi tôi, tôi sẽ
đến trông chừng mấy đứa bé hộ em.
-Ô! Làm thế nào mà tôi có thể gặp được một phụ nữ tốt bụng như Bà! Bà Kelly!
Làm ơn cho con được gọi Bà là Mẹ!
-Em muốn gọi tôi bằng danh xưng nào cũng được.
-Cảm ơn Mẹ. Từ bây giờ vợ chồng con là con của Mẹ; các con của con là cháu
của Mẹ.
Bà Kelley cười tươi:
-Tốt! Tôi rất vui và sẽ cư xử với gia đình con đúng với danh xưng đó. Gia đình
con từ đâu tới?
-Việt Nam.
Tự dưng nụ cười biến mất trên khuôn mặt của bà Kelly! Một chốc sau, như
không nén được nỗi đau thương, bà Kelly lấy Kleenex thấm nước mắt. Mai ngạc
nhiên:
-Tại sao Mẹ khóc? Nếu con lỡ lời, con xin lỗi; vì tiếng Anh của con còn
“nghèo” lắm!
-Con không có lỗi gì cả.
-Thế thì tại sao Mẹ lại khóc khi con vừa nói lên hai tiếng Việt Nam?
-Brandon – con trai duy nhất của chúng tôi – đã tử trận tại chiến trường Việt
Nam, vào một chiều gần Giáng Sinh!
-Oh, no! No!
Mai ôm mặt, khóc! Bà Kelly vỗ vỗ vào vai Mai:
-Không phải lỗi của con.
-Con biết. Nhưng sự hiện diện của chúng con đã vô tình khơi lại nỗi đau không
bao giờ lành trong lòng Mẹ! Con rất tiếc!
Bà Kelly nói như đang mơ:
-Brandon tốt nghiệp từ United States Naval Academy với vị thứ rất cao, muốn
xin tòng sự tại đơn vị nào cũng được; thế mà con tôi lại tình nguyện tham chiến tại
Việt Nam!
Tên Brandon nghe quen quen, bây giờ bà Kelly lại cho biết Brandon xuất thân
từ United States Naval Academy khiến Mai tò mò:
-Brandon họ gì, thưa Mẹ?
-Smith.
Mai sửng sờ, rồi than nho nhỏ:
-No way! Brandon Smith là Cao Bồi Texas; đây là Chicago mà!

-Làm thế nào con biết Brandon Smith là Cao Bồi Texas?
-Hồi đó, Hảo có một vị cố vấn tên Brandon Smith. Brandon đẹp trai, hát và đàn
Guitar rất hay; vóc dáng hiên ngang không khác chi tài tử Ricky Nelson. Hảo và
con thường đùa, gọi Brandon là Cao Bồi Texas. Brandon xác nhận biệt danh Cao
Bồi Texas là do bạn hữu tặng cho Brandon từ khi Brandon còn học tại Memorial
High School, Houston.
-Con không phải là người Mỹ, cho nên, con không nhận ra giọng Texas của tôi.
Chúng tôi là dân Texas. Sau khi Brandon tử trận, chúng tôi dời lên Chicago để trốn
chạy dĩ vãng đầy đau thương!
Trong khi Mai hoang mang tột cùng, bà Kelly than:
-Chúa ơi! Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ này?
-Con cũng không hiểu!
-Con có thể cho tôi đưa con và các cháu gặp chồng tôi rồi con nói về Brandon
Cao Bồi Texas cho chồng tôi nghe hay không?
-Con không dám xác quyết Brandon của Bố Mẹ có phải là Brandon Smith, ngày
trước là cố vấn cho chồng của con hay không.
-Không sao. Con cứ kể những gì con biết về Brandon Cao Bồi Texas cho chồng
tôi nghe; ông ấy sẽ kiểm chứng với Bộ Quốc Phòng.
Bà Kelly lái chầm chậm, dường như Bà đang bị phân tâm rất nhiều. Mai im
lặng, nhìn ra khoảng không gian rực rỡ ánh đèn, lòng bồi hồi với niềm thương cảm.
Xe chạy qua chiếc cầu nho nhỏ. Thấy ánh đèn phản chiếu trên dòng nước lặng lờ,
Mai thở dài, chạnh nhớ những dòng sông xưa!
Trên một trong những dòng sông nhuộm máu đó, vào một chiều gần Giáng
Sinh, năm 1970, đoàn chiến đỉnh – do Hảo chỉ huy – đang ủi bãi tại Xẻo Rô. Trong
khi đang viết bài tường thuật về trận đụng độ ngày hôm trước giữa Giang Đoàn 26
Xung Phong với Việt cộng, tại quận Kiên An, Mai nghe tiếng Guitar văng vẳng
trong không gian lắng đọng của muôn loài. Nghĩ rằng tiếng đàn đó cũng do một
trong các anh thủy thủ “từng tưng” cho đỡ buồn sau những lúc trực diện với cuộc
chiến “nồi da xáo thịt” do ông Hồ Chí Minh chủ xướng, Mai không để ý. Bỗng
dưng Mai nhận ra dòng nhạc lạ và rồi tiếng hát văng vẳng, từ mũi chiếc Command.
Chỉ một thoáng sau, tiếng hát lớn dần và Mai nghe:
“… I just want you for my own
More than you could ever know
Make my wish come true
All I want for Christmas is you…” (1)
Mai thầm nhủ: “Lại ‘anh chàng’ Cao Bồi Texas Brandon Smith”! Giữa khi Mai
xót xa theo niềm thương nhớ trong tiếng đàn dìu dặc và giọng hát nồng nàn của
Brandon, Hảo nhận được lời kêu cứu – qua máy truyền tin – của thiếu tá Phép,
quận Trưởng quận Gò Quao.

Đoàn chiến đỉnh cấp tốc khởi hành, hướng về Chương Thiện.
Trước khi đoàn chiến đỉnh từ sông lớn quẹo vào dòng sông nhỏ để đến giải vây
quận Gò Quao, Hảo ra lệnh cặp Foms và chiếc Combat tác xạ tối đa vào khúc cua
ngặc; thế mà, không biết từ đâu, một trái B-40, bắn trực xạ vào chiếc Command
trong khi Hảo và Brandon đang đứng gần mũi chiếc Command để chỉ huy! Hảo bị
thương nặng. Brandon và anh truyền tin bị tử thương!
Dòng hồi tưởng của bà Mai vừa đến đây, tiếng gõ cửa đưa Bà trở về hiện tại.
Mở cửa phòng, thấy Cindy – cháu Nội của Bà đi học xa, về nghỉ lễ Giáng Sinh với
hai cô bạn cùng phân khoa: Debbie và Laura – bà Mai cười, hỏi bằng tiếng Anh:
-Trang hoàng xong chưa, con?
-Xong rồi. Mời “Ba Noi” dùng cơm chiều.
Trong bữa cơm chiều đầm ấm, sau khi nói chuyện với Debbie và Laura, bà Mai
khuyên:
-Các cháu cố gắng nói tiếng Việt, nha!
Laura đáp bằng tiếng Anh:
-Ba Má cháu cũng dặn cháu như thế; nhưng trong trường không ai nói tiếng
Việt cả, nên cháu không biết nhiều.
-Các cháu cứ cố gắng nói tiếng Việt khi điều kiện cho phép.
Ba cô sinh viên “chụm” vào nhau, thầm thì rồi cười. Bà Mai đùa, bằng tiếng
Việt:
-Mấy người “nói hành” Bà, phải không?
Laura, Debbie và Cindy ngơ ngác nhìn mọi người. Mẹ của Cindy dịch câu nói
của bà Mai sang tiếng Anh. Laura cố gắng đáp bằng tiếng Việt “ba rọi”:
-Dạ khon. Con chi muốn bét, một … “đúa” nua đâu?
Bà Mai ngạc nhiên, hỏi bằng tiếng Anh:
-Một “đứa” nữa là đứa nào? Nói tiếng Anh đi, Laura!
Laura đáp:
-“Ong Noi” của Cindy!
Không ai dám cười! Lúc này Cindy mới cho Laura và Debbie biết ông Hảo vừa
qua đời cách nay vài năm! Ba cô sinh viên lại thì thầm. Cindy nói tiếng Anh:
-“Ba Noi”! Debbie nói “Ba Noi” trẻ và đẹp!
Bà Mai cười:
-Cảm ơn Debbie. Con biết Bà bao nhiêu tuổi không?
Debbie lắc đầu. Bà Mai nói số tuổi của Bà. Debbie và Laura tròn mắt, ngạc
nhiên. Laura “ậm ự” một chốc rồi nói chầm chậm bằng tiếng Việt:
-Ba…ăn… gian!

Mọi người giật mình. Debbie cố gắng nói tiếng Việt:
-Ba nhiêu nam, nhưng Bà khon … “cũ”! (Bà nhiều tuổi nhưng bà không già)
Tiếng Việt “ba rọi” của thế hệ di tản thứ ba làm mọi người cười vui bao nhiêu
thì bà Mai lại cảm thấy đau lòng bấy nhiêu!
Nhận ra nét không vui trên khuôn mặt người Mẹ đa cảm, con trai của bà Mai
chuyển đề tài:
-Măng! Sáng nay, vô tình xem youtube do nhà thơ Sa Chi Lệ thực hiện và diễn
ngâm thơ của thi sĩ Hoàng Vũ Bão, con thấy hay ghê đó, Măng.
-Ờ, bác Sa Chi Lệ thực hiện youtube đó rất công phu.
-Con nghĩ, Măng nên về Việt Nam, thăm lại những nơi Măng đã có nhiều kỷ
niệm như ông Hoàng Vũ Bão đã đề cập trong tập thơ của ông ấy.
-Thôi, con!
-Măng không buồn, tiếc gì cả à?
-Buồn thì có buồn; tiếc thì không!
-Sao lại không tiếc?
-Măng thà làm một “Thủy Thủ không số quân” để thấy được sự dã man, tàn ác
của chiến tranh; để thấy được sự chiến đấu can cường của người Lính Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH); để thấy rõ sự vô nhân tính, sự tàn độc, xảo trá và kỹ thuật
đánh lén rất hèn hạ – như núp sau lưng trẻ em và đàn bà – của cộng sản Việt Nam
(csVN); để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của Quê Hương mình…
Bà Mai vừa nói đến đây, điện thoại cầm tay của Bà rung. Sau khi người gọi xin
lỗi, vì nhầm số, bà Mai chợt nhớ, hôm nay chưa đọc tin tức.
Sẵn điện thoại, bà Mai vào BBC news tiếng Việt, thấy bảng tin ngày 21-12-
2021: Giải thưởng Lenin cho TBT Trọng không phải chính thức của Liên bang
Nga.
Link: https://www.bbc.com/vietnamese/world-59741041
Theo bảng tin này, ngày 15/12/2021 TBT Nguyễn Phú Trọng được một quan
chức đảng cộng sản liên bang Nga (không cầm quyền) trao tặng giải thưởng Lenin
tại Hà Nội.
Đọc qua bảng tin, bà Mai chú ý đến đoạn: Các báo Việt Nam viết: “Việc đảng
cộng sản liên bang Nga trao tặng tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng giải thưởng cao
quý này nhân dịp 150 năm kỷ niệm ngày sinh của Lênin thể hiện sự trân trọng và
ghi nhận đối với những đóng góp xuất sắc của tổng bí thư – nhà hoạt động chính
trị lỗi lạc, được đánh giá cao tại Nga và trên thế giới, trong việc phấn đấu vì công
bằng, nhân văn và tiến bộ xã hội; vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
nghiên cứu làm phong phú lý luận và thực tiễn cho việc phát triển chủ nghĩa Mác –

Lênin, cũng như những nỗ lực không ngừng nhằm củng cố quan hệ hữu nghị Việt
Nam – Liên bang Nga.”
Truyền thông Việt Nam cũng nói: “Đây là giải thưởng cao quý nhất của đảng
cộng sản liên bang Nga và đảng cộng sản Liên Xô (cũ)”.
Bà Mai tò mò, muốn tìm hiểu xem có vị lãnh tụ nào của chính thể VNCH nhận
giải thưởng từ chính phủ Hoa Kỳ hay không mà Quân Lực VNCH lại bị csVN gán
cho ba chữ “lính đánh thuê”?
Trong khi tìm kiếm, bà Mai vô tình “gõ” tên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Đọc qua bảng tin trên wikipedia, bà Mai lưu ý đoạn này: “… In his farewell
speech, Thiệu said, ‘I resign, but I do not desert,’ but he fled to Taiwan on a C-
118 transport plane five days later. According to Morley Safer, the CIA was
involved in the flight of Thiệu, his aides, and a ‘planeload of suitcases containing
heavy metal,’ though it was revealed in 2015 by Tuổi Trẻ, a Vietnamese news
source, that the ‘heavy metal’, which was 16 tons of gold, was left behind and
given to the Soviet Union from 1979 onwards.”
Đấy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không nhận giải thưởng nào của Hoa
Kỳ mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng không đem theo tài sản của Quốc Gia
VNCH khi Ông rời Việt Nam, 1975.
Cũng theo phân đoạn trích dẫn bên trên, sự tiết lộ, năm 2015, của báo Tuổi Trẻ,
cơ quan báo chí của Việt Nam, thì, 16 tấn vàng – tài sản của Quốc Gia VNCH để
lại – đã được tặng cho Nga Sô kể từ năm 1979.
Báo Tuổi Trẻ đã “tránh né” một cách khéo léo khi không nêu danh tánh của tổ
chức, đảng phái hoặc cá nhân nào đã tặng 16 tấn vàng cho Nga Sô.
Nhưng, ngược dòng lịch sử, bà Mai thấy: Năm 1979 là thời điểm toàn nước Việt
Nam đã bị csVN khống trị rồi. Thế thì csVN không tặng 16 tấn vàng cho Nga Sô
thì ai tặng?
Căn cứ vào tài liệu đã dẫn, bà Mai cay đắng nhận ra rằng: Chính đảng và người
csVN đã dâng tài sản Quốc Gia cho Nga Sô từ năm 1979, đúng vào giai đoạn toàn
dân Việt Nam sắp chết đói vì thời bao cấp; nếu không nhờ ngoại tệ của người Việt
di tản gửi về!
Gần nửa thế kỷ qua, lúc nào người csVN cũng “rêu rao” trên mọi phương tiện
truyền thông rằng Quân Lực VNCH là lính đánh thuê!
Thế thì, người csVN, kể cả “bộ đội ông Hồ” và ông Nguyễn Phú Trọng, từ năm
1979, dâng tài sản của Quốc Gia – 16 tấn vàng của VNCH để lại – cho Nga Sô;
ngày nay ông Nguyễn Phú Trọng nhận giải thưởng cao quý nhất của Nga Sô nhân
sinh nhật 150 năm của Lênin, thì người csVN, “bộ đội ông Hồ” và ông Nguyễn
Phú Trọng thuộc hạng người gì?
Câu trả lời xin dành cho những người Việt Nam yêu nước!

ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/

1.- Của Mariah Carey, Walter Afanasieff.

Chuyện về Chuẩn Tướng Lam Sơn

Chuẩn Tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ, cựu Tư Lệnh LLĐB, một cấp chỉ huy
đàn anh của QL VNCH.  Năm 1956 khi Đại Tướng Cao Văn Viên còn là Thiếu
Tá thì Ông đã là Đại Tá

………………………………………………………………………………………..

Quý vị và tôi, ít ra cũng đã một lần nghe tới cái tên Lam Sơn. Nhưng
thực tình mà nói, chúng ta chỉ nghe danh . . . Đại Tá Lam Sơn mà thôi,
mặc dù cấp bậc cuối cùng của ông là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó Quân Khu
II kiêm Tư Lệnh Chiến Trường Quân Khu II. Lý do là ông mang lon Đại Tá
tới 16 năm và mang lon Tướng mới có hơn một năm thì giải ngũ.
Lý do nào mà Tướng Lam Sơn lại mang lon Đại Tá lâu như vậy? Trong khi
những nguời khác, mang cùng cấp bậc Sĩ quan với ông ngày xưa, như
Trung úy Trần Thiện Khiêm, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu . . . đã lên tới
cấp Trung Tướng, Đại Tướng?
Lý do là, Tướng Lam Sơn sống cuộc đời . . . Độc thân vui tính rất lâu
(mãi tới năm 44 tuổi mới lấy vợ). Ông lại rất ngang tàng và luôn luôn
thương yêu, bênh vực cho những người lính dưới quyền.
Như đã đề cập ở phần trên, năm 1958, Đại Tá Lam Sơn được cử đi học
khóa Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavanworth, Hoa Kỳ.
Trong một buổi huấn luyện, một Sĩ Quan Hoa Kỳ đã để ý nhìn vào bảng
tên của Đại Tá Lam Sơn. Vì hai chữ LAM SƠN không bỏ dấu, lại viết gần
nhau, nên viên sĩ quan này tưởng là ông đã bỏ tiên Việt Nam đi mà dùng
tên Mỹ LAWSON, nên y đã cười khi dễ và với một giọng nói thật hỗn
xược, y đã nói với Đại Tá Lam Sơn rằng:
“Hê, You là người Việt Nam da vàng mũi tẹt, tại sao lại dám đổi tên là Lawson?”
Đại Tá Lam Sơn đâu có thể đứng yên cho một tên Mỹ sỉ nhục mình, sỉ
nhục cả cái dân tộc da vàng của mình, ông đã nổi cơn thịnh nộ, cung
tay đấm cho tên Mỹ một quả đấm thôi sơn, kèm theo lời giải thích:
“Tôi tuy là dân da vàng, nhưng tôi có tư cách của tôi, của một Quân
Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi dùng tên của tôi chứ không bao
giờ dùng tên của bất cứ quốc gia nào khác, dù là Mỹ.”
Sau khi được mời lên văn phòng để giải thích thái độ của mình, mặc dù
Ban giảng huấn đã hiểu rằng tên Sĩ quan Mỹ đã đọc lầm tên của ông, đã
dùng những danh từ kỳ thị, nhục mạ người Sĩ Quan Việt Nam, nhưng Đại
Tá Lam Sơn vẫn bị kỷ luật vì đã . . . giải quyết vấn đề bằng nắm đấm
(Lính mà em! Vì thế lính mới được gọi là Lính, chứ không phải là Chính Trị Gia).
Trong vòng 24 tiếng đồng hồ, Đại Tá Lam Sơn đã được trả về nguyên
quán. Mặc dù Tổng Thống Diệm rất có cảm tình với ông, nhưng vì ông bị
gán cho thái độ thiếu thiện cảm với Mỹ, nên vẫn phải ký lệnh phạt và
ông bị giam lon từ đó.
Tuy nhiên, đa số anh em quân nhân lại bênh vực cho cú đấm của Đại Tá
Lam Sơn, vì cú đấm này là cú đấm bảo vệ cho danh dự của người Lính
Việt Nam Cộng Hòa.
Chắc hẳn quý vị Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức còn nhớ một câu
chuyện vui về Đại Tá Lam Sơn khi ông làm Chỉ Huy Trưởng của Trường Bộ
Bịnh này. Đó là câu chuyện . . . “Tắc Đèng . . . Bẹch Đèng” mà các
khóa sinh từ khóa này tới khóa khác đã truyền miệng với nhau trong
những giờ canh gác và nghỉ ngơi.
Ghi chú: Bài viết này, đã đăng trong Việt Luận cách đây hơn một năm
rồi. Tôi xin tóm tắt như sau: Một Sinh Viên Sĩ Quan đứng gác đêm ở
trạm gác. Khi có xe của Đại Tá Lam Sơn đi tới, anh đã yêu cầu tài xế
“Tắt Đèn” rồi hô mật khẩu “Bạch Đằng”. Nhưng khốn nỗi, anh là người
Quảng, nên khi hô Bạch Đằng thì nó trở thành “Bẹch Đèng”. Người tài
xế, thay vì hiểu đó là mật khẩu, lại tưởng rằng người lính vừa yêu cầu
anh “Tắt Đèn” bây giờ lại đòi anh “Bật Đèn” lên. Anh tài xế bật đèn
lên thì lại bị anh Sinh Viên Sĩ Quan hô “Téc Đèng” rồi lại hô “Bẹch
Đèng” nữa, làm cho ông Đại Tá cuối cùng chịu không nổi, xách ba tong
nhào xuống rượt anh Sinh Viên Sĩ Quan chạy có cờ, rồi phạt tù anh ta,
chỉ vì ông nghĩ rằng anh lính gác đã cố tình chọc ghẹo ông, hô “Tắt
Đèn” rồi lại “Bẹch Đèng” lia chia.
Câu chuyện vui này chứng tỏ Đại Tá Lam Sơn đã được anh em Sinh Viên Sĩ
Quan mến mộ rất nhiều, nên mới đặt chuyện ra mà cười với nhau cho vui.
Tại sao anh em Sinh Viên Sĩ Quan lại thương mến Đại Tá Lam Sơn?
Tại vì, trong một buổi duyệt binh, viên Đại Tá Cố Vấn Mỹ đã tháp tùng
Đại Tá Lam Sơn đi duỵệt hàng quân danh dự đang đứng dàn chào. Khi đi
ngang một Sinh Viên Sĩ Quan, viên Cố Vấn Mỹ bất ngờ dừng lại để khám
vũ khí anh này. Ông ta đưa ngón tay quệt vào trong nòng súng cúa anh
Sinh viện để xem nòng súng có được lau chùi kỹ lưỡng hay không? Anh
Sinh viên lau chùi quá kỹ, cho dầu vào nòng súng để khỏi bị sét rỉ,
nên dầu chùi súng đã dính vào ngón tay của ông Cố vấn (trên nguyên
tắc, nòng súng phải sạch và khô thì mới bắn được. Nhưng anh em Sinh
viên trong quân trường thuờng sợ nòng súng bị rỉ sét, sẽ bị phạt gắt
gao, nên ưa cho dầu hơi nhiều để chống sét.)
Ông Cố Vấn đã không hiểu ý của anh em, khi ngón tay của ông bị dính
dầu, ông cho rằng nòng súng không được lau chùi kỹ, nên đã dùng ngón
tay dính dầu quết lên mặt người Sinh Viên Sĩ Quan.
Thấy thái độ của viên Cố Vấn này thật là quá đáng, Đại Tá Lam Sơn đã .
. . chơi nguyên bàn tay vào mặt viên Cố Vấn, miệng ông hét lên:
“Nếu bất cứ người lính nào dưới quyền tôi mà làm điều gì sai lầm, ông
Đại Tá cứ việc phiền trách họ với tôi, chứ không được đụng chạm tới
thân thể họ như vậy. Ông làm như thế có nghĩa rằng ông đã khi dể lính
của tôi đó. Tôi cho ông cái tát này để ông nhớ đời, đừng bao giờ làm
như vậy với bất cứ người Lính Việt Nam Cộng Hòa nào nữa.”
Những Sinh Viên Sĩ Quan đã rất khâm phục cách xử thế của Đại Tá Lam
Sơn với ông Cố vấn. Nhưng ông Cố  vấn thì không bằng lòng cách đối xử
của ông Đại tá một chút nào, ông lập tức bỏ cuộc duyệt binh để về văn
phòng phản đối hành động của ông Đại tá với cấp trên của ông. Đại Tá
Lam Sơn lại bị kỷ luật, giam lon kỹ hơn nữa, và chuyển đi đơn vị mới.
Ghi chú: Những lời nói của Đại Tá Lam Sơn, theo năm tháng, mỗi người
nhớ một ít. Cô Bảo Kim đã được Tướng Thứ thuật lại như vậy trong những
lần hai cha con ngồi tâm sự với nhau. Ông thường gọi Bảo Kim là “Chú
Mày” và nói với cô: “Chú mày là đứa con trai của ba đó. Vì cô cũng . .
. ngang tàng giống như Tướng Thứ vậy”.
Vì hai biến cố nói trên, mà Đại Tá Lam Sơn đã phải mang ba bông mai
trắng suốt 16 năm trời.
Thực ra, ông không mang ba bông mai trắng lâu quá như vậy. Vào ngày 30
tháng 1 năm 1964, Khi Tướng Nguyễn Khánh thực hiện một cuộc . . .
“Chỉnh Lý” đảo chánh các Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn
Kim và Mai Hữu Xuân để xưng là “Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”
kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Để dành sự ủng hộ của các Quân Binh Chủng,
Tướng Khánh đã thăng cấp cho Đại Tá Lam Sơn, chỉ huy trưởng Lực Lượng
Đặc Biệt lên cấp Chuẩn Tướng. Vì không phục Tướng Khánh, nên Đại Tá
Lam Sơn đã . . . không tới dự lễ gắn lon cho mình, mà tiếp tục mang
lon Đại Tá.
Tham dự buổi lễ kỷ niêm ngày Quân Lực 19 06 2011 vừa qua, đó là lần
đầu tiên cô Bảo Kim . . . ra mắt anh em Quân nhân của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa Victoria. Đáng lý ra, không ai biết cô là ai cả, nhưng
một số anh em đã tự biết mà truyền nhau cái tin cô là con gái của
Tướng Lam Sơn. Cô cũng không biết chuyện này, tới khi có nhiều anh em
tới chào hỏi cô, tự nhận là đã phục vụ tổ quốc dưới quyền Tướng Lam
Sơn nhiều năm. Cô Bảo Kim rất vui khi được nhiều người đến hỏi thăm,
cô đã cám ơn tất cả mọi người đã dành những lới thăm hỏi thân tình cho
cô, cho đến khi, có một vị đã tới hỏi thăm cô với một câu hỏi thật là
bất ngờ: “Cô . . . là con của bà thứ mấy của Chuẩn Tướng Lam Sơn?”
Câu hỏi này đã làm cho cô Phan Đình Bảo Kim . . . chới với, trong khi
ông vừa hỏi câu đó đã bước đi về phía bạn bè của ông để xầm xì to nhỏ
một cách . . . thích thú.
Việc Tướng Lam Sơn có bao nhiêu vợ, hoàn toàn là chuyện riêng tư của
Tướng Lam Sơn, không hề liên quan tới buổi lễ Ngày Quân Lực  mà cô tới
tham dự với tư cách cá nhân, với tư cách là hướng dẫn viên của đoàn
Cadet Úc. Nếu thực sự Tướng Lam Sơn có phòng hai, phòng ba . . . thì
câu hỏi đó phải do người vợ của Tướng Lam Sơn hỏi chính ông Lam Sơn,
chứ không thể do một quân nhân nào đó hỏi con gái của ông Tướng với
một thái độ nhạo báng như vậy.  Nếu Tướng Lam Sơn có mặt ở đó, chắc
chắn ông đã xử đẹp ông quân nhân kia rồi, vì đó là một câu nói có tính
cách nhục mạ một người con gái chưa hề quen biết.
Sau giây phút ngạc nhiên, và trước khi ông quân nhân kia rời gót ngọc,
cô Bảo Kim đã lễ phép trả lời ông:
“Thưa chú, cháu tên là . . . PHAN ĐÌNH BẢO KIM, con gái của Tướng PHAN
ĐÌNH THỨ.”
Cô Bảo Kim kể câu chuyện này cho tôi và xin tôi . . . giữ kín, vì cô
không muốn . . . làm mất lòng ai cả. Tuy nhiên, tôi đã trả lời cô
rằng, tôi xin phép phải kể câu chuyện này ra cho quý độc giả được biết
để tự mình đánh giá câu chuyện. Trên đời này, đã có ai dám vỗ ngực tự
xưng mình toàn hảo với vợ con hay chưa?  Đã có bao nhiêu người đàn ông
Việt Nam có hơn một người vợ trong đời? Nếu chúng ta không muốn ai hỏi
con chúng ta câu này, thì đừng nên hỏi con của  người khác câu hói đó.
Trong thời gian bị tù vì tội làm Tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
Tướng Lam Sơn được mọi người trong trại tù Hà Nam Ninh gọi đùa là . .
. Tướng Mồ Côi. Thật vậy, trong trại có ba vì sao được đặt tên như
vậy, đó là Tướng Lam Sơn, Tướng Dương Văn Đức, Tướng Hồ Trung Hậu,
Từ ngày 02 05 1975, Việt cộng đã tới tận nhà bắt Tướng Lam Sơn đi mất,
niêm phong nhà cửa đuổi tất cả mọi người trong gia đình đi nơi khác,
đó là lý do tại sao Tướng Lam Sơn không liên lạc được với gia đình, và
gia đình không biết tin của ông.
Mãi cho tới năm 1980, khi cô Bảo Kim gặp anh Hùynh Văn Sơn, con của
Tướng Huỳnh Văn Cao. Anh Sơn kể cho cô nghe, anh đã vừa được ra thăm
cha tại trại tù ở ngoài Bắc, và gặp Tướng Lam Sơn ở đó. Anh hỏi cô có
muốn . . . đi thăm cha không? Anh sẽ dẫn đường cho đi. Thế là cô về
nhà kể lại cho mẹ nghe, mẹ cô đã mừng rỡ mà gom góp mọi thứ ở trong
nhà còn có thể bán đuợc, đem bán hết để mua thức ăn, thuốc men và mua
vé máy bay tới Hà Nội. Tới nơi, anh Sơn giới thiệu cô với anh Hoàng,
người địa phương rất rành phong thổ vùng Hà Nam Ninh.
Anh Hoàng đã phụ với cô gánh những món quà của gia đình cô mua cho
Tuớng Lam Sơn, cùng với những gói quà của những người quen nhờ gới cho
thân nhân của họ. Khi tới chân núi, trời mưa như trút nước, ngập lụt
hết cả mọi nơi, bao nhiều đồ ăn khô, gạo, đường . . . đều bị ướt hết.
Thân gái dặm trường, từ sáng sớm tinh mơ, cô và mẹ đã cố gắng hềt sức
mình mà gồng gánh những món đồ này lên tới đỉnh núi. Người này kéo
người kia, người kia kéo bao gạo, thùng mì . . . cứ thế mà bò qua
những mỏm đá, những vũng nước mưa đổ xuống như thác muốn cuốn cá người
và vật đi.
Lên tới đỉnh núi là trời tối om, chung quanh toàn là mây mù không còn
thấy người bên cạnh, đành phải chờ tới sáng hôm sau mới xin thăm nuôi
được.
Khi cô con gái nói muốn thăm nuôi Tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ, tên cán
bộ lục hết sổ này tới sổ kia, không có ai tên Phan Đình Thứ cả. Hóa
ra, vì ông Tướng này chưa hề được thăm nuôi, nên trại không có danh
sách.
Chờ mãi mới được gặp cha, cô Bảo Kim đã khóc sướt muớt khi nhìn thấy
cha già đầu tóc bạc pho mắt đăm chiêu nhìn hai người đàn bà, miệng lẩm
bẩm:
“Tôi mà . . . có người đi thăm hay sao?
Bà . . . Bà . . . đi thăm tôi đấy à?
Con ơi . . . con đi thăm ba đó phải không con?
Vợ chồng, con cái lâu ngày mới gặp nhau, có biết bao điều muốn nói mà
cứ nhìn nhau không nói nên lời. Bảo Kim ngồi xuống bầy ra những món ăn
cho ba. Ông Tướng Lam Son ngẩn ngơ nhìn những miếng thịt, miếng chả,
chén cơm . . . Mãi hồi lâu, ông mới ngập ngừng nói với con gái:
“Con ơi . . . những món này . . .  là . . . của ba đó, phải không con?
Khi Bảo Kim trả lời là những món ăn này là của ba hết đó, ông vẫn chưa
tin là như vậy. Ông cứ ngồi nhìn, hỏi lại người vợ thân yêu:
“Bà . . . mua những thức ăn này . . . cho tôi đó phải không? Mua . . .
nhiều quá vậy . .
Ngày hôm sau, Cô Bảo Kim đã xin được bọn cai tù cho đi thăm chung
quanh mảnh vườn nhỏ do cha mình chăm bón và gặp những Tướng lãnh khác
cùng ở chung trại với Tướng Lam Sơn. Tấm hình độc đáo của bốn vị Tướng
ngồi vui vẻ đàn hát với nhau do cô chụp được, chưa hề phổ biến cho ai.
Cô hứa sẽ chup lại thật đẹp để gới cho các vị Tướng còn lại, sau đó
thì tặng cho tất cả mọi người.
Chuẩn Tướng Lam Sơn được bọn Việt Cộng trả về với gia đình vào năm
1989. Ông đuợc lên danh sách đi Mỹ theo chương trình HO, nhưng trong
số bẩy người con của ông, (hai người đã đi vượt biên), chỉ có hai
người con còn độc thân mới được đi theo ông qua Mỹ mà thôi, còn ba
người con đã lập gia đình sẽ không đựợc đi theo. Tướng Lam Sơn, một
phần muốn ở lại quê hương, phần nữa không muốn bỏ ba đứa con ở lại,
nên đã từ chối không đi qua Mỹ.
Người con trai thứ của ông, Phan Đình Anh Kim, đã vuợt biên qua Pháp
từ năm 1978, khi được biết cha già đã thoát khỏi vòng cưỡng chế của
bọn Việt cộng, đã liên lạc với Tướng Guy Simon,  thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù
Pháp, người bạn thân từ thủa còn chiến đấu chung với nhau ở Tunisie
năm 1943 để nhờ giúp đỡ. Tướng Simon đã trình bầy hoàn cảnh của Tướng
Lam Sơn, cựu Sĩ Quan Nhầy Dù Pháp, với Bộ Tư Lệnh Nhẩy Dù, Bộ Ngọai
Giao, Bộ Di Trú Pháp . . . để xin bảo lãnh cả gia đình của Tướng Lam
Sơn qua Pháp. Cuối cùng, với sự bảo trợ của Bộ Tư Lệnh Nhầy Dù Pháp,
chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm
1989.
Khi gia đình đã ổn định cuộc sống ở Pháp rồi, vào năm 1995, Chuẩn
Tướng Lam Sơn đã bầy tỏ ý định của mình là một mình trờ về sống những
chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam.
Chuẩn Tướng Lam Sơn mất ngày 23 07 2002 tại Sàigòn, hưởng thọ 86 tuổi.
Những huy chương ông đã được ban thưởng, gồm có:
Huy Chương Việt Nam:
Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương – Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương –
Lục Quân Huân Chưong –Biệt Công Bội Tinh – Chiến Thương Bội Tinh – Anh
Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu – Anh Dũng Bội Tinh Với Ngôi Sao
Vàng – 10 lần Tuyên Dương Công Trạng Trước Quân Đội.
Huy Chương Pháp:
Legion D’Honneur (Bắc Đẩu Bội Tinh, Pháp) – Croix De Gùerre 1942-1946
– Chiến Dịch Bội Tinh cho những Sĩ Quan tham dự trận Đại Chiến Thứ Hai
– Medaille De La Résistance 1943 Huy Chương Bảo Vệ Nước Pháp, do Tổng
Thông Charles De Gaulle trao tặng những Sĩ Quan đã bảo vệ Nước Pháp
trong trận Đệ Nhị Thề Chiến 1943.
Huy Chương Mỹ:
Silver Star, do Đại Tướng Westmoreland gắn tại Bộ Tư Lệnh Lực Lượng
Đặc Biệt Nha Trang.
Huy Chương Lào:
Huy Chương Bạch Tượng, do Quốc Vuơng Lào gắn.
ƯỚC VỌNG CỦA CHUẨN TƯỚNG LAM SƠN TRƯỚC KHI QUA ĐỜI
Cũng là nguyện vọng của Bà Quả Phụ của Chuẩn Tướng Lam Sơn Phan Đình
Thứ, nhũ danh Phan Thị Lệ Hoa, cùng với bẩy người con và các cháu,
chắt:
Mong rằng, vào ngày 23 tháng 7 năm 2012 năm tới, nhân dịp kỷ niệm 10
năm ngày qua đời của Chuấn Tướng Lam Sơn, VỚI SỤ GIÚP ĐỠ CỦA CÁC GIA
ĐÌNH LỰC LƯỢNG BIỆT KÍCH 81, BỊỆT ĐỘNG QUÂN, NHẦY DÙ, CỰU SINH VIÊN VÕ
KHOA THỦ ĐỨC, hài cốt của Tướng Lam Sơn sẽ được đem về ÚC làm lễ hỏa
táng và phủ cờ. Sau đó, tro tàn sẽ được đem về Viêt Nam rải tại những
nơi mà Chuần Tướng Lam Sơn đã từng chiến đấu, để ông được làm:
MỘT MỘ PHẦN BÊN NGÀN CHIẾN HỮU CỦA TÔI.

(Sưu tầm)

Truyện ngắn ‘Tiếng Hát Chiều Thanksgiving’

ĐIỆP MỸ LINH

Vừa mở cửa, thấy bà Hoa, Heather cười:
-Hi, “ba Noi”!
-Hi, Heather! Happy Thanksgiving!
-Cảm ơn “ba Noi”. Happy Thanksgiving to you too!
Thấy bà Hoa bước vào, mọi tiếng động của nhóm người trẻ nơi phòng khách đột ngột ngưng. “Ba Noi” vẫy tay về phía nhóm người trẻ, chúc:
-Happy Thankgiving đến mọi người. 
-Cảm ơn Bà. Chúng cháu cũng chúc Bà như thế.
Heather nhìn các bạn, giới thiệu:
-Xin giới thiệu đến các bạn, đây là “my ba Noi”.
Nhiều bàn tay vẫy vẫy. Người con trai của bà Hoa bước đến.
-Happy Thanksgiving, Măng! 
-Cảm ơn con. Măng cũng chúc vợ chồng con và các cháu như rứa.
-Măng ra ngoài “deck” ngồi với nhóm người lớn; trong này mấy đứa nhỏ ồn ào lắm.
-Răng dịch Covid mà con tụ họp nhiều người rứa?
-Dạ, chỉ vài cặp láng giềng lớn tuổi, con cháu của họ ở xa, không về được và vài đứa bạn học của mấy đứa con của con, vì nhà xa, phải ở lại trường. Con mời họ dự Thanksgiving để họ đỡ tủi thân. Đi, Măng ra “deck” ngồi chơi. 
Từ ngày ông Trực – chồng của bà Hoa – qua đời, Bà chỉ thích sống cách biệt để được “yên thân già”:
-Măng ở trong ni chơi với các cháu, được không, con?
-Tùy Măng.
Sau khi cô dâu và các con đến chào, bà Hoa xoay sang Heather, đùa:
-Heather! Cho bà Nội vui chung, được không?
-Okay! Nếu “ba Noi” chấp nhận được sự phá rối của tụi cháu.
-Không ai phá rối được Bà; vì, chỉ thấy cây đàn là Bà vui rồi.
Nhìn thanh niên Á Đông đang ôm Guitar, Heather nói:
-Johnathan! Biết nhạc Việt không, hát cho “my ba Noi” nghe đi!
-Nhạc Việt anh chỉ biết có một bài, nhờ hồi đó thường nghe “my on Noi” đàn và hát. Anh thích bài này nhưng lâu quá không đàn; còn hát thì…tiếng Việt anh nói còn không được mà hát cái gì! 
-“My ba Noi” cũng chơi đàn. Có thể Bà biết bài mà anh thích đó. Đàn đi!
-Để anh dợt lại xem.
Trong khi Johnathan “từng tưng”, cố nhớ lại dòng nhạc xưa thì Heather đến bên bà Hoa, nói nhỏ:
-“Ba Noi”! Johnathan là bạn trai của con đó.
-Cái gì? Con có bạn trai?
-Con lớn rồi! Tháng Năm này con tốt nghiệp đại học. “Ba Noi” quên rồi sao?
Im lặng. Bà Hoa thầm nghĩ: Mới ngày nào Bà và Tú – người yêu đầu đời của Bà – đi bên nhau còn e ấp, ngượng ngùng mà bây giờ cháu nội của Bà đã ở vào tuổi đầy mộng mơ như rứa à? Không thể tin được! 
Bất chợt Johnathan reo vui:
-Heather! Sorry, anh chỉ có thể đàn phân đoạn nào anh nhớ thôi. Được không?
-Okay.
Vừa nghe vài “notes” của tình khúc Nhìn Nhau Lần Cuối của Nguyễn Vũ bà Hoa lặng người! Giai điệu u hoài của tình khúc này như khơi dậy trong lòng Bà nỗi đau xưa! Qua khung cửa sổ, nhìn mây trôi lặng lờ, bà Hoa tưởng như có thể thấy lại được Bệnh Viện Hạm Hát Giang, HQ 400, đang hải hành chầm chậm trong vịnh Đà Nẵng vào buổi chiều xưa.
Chiều xưa ấy, sau khi tan trường, thấy Tú – trong quân phục xanh xám của Hải Quân – đang đứng đợi cạnh cổng trường Phan Châu Trinh, Hoa reo vui:
-Anh đến Đà Nẵng khi mô, răng không cho em hay?
-Chuyện nhà binh mà cho em hay sao được! Tàu đang công tác tại Thuận An, về đây nhận nhiên liệu và cũng để đón một sĩ quan cùng khóa với anh, sẽ thuyên chuyển xuống tàu.
-Khi mô “tàu anh” đi?
-Mai.
-Rứa anh có ghé nhà em không?
-Anh sẽ ghé để “trình diện” hai Bác và xin phép hai Bác cho em với cậu em của em tối nay xuống tàu chơi.
-Tối ni “tàu anh” có chi vui rứa?
-Mấy “thằng” cùng khóa với anh đón chàng sĩ quan mới nhận nhiệm sở, tụ họp nhau ca hát cho vui. Em đi, nha!
-Anh mà không cho em đi, mai mốt em biết được, em sẽ buồn anh lắm đó!
Câu nói ngọt ngào của Hoa làm Tú vui thích bao nhiêu thì tối đó, trong phòng ăn của sĩ quan, thấy bác sĩ Long – phục vụ trên HQ 400 – cứ quanh quẩn, “xoắn” lấy Hoa, Tú càng khó chịu bấy nhiêu!  
Khi được yêu cầu, Hoa hát tình khúc Love của Bert Kaempfert và Milt Gable: 
“L is for the way you look at me
O is for the only one I see
V is very, very extraordinary
E is even more than anyone that you adore can…” 
Hoa chọn nhạc khúc Love vì nàng muốn kín đáo thể hiện tình yêu nàng dành cho Tú. Nhưng, vì bác sĩ Long, ngay khi thấy Hoa nơi hạm kiều, đã bị “coup de foudre”; do đó, Long không thể đè nén, không thể giấu diếm tình cảm Long dành cho Hoa. Tú hiểu lầm, nghi rằng Hoa ham địa vị, muốn mượn lời ca tình khúc Love để hé lộ tình cảm nàng dành cho Long.
Hoa hát xong, Tú nén giận, lấy Guitar từ tay Long, vừa đàn vừa hát ca khúc Nhìn Nhau Lần Cuối như gián tiếp nói lên niềm thất vọng của chàng:
“Em, giờ hai đứa mình xa nhau rồi
Đường em đi mây giăng đẹp lối
Đường anh về gió mưa tơi bời…”
Là một thiếu nữ đẹp, nhưng Trời lại phú cho Hoa bản tính cứng rắn, ngay thẳng, chân thật; do đó, Hoa chỉ âm thầm đau khổ chứ chưa bao giờ tìm hiểu tại sao Tú lại đột ngột đoạn tình với nàng! 
Hôm nay – sau khi Johnathan ngưng đàn – bà Hoa cảm ơn Johnathan rồi xuống bếp, mở cửa sau, ra “deck”; vì muốn chôn vùi hình bóng xưa!
Nhóm người nơi “deck” hơi nhổm người, cúi chào bà Hoa. Người con cả nói nhỏ:
-Mấy người này Măng đã gặp vào những dịp nhà con có tiệc. Măng nhớ không?
Bà Hoa chỉ nhớ mặt chứ không thể nhớ tên. Nhưng vì phép xã giao, Bà chỉ gật đầu, chúc Thanksgiving. Người con cả mời:
-Măng ngồi đi.
Vừa ngồi xuống, bà Hoa thấy ông mặc áo trắng đến bàn lấy miếng thịt gà tây đút lò rồi quay sang nói với ông đang bưng ly rượu chát:
-“Tụi nó” – cộng sản Việt Nam (csVN) – mà nhân đạo gì! Theo báo Tuổi Trẻ online, ngày 30/10/2020, khi được Mỹ quyết định viện trợ cho Việt Nam hai triệu USD để khắc phục hậu quả thiên tai, sau khi “tụi nó” chia chác nhau, nhín lại chút ít, đem gạo tặng cho Lào để chứng tỏ với thế giới là “tụi nó” cũng nhân đạo.
Ông mặc áo “ca-rô” lên tiếng:
-Trường học cho học sinh Việt Nam thì không có nhà vệ sinh; đồng bào miền Trung bị lụt lội khốn khổ như vậy mà đem gạo đi cho người dưng!
Một bà phàn nàn:
-Trường học mà không có nhà vệ sinh thì làm sao, Trời!
Ông mặc áo “ca-rô” nhún vai:
-Cũng trong bản tin đã đề cập, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc xác nhận rằng: “Không khỏi xót xa khi nhìn thấy trẻ em đến trường phải đu dây qua những dòng sông dữ ở nhiều tỉnh miền núi hay phải chèo xuồng đến trường ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Cữu Long”. Đã vậy, thầy giáo Đỗ Việt Khoa còn cho biết vấn nạn lạm thu trong trường học!
Ông mặc áo trắng ngạc nhiên:
-Trường học không có nhà vệ sinh, học sinh phải “đu dây” đến trường mà học sinh còn bị lạm thu. Một xã hội như thế mà lúc nào người csVN cũng vỗ ngực khoe bảnh! 
Ông áo trắng bực dọc:
-Mẹ! Hồi đó csVN chủ trương “đánh Mỹ ‘kíu’ nước”. Bây giờ, trên đài VOA tiếng Việt, ngày 20/11/2020, cho hay: “Một báo cáo mới công bố của Viện Giáo Dục Quốc Tế – Institute of International Education – cho thấy số lượng sinh viên Việt Nam ‘đăng ký’ học tại các đại họa Hoa Kỳ vẫn đứng hàng thứ sáu trên toàn cầu…” Mẹ! Sao “tụi nó” không cho con cháu tụi nó qua Nga, Tàu, Tiệp Khắc học mà lại qua xứ “ đế quốc Mỹ” và “tư bản giảy chết” này để học?
Ông mặc áo ca-rô cười cười:
-Tin này mới nhục cho “bác” Hồ và đảng csVN: Trên Vietnamnet, ngày 15/11/2020, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc “phán”: “Dù ai là người thắng cử, ông Joe Biden hay ông Donald Trump, Mỹ vẫn là người bạn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam!”
Ông mặc áo xám cười lớn:
-Đó là lời xác nhận sự nhầm lẫn của “bác” và đảng csVN. Đó cũng là lời thú tội chân thành và đầy đủ nhất của csVN trước thế giới, trước người dân Việt Nam và trước vong linh của mấy triệu người Việt đã bị csVN đưa vào cuộc chiến “chống Mỹ” vừa qua!
Ông mặc áo ca-rô bảo:
-Tôi nhớ, báo Công An Nhân Dân – ngày 02/09/2019 – đăng tin Tổng Thống Đức, Walter Steinmeier, đã xin lỗi Ba Lan trong bài phát biểu hôm 01/09 khi hồi tưởng lại việc phát xít Đức tấn công quốc gia này 80 năm trước. Không biết chừng nào đảng và người csVN xin lỗi người dân miền Nam Việt Nam đây?
Ông mặc áo ca-rô vừa dứt câu, bà Hoa nghe tiếng Johnathan thì thầm phía sau:
-Chào “ba Noi”, cháu đi.
Bà Hoa quay lại:
-Bà tưởng nhà cháu xa, không về được vì Covid-19 mà!
-Các bạn của cháu nhà xa; chỉ có Heather và cháu là gia đình ở đây. Bây giờ cháu phải đi đón “my on Noi” về dự Thanksgiving với gia đình cháu.
-Ủa, “on Noi” của cháu không sống với gia đình của cháu à?
-Không. Ông sống trong viện dưỡng lão.
-Ô, tội nghiệp Ông!
-“My on Noi” không bị bệnh gì hết; chỉ quên thôi.
-Ông quên nhiều không?
-Nhiều! Nhưng cũng có nhiều điều Ông nhớ hoài; như bài hát mà lúc nãy cháu đàn đó, Ông vẫn hát được vài câu; còn những gì mới xảy ra Ông không thể nhớ được.
-Nếu tình trạng của Ông như rứa thì đâu đến nỗi phải vô viện dưỡng lão!
-“My ba Noi” bệnh, yếu, không thể lo cho “my on Noi”. “My ba Noi” phải sống với Cô của cháu; Ba Mẹ cháu bận đi làm, không lo cho “my on Noi” được
Từ ngày dịch Covid-19 bùng phát trở lại, bà Hoa lo sợ, tù quẫn và trầm cảm nhiều hơn. Chiều nay, nhân trang điểm phơn phớt, chưng diện áo quần đẹp đẻ để đến nhà con dự tiệc, bà Hoa muốn đi “vòng vòng” cho khuây khỏa và Bà cũng muốn nhân cơ hội này tìm hiểu về viện dưỡng lão để “dọn đường” cho cuộc đời còn lại của Bà:
-Bà có thể đi với cháu đến thăm “on Noi”, được không?
-Được. Bà để xe của Bà tại đây. Đón “my on Noi” xong cháu sẽ đưa Bà về lại đây.
-Mất công Johnathan không?
-Không. Cháu phải trở lại đây đón Heather đến nhà cháu dự tiệc Thanksgiving mà. 


Vừa bước về phía người đàn ông Á Đông ngồi lặng lẽ cạnh cửa sổ của một phòng khách trang hoàng rất mỹ thuật Johnathan vừa nói:
-Có lẽ “my on Noi” sẽ vui khi gặp Bà.
-Tại sao?
-Vì trong đó không ai nói được tiếng Việt.
-Ông có thể nhận ra Johnathan hay không?
-Đôi khi Ông nhận ra; đôi khi không. Ngay như Ba cháu mà nhiều khi Ông cũng không biết! Thiệt là buồn!
Khi được nhân viên yêu cầu ký tên vào danh sách người thăm viếng, bà Hoa hỏi:
-Johnathan! Tên “on Noi” là gì đề Bà điền vô đây?
-John Phan.
Nói xong Johnathan cũng ký tên, nhận lãnh “on Noi”. 
Khi bà Hoa và Johnathan đến bên ông John, Johnathan nói:
-Hi, “on Noi”! Vô phòng lấy quần áo, cháu đón Ông về.
Im lặng. Thấy ông John cứ nhìn Piano, bà Hoa cảm thấy xót xa quá nhưng không biết phải làm gì! Để xua đuổi nỗi ám ảnh về khoảng đời vô vị – như ông John – có thể xảy đến cho Bà, bà Hoa dở nắp Piano, “gõ” vài “notes” cho đỡ buồn! Không ngờ âm thanh bên “Bass” như từng đợt sóng ngầm, dội thẳng vào tâm thức u uẩn; rồi, với động tác vô thức, mười ngón tay của Bà “tìm về” tình khúc Nhìn Nhau Lần Cuối lúc nào bà Hoa cũng không hay! 
Bà Hoa vừa đàn hết phân đoạn đầu, Johnathan giật mình; vì ông John cầm tay chàng, lắc lắc. Johnathan quay sang:
-“On Noi”! Ông muốn đi về, phải không?
Ông John lắc đầu, chỉ tay về phía bà Hoa. Johnathan giải thích:
-Đó là “ba Noi” của …
Johnathan chưa dứt câu, Ông John đứng lên, chậm chạp bước về phía bà Hoa, nghiêng mặt, nhìn Bà. Bà Hoa nhìn Ông, hơi mỉm cười, khẻ cúi chào – chính lúc đó Bà đàn sai; vội ngưng đàn. Với ánh mắt hết sức thiết tha, ông John thều thào:
-Đàn tiếp đi, Hoa!
Bà Hoa giật mình, tưởng Bà đang mơ, vội quay sang, hỏi Johnathan:
-Nghe chi không, Jhonathan?
-Vâng. Nhưng cháu không hiểu.
-Ông gọi tên Bà và bảo Bà đàn tiếp.
-Thiệt sao? Thế thì Bà làm ơn đàn tiếp đi!
Bà Hoa đàn lại tình khúc Nhìn Nhau Lần Cuối. Bất ngờ, bà Hoa nghe – từ sau chiếc “mask” của ông John – tiếng hát thều thào:
“…Em, anh xin em kỷ niệm ngày xưa
Dù hun hút tựa như giấc mơ
Đừng bôi xóa đừng quên nhé em!…”
Bà Hoa ngưng đàn, nhìn ông John, hỏi:
-Tên Việt Nam của Ông là gì?
-Tú, HQ 400.
-Trời, anh!
Gọi “người xưa” xong, bà Hoa ôm mặt, khóc! Johnathan bước đến, ngạc nhiên:
-“On Noi” nói gì mà Bà khóc? 
-Ông nhận ra Bà! Ông và Bà là “bạn xưa”.
Trong khi bà Hoa quẹt nước mắt thì nhiều tiếng vỗ tay vang lên từ cửa phòng khách. Bà Hoa vẫy tay về phía nhóm người đang vỗ tay.
Cô quản lý và nhóm người giúp việc trong Katy Assisted Living cùng bước đến gần hơn. Sau khi niềm xúc động lắng xuống, bà Hoa nhìn ông Tú rồi nhìn mọi người, giọng nghẹn ngào:  
-Chúng tôi là “bạn xưa”; bất ngờ nhận ra nhau trong chiều Thanksgiving này. 
Cô quản lý cười vui:
-Thật là món quà tuyệt vời mà Bà và ông Phan nhận được vào Thanksgiving.
Bà Hoa đáp:
-Cảm ơn cô quản lý. Sau Thanksgiving, bạn tôi sẽ trở lại đây – nếu quý vị trong Katy Assisted Living cho phép – mỗi ngày tôi sẽ vào đây bầu bạn với người “bạn xưa” của tôi. Được không ạ?
Cô quản lý vui mừng:
-Chúng tôi rất hân hạnh. Bất cứ lúc nào, trong giờ làm việc, Bà cũng có thể đến đây.
Bà Hoa bước về phía ông Tú:
-Đi, anh! Vô phòng lấy quần áo, đi về với Johnathan.
Ông Tú lẳng lặng theo Johnathan vào phòng.
Khi ông Tú và Johnathan trở ra, cô quản lý chợt nhớ, vội nói với bà Hoa:
-Lúc nãy Bà đàn, chúng tôi rất ngạc nhiên; vì âm hưởng thiết tha của dòng nhạc nghe rất lạ, rất khác biệt; do đó chúng tôi muốn đến nghe.
-Đó là một trong những tình khúc ướt lệ của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Có lẽ cô cũng chơi đàn cho nên cô mới có thể nhận ra được sự khác biệt đó.
Động từ “chơi đàn” khiến cô quan lý chợt nhớ, vội reo lên:
-Oh Yeah! Tôi sẽ đàn bài Thank You for Being a Friend (1) để mừng hai người “bạn xưa” vừa tìm lại được nhau!
Tiếng vỗ tay cùng tiếng Piano vang lên rộn rã. Cô quản lý – không tháo “mask” – hát. Mọi người cũng để “mask”, hát theo:
“…Thank you for being a friend
Traveled down a road and back again
Your heart is true, you’re a pal and a confidant…”
Trong khi mọi người vừa hát vừa nhìn ông Tú vừa nghiêng vai nhè nhẹ theo tiếng Bass trầm trầm thì Johnathan đưa ông Tú đến cạnh bà Hoa. 
Bà Hoa, ông Tú và Johnathan đều đưa khuỷu tay chạm vào nhau, ánh mắt ngời sáng niềm vui!

(1) Andrew M Gold; Kobalt Music Publishing Ltd., BMG Rights Management.

 ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/

Sử gia Mỹ bổ sung góc nhìn của ‘người miền Nam’ về cuộc chiến Việt Nam

Tiến sĩ Heather Marie Stur

Khi nhận được học bổng Fullbright và đến sống tại Việt Nam, một nữ giáo sư lịch sử người Mỹ đã nhận ra ngay sự vắng bóng của “một phía quan trọng” trong cuộc chiến từng diễn ra trên chính mảnh đất của họ. Bà quyết định bắt tay nghiên cứu và cho ra đời thêm một tác phẩm về cuộc chiến Việt Nam dưới lăng kính mới – lăng kính của “người miền Nam” – những người mà bà cho là đã bị “bỏ sót” trong nghiên cứu lịch sử của cả “bên thắng cuộc” lẫn phía đồng minh Mỹ.

“Tôi đến sống ở Việt Nam một năm và giảng dạy tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, thuộc Đại học Quốc gia. Tôi đã đi khắp đất nước, xem nhiều đài tưởng niệm và tượng đài chiến tranh khác nhau, mà có lẽ tôi nên gọi là theo ‘lăng kính của miền Bắc’ hay ‘lăng kính của Hà Nội’ trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, nhưng hoàn toàn không thấy đề cập gì đến một thực tế là có một phe Việt Nam khác mà họ cũng đã chiến đấu chống lại”, Giáo sư – Tiến sĩ Heather Marie Stur của trường đại học Southern Mississippi, Hoa Kỳ, nói với VOA về lý do khởi đầu khiến bà dành ra 6 năm để nghiên cứu và viết cuốn “Saigon at War: South Vietnam and the Global Sixties” (tạm dịch “Sài Gòn thời chiến: miền Nam Việt Nam và thập niên sáu mươi toàn cầu”), vừa được nhà xuất bản Đại học Cambridge phát hành.

“Có câu nói rằng ‘Lịch sử được viết bởi những kẻ chiến thắng’. Tôi hoàn toàn hiểu quan điểm đang thống trị của miền Bắc hay của Hà Nội, bởi vì họ là bên thắng cuộc. Do đó, tôi muốn đưa phía bên kia vào câu chuyện cho minh bạch hơn”, GS-TS. Stur nói thêm.

Để bổ sung cho “sự vắng mặt” của một phía quan trọng này, nữ giáo sư Mỹ bắt đầu tìm hiểu câu chuyện của những nhân chứng sống tại Việt Nam, từ những gia đình có người thân từng là cựu chiến binh của Việt Nam Cộng Hoà, đến những gia đình bị chia rẽ vì có người thân chiến đấu cho cả hai bên chiến tuyến.

“Tôi cố gắng để có được nhiều tiếng nói và quan điểm hơn trong cuốn sách. Vì vậy, tôi không tập trung vào chỉ một vài người lãnh đạo, nhưng tôi tìm hiểu một nhóm rộng hơn như tầng lớp sinh viên, những người Công giáo, các nhà hoạt động chính trị, các trí thức thành thị sống chủ yếu ở Sài Gòn… để có được cái nhìn bao quát hơn, thay vì chỉ nhìn từ quan điểm của một lãnh đạo hay chính phủ”, TS. Stur cho biết thêm.

Ngoài việc tiếp xúc với người dân, TS. Stur bắt đầu nghiên cứu tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II và Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM (trước đây là Thư viện Quốc gia của Việt Nam Cộng Hoà). Tại đây, bà phân tích các tài liệu của quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng Hoà trước đây, từ các báo cáo tình báo, cáp ngoại giao, báo cáo của cảnh sát và toà án đến các bản tin chính trị, nhật báo, tạp chí hay thư từ của người dân gửi đến các văn phòng chính phủ vào thập niên 1960 và 1970.

Trở về Mỹ, nữ giáo sư chuyên viết về chiến tranh tiếp tục công việc nghiên cứu tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia ở thủ đô Hoa Kỳ và tại các trường đại học của Mỹ, với mong muốn tìm hiểu cuộc chiến trong bối cảnh toàn cầu ở thập niên 1960 – vốn được xem là thập niên khởi đầu của khái niệm “toàn cầu hoá”, thời điểm đan xen giữa ý tưởng được xem là không tưởng về một “tân thế giới sắp đến” và thực tế khắc nghiệt của các cuộc chiến tranh, đàn áp chính trị và khả năng xung đột hạt nhân.

“Người Mỹ chúng tôi có xu hướng nghĩ về Chiến tranh Việt Nam như là một trải nghiệm của người Mỹ và nó ảnh hưởng đến chúng tôi, ảnh hưởng đến người dân Mỹ. Nhưng những gì đã xảy ra ở Việt Nam trong những năm 1960 và đầu những năm 1970 là một phần của câu chuyện toàn cầu lớn hơn nhiều về hoạt động chính trị và sự độc lập”, Giáo sư Stur nói, đồng thời cho biết bà thực sự “thích thú” khi nhìn thấy những kết nối quốc tế trong các hoạt động này.

“Các quốc gia và mọi người đều chú ý đến những gì đang diễn ra ở Việt Nam và bàn về nó, xem mình đang đứng ở phe nào. Trong khắp khu vực Đông Nam Á, có những phong trào chống Cộng khác nhau và các chính trị gia rất chú ý đến những gì đang diễn ra ở miền Nam Việt Nam để rút ra bài học cho đất nước mình trong bối cảnh đụng độ giữa các phe nhóm Cộng sản và chống Cộng. Chính vì những xung đột diễn ra ở Việt Nam đã rất thu hút sự chú ý trên toàn thế giới, nên tôi cố gắng đưa bối cảnh quốc tế này vào trong cuốn sách”.

Với việc phác hoạ lại cuộc chiến trong bối cảnh toàn cầu những năm 1960, nhà sử học người Mỹ còn muốn cho độc giả nhìn thấy có đến ba cuộc chiến lồng ghép vào nhau trong chiến tranh Việt Nam, đó là cuộc chiến chính trị ở Sài Gòn, cuộc chiến quân sự và cuộc chiến về mặt công luận thế giới.

Theo GS-TS. Stur, nền dân chủ của miền Nam Việt Nam trước đây sở dĩ gặp thất bại là vì các áp lực chính trị lên chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, chứ không phải là kết quả của việc người dân ngả theo Cộng sản.

“Hoa Kỳ, trong chừng mực nào đó, đã cố gắng phát triển mối quan hệ tốt đẹp hơn với Trung Quốc và Liên Xô. Và ý tưởng để cho chủ nghĩa cộng sản nắm giữ Việt Nam và thống nhất đất nước dưới một chính quyền Cộng sản vào thời điểm giữa thập niên 1950 đến cuối thập niên 1960 có vẻ như không đến nỗi là một mối nguy an ninh quốc gia”, GS-TS. Stur nhận định.

“Đó là lối tư duy địa chính trị của Hoa Kỳ đối với các đối thủ, đặc biệt là Trung Quốc”, Giáo sư Stur nói thêm, cộng với những nghi ngờ từ phía công chúng Mỹ về thành công của Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời điểm đó đã góp phần gây sụt giảm rất lớn đến sự ủng hộ tiếp tục tham chiến.

Tiếp xúc với nhiều người miền Nam thời hậu chiến, TS. Stur nói bà “hoàn toàn thấu hiểu” tâm trạng của nhiều người cho rằng Hoa Kỳ đã đến Việt Nam và “làm lớn thêm đống hổ lốn tại đây, leo thang chiến tranh và rồi bỏ đi mà không hoàn thành cam kết”.

“Tôi nghĩ rất khó để hàn gắn vết thương đó. Đối với những người đã phải rời bỏ Việt Nam, trở thành người tị nạn ở Mỹ và không bao giờ có thể trở về, nghĩa là họ đã mất nước”, Giáo sư Stur nói. “Nước Mỹ sẽ phải mất một thời gian rất dài để chữa lành vết thương cho những người đã chiến đấu cùng với người Mỹ và tin rằng Hoa Kỳ sẽ làm gì đó để giúp họ nhưng rồi lại bỏ đi”.

Trước tác phẩm “Saigon at War: South Vietnam and the Global Sixties”, nữ học giả Mỹ từng được biết tiếng qua tác phẩm viết về thân phận phụ nữ thời chiến trong cuốn “Beyond Combat: Women and Gender in the Vietnam War Era” và nhiều bài viết khác về chiến tranh Việt Nam.

“Đó là một đất nước xinh đẹp và hấp dẫn, và tôi muốn hiểu biết thêm về lịch sử của đất nước này trong mối quan hệ với cuộc chiến của người Mỹ tại đây”, TS. Stur giải thích về lý do bà tập trung nghiên cứu và cho ra đời nhiều tác phẩm về chiến tranh Việt Nam.

Võ Bị trên chiến tuyến

Trần Ngọc Toàn

Mùa nước lụt, Tháng 10 năm 1973.

Suốt gần cả tuần lễ, mưa kéo dài qua ngày đêm như không dứt.Mưa nơi xứ Huế và Quảng Trị càng làm cho cảnh vật thêm não nề, sầu thảm. Từ bên Hương Điền, Huế, nhìn ra Phá Tam Giang chỉ thấy một khung cảnh mờ ảo. Nước lũ từ trên rặng Trường Sơn ào ạt đổ về tràn ngập hết đám ruộng thấp bên những đồi cát trụi lơ. Tin tức từ các nơi cho biết lũ lụt đang dâng tràn, suốt từ sông Thạch Hãn đến Sông Hương. Vào buổi sáng sớm hôm ấy, trời chợt quang mây tạnh. Đại tá Phạm Văn Chung, Tham Mưu Trưởng, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC hành quân, cho người lính gọi tôi lên trình diện. Ông ngồi sau chiếc bàn thầy giáo, ôn tồn nói :’ Ông Tướng bảo cậu ra bàn giao Tiểu Đoàn 4 cho Nguyễn Đằng Tống ngay hôm nay”. Trung Tá Nguyễn Kim Đễ, bạn cùng Khóa 16 Võ Bị, rời TD 9TQLC về làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn, đứng lặng lẻ nhìn theo. Không chần chờ, tôi vội quay về nơi tạm trú mang ba- lô lên đuờng. Người lính của Phòng 3 Sư Đoàn đã mang chếc xe Jeep ra chờ tôi trước sân Bộ Tư Lệnh. Chẳng buồn nhìn lại , tôi nhảy thót lên xe khi người tài xế máng khẩu súng M16 vào lưng ghế rồi nổ máy. Anh ta nhanh nhẩu nói nuớc ngập con đuờng sát ruộng. Mình phải chạy vòng ra bờ biển để xuống cửa Thuận An. Gặp chuyến phà Quân vận đang chuẩn bị qua Phá, thầy trò tôi vọt lên ngay. Khi đến Đập Đá , Huế, xe phải dừng lại .Nước tràn qua đập trông khá mạnh và cao mực nước. Không thấy ai dám qua. Chợt một chiếc xe GMC chở đầy lính trờ tới. Tôi bảo người tài xế chạy theo bám sát đuôi chiếc xe vận tải. Lọt qua đuợc, xe vòng qua cậu Trường Tiền, bon bon chạy về hướng Bắc. Qua Mỹ Chánh, bắt đầu với cánh quân của Tiểu Đoàn 6 TQLC do Trung Tá Trần Văn Hiển chỉ huy, khi nước dâng sát nhịp cầu rồi đến Hải Lăng, đến phòng tuyến của Tiểu Đoàn 3 TQLC với Trung Tá Nguyễn Văn Cảnh, xuất thân Khóa 16 Võ Bị, rồi ngang khu đóng quân của Tiểu Đoàn 7 TQLC với Nguyễn Văn Kim, bạn cùng khóa Võ Bị, bên nhà thờ La Vang bị sụp tháp chuông trong cuộc tổng tấn công của CS Bắc Việt, tiến vào thành phố Quảng Trị và Cổ Thành đỗ nát, với đâu đây bóng quần áo trận rằn ri TQLC. Xe rẻ về hướng Đông về quận Triệu Phong, qua thôn Bích La Đông, Bích La Tây, quên hương của Lê Duẩn. Khi xe vừa lên cầu Ba Bến, bắt ngang sông Vĩnh Định, trước mặt tôi là cả một vùng ngập nuớc mênh mông hết tầm mắt. Người tài xế vội dừng xe, bước xuống keó khấu súng M16 ra cầm tay lăm lăm. Tôi chỉ có chiếc ba-lô trên lưng và hai bàn tay không. Vừa lúc, từ phía Chợ Cạn, một chiếc xe lội nuớc M113 rẻ nước huớng về phía cầu. Tôi thấy đứng ngồi lổm ngổm trên mui xe có mấy người lính Thiết giáp thủ súng.

vo_bi_tren_chien_tuyen_c-large-content

Người bạn cùng khóa Võ Bị của tôi, Trung tá Nguyễn Đằng Tống, trong bộ chiến phục còn mới, giơ tay vẩy vẩy. Chiếc Thiết vận xa vừa dừng lại dưới chân dốc cầu, Tống nhảy xuống đi nhanh vế phía tôi, miệng cười tươi như trẻ đuợc kẹo. Chàng nói như không kịp thở :” Mày vào đi. Tụi nó đứa nào cũng biết mày (và) đang chờ mày vào.”

_ Còn vụ bàn giao thì sao ?

_ Tao chẳng có gì phải bàn giao với mày. Tao phải ra Huế gấp cho kịp chuyến bay C130 về Sài Gòn cưới vợ.

_ Cưới vợ ? Mày mày cưới em nào vậy?

_ Thôi mày biết rồi còn hỏi nửa. Nè, tao cho mày 10 ngàn để xài tạm lúc đầu. Tao đi đây.

Thế là Tống mang túi xách nhỏ nhảy gọn lên chiếc xe Jeep. Xe phải thụt lùi vì không chổ quay đầu. Tôi nói vói theo :” Cưới xong nhớ dắt vợ mày ra trình diện nghe” Và đứng lặng nhìn theo cho đến khi chiếc xe khuất bóng. Hai đứa tôi là bạn cùng khóa 16 Võ Bị. Ra trường nhào đầu về Thủy Quân Lục Chiến, cùng Tiểu Đoàn 4. Trong trận Bình Giả, Tống thoát về làng với Đỗ Hừu Tùng. Ba ngày sau, tôi một mình mới bò về trước cổng làng Bình Giả, khi hai vết thương trên bắp chân và đùi phải thối rửa, đầy dòi và kiến lúc nhúc. Tống và Tùng bảo đêm nào tụi tao cũng thấp nhang khấn mày chết chổ nào về chỉ cho biết để lấy xác. Năm 1966, Tống bị trúng đạn vào bụng nhưng nhờ tản thương về Quy Nhơn kịp thời nên sống sót. Chỉ hai năm sau, Tống trở ra hành quân, rồi làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1 TQLC và TĐ4TQLC,ược đặc cách lên Trung Tá với Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Lần này đuợc phép về Sài Gòn cưới con gái ông Nhà Báo Tú Gàn rồi ra làm Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 147 TQLC với Trung Tá Đỗ Hữu Tùng nắm quyền LĐT.

Tôi mang ba-lô leo lên mui xe vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 4 TQLC nằm trong làng Chợ Cạn đang chìm trong biển nước lũ lụt Tháng 10. Chiếc xe M113 rẻ nước chạy ào ạt vế phía đồi cát nhô lên giửa mất rặng tre già ngập nước. Từng đàn vịt nước Le le đen nghẹt cất cánh ào lên kêu xào xạt. Đám lính của đơn vị đang ngồi tòn teng trên võng, ôm súng nhìn theo. Vừa leo xuống xe, tôi gặp ngay Đại Uý Nguyễn Tri Nam, xuất thân Khóa 22 Võ Bị, đứng nghiêm đưa tay chào, trong bộ chiến phục gọn sạch. _” Chào Đại Bàng. À quên, chào Niên Trưởng”. Tôi vui vẻ chào lại và bắt tay Nam. Tôi gặp Nam nhiều lần trước. Tôi hỏi tên anh là Tri Nam hay Trí Nam. Nam liền bảo là Tri Nam. Cha mẹ Nam từ ngoài Bắc vào Nam làm Đồn Điền ở Trị Tâm, Bình Dương, trước năm 1954, nuôi Nam đi học lên tới Đại học nhưng Nam tình nguyện vào Võ Bị, rồi TQLC. Đại Uý Nam rất nhanh nhẹn và khuôn thước, đâu ra đó. Nam mời tôi vào hầm Hành quân của Ban 3 Tiểu Đoàn để hướng dẩn tôi vị trí đóng quân và tình hình địch. Ngay sau đó, Nam gọi một người lính lên bảo :” Đây là Hạ sĩ Nguyễn Văn Sơn tự Sơn Cà và Binh Nhất Lý Seng sẽ là Tà Lọt (phục vụ) cho Niên Trưởng và chỉ căn hầm kế bên là nơi tôi ở. Sơn Cà lớn con và có vẻ xuề xòa của người Nam. Lý Xeng trông lầm lì. Tôi hỏi Tiểu Đoàn Phó nằm đâu. Nam đáp :” Thiếu Tá Phạm Văn Tiền (Đuợc tưởng thưởng Đệ Tứ đẳng BQHC Năm 1972 về sau lên làm TĐT/TĐ5TQLC) nằm với Đại Đội 1 của Dương Công Phó Khóa 22 Võ Bị. Niên Trưởng Tiền là Khóa 20. Tôi biết và đã gặp. Đaị đội 2 do Tô Thanh Chiêu khóa 26 Thủ Đức. Chiêu từ bên Không Quân đánh Huấn Luyện Viên về Thủ Đức, nay làm Đại Đội Trưởng. Đại Đội 3 và 4 do hai Đại Uý Mai Văn Hiếu tự Hiếu Tây Lai và Dương Tấn Tước gốc Tây Ninh chỉ huy. Khi còn là Thiếu Tá, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Sư Đoàn, năm 1971, tôi đã lên trường Võ Bị lấy Khóa 23 về TQLC, nay họ đã dày dạn chiến trường và mang cấp Đại Uý. Tước tánh ít nói nhưng rất lì khi đụng trận. Thế là tôi có có cả một dàn khóa đàn em Võ Bị sánh vai, chung lưng đứng ngoài mặt trận. Tôi không phải lo gì ngòai việc chăm sóc và tận tình giúp cho họ về mọi phương diện, như một người anh trong gia đình, dù tôi đã rời chiến trường khá lâu và mang thương tật.

vo_bi_tren_chien_tuyen_b-large-content

Tôi nghĩ ngay đến việc phải ra thăm các Đại Đội trên chạm tuyến. Sau khi ngưng bắn, phòng tuyến của TQLC và VC chỉ cách nhau vài thước, về phía Đông Bắc của Quảng Trị, từ Cửa Việt đổ xuống. Đại Uý Nam gọi lấy chiếc xuồng máy cao- su đem ra bờ nước. Hai đệ tử mới của tôi vội cả chạy ra, mang theo súng. Người mang máy truyền tin Tiểu đoàn là Hùng Con lếch thếch quảy máy chạy vội ra. Nam nói lớn “Thằng Hùng Con là con của Thượng sĩ Nguyễn Văn Bình hồi xưa là Tiểu đội trưởng của Đại Bàng đó”. Hùng Con nhỏ nhắn, mặt còn con nít, cười bẻn lẻn. Tôi bắt đầu với ám danh truyền tin là Tây Sơn và ám số 816. Sơn Cà và Lý Xeng vừa chống vừa chèo xuồng, hướng về phía Cánh B của Tiểu Đoàn do “Sao Mai” Phạm Văn Tiền chỉ huy. Tiền đã đứng chờ trên một gốc bụi tre lấp xấp nước. Tiền vồn vả chào hỏi và bắt chặt tay, đồng thời chỉ tay các vị trí của VC. VC đã lấy ghe của dân neo vào lùm tre trên mặt nước lụt. Tiền đã cho lệnh các Đại Đội chặt tre già kết thành bè cho mổi Tiểu Đội. Chiếc bè tre của Tiền khá rộng và vửng chắc. Tiền cho biết đơn vị không gặp trở ngại cho tiếp tế nhờ có M113. Trong khi VC dùng bao plastic đen thả trôi lương thực cho quân trú đóng. Có gói trôi dạt qua bên TQLC. Lục ra thấy có gạo sấy và hộp thịt heo kho Tàu Trung Cộng. Một lúc sau, Đại Uý Dương Cộng Phó K22 tự Phó” xay nước mía nằm” gần , lội qua báo cáo vị trí đóng quân, với hàng lính treo võng trên các bụi tre. Lính rất giỏi xoay sở. Họ lấy nón sắt ngửa rat reo giửa hai cây rồi nhóm lửa nấu cơm cũng treo lửng lơ bên trên. Phó nổi tiếng đánh giặc lì lợm và lính dưới quyền sợ một nước. Sau đó, thuyền chèo qua Đại Đội 2 của Tô Thanh Chiêu. Chiêu người Bắc nói chuyện rất có duyên. Hồi trước khi ở Không Quân qua Mỹ học va chạm và đánh Huấn Luyện Viên nên bị trả về, rồi đi khóa Sĩ quan Thủ Đức. Về Sau, ngày 23 tháng 3 năm 1975, Chiêu bị tử trận tại Thuận An cùng với Nguyễn Tri Nam, lúc ấy Nam là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ4TQLC. Xác hai người đuợc Trung Tá Tống đưa về Quân Y Viện Đà Nẵng, rồi biệt tích sau ngày 29.3.75 khi Đà Nẵng rơi vào tay CS. Tôi lần qua thăm hai đàn em Khóa 23 do tôi nhận về TQLC, là Mai Văn Hiếu và Dương Tấn Tước. Hiếu quê ở Gia Định, còn Tước từ Tây Ninh. Khi đến Đại Đội 2 bất chợt tôi gặp lại người lính cũ khi còn làm Trung Đội Trưởng năm 1963. Nay anh đã lên Trung Sĩ Nhất là Lê Văn Quận. Tôi và Quận gặp lại nhau vui mừng và xúc động, không ngờ sau bao năm chinh chiến vẩn còn sống sót. Quân trông già dặn và từng trải. Tôi hỏi chú có vợ con gì chưa. Quân đáp đi hành quân hoài lấy vợ chỉ làm cho người ta khổ. Tôi dọ ý Trung Uý Tô Thanh Chiêu (Năm 74 lên Đại Uý) xin rút T/S I Quân về với tôi. Chiêu vui vẻ nhận lời ngay. Quận đã theo bảo vệ tôi cho đến giờ phút cuối cùng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi gọi máy bảo Nam liên lạc xin thêm xuồng máy cao su cho đơn vị. Tôi nhắc lại lời Thiếu Tá Tiền với các ĐĐT là nhất quyết không cho quân VC lấn qua một tấc đất khi lợi dụng mưa lũ. 

Khi vừa quay về BCH tôi bổng nghe tiếng máy bay Trực thăng xoành xoạch trên đầu. Vừa lúc Nam chạy ra gọi báo có người trên phi cơ muốn tiếp chuyện. Ngay sau thủ tục đàm thoại, tôi nghe tiếng vang trong máy Truyền tin AN/PRC25 :” Cao Bồi ! Cao Bòi! Đây là Già Rô. Trả Lời” Thì ra là Trung tá Cao Quảng Khôi Phi đoàn Trưởng PĐ213 từ Đà Nẵng cùng khóa Võ Bị với tôi. Trong Trường tôi có bịêt danh là Cao Bồi và Khôi với tên Ông Già Rô. Khôi cho biết vừa ghé công tác cho Lữ Đoàn 369 TQLC và gặp Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc. ”Tau vòng lên thăm mi rồi về. Mi cần chi cho tao biết” Khôi nói trước khi rời vùng. Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Á khoa Khóa 16 Võ Bị, đang làm Lữ Đoàn Phó LĐ369 TQLC đóng ở Mỹ Thủy.Khi gặp tôi ở Hương Điền, Phúc ôm vai tôi nói :

” Mày ra ngòai hành quân với tụi tao còn hơn là làm Chánh Văn “Buồng” chẳng khác gì gia nhân. Mất cả khí thế.” 

Bây giờ, tôi đi vào mặt trận, với các bạn cùng khóa chung vai sát cánh và cả một giàn đàn em Võ Bị đã dày dạn chiến trường. Phía trên đầu còn có Phi Đoàn Trực Thăng 213 của Trung Tá Cao Quảng Khôi. 

“ Chàng từ đi vào nơi gió cát,Đêm trăng này nghỉ mát nơi nao……”

Trần Ngọc Toàn

Tôi đã từng ngu như thế ?

Tôi đã từng ngu như thế để phán đoán vội vàng với một nạn nhân của cuộc chiến tranh Việt Nam

Khi đó tôi vừa đến Mỹ được 1 năm, và tôi quen ông, một Trung tá Việt Nam Cộng Hoà, dù tuổi tác chênh lệch rất xa nhưng chúng tôi nhanh chóng thành đôi bạn.Một ngày kia trong lúc tranh luận thật hăng say , tôi đã từng ngu để nói với ông: “Chóp bu VNCH là đám hèn nhát, bất tài và bỏ chạy mất dép vất dân chúng ở lại chịu khổ”.

Sau khi tôi nói, ông ngồi sững ra nhìn tôi, bất giác một hàng nước mắt lăn khỏi mắt ông và tình bạn giữa chúng tôi chấm dứt.

Tôi lớn lên trong mái trường XHCN cho dù tôi ham học, ham đọc nhưng 90% sách tôi đọc lúc đó là do nhà nước xuất bản. Bất cứ nơi nào cũng chỉ nhìn thấy nói về sự bất tài và hèn của chóp bu Việt Nam Cộng Hoà mà thôi. Điều đó vô hình chung như một dấu ấn ghi vĩnh viễn trong lòng tôi. Tôi sang Mỹ dấu ấn đó không hề thay đổi. Nên tôi từng ngu như thế !

Rồi một ngày kia ngồi trong thư viện bất chợt tôi nhìn thấy quyển hồi ký của ông Henry Kissinger, tôi tò mò đọc và vỡ ra. Tôi đi khắp nơi lục tìm sách để đọc. Tôi tìm hiểu từng trận đánh ác liệt, từng chiến dịch trước 1975 và tôi hiểu. Tôi bị lừa, tôi vô tình bị cộng sản lừa. Tôi là một thằng ngu mà cứ tưởng mình khôn. Sự thật Việt Nam Cộng Hoà đã chiến đấu hết sức ngoan cường trong một hoàn cảnh hết sức cay đắng nghiệt ngã. Họ đã chiến đấu đến khi chả còn gì để hy vọng. Henry Kissinger nói: “Tôi vô cùng khâm phục sự kiên nhẫn chịu đựng nhịn nhục của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông ấy bất chấp mọi sự từ chối từ phía Mỹ, bất chấp tất cả mọi sự tuyệt vọng, đã kiên trì đến cùng cho việc đòi người Mỹ phải thực hiện giao ước tài chính với quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Họ đã chiến đấu dù biết chắc chắn rằng đã không còn gì hết họ vẫn chiến đấu “.


Điều đó được nói bởi kẻ bán đứng Việt Nam Cộng Hoà đó, không phải kẻ bênh vực Việt Nam Cộng Hoà đâu.

Ngược lại Henry Kissinger bày tỏ thái độ hết sức khinh bỉ với các nhà ngoại giao Bắc Việt. Ông cho rằng: “họ đầy thủ đoạn bẩn thỉu đáng khinh”.

Rồi tôi tìm hiểu ngân sách của CS và biết chỉ riêng Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt hơn 800 tỷ USD. Đó là lý do Trung Cộng hận Việt Cộng tận xương tủy khi bị VC đá đít chạy theo Liên Xô. Ngân sách quân sự của Miền Bắc vượt xa lắc so với Miền Nam.

Rồi tôi tìm hiểu kỹ thuật quân sự mới vỡ ra rằng. Quân đội Miền Bắc được trang bị những vũ khí hiện đại bậc nhất và quân đội Miền Nam chỉ có đa phần là vũ khí hạng hai. Ví dụ như xe tăng T-54 là đỉnh của lúc bấy giờ trong khi M-41 của VNCH được xem là tạp nham Mỹ đóng vội bán rẻ chứ không hề xài. Vậy mà các bạn biết không trong trận xa chiến gần như là duy nhất và lớn nhất khi tăng chạm tăng tại Hạ Lào dù trong tình thế bất lợi, đơn vị tăng M-41 của VNCH đã đánh thắng đơn vị tăng T-54 của cộng sản giúp giảm bớt sự thiệt hại cho Việt Nam Cộng Hoà trong chiến dịch này.

Tại Quảng Trị trong trận phục kích M-41 VNCH đã tiêu diệt hòan toàn đoàn tăng T-54/55 của CS.

Tôi từng đọc những bài nghiên cứu về tăng thiết giáp của Lục quân Hoa Kỳ và họ tỏ ta kính phục sự gan dạ và sáng tạo của lính tank Việt Nam Cộng Hoà dù phải đối đầu kẻ địch mạnh hơn .

Thế đấy VNCH có một lớp thối nát thật. Nhưng cơ bản từ Tổng Thống đến quân nhân họ đã cố gắng hết sức rồi. Họ thua do thế cuộc cay đắng. Hạng Võ thua cuộc mất cả sinh mạng nhưng người đời chưa có ai chê Hạng Võ hèn cả. Hai Bà Trưng thua trận phải tự sát nhưng Hai Bà là bậc vĩ nhân anh hùng.

Không cứ phải kẻ thắng là hùng và người thua là hèn.

Vậy mà có thời tôi đã từng ngu như thế.

Trần Bảo Quốc

Tạp ghi: ‘GIỮA HAI CỰU THÙ’

Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ – Lloyd Austin – đã hoàn tất chuyến thăm Việt Nam ngày 29/7/2021.

ĐIỆP MỸ LINH

Thượng nghị sĩ John Sidney McCain III và Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ – Lloyd Austin – không đồng chủng; và ông Lloyd Austin lại mang “mask”; nhưng tôi vẫn thấy được ánh mắt của ông Lloyd Austin “dừng lại” nơi hai tay đưa cao trong tư thế đầu hàng trên bức tượng của ông McCain – do cộng sản Việt Nam (csVN) dàng dựng với dụng ý phỉ báng một sĩ quan cao cấp của Hải Quân Hoa Kỳ; về sau, vị sĩ quan này trở thành Thượng Nghị Sĩ.
Về Thượng Nghị Sĩ John McCain, tôi đã viết hai bài; tôi không muốn viết thêm. Nhưng, để những độc giả chưa đọc hai bài mà tôi đã viết về ông McCain, tôi xin trích vài câu trong Wikipedia để dẫn chứng và giải thích về thái độ của ông Lloyd Austin khi ông đến thăm nơi ông McCain bị người csVN thể hiện được tất cả sự vô nhân tính và vô liêm sĩ khi bịa đặt hành động đầu hàng của ông McCain.
Wikipedia viết, đại ý: “Trong phi vụ thứ 23 của ông McCain để thả bom xuống Hà Nội, phi cơ A-4E Skyhawk bị hỏa tiễn của csVN bắn rơi tại Hà Nội. Sau khi nhảy dù khỏi phi cơ, hai tay và một chân của ông McCain bị gảy… Bị thương nặng như thế, khi đưa vào nhà tù Hỏa Lò, ông McCain không những không được csVN chữa trị mà còn bị csVN đánh đập, tra tấn để khai thác tài liệu quân sự. Nhưng, khi biết được Bố của ông McCain là một Tướng lãnh của Hải Quân Hoa Kỳ thì ông McCain mới được bác sĩ của csVN khám nghiệm…” Nguyên văn câu xác định trên Wikipedia là: “His wartime injuries left him permanently incapable of raising his arms above his head.”
Link: https://en.wikipedia.org/wiki/John_McCain#Prisoner_of_war

Ngoài hành động bôi bát cá nhân một cách hạ cấp, nhà cầm quyền csVN còn cho thấy trình độ dối trá, bịa đặc, dốt nát về Y Khoa của csVN đã lên đến mứt thượng thừa. Thử hỏi, một người bị gảy hai tay, sau khi chữa lành vết thương cũng vẫn không thể đưa hai tay qua khỏi đầu – theo Wikipedia – thì làm thế nào người đó, ngay sau khi bị thương, suýt chết đuối tại Hồ Tây, lại có thể đưa cả hai tay lên để đầu hàng?

Tôi nghĩ, câu hỏi của tôi cũng có thể là câu tự hỏi của ông Lloyd Austin khi ông đứng trước tấm bia của ông McCain.

Theo BBC, 07/29/2021 – không thấy tên tác giả – Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Lloyd J. Austin III, cho biết: “Sáng nay, tôi có cuộc gặp rất long trọng với Thủ Tướng Phạm Minh Chính. Chúng tôi đã thảo luận một số vấn đề, trong đó có việc Hoa Kỳ cam kết giúp Việt Nam chiến đấu chống dịch Covid-19. Chúng tôi cung cấp 5 triệu liều vaccine Moderna cùng với 20 triệu đô-la hỗ trợ chống Covid-19.”
Tôi rất vui về tin này!
Nhưng, tiếp đến, vẫn BBC, 07/25/2021, không thấy tên tác giả, viết: “1,5 triệu liều vaccine Moderna do Mỹ tài trợ đã đến Saigon tối 24/07/2021”. Nhưng, gần cuối bài, tôi thấy câu này: “Trên trang Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, nhiều người bình luận bày tỏ sự cảm kích với chính phủ Mỹ, số khác hoan nghênh và cho rằng sau bao nhiêu năm, Mỹ vẫn tiếp tục ‘chuộc lỗi’ với người dân Việt Nam.”
Lúc nào người csVN cũng sống với căm thù cho nên chưa bao giờ người csVN hiểu được “tinh thần mã thượng” của người Tây Phương. Đa số người Tây Phương đánh nhau “chí chóe”, xong, thì thôi, bắt tay nhau. Còn người csVN, đưa tay ra nhận sự yểm trợ của Mỹ rồi quay lại ra lệnh cho dư luận viên lên án, kết tội Hoa Kỳ!
Có phải người csVN muốn gián tiếp khơi lại sự kiện Mỹ Lai để bảo rằng Hoa Kỳ muốn “chuộc lỗi” với người dân Việt Nam hay không?
Nếu người csVN nghĩ rằng Hoa Kỳ “chuộc lỗi” với người Việt Nam về sự kiện Mỹ Lai thì đảng và người csVN đã bao giờ “chuộc lỗi” với người Việt Nam về trận tổng công kích Mậu Thân, 1968; trận vượt sông Bến Hải vào mùa Hè 1972; trận thôn tính miền Nam năm 1975 chưa? Đã bao giờ người csVN “chuộc lỗi” với người Việt Nam vì đã bắt thanh niên, thiếu nữ miền Bắc “xẻ Trường Sơn” khắc vào người “sinh Bắc Tử Nam” để thiu rụi cả mấy triệu thanh niên, thiếu nữ miền Bắc chưa? Đã bao giờ người csVN “chuộc lỗi” với người Việt Nam về những trận pháo kích bằng hỏa tiễn vào trường học và bệnh viện tại miền Nam Việt Nam chưa? Đã bao giờ người csVN “chuộc lỗi” với người Việt Nam về những trận pháo kích điên cuồng, dai dẳng, liên tục, chính xác, nhắm ngay vào những đoàn người miền Trung chạy dọc bờ biển để chờ tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đón, đưa về nơi an toàn hay chưa?
Nếu Mỹ “chuộc lỗi” với người dân Việt Nam thì tướng csVN Võ Nguyên Giáp đã bao giờ “chuộc lỗi” với người Việt Nam về việc tướng Võ Nguyên Giáp đã học chiến thuật “biển người” của Trung cộng để đưa không biết bao nhiêu ngàn thanh niên, thiếu nữ miền Bắc vào “chết mất xác” trên chiến trường miền Nam hay chưa?
Tại chiến trường miền Nam, mỗi khi tháp tùng các cuộc hành quân hỗn hợp giải cứu các đồn Nghĩa Quân bị Việt cộng – viết tắt của danh xưng csVN – vây hãm, tôi đã thấy rõ sự ác độc, dã man và tàn bạo của chiến thuật “biển người”. Tôi ngầm thắc mắc, làm thế nào Việt cộng có được các loại vũ khí tối tân như hỏa tiễn 120 ly, B40, B41?
Hôm nay, nhân viết bài này, tìm tài liệu, tôi thấy: “…1949 … The Viet Minh drive the French from the border region and begin to receive large amounts of weapons from the Soviet Union and China. The weapons transform the Viet Minh from an irregular large-scale insurgency into a conventional army…” Link: https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_in_the_Vietnam_War
Thì ra csVN đã được Tàu cộng và Nga Sô viện trợ từ năm 1949! Thế mà csVN, trong Wikipedia tiếng Việt lại viết như thế này: “…Ngoài ra, do thiếu vũ khí, nên lực lượng du kích và Quân Giải phóng miền Nam còn sử dụng một số vũ khí tự chế từ xưa như cung, nỏ, bẫy chông… Thậm chí tài liệu Hoa Kỳ đã ghi nhận những trường hợp trực thăng của họ bị bắn rơi bởi cung nỏ của du kích Việt Nam”. Link : https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_v%C5%A9_kh%C3%AD_s%E1%BB%AD_d%E1%BB%A5ng_trong_Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam
Vào thời Chiến Tranh Việt Nam, nhân loại đang ở vào thế kỷ thứ 20 mà còn có chuyện cung nỏ bắn hạ được trực thăng ư? Trực thăng của Mỹ được làm bằng giấy à? Trước 1975, những khi giang đỉnh ghé làng, thủy thủ VNCH tặng đường, dầu ăn, cơm sấy cho dân làng, tôi được người dân cho hay rằng csVN tuyên truyền là chiến hạm và chiến đỉnh của Hải Quân VNCH làm bằng giấy. Thủy thủ đoàn và tôi đã cười “bể bụng”!
Chuyện hầm chông thì có thật. Thời gian Giang Đoàn 26 Xung Phong hành quân dài hạn tại U Minh, Chương Thiện, tôi đã nghe các vị Quận Trưởng thuật lại hoặc là chiến đỉnh được phái tới để đưa nạn nhân bị sập hầm chông đi bệnh viện cấp cứu; nhưng vẫn không thể cứu sống được, vì bị nhiễm trùng và mất máu quá nhiều! Theo tôi, hầm chông là một hình thức đánh lén hết sức vô nhân đạo. Hậu quả của chiến thuật đánh lén bằng hầm chông là: Nhiều trẻ em chăn trâu, chăn bò vì sơ ý, vì không biết cũng như nhiều cụ Bà, cụ Ông, “Mẹ hoặc Bố của liệt sĩ anh hùng” vì già, quên, không biết, bị lọt xuống hầm chông, chết; khi người nhà tìm ra thì đã quá muộn!
Trong thời gian theo Ba tôi ra “vùng giải phóng” để Ba tôi thực hiện ý nguyện chống Tây, tôi đã thấy và được Ba tôi giải thích về cách Việt Minh – tiền thân của csVN – áp đặt và thi hành các chiến dịch như “bần cùng hóa nhân dân”, “tiêu thổ kháng chiến”, “bài trừ phong kiến”, với chủ đề tam vô: “Vô gia đình’, “vô Tổ Quốc”, “vô tôn giáo”.
Bây giờ, nhờ thủ thuật gian manh, dối trá và bạo lực, người csVN đã và đang đi ngược lại với những gì mà đảng và người csVN từng cổ võ và áp đặt cho dân chúng trong thời kháng chiến – ngoại trừ chủ đề “vô Tổ Quốc”; vì người Tàu đã và đang chiếm nhiều địa thế quân sự rất quan trọng trên lãnh thổ Việt Nam. Nhờ vậy, ngày nay, người csVN được thụ hưởng tất cả những hoan lạc trên hành tinh này trong khi người dân Việt Nam vẫn ngụp lặn trong đói nghèo và tự chống chọi với tai ương!
Sau đây là tin điễn hình trên vài tờ báo online.
Báo Quảng Bình, 06/05/21: “Những năm gần đây, tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển trên địa bàn tỉnh ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng về cả phạm vi và mức độ sạt lở. Tình trạng sạt lở không chỉ gây mất đất sản xuất, biến đổi dòng chảy mà còn đe dọa tài sản, tính mạng của người dân…”
Báo Lao Động, 03/06/21: “Sạt lở nghiêm trọng bên bờ sông Lô. Đoạn sạt lở có chiều dài khoảng 450m, cuốn trôi hàng nghìn mét đất sản xuất…”
Thông Tấn Xã Việt Nam, 08/03/21: “Sông Thạch Hãn – con sông lớn nhất ở tỉnh Quảng Trị đã và đang bị sạt lở nghiêm trọng và phức tạp, sau đợt mưa lũ lịch sử hồi cuối năm 2020 và tình trạng khai thác cát sỏi trái phép…”
Bảng tin của Thanh Liêm, TTXVN 13:38′ – 04/07/2021, trên BNEWS: “Sạt lở tại sông Trà Nóc, Cần Thơ. Đoạn sông Trà Nóc chảy qua địa bàn khu vực 2, phường Trà An (Tp Cần Thơ) từ đầu năm 2020 đến nay đã xảy ra 5 đợt sạt lở, làm sụp đổ và ảnh hưởng gần 40 căn nhà.”
Đọc qua những bảng tin trên, tôi tự hỏi: Lẽ nào chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc bận lo đón tiếp các chính khách ngoại quốc như Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Lloyd Austin và Phó Tổng Thống Hoa Kỳ – Kamala Harris, sẽ viếng thăm Singapore và Vietnam vào tháng Tám năm 2021 – mà không có thì giờ đọc báo cáo về tình trạng đáng thương của người dân quê Việt Nam?
Có thể chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đang bận tâm suy nghĩ, lo âu, không biết có nên trực tiếp tiếp đón Phó Tổng Thống Kamala Harris hay là khai bệnh, đi ngoại quốc chữa bệnh; bởi vì, theo báo CNBC online ngày 30/07/2021, lúc 12:33PM, tác giả Annika Kim, thì: “Vice President Kamala Harris to visit Vietnam and Singapore amid tensions with China. Link: https://www.cnbc.com/2021/07/30/vice-president-kamala-harris-to-visit-vietnam-and-singapore.html
Tôi có thể hiểu được sự âu lo của ông Nguyễn Xuân Phúc; bởi vì, từ bấy lâu nay, “cái gì dính dấp” đến China thì người csVN sợ lắm, luôn tìm cách tránh né!
Để xem ông Nguyễn Xuân Phúc có dám mạnh dạn tổ chức và trực tiếp đón tiếp Nữ Phó Tổng Thống Hoa Kỳ hay là ông Nguyễn Xuân Phúc – vì sợ mếch lòng chàng láng giềng tham lam, hiếu chiến và đầy thủ đoạn, Xi Jinping – sẽ tìm cách “vắng mặt hợp pháp” để khỏi phải trực diện với tình huống “khó đỡ”!
Tôi xin chấm dứt bài viết tại đây để chờ xem thái độ và hành động của ông Nguyễn Xuân Phúc cùng đảng csVN về sự chọn lựa giữa Hoa Kỳ – kẻ cựu thù của đảng csVN – và Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của người Việt Nam yêu nước!

ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/