Tình Người Vô Giá

Anh lính nắm chặt tay cha hấp hối suốt đêm trong viện, sau đó anh tiết lộ sự thật khiến cô y tá sững sờ… Cô y tá bước vào phòng bệnh với gương mặt lo âu, hồi hộp, xen lẫn chút mệt mỏi, theo sau là anh lính Hải quân điềm đạm với những nét khắc khổ trên khuôn mặt. Hai người lặng lẽ tiến lại gần người đàn ông đang nằm bất động trên giường bệnh. Cô gái thủ thỉ vào tai ông:

“Bác kính yêu, con trai bác đã đến rồi đây!! ”
Người đàn ông không có phản ứng gì. Có vẻ những liều thuốc an thần “nặng kí” để giảm những cơn đau tim quằn quại đã khiến ông chìm vào giấc ngủ mê mệt… Cô y tá phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần ông mới nặng nề mở được đôi mắt vốn đã mờ đi vì bệnh tật.
Những cơn đau tim dữ dội khiến cơ thể ông không còn một chút sức lực. Ông yếu ớt nhìn anh lính cạnh giường mình, rồi nắm lấy tay anh…

Anh lính Hải quân vội vàng nâng đôi tay xanh xao gầy guộc của ông lão lên rồi nắm chặt, như thể muốn truyền cả tình yêu và lòng dũng cảm của anh sang cho ông lão. Ông chỉ nhìn anh run run mà không thể nói gì. Cô y tá biết cuộc hội ngộ này có ý nghĩa thế nào với ông lão và sẽ rất lâu để hai người có thể giãi bày hết tâm tư, nên cô lặng lẽ mang đến cho anh một chiếc ghế, đặt cạnh giường.
Suốt đêm ấy, anh lính cứ nắm lấy tay ông lão chẳng rời. Anh kể cho ông nghe những câu chuyện “sinh tử” khi làm nhiệm vụ. Có một lần anh đã suýt chết đuối. Hôm ấy biển động dữ dội, trời mưa rét, gió lạnh căm căm, hạm đội của anh phải đi tuần tra thăm dò một vùng biển được cho là bị phục kích. Thời tiết khắc nghiệt khiến tầm nhìn cả đoàn tàu bị hạn chế. Anh là đội trưởng, phải có trách nhiệm hướng dẫn cả đoàn. Trong lúc mải mê quan sát, cơn bão to dữ dội xô anh ngã khỏi tàu. Ai nấy đều hốt hoảng nhìn anh vùng vẫy trong cơn sóng to, rồi dần dần chìm xuống.
“Cha biết không? Lúc ấy, con tưởng cuộc đời mình chuẩn bị kết thúc rồi. Nước xộc vào mũi, cả cơ thể bị bao vây bởi nước, ngực nặng trĩu … Con tự hỏi, chết bây giờ thì có hối tiếc không?… Con chẳng nghĩ được nhiều nhưng thấy trái tim mình bình yên đến lạ … Con nghĩ đến Đấng Tối Cao trong con và tấm lòng từ bi của Ngài … Nếu được đến với Ngài trong giây phút này, con chắc chắn sẽ không hối hận …”
Anh nghẹn ngào tiếp lời: “ …và thế là, một phép lạ đã xảy ra … Con thấy cơ thể mình nhẹ nhàng từ từ nổi lên trên khỏi những cơn sóng, đồng đội con lúc ấy cũng đã kịp hoàn hồn dùng dây thả xuống để con bám mà kéo lên… Con đã được cứu sống một cách kỳ diệu như vậy đấy …!”
Anh bảo chính tình yêu cuộc sống và sức mạnh của niềm tin vào Đấng Tối Cao đã giúp anh vượt qua những tình huống khó khăn, hiểm nghèo. Anh muốn ông hãy mạnh mẽ như cái cách anh đã làm để bảo vệ Tổ quốc. Khi tình yêu thương chiến thắng nỗi sợ hãi, sẽ không có chỗ cho khổ đau và bi kịch.
Rồi anh cũng kể về một mối tình đẹp đẽ nhưng không thành. Ngày ấy, khi anh chuẩn bị cầu hôn người đã chia ngọt sẻ bùi với anh suốt thời niên thiếu, thì nhận được tin anh phải ra trận để đánh giặc. Anh đã cảm thấy rất đau khổ và bế tắc khi bỏ lại người con gái anh yêu thương nhất.
Nhưng giữa đất nước và tình yêu, anh chọn đất nước. Vì anh nghĩ rằng, nếu đất nước yên bình, người anh yêu cũng vì thế mà an vui. Anh khuyên cô hãy tìm một người đàn ông khác có thể chăm lo thật tốt cho cô, đừng đợi anh để rồi thất vọng. Vì anh chẳng biết đến ngày nào mình mới có thể về… Cũng không biết liệu mình có thể về được không. Nhưng anh không muốn kìm hãm sự tự do của người mà anh yêu.
Ông lão chẳng nói được gì, chỉ thỉnh thoảng gắng gượng nở một nụ cười mãn nguyện. Anh thấy cả những giọt nước mắt lăn dài trên má ông …
Thấy trời đã khuya, cô y tá dịu dàng bước lại rồi bảo anh:
“Anh nên nghỉ ngơi một chút, đã sang ngày mới rồi !!”.
Anh mỉm cười từ chối:
> “Cô hãy đi nghỉ đi, tôi muốn ở lại đây thêm một lúc nữa…”
> Cô y tá ngập ngừng đáp lại:
> “Vậy tôi muốn ngồi lại đây với anh một lát”.
> Rồi cô bắt đầu nói với anh, trước khi ông lão bị những cơn đau tim quái ác dày vò, ông hay kể với cô về con trai. Ông rất yêu đứa con này và luôn tự hào về anh. Ông nói anh rất dũng cảm và có một trái tim quảng đại. Ngày bé anh nghịch lắm, lúc nào cũng chỉ chăm chăm tìm vật dụng để hóa thân thành những anh hùng. Anh có đam mê với biển cả và những con tàu. Anh muốn sau này lớn lên sẽ trở thành một lính Hải quân, bảo vệ Tổ Quốc. Mỗi lần nhắc đến anh, hiện trong mắt ông lão đều là một sự hân hoan khó tả. Ông bảo anh đã xa ông từ rất lâu rồi. Ông chỉ ước một ngày được gặp lại con trai … Và thật may mắn khi anh đã có mặt ở đây …
> Anh lính trẻ không nói gì, chỉ cúi xuống hôn lên trán người đàn ông đã thiếp đi lúc nào không hay … Và anh cứ ngồi túc trực bên ông như thế, mãi cho đến khi bình minh ló rạng …
> Sáng hôm sau, khi sát lại gần đánh thức ông, anh mới hay ông lão đã trút hơi thở cuối cùng… Lúc ấy, anh mới buông tay ông ra và gọi y tá …
> Sau khi bình tĩnh lại, anh lính trẻ quay sang nói với cô y tá:
> “Tôi muốn cho cô biết một sự thật …”
> Cô y tá chỉ tròn xoe mắt:
> “Là sự thật gì vậy?”
> “Tôi không phải con trai của ông ấy… Tôi chưa gặp ông bao giờ cả …”
> Cô y tá đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cô hỏi anh nếu ông lão không phải cha anh vậy tại sao anh lại ở đó suốt đêm và trò chuyện với ông lão.
> Anh mỉm cười hiền từ:
> “Cô biết đấy… ông lão đang rất cần tình yêu của một đứa con trai. Tôi chỉ muốn bù đắp cho ông bằng tấm lòng của mình… Ông ấy già rồi, mà vẫn chưa một lần được gặp lại con mình …Và … tôi cũng mất cha từ khi còn rất bé, lâu rồi tôi không có ai để chia sẻ nhiều như thế …”
> Cô y tá không nén nổi xúc động, thắc mắc điều kỳ diệu gì đã mang anh đến đây. Anh nói đó là một sự tình cờ ngẫu nhiên. Anh đến bệnh viện tìm ông William Grey nào đó để báo tin con ông đã hy sinh ở chiến trường, nhưng duyên phận đã khiến anh có mặt tại căn phòng này …
> Cô y tá nhìn anh run run:
> “Người đàn ông mà anh đã ở cạnh suốt đêm chính là William Grey …”
> Cái đêm đặc biệt ấy đã khiến tâm hồn của ba con người thay đổi hoàn toàn. Ông lão được thỏa mãn nguyện ước cuối cùng của đời mình và có thể thanh thản để về bên kia thế giới.
> Chàng trai trẻ mồ côi cha lần đầu tiên được nắm tay một người để có thể chia sẻ, bộc bạch mọi khó khăn, bước ngoặt cuộc đời mà anh đã cô đơn bước qua.
> Cô y tá được chứng kiến tận mắt một câu chuyện nhân sinh quan rất xúc động có thật trên đời, có lẽ sẽ càng khiến cô trở thành một người chăm sóc nhân hậu, thông cảm và thấu hiểu hơn nữa tình người.
> Trong cõi xa xăm nào đó, hai cha con ông lão hẳn sẽ được đoàn tụ với nhau, và anh lính Hải quân sẽ không phải nuối tiếc vì thiếu hơi ấm của người cha khi còn quá trẻ …
> Một lúc nào đó, giữa dòng đời tấp nập, nếu có ai đó cần bạn thật sự, hãy mở rộng tấm lòng mình như cái cách mà anh lính Hải quân đã làm với ông lão và với cuộc đời mình, để cảm nhận tình người và vị ngọt của sự chia sẻ, đồng cảm. Yêu thương người khác là yêu thương chính mình, bạn sẽ không bao giờ biết được hết giá trị của tình yêu không cần hồi đáp mà bạn cho đi…

Những dấu ấn lịch sử của trường nữ sinh đầu tiên và duy nhất tại Hà Nội

Trường THCS Trưng Vương

Trường Nữ sinh đầu tiên và duy nhất ở xứ Bắc kỳ năm xưa, nay là Trường THCS Trưng Vương Hà Nội, là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô song ít ai biết được đầy đủ những tên gọi, hệ thống dạy-học cũng như những nét riêng biệt khác nữa trong bề dày lịch sử hàng trăm tuổi của ngôi trường.

Nằm trên một nền đất vuông vức ngay ngã tư phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội (thời Pháp là đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau), Trường THCS Trưng Vương được nhiều thế hệ người Hà Nội nói chung và giới học sinh nói riêng tự hào nhắc tới như một ngôi trường nổi tiếng đào tạo nữ sinh Việt Nam và là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô. Tuy nhiên ít ai biết được ngôi trường này trước kia có tên gọi là Trường trung học Paul Bert – tên chính danh của trường. Còn các tên gọi khác theo hệ đào tạo là Trường Cao đẳng tiểu học Nam sinh (Trường Con Trai – École des Garçons), Cơ sở giáo dục Nữ sinh người Việt (Institution de Jeunes filles annamites), Trường Sư phạm nữ sinh người Việt (École Normale des Institutrices annamites), Trường Trung học nữ sinh người Việt (Collège de Jeunes filles annamites), hay trường được gọi theo tên phố là Trường Nữ sinh Đồng Khánh (École de Jeunes filles de Đồng Khánh), vì mặt chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh và nhiều nét riêng biệt khác nữa.

Lịch sử tên gọi và kiến trúc
Năm 1886, trường trung học công lập đầu tiên được thành lập ở xứ Bắc kỳ (Tonkin) mang tên Trường Trung học Paul Bert (Collège Paul Bert) dành cho số ít con em người Pháp là quan chức thực dân, sĩ quan, viên chức đầu tiên đến Hà Nội, trường thực hiện dạy hai cấp Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học với mô hình tổ hợp trường nam sinh và nữ sinh. Trường Paul Bert tiếp nhận dạy hầu như toàn bộ số học sinh Pháp ở Bắc kỳ. Trước là dạy chương trình tiểu học rồi dạy đón chuyển tiếp chương trình Trung học[1]. Ngôi trường được xây dựng trong những năm 1897-1898, trên thửa đất ở ngã tư đại lộ Đồng Khánh, dài 100 mét và đại lộ Carreau, dài 87 mét, tức phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội ngày nay[2].

Ngôi trường được thiết kế và xây dựng theo lối kiến trúc cũ, mái ngói một tầng, phần giữa và hai cánh ở hai đầu xây sâu hơn, rộng hơn và lên cao tầng. Bên cánh phải (nhìn từ trường ra cổng) dành cho Giám hiệu và bên cánh trái dành cho các phòng Quản lý trường, chủ yếu theo nguyên tắc đối xứng về xây dựng[3].

Bản vẽ phối cảnh mặt chính của Trường Đồng Khánh năm 1897, phần trán tường, trên cửa vòm ở giữa có đắp nổi chữ “Ecole des Garçons” – Trường học con trai – Ảnh trích xuất từ sách Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française.

Theo thiết kế ban đầu, ngôi trường được xây dựng như một tổ hợp trường học nam sinh và nữ sinh. Khu chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh là khu trường học nam sinh nên ngay trên trán tường ở chính giữa, mặt chính có đắp nổi chữ “École des Garçons” – Trường học Nam sinh. Mặt chính ra đại lộ Đồng Khánh có ba cổng mang ba số 26, 28 và 30. Địa chỉ giao dịch chính của trường là số 30, Đại lộ Đồng Khánh, Hà Nội.

Những bước chuyển mình
Năm 1904, Trường Nữ sinh Pháp chuyển sang cơ sở nằm trên phố Thợ Nhuộm (rue des Teinturiers), rồi phát triển thành một trường độc lập dành riêng cho học sinh nữ người Pháp cơ sở ở đại lộ Hai Bà Trưng (boulevard Rollandes). Từ đây Trường Paul Bert (phố Đồng Khánh) chỉ còn học sinh nam nên còn gọi là Trường Nam sinh, hay Trường học con trai. Trường Nam sinh rất nổi tiếng, một số bản đồ thành phố Hà Nội đương thời đã cho ghi vào phần chỉ dẫn là Trường Nam sinh (École des Garçons).

Bản vẽ phối cảnh mặt bên của Trường Đồng Khánh năm 1897 – Ảnh trích xuất từ sách Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française.

Năm 1912, Chính quyền Pháp ở Đông Dương có kế hoạch cải tạo Trường Paul Bert trên phố Đồng Khánh và nâng bậc học thành trường Trung học Đông Dương[4] ở Hà Nội. Tuy nhiên, vì địa điểm này quá chật hẹp nên dự án không thực hiện được phải chuyển về xây dựng ở Đại lộ République, nay là phố Hoàng Văn Thụ. Trường Trung học Đông Dương là tên gọi ban đầu của Trường Trung học Albert Sarraut, ngày nay là trụ sở của Ban Đối ngoại và Ban Tổ chức Trung ương Đảng[5].

Năm 1917, theo Nghị định 2229, ký ngày 10/11/1917, chính quyền Pháp mở Cơ sở giáo dục Nữ sinh Việt Nam (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc học Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học[6]. Các em được học các môn chính là chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lý, luân lý, phép xã giao, vệ sinh với các cô giáo người Pháp, còn các môn học nữ công gia chánh như quản lý gia đình, may vá, thêu, nấu ăn… với các cô giáo người Việt. Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi.

Việc mở các trường nữ học đòi hỏi phải tuyển giáo viên là nữ để dạy môn tiếng Việt và vệ sinh phụ nữ. Ở Bắc kỳ, nữ giáo viên người Pháp không biết tiếng Việt nên rất khó khăn trong việc chuyển tải kiến thức và nữ giáo viên người Việt thiếu rất nhiều. Thời gian đầu chỉ có ít nữ giáo viên người Pháp và tuyển được một vài cô tốt nghiệp Trường Tiểu học Hàng Cót[7].

Vì những khó khăn về giáo viên, năm 1917, chính quyền Pháp cho mở Cơ sở Đào tạo giáo viên nữ người Việt (École normale d’Institutrices annamites), cơ sở này ban đầu hoạt động song song như một cơ sở phụ trợ cho Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt[8].

Về trường, lớp, năm 1918, chính quyền Pháp cho xây dựng khu trường học nằm trên phố Trần Phú (thời Pháp thuộc là phố Félix Faure), nay là trụ sở của Bộ Tư Pháp dành cho Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt của Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh bản xứ.

Trong suốt khoảng chục năm, số học sinh các trường Pháp và trường bản xứ tăng lên, nhu cầu học sinh nội trú cũng tăng, khiến chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng phải cho xây dựng, sửa chữa, mở rộng nhiều trường, lớp, phòng ăn, phòng ngủ đáp ứng nhu cầu của cha mẹ học sinh.

Bản vẽ dự án xây mới và mở rộng công trình Trường Đồng Khánh (3/1927) – Ảnh: Lưu tại Trung tâm Lưu trữ số I Nhà nước

ự án xây dựng và mở rộng Trường cao đẳng tiểu học Nam sinh ở phố Đồng Khánh được thực hiện trong những năm 1927-1928. Ngôi nhà chính, phần một tầng được cơi cao thành hai tầng đều để tầng trên làm phòng ngủ cho học sinh nội trú và tầng dưới làm phòng học. Có câu chuyện không vui là khi xây dựng lên cao tầng, sàn gác bê-tông bên trái bị sập đổ ngay khi mới dỡ giàn giáo chống bên dưới, may không xảy tai nạn chết người. Lúc đó, người ta quy cho nguyên nhân sự cố đó là do xi-măng mất phẩm chất và phải làm lại ngay trong năm 1928[9].

Cùng đợt này, Trường Đồng Khánh có xây mới và mở rộng thêm một số hạng mục:

Nhà ăn ở tầng dưới và phòng y tế trên gác ở cánh nhà bên trái, xây tiếp vào ngôi nhà chính kéo dài, dọc theo sân.
Nhà vui chơi và lớp học (hai tầng ở cuối sân).
Các nhà phụ, bếp, nhà tắm, vệ sinh… và nhà liền tường với nhà Giám hiệu.
Ý định ban đầu từ thiết kế là theo nguyên tắc đối xứng trong xây dựng, nhưng sau khi xây mở rộng cánh nhà bên trái dọc theo sân và nhìn ra phố Lý Thường Kiệt để chừa phần sân thoáng rộng, sát cổng bên thì trên thực tế không còn đối xứng nữa.

iờ tan học – Trường Sư phạm Nữ sinh người Việt tại Hà Nội (Ảnh trích từ sách Le Tonkin scolaire, 1931)

Giữa tháng 8 năm 1928, công trình xây dựng và mở rộng ngôi trường này hoàn thành, được bàn giao cho nhà trường để kịp khai giảng ngày 11 tháng 9. Ngay năm học này, các trường Pháp và bản xứ có sự hoán đổi. Trường Cao đẳng Nữ sinh Pháp rời chuyển từ phố Hai Bà Trưng về phố Trần Phú. Trường Trung học Paul Bert (hay Cao đẳng Tiểu học Nam sinh Pháp) rời chuyển từ phố Hàng Bài về ăn, ở, học thế chỗ Trường Cao đẳng nữ sinh Pháp ở phố Hai Bà Trưng[10]. Toàn bộ ngôi trường Paul Bert vừa được xây thêm, mở rộng dành riêng cho Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh người Việt gồm Cơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo giáo viên Nữ người Việt chuyển từ phố Trần Phú về phố Hàng Bài, theo dự án kiện toàn và chuyển đổi trường, lớp do Nha Học chính Đông Dương tại Hà Nội báo cáo và lập ngày 31 tháng 12 năm 1925.

ơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt (Hà Nội) trong giờ nữ công (Ảnh trích từ sách Le Tonkin scolaire, 1931)

Năm 1937, do chương trình học thay đổi, Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh bản xứ ở Đại lộ Đồng Khánh, gồm Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt đổi tên, gọi là Trường Trung học Nữ sinh Việt Nam (Collège de Jeunes Filles Annamites), hay Trường Nữ Trung học Đồng Khánh.

Nghị định của Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Trích từ Việt Nam dân quốc Công báo, số 6, thứ bảy, 27/10/1945, tr.67.

Năm 1943, Trường nữ Trung học Đồng Khánh sơ tán về Hưng Yên. Đến tháng 10/1945, trường dọn về khu học Hoàng Mai, khu Đại lý Hà Nội.

Ngày 14/2/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe ra Nghị định, số 85 đổi tên những trường trung học tại Bắc Bộ. Theo đó, Trường Nữ Trung học Hà Nội đổi tên gọi là Trường Trung học Hai Bà Trưng[11] (nay là Trường Lê Ngọc Hân, phố Lò Đúc).

Sau tháng 8/1945, cả khu Trường Hàng Bài trở thành trụ sở Tổng trấn Bắc bộ của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa[12].

Đến đầu năm 1948, Cơ sở trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học. Trường Nữ Trung học phải chuyển đến phố Hàng Than (nay là Trường Nguyễn Công Trứ) và đến cuối năm, trường chuyển về cơ sở số 9 phố Hai Bà Trưng (nay là cơ sở của Trung tâm Giáo dục Kỹ thuật tổng hợp số 4, thuộc Sở Giáo dục Hà Nội)[13]. Năm ấy cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương[14].

Việc mang tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương, hay Trường Nữ sinh Trưng Vương được ghi lại trong những bài viết và hồi ký của nhiều thế hệ nữ học sinh ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn như một dấu ấn đáng nhớ của ngôi trường. Trong bài viết “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu…”, hồi ký của một học sinh nam Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn tự nhận mình có rất nhiều thiên đàng mơ mộng có viết:

Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925 [??], trên con đường Đồng Khánh, phía nam Hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (Collège de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương[15].

Năm học 1950-1951, ngôi trường Hàng Bài bắt đầu được trưng dụng trở lại làm trường học. Tuy vậy, Trường Trung học Trưng Vương chưa về đây khai giảng năm học này mà là Trường Trung học Nguyễn Trãi[16]. Trường Trưng Vương vẫn tiếp tục hoạt động ở số 9, phố Hai Bà Trưng đến năm 1956. Bước vào năm học 1956-1957, Trường Trưng Vương mới chính thức về “nơi cội nguồn” ở phố Hàng Bài sau hơn 10 năm “lưu lạc”.

Những mốc son lịch sử của trường Trưng Vương rất có ý nghĩa với những năm 2016 và 2017:

130 năm: Thành lập Trường Trung học Paul Bert (1886-2016)
120 năm: Ngôi trường Trung học Paul Bert, hay còn gọi là Trường Đồng Khánh được xây dựng trên ngã tư đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau (1897-2017).
100 năm: Thành lập Cơ sở Giáo dục Nữ sinh bản xứ và Trường Sư phạm Nữ sinh bản xứ – tiền thân của Trường Nữ sinh Đồng Khánh hay Trường Nữ sinh Trưng Vương (1917-2017), ngày nay là Trường THCS Trưng Vương.
90 năm: Ngôi trường Đồng Khánh được xây mới và nâng cấp từ nhà một tầng thành khu nhà hai tầng có mô hình kiến trúc như hiện nay (1927-2017).
80 năm: Cơ sở Giáo dục Nữ sinh và Trường Sư phạm Nữ sinh của Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh Đồng Khánh được đổi tên, gọi chung là Trường Trung học Nữ sinh người Việt (1937-2017).
70 năm: Trường Nữ Trung học đổi tên là Trường Trung học Hai Bà Trưng (năm học 1946-1947)
Năm 1948: Trường đổi tên là Trường Nữ Trung học Trưng Vương.
60 năm: Trường Nữ Trung học Trưng Vương chuyển về “cội nguồn” trên phố Hàng Bài, tức đại lộ Đồng Khánh xưa kia (năm học 1956-1957).
Tác giả: Nguyễn Văn Trường
Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) Hà Nội
Đăng dưới sự đồng ý của tác giả.

*Chú thích:

[1] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 71-72. – Tương đương với bậc Tiểu học và PT cấp II hay TH Cơ sở hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).

[2] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.86-87.

[3] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.

[4] Tương đương cấp III hay PTTH hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).

[5] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.90.

[6] Giáo dục Pháp Việt ở Bắc kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Trần Thị Phương Hoa, Hà Nội, 2011.

[7] Trường Hàng Cót tên gọi chính danh là Trường nữ sinh tiểu học Brieux, hay Trường Brieux, nay là Trường THCS Thanh Quan, phố Hàng Cót quận Hoàn Kiếm Hà Nội.

[8] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 45.

[9] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.

[10] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 72.

[11] Theo Việt Nam dân quốc Công báo, số 9, thứ bảy, 2/3/1946, tr.124.

[12] Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Nhà nước: Trường Trưng Vương – một trong những trận địa chống Pháp oanh liệt năm 1946,
http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16481/language/vi-VN/Default.aspx

[13] 75 năm mái trường Trưng Vương (Hàng Bài) – 1917-1992, nhiều tác giả, Hà Nội, NM in Thống nhất, 1992, tr.11.

[14] Trẻ, http://baotreonline.com/i-hi-toan-cu-trng-vng/

[15] http://www.trieuthanhweeklymagazine.com/vanchuong/vc1/hontoivedau.html

[16] Ngày 4 tháng 10 năm 1950, Trường Trung học Nguyễn Trãi khai giảng và hoạt động tại cơ sở Trường Hàng Bài, Hà Nội đến hết năm học 1955-1956, ngày nay là Trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình, Hà Nội.

PHỤ NỮ BẮC NÓI VỀ PHỤ NỮ NAM

(Tác giả Giao Giao Giao)

Ảnh Google

Vào Sài Gòn sống từ 35 năm trước, mình đã thấy rất kinh ngạc, khi nhận ra phụ nữ Sài Gòn sướng hơn phụ nữ miền bắc không biết bao nhiêu mà kể. Nghĩ mãi vẫn chưa hiểu tại sao. Chợ búa, đồ ăn làm sẵn, mọi thứ đều tiện dụng, mua gì cũng có ngay gần nhà, không quá vất vả bữa cơm hay việc nhà, đầu tắt mặt tối ba bữa cơm. Nhà nào cũng có toilet riêng sạch sẽ (dù nghèo) phụ nữ Sài Gòn đa phần giữ bếp núc rất ngăn nắp, chăn màn ga gối văn minh, ai cũng nằm nệm êm không nằm chiếu, không ngủ chung với con, sống chung với cả gia đình đông, lạ nhất là mẹ chồng không bao giờ khăng khăng phải ở với con trai khi con trai lấy vợ. Họ buông tay cho con độc lập có đời sống riêng.

Phụ nữ Sài Gòn rất thích đi ăn tiệm, đi du lịch, họ thích thưởng thức món ăn mới, mặc đồ mới, cởi mở, dám thay đổi, họ không cho rằng cơm nhà mình là nhất, mình là nhất. Họ dễ tính dễ thương, ít chê bai xét nét, so đo về giá như ngoài bắc. Họ mặc đồ xanh đỏ tím vàng quần ngắn, hay hở cả ti ra chả sợ ai nói gì. Dù cùng mức sống, nhưng họ dám sắm máy nước nóng máy lạnh không sợ tốn điện, dù không có vài triệu mua cành hoa đào ngắm ba ngày tết. Họ không sợ chê nghèo, đi xe xấu, họ mặc đẹp đi chiếc xe trông thật ghê, mà vẫn vui.

Phụ nữ Sài Gòn không ôm đồm việc nhà, nhất là không giành lấy mọi thứ trách nhiệm, kiếm tiền dạy con, rồi kiệt sức quên bản thân, họ chăm sóc ngoại hình kể cả người đã có chồng đông con. Phụ nữ nào cũng có bàn trang điểm phấn son, bông tai. Ai cũng có vài cái nhẫn vàng tây; có tí tiền là họ tiêu ngay không cất đi, không để dành, cũng không sắm sửa mấy. Mình nhớ, đã kinh ngạc thế nào khi thấy các cô gái Sài Gòn, chả đi đâu chả tiếp ai, cũng mặc đồ rất đẹp, tô son mỗi sáng, ở ngoài bắc, năm 84, mà lúc nào cũng phấn son xinh đẹp, liền bị gọi ngay là ca-ve.

Họ lười hơn, vụng hơn, nông cạn hơn, có khi nghèo hơn, nhưng tự do hơn, hưởng thụ hơn, độc lập hơn, thẳng thắn hơn. Nhờ thế mà trẻ con cũng đỡ áp lực hơn. Vì các bà mẹ không hy sinh mọi niềm vui cho con cái, họ làm gương cho con mình, sống cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, được tự do là chính mình.

Đặc biệt nhất ở Sài Gòn là phụ nữ cực kỳ tự do cởi mở trong tư tưởng, họ ít chê ai ế hay sợ con mình ế. 35 năm ở đây mình ít thấy ai đánh ghen tàn bạo hay can thiệp đến chuyện cá nhân người khác. Dù ít học, họ cũng ít chấp nhận thói gia trưởng của đàn ông, kiểu như em không được mặc áo hở cổ, không được đi chơi tối, em sao không lo cho chồng con bữa cơm… Họ chiều chồng, nói ngọt, lắng nghe, nhưng không hầu chồng, tuân lệnh chồng, coi chồng là vua chúa.

Phụ nữ Sài Gòn luôn có thói quen dành thời gian cho bản thân, thứ xa xỉ mà phụ nữ miền bắc cho là một sự hoang phí: ăn hàng, làm nail, gội đầu tiệm, mua sắm… Chả ai ở ngoài bắc đi du lịch riêng với bạn bè khi đã có chồng con, du lịch Tết mà không cúng ông bà, quá kinh khủng, họ không thể tưởng tượng ra có loại phụ nữ ích kỷ, xấu xa tệ hại như thế… đời sống ngạt thở mà chỉ khi đi xa rồi trở về ta mới nhận ra mức độ căng thẳng phụ nữ ở đây phải chịu đựng.

Phụ nữ Sài Gòn dù nghèo cũng sướng hơn phụ nữ miền bắc trăm lần, họ không phải đối phó với gia đình chồng, mẹ chồng em chồng khắc nghiệt cay đắng, luôn chì chiết chê bai. Họ không có bố chồng khó tính và cả họ nhà chồng xét nét họ. Không ai nói là “cô may lắm mới lấy được con tôi,” mình nhớ mình đã kinh ngạc đến mức nào, khi nghe các cô con dâu Sài Gòn nói, họ rất yêu quý mẹ chồng thực tâm. Yêu quý chắc vì họ không chung sống với bố mẹ chồng không va chạm cơm nước tiền nong, mỗi năm không bị hàng chục lần nấu cỗ cúng, sấp ngửa lo tết, hay vất vả gì khi làm dâu.

Hàng xóm, đồng nghiệp, bạn bè không ai lên án phán xét cách sống cách ăn mặc, cách chi tiêu hay chuyện riêng tư cá nhân. Đi xe xấu , mặc đồ xấu không bị chê bai khinh thường. Thời tiết ở Sài Gòn cũng không làm cho phụ nữ sầu thảm được lâu, buồn thất tình không thê lương không tuyệt vọng, họ không chịu được khổ lâu nên ít thấy ai ôm hận đàn ông được lâu, họ chóng quên dễ tha thứ, họ sẵn sàng bắt đầu một khởi đầu mới bất cứ khi nào.

Mỗi lần ra bắc nhất là về quê, mình thấy thật bất công, phụ nữ miền bắc khổ vì lo sợ người khác đánh giá mình. Ai cũng có thể phán xét người khác. Bố mẹ can thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư, ngăn cấm dọa dẫm, thay vì cảm thông và chia sẻ khi gặp sự cố hay sai lầm. Con gái ế thì bố mẹ nhục nhã, đau khổ, phụ nữ lấy chồng thì cuộc sống của họ quay quanh một ông chồng ba bữa cơm, con cái và việc nhà lấy đi của họ nhiều thứ, phụ nữ lấy chồng xong biến thành người hoàn toàn khác. Sau 40 may ra họ mới có chút thời gian cho riêng mình. À mà chưa xong, già rồi họ còn sợ con cái mất mặt, ly hôn là chuyện nhục nhã. Có bà mẹ 50 tuổi không dám post cái video mình hát với bạn vì con bảo mẹ phải giữ gìn hình ảnh, không được chơi bời hát hò hay tỏ ra vui vẻ sau ly hôn.

35 năm trước mình đã nghĩ hẳn bắc nam Việt Nam là hai quốc gia độc lập, suy nghĩ lối sống đặc biệt khác nhau. Sao cùng là phụ nữ, mà họ khác nhau thế. Sau 35 năm mình thấy phụ nữ miền bắc khác trước nhiều, tuy nhiên họ vẫn khổ hơn, kể cả người giàu, người trí thức, người đẹp. Họ bị ghen ghét chê bai ghen tị nhiều hơn, họ chả được sống hồn nhiên tự do vô tư như phụ nữ Sài Gòn. Có sai lầm gì to mấy cũng được thứ tha rất nhanh… Chả ai nhớ chuyện xấu mấy, toàn khen nhau toàn quý nhau thật lòng thôi. Nghĩ gì là nói thật ra, không phải đau dạ dày vì suy nghĩ rắc rối. Ít ai có tính giận dỗi, nói xấu, ít ai bị bẽ mặt, họ thẳng thắn và đơn giản, ít sĩ diện, ít đao to búa lớn, lại càng ít sợ hãi người khác. Họ thực sự tự do.

Lắm lúc mình chỉ muốn giải phóng phụ nữ miền bắc khỏi chính họ thôi, cho họ được Tự Do – được là chính mình.

Một bác sĩ Biệt Động Quân chẳng giống ai!

Lời bạt: Năm 2015 tôi viết bài này và cố tình không viết về vợ con của Lê Văn Thại. Nhưng sau khi Hắn mỉm cười ra đi, tôi viết bổ sung câu chuyện cho tròn cái nghiệp mà Hắn đã trả xong. Mời quý vị xem đoạn cuối Hắn cưới vợ như thế nào và khúc quanh đời Hắn như cái “nghiệp” phải mang!

Tôi (bên trái) và Hắn năm 1967

Tôi và Hắn cùng quê hương Tam Quan, vùng đất trải dài rộng lớn những rừng dừa và hệ thống sông ngòi chằng chịt! Hắn là cháu nội một phú hộ vùng Cấm An Sơn thuộc xã Hoài Châu; còn tôi thì sanh ra và lớn lên trong thôn Cửu Lợi xã Tam Quan nổi tiếng sản xuất dầu dừa và dây dừa. Ông nội của Hắn là chủ những ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Ông nội tôi thì là chủ ghe bầu buôn bán dọc ven biển và các thành phố từ Nam chí Bắc một thời.

Tôi và Hắn cũng cùng chung số phận sống chín năm trong vùng Cộng Sản Liên Khu 5, thời kháng chiến chống Pháp, 1945-1954. Cũng có những tháng năm ngồi học trong các đình chùa bị đục vách phá bàn thờ để làm nhà kho và lớp học… Chung số phận là cháu con nhà địa chủ, sắp có chính sách đem ra tòa án nhân dân đấu tố!

Thế nhưng cuộc đổi đời năm 1954, sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, chúng tôi cởi bỏ được lớp bùn đất “Thiếu nhi Bác Hồ”; bắt đầu được học trong các trường công lập, được ca hát tự do! Hắn và tôi sau cùng vào học trường Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn. Hắn nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng học trên tôi một lớp. Gia đình Hắn có tiệm bán thuốc tây (Pharmacy), vì thế, vài năm sau, Hắn bỏ trường huyện, vào học Tabert ở Saigon. Thẳng cánh cò bay, xong trung học, Hắn vào trường thuốc. Đến năm 1970, Hắn ra Bác Sĩ và được động viên vào binh chủng Biệt Động Quân (BĐQ).

Còn tôi, đang học Văn Khoa thì bị động viên năm 1967 vào khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Năm 1970, lúc đang đóng quân ở Pleiku thì lính vào báo, “Thẩm quyền, có một số sĩ quan BĐQ đi xe Jeep trông dữ dằn lắm, tìm thẩm quyền!”Tôi cũng vừa từ đơn vị tác chiến tiểu khu Bình Định đổi lên vùng đất đỏ chưa được mấy tháng, chưa quen biết nhiều, làm sao có BĐQ là bạn tìm tôi! Trong khóa 26, ra trường có hơn 80 tên về BĐQ, nhưng chưa biết tụi nó ở đơn vị nào. Chưa quyết định thế nào thì đám rằn ri mũ nâu chạy sộc vào văn phòng, “Ê! Dũng Lùn đâu, trình diện thượng cấp!”

Dân mũ nâu rằn ri, đi tới đâu là ồn ào vang trời! Tôi nhìn lên, hóa ra tên dẫn đầu là Bác Sĩ Lê Văn Thại, tên thứ hai là Huỳnh Thọ Huyên, Khóa 26, tên thứ ba là Trần Tấn Đỡm, khóa 26, tên thứ tư là Lâm Đạo Đụng, khóa 26. Tôi bật dậy khỏi ghế như chiếc lò xo, mừng quá, bắt tay từng thằng.

Hóa ra là Hắn – Lê Văn Thại – ra trường nghề thầy thuốc năm 1970, với bảy năm chương trình Bác Sĩ Dân Sự, sau đó được động viên về BĐQ, lên Pleiku chăm sóc Liên Đoàn 2 BĐQ, Y Sỹ Trưởng, đóng hậu cứ ở Biển Hồ.

Cuộc hội ngộ “lính” vô cùng ồn ào và mùi “quân trường” còn thoảng hơi chưa phai! Chúng tôi kéo nhau ra cà phê Dinh Điền nhâm nhi và từng thằng khai “tình trạng quân ngũ,” những gương mặt mới xa, nhưng cứ tưởng không có cơ hội nào gặp lại… Ba thằng Khóa 26 Thủ Đức búng ra sửa, bây giờ trông rất “ngầu.” Bộ quân phục Biệt Động Quân, chiếc mũ nâu đội lệch, phù hiệu… Thằng nào cũng hiên ngang và tự tin! Ba thằng cùng đang phục vụ Liên Đoàn 2 BĐQ. Bác Sĩ Lê Văn Thại, Y Sĩ Trưởng, với bộ vía tác chiến Biệt Động trông rất “lính.” Hồi còn đi học, Hắn rất giỏi võ Bình Định, sở trường Hầu Quyền; vô Sài Gòn học thêm Taekwondo, Hapkido… Mỗi khi Hắn nổi hứng, nắm tay ai bóp nhẹ là người đó la làng… Hắn uống rượu như uống nước, lần nào ngồi với Hắn và mấy trự BĐQ, tôi chỉ là thằng phá mồi!
*
Rồi thời gian trôi! Chiến trường các nơi sôi động. Cánh Biệt Động hành quân rày đây mái đó. “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, tôi và đơn vị trấn thủ thành phố Pleiku để cho vợ con và dân chúng “di tản”… Sau đó, các đơn vị Biệt Động phải di chuyển xuống giải tỏa Tam Quan Bồng Sơn. Hành quân liên miên… nên tụi tôi ít khi gặp nhau; dù là ở thành phố trấn biên như Pleiku, mệnh danh là “thành phố của lính,” dù hậu cứ của tụi nó ở ngay Biển Hồ!Mỗi thằng mỗi khung trời nhỏ trong guồng máy chiến tranh.
Đã mang danh hiệu là “Biệt Động” thì có khi nào đơn vị được yên tịnh đóng ở một chỗ đâu! Cả “Vùng 2 Quân Khu II” đều là địa bàn in vết giày Biệt Động Quân; có biết bao anh hùng ngã xuống! Cuộc di tản tháng 3 năm 1975 là những ngày Quân Dân Cán Chính Pleiku – Kontum – Phú Bổn không thể nào quên. Tôi được may mắn thoát khỏi cuộc di tản trong gang tất nhờ cái lệnh thuyên chuyển về Đặc Khu Cam Ranh chỉ trước một tháng!

Cánh BĐQ của BS Lê Văn Thại, Huỳnh Thọ Huyên cùng số phận kẹt cứng trong đoàn người và quân trang quân dụng trên Tỉnh Lộ 7b. Mấy thằng Khóa 26, lúc bấy giờ vừa được thăng cấp Đại Uý, đều bị “tóm” ở gần Sông Ba – Phú Bổn! Đại Uý Huỳnh Thọ Huyên cùng chung số phận với đơn vị. Vợ và ba con của Hắn thì lạc mất trong rừng. Vợ của Huyên lạc luôn ba đứa con, một trai 5 tuổi và hai gái, đứa 3 và đứa chưa tròn một năm sanh… Sau này nhờ tìm kiếm, vợ của Huyên tìm được đứa con trai từ một gia đình người Thượng, cháu được nuôi để chăn trâu! Hai cháu nhỏ thì không còn dấu vết! Mấy tay BĐQ, bạn Khóa 26 của tôi bị nhốt ở nhiều nơi, sau rốt nằm ở Z30A Tuy Hòa. Riêng tên Bác Sĩ lì Lê Văn Thại thì thoát được về Sài Gòn.

Cuối tháng 3 năm 1975, từ Cam Ranh tôi về Saigon bằng đường bộ đến Phan Rang rồi đi ghe ở Bình Tuy về Vũng Tàu, vợ con gởi lại phía ngoại ở Ninh Hòa… Tôi và Lê Văn Thại lại gặp nhau, nhậu quên đời. Hai thằng quanh quẩn hũ rượu của ông già tôi ngâm. Rượu thuốc có thêm mùi trái ô môi vừa cay vừa ngọt. Ba tôi thấy hai đứa buồn chán nên cũng thường làm mồi cho hai đứa nhậu đưa cay!

Thê thảm nhất là ngày 30 tháng tư năm 1975. Khu xóm tôi ở trên đường Bà Hạt – Chung Cư Ấn Quang – rần rần người ra đi và rậm rật những đứa mang băng đỏ. Nếu ngày ấy hai đứa ra bến Bạch Đằng thì có lẽ đời sẽ rẽ qua hướng khác. Đàng này, hai đứa ngồi nhìn nhau không nói gì nhưng tay thì cầm ly! Tôi có hơi men, thỉnh thoảng còn bày đặt khóc nhớ vợ con chưa biết ra sao.

Cho đến một ngày cuối tháng 5, 1975, Ba tôi làm cơm đãi hai đứa ngày mai “Trình Diện Học Tập” 10 ngày bằng một chai rượu tây đem về từ Embassy Hotel. Lúc nâng ly, Lê Văn Thại đặt tên cuộc nhậu này là: “Đăng Trình Tửu.” Hôm sau, hai đứa xách bị áo quần và cái mền mỏng, đem theo tiền ăn mười ngày, mấy bao thuốc lá, đôi dép Nhật hai quai… Hai đứa hý ha hí hửng “trình diện” tại trường Petrus Ký. “Học tập 10 ngày” thì nhằm nhò gì! Ông hàng xóm nói với tụi tôi khi thấy hai đứa khăn gói gõ cửa nhà ông chào từ giã!

Tôi làm ra vẻ sành đường đi nước bước trong trường, dắt Lê Văn Thại lên lầu bên trái, chỉ vào lớp gần cuối, “ Tao mài quần chưa rách trong phòng này!” Thế là hai đứa tôi và mấy chục người trải nilon nằm dưới sàn. Có thằng leo nằm trên bàn học trò. Tôi tìm chỗ ngồi năm xưa, phía dưới hộc, quả nhiên còn tên của mình đã khắc bằng dao!

Ở “khách Sạn” Petrus Ký, ăn cơm ngày ba bữa do các nhà hàng nổi tiếng ở Chợ Lớn cung cấp… Mọi người hý ha hý hững cho rằng “Cách Mạng” đối đãi “Kẻ Đầu Hàng” sao mà tử tế quá!

Nửa đêm, sau mấy ngày nằm chờ đợi “việc gì sẽ xảy ra,” chúng tôi được gọi tên từng thằng, sắp hàng một, ôm hành lý leo lên xe bịt bùng đang đậu hàng dài trước cổng trường. Cứ hai mươi thằng leo lên, trên xe có sẵn hai chú nhóc bộ đội gườm súng bên hông. Xe phủ bạt kín mít, xe chạy rần rật trên các đường trong thành phố, chẳng ai biết nó về hường nào mà đoán!

Hai chú nhóc tì mặt hầm hầm, luôn gườm súng hăm doạ, “Không được nhìn ra ngoài, không được ồn ào nhúc nhích…” Xe chạy miết đến xế chiều, chúng tôi được phát lương khô “made in China.” Cuối cùng rồi cũng đến nơi, xe ngừng trong một trại lính của VNCH gần núi Bà Đen, Trảng Lớn Tây Ninh! Doanh Trại này, không biết trước kia làm gì mà có những gian trống trơn, chỉ có sàn xi măng quá to, quá dài, rất nhiều căn trại như thế chứa chúng tôi. Cứ hai chục thằng là một B, “cán Bộ” chỉ định B Trưởng, chia nhau trải chiếu hay bao nilon nằm san sát bên nhau cho có hơi ấm! Cứ thế ở đó tự phân chia nấu ăn, tự biên tự diễn. Nếu có đứa nào bịnh thì “Bác Sĩ Cách Mạng” đến khám và bôi dầu cù là, chứ không có thuốc gì hết!

BS Lê Văn Thại tìm được trong đám đông thêm bạn. Đó là BS Lê Văn Một, người miền Nam, râu quai nón. Hai tên Bác Sĩ bắt đầu ngứa nghề. Trong đám ngàn người ngủ giống như ngoài trời suốt hai ba tháng trời, chuyện bệnh hoạn xức dầu cù là… được chúng tôi âm thầm chuyển qua “Bệnh Viện Một- Thại.” Hai tên này kể cũng mát tay nên ít khi phải gọi Bác Sĩ “Dầu Cù Là”!

Nhưng khi “biên chế,” một số về trại lính Sư Đoàn 18 ở Long Khánh, B19 của tôi, B20 có Thại và Một, đều xách gói lên xe. Ở trại mới một thời gian, đang “được lên lớp” bài đầu tiên: “Ba Dòng Thác Cách Mạng” của Lê Duẫn thì có bốn thằng trốn trại trong đêm. Hai ngày sau thì tụi nó bị bắt , trong túi xách có một số thuốc tây, chúng khai là của BS Lê Văn Thại cho!

Thế là nửa đêm, rần rật súng ống và cả đám đông bộ đội bao vây nơi BS Thại nằm, lôi hắn xuống sàn, còng số tám, đọc lệnh nhốt vào co néc (conex) – Khung sắt này hình khối vuông, trước kia “Xâm Lược Mỹ” dùng loại này chở quân trang quân dụng, chuyên chở từ Hoa Kỳ bằng tàu thuỷ cung cấp cho chiến trường… Hắn bị thẩm vấn và nhốt vào cái khung sắt “kiên cố” đó bằng một khóa bự! Trời Long Khánh nắng đổ lửa, mà ngồi trong cái thùng sắt dày, không có lỗ thông hơi, bị khóa trái, ăn ngủ, tiêu tiểu một chỗ… Do Bác Sĩ Lê Văn Một được “đặc trách” chăm sóc. Chúng tôi cứ tưởng chừng mấy ngày là Hắn chết khô! Thế mà nhờ ngồi thiền, Hắn không chết.

Mấy tháng sau đó, một buổi trưa hè nóng gắt, kho đạn kế bên trại giam chúng tôi không biết sao phát nổ. Toàn bộ bom, hoả tiển, đạn 81 ly, 60 ly, M79 không những nổ mà còn bay đầy trời! Vụ nổ kéo dài đến tối. Trong trại chết một ít nhưng bị thương thì hơi nhiều. Ngoài dân chúng, những trái hỏa tiễn bay xa làm sập nhà và chết nhiều hơn chúng tôi. Vòng thiệt hại ở xa trung tâm nổ, nhiều hơn vòng trong gần với kho đạn!

Trong lúc kho đạn nổ bay đầy trời, mấy anh chàng nhát gan nhảy xuống các hố hay giếng khô trốn thì đạn lại rơi vào chết thảm. Những thằng sợ quá mất khôn lấy đôi guốc gổ che lên đầu đi lửng lơ như người điên, thế mà chẳng sao. Có thằng lấy miếng carton che đầu… Riêng BS Lê Văn Thại an toàn ngồi trong khung sắt nghe tiếng nổ bên ngoài. Còn tôi chui vào một cái lỗ trong đống gạch, hai chân lòi ra ngoài chịu trận!

Sau vụ nổ, một thời gian ngắn, chúng tôi được leo lên xe đến “Khu gia binh” ở Long Giao. Lê Văn Thại được “tháo củi sổ lồng” lên xe cùng chúng tôi. Hắn vốn đã là người ốm cao lêu nghêu, bấy giờ xác xơ đi không muốn nổi. Hồi còn sinh viên, tôi đặt tên Hắn là “Khô trúc Đại Sư”!

Hai đứa ở Long Giao một thời gian ngắn thì tôi “được thuyên thuyển” ra Bắc trên con tàu chở xi măng, để nổi trôi Hoàng Liên Sơn, Lao Cay, Yên Báy, Vĩnh Phú… Còn Hắn, “được tha về” vì có cái made in Bác Sĩ! Làm việc dưới quyền các Bác Sĩ vốn xuất thân từ trường thuốc “Dầu Cù Là”. ..
*
Tôi được “Cách Mạng khoan hồng” lệnh tha về từ trại tù K2 Tân lập Vĩnh Phú, phải mất 10 ngày từ nhà tù, vượt qua con sông Đà, ngồi tàu lửa chen lấn, từ ga Ấm Thượng về Hà Nội và con tàu suốt xuyên Việt. Về đến Sài Gòn thì mới hay là ông nội tôi đã qua đời 10 ngày trước, vì nghe tin tôi được ra tù, mừng quá lên máu đứng tim! Bước vào nhà cha mẹ tôi, Ba tôi chờ bên bàn thờ chít khăn tang cho thằng cháu đích tôn. Bác Sĩ Lê Văn Thại cũng có mặt.

Hắn kể lể một loạt từ khi hai đứa xa nhau. Lúc Ông Nội tôi bị đứng tim thì có Hắn đưa cấp cứu nhà thương Chợ Rẫy và ẵm xác ông nội tôi về lại nhà. Hắn thay tôi trực lo chôn cất, sát cánh với gia đình thằng bạn còn trong tù ngục.

Mấy tháng sau Hắn dẫn đến nhà một cô gái trẻ đẹp, có duyên và nói tiếng Bắc Kỳ ngọt xớt giọng Hà Nội. Hắn giới thiệu tên cô là Dung đang làm Nữ Ý Tá ở Bệnh Viện Chợ Rẫy. Ba tôi xách một chai đế ngâm thuốc và má tôi thì xào đĩa thịt bò hành tây đãi khách. Dung uống rượu cũng rất là tâm đắc với Thại. Tôi ngồi chuốc rượu mà ngạc nhiên là Hắn tìm đâu ra kỳ phùng địch thủ…

Một năm sau thì Hắn mời vợ chồng tôi mừng đám cưới Hắn với Dung. Năm đó Hắn 40 tuổi, là Bác Sĩ mà hàm răng cái mất cái còn trông tội nghiệp. Cô Dung y tá năm đó 25 xuân xanh! Một trời thơ mộng hạnh phúc mở ra cho thằng bạn tôi. Đám cưới ngoài vườn cây của ba mẹ Hắn trên Phú Lâm. Ngồi dưới tàng cây nhậu là hết ý.

Tôi nỗi hứng đứng lên trước hàng bao nhiêu Bác Sĩ, bạn bè tứ phương tụ tập vui chuyện chúc mừng. Tôi ra câu đối chúc mừng tân Lang và tân Giai nhân. Vế đầu tôi đọc lên: “Bốn mươi tuổi tròn, răng không còn, Thầy Lang cưới vợ!” Nếu ai đối hợp ý thì được toàn thể cử tọa vỗ tay và cụng ly với một chai rượu tây chính cống!

Thế là một không khí ồn ào náo nhiệt bàn tán về ý của câu đối và rất nhiều tài danh viết nạp câu đối. Cuối cùng một anh bạn, nay đã quy tiên, có câu đối như thế này: “Hai mươi tuổi lẽ, vẫn còn trẻ, Y Tá vu quy” Câu đối được chấm xuất sắc!

Tôi và gia đình không được nhập cư Sài Gòn với cha mẹ, tuy trước năm 1975 chúng tôi có tên trong hộ khẩu. Vì thế nên chúng tôi phải đi vùng “Kinh Tế Mới” ở Đồng Nai. Thời gian này Thại làm việc tại Bệnh Viện “Bệnh Nhiệt Đới” Chợ Quán. Cha Mẹ vợ Thại có con ở Hoa Kỳ đang làm bảo lãnh cho toàn thể gia quyến sang Mỹ. Lê Văn Thại lúc đó đã có được một con gái kháu khỉnh dễ thương tên Ngọc. Hắn không muốn ra đi “tùy theo quê vợ” nên cứ dùng dằng “em chả”! Nhưng cuối cùng thì cũng phải vì tương lai con gái mà “theo em xuống thuyền.”

Về phần tôi, năm 1990, cả gia đình tôi được giải thoát theo HO3 tháng 7 năm 1990 và định cư ở Nam Cali. Gia đình Thại, vì không đủ ba năm ở tù nên được đoàn tụ với đại gia đình vợ, định cư tiểu bang Oregon! Hắn quyết tâm học và quyết tâm lấy cho được bằng Bác Sĩ ở Hoa Kỳ, dù Hắn lúc đó đã lớn tuổi và sau năm 1990 thì chuyện học lấy BS rất khó! Vì nhiều lý do mà Hắn không thể theo học nghề thầy thuốc sau hai năm gắng sức! Trước kia Hắn học trường Pháp, bảy năm mài quần trong Y Khoa Đại Học Sài Gòn, đậu bằng Bác Sĩ theo chương trình Pháp ở VN. Qua Hoa Kỳ hóa ra Hắn trở thành một tên “lộn chuồng”!

Lúc Hắn than là học khó quá, tôi khuyên Hắn, “Mầy bỏ ý định thành BS ở đây, mầy mở võ đường dạy võ Bình Định, Thiếu Lâm hoặc cùng với BS Phạm Gia Cổn dạy võ Hàn Quốc thì tốt hơn.” Hằn mỉm cười làm thinh tiếp tục hành hạ thân xác vì sĩ diện (?!).

Chính vì thế mà Hắn chán đời, chán vợ, chán con… lặn sâu qua tiểu bang Delaware với mấy bạn Biệt Động Quân chán đời, cùng ở dưới hầm nhà hơn tám chín năm trời để săn bắn và nhìn trời chiều bãng lãng! Hắn chỉ sống với bạn bè BĐQ là chí cốt. Theo BĐQ Đỉnh Đầu Bạc, thì hầu hết cánh BĐQ đều thương mến Hắn kể cả Tướng Tất, vị Tướng cấp trên của Hắn. Phe Thầy thuốc thì hình như Hắn chỉ còn liên lạc với BS Phạm Gia Cổn.

Khi con gái Hắn đậu bằng Bác Sĩ, hắn lên tinh thần và về lại Cali ở với con gái. Bác Sĩ Ngọc rất có hiếu và chăm sóc tận tình, chiều chuộng ông cha già ương ngạnh! Nhưng cô Bác Sĩ trẻ dễ thương này lại thường xuyên ở nhà thương hơn về nhà!

Tháng 3 năm 2019, Hắn được xe cấp cứu ò e, chở vào Fountain Valley nằm đã gần 10 ngày. Tôi vào thăm, Hắn nhìn tôi cười đểu, “Ê Lùn! Sao không xách theo chai nào mà đi không vậy?” Cầu mong Hắn chóng qua cơn “bệnh viện,” tôi sẽ nói với bà xã đúc bánh xèo “dõ” (chỉ có bột gạo) kiểu Tam Quan, hắn rất thích, chấm với mắm nêm; đãi Hắn một bữa với vài ly xoay chừng! Bây giờ Hắn cũng không còn uống được mấy ly, nhưng gà vẫn còn nhớ tiếng “gáy” một thời vang bóng!

Sau ba năm ở với con gái tối ngày đi trực bệnh viện vì dịch Covid-19 và là Bác Sĩ chuyên khoa, con gái Hắn ít khi ở nhà với Hắn. Nơi ở của hắn và con gái xa Westminster hai giờ lái xe trên xa lộ, chung quanh rất ít người Việt Nam sinh sống. Hắn không dùng Iphone (chỉ sử dụng phôn cầm tay kiểu hồi thời năm 2000), không chơi internet, không email, không lấy bằng lái xe… Bao năm tháng ở cái xứ Hoa Kỳ này mà như Hắn thì có phải chính Hắn tự hủy hoại mình và hành hạ thân xác dẫn đến chỉ một đường… tự giải thoát!

Được vợ Hắn báo tin Hắn đã được thoát xác ngày 3 tháng 3 năm 2022, tôi đang lái xe, phải dừng lại bên lề đường vì xúc động. Bây giờ Hắn nằm xuống, con gái Hắn không thể làm gì hơn là ngồi khóc, vợ Hắn thì đã sang ngang từ bao nhiêu năm rồi. Nhưng phút cuối cùng Hắn cũng được gục chết bên vợ con với những lời trăn trối sau cùng nhắn với bạn bè chào vĩnh biệt!

Một người tài hoa không giống ai, một Bác Sĩ không giống ai, một người bạn mà mọi người đều cảm mến! Hắn là Lê Văn Thại!
(Tháng 3 năm 2022)
LETAMANH

Cuộc Chiến Đấu Bi Hùng Của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu (Đào Vũ Anh Hùng)

Bài ca biệt ly của quân lực VNCH được diễn tả bằng những hành động, những trận đánh ngoạn mục của người lính VNCH trong trận thư hùng với các binh đoàn Cộng Sản lần cuối vào những giờ phút hấp hối của miền Nam. Đó là những trận đánh cực cùng dũng cảm, bi thương, hùng tráng và tuyệt vọng, trước sự chứng kiến của cả trăm ký giả, phóng viên ngoại quốc, những nhà ngoại giao, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu quân sử…

Đó là Thiên Anh Hùng Ca bất khuất của một quân lực trong suốt hơn hai mươi năm chống giữ và bảo vệ cái tiền đồn của thế giới tự do trước làn sóng xâm lăng cộng sản. Thiên anh hùng ca bất hủ đã được nhiều nhân chứng tôn vinh và ngưỡng phục. Sau cuộc tan hoang, miền Nam Viêt Nam bị mất về tay CS, nhiều người đã công khai nói lên lòng cảm phục cùng sự thương tiếc cho một quân lực hùng mạnh và quả cảm đã gánh chịu một kết thúc đau thương, ngập tràn uất hận.

Ký giả Peter Kahn của đại nhật báo The Wall Street Journal, dưới cái tựa “Truy Điệu Nam Việt Nam” ngày 2-5-75, nghĩa là hai ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ đã ngậm ngùi kết luận: “Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm và không phải họ luôn luôn được người Mỹ giúp đỡ. Tôi nghĩ không có quốc gia nào có thể chịu đựng được một cuộc chiến dai dẳng và tàn khốc đến như vậy… Rốt cuộc quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của mọi người.

David Halberstam, một ký giả Mỹ đầy thiên lệch khi nhận định về chiến tranh Việt Nam, nhưng khi chứng kiến sự sụp đổ của miền Nam thì cũng phải phẫn nộ thú nhận trên tờ Newsweek, “Tất cả những sự thất bại lịch sử và những sự hèn nhát tồi tệ của biết bao nhà lãnh đạo Tây phương đều chồng chất lên lưng những người lính Nam Việt Nam… Thật là bất lương và bất công! Sự nhục nhã là của chúng ta chứ KHÔNG PHẢI LÀ CỦA QUÂN ĐỘI VNCH!”

Hầu hết các phóng viên báo chí, các ký giả ngoại quốc trước đây từng công khai bênh vực và nghiêng hẳn về phe VC, đã phản tỉnh đã xám hối khi chứng kiến cuộc kháng cự dũng mãnh, hào hùng và bi thảm của những đơn vị quân đội ở lại chiến đấu cho đến người lính cuối cùng, đến giọt máu cuối cùng. Piere Darcourt đã nồng nhiệt ca tụng lòng dũng cảm của quân lực VNCH ở Xuân Lộc, của một đơn vị Nhảy Dù ở Lăng Cha Cả, của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu và dành sẵn một đoạn dài mô tả cuộc chống trả hiên ngang của các Sinh Viên trường Võ Bị Đà Lạt trên các đường phố Sài Gòn. Người ta đã nói rất nhiều đến những tấm gương tuẫn tiết của các vị Tướng anh hùng, những cuộc tự sát tập thể của những người lính vô danh VNCH không chịu đầu hàng kẻ thù, nói đến những kỳ tích chiến đấu của những đơn vị Quân Lực miền Nam.

Một trong những trận đánh anh hùng ấy đã làm mủi lòng biết bao nhiêu người, đã gây xúc động biết bao nhiêu con tim. Những giòng nước mắt đã dàn dụa đổ xuống khi chứng kiến cuộc chống trả tuyệt vời và ngoạn mục có thể nói trên thế giới, không một quân sử nước nào có thể có được.

Đó là cuộc chống trả của các THIẾU SINH QUÂN ở Vũng Tàu trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, khi cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong Thị Xã.

Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ và rơi vào tay cộng quân. Ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do những thiếu niên tuổi 12, 13… đến 17 tự lập phòng tuyến quyết tâm tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và những chiến sỹ gan dạ anh hùng đó là những thiếu sinh măng trẻ của trường.

Địch đã tung hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này nhưng chúng đã gặp phải một lực lượng vũ trang đáng kể hiên ngang đương đầu với chúng. Cộng sản đã coi thường những chú lính sữa chưa bao giờ biết mùi trận mạc. Chúng bắt loa kêu gọi các em đầu hàng và buông lời hăm doạ… Tiếng loa vừa dứt, Viêt Cộng nhận ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 700 tay súng tí hon. Tiếp theo là hàng trăm mũi súng nhắm thẳng vào bọn VC bên ngoài, phẫn nộ lảy cò. Vài tên Bộ Đội bị đốn ngã ngay trong loạt đạn đầu tiên. Bọn Việt Cộng phải đứng khựng lại trước tinh thần quyết tử cuả 700 hậu duệ anh hùng Trần Quốc Toản. Chúng không giám tấn công ngay vì các em quá nhỏ và vì có sự hiện diện của đồng bào.

Chúng lui ra xa tránh đạn, bắc loa ra lệnh các em phải đầu hàng đúng 9:30 sáng hôm sau, ngày 30 tháng Tư.

Mặc VC kêu gọi và đe doạ, Thiếu Sinh Quân vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm lũy phòng ngự, tổ chức giao liên, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương và cứu hoả… Anh lớn chỉ huy các em nhỏ, áp dụng tuyệt vời những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được giảng dậy ở quân trường.

Đúng 9:30 sáng ngày 30-4. Cộng quân ra lệnh gọi đầu hàng lần chót nhưng các chiến sỹ tí hon vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn.

VC nổi cơn khát máu. Chúng khai hoả, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng. Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, không ngờ sức chống cự quá mãnh liệt và hoả lực từ bên trong bắn ra vô cùng chính xác vào những bia sống, những cái bia người “SINH BẮC TỬ NAM”. Các em chưa bao giờ được bắn, nay đã bắn với tất cả căm thù, mong dành lại những gì sắp bị cướp mất.

Thiếu Sinh Quân có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Ngoài ra còn có lợi điểm là các công sự trong trường, vừa đánh vừa di chuyển, ẩn núp, trong khi bộ đội VC lớ ngớ như bầy chuột chù ra ngoài ánh sáng. Lại có những thanh thiếu niên và Quân Nhân vỡ ngũ bên ngoài hào hứng và kích động, tìm cách lẻn vào tăng cường tay súng, nhập cuộc cùng các Thiếu Sinh Quân chiến đấu ngay trong sân trường, đột kích, đánh bọc hậu bọn bộ đội khiến chúng nao núng và hốt hoảng.

VC đã bắn sập một khoảng tường nhưng không thể nào vượt qua được lưới đạn của các chiến sỹ nhỏ tuổi nhưng can trường. Các em đã chiến đấu thật gan dạ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, phối hợp nhịp nhàng và KỶ LUẬT như những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến nhà nghề.

Đây là trận đánh thực sự đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của các em còn đang giở khoá học. Trận đánh QUYẾT TỬ đã đi vào lịch sử.

Các Thiếu Sinh Quân đã chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những đứa con bé bỏng của quê hương đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, mộng đời chưa trọn. Đồng bào chứng kiến cảnh bi thương này đã oà lên khóc. Có những bà mẹ kêu gào, lăn xả vào cản ngăn họng súng bọn bộ đội để che chở cho những thiếu niên ở bên trong.

Tiếng nổ, tiếng hò hét, tiếng kêu khóc, tiếng loa uy hiếp của VC đã tạo nên một không khí chiến trường lạ lùng chưa từng thấy… Các Thiếu Sinh Quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực của tuổi trẻ hăng say hào hứng như đang tham dự một trò chơi lớn.

Cuộc chống cự kéo dài đến 3:00 chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho VC thương thảo. Họ đòi hỏi VC chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng…

Và các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ KHÔNG ĐỂ CHO BỌN CS làm nhục lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền PHẢI THƯƠNG YÊU và BẢO VỆ.

Có chừng hơn một Trung Đội TSQ đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc Kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây ngọc bích. Hai TSQ lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào. Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài giây phút thiêng liêng cảm động này, nước mắt đầm đìa.

Tất cả TSQ từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà…., không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca.

Gần 700 giọng hát hùng tráng cát lên, vang khắp sân trường. Bọn bộ đội nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang đến tận bến Dâu, bến Đình… Mọi người dân Vũng Tàu đã đều nghe và rung động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cùng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát.

Các Thiếu Sinh Quân đã làm lễ mai táng đất nước, đã TRANG NGHIÊM RỬA SẠCH tấm bia DANH DỰ của Quân Đội VNCH, đã vuốt mắt cho Mẹ Việt Nam yên nghỉ qua lễ hạ kỳ lần cuối chỉ một không hai này. Họ hát bằng tiếng nấc thê lương và phẫn uất từ sâu thẳm trái tim, với những nghẹn ngào cùng dàn dụa của nước mắt. Đồng bào cùng thổn thức thương tủi và thổn thức hát theo.

Thời gian như ngưng đọng lại trong giờ khắc thiêng liêng và bi thảm, xúc động cùng lẫm liệt đó.

Cho đến bây giờ, nhiều người vẫn nghe văng vẳng trong sâu kín của buồng tim đã thắt nghẹn, tiếng bi thương hùng tráng của các Thiếu Sinh Quân hát bài Quốc Ca trên đất nước, trong ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen, ngày oan khiên định mệnh cho dân tộc Việt.

Người phụ nữ Việt Nam làm gián điệp hai mang

1*. Câu chuyện mở đầu

Trong cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi (A Thousand Tears Falling), bà Đặng Mỹ Dung thuật lại cuộc đời và công tác gián điệp của bà.

Bà là người con thứ tư trong gia đình 7 anh chị em, 5 gái, 2 trai. Người cha tên Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh. Bà mẹ tên Trần Thị Phàm. Người cha, Đặng Quang Minh, là cán bộ cao cấp của Việt Cộng, đã từng làm đại sứ của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” ở Liên Xô và một số nước Cộng Sản Đông Âu.

– Sau Hiệp định Genève 1954, Đặng Quang Minh và con trai đầu lòng là Đặng Văn Khôi tập kết ra Bắc. Bà mẹ và các con nhất định không đi tập kết vì không ưa chế độ Cộng Sản. Ông Minh không muốn làm áp lực mạnh, vì tin tưởng rằng hai năm sau sẽ trở về đoàn tụ gia đình.

Sau khi học hết chương trình trung học ở trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ, năm 18 tuổi, Mỹ Dung nhận được việc làm ở phòng Tâm lý chiến thuộc Quân đoàn 4, Cần Thơ..

Bà Đặng Mỹ Dung (Yung Krall)

Bà mẹ bán tiệm may, cùng với mấy chị em dọn về Sài Gòn.

Ở Sài Gòn, Mỹ Dung được thu nhận vào làm việc tại Trung tâm BOQ (Bachelor Officers’ Quarter). Ở đây bà gặp và thương yêu nhau với Trung úy Hải Quân John James Krall, tình báo Hải Quân Hoa Kỳ. Sau vụ tấn công Tết Mậu thân 1968, cả hai về Mỹ, và làm đám cưới tại Monterey, California. Dung được đổi thành Yung và lấy họ của chồng là Krall. Cái tên Yung Krall từ đó.

Năm 1975, John J. Krall chuyển về làm việc ở Hạm đội Thái Bình Dương, do Đề đốc Gaylor làm Tư lịnh.

Yung Krall xuất sắc trong vai trò gián điệp đôi, đã phá vỡ hai ổ gián điệp Việt Cộng ở Hoa Kỳ và Pháp.

Trong tựa đề của cuốn “Ngàn Giọt Lệ Rơi”, cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ,  Griffin Boyette Bell đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với đất nước chúng ta”.

2*. Tình nguyện làm gián điệp để di tản gia đình.

Bất ngờ vào một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú điện thoại từ Paris của một người Pháp, xưng tên Jean Sagan, bạn thân của cha bà là Đặng Quang Minh, báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ, và hối thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và em ra khỏi nước. Yung Krall sực nhớ lại 3 năm trước, có nhận được, cũng của kẻ trung gian bí mật này, một bao thơ (không ghi tên người gởi), cũng từ Pháp, chuyển một số hình của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hà Nội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh.

Chồng của Mỹ Dung là Thiếu tá John J. Krall xin nghỉ phép 30 ngày, tức tốc bay về Việt Nam, vận động với Sứ quán Hoa Kỳ để đưa mẹ vợ và em vợ được sang Mỹ.

Theo nguyên tắc, chuyến đi nầy bất hợp pháp, vì Bộ Quốc phòng Mỹ cấm sĩ quan tự ý đến Việt Nam, nếu không có công vụ lịnh của cấp chỉ huy.

Việc nầy làm cho Yung Krall lo âu, không biết việc gì có thể xảy ra cho chồng và gia đình ở Việt Nam. Bà liền nghĩ ra một ý kiến táo bạo, là điện thoại cầu cứu thẳng cho Đề đốc Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương.

Sau một thời gian chờ đợi, khó khăn, Mỹ Dung được nói chuyện với Đề đốc. Bà cho biết chức vụ của cha ba` trong chính quyền Việt Cộng, đồng thời cho biết những nguy cơ của mẹ, kể cả nội dung cuộc điện đàm với người Pháp tên Jean Sagan, về nguy cơ sụp đổ của chính quyền miền Nam. 

Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải Quân Dave Smith tiếp xúc với bà để lấy thêm những chi tiết cần thiết. Trong cuộc gặp gỡ nầy, để được chắc ăn, Mỹ Dung cho biết, bà sẽ tình nguyện phục vụ chính phủ Hoa Kỳ khi nào cần đến.

Tình nguyện của bà có hiệu quả nhanh chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân viên CIA, mặc thường phục, tên Bob Jantzen đến tận nhà bà, sốt sắng ghi đầy đủ lý lịch của thân nhân bà ở Việt Nam. Bob cũng hứa sẽ thông báo cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, cho biết John Krall đang ở Việt Nam.

Tham vụ Ngoại giao của Sứ quán Mỹ ở Việt Nam là Grant Ichikawa liên lạc được với chồng bà để sắp xếp mọi việc cho thân nhân của bà. Ngày 10-4-1975, John Krall về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và em của bà đến phi trường Honolulu, Hawaii.

Tháng 6 năm 1975, Bob Jantzen cho Mỹ Dung gặp sĩ quan phụ trách công tác là Robert Hall (Rob) là người trực tiếp làm việc với Mỹ Dung, trong những việc như theo dõi công tác, ra chỉ thị, nhận báo cáo…Rob cử Mỹ Dung theo học khóa huấn luyện ở Langley.

3*. Mỹ Dung gặp cha lần thứ nhất sau 20 năm xa cách.

Ngày 20-7-1975, Mỹ Dung vui mừng khi đọc được một bản tin trên tờ báo Japan Times, cho biết ngày 5-8-1975, hai phái đoàn Hà Nội và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, do Đỗ Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẫn, sẽ đến Tokyo dể tham dự Hội nghị Quốc tế, chống bom nguyên tử.

Mỹ Dung vui mừng, liền bay qua Nhật với đứa con trai tên Lance, 5 tuổi, để gặp lại cha sau hơn 20 năm nhớ thương. Trong cuộc gặp, Đặng Quang Minh không dám nhận con gái và cháu ngoại, mà bảo là người quen cùng làng. Mỹ Dung đau buồn vì không nói được tiếng Ba đối với người cha vô cùng thương nhớ, mà xưng hô với nhau là bác, cháu.

Khi chia tay, Ông Minh an ủi con gái: “Ba không tìm cách thay đổi con, nhưng xin con cũng đừng dày xéo niềm tin của ba. Nếu con thoải mái với niềm tin của con thì ba cũng hài lòng”.

4*. Mỹ Dung gặp cha lần thứ hai.

Giữa tháng 9 năm 1975, khi được biết người cha có chuyến công tác đến Paris, Mỹ Dung làm thủ tục để đưa mẹ (Bà Trần Thị Phàm) sang Pháp để gặp cha.

Trước ngày khởi hành, sếp CIA là Jerry Parker tiếp Mỹ Dung tại một nông trại ở Virginia, ông tỏ ý muốn giúp sĩ quan Việt Cộng Đặng Văn Khôi, là anh cả của Mỹ Dung, đào thoát khỏi chính quyền Cộng Sản.  Khôi là chuyên viên về tên lửa hướng dẫn (guided missiles) được huấn luyện ở Trung Quốc và Liên Xô. Robert Hal được lịnh qua Paris để theo dõi và giúp đỡ Mỹ Dung.

Tại Paris, bà Trần Thị Phàm vui mừng tràn đầy nước mắt khi gặp lại chồng sau 21 năm xa cách. Những ngày vui ngắn ngủi qua mau, bà Phàm lại đầm đìa nước mắt khi chia tay. Ông Minh lên máy bay Aeroflot về sứ quán của ông ở Liên Xô.

Cũng tại Paris, ông Phan Thanh Nam, đại diện Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đề nghị để cho sinh viên Phạm Gia Thái đưa mẹ con bà Mỹ Dung về ngụ ngôi nhà ở Verrière-la-Buisson, đồng thời làm hướng dẫn viên hai người khách đi thăm Paris. Bà Mỹ Dung khéo léo từ chối, là đã thuê phòng tại khách sạn rồi.

Cũng trong lần gặp gỡ nầy, cả ông Đặng Quang Minh và Phan Thanh Nam đều thuyết phục mẹ con bà Mỹ Dung hãy về sống tại Việt Nam.

Đại sứ Việt Cộng Võ Văn Sung mời bà Mỹ Dung đến sứ quán, tỏ ý muốn chồng bà, Thiếu tá John Krall, tiếp xúc làm việc với cha vợ Đặng Quang Minh, giúp Hà Nội. Đồng thời vận động dư luận quần chúng Mỹ đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh 3.25 tỷ đôla như Tổng thống Richard Nixon đã hứa hồi tháng 2 năm 1973.

Võ Văn Sung cũng cho biết, Việt Cộng có một số “cảm tình viên” ở Mỹ, và yêu cầu bà Mỹ Dung tiếp xúc và làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nước ở San Francisco tên Phan Thanh Nam, ông Nam cũng tuyển mộ Mỹ Dung làm việc cho Cộng Sản để thu lượm tin tức trong chính quyền Hoa Kỳ. Hắn cũng đề nghị Mỹ Dung nên giả vờ như một người chống Cộng. (“You should even pretend that you are anti-communist).

Khi trở về Hawaii, Yung Krall được CIA chỉ thị, cùng chồng dời về sinh sống ở thủ đô Washington, D.C.

Hướng công tác mới là phá vỡ hệ thống gián điệp Cộng Sản ở nước ngoài.

5*. Yung Krall đóng vai trò gián điệp nhị trùng.

Đặng Mỹ Dung được bố trí đóng vai gián điệp nhị trùng, một vai trò khá nguy hiểm, là khi có gián điệp nhị trùng của hai bên đụng độ với nhau, nhưng Mỹ Dung vẫn chấp nhận.

Vài tháng sau, Mỹ Dung trở qua Paris để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều ở Pháp.

Mỹ Dung được hướng dẫn đi thăm trụ sở và thư viện, chứa đầy những tài liệu tuyên truyền. Tham dự những buổi học tập của cán bộ, và gặp các phần tử tha^n Cộng Việt-Pháp. Bà cũng được trao những ấn phẩm Anh-Việt để phổ biến ở Hoa Kỳ.

Điều quan trọng là Huỳnh Trung Đồng căn dặn Mỹ Dung phải tiếp xúc với cán bộ Nguyễn Thị Ngọc Thoa ở thủ đô Washington, để phối hợp hoạt động. Ngọc Thoa là người cầm đầu mạng lưới tình báo ở thủ đô Washington.

Về Mỹ, khi nghe Mỹ Dung báo cáo, sếp CIA Robert Hall ngăn cản, không cho Mỹ Dung gặp mặt Ngọc Thoa, cho đó là vụ việc của FBI. Sếp CIA hăm dọa, sẽ bãi nhiệm Dung, nếu không tuân lịnh. Cho rằng, không một ai được phép làm việc cùng một lúc với CIA và FBI.

Đối với Mỹ Dung, đó là việc duy nhất mà bà phải làm, và hơn nữa, bà đã bỏ ra nhiều công sức, chỉ còn một vài bước nữa là hoàn tất công việc.

Mỹ Dung bướng bỉnh cãi lại, cho rằng bà đã làm việc không ăn lương cho CIA suốt 9 tháng qua, và không có một hợp đồng nào cả, không có một ràng buộc nào cả. Bà không phải là nhân viên chính thức của CIA.

Mỹ Dung nhờ chồng trình vụ việc lên Đề đốc Bobby Inman, Giám đốc Cục Tình báo Hải Quân, mà John Krall là nhân viên của cơ quan nầy.

Vài hôm sau, Đề đốc Inman tiếp xúc với bà. Bà cho biết, việc cần thiết phải làm, là phá vỡ màng lưới gián điệp Việt Cộng ở Hoa Kỳ.

Ông Inman hứa sẽ thảo luận với Giám đốc FBI là ông Clarence Kelly.

Vào tháng 6 năm 1976, nhân viên FBI Bill Flesman và nhân viên đặc trách CIA, Bill Reardon được chỉ định cùng làm việc với Mỹ Dung. Từ đó, một điệp vụ có hợp đồng chính thức.

6*. Vụ án gián điệp Đinh Bá Thi và Trương Đình Hùng

6.1. Mỹ Dung đến gặp bà Nguyễn Thị Ngọc Thoa

Do bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt Kiều ở Pháp, Mỹ Dung gặp bà Ngọc Thoa một cách dễ dàng, tại một căn gác nhỏ ở địa chỉ đường 18th Street, thủ đô Washington. Địa chỉ nầy là nơi phát hành tài liệu tuyên truyền của Việt Cộng, cũng là nơi phát hành nguyệt san Người Việt Đoàn Kết. Nhờ sự giúp đỡ của LM Trần Tam Tĩnh, Canada, nguyệt san xuất bản 5,000 số mỗi tháng.

Bà Thoa sống rất kín đáo và kham khổ. Có chồng Mỹ là người thiên tả, thân Cộng.

Hệ thống hoạt động của bà Thoa gồm những trí thức người Việt thân Cộng ở Mỹ.

Trương Đình Hùng (David Hùng)

Một sinh viên có khả năng và hăng hái hoạt động là Trương Đình Hùng, con của LS Trương Đình Dzu. Bà Mỹ Dung trở thành người “giao liên” chuyển những bao thơ mật của Trương Đình Hùng và của bà Thoa đến Huỳnh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở Paris. 

Đương nhiên là những thơ mật đã được copy để lưu hồ sơ. Trong đường dây gián điệp Việt Cộng, bà Mỹ Dung cũng bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco, và những thành viên khác.

6.2. Nữ điệp viên Đặng Mỹ Dung đến gặp Đại sứ Việt Cộng Đinh Bá Thi ở trụ sở Liên Hiệp Quốc.

Đinh Bá Thi (Thứ hai từ trái)

Cuối năm 1976, bà Dung điện thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ Việt Cộng ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York. Ông Thi vui vẻ nhận lời vì đã quen biết với cha bà là Đặng Quang Minh. Mục đích đến thăm là trao một bao thơ mật mà Trương Đình Hùng gởi cho ông.

Ông Thi mời bà Dung đến ở tại Sứ quán Hà Nội ở LHQ. Sự việc bất ngờ, ngoài dự liệu. Bà thông báo cho hai sếp CIA và FBI, cho biết, nếu trong 3 ngày mà không có liên lạc, thì có thể gặp nguy hiểm.

Bà Dung cho biết, trong sứ quán, ngoài ông Thi ra, thì chỉ có 4 người. Họ ăn ở chung với nhau. Thường xuyên nghe ngóng thời sự qua 3 cái tivi, và không ai được phép rời New York quá 25 dặm.

Tất cả đều nhịn ăn sáng để tiết kiệm. Đó là thời điểm mà người Việt trong nước ăn bo bo hoặc ăn độn với khoai.

Theo bà Mỹ Dung thì ông Thi tánh tình cởi mở, không quá khích. Ông cho biết, vợ ông bịnh nặng ở Việt Nam mà chính phủ không cho xuất ngoại, vì nguyên tắc là nhân viên ngoại giao không có quyền đem gia đình theo, để tránh nạn đào ngũ. Ông Thi buồn rầu nhận định: “Khi một chế độ không mang lại hạnh phúc cho dân và không đưa đất nước tiến tới một tương lai đã hứa hẹn, thì phải thối lui, và tự đặt câu hỏi: Vì sao?” (Trang 312 Hồi ký)

6.3. Chiến dịch Operation Magic Dragon của FBI

Chiến dịch Operation Magic Dragon ( Rồng Ma Thuật) nhằm vào Trương Đình Hùng và Ronald Louis Humphrey.

Kể từ năm 1977, Mỹ Dung bám sát vào Trương Đình Hùng (David Hùng). Hùng không thuận với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco (U.S), nên Hùng nhờ “người giao liên” Mỹ Dung liên lạc thẳng với Phan Thanh Nam, Xử lý thường vụ đại sứ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Ở Paris, và Đại sứ Đinh Bá Thi (LHQ).

David Hùng tâm sự với người giao liên, với khả năng và sự ngoại giao rộng rải, anh ta hy vọng được kết nạp vào Đảng và giao trách nhiệm điều khiển hệ thống tình báo ở Hoa Kỳ.

Trong bức thơ mà Phan Thanh Nam nhờ Mỹ Dung chuyển cho David Hùng, ông Nam viết: “Hoan nghênh chương trình làm việc của anh…đã có khả năng và mánh lới thu thập tin tức…”

Tóm lại, Trương Đình Hùng tự nhận là gián điệp của Việt Cộng, không thể chối cãi được ở tòa án.

Một hôm, David Hùng khoe với Mỹ Dung rằng anh ta “có thể có những gì anh muốn, nhờ một nhân vật “vô ra tự do ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao”.

Mỹ Dung liền báo cho Giám đốc FBI là ông Clarence Kelley và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Warren Christopher về vụ việc.

Thế là chiến dịch Operation Magic Dragon thành hình.

Bao thơ cuối cùng của người giao liên

Khi Mỹ Dung đến từ giả David Hùng để đi Luân Đôn, bà theo chồng đến nhiệm sở mới, là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ ở Âu châu.

Hùng đưa cho Mỹ Dung một bao thơ đựng tài liệu lấy ở Quốc Hội, trao cho Huỳnh Trung Đồng. Hùng nói: “I ran over the Congress to get a package of that stuff”.

Đó là bức thơ cuối cùng của người giao liên.

Do điệp viên Mỹ Dung thông báo, với sự đồng ý của Tổng thống Jimmy Carter và giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp, Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình bí mật tại văn phòng của Humphrey ở cơ quan USIA. Và đặt máy nghe lén, micro, tại nhà của David Hùng.

Ngày 31-3-1978, FBI bủa lưới bắt Ronald Humphrey và Trương Đình Hùng.

Trong những bức thơ mà David Hùng nhờ Mỹ Dung chuyển đi, có hai tài liệu mật do Ronald L. Humphrey, nhân viên của cơ quan USIA (US Information Agency). Ông nầy, 46 tuổi, có người vợ Việt Nam tên Kim, bị kẹt ở Việt Nam sau 30-4-1975. Ông trao tài liệu mật để David Trương can thiệp cho vợ ông được sang Mỹ. 

 Chứng cớ rõ ràng không thể chối cãi, nên cả hai, David Trương và Humphrey, mỗi người lãnh 15 năm tù. Đinh Bá Thi được hưởng quy chế ngoại giao nên bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ.Đinh Bá Thi là đại sứ đầu tiên của Việt Cộng ở Liên Hiệp Quốc, mà làm ăn bê bối, mời gián điệp Mỹ vào ở sứ quán mà còn tâm sự “linh tinh vô tổ chức” nhằm bôi bác chế độ (Thời điểm 1968) nên bị thanh trừng bằng cái chết bất thường vì tai nạn ô tô khi từ Phan Thiết vào Sài Gòn.

Tại tòa án, Humphrey tố cáo David Hùng lừa gạt ông ta. David Hùng không làm gì cả trong việc đưa bà Kim, vợ ông sang Mỹ. Mà do các nhà ngoại giao Thụy Điển, Tây Đức và Hội Hồng Thập Tự Quốc tế can thiệp.

7* Vài nét tổng quát về Trương Đình Hùng và Trương Đình Dzu

1). Trương Đình Hùng

Trương Đình Hùng (David Trương), con của Trương Đình Dzu, sinh ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn. Năm 1965, sang Mỹ du học. Ông tỏ ra có cảm tình đặc biệt và ủng hộ chính quyền Hà Nội. Nhiệt liệt ca ngợi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Ông và một nhóm bạn bè tích cực ca ngợi hai phái đoàn Việt Cộng trong Hội đàm Paris.

Trong vụ án gián điệp năm 1978, Trương Đình Hùng bị kết án 15 năm tù. Ở tù được 7 năm 4 tháng thì được trả tự do với điều kiện là phải ra khỏi nước Mỹ. Năm 1986, ông Hùng và người vợ Mỹ, Carolyn, đến sống ở Hòa Lan. Ông đi nhiều nơi, và sau cùng chết vào ngày 26-6-2014 tại Penang, Malaysia. Thọ 69 tuổi.

 2). Trương Đình Dzu

Luật sư Trương Đình Dzu

Luật sư Trương Đình Dzu sinh ngày 10-11-1917 trong một gia đình giàu có và quyền thế ở Bình Định. Ra Hà Nội học trường Lycée Albert Sarraut, rồi học khoa Luật của Đại học Đông Dương.

Năm 1945, Trương Đình Dzu vào Sài Gòn mở tổ hợp luật sư, gồm có Nguyễn Hữu Thọ, sau làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, và Trần Văn Khiêm, em của bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu.

Năm 1967, ông Dzu ra ứng cử Tổng thống, chạy đua với liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ.

Sau khi thất cử, ông bị bắt về tội hoạt động cho Việt Cộng. Ông Dzu ngồi tù cho đến tháng 4 năm 1975, thì được Tổng thống Trần Văn Hương ký lịnh trả tự do cho ông.

Mỉa mai thay. Năm 1978, con trai ông là Trương Đình Hùng bị tù 15 năm về tội làm gián điệp cho Việt Cộng, thì ở Việt Nam, Trương Đình Dzu bị đi tù cải tạo từ năm 1978 đến năm 1987 (9 năm) vì tội làm gián điệp cho CIA.

Sau khi ra trại, phải sống trong một thời gian dài trong tình trạng bị quản chế cho đến ngày chết vào năm 1991. (74 tuổi)

8*. Những lời khen tặng bà Đặng Mỹ Dung

Bà Mỹ Dung được đề cao như: Yung Krall, truly a great American…a genuine American hero. Giáo sư Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley viết: “Yung Krall’s A Thousand Tears Falling is one of the best of this genre”.

Ngày 19-4-1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban Georgia Author of the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung là một trong 45 tác giả đặc sắc nhất của năm. Đại hội toàn quốc Society Daughter of The American Revolution Hoa Kỳ, đã tặng huy chương Danh Dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước Hoa Kỳ. Giới lập pháp và hội đoàn Cựu Chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall đến trình bày về các vấn đề Việt Nam.

9*. Kết luận

Làm gián điệp xâm nhập vào lòng địch là một vai trò rất nguy hiểm, nhất là gián điệp hai mang.

Người phụ nữ Việt Nam, bà Đặng Mỹ Dung (Yung Krall) đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, rất tài tình. Đã phá vỡ hai ổ gián điệp Việt Cộng, một ở Pháp và một ở Hoa Kỳ.

Nhiệm vụ nầy không có một người Mỹ nào thi hành được cả, vì phải xâm nhập vào các cộng đồng người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ.

Cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ,  Griffin Boyette Bell, đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với đất nước chúng ta”.

Trúc Giang MN

Minnesota ngày 7-3-2022

 Ký ức 30-4 ‘Tháng Ba Nhớ Lại’

* Nguyễn Diệu Anh Trinh – 9 tháng 3, 2022

Dân Đà Nẵng, Huế và nhiều thành phố khác ở miền Trung trong cảnh tháo chạy; ảnh chụp ngày 4 Tháng Tư 1975, Getty Images

Năm 1975, tôi đang học dở dang niên học lớp 10, chưa kịp đến Hè. Mới giữa Tháng Ba, lễ Hai Bà Trưng và ngày truyền thống của trường với cái tên mới: Nữ Trung Học Hồng Đức Đà Nẵng, được tổ chức ba ngày. Có hội chợ, cắm trại, có đêm văn nghệ lửa trại thật nhiều kỷ niệm. Niềm vui chưa tròn, sân trường chưa kịp dọn dẹp dấu vết mấy ngày hội hè đã tràn ngập những đoàn người từ Quảng Trị và Huế lê thê lếch thếch bồng bế nhau chạy tránh bom đạn. Trường đóng cửa để dành phòng học làm nơi tạm cư cho đồng bào.
Tôi nghe ba má bàn tán tìm cách di tản vào Sài Gòn vì quân đội mình từ Kontum, Ban Mê Thuột đang như rắn mất đầu chạy về Nha Trang. Tình hình an ninh đất nước thật hỗn loạn. Tôi vội vàng xuống trường để rút hồ sơ, chẳng còn một bóng dáng thầy cô nào ở đây. Phòng học vụ đã bị dân chúng phá cửa vào, giấy tờ rách nát ngổn ngang, không cách gì tìm kiếm được. Ngoài sân trường, những tờ bích báo mới đem dự thi hôm Lễ Truyền Thống nay đã bị đem ra làm vách ngăn cho những hố vệ sinh. Hình ảnh ngôi trường và những dãy phòng học thân yêu, khoảng sân rợp lá bạc hà thấp thoáng những tà áo dài trắng đã không còn nữa, trái tim tôi như tan nát.
Ngày 26, tin tức trên đài phát thanh loan báo quân đội Bắc Việt đã chiếm thành phố Huế. Ba tôi thất vọng, bỏ ý định di tản vì theo ông, đã mất Ban Mê Thuột và thành phố Huế thì đi đâu cũng vậy thôi. Cả nhà lo âu, mọi người nhìn nhau cùng hoang mang cho một viễn ảnh không mấy khả quan.

Tôi đạp xe vào nhà nhỏ bạn cùng lớp là Kim Liên. Tôi gọi Liên ơi, Liên hỡi, không có ai trả lời. Gia đình nó đã dọn đi mất tiêu, nhà trống hoang. Dòm vào cửa sổ phòng khách nhà bạn đang còn mở, tấm hình của ba má Liên được lồng kiếng thường treo trên tường không còn nữa. Tôi thẫn thờ nhìn lên cây mận trước sân nhà, ngay trước cửa phòng của nó, những chùm trái non mơn mởn vẫn đong đưa trên cành. Nước mắt tôi ứa ra.

Dân Đà Nẵng chạy trốn cộng sản; ngày 28 Tháng Ba 1975 (ảnh: Jack Cahill/Toronto Star via Getty Images)
Tôi đi ra đường, từ Trần Cao Vân xuống ngã tư Quân Cụ, rẽ phải qua đường Khải Định. Phố phường đông đúc nhưng điêu tàn, xơ xác, như không còn sức sống. Dân chúng từ các nơi đang chạy về lũ lượt, những ánh mắt hớt hải, những khuôn mặt mang nét hoảng loạn, dọc lề đường hàng đống những bộ quân phục, những cái bi đông của lính, nón sắt… vương vãi. Vài đám tranh giành hôi của, đang đánh nhau ở ngã tư chợ Cồn. Kho gạo đường Duy Tân bị dân chúng phá cửa vào, người ta chen nhau giành giật, không kể già trẻ lớn bé. Có người vừa vác bao gạo ra tới cửa đã bị kẻ mạnh hơn cướp chạy.
Xuống đến bờ sông Hàn thì tình hình càng thê thảm. Người ngồi, kẻ nằm dọc theo bờ sông, quang cảnh hỗn loạn. Người ta chen nhau tìm đường xuống ghe để ra biển vì nghe đâu đường bộ đã bị phong tỏa ở Quy Nhơn. Ai cũng hy vọng xuống tàu ra biển vào được Sài Gòn thì mới yên. Sài Gòn… Ôi! Sài Gòn, niềm hy vọng của người dân cả nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Tôi thất thểu trở về, dọc đường lại chứng kiến bao cảnh người di tản nằm la liệt, những cụ già lụm cụm, những em bé ngơ ngác. Người ta đùm túm nhau không biết sẽ đi về đâu. Có nhiều gia đình tài sản mang theo vỏn vẹn cái tượng Đức Mẹ, hoặc Phật Bà Quan Âm. Người ta ôm khư khư như đang bảo vệ mạng sống của mình, dường như tín ngưỡng là nơi bám víu cuối cùng của con người lúc tuyệt vọng. Tôi như kẻ không hồn, ngơ ngác giữa cơn hấp hối của thị xã.
Trong những giờ phút cuối cùng này, ba má tôi lúc nào cũng khư khư cái radio, lắng nghe tin tức từ đài BBC, VOA với chút hy vọng mong manh vào những đổi thay ở giờ cuối. Giấy tờ quan trọng được ba tôi sắp đặt lại một nơi an toàn, má tôi thì thắp nhang khấn vái tứ phía.

Buổi tối, thỉnh thoảng có tiếng đạn pháo kích từ xa vọng lại, tuyệt đối không thấy ánh hỏa châu. Thị xã Đà Nẵng dường như bị bỏ ngỏ. Đêm đêm, đài BBC đưa tin có rất nhiều người xuống tàu vào Nam tìm đường sống. Nhiều người đã bỏ mình giữa biển vì tàu đắm, nhiều người di tản bằng đường bộ thì bị trúng mìn, bị pháo kích, chết nhiều lắm.
Trưa ngày 29, xôn xao tin đồn cộng sản Bắc Việt đã vào đến Nam Ô. Khoảng hai giờ chiều, tôi ra trước sân nhà nhìn ra đường, lần đầu tiên tôi tận mắt nhìn thấy những người lính của phía bên kia. Trên những chiếc xe mang biển số rất lạ là những khuôn mặt còn non choẹt. Nón cối, dép cao su đen, quân phục thì rộng thùng thình, nước da người nào người nấy tai tái, hình ảnh của họ gieo vào tâm trí tôi nỗi chán chường, thất vọng.
Tôi lặng người nhìn những đoàn xe đi qua, và… không biết chuẩn bị từ bao giờ, cũng có nhiều người đứng hai bên lề đường, những cánh tay đeo băng đỏ đưa lên vẫy vẫy, hò reo. Buổi chiều hôm đó, một ngày cuối Tháng Ba trời Đà Nẵng bỗng dưng đổ mưa. Trong cơn giãy chết của thị xã, cơn mưa không lớn, những hạt mưa chưa đủ làm ướt mặt đất chỉ bốc lên cái mùi hơi đất nồng nồng. Tôi nghe cay ở mắt và lòng tôi cũng như đang giãy chết.

Ngoại ô Sài Gòn; ngày 28 Tháng Ba 1975 (ảnh: Jack Cahill/Toronto Star via Getty Images)
Một tháng sau, nghe tin Sài Gòn, vùng đất cuối cùng cũng mất. Lính tráng, dân chúng tìm mọi cách thoát thân, một số tướng lãnh đã tìm đến cái chết để bảo toàn khí tiết. Thế là bao nhiêu hy vọng, mong đợi cuối cùng cũng đã tan vỡ. Và… bao nhiêu mộng ước thời thanh xuân của lứa chúng tôi cũng đã tàn theo vận nước.
Mùa Hè đến sớm với những buổi lao động dọn vệ sinh trường lớp rồi cũng qua mau. Ngôi trường Nữ Trung Học thân yêu trở thành nơi ở của cán bộ trước khi trường được đổi thành trường Cao Đẳng Sư Phạm. Thời gian sau, nhiều lần đi ngang trường xưa, nhìn những hành lang trên tầng lầu phơi đầy áo quần tôi không khỏi ngậm ngùi, ngơ ngác, tất cả như chỉ là một giấc mơ.
Một giấc mơ không đẹp, không ươm đầy mộng mị, không óng ả hạnh phúc nhưng lại là một giấc mơ khó quên. Tôi không thể nào quên. Hai năm cuối cùng bậc trung học, tôi được xếp vào học ở trường trung học Phan Châu Trinh, ngôi trường lớn nhất thành phố từ trước đến nay. Hai năm vật lộn với sắn khoai, bo bo và “chủ nghĩa xã hội”, tôi ra trường và bắt đầu vào đời với nhiều đắng cay của một người có lý lịch phải đứng bên lề của hàng ngũ trí thức. Kể từ ngày trường học đóng cửa và nhà tù mọc lên như nấm khắp nơi từ Nam ra Bắc.
Tôi sống lây lất, dật dờ như thế đến mười chín năm. Mười chín năm quá đủ để tôi thấm hiểu thế nào là cuộc sống của kẻ lâm vào cảnh nước mất, nhà tan. Cứ mỗi năm khi Tháng Ba về, đọc báo, nghe tin tức nói về những tiến bộ mới mẻ ở quê nhà, những đổi thay của Đà Nẵng, tôi không khỏi mường tượng đến hình ảnh một chiều Tháng Ba năm xưa, khi một con bé mới mười bảy tuổi, là tôi, đứng ngơ ngác nhìn cảnh hấp hối của Đà Nẵng, nước mắt nhòe khuôn mặt. Cảm giác đớn đau đó cứ mãi ám ảnh tôi. Tôi cứ luôn nghĩ về những oan khiên của đồng bào đã bỏ mạng oan ức vì bom đạn vốn vô tình. Nghĩ đến những nghiệt ngã của dòng đời kể từ dạo đó khiến biết bao gia đình rơi vào cảnh dở khóc dở cười. Con lạc cha, vợ mất chồng, kẻ vùi thân nơi biển cả, người lưu lạc xứ xa, kẻ trở về tàn phế bịnh hoạn.
Tháng Ba của tang tóc và chia lìa, vậy mà Tháng Ba năm nào ở Đà Nẵng, người quê tôi cũng hân hoan chào đón, đốt pháo, treo cờ. Có phải người ta đã thật sự quên, hay tôi đã già cỗi khi nhắc nhớ hoài đến chuyện biển dâu?

Virus-free.  www.avg.com

VIẾT CHO TUỔI 70 – 90

Bằng Phong Đặng văn Âu

Nguyễn Tường Tuấn, người sĩ quan trinh sát thân mến,

Trong tâm tình huynh đệ của một thằng lính già đối với một thằng lính trẻ hơn, hôm nay thằng lính Không Quân Bằng Phong Đặng văn Âu viết cho thằng lính trẻ Trinh Sát Nguyễn Tường Tuấn đôi điều suy nghĩ về thời cuộc. Dù anh em ta đã già, nhưng khi nghe hai chữ “thằng lính” thì có cảm tưởng sung sướng như đang trở lại chiến trường ngày nào. Em có đồng ý với anh không hả Tuấn?

Chúng ta, con dân một nước nhược tiểu, bị nghiệp chướng, nên phải lãnh lấy cái họa Karl Marx – một người Do Thái – chả đẻ chủ nghĩa Cộng Sản. Cái chủ nghĩa cộng sản hết sức ghê gớm, vì nó gieo rắc tai họa chưa từng có trong lịch sử nước nhà mà tới giờ này vẫn chưa thoát ra được. Nước Tàu đặt nền đô hộ lên Đất Nước ta nhiều phen, nhưng đều bị Tổ Tiên ta đánh bật ra ngoài. Ngày nay thiên hạ ca ngợi ông Tổng thống trẻ của nước Ukraine. Nhưng nhiều người Việt quên rằng Quân sư Trần Thủ Độ cũng đã khẳng khái tâu vua: “Đầu thần chưa rơi, xin Bệ hạ đừng lo”. Dân tộc ta không thiếu anh hùng. Nhưng kể từ ngày Mao Trạch Đông dùng một người Tàu mang tên Việt du nhập vào cái chủ nghĩa cộng sản có quyết sách cắt gân tất cả anh hùng, nên bây giờ Đất Nước mới ra nông nỗi này: “Không còn ai tin ai. Không còn ai đồng ý với ai.  Người yêu nước bị chà đạp, bị thóa mạ. Đứa tiểu nhân, phản quốc được vinh danh!”

Năm 2011, Tiến sĩ Peter Navarro xuất bản cuốn sách “Death By China” để cảnh báo nhân dân Mỹ. Như anh đã nói trước đây, Mỹ chết bởi Trung Cộng là hậu quả. Nguyên nhân cái chết của Mỹ là từ chiến tranh Việt Nam. Tuấn có thấy hồn ma nước ta linh thiêng dễ sợ không? Tổng thống John Kennedy ra lệnh giết chết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ba tuần sau. Kennedy bị ám sát. Rồi Robert Kennedy cũng bị ám sát. Và Nghị sĩ Ted Kennedy bị tai tiếng trong vụ Chappaquiddick, vì để cho cô tình nhân chết ngộp trong xe, thản nhiên vào nhà đi ngủ.

Giữa Tổng thống Diệm và Tổng thống Kennedy có vài đặc điểm giống nhau. Tổng thống Diệm là người Công giáo đầu tiên lãnh đạo Việt Nam. Tổng thống Kennedy cũng là người Công Giáo đầu tiên lãnh đạo nước Mỹ. Tổng thống Diệm lưu lại cho hậu thế một câu nói bất hủ: “Ta tiến, anh em tiến theo ta. Ta lùi, anh em giết ta. Ta chết, anh em nối chí ta”. Tổng thống Kennedy cũng để lại hậu thế một câu nói bất hủ: “Ask not what country can do for you, but what you can do for your country”. Qua hai câu nói bất hủ ấy, chứng tỏ cả hai vị Tổng thống đều có lòng yêu nước rạt rào.

Khi còn ở Việt Nam, chúng ta đã nghe nước Mỹ có “Shadow Government” (Chính phủ trong bóng tối), tức là có những ông chủ đầy quyền lực không ra mặt điều khiển Quốc gia, nhưng âm thầm ra lệnh cho người thừa hành. Thực tế cho ta thấy Joe Biden chỉ là con rối đang thi hành mệnh lệnh của những “Big Tech” và “Big Media” để thể hiện nền Tư Bản Đỏ, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp đạo đức và luật pháp. Gọi Việt Cộng là Tư Bản Đỏ là sai, vì chúng chỉ biết ăn cướp, bán đất đai, tài nguyên của Tổ Quốc, nhưng không có khả năng và trí tuệ để làm ra của cải.

Tài liệu lịch sử cho biết John Kennedy không chủ tâm giết anh em ông Diệm. Bởi vì nghe tin ông Diệm đã bị hạ sát, Tổng thống John Kennedy hết sức sửng sốt, bàng hoàng, khi đang tắm ở hồ bơi. Vậy ai đã ra lệnh giết Tổng thống Ngô Đình Diệm? Nên nhớ, lúc bấy giờ Henry Cabot Lodge – đảng viên Cộng Hòa – giữ chức Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là người nắm quyền quyết định tối hậu . Tổng thống Kennedy ra lệnh cho người em, Robert Kennedy – đương kim Attorney General – ráo riết điều tra nội vụ. Có phải vì cái lệnh tìm ra sự thật của Tổng thống Kennedy mà anh em nhà Kennedy đều bị ám sát, cho đến nay vẫn chưa tìm ra thủ phạm thực sự? Vậy ai là người trong bí mật đã ra tay giết hai anh em Kennedy? Qua sự kiện này, anh ngờ rằng “Deep State” đã khởi sự nhúng tay vào tội ác. Bởi vì không lý do gì Mỹ thua trận chiến tranh Việt Nam!

Tuấn nên nhớ rằng bọn hành động trong bí mật thường giấu kín tung tích, khó ai tìm ra chứng cứ để pháp luật trừng trị. Khi có ai dùng lý luận suy diễn, liền bị cho là thuyết âm mưu (conspiracy theory). Trong đám tang của Tổng thống Bush Cha, có cái “video clip” chiếu đi chiếu lại cảnh Busk Con, Bill Clinton, Barack Hussein Obama sau khi đọc dòng chữ trên mảnh giấy xong, người nào người nấy sắc mặt tỏ ra kinh hãi. Nội dung mảnh giấy đó như thế này: “Họ đã biết chuyện hết cả rồi!” Chuyện gì mà có thể làm cho ba vị cựu Tổng thống đều xanh mặt? Có lời đồn rằng Tổng thống Bush Cha là người đã âm mưu giết anh em nhà Kennedy! Tuấn nhớ không?

Ông Joseph Patrick Kennedy – thân phụ Tổng thống Kennedy – trả lời báo chí rằng có ba điều kiện tiên quyết để thắng cử Tổng thống Mỹ là: tiền, tiền và tiền. Tất cả các đời Tổng thống Mỹ đắc cử được là nhờ tiền đóng góp của tài phiệt. Tổng thống Kennedy vốn nhờ sự giàu có của gia đình, không cần sự tài trợ, nên không phải tuân lệnh tài phiệt. Do đó, Kennedy đã bị thế lực ngầm xử. Ông Donald Trump cũng thế, là tỷ phú ra tranh cử Tổng thống mà không cần sự tài trợ của thế lực ngầm. Cho nên, Tổng thống Trump là người duy nhất dám “chửi” Đế chế truyền thông là bọn “fake news và corrupt”. Để phản pháo, bọn Truyền thông Thổ tả bôi nhọ Trump tơi bời. Có ba vụ âm mưu ám sát Donald Trump, nhưng ông vẫn bình an vô sự. Nhiều người bảo ông được Chúa che chở?

Nhắc thêm một sự kiện để Tuấn lưu ý. Thượng Nghị sĩ Cộng Hòa Jeff Sessions, Chủ tịch Ủy ban Tư Pháp Định Chế Thượng Viện, là người đầu tiên trong đảng Cộng Hòa ủng hộ ứng cử viên Donald Trump hết mình. Ông xuất hiện trong hầu hết những lần ông Trump đi vận động tranh cử, với chiếc nón Jockey Đỏ “MAGA” đội trên đầu. Khi Donald Trump đắc cử Tổng thống, ông Jeff Sessions đòi hỏi cho bằng được chức “Attorney General”. Khi Thượng Viện ra lệnh điều tra Tổng thống Trump, Bộ trưởng Tư Pháp Jeff Sessions đứng ra ngoài và giao trách nhiệm cho Thứ trưởng Rod Rosenstein, một Luật sư Do Thái nổi tiếng thông minh.

Sau cuộc bầu cử năm 2020, Joe Biden, một ông già lú lẩn mà thắng với số phiếu áp đảo, càng cho chúng ta thấy rõ sức mạnh của  “Nhà Nước Ngầm”. Hơn cả Mafia! Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp và Truyền thông đều nằm trong tay của họ. Thậm chí Đức Giáo hoàng Francis thuộc phái “Thần học Giải phóng” ở Nam Mỹ cũng được họ đưa lên thay thế Đức Giáo hoàng Benedict – người cương quyết giữ Giáo luật – đương nhiệm, còn khỏe mạnh mà phải về hưu, thì Tuấn đủ hiểu thế lực của Nhà Nước Ngầm mạnh đến dường nào. Giáo hoàng Francis công kích Tổng thống Donald Trump việc xây tường, yêu cầu mở cửa biên giới và nhìn nhận Giáo hội Công giáo Quốc doanh của Trung Cộng là chính thống. Thậm chí Hồng Y Joseph Zen ở Hongkong phải sang tận Vatican để đích thân trao thơ cho Giáo hoàng, xin Ngài đừng quên Giáo hội Thầm Lặng đang bị Trung Cộng bách hại. Nhưng Ngài Francis vẫn tiến hành, thì ta đủ hiểu Giáo hoàng Francis đứng về phía nào trong cuộc chiến tranh giữa ánh sáng và bóng tối này.

Tổng thống Putin của Nga, vốn là cấp chỉ huy KGB, ở chính quyền trong 20 năm, chắc chắn ông ta đã rải một mạng lưới tình báo gián điệp khắp toàn cầu. Do đó, Putin là người nắm vững âm mưu của “Deep State” toàn cầu hơn ai cả. Bây giờ ta hãy đặt câu hỏi tại sao đảng Dân Chủ vu cho Tổng thống Donald Trump thông đồng với Tổng thống Putin, mà không thông đồng với Tập Cận Bình, mặc dù Công ty Trump có làm ăn với Trung Cộng? Tại vì Putin và Tổng thống Trump đều là người chống lại  “Globalization” do ông Bush Cha – từng làm Đại sứ ở Bắc Kinh – chủ trương. Hai vị lãnh tụ này là “kỳ đà cản mũi” mưu đồ của “giới tinh hoa” (Élite). Toàn Cầu Hóa là một thuật ngữ mới thay cho chiêu bài “Thế giới Đại đồng” của cộng sản. Tập Cận Bình là con cháu của Tào Tháo, gian hùng túc trí đa mưu. Tập hiến kế cho “Deep State” phải phân hóa hai vị lãnh đạo của Mỹ và Nga chống chủ trương “Toàn Cầu Hóa”, Trung Cộng mới vượt lên địa vị cường quốc số #1 được. Tuấn có thể hỏi tại sao “Deep State” cần phải đánh sụp nước Mỹ? Tại vì Hiến Pháp Mỹ là nền tảng bảo vệ nền Dân Chủ của Mỹ. Khi Hiến Pháp không còn được tôn trọng, đảng Dân Chủ sẽ trở thành độc đảng như cộng sản, có quyền ngồi trên Pháp Luật mà không ai làm gì được. Cuộc bầu cử năm 2020, ai nấy đều thấy đảng Dân Chủ đã khinh thường Hiến Pháp một cách trắng trợn, mà các Tướng lãnh đều câm như hến, đủ cho ta biết Deep State đã khống chế Quân Đội, biến các Tướng lãnh thành những con cừu ngoan ngoãn.

Nước Nga từng bị quân Mông Cổ đô hộ gần 300 năm. Khi Nga và Trung Cộng còn thờ chủ nghĩa Marx, hai bên đã  có cuộc xung đột vào năm 1969, từng dàn quân ra thanh toán lẫn nhau. Hoàng Đế Napoleon Bonaparte đã cảnh báo “Họa Da Vàng” (Yellow Peril). Đại tướng Trì Hạo Điền – Nguyên Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Cộng – từ năm 2011 công khai đưa ra chiến lược sử dụng bom sinh học để xâm chiếm nước Mỹ. Từng ấy sự kiện, làm sao Putin có thể ngồi yên để cho “Nhà Nước Ngầm” tự do tung hoành? Nếu nước Mỹ sụp, còn nước nào đủ sức mạnh để ngăn tham vọng bành trướng của giống Da Vàng Trung Cộng? Chính Nhật Bản cũng là Da Vàng, nhưng ngày nay phải sợ Trung Cộng, vì nhờ Mỹ giúp cho giàu lên và tuồn “high tech” để vượt địa vị bá chủ hoàn cầu.

Tổng thống Donald Trump nói nếu ông làm Tổng thống, thì Putin không bao giờ đưa quân sang Ukraine. Ông Trump nói sự thật, chứ không phải nổ bậy. Tại sao? Tại vì nếu ông Trump lên làm Tổng thống nhiệm kỳ hai, thì ông Trump sẽ tát cạn đầm lầy, thanh toán sạch bách “Deep State”. Putin đâu cần hành động để bị cả thế giới lên án là kẻ sát nhân? Tổng thống Putin bị lâm vào hoàn cảnh “Damned if he does. Damned if he does’nt”, dù biết việc làm của mình là phi chính thống (illegitimacy), nhưng không thể có lựa chọn nào khác! Putin không ngu gì để mang tiếng xâm lược. Anh không bênh vực Putin. Anh nhận thấy Putin phải hành động vì sự sống còn bản thân.

Nguyễn Tường Tuấn thân mến,

Tuấn từng dẫn Đại đội Trinh Sát vào đất địch gặp phải hoàn cảnh sinh tử, đánh cũng chết mà không đánh cũng chết. Vậy đành phải đánh thì may ra có đường sống, phải không? Tình cảnh của Putin cũng giống như thế mà thôi. Lời tuyên bố cứng rắn của Putin rằng ông đã ra lệnh đơn vị nguyên tử sẵn sàng là lời nói thật, chứ không phải dọa già đâu. Nếu con gấu Bắc Cực bị dồn đến bước đường cùng, nó phải đánh bài liều. Nếu phía “Deep State” hiểu được tâm lý của Putin là như thế, thì phải tìm một giải pháp chấp nhận Ukraine làm vùng trung lập, hứa “Deep State” không ảnh hưởng, thì có lẽ Putin sẽ lui binh. Nhược bằng thế giới không thấy hiểm họa của “Deep State”, vẫn dồn Putin vào đường cùng, Putin sẽ không chịu chết một mình. Do đó, Thế Chiến III có hay không xảy ra là tùy ở hai bên. Anh tin rằng Tập Cận Bình đang vỗ đùi sung sướng trong tư thế ngư ông đắc lợi: Bọn Da Trắng không thấy mối “Họa Da Vàng”, chúng mày cứ việc húc nhau!

Tuấn ạ! Cuộc chiến hiện nay là cuộc Thánh Chiến đấy! Chẳng phải đùa đâu! Lãnh đạo Vatican – Giáo hoàng Francis – tới từ Nam Mỹ, nơi mà phong trào “thần học giải phóng” đang tiến hành. Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ Viện Nancy Pelosi đều là Công Giáo dòng, nhưng chối Chúa, đang dùng đấu pháp kiểu cộng sản để đánh bại giá trị truyền thống của Mỹ. Dân tộc Do Thái có các Thánh Tông đồ là Do Thái, nhưng cũng có dân Do Thái chống Chúa mà mà Tông đồ Judas là đại diện. Ukraine là quốc gia bị hai thế lực dùng làm bãi chiến trường giống như nước Việt Nam chúng ta mà thôi. Anh không biết đây là thời điểm Phán Xét chưa, nhưng trong Kinh Thánh có nói đến Ngày Tận Thế sẽ xảy ra. Chẳng việc gì phải sợ, phải bi quan. Cứ sống ngay lành, bảo vệ Sự Thật là được rồi!

Anh cầu mong Ma Quỷ sẽ bị đánh bại, để có một thế giới lương thiện. Người yêu Người.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

TÔI ĐÃ THẤY NHỮNG GÌ ?

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu: Kính thưa độc giả,

Một độc giả từ trong nước, sinh năm 1932, đi “Bộ Đội Cụ Hồ” kháng chiến chống Pháp từ năm 15 tuổi, từng tham gia trận đánh Điện Biên Phủ. Sau năm 1954 xin giải ngũ, ông về đi học lại và chỉ phục vụ như một công chức bình thường. Nhờ hệ thống thông tin toàn cầu, ông đọc được những bài tham luận chính trị của tôi giúp ông có một số hiểu biết về Việt Nam Cộng Hòa. Ông hoàn toàn đồng ý với lập luận của tôi rằng Hồ Chí Minh là tên tội đồ dân tộc, một tên tay sai đắc lực của Mao Trạch Đông có ý đồ biến Việt Nam thành một Châu quận của Tàu và tiêu diệt nòi giống Việt Nam.

Mặc dù bản thân chưa làm được điều gì to tát trong công cuộc chiến đấu chống lại bọn ma quỷ cộng sản, nhưng ít nhất tôi đã làm được một việc, là thay đổi tư duy của hơn một người bị giam hãm trong một nhà tù lớn  xã hội chủ nghĩa  thường tuyên truyền dối trá để nhồi nhét vào đầu óc nhân dân lòng căm thù và miệt thị tôn giáo. Ông tỏ ra tiếc nuối vì Hoa Kỳ đã giết chết một lãnh tụ anh minh và không giúp Miền Nam đem quân ra giải phóng Miền Bắc. Vì đã về hưu, suốt ngày theo dõi tình hình thế giới, ông yêu cầu tôi viết một bài nhận định về cuộc xâm lăng của Nga vào nước Ukraine. Ông ao ước lãnh đạo Việt Nam Cộng Sản có một nhà yêu nước, dũng cảm giống như ông Volodymyr Lezensky, một nghệ sĩ hài, trở thành một người hùng trong cơn quốc biến gia vong.

Thưa anh Trần quý mến,

Cám ơn lời khen ngợi của anh là nhờ đọc những bài viết của tôi mà biết rõ tâm chất yêu nước của một người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và đồng ý với tôi về những sự kiện vạch trần tội ác của cộng sản do Hồ Chí Minh áp đặt lên dân tộc Việt Nam. Người tù kiệt xuất Thép Đen Đặng Chí Bình cũng nhận xét như thế, nên kết nghĩa Anh Em với tôi. Do sự tin tưởng, anh đã yêu cầu tôi thử phân tích tình hình xâm lăng của Putin vào nước Ukraine sẽ kéo nhân loại đi về đâu.

Tôi nghĩ rằng phải là một nhà thông thái quán triệt vấn đề lịch sử, văn hóa, siêu hình thì may ra mới có thể giải đáp chính xác câu hỏi của anh được. Tôi dùng chữ “may ra” là vì thời đại mà chúng ta đang sống là thời của giả trá, chẳng biết thông tin nào của hai phe là đúng sự thật. Đây là cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa văn minh và man rợ thì khó lòng biết được chuyện gì xảy ra trong bóng tối. Nói theo kiểu nói của bà Nguyễn Phương Hằng là: “Chỉ có người trong cuộc mới biết chuyện trong kẹt”. Bởi vậy, xin anh hãy xem bài viết này chỉ là suy nghĩ cá nhân đã trầm tư mặc tưởng trong nhiều năm tháng. Anh có thể đồng ý hay nghe qua rồi bỏ cũng được, chẳng sao. Tôi thích nghe bài hát “Do you see what I see”, thì dưới đây là những gì tôi thấy. Tất nhiên là chủ quan, nhưng không phải là bất hợp lý:

Hơn hai ngàn năm trước, theo Kinh Thánh, Thượng đế gửi xuống vùng đất Israel người con duy nhất của Ngài là Đức Jesus để cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Theo tôi, Đức Jesus là một nhà cách mạng xã hội chống bọn giả hình và bọn thu thuế. Ngài rao giảng tình yêu thương và lòng bác ái, thứ tha. Dựa trên nền tảng triết lý đó, các Quốc gia Tây phương khai sinh nền Dân Chủ theo tiêu chí: Liberté – Égalité – Fraternité” (Tự do – Bình đẳng – Huynh đệ). Nhưng dân Do Thái không nhìn nhận Đức Jesus là Đấng Cứu Thế. Họ đã đồng thanh kết án Ngài, mặc dù Quan Tổng trấn Philatô, người La Mã, không thấy Ngài phạm tội gì. Đó là kiểu Tòa Án Nhân Dân dưới thời cộng sản. Vì tội đòi đóng đinh Chúa Jesus lên cây Thánh Giá, dân Do Thái bị đày đi khắp mặt địa cầu.

Dân tộc Do Thái thông minh bậc nhất thiên hạ. Có nhiều nhân vật lừng danh đóng góp vào nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, có một nhân vật Do Thái – Karl Marx – là Giáo chủ của Tà Đạo Cộng sản với giáo điều sử dụng căm thù làm động lực đấu tranh bằng bạo lực. Đạo Cộng sản triệt để chống lại tín lý Thiên Chúa và xem tôn giáo là thuốc phiện cần phải bị tiêu diệt.  Có phải tại vì người Do Thái quá thông minh, khiến cho sắc dân khác sinh lòng đố kỵ, thù ghét? Chẳng hạn, họ đã bị Hitler  có nguồn gốc Do Thái  đã thiêu sống gần 6 triệu người Do Thái!

Số phận nước Việt Nam ta cũng do người Do Thái quyết định. Đó là chủ nghĩa cộng sản do Hồ Chí Minh du nhập vào. Năm 1954, Thủ tướng nước Pháp – Mendès France – là người Do Thái ký Hiệp ước Geneve chia đôi nước ta. Năm 1975 cũng một người Do Thái – Henry Kissinger – bỏ rơi nước ta cho cộng sản. Với một Quân lực 500 ngàn binh sĩ thiện chiến và khí giới bậc nhất hoàn cầu mà Hoa Kỳ thua một kẻ thù chậm tiến, lạc hậu một cách phi lý, thì làm sao ai hiểu nổi?

Thua trận tại Việt Nam, nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ trầm trọng, chẳng khác tình hình chính trị của Việt Nam. Hồ Chí Minh là một nhân vật bí ẩn, vô danh tiểu tốt so với những nhà ái quốc như Cụ Phan Bội Châu, Cụ Phan Chu Trinh, chẳng ai biết đích xác ông ta là người Tàu hay người Việt Nam do Mao Trạch Đông dựng lên. Barack Hussein Obama, cũng vô danh tiểu tốt so với John McCain, chẳng ai biết ông ta sinh ra ở Mỹ hay ở Kenya, do một tỷ phú – George Soros – một người Do Thái có xu hướng cộng sản dựng lên. Barack Hussein Obama chuẩn bị cho người kế vị mình – Hillary Clinton – hết sức chu đáo để tiếp tục nghị trình (agenda) với chủ đích làm suy yếu nước Mỹ. Nhưng kinh ngạc thay! Giống như một phép lạ! Một doanh gia tỷ phú, chưa hề giữ một chức vụ gì trong chính quyền, bị coi là non nớt chính trị  Donald J. Trump  đắc cử Tổng thống một cách vẻ vang!

Chương trình hành động của Tổng thống Donald Trump là làm cho nước Mỹ giàu mạnh trở lại (MAGA) và Tát Cạn Đầm Lầy (Drain The Swamp). Chủ nhân ông của các cơ quan Truyền thông lớn và các Định chế  Tài Chánh đều nằm trong tay Do Thái. Thượng Viện có Chuck Schumer và Blumenthal; Hạ Viện có Adam Schiff và Jerrold Nadler cũng đều có gốc Do Thái, đã đánh phá Tổng thống Donald Trump liên tục, dù cựu Giám đốc FBI là Robert Mueller làm Công tố viên đặc biệt điều tra trong hai năm và tiêu tốn 37 triệu Mỹ kim, nhưng không tìm ra chứng cứ Tổng thống Donald Trump thông đồng với Nga. Đảng Dân Chủ đã học theo đấu pháp của cộng sản để triệt hạ đối thủ là: vu khống, vu khống, vu khống. Giống như Việt Cộng dùng Phật giáo vu cho Tổng thống Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo thì Dân chủ Mỹ dựng lên Phong trào “Black Lives Matter” để vu cho Tổng thống Donald Trump kỳ thị chủng tộc. Tổ chức Antifa là một tổ chức khủng bố giống Việt Cộng chuyên môn đặt bom tại nhà hàng, khách sạn. Nói tóm lại, đảng Dân Chủ đã dùng phương châm “cứu cánh biện minh phương tiện” y hệt như cộng sản.

Ông George H. Bush (Bush Cha), từng làm Giám đốc CIA và Đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, nhờ thừa hưởng thành quả của Tổng thống Ronald Reagan, đắc cử Tổng thống. Sau khi Liên bang Soviet sụp đổ, ông Bush Cha tuyên bố chiến lược “Toàn Cầu Hóa” (Globalization), một hình thức Thế giới Đại đồng của Cộng sản để sắp xếp lại trật tự thế giới mới (New World Order). Trong tang lễ của Bush Cha, người ta thấy các ông bà Barack Hussein Obama, ông bà Bill Clinton, ông bà George W. Bush chuyền tay nhau đọc một mảnh giấy, làm cho sắc mặt của họ thay đổi với vẻ kinh sợ. Nghe nói mảnh giấy đó là của Bush Cha có lời ghi “Chúng nó biết tất cả rồi”. Phải chăng ông Bush Cha cho các cựu Tổng thống biết có một âm mưu khuất tất gì đó của Nhà Nước Ngầm đã bị bại lộ?

Năm 2020, Tổng thống Donald Trump được đa số quần chúng Mỹ ủng hộ vì những thành quả đạt được cao hơn tất cả các đời Tổng thống tiền nhiệm. Ai nấy đều chắc mẩm Tổng thống Trump đối đầu với một đối thủ ngủ gật, nói trước quên sau Joe Biden, thì thế nào ông cũng sẽ được tái đắc cử. Không ngờ Joe Biden thắng vào giờ chót. Mười tám (18) Tiểu bang đâm đơn kiện lên Tối Cao Pháp Viện đều bị bác bỏ, không thèm cứu xét, mặc dầu có ba vị Quan Tòa do Tổng thống Trump bổ nhiệm. Nhà Nước Ngầm (The Deep State) đã làm cuộc đảo chánh (Coup d’état) giúp ông Joe Biden thắng cử. Cả thế giới đều trông thấy sức mạnh khủng khiếp của Nhà Nước Ngầm đã lật nhào vị lãnh tụ của một đất nước có nền dân chủ lâu đời nhất thế giới. Tất nhiên Tổng thống Putin của Nga cũng thấy nền dân chủ Mỹ đã bị phá sản, nên lo sợ địa vị Tổng thống của ông cũng sẽ bị lật đổ như Tổng thống Donald J. Trump.

Bây giờ tôi xin nêu lên câu hỏi: “Nhà Nước Ngầm do ai lãnh đạo?” Đó là những người thông minh nhất, giàu có nhất, chế ra vũ khí sát thương mạnh mẽ nhất và có một bộ máy truyền thông rập khuôn theo Bộ trưởng Tuyên truyền (Propaganda Minister) Joseph Goebbels của Hitler chuyên trị nói dối, nói dối, nói dối. Hiện nay, ai cũng thấy đứng đầu các cơ quan truyền thông, các định chế tài chánh đều là người Do Thái. Cha đẻ bom Nguyên tử  Albert Einstein – và nhiều nhà khoa học lừng danh lãnh giải Nobel phần lớn là người Do Thái.

Thưa anh Trần thân mến,

Tôi thấy thực tế ra sao, tôi viết vậy. Tôi không bài Do Thái. Tôi chỉ nêu ra sự kiện Chúa Jesus Christ là người Do Thái đem tình yêu thương, lòng bác ái, thứ tha để rao giảng cho nhân loại phải tuân theo “Mười Điều Răn” để có một thế giới hòa bình. Đồng thời, Karl Marx cũng là người Do Thái, lại lập ra cái Đạo Giả Hình hoàn toàn đối lập với tín lý của Chúa Jesus. Chủ nghĩa Cộng sản tuyên dương công bằng xã hội, không còn có cảnh người bóc lột người, tranh đấu cho dân nghèo, nhưng thực tế thì ngược lại như ta đang thấy trên Đất Nước Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, đảng Dân Chủ đang bắt chước phương thức đấu tranh kiểu Việt Cộng để cướp Chính quyền. Chỉ khác một điều là Việt Cộng đi lên từ bần cố nông, ngu dốt, vô học. Còn đảng Dân Chủ, ngược lại, cướp Chính quyền do bọn cực giàu, cực thông minh và cực dối trá để vĩnh viễn giữ quyền lực.

Tổng thống Putin xuất thân là một cán bộ Tình Báo của Cộng Sản, từng nắm quyền lãnh đạo nước Nga, nên ông biết sự nguy hiểm của Nhà Nước Ngầm. Tổng thống Donald Trump bị thất cử, thấy rõ tính cách nguy hiểm của Nhà Nước Ngầm, nhưng đành bó tay, vì sự ràng buộc của Hiến Pháp. Ông Trump chỉ có thể lập ra một kênh Truyền Thông cho riêng mình để đấu lại bọn Truyền Thông Thổ Tả của Nhà Nước Ngầm. Còn Putin là Tổng thống có toàn quyền, không bị ràng buộc bởi Hiến Pháp, thì dùng vũ lực để giải quyết vấn đề.

Rất có thể Tổng thống Putin có tin mật để biết rằng NATO là công cụ của Nhà Nước Ngầm. Khi thấy Tổng thống Ukraine – Volodymyr Lezenski – có gốc Do Thái mà cứ nằng nặc đòi NATO chấp thuận làm Hội viên, thì Putin lo sợ sẽ bị lật đổ như Tổng thống Donald Trump, nên phải vội ra tay “tiên hạ thủ vi cường” của môn Cờ Tướng?.

Như tôi nói ở đầu bài, không ai có thể đoán chính xác ý đồ của Tổng thống Putin xâm lăng Ukraine, bởi vì các tin tức đều bị nhiễu, hư thực khó phân biệt. Tôi chỉ thấy Joe Biden, Nancy Pelosi là Công Giáo dòng lại kịch liệt chống tín lý Công Giáo. Họ nhất quyết thi hành chính sách ủng hộ phá thai, đồng tính luyến ái và sự giả hình của xã hội chủ nghĩa, mở cửa biên giới để phá vỡ nền tảng đạo đức cũng như an ninh của nước Mỹ. Vì vậy, tôi mới cho rằng hiện nay Hoa Kỳ đang có cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa văn minh và man rợ, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa quỷ sư ma vương và lương tri.

Nếu năm 2022 này, đảng Dân Chủ vẫn giữ đa số đại biểu tại Lưỡng Viện Quốc Hội, thì những nhà làm luật của Mỹ sẽ hoàn thành công cuộc đánh sụm nước Mỹ. Và khi nước Mỹ sụp thì không còn Quốc Gia nào có thể ngăn nổi tham vọng bành trướng của Trung Cộng. Lúc đó, nước Việt Nam ta chính thức là một Châu Quận của Tàu và nòi giống của ta bị đồng hóa.

Chúa Jesus Christ là người Do Thái. Karl Marx, giáo chủ đạo Cộng sản cũng là người Do Thái. Tôi mong những người Do Thái như các tông đồ của Chúa Jesus đánh bại những người Do Thái chống Chúa thì nền văn minh nhân loại sẽ tồn tại. Đó là cái nhìn chủ quan của tôi về tinh hình thế giới hiện nay. Nếu anh Trần có cái nhìn khác hơn, xin vui lòng cho tôi biết.

Thân ái,

Bằng Phong Đặng văn Âu

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….

Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị
Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….
Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
– Ông bà từ đâu tới.– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.– Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.
Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…Ông ôn tồn giải thích:– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.

Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:
– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?– Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
– Đúng là chị tôi rồi.
Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

.
Taberd75 (FB Victor Đoàn)

Richard