Si Vis Pacem, Para Bellum!1 (1)Thành ngữ Latin, có nghĩa: Nếu muốn có hoà bình, phải chuẩn bị chiến tranh. Tương tự câu Cư An, Tư Nguy
Lịch sử Việt Nam là một lịch sử chiến đấu không ngừng nghỉ. Dân tộc Việt Nam hiền hòa nhưng ở vào một tình thế bất khả kháng, đã trở thành một dân tộc thiện chiến trong suốt quá trình lịch sử kể từ khi vua Hùng lập quốc cho đến nay. Có thế mới bảo lưu được nòi giống và nền văn hóa độc đáo của mình qua bốn ngàn năm thăng trầm.
Nhìn vào bản đồ khu vực Nam Á Châu, Việt Nam ta ở vào một vị trí đặc biệt thuận tiện vừa về mặt kinh tế, vừa về mặt chiến lược2.( 2- Cách nhìn này không còn mấy quan trọng trong thời đại kỹ thuật tân tiến hiện nay.) Theo quan điểm chiến lược cổ điển, Việt Nam là cửa ngõ của vùng Đông Nam Á, là ngả tư giao thương quốc tế. Trên mảnh đất hình chữ S, có một dân tộc cần cù, thông minh, và một nguồn tài nguyên thiên nhiên hiếm có. Việt Nam trở thành mục tiêu cho bao thế lực bành trướng đế quốc, thực dân từ muôn đời nay. Lịch sử có lúc thăng, lúc trầm; dân tộc có lúc thành, lúc bại. Nhưng để giữ gìn một nòi giống với nền văn hóa cổ truyền độc đáo của mình, tổ tiên chúng ta đã phải đổ bao nhiêu xương máu cho trang sử của chúng ta còn tiếp nối đến ngày nay. Hình ảnh người Lính Việt Nam luôn sáng ngời trên từng trang, từng hàng chữ của cuốn sử dày bốn ngàn năm, cũng như bàng bạc trong văn chương bình dân và văn chương bác học.
Đi ngược dòng thời gian, từ khi vua Hoàng Đế chiến thắng các bộ lạc miền Hoa Nam, thiết lập nên một nhà nước Trung Hoa đâu tiên ở địa bàn sông Dương Tử. Hai trong số hàng trăm bộ lạc Việt: Âu-Việt và Lạc-Việt đã phải di cư xuống phương nam, kết họp và lập thành nước Ãu-Lạc với triều đại Hồng Bàng kéo dài mười tám đời vua. Trong suốt gần hai ngàn năm huyền sử3 (3 Thời kỳ huyền sử là thời chưa có sử ghi chép bằng văn tự mà chỉ do truyền tụng lại.) này, dĩ nhiên tổ tiên ta phải cật lực chiến đấu để sống còn trước cơn lốc chiến tranh của các bộ lạc trong giai đoạn tan và họp để tạo nên những quốc gia đầu tiên trong lịch sử loài người với những định chế chính trị xã hội văn minh dần lên. Quân đội thời Hùng Vương đặt dưới quyền chỉ huy của vị Lạc Tướng (hay còn gọi là Hùng Tướng). Lịch sử không để lại cho chúng ta điều gì cụ thể hơn, vì thời này chúng ta chưa có sử ký. Mọi biến cố đều căn cứ trên sách sử Trung Hoa mà dĩ nhiên rất sơ sài và hiếm hoi. Hàng ngàn năm các triều đại Trung Hoa bận rộn với các cuộc nội chiến nên ít dòm ngó xuống phương nam xa lắc xa lơ. Mãi đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, lập nên một nhà nước trung ương tập quyền hùng mạnh, Việt Nam bắt đầu thấy hiểm họa Bắc phương. Lịch sử chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Hoa có thể coi như bắt đầu bằng cuộc chiến giữa Thục An Dương Vương và Triệu Đà, một tùy tướng của Đồ Thư được lệnh nhà Tần chinh phục phương Nam. Chuyện chiếc nỏ thần là bài học về tình báo đầu tiên lồng trong bối cảnh của một thiên tình sử lãng mạn của đôi trai gái địch thù Trọng Thủy và Mỵ Châu.
Đến đời nhà Hán, hai vị anh thư Trưng Trắc, Trưng Nhị đứng lên khởi nghĩa chống sự đô hộ tàn bạo của Thái Thú Tô Định. Hai bà Trưng vốn dòng dõi nhà Lạc Tướng, vì nợ nước, thù chồng dã hiên ngang quật khởi đánh đổ ách thống trị ngoại bang. Hai bà đã lập nên vương quyền, tuyên xưng độc lập năm 43 trước Tây lịch. Kế đó là bà Triệu Thị Trinh (Triệu Ẩu) nổi dậy chống lại nhà Đông Ngô. Bà đã nói một câu đầy hùng khí :”Ta thà cưỡi con gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông…. còn hon cúi đầu làm đầy tớ người ta…”
Liên tiếp trong gần một ngàn năm đô hộ của Trung Hoa, dân tộc ta đã sản sinh nhiều vị anh hùng như Phùng Hưng, Mai Hắc Đế, Dạ Trạch Vưcmg… Năm 937, Tướng Ngô Quyền dành lại độc lập toàn vẹn cho Tổ quốc, mở đầu một thời kỳ tự chủ lâu dài. Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường, có uy tín trong vùng, bắt đầu thời kỳ xây dựng một nền văn hóa riêng biệt. Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn xuất thân từ binh nghiệp mà dựng vương quyền. Đại Tướng Lý Thường Kiệt, nhân nội tình Trung Hoa đang phân hoá vì áp dụng luật pháp khắt khe của Vương An Thạch, ngài đem quân đánh sâu vào lãnh thổ hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, gây áp lực với triều đình nhà Tống. Quân Việt đánh đâu thắng đó, và được dân chúng địa phương hết lòng ủng hộ. Từ đó cho đến cả trăm năm kế đó, Trung Hoa chẳng dám dòm ngó gì nữa. Những trang quân sử chói lọi nhất vẫn là trang sử ba lần đánh thắng quân Nguyên. Gengis Khan (Thành Cát Tư Hãn) vào thế kỷ 12, dấy lên từ thảo nguyên Mông cổ, đã chinh phục hầu hết đất đai trên địa cầu, từ đông sang tây, Á sang Âu. Vó ngựa ông dẫm nát các thành trì đế quốc Hồi Giáo khi đó rất hùng cường. Đến Ba Lan, vua Ba Lan phải kéo quần thần ra trước cổng thành quỳ xuống xin hàng. Đến Nga, san băng Mạc Tư Khoa trong nháy măt. Trước khi qua đời, Gengis Khan dặn con cháu bành trướng thế lực cho đến tận nơi nào mà vó ngựa quân Mông cổ còn đến được. Gần như toàn thể thế giới đều chịu khuất phục trước sức mạnh của họ. Con và cháu ông, Ogedai (Oa Khoát Đài) và Mongke (Mông Kha) diệt nhà Tống, chiếm được Trung Hoa, lập nên triều đại nhà Nguyên kéo dài hàng trăm năm. Trước khi chiếm được Trung Nguyên, và cũng sau khi đã lập nên đế quốc Nguyên rộng lớn, họ nhiều lần nhòm ngó và xâm lăng Việt Nam, nhưng đành dừng lại trước sức đề kháng mãnh liệt của quân dân ta. Trong những trận đánh lớn nhỏ, dân tộc ta đã thách thức sức mạnh Mông cổ và đã chiến thắng oanh liệt. Thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan phải chui vào trốn trong một ống đồng để thoát về Tàu. Toa đô, Ô Mã Nhi và nhiều tướng Mông cổ phơi thây trên các chiến trường đẫm máu Chương Dương, Kiếp Bạc, sông Hàm Tử và nhất là sông Bạch Đằng, nơi xóa tan giấc mộng xâm lăng của giặc Nguyên. Chúng ta có một nhà quân sự lỗi lạc vừa là một nhà chiến tranh chính trị xuất chúng: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Hải Quân VN chọn ngài làm Thánh Tổ). Ngài để lại cho hậu thế bộ Binh Thư Yếu Lược để huấn luyện tướng sĩ, bài Hịch Tướng Sĩ như một bản tuyên cáo dõng dạc của tổ quốc hồi nguy biến, kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết hy sinh dể chiến đấu bảo vệ giang sơn. Ngài đã viết :”Các người ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn; làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thiết yến sứ ngụy mà không biết căm…” Lời khích quân của ngài có sức mạnh vĩ đại thôi thúc quân sĩ hết lòng chiến đấu. Quân ta liên tiếp thắng lớn trên các chiến trường. Đặc biệt, trận chiến sông Bạch Đằng có thể so với trận Xích Bích thời Tam Quốc — nơi quân Ngô trói chặt chiến thuyền của quân Tào mà đốt sạch. Trần Hưng Đạo, không kém gì Khổng Minh, đã cho quân vót sẵn chông có bọc sắt, cắm giữa dòng sông rồi dụ cho chiến thuyền quân Nguyên đến. Khi nước thủy triều rút xuống, tàu giặc bị cọc sắt đâm thủng, quân ta dùng thuyền nhẹ mà tiêu diệt gọn. Tướng tài của địch là Ô Mã Nhi bị giết trong trận này. Sau này trong dân gian có câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” để luôn nhắc nhở chiến công hiển hách đó. Nhà Trần ý thức tầm quan trọng của binh bị, nên đã lập ra Giảng Võ Đường, là trường đào tạo sĩ quan đầu tiên của Quân Đội Việt Nam. Vua cho mở khoa thi tiến sĩ võ để chọn nhân tài song song với khoa thi chọn văn quan. Anh hùng thời nhà Trần nhiều như sao trên bầu trời đêm: người bán than Trần Khánh Dư, người đan sọt Phạm Ngũ Lão, cậu thiếu niên Trần Quốc Toản, người nhái Yết Kiêu, Dã Tượng; can đảm tỉnh táo trên đất thù như Trần Nhật Duật; bất khuất trong tay giặc như Trần Bình Trọng với câu nói để đời “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” Hàng trăm năm sau, dân tộc lại sinh sản anh hùng áo vải đât Lam Sơn: Bình Định Vương Lê Lợi và nhà chính trị thiên tài Nguyễn Trãi (Lê Lợi được chọn làm Thánh Tổ của Địa Phương Quân/ Nghĩa Quân, Nguyễn Trãi của ngành Chiến Tranh Chính Trị). Nguyễn Trãi đã phò tá Lê Lợi trong mười năm gian khổ, tiến hành chiến tranh du kích đến thắng lợi dành lại độc lập từ tay quân nhà Minh. Cùng thời với nhà chinh phục lỗi lạc Napoleon bên Pháp, chúng ta có anh hùng thiên tài Quang Trung Nguyễn Huệ, so sánh giữa hai người, có nhiều điểm tương đồng. Hoàng Đế Quang Trung chỉ trong một thời gian ngắn, dẹp tan cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn, diệt quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút, thần tốc tiến quân ra Bắc và trong ba ngày Tết Kỷ Dậu, đã đánh tan tành hai chục vạn quân Thanh xâm lược. Ngài giữ đúng lời hứa với quân sĩ là sẽ ăn Tết trong thành Thăng Long. Ngài là vị tướng luôn ở đầu lằn tên mũi đạn trong cuộc xung phong phá thành lũy quân thù. Vua Quang Trung ôm ấp một hoài bão lớn: đó là lấy lại đất cũ của tổ tiên. Nếu ngài không sớm qua đời, bản đồ Việt Nam ngày nay đã kéo dài đến hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Quân đội của Lê Lợi giỏi đánh du kích, thì quân đội Tây Sơn thiện chiến về trận địa chiến, tốc chiến tốc thắng. Lần đầu tiên trong quân sử, Nguyễn Huệ đã áp dụng tổ chức tam tam chế trong điều động binh sĩ, tổ chức tiếp vận một cách khoa học, chu đáo và tinh vi để bảo đảm cho một đạo quân lớn trên suốt hành trình dọc theo chiều dài đất nước.
Triều đại nhà Nguyễn không có võ công xuất sắc, trong khi nền văn minh các nước phương Tây đã đạt đến trình độ cơ giới cao. Quân Nguyễn thiếu thực tế chiến trường một thời gian dài, và trang bị quá thô sơ, nên đất nước lại lần nữa rơi vào vòng đô hộ của ngoại bang. Hiệp ước Giáp Thân 1884 dánh dấu sự mất chủ quyền của dân tộc vào tay thực dân Pháp. Nhưng không thời nào dân tộc ta không có những anh hùng hào kiệt. Tướng Trương Minh Giảng bình định miền Nam, mở rộng bản đồ Việt Nam cho đến mũi Cà Mâu, ảnh hưởng bao trùm lên cả Cao Miên. Thời Vua Minh Mạng, bản đồ Việt Nam gồm cả toàn xứ Đông Đương. Ai Lao, Cao Miên trở thành chư hầu của ta, hàng năm triều cống. Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta có Vua Hàm Nghi, Vua Duy Tân, cha con Đại Tướng Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Lâm, tướng Hoàng Diệu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Đội cấn, bà Đặng thị Nhu, anh hùng Sa Điện Phạm Hồng Thái… Nhân dân ta không hề có một ngày ngưng cuộc chiến đấu, từ Nam ra Bắc, miền cao nguyên hay nơi đồng bằng. Và cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân đánh đuổi thực dân đã bị bọn Cộng sản Hồ chí Minh cướp công trên tay bao chiến sĩ Quốc Gia.
Cộng sản và Thực dân câu kết ký Hiệp định Genève chia đôi đất nước, quân kháng chiến miền Nam (chưa hề biết gì về Cộng sản) lầm lạc tập kết ra Bắc chịu sự chi phối của bọn Cộng sản. Miền Nam xây dựng chế độ Dân chủ kiểu Tây phương. Điều không tránh được là phải xây dựng Quân đội Quốc gia trên cơ sở Quân đội do Pháp và Triều đình Huế để lại. Đây là một yếu điểm, quân đội Việt Nam Cộng Hoà sơ khởi gồm nhiều thành phần phức tạp: một phần là các đơn vị Việt Nam trong Quân đội Liên Hiệp Pháp có tính chất chánh qui, một phần là các đơn vị Việt Binh Đoàn, Bảo Chính Đoàn của Triều đình Huế ít khả năng chiến đấu. Tướng lãnh thì không có, phải dùng các sĩ quan cấp tá, úy của quân đội liên hiệp Pháp, cho thăng vượt cấp để nắm các chức vụ then chốt. Đầu tiên gọi là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, sau đổi thành Quân Đội Việt nam Cộng Hòa, sau đó lần nữa lại đổi thành Quân Lực VNCH. Ban sơ với vài đơn vị bộ binh cấp tiểu đoàn, liên đoàn, quân đội ta tiến đến thành lập các sư đoàn khinh chiến, dã chiến, các đơn vị nhảy dù, trọng pháo, các đơn vị hải quân, không quân với trang bị do Pháp để lại và viện trợ quân sự Hoa Kỳ thông qua phái bộ MAC-V (Military Assistance Command- Vietnam). Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, Liên Trường Vố Khoa Thủ Đức, nơi đào tạo sĩ quan có đầy đủ kiến thức quân sự tài ba cho quân đội. Sau này hai trường trên đổi tên là Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và Trường Bộ Binh. Quân đội ta đã dần dần trưởng thành trong cuộc chiến đấu chống Cộng và trở thành hùng mạnh nhất vào thời kỳ những cuối thập niên 60, 70. Mười một sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, hàng chục liên đoàn biệt động quân được trang bị hùng hậu là những mũi lao thép trên 4 vùng chiến thuật. Lực Lượng Đặc Biệt, mà dân ta thường quen với tên gọi biệt kích dù là quân chủng tinh nhuệ nhất, hoạt động âm thầm trong lòng địch. Những đơn vị Địa Phương Quân, từ các tỉnh đoàn Bảo An bán chính quy, được sáp nhập vào quân lực đảm trách an ninh diện địa. Hình ảnh người lính cộng hòa thân thương, gần gủi với đồng bào qua những chiến dịch bình định nông thôn, là đề tài cho bao trang sách báo, phim ảnh, ca nhạc. Lớp sĩ quan trẻ đào tạo trong thời cộng hoà có tư cách, bản lãnh, có tài ba dần dần thay thế lớp người cũ ở các địa vị trung cấp. Cuộc chiến tranh mang màu sắc ý thức hệ không thể thiếu bóng dáng người sĩ quan chính trị để động viên tinh thần chiến đấu anh em quân nhân. Năm 1966, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị được thành lập để đào tạo sĩ quan hiện dịch đảm trách công tác tư tưởng trong quân đội. Từ những toán nữ Trợ Tá Xã Hội, đoàn Nữ Quân Nhân được thành lập, đảm trách các công vụ trong ngành Xã Hội, Truyền Tin, Quân Y. Các Trường Không Quân, Hải Quân được cải tổ, trang bị lại tối tân theo đà phát triển quân lực, huấn luyện những sĩ quan phi hành, hoa tiêu trên các loại phi cơ tối tân hay trên những chiến hạm lớn. Hải quân ta có những khu trục hạm, hộ tống hạm, hải vận hạm, có trọng tải lớn, đứng ở hàng thứ năm trên thế giới; Không quân có những chiến đấu cơ siêu thanh, vận tải cơ khổng lồ, có lực lượng trực thăng hàng ngàn chiếc cũng đứng vào hàng thứ sáu trên thế giới. Đó là hai quân chủng hùng hậu yểm trợ đắc lực cho các đơn vị bộ chiến. Trận phản công tết Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 là một minh chứng cụ thể cho sự lớn mạnh và thiện chiến của quân ta. Trong một thời gian ngắn, từ lúng túng – bất ngờ vì cộng quân vi phạm lệnh hưu chiến ngày xuân – quân ta dần dần lấy lại thế chủ động, đẩy dồn Bắc quân vào những lò sát sinh, diệt hàng ngàn tên phơi thây xung quanh cổ thành Quảng trị, cố đô Huế và hàng chục thị xã miền Nam, cho chúng được thỏa mãn nguyện vọng “sinh Bắc tử Nam”. Toàn bộ quân Việt cộng (cả điạ phương lẫn du kích) và hạ tầng cơ sở của bọn Mặt trận Giải phóng bị lộ diện và tiêu diệt sạch4, (4 Theo các báo cáo không đầy đủ, Việt Cộng tổn thất khoảng 85 ngàn quân sĩ trong các trận đánh Mậu Thân. Về sau Hà nội đưa cán bộ miền bắc và hàng sư đoàn chính quy vào thay thế. Hình ảnh người lính chiến Cộng hoà vừa oai hùng, vừa hào hoa, là lý tưởng thời đại của bao thanh niên mới lớn, là ước mơ thầm kín của các thiếu nữ đang xuân. Từ đây, người anh hùng không phải chỉ là những vị tướng quân, mà là anh hạ sĩ can trường trên đồi máu Charlie, người pháo thủ binh nhì nơi mặt trận An Lộc; hoặc anh nghĩa quân âm thầm ngày đêm canh gác cho đồng bào nông thôn được yên ổn cấy cày. Các thế hệ thanh niên ưu tú miền Nam nối nhau lên đường tòng quân làm nghĩa vụ thiêng liêng đối với tổ quốc. Chiến trường càng khốc liệt càng thôi thúc bao tâm hồn đầy nhiệt huyết lên đường diệt công giữ quê. Những khoá sĩ quan Đà Lạt ra trường ai cũng nô nức dành chọn những đơn vị chiến đấu: Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Lực Lượng Đặc Biệt. Lá cờ vàng ba sọc đỏ mà thanh niên miền Nam quyết tâm bảo vệ đã tung bay ngạo nghễ trên cổ thành Quảng Trị, Huế, trên các đồi núi trùng điệp cao nguyên Trung Phần, trên làng mạc thân yêu đồng bằng sông Cửu Long xác nhận uy quyền quốc gia trên toàn lãnh thổ. Cũng lá cờ vàng đã gói trọn thân xác bao anh hùng để đưa vào lòng đất mẹ. Nếu quốc kỳ Việt Cộng kêu gọi máu xương và thù hận :’’đường vinh quang xây xác quân thù… “, thì quốc kỳ VNCH kêu gọi “vì tương lai núi sông, cùng xông pha khói tên… Thù nuớc lấy máu đào đem báo…” Một bên kêu gào chém giết cho quyền lợi riêng của giai cấp mình, một bên kêu gọi hy sinh cho tổ quốc, dân tộc, ai chính nghĩa hơn ai?
Quân Lực VNCH không những anh hùng nơi trận tuyến, mà còn đảm đang nơi hậu phương, đã đóng góp xây dựng nông thôn, đem ánh sáng tự do về tận miền xa xôi của đất nước. Quân lực ta không chỉ anh hùng khi còn chiến đấu với vũ khí trong tay, mà còn bất khuất can trường khi thất thế. Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai và hàng trăm chiến sĩ vô danh khác đã tìm cho mình cái chết vinh quang không để lọt vào tay giặc. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn khi bị cộng sản đưa ra pháp trường đã yêu cầu: “Đừng bịt mắt tôi, để tôi còn được thấy đồng bào tôi trước khi chết.” Trong các trại tù cải tạo, anh em quân nhân VNCH các cấp đã ngoan cường, bất khuất, công khai hoặc âm thầm chống đối cho dù có bị tra tấn, khủng bố triền miên. Thử nghĩ, bọn cán binh Cộng sản bị ta bắt trong chiến tranh có bất khuất cũng chẳng có gì lạ, vì chúng được bảo vệ bởi Công Ước Genève về tù binh, và chúng biết VNCH tôn trọng luật pháp quốc tế, bên cạnh còn có sự giám sát của các nước. Chúng lại có niềm hy vọng lớn lao vì cuộc chiến còn tiếp diễn. Chúng còn hậu phương, còn miền Bắc và các nước phe cộng sản yểm trợ. Ngược lại, anh em quân nhân VNCH có gì sau 1975? Không chính phủ lưu vong, không phong trào kháng chiến bên ngoài để hậu thuẫn; Đồng minh thì bỏ rơi, thế giới thì quay lưng. Họ chỉ còn khí tiết của người chiến sĩ, còn lý tưởng tự do mà tự bảo vệ thanh danh, còn gương Trần Bình Trọng phải noi theo mà thôi.
Cộng sản đã thất bại không tẩy não được các anh, không làm cho các anh khuất phục dù đã ra sức đàn áp dã man. Năm năm, mười năm, càng lâu càng nuôi ý chí căm thù. Không ngày nào trong các trại giam mà thiếu những hoạt động chống đối, khi âm thầm, khi bùng nổ công khai. Anh em ta đã đoàn kết thương yêu, đùm bọc giúp nhau giữ vững lập trường quốc gia.
Kỷ niệm ngày Quân Lực năm nay, nhớ lại 30 năm trước, sau khi quân đội làm cách mạng lật đổ chế độ gia đình trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đất nuớc đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cộng sản thì tăng cường quân đội, vũ khí đe doạ an ninh lãnh thổ, bên trong các chính phủ dân sự nối tiếp nhau cầm quyền nhưng không đáp ứng được nhu cầu tình thế phức tạp. Quân đội phải đứng ra đảm đương trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia.
Quân đội ta trưởng thành nhanh chóng trong giai đoạn này. Chỉ sau vài năm, quân ta làm chủ các chiến trường đẩy cộng quân chạy qua bên kia biên giới Việt Miên để ẩn náu. Ngoài Bắc, Hà Nội tưởng sắp treo cờ hàng vì không chịu nổi bom đạn của Hoa kỳ.
Thế nhưng, Hoa Kỳ, vì quyền lợi của mình trên chính trường thế giới đã ngầm thỏa hiệp với Nga Sô (Hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng Thống Mỹ Richard Nixon và Lãnh Tụ Cộng Sản Liên Sô Leonid Brejnev tại Vladivostok cuối năm 1973), bán đứng VNCH cho khối cộng để đổi lấy vùng dầu lửa Trung Đông5 (5 Trong cùng thời điểm này, có chuyến đi 14 nước Ả Rập của Ngoại Trướng Hoa Kỳ Henry Kissinger để thương lượng. Sau đó, các nước Ả Rập đã yêu cầu Liên Sô rút quân và vũ khí ra khỏi vùng Trung đông, dọn đường cho Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà.) Bên trong, thì chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quay ra đàn áp đối lập và che chở cho một hệ thống tham nhũng làm suy yếu tiềm năng chiến đấu của quân đội, mất niềm tin nơi dân chúng. Những quyết định quân sự sai lạc đã làm anh em chiến sĩ tức tưởi. Đang tiến công vũ bão thì bị gọi dừng quân (sông Thạch Hãn, Quảng Trị 1972), phi pháo Hoa Kỳ thì từ chối yểm trợ khi một trung đoàn ta bị ba sư đoàn Việt Cộng bao vây (trận Snuol), tình báo Mỹ cho tin sai lạc dẫn đến thất bại Hạ Lào, nghi vấn về cái chết tai nạn của Đại Tướng Đỗ Cao Trí giữa lúc quân ta đang tiến công. Rất nhiều điều mà sử sách sau này sẽ phanh phui về một sự phản bội của đồng minh
Tuy Quân Lực VNCH không chu toàn nhiệm vụ bảo vệ miền Nam thân yêu, nhưng toàn dân miền Nam vẫn dành trọn vẹn lòng yêu thương, kính mến vô bờ với các chiến sĩ. Cả đồng bào miền Bắc, sau một thời gian tiếp xúc, đã phủ nhận sự tuyên truyền của Việt cộng về hình ảnh người chiến sĩ VNCH. Khi những đoàn tàu, xe chở anh em quân nhân miền Nam ra Bắc giam giữ, đến đâu, đồng bào cũng ném lên những món quà nhỏ và trao thầm những ánh mắt thương cảm chứ không biểu lộ hận thù như bọn Việt cộng thường xúi dục.
Chúng ta vẫn tự hào là ngưới chiến sĩ VNCH, chiến đấu vì lý tưởng tự do, chúng ta không chiến đấu cho một chế độ nào, cho một cá nhân, tập đoàn nào mà chiến đấu vì dân tộc. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù ở phương trời nào, những người trai lính cộng hoà vẫn giữ gìn phong cách, kiên định lập trường, nuôi dưỡng trong tim ý chí sắt đá, thề nguyền diệt cộng, quang phục quê hương, đưa giống nòi qua cơn trầm luân, trả lại cho nhân dân quyền sống làm người ấm no, hạnh phúc. Tuy không còn chiến đấu vũ lực, chúng ta vẫn phải là ngọn đuốc tiền phong trong cuộc đấu tranh trên bình diện văn hoá, tư tưởng cho đến ngày thắng lợi.
Ðất nước Việt đang thời binh biến, Tổ quốc lâm nguy, vang dậy núi sông những lời hiệu triệu anh hào.
Khi tôi chưa chào đời thì vào giữa năm 1954, theo đoàn người trai quyết xếp bút nghiên để lên đường theo tiếng gọi non sông, làm tròn trách nhiệm người công dân trong thời quê hương khói lửa.
Người thanh niên tên Lê Hằng Minh đã từ giã người mẹ hiền, rời bỏ cuộc sống gia đình ấm êm nơi Hàng Keo – Gia Ðịnh, từ giã mái trường Huỳnh Khương Ninh & Trương Vĩnh Ký sau khi tốt nghiệp Tú Tài để cùng người anh Lê Minh Ðảo (thiếu tướng Lê Minh Ðảo gia nhập khóa 10 trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, là một trong số những tướng lãnh của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa), lên đường nhập ngũ.
Ông theo học khóa 5 Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức (Khóa Vì Dân) và sau khi ra trường vào đầu năm 1955 với cấp bậc Thiếu Úy Trừ Bị, người chiến sĩ Lê Hằng Minh đã cùng bao chiến hữu khác ngược xuôi khắp nẻo đường đất nước, xông pha vào những trận tuyến ngăn giữ bước quân thù xâm lăng, hầu mong mang yên vui cho mảnh đất miền Nam Tự Do thân yêu.
Ðầu năm 1957, vì muốn vẫy vùng ngang dọc hơn cho thỏa chí tang bồng, ông rời khỏi Sư đoàn 4/ Bộ binh dã chiến (sau này là Sư đoàn 7/ BB) để tình nguyện gia nhập Thủy Quân Lục Chiến, Lực lượng Tổng Trừ Bị nòng cốt của Quân đội VNCH và lần lượt đảm trách các chức vụ: Trưởng Ban 5 TQLC, Trung đội trưởng (Tiểu đoàn 1), Ðại đội trưởng (Tiểu đoàn yểm trợ), (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4), Chiến đoàn phó (Chiến đoàn A) và Tiểu đoàn trưởng (Tiểu đoàn 2/ TQLC).
Tham dự nhiều chiến dịch quan trọng cùng những trận đánh hào hùng trên khắp các mặt trận chiến trường đất nước từ: Ðồng Xoài, U Minh, Bời Lời, Ðầm Dơi, Bến Cát, Ðức Cơ, Plei-me, Bình Ðịnh, Bồng Sơn – Tam Quan, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Huế, Phù Lưu, Quảng Trị v.v… Với những thành tích chiến đấu dũng cảm, Lê Hằng Minh được thăng cấp Trung úy sau hai năm ra trường và được gởi đi du học khóa Sĩ quan TQLC ở Quantico – Hoa Kỳ năm 1959 – 1960.
Ðầu năm 1959, Lê Hằng Minh đưa Ðại đội Trinh Sát TQLC/ Tân Lập về Sài Gòn tham dự khóa học Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Hoàng Hoa Thám tại Bà Quẹo. Trong thời gian huấn luyện này, ông chứng tỏ sự gan dạ và là một cấp chỉ huy gương mẫu, xứng đáng làm gương và hướng dẫn quân nhân thuộc quyền noi theo không nề hiểm nguy. Yêu thích đường bay trên những nấc thang mây thênh thang của người lính Nhảy Dù, Lê Hằng Minh luôn hãnh diện khi chỉ cho mọi người xem huy hiệu “Cánh Dù” luôn gắn trên túi áo ngực mà ông đã đạt được sau khóa huấn luyện. Trong biến cố 11/11/60, ông cùng Ðại Ðội Chiến Ðấu/ TQLC về giải vây cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Sau đó, năm 1960 ông giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Yểm trợ tiếp vận/ Thủy Quân Lục Chiến. Và rồi nổi trôi theo vận hạn quốc gia cùng tình hình đất nước rối ren, thêm một lần nữa, vị Tiểu đoàn trưởng Lê Hằng Minh của TÐ4/TQLC lại là một trong những đơn vị tham gia cuộc đảo chánh Tổng thống vào ngày 1/11/63.
Những biến cố đất nước cùng những thăng trầm của cuộc đời binh nghiệp vẫn không làm mất đi tinh thần quả cảm của một người chiến sĩ với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng tinh thần trách nhiệm đối với đồng bào Tổ quốc, ông vẫn cùng với bao lớp người thanh niên chiến hữu luôn giữ vững sự cang cường chiến đấu như ánh thép gươm đao vẫn lóe sáng mỗi khi lâm trận ngoài địa đầu giới tuyến. Sau khi tu nghiệp khóa AWS ở Hoa Kỳ về (1964 – 1965), đầu tháng 11/1965, Thiếu tá Lê Hằng Minh được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng TÐ2/ TQLC và tên tuổi ông đã gắn liền với danh hiệu “Trâu Ðiên”, một tiểu đoàn lừng danh của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa nói chung từ trận đánh An Quý vào tháng 2/1966 ở Bồng Sơn – Tam Quan.
Từ tư thế bất ngờ bị phục kích khi tiến chiếm mục tiêu ấp chiến lược này, dù bị bao vây tứ phía bởi sự bố trí sẵn bên ngoài lẫn sự phòng thủ rất mạnh của VC bên trong, bị bắn phá nã đạn như mưa vào các toán quân, nhưng điều đó không làm chùn bước được của những người lính luôn luôn trong tư thế chuẩn bị, sẵn sàng xung phong nên ngay giữa cánh đồng trống, không nơi ẩn nấp, vị TÐT đã cùng với tất cả các chiến sĩ lúc ấy vẫn hiên ngang tràn vào và tiến lên dũng mãnh đến nỗi VC phải khiếp sợ với khí thế hăng như trâu điên của TÐ2 quyết băng mình phá tan lằn lửa đạn, dù phải đối chọi với tử sinh chạm gần trong gang tấc. Kết quả TÐ2/ TQLC toàn thắng chiếm hẳn được mục tiêu tuy phải chịu sự tổn thất vừa chết vừa bị thương mất gần một trung đội, trong số đó có Trung úy Nguyễn Ngọc Ðiệp (khóa 17/ VBÐL) v.v…
Với chiến tích “phản phục kích” vẻ vang này, Tiểu đoàn do Thiếu tá Lê Hằng Minh chỉ huy và yêu cầu sự đề đạt danh hiệu, đã được Bộ tư lệnh TQLC chấp thuận cho mang danh xưng Trâu Ðiên (Crazy Buffalo) biểu tượng sự Cảm Tử, Hi Sinh và Dũng Mãnh. Ngoài ra còn được tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ tư và được mang dây biểu trưng màu xanh Quân Công Bội Tinh. Bắt đầu từ đó, các tiểu đoàn khác cũng được đặt tên để có những danh hiệu riêng như: Quái Ðiểu, Sói Biển, Kình Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Hùm Xám, Ó Biển, Mãnh Hổ.
Người lính Lê Hằng Minh như chúng ta đã thấy là một chiến sĩ rất gan lì và quả cảm khi xông pha ngoài mặt trận, bởi ông luôn đặt trọng trách hi sinh vì Tổ quốc lên hàng đầu. Nhưng bên trong con người của ông lại là một nghệ sĩ giàu cảm tính và nhân hậu. Ông sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo gồm 10 anh chị em. Người mẹ đã tần tảo một mình lo bảo bọc các con khi người Cha đã qua đời năm ông 17 tuổi. Sống và lớn lên từ ngôi nhà cổ kính giữa vườn cây bóng mát xum xuê nơi Hàng Keo nằm trên đường Chi Lăng nối dài, gần chợ Bà Chiểu cạnh đền Lăng Ông nổi tiếng hiển linh, khói trầm nghi ngút quanh năm bên mộ Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tỏa sáng uy linh của bậc trung thần đại nghĩa, phải chăng đã ảnh hưởng phần nào đến tâm tình con người Lê Hằng Minh từ thuở nhỏ. Thích sống đời trai oai phong dũng mãnh nhưng cũng là người yêu văn nghệ, đàn nhạc, thơ văn. Ðôi khi cũng rất ủy mị, ướt át. Tình cảm của ông cũng rất dạt dào đối với anh chị em trong gia đình cùng sự kính trọng, hiếu thảo đối với bậc sinh thành và nhất là tình yêu quê hương đất nước được thể hiện rất rõ nét trong những vần thơ mộc mạc được viết ra từ đáy tâm hồn thiết tha:
(LMH viết vào ngày 25 Tết, Kỷ niệm ngày giỗ Ba. Kính tặng các bà Mẹ vạn nẻo đường con đã gặp)
Trên con đường rong ruổi nghiệp binh đao, ông cũng mang nặng tình thương yêu đối với các chiến hữu, những người cùng chí hướng lên đường nối gót chinh nhân. Cuộc đời của những người chấp nhận Ðời Lính Chiến với tất cả những vui buồn gian khổ:
(LHM thân tặng các chiến sĩ vô danh không vụ lợi và để tang cho cố Thiếu tá Nguyễn Văn Nho và những chiến hữu TÐ4/ TQLC đã hi sinh trong trận chiến Bình Giả cuối tháng 12-1964)
Những lời ấy là tất cả những tâm tình của ông trên bước đường hành quân xuôi ngược đó đây. Qua những trận đánh ác liệt và sau những tiếng súng, người lính trẻ lại trở về với những nỗi niềm cô đơn trăn trở trong những phút giây nhớ nhung và trống vắng:
Và trong những ngày mùa đông rét mướt ở Washington trong thời gian du học, ông trải rộng niềm thương nhớ đến người mẹ hiền và cô em gái út ở quê nhà:
(Tặng em Ánh Tuyết. Ghi một ngày nhớ má 15/1/65. Mùa đông Washington. LHM)
Cuộc sống ông cũng rất chí tình gắn bó với bạn bè đồng đội:
(LHM. Kontum – Dakbla ngày 14/12/65. Một đêm nhớ Soạn và trước khi đi hành quân. * Thiếu tá Tôn Thất Soạn, Thiếu tá Hoàng Tích Thông và Trung úy Tâm).
Và người thanh niên ấy cũng có những phút giây mơ mộng say đắm về tình yêu:
(Bài thơ “Về Phong Dinh” của LHM đã được nghệ sĩ Hồ Ðiệp diễn ngâm trong chương trình Thi Văn Tao Ðàn năm 1966).
Cuộc đời gian khổ của người lính chiến rày đây mai đó, luôn cận kề bên những sống chết hiểm nguy, làm sao dám nghĩ đến chuyện tình yêu và mộng ước mai sau. Nhưng tình cảm đó vẫn không thể thiếu trong trái tim người lính trẻ, vẫn có những nỗi niềm u ẩn, vấn vương, mộng mơ và nhung nhớ…
Ngoài sự yêu thích thơ văn, ông còn là người rất tài hoa về âm nhạc. Học đàn năm 12 tuổi, ông đánh thành thạo tất cả các loại đàn dây và điêu luyện nhất là Tây Ban Cầm với những nhạc khúc cổ điển Tây Ban Nha. Trong thời gian còn đi học, ông thường đệm đàn cho ban nhạc của trường Petrus Ký, ban Khuyến nhạc của Ðài phát thanh Pháp Á và ban nhạc Ðồng Nai (đàn và hát chung với người anh là Lê Minh Ðảo và người em gái kế là Mộng Huyền, một chi tiết nhỏ để nói lên con người hiền lành hiếu thảo của ông là dù mê đánh đàn ca hát tới đâu, xong việc là ông lo sớm về nhà để phụ giúp mẹ việc nhà và săn sóc các em).
Qua hai lần sang Mỹ tu học, ông cũng trau dồi thêm về kiến thức âm nhạc với các danh tài ngoại quốc và đã sáng tác một số ca khúc như: Hoa cài trên súng (1959), Bơ vơ (1960), Người anh chinh chiến (1964), Em là mùa thu (1965), Sao buồn (1966) v.v… Có lẽ, Lê Hằng Minh cũng là người lính duy nhất, dù ở hậu cứ hay bất cứ tuyến đầu trận địa nào, đi đâu cũng mang theo bên mình cây đàn Guitaire yêu quý, hễ có dịp dừng quân hay nghỉ ngơi là ông lại ôm đàn thay cho tay súng, đánh lên những tiếng đàn du dương trầm bổng cùng những ca khúc tuyệt vời cho bạn bè binh lính thưởng thức, tạm quên những gian khổ quân hành, vơi bớt nỗi nhớ nhà, cô đơn. Ông luôn lấy sự hào hiệp, tử tế vui vẻ của mình để đối đãi và cư xử với mọi người chung quanh. Trong chỉ huy, ông nguyên tắc mực thước, sống đời thường lại nhân ái giản dị nên ông được hầu hết các bạn bè chiến hữu dành cho tình cảm thương mến tốt đẹp.
Trong bài viết những cảm nghĩ về một vị chỉ huy khả kính của mình (ÐSST), Thiếu tá Lâm Tài Thạnh đã viết đôi dòng hồi tưởng như sau: Trong những ngày cuối năm 1965 về dưỡng quân tại hậu cứ Thủ Ðức (Tam Hà), hôm đó là một buổi chiều thứ bảy, tôi và Quang chẳng biết làm gì cho qua “chiều cuối tuần cạn túi” trong phòng ngủ độc thân vì cả hai nguyên quán đều ở xa, bà con họ hàng ở Sài Gòn cũng chẳng mấy thân thích gần gũi, còn em gái hậu phương thì cũng chẳng quen biết nhiều với lại điều kiện “đầu tiên” bó buộc. Thôi thì nằm nhà cho ăn chắc mặc bền. Chúng tôi mang quân dụng ra lau chùi đánh bóng để qua thời giờ giữa buổi trưa quá tĩnh lặng, bỗng nghe vang lên tiếng Tây Ban Cầm réo rắt với bản Panama (Cánh buồm xa xứ) khi thì như sóng vỗ lúc chẳng khác cơn gió heo may. Tôi nói nhỏ với Quang: “Ông cũng ở nhà như mình”, Quang trả lời: “Ông chưa có lập gia đình” rồi chúng tôi lại tiếp tục công việc còn dang dở.
Khoảng 30 phút sau, tiếng đàn ngưng hẳn và vào lúc chúng tôi không chuẩn bị để chào kính thì: “Chiều thứ bảy mà không đi bát phố à? Sĩ quan trẻ mà nằm nhà, dở vậy??”. Chúng tôi lúng túng chào tay và cùng trả lời: “Tiền lính tính liền thưa Th/T, với lại chả biết đi đâu”. Ngắn gọn, dứt khoát như khi ban lệnh hành quân: “Mặc quân phục vào, đi với tôi ra hồ tắm “Ngọc Thủy” uống nước giải khát”. Năm phút sau, chúng tôi đã có mặt trên xe do chính Tiểu đoàn trưởng làm tài xế với tôi ngồi kế bên (Quang là khóa đàn em nên cố tình nhường tôi ngồi trước với Ðại Bàng hoặc vì e ngại sơ suất khi nói chuyện nên bán cái cho tôi??). Trước khi rời trại, người còn nói nhỏ: “Mình đi gần đây khỏi gọi HS Danh (tài xế) làm chi, cho chú ta ở nhà với vợ con”. Trong tự nhiên đối xử như một người anh cả trong gia đình sau khi gọi nước uống cho chúng tôi, NT Minh hỏi thăm về nguyên quán, gia đình, học vấn, quân trường v.v…
Từ dè dặt, ngần ngại như lệ thường của bất cứ một Sĩ quan cấp trung đội trưởng nào khi phải trực tiếp tiếp xúc với Ðơn vị trưởng ở cấp cao mà thường khi “chạm mặt” thì chỉ có “Từ chết tới bị thương”, chúng tôi đã vui vẻ trao đổi trả lời các câu hỏi. Dần đà câu chuyện trở nên thân tình có tính cách đời thường thực tế và tươi mát hơn. Trước khi ra về, tôi còn nhớ rõ: “Các sĩ quan trẻ nhiều năng nổ, chịu khó, kỷ luật, ham học hỏi là xương sống và chìa khóa thành công của đơn vị. Các em cố gắng nhé, thôi mình về”. Lời nói chân tình, tha thiết có giá trị động viên cao của cố Niên trưởng Lê Hằng Minh đã làm cho tôi và Quang thực sự xúc động và cảm mến vị chỉ huy đầy đức độ, nghiêm nhưng không “quan liêu”, oai nhưng không “khắc nghiệt”. Gần 10 năm sau có lần tôi đã lặp lại câu nói đó của người cùng toàn thể Sĩ quan TÐ 9 trong ngày tôi nhận chức vụ TÐT.
Nơi hậu cứ Thủ Ðức – Tam Hà là nơi Tiểu Ðoàn 2/ TQLC thường về đây dưỡng quân, sau này còn được gọi là hậu cứ Lê Hằng Minh sau năm 1966.
Trở lại với người chiến sĩ Lê Hằng Minh, khi chiến trường miền Trung càng lúc càng sôi động thì Tiểu đoàn 2/ TQLC cùng những đơn vị bạn càng đi sâu vào những gian lao chiến đấu với tất cả mọi căng thẳng hiểm nguy rình rập từng phút từng giây. Từ đầu mùa hè năm 1966, họ phải điều động và tham dự nhiều trận hành quân liên tiếp suốt ba tháng không ngày về thăm nhà, nghỉ phép. Ðánh Bình Ðịnh, Quế Sơn vừa xong, lại bay vào Quảng Ngãi, rồi về Ðà Nẵng, Huế…
Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa được chính thức thành lập và công bố là ngày 19 tháng 6 năm 1966. Ðể tưởng thưởng những phần tử ưu tú có công trong sứ mạng diệt Cộng tại tiền tuyến, một số cấp chỉ huy đơn vị chiến đấu được thăng cấp đặc cách tại mặt trận vào ngày lễ trọng đại này, trong đó có thiếu tá Lê Hằng Minh. Vừa được thăng cấp Trung tá vào ngày 19/6/66, Lê Hằng Minh đã cùng Tiểu đoàn 2 và một số đơn vị tác chiến khác lại lao vào mặt trận Lam Sơn 283 ở Gia Ðặng – Phù Lưu (21/6 đến 23/6), tiếp thêm những trận thắng vẻ vang với sự chiến đấu rất gan lì dũng cảm của họ. Trong một bài phóng sự, ký giả Dzoãn Bình đã viết về chuyến gặp gỡ bất ngờ với Tr/T LHM như sau: “Chúng tôi ghi vào sổ tay và tự nhủ sẽ khai thác về cái chết oai hùng của Thiếu úy Bằng, Ðại đội 3 thuộc TÐ Trâu Ðiên.
Hỏi về sự anh dũng của Đại úy Sứ, tung hoành đè bẹp VC bằng đoàn Cọp Bay M-113. Và lòng tự nhủ sẽ phải “vớ” được con người chỉ huy Trâu Ðiên mà khi nói về cá nhân xuất sắc, phần đông đã khuyên chúng tôi nên đi tìm hai ông Trung tá Lê Hằng Minh và Tôn Thất Soạn. Họ nói: “Hai ông này mới có 31 tuổi nhưng đánh đấm lì lợm “chì” lắm. Cả hai đều là Cọp Biển. Trận Phù Lưu – Gia Ðặng, cả hai đều đứng khơi khơi đánh xung phong như đi biểu diễn”. Thế rồi, chiều 24/6/66, Huế… buồn xa vắng, mưa lất phất… như trời khóc sụt sùi. Chúng tôi đi “lô ca chân” tạt vào văn phòng triển lãm ngó anh em đang bầy biện SKZ và súng Nga vừa thu được. Thình lình, chúng tôi đụng đầu với hai ông quan Cọp Biển. Nhìn vào ngực thấy cái lon bạc trắng, chẳng rõ là cấp gì. Ngó lên nón “bê rê” thấy hai cái bông bạc: cấp Trung tá.
– Ủa! Sao hai ông Trung tá này trẻ quá. Nếu phỏng đoán bạo lắm cũng chỉ nghĩ họ tới 26 tuổi là cùng.
Dù Trung tá Minh để râu mép, nhưng nét mặt tràn đầy nhựa sống, hồn nhiên yêu đời của họ đã giúp chúng tôi mạnh dạn làm quen. Sau màn tự giới thiệu, chúng tôi cùng bước vào một quán nước bên đường trò chuyện. Trung tá Soạn giơ tay giới thiệu: “Ðây, kể về trận đánh ác liệt tại Phù Lưu, tôi xin nhường lời lại cho Tr/T Minh”. Cho đến phút này, con người mang tên Minh mới bắt đầu lên tiếng. Ông cao giỏi lắm là một thước 55, nặng lối 47 ký là tối đa. Khuôn mặt nhỏ nhắn, mắt hơi ốc nhồi, miệng cười rất có duyên, nhờ điểm thêm bộ râu mép đã làm tăng thêm vẻ “bô trai” của Tr/T họ Lê. Nhìn ông có thể nhận ra ngay qua hình ảnh của người anh ruột là Thiếu tá Lê Minh Ðảo ở phòng 3 của QÐ 4. Hai anh em Minh giống nhau như khuôn đúc.
Chúng tôi hỏi: “Tại sao lại đặt tên là Trâu Ðiên?”.
“Vì tụi tôi hăng và xung phong đánh Cộng như Trâu Ðiên, chỉ biết húc tới. Có thể nói chưa hề “thất” trận nào. Tiểu đoàn 2 TQLC được kể là đơn vị nổi nhất và đứng đầu sổ về công trạng”.
Ngừng một lát, ông kể tiếp: “Kỳ này mệt chớ phở, mới đi đánh nhau sơ sơ gần 3 tháng chưa về Sài Gòn. Khi hành quân “cú” Lam Sơn 283, tiểu đoàn Trâu Ðiên mệt – hết muốn đi – vì vác nặng gần trọn ngày. Thế mà tới 5 giờ chiều, khi gần tới đầu làng Gia Ðặng, đơn vị tôi đã bị dồn cục vì mới vượt qua cái cầu. Anh em xúm sát gần nhau. Tôi vội lướt lên hàng đầu để ra lệnh cho họ trở về theo cự ly đã định người này cách người nọ 10 thước. Ði xúm xít bị nó “đớp” thì chết cả đám. Ấy thế rồi, tôi vừa lướt lên đầu thì… thoáng bắt gặp phía trước cách lối 10 thước, 3 cái đầu vội thụp xuống. Linh cảm rất bén nhạy, tôi ra dấu cho toán quân tiên phong nằm ngay xuống, bố trí về phía có địch vừa phát hiện. Tôi cho nổ một loạt đạn trung liên vào cái hố có 3 VC, một tên có thượng liên, hai tên có tiểu liên AK50. Thì ra chúng là tổ viễn tiêu. Nếu không kịp phát giác thì tụi tôi đã lọt vào ổ quỉ.
Bắn loạt đầu, VC trả lời như pháo Tết, may mà chiến sĩ Trâu Ðiên đã nắm chiếm ưu thế và ở ngoài tuyến bố trí của địch. Suốt ngày đi “lô ca chân” mệt mỏi phờ người, thế mà gặp địch, lính lại hò hét xung phong như trâu điên và tất cả quên đói, đánh địch suốt từ năm giờ chiều cho đến chín giờ tối. Bọn chúng rút khỏi trận địa để lại hơn bảy mươi xác chết. Tiểu đoàn Trâu Ðiên lại được lệnh quay về mục tiêu Phù Lưu, cách Gia Ðặng 10 cây số. Vì tiểu đoàn 808 VC đêm trước đã từ Gia Ðặng luồn một lèo “lĩnh” về Phù Lưu. Không thể tưởng tượng được, liền ba đêm ba ngày đi liên miên. Ðánh nhau tơi bời tới 21-6-66, suốt đêm đó mắt thao láo nằm vây địch, thế mà sáng hôm 22-6 lại “tỉnh bơ” đi đuổi địch về Phù Lưu, lại xung phong đánh chiếm từng hầm, diệt từng hố, phải băng suối đánh xáp lá cà với VC suốt từ 4 giờ chiều đến 2 giờ đêm mới khóa tắt họng súng địch…”.
Sau khi kể những chi tiết hấp dẫn về trận đánh, Tr/T Minh nhún vai nói tiếp: Từ nay đến 30/6, cậu chịu khó ra Huế, chúng tôi sẽ mời cậu đi theo hành quân ngay từ lúc mới mở màn, có thế mới viết kỹ và sống động hơn là đánh đấm xong từ khuya rồi mới lò dò ra viết theo kiểu “nghe đồn rằng…”. Tr/T Minh hẹn sẽ khao chúng tôi một chầu khi tái ngộ tại Thanh Thế khi về tới Sài Gòn. Chúng tôi chia tay hai ông Tá và về Sài Gòn viết loạt bài phóng sự, đặc biệt viết thêm chuyện về Lê Hằng Minh trên Nhật báo Sống. Chúng tôi chân thành viết vì yêu mến người chiến sĩ Cọp Biển, đánh giặc hay như chơi đàn. Ra trận đánh nhau bằng súng đạn, xong rồi lại… thản nhiên gảy đàn vui nhộn trước ba quân. Dù đã 31 cái xuân xanh mà… Trung Tá Minh vẫn cô độc. Ông vui với đời Cọp Biển và chịu ế vợ có lẽ vì… tự linh cảm thấy ngày mai… của đời chiến sĩ, thuộc đơn vị đã lẫy lừng danh tiếng về tài xung phong diệt địch… ‘Bài phóng sự chiến trường của Dzoãn Bình”.
Từ trận chiến thắng Lam Sơn vang dội này, báo chí từ Sài Gòn bay ra mặt trận quan sát và phỏng vấn Tr/Tá Lê Hằng Minh. Buổi lễ chiến thắng được tổ chức trọng thể tại Huế. Vòng hoa chiến thắng và huy chương lại một lần nữa ngập trên vai người anh hùng mũ xanh, chỉ huy tiểu đoàn Trâu Ðiên.
Từ Huế, những cánh quân chia ra để xuôi Nam ngược Bắc. TÐ1 (Th/T Phan Văn Thắng) theo Chiến đoàn B (Tr/T Tôn Thất Soạn) di chuyển vào Quảng Ngãi. TÐ2 ở lại An Hòa (phía Bắc thành phố Huế) để nhận tăng phái cho SÐ1/ BB với đoàn quân xa GMC nằm chờ từ chiều ngày 28/6/66 để chuẩn bị di chuyển vào sáng sớm hôm sau.
Sau đây xin được trích phần tường thuật ngắn của vị Ðại úy cố vấn thuộc TÐ2/ TQLC là Thomas E. Campbell về những diễn biến của trận đánh: 27 xe GMC, khởi hành từ An Hòa lúc 7 giờ 30 sáng ngày 29/6 với 573 TQLC. Khi đoàn xe cách Huế khoảng 30 cây số và còn 20 cây số thì đến Quảng Trị theo Quốc lộ số 1, lúc này vào khoảng 8 giờ 30 sáng, di chuyển với tốc độ khoảng 30 – 35 KPH. Hai xe bị bắn bởi đạn 75 ly và bị cháy phải tấp vào lề đường, từ đồi ở phía Tây bắn ra với khoảng cách 400 mét. Ðoàn xe phải ngừng lại, Trung tá Minh ra lệnh cho Bộ chỉ huy/ TÐ di chuyển đến gần đường xe lửa cách lộ khoảng 60 – 75 mét. Việt Cộng từ đường rầy bắn ra rất mạnh. Sau một lúc giao chiến, ông Minh bị thương bởi hai viên đạn trúng ngực. Tôi thấy ông bị thương nặng. Một quả lựu đạn nổ làm tôi bị thương vào tay, cổ nhưng nhẹ. Khi tôi trở lại chỗ Trung tá Minh thì thấy ông đã chết, có lẽ vì trúng miểng lựu đạn vào đầu”.
Tiếp theo xin được trích lại bài viết của ký giả Dzoãn Bình đăng trên Nhật báo Sống về “Trận phản kích tuyệt vời cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh” sau đây:
“Theo đúng lời hẹn, chúng tôi ra Huế đúng ngày 29/6/66. Ðến Phú Bài lúc 15 giờ chiều, gặp loáng thoáng một đoàn quân nhạc có sĩ quan Cọp Biển đứng chỉ huy. Bên cạnh, có chiếc phi cơ ở phía sau, chúng tôi thấy một quan tài phủ Quốc kỳ. Cũng như lần trước, khi xuống sân bay, chúng tôi cũng gặp cảnh tương tự. Vì thế, lòng chỉ thấy buồn lâng lâng… tay cầm tờ báo Sống, bụng nóng ruột mong téléphone gọi Tr/T Minh để khoe bài báo viết về khí phách của Trâu Ðiên và Tiểu đoàn trưởng Trâu Ðiên. Nhưng… chúng tôi giật mình khi có tiếng la của một Trung sĩ ra lệnh:
– Này, trung đội 2 sửa soạn chào quan tài Trung Tá.
Các tiếng xì xào tự nhiên lọt vào tai tôi:
– Tiểu đoàn Trâu Ðiên vừa đánh bại trận phục kích kinh khủng của VC ở quốc lộ 1.
Chúng tôi lật đật vớ lấy người nói câu này rồi hỏi hấp tấp:
– Có ai chết không?
– Có, Trung tá Tiểu đoàn trưởng chết rồi!
– Có phải Trung tá Minh không?
Không đợi trả lời, chúng tôi chạy như bay ra phía có chiếc quan tài và… quả đã rõ ràng – đúng là vị trí cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh. Dường như… chúng tôi có chảy nước mắt trong phút giây đó. Cái sự khóc xảy ra thật kỳ dị. Tôi không có ý thức về cái khóc bất thần này. Nhưng… đó là điều ở trong đáy lòng tôi. Cảm thấy bồn chồn, tự nhiên tôi thấy tất cả đều phi lý và trong giây phút như mê ấy, tôi vẫn chưa định thần để nhớ cho kỹ lại, liệu mình đang làm gì? đang ở đâu? và có chuyện chi đang xảy tới. Cảm giác nghẹn ngào xâm chiếm và đè nặng trĩu. Tôi bùi ngùi nói bâng quơ như khấn vái: “Trung tá Minh ơi! Tôi viết bài đề cao tiểu đoàn Trâu Ðiên và viết về Trung tá đây này”. Tôi trịnh trọng trải tờ báo lên nắp quan tài và lấy cái nón bê rê xanh đè chặn lên cho gió khỏi bay. Tôi tưởng như Lê Hằng Minh đang tủm tỉm cười với tôi, một nụ cười ma quái xuyên qua nắp chiếc áo quan… vô lý ấy.
Lòng không định mà tôi đột nhiên đứng nghiêm rất thẳng người để chào anh lần cuối, nước mắt lại ứa ra. Tôi khấn vái lần nữa: “Anh Minh hãy phù hộ cho tôi có nhiều cơ hội đi với các bạn đồng đội của anh, để viết thật nhiều, viết thật đều, để cho triệu người ở phần đất này thông cảm được sự gian khổ của những người lính chiến hôm qua còn đây, hôm nay đã ra người thiên cổ. Có trông thấy cảnh này mới thương đến người chiến binh”.
Tôi cố tưởng tượng và hình dung lại con người anh rồi đột ngột hỏi thăm một Tr/Úy Cọp Biển đứng gác quan tài rằng: “Trung Tá bị… vào đâu?”. Chẳng hiểu tôi là cái “thống chế” gì mà hỏi dồn dập và hơi có vẻ “vô lễ” như vậy, người sĩ quan lắc đầu đáp giọng bùi ngùi: “Ông bị hai phát vào ngực. Tụi nó còn quất thêm một tạc đạn, miểng tạc đạn phá bể sọ”. Tôi rùng mình liên tưởng đến phút giao tranh ác liệt, Tr/Tá Lê Hằng Minh tả xung hữu đột giữa đám cuồng tín như thú dữ. Ông đã bắn đến viên đạn chót và đã gục ngã anh dũng như tất cả các chiến sĩ Cọp Biển từng hi sinh tô thắm cho lá cờ binh chủng, ngày thêm nổi bật truyền thống oai hùng của đoàn quân Cọp Biển”.
Nói Về Một Người Chết là những cảm xúc của nghệ sĩ Tô Kiều Ngân trong bài tạp ghi đăng trên báo năm 1966: “Ðêm văn nghệ đã tàn, anh em TQLC dừng quân tại Kontum tỏ ra hả hê, thoải mái với một chương trình ca vũ hào hứng. Trong ánh sáng mờ mờ, chen giữa những tiếng nhạc dặt dìu, bỗng xuất hiện một người: mắt to, tóc ngắn, quần áo cọp biển, chiếc lon Thiếu tá gắn nơi ngực, bộ râu mép rất xanh, ông ta tới gần ban nhạc, cầm lấy cây lục huyền cầm. Hình ảnh đó chẳng có gì đẹp, vì dáng dấp, quần áo của con người đó đi kèm với chiếc đàn lục huyền quả thật là một cuộc hôn phối không cân xứng. Nhưng tôi giật mình, trước mắt tôi bỗng hiện ra một chân trời chói chang nắng vàng, rồi tiếng hát của bọn du mục giang hồ, những trái cam mọng đỏ, gió của sa mạc, rồi những cuộc đấu bò rừng, tiếng castagnettes reo đều trong tay cô gái Tây Ban Nha quay đều lả lướt.
Mọi người đều ngồi im, hướng về người chiến sĩ đang đàn kia. Ðầu anh hơi cúi thấp, đôi mắt anh ban nãy to và sáng, bây giờ bỗng trở nên dịu hiền. Anh như không chú ý đến mọi người, năm ngón tay lướt trên cần đàn, năm ngón kia búng vào sáu dây gợi lên những tiếng sóng vỗ, mưa sa.
Thật là “thế gian bất hiểu tài hoa khách”. Ðất Kontum giá lạnh, heo hút này đã mang đến cho tôi một bất ngờ. Sau đêm đó, tôi biết anh ta là Hằng Minh, Thiếu tá Lê Hằng Minh, Chiến đoàn phó Chiến đoàn A/ TQLC.
Trở về Sài Gòn, tôi gửi sách lên tặng Minh, Minh viết thư về cho tôi nói rằng rất nhớ “tiếng sáo ru hồn” và Minh gởi cho tôi mấy bản nhạc để trình bày ở Ðài Phát Thanh. Yêu cầu đó đã được đáp ứng. Một chiều hành quân nào đó, Minh đã được nghe vọng ra tiền tuyến tiếng hát của Mai Hương trình bày bài nhạc của anh.
Ít lâu sau, tôi được tin Minh đi đánh giặc ở Bồng Sơn, Phú Yên rồi mới đây, tôi gặp Minh ở Ðà Nẵng trong những ngày khó khăn nhất của tình hình đất nước. Vẫn mớ tóc ngắn, đôi mắt to, bộ râu mép xanh rì, nụ cười hiền hậu. Thì ra Cọp biển bơi hoài, nay Kontum, mai Bồng Sơn, ngày kia đã dạt ra Ðà Nẵng. Gặp nhau ngắn ngủi, chia tay không kịp hẹn hò thì hôm qua đây, Huy Phương đột ngột báo tin cho tôi:
– Anh ơi! Ông Hằng Minh chết rồi.
Tôi sửng sốt, người lặng đi, gai ốc nổi cùng mình. Hằng Minh chết rồi ư? Tôi sững sờ như chưa khi nào nghe tin có người chết mà sững sờ như thế, kể cả lúc tôi nghe tin hai bà má tôi kế tiếp nhau qua đời trong vòng một tháng. Bà mẹ tôi như lá vàng, Hằng Minh là chiếc lá đương xanh.
Buổi chiều ngồi trong quán nước đường Lê Lợi, hai người bạn nói chuyện với nhau về lẽ sống chết ở đời. Có những người bạn vừa cụng ly với ta chiều nay, sáng mai lại đã vĩnh viễn nằm yên, giã từ tất cả. Chuyện đó bây giờ xảy ra như cơm bữa.
Tôi chợt nhớ tới Hằng Minh, người chiến sĩ vừa đánh giặc vừa đánh đàn. Lê Hằng Minh là chiến sĩ, chiến sĩ thì sống chết là chuyện thường nhưng giá Hằng Minh đừng có ngón đàn tuyệt diệu, đừng có một tâm hồn tràn đầy yêu thương thì khi nghe tin anh chết, sự ngậm ngùi cũng không đến nỗi nhiều như thế!”.
Sau ngày cố Tr/T Lê Hằng Minh tử trận, Tổng cục chiến tranh chính trị có cho phát thanh một số chương trình “Thơ và nhạc Lê Hằng Minh”, trích từ những bài thơ và nhạc phẩm do ông sáng tác về tình yêu, tình bạn và đời quân ngũ trên làn sóng Ðài phát thanh Quân đội ở Sài Gòn để tưởng niệm đến một anh hùng mũ xanh đã nằm xuống vì Tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Dẫu cũng là người trai trong thời ly loạn, đã là chiến sĩ cầm súng giữ biên cương, tất cả đều xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng chấp nhận tử sinh bất cứ giờ phút nào xảy đến với mình nhưng Thiếu tá Lê Minh Ðảo lúc ấy không thể nào ngăn được lòng xót đau khôn cùng trước sự ra đi vĩnh viễn của người em trai thân yêu. Ông đã khóc bằng những giọt lệ đau lòng khi viết nên những dòng chữ hết mực thương yêu:
Minh,
Anh ghi lại cuộc đời em trong khi em đã nằm yên nghỉ dưới lòng đất nước Việt Nam thân yêu, điêu linh và tang tóc này.
“Vì quốc vong thân”, em để lại cho quốc gia này bao nuối tiếc, cho thế hệ 1966 một gương sáng soi chung cùng với một sự thiệt thòi to tát. Quân lực VNCH mất đi một chiến hữu oai hùng, một cán bộ chỉ huy ưu tú, lỗi lạc và gan lì… Văn nghệ Việt Nam mất đi một nhân tài có ngón đàn tuyệt diệu, một thi nhân với những dòng thơ đa cảm tràn đầy yêu thương.
Gia đình chúng ta, lúc em còn sống, tình thương của em, em ban hết cho tất cả mọi người, sự hi sinh của em vô bờ bến. Cho nên, mất em, gia đình mất tất cả, những người còn ở lại không còn đủ nghị lực để tin tưởng vào ngày mai. Riêng anh, sự mất mát thật quá ư lớn lao và tàn nhẫn. Anh mất một đứa em hiền hòa, hiếu thảo, một chiến hữu anh hùng tài ba, một “Bá Nha của Tử Kỳ”, một người tri kỷ… Thật vậy, không ai hiểu anh bằng em, cũng như không ai biết rõ em bằng anh.
Em giã từ thế gian giữa tuổi “hoa niên” đầy mộng mơ, huy hoàng. Bao nhiêu người hướng về em, tin tưởng ở tương lai rực rỡ của em. Thế mà đành phải khóc em, khóc cho con người tài hoa bạc số!
Em như một vì sao. Sáng quá! Rực rỡ quá! Ánh sáng làm lóa mắt mọi người. Tất cả đều hướng nhìn em đang vượt thẳng tít lên cao và tan biến trong vũ trụ bao la để cho mọi người phải bàng hoàng, ngẩn ngơ, tiếc rẻ. Em đã tự tạo cho em một sự nghiệp vĩ đại làm hãnh diện cho gia đình, cho gia tộc họ Lê. Những đời sau này chưa chắc gì con cháu chúng ta sẽ làm được như em.
Hầu hết nhân vật trọng yếu của Quốc Gia mến tiếc em, phúng điếu và đưa linh cữu em đến nơi an nghỉ cuối cùng. Báo chí ngoại quốc và Việt Nam ca tụng em, dành cho em những hàng Tít lớn. Ðài Phát thanh dành những chương trình đặc biệt ca ngợi và thương tiếc người chiến sĩ anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng anh nghĩ rằng: “Nói đến Lê Hằng Minh mà chỉ nói đến phương diện ái quốc và nghệ thuật không chưa đủ. Lê Hằng Minh còn có nhiều đức tính cao quý khác. Cuộc sống nội tâm của Hằng Minh chứa đầy những u ẩn, dồn ép của một con người đa sầu đa cảm, quảng đại và vị tha, đem tình thương của mình ban cho tất cả mọi người…”.
Ðó là những lời xúc cảm với muôn vàn đau đớn tiếc thương của Th/Tá Lê Minh Ðảo khi ông chợt nghe tin em trai mình vừa anh dũng hi sinh.
Và trên những tờ nhật báo Sống, Tiền tuyến… với những tin tức đang sôi bỏng ngoài chiến trường trong thời điểm đó, đã ghi lại bài phóng sự tường thuật: Trận phục kích Thần Sầu Quỷ Khốc của T.Ð. Trâu Ðiên như sau:
“Chúng tôi đến thăm trận địa giữa lúc xác địch máu đỏ còn bốc hơi, nằm ngổn ngang dọc đường rầy xe lửa, lẫn bên tử thi của các chiến sĩ Cọp Biển thuộc T.Ð. Trâu Ðiên gục ngã kế bên thân địch, điều đó chứng tỏ quân ta đã đánh cận chiến với quân xung phong của VC cho tới phút thở hơi cuối cùng.
Nhìn chung quanh là những dãy đồi trọc chập chùng bát ngát chạy dài tới vùng Cận Sơn. Ðịch chém vè tẩu thoát về phía núi nhưng binh lực TQLC Mỹ, Thiết giáp và các thiên thần mũ đỏ thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đã được trực thăng vận cấp kỳ nhảy xuống trận địa và tiến sâu vào lòng núi để chận đường rút của địch.
VC phục kích hai mặt dồn ta lọt vào tầm súng địch.
Phòng tuyến bố trí của VC dài 3 cây số. Nơi được chọn làm chiến trường nằm gần ranh giới Quảng Trị – Thừa Thiên, cách Huế 34 cây số. Ðịch nằm ôm lấy con đường số 1. Chúng phục cả hai bên đường. Bên tay mặt, chúng ẩn nấp sau bụi rậm, bố trí SKZ và súng thượng liên khai hỏa bắn ngay vào quân xa gồm 27 chiếc chuyên chở toàn bộ T.Ð. Trâu Ðiên xuất phát từ Huế khoảng 7 giờ sáng 29/6/66.
Tiểu đoàn này có nhiệm vụ ra Ðông Hà dự cuộc hành quân hỗn hợp với Ðồng Minh (T.Ð. này cũng vừa tạo thành chiến tích Phù Lưu đè bẹp T.Ð. 808 VC). Khi súng địch nổ bùng, các chiến sĩ Trâu Ðiên phản ứng tự nhiên bằng cách nhảy khỏi xe, tràn qua tay trái băng qua đồng trống lối vài chục thước để chiếm lãnh cao địa VC là dãy đường rầy xe lửa.
Nhưng địch đã nằm đầy nhóc tại phía này và quân ta đã chạy thẳng vào đúng tầm súng của quân xung phong VC. Trong trường hợp thất thế này chỉ một phút lúng túng là toàn T.Ð. sẽ tan rã trong nháy mắt. Khi mà SKZ nổ từng loạt bắn cháy ngay trong 5 phút đầu 14 xe ngút lửa, khi mà phía địch quét ra hàng loạt thượng liên bắn như mưa rào. Chạy qua phía trái thì đụng vào lưới lửa tập trung hỏa lực của địch đã nắm ưu thế địa hình chọn lựa từ trước. Nhưng Tr/T Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng T.Ð. Trâu Ðiên đã tỉnh táo nhận rõ lối mai phục của địch bố trí cả 2 bên đường. Như vậy tầm súng của địch phía đường rầy có thể bắn vào đồng chí của chúng phía bên kia mặt đường sau bụi rậm. Quả đã rõ ràng là VC chỉ bắn thật sự khoảng 5 phút mở màn trận đánh và khi ta nhào qua phía đường rầy xe lửa, thì bọn VC bên này chỉ bắn với mục đích dùng tiếng nổ uy hiếp tinh thần quân ta, xua quân ta chạy về phía bố trí hỏa lực chính của địch. Nhận định tổng quát toàn bộ chiến trường với phản ứng chớp nhoáng, Tr/T Lê Hằng Minh ra lệnh cho Ðại úy tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Hay mang toán quân thoát hiểm sau đợt SKZ phủ đầu dồn toàn lực băng qua đường vượt qua đám lửa khét lẹt mùi xăng và thịt người chết cháy, để xung phong đánh thốc vào phòng tuyến của VC nằm phía bụi rậm. Nếu VC thật sự bắn theo đường bắn thẳng thì chúng sẽ quạt vào quân của chúng đang rời khỏi đường rầy xe lửa để xông vào đánh cận chiến với các chiến sĩ Cọp Biển từ trên đoàn xe bốc cháy nhảy xuống xáp chiến giữa làn sóng biển người của đối phương.
Bên cạnh Tr/T Lê Hằng Minh còn có một trung đội cảm tử có nhiệm vụ bảo vệ cho Ban Chỉ huy TÐ, nhưng các chiến sĩ cảm tử này đã bị hàng trăm quyết tử VC cố ý nhắm vào bộ phận đầu não của ta để lao vào tiêu diệt dù phải đổi giá đắt. Trung Tá Lê Hằng Minh, người chiến sĩ Cọp Biển, anh cả của TÐ2/ TQLC với 31 tuổi xuân tràn đầy nhựa sống ấy đã oanh liệt gục ngã sau khi điều động toàn tiểu đoàn lật ngược thế cờ phản kích địch và giật lại thế chủ động chiến trường.
Ðể giúp bạn đọc có một khái niệm tổng quát về trận phản kích của VC trên quốc lộ 1 ngày 29/6/66, chúng tôi xin lược thuật vài nét chính như sau:
Lực lượng VC gồm có Tiểu đoàn chính quy 800 được tăng cường thêm Ð.Ð. Phòng không C-15 gồm súng nặng 12 ly 7 và đại liên 50 có bánh xe, tăng cường thêm Ð.Ð. C-16 gồm súng cối 82 ly, SKZ 57 ly và 2 cây đại bác 75 ly. Ðơn vị này nhắm đánh xe tăng và yểm trợ cho quân xung phong khi tiến cũng như lúc giải quyết chiến trường. Tăng cường thêm Ð.Ð. C-13 gồm bộ phận truyền tin, điện thoại… Quân số VC tham dự trận phục kích gồm 700 người cộng thêm quân du kích địa phương thuộc đơn vị H99 trang bị các võ khí như carbin garant M1 FM 24×29 v.v… Trận phục kích vận động chiến của VC áp dụng theo kế hoạch chặt đứt đầu (Ð.Ð.1 của Ðại úy Trần Kim Hoàng & Ð.Ð.3 của Trung úy Ðinh Xuân Lãm), cắt làm đôi, rồi khóa chặt đuôi (Ð.Ð.2 của Ðại úy Nguyễn Văn Hay & Ð.Ð.4 của Ðại úy Nguyễn Xuân Phúc) để tiêu diệt bộ phận giữa (Bộ Chỉ huy & Tiểu đoàn trưởng TÐ2).
Trận phục kích này, TÐ. Trâu Ðiên đã phản phục kích thật dữ dội kinh hoàng. Ðánh hết sức mình nhưng sức người có hạn, Tr/T Lê Hằng Minh cùng một số chiến sĩ anh dũng khác như Chuẩn úy Cầu v.v… đã gục ngã sau khi chọc thủng phòng tuyến địch và kịp điều động các chiến sĩ Cọp Biển còn sống sót tập trung binh hỏa lực đánh thốc ngược trở lại phòng tuyến thứ hai của VC. Chắc chắn là cho tới giờ nhắm mắt, Tr/T Minh cũng còn đủ trí minh mẫn để… chết trong niềm hãnh diện vì thế chiến thắng đã lật ngược được ngay sau 15 phút giao tranh và Tr/T Lê Hằng Minh đã oanh liệt đền nợ nước vào phút thứ 30.
Chính vì phản ứng mau lẹ, nhận định tổng quát trận địa và nắm được ý của địch, nên trận phục kích mà VC đã công phu mai phục từ 2 giờ sáng với quân số đông đảo, hỏa lực hùng hậu, chúng tin chắc chỉ sau 10 phút phát hỏa là hơn 400 chiến sĩ Cọp Biển sẽ rơi vào lưới lửa của VC. Kết quả sẽ là phân nửa bị hạ ngay đợt súng đầu tiên và một phân nửa bị lùa đi vì lọt vào giữa “tổ ong” trùng điệp ngập quân thù và… đơn vị tiếp ứng nếu kịp lên tới trận địa thì nhiệm vụ của họ là đi lượm xác đồng đội và lo dập tắt đám cháy của đoàn GMC trúng SKZ 57 ly.
Nhưng kết quả trái lại. Ðại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1, đã phải nói thành thật rằng trong đời binh nghiệp của ông, kể cả hồi Pháp, chưa hề thấy trận phục kích nào lại biến thành trận phản kích tuyệt vời như trận đánh trên cây số 34, tại quốc lộ 1 ngày 29/6/66 vừa qua.
Dù đã bị thất thế, trong lúc VC mai phục ở vị trí do chính địch chọn lựa. Quân ta ngồi trên xe, SKZ bắn loạt mở đầu bên ta đã bị trúng đạn 14 xe. Tuy vậy, ai gục thì… đành chịu, còn lại tỉnh táo dựa lưng vào nhau tác chiến ngay…”
(Trích ghi từ phần phóng sự chiến trường)
Vì thế với sự phục kích đại quy mô, lực lượng hùng hậu là một Trung đoàn VC với sự chủ động chọn lựa địa hình mọi ưu thế nắm chắc cùng khẩu hiệu “phải chuẩn bị thật chắc ăn mới đánh” không ngờ gặp sự xung phong chiến đấu dũng mãnh của các chiến sĩ Trâu Ðiên TÐ2/ TQLC cùng sự tài tình đảm lược của vị Tiểu đoàn trưởng khét tiếng đã biến thành trận phản kích lẫy lừng lần thứ nhất tạo thành trên chiến địa Việt Nam.
Khi TÐT Lê Hằng Minh vừa gục ngã cũng là lúc bại quân VC đang cố tìm đường tháo chạy về hướng núi Hồ Bơi, Cánh Giơi v.v… Nhưng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đã kịp thời bám sát truy lùng, chận đường tẩu thoát của địch. Giữa lúc trận đánh đang tiếp diễn các cánh quân của Nhảy Dù, Trung đoàn 3, Thiết quân vận M 113, Thủy quân lục chiến Mỹ đang rượt địch thì tướng Walt, Tư lệnh Cọp Biển Hoa Kỳ đã ngồi trực thăng đi quan sát chiến trường. Mặt khác tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn I cũng cùng với Ðại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I ngồi trực thăng theo sát trận địa. Tướng Walt từ trên nhìn xuống ở ven sông thấy có hai xác VC nằm chết gục bên cây đại bác 75 ly khổng lồ, Tướng Walt thận trọng cho gọi một đơn vị Cọp Biển, có thêm đoàn quân khuyển trực thăng vận xuống bao quanh khu vực này. Sau đó chính tướng Walt đã hạ cánh xuống nơi có cây đại bác 75 và tịch thu mang về Bộ Chỉ huy.
Chỉ trong vòng một tuần lễ với ba chiến thắng Lam Sơn 283 (Phù Lưu – Gia Ðặng); 284 truy kích tiểu đoàn 808 VC và 285 là trận phản phục kích thần sầu của Tiểu đoàn Trâu Ðiên tại mặt trận miền Trung đã vang dội khắp các chiến trường. Ðể viết nên những trang sử xanh này, Trung tá Lê Hằng Minh cùng một số các chiến sĩ oai hùng khác… đã vĩnh viễn ra đi từ chốn Tử Sinh!
Ðến đây, tôi cố hình dung ra buổi sáng kinh hoàng và đầy máu lệ hôm ấy. Một buổi sáng mai còn tươi đẹp ánh nắng vàng rực rỡ. Trên con đường quốc lộ số 1 chạy dài từ Huế ra đến Quảng Trị – Ðông Hà, khói lửa đã bùng lên nơi đoạn đường Cầu Phò Trạch, Phong Ðiền – Thừa Thiên trên cây số 34. Trận chiến diễn ra thật khốc liệt chỉ hơn nửa tiếng thời gian nhưng đã lấy đi bao mạng sống con người và gây ra bao cảnh tang thương, từng ngày từng giờ trên quê hương điêu linh khốn khổ Việt Nam. Ðã bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đã nằm xuống như những người vừa ngã xuống nơi đây. Dòng máu thanh xuân của họ đã chảy thắm trên mảnh đất cằn khô quê mẹ cho mạch sống tương lai được thêm phần tốt tươi. Những giờ phút kinh hoàng đau thương ấy chỉ diễn ra ngoài trận địa. Hậu phương, thành phố nơi tôi đang yên vui cắp sách đến trường, chỉ biết hồn nhiên với khung trời tuổi nhỏ, sống cuộc đời êm ả trong mái ấm gia đình. Làm sao có thể biết rõ và thấu hiểu hết được sự hi sinh như thế nào của những người lính chiến và những tàn phá khổ đau trên quê hương khói lửa triền miên ngày ấy.
Người chiến sĩ Lê Hằng Minh đã hiên ngang chiến đấu dưới màu cờ cùng đồng đội, chiến hữu. Và trong buổi sáng đẹp trời hôm đó, anh đã ra đi, dũng cảm và liệt oanh khi tuổi đời thanh niên của anh đang tràn đầy sức sống mạnh mẽ, trẻ trung. Chiếc đàn Guitaire yêu quý mà anh luôn mang theo bên mình cũng đã vỡ tan trước mũi súng quân thù. Cuối tháng sáu, gió Hạ Lào đang thổi về như tiếng mẹ ru buồn bay lướt trên những dãy đồi trọc trống vắng quạnh hiu. Hồn anh du nhập theo bóng núi Trường Sơn trùng trùng ngạo nghễ, để lại xác thân bên ven bờ quốc lộ 1 những niềm đau nuối tiếc sống cuộc đời chưa phỉ, chưa đành đoạn xa rời những người thân yêu quý, xin cho trôi ra dòng biển lớn bao la trước mặt, rửa sạch hết những hờn đau của một kiếp người.
Nắng vàng tươi của buổi sớm mai đang trải rộng mênh mông trên mảnh đất cằn khô sỏi đá, tiễn đưa những người chiến sĩ đã sống và vừa chết cho quê hương. Những người con của Mẹ đã ra đi và nằm xuống, nhưng khí hùng bất tử của các anh vẫn là những giọt nắng vàng tươi lấp lánh và chiếu sáng trong hồn Dân tộc, trong lòng những người còn lại hôm nay và mãi đến muôn đời sau. Trung tá Lê Hằng Minh đã anh dũng đền xong nợ nước vào lúc 8 giờ 50 phút sáng tại chiến trường miền Trung năm 31 tuổi, ngày 29 tháng 6 năm 1966, trong bao niềm tiếc thương của bạn bè, thượng cấp và đồng đội chiến hữu khắp các đơn vị.
Chiều hôm sau, chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ quốc đã đưa người chiến sĩ Lê Hằng Minh về Sài Gòn. Chiều hôm ấy mưa rơi tầm tã, gió lạnh tơi bời như những niềm đau cắt ruột của những người thân trong gia đình vừa mất đi một người con, người em, người anh thương yêu. Người mẹ đã cho đi bốn người con trai (Lê Minh Ðảo, Lê Hằng Minh, Lê Hằng Nghi, Lê Quang Thạch) vào trong Quân ngũ. Sau này đã khóc trước sự ra đi vĩnh viễn của 2 người con (Tr/T LHM & T/S LQT) cùng năm tháng mòn mỏi đợi chờ 2 người con còn lại trong lao tù Cộng sản mười mấy năm dài sau biến cố lịch sử 30/4/75 (Thiếu Tướng LMÐ & Ðại úy LHN). Chiếc quan tài buồn đã được đưa về ngôi nhà mà Tr/T LHM đã được sinh ra và lớn lên ở Hàng Keo – Gia Ðịnh. Người Mẹ đã một thân Cò nuôi dưỡng một đàn con với bao dòng nước mắt đau khổ chảy xuôi. Hôm nay thêm một lần chảy xuống thành dòng máu lệ trong trái tim của người mẹ hiền già nua héo hắt! Mọi người trong gia tộc đều thương tiếc và yêu thương LHM đến nỗi cho sơn chiếc quan tài màu trắng là màu ông rất ưa thích lúc sinh thời. Họ đều không được nhìn mặt ông lần cuối mà chỉ biết ôm lấy chiếc quan tài đã phủ kín xác thân, than khóc tiếc thương. Ðám tang của ông được cử hành trọng thể, trang nghiêm với các lễ nghi quân cách, Tổ quốc ghi công, và an táng tại nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi – Sài Gòn. Cố Tr/T Lê Hằng Minh được ân thưởng: Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương, Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương, với nhiều Anh Dũng Bội Tinh, Nhành Dương Liễu, Ngôi Sao Vàng, Bạc và nhiều huy chương khác của QLVNCH.
Trên mộ là bức hình cố Trung tá Lê Hằng Minh mặc quân phục, đội nón sắt (do một phóng viên người Mỹ chụp và đăng hình trên báo Marine Corps Gazette & Time News) cùng khắc hai câu thơ “Vì tôi là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về”. Bởi ông đã chọn đời binh nghiệp, hiến cuộc đời cho Tổ quốc, sẵn sàng chấp nhận hi sinh nên đã không dám nghĩ đến tình riêng, sợ vướng khổ cho cuộc đời cô nhi quả phụ nên khi chết vẫn còn độc thân, chưa lập gia đình. Cái chết của Tr/T Lê Hằng Minh đã là một cái tang xót đau lớn cho gia đình, ngờ đâu 6 tháng sau lại thêm sự ra đi vĩnh viễn của người em gái kế là Lê Mộng Huyền đang là một cô giáo hiền hòa tươi trẻ (dạy học trường Quốc Gia Nghĩa Tử), vì không chịu nổi sự buồn đau trước cái chết đột ngột của người anh ruột mà cô hết lòng yêu kính.
Là một sĩ quan ưu tú của quân đội, là một nghệ sĩ vui tính với ngón đàn tuyệt diệu. Tr/T Lê Hằng Minh còn là một người con rất hiếu thảo với mẹ. Dường như ông biết đời lính chiến của mình có thể ra đi bất cứ lúc nào nên ông đã viết một lá thư tỏ bày sự kính yêu cùng một khoản tiền dành dụm được lúc du học ở Hoa Kỳ, để lại cho mẹ sau ngày ông mất đi. Và đây là những dòng hồi ký ông đã ghi lại những cảm xúc và tâm tình lúc bé thơ, thể hiện một con người đa cảm và nhân ái:
“Ngày… tháng… năm…
Bệnh viện Nguyễn Văn Học tục gọi là bệnh viện nhà nước hay nhà thương thí cũng thế. Anh em mình lớn lên bên bệnh viện này, liên hệ mật thiết với nó như bóng với hình. Mình chào đời vào lúc 8 giờ tối ngày 18/5/1935 tức (16/4 năm Ất Hợi) trong khu Bảo sinh, phòng dành cho công chức, do bà sáu Nhiều đứng đỡ…
Hầu như mình thuộc nằm lòng vị trí của bệnh viện, nào là phòng khám bệnh, phát thuốc, trại 1, trại 2, trại 3, trại 4, trại 5, trại 7, trại Bùi Văn Lố và trại bảo sanh. Sở dĩ mình nhớ như vậy vì bao lần má sinh các em, nào lúc ba bệnh, những khi mình ốm đau đều nhờ nó cả!
Mình lớn khôn, đi xa, thấy rộng, mình có cảm tưởng càng ngày bệnh viện càng nhỏ hẹp lại, cằn cỗi, già… theo má mình vậy!
Mỗi lần đi xa trở về, đi ngang bệnh viện, mình trìu mến nhìn, có ý thưa: “Con mới về đây”.
Ngoài má ra, bệnh viện này là bà mẹ thứ hai có công ơn nuôi dưỡng anh em mình khôn lớn khỏe mạnh đến ngày nay!”
“Ngày… tháng… năm…
Ðến trường
Sáng hôm ấy, vào năm 1940, mình được má đưa đến trường Mac Ferrando – Gia Ðịnh.
Ðêm trước, mình thấy nao nao, cảm giác là lạ khi nghe ngày mai mình phải đi học. Mình thấy ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư đều bận rộn việc đi học của mình. Nhứt là anh Tư *, anh vỗ tay dí vào mũi mình, vừa nhảy cà tửng vừa chộ mình. “Ê, mai mày đi học rồi. Ê, ê…”. Mình nghĩ có lẽ vì ảnh đi học mà mình ở nhà đi chơi với anh Xái nên ảnh tị, bây giờ nghe mình đi học ảnh khoái lắm!
Sáng sớm, bị ba đánh thức rất sớm, mình ăn lót lòng cháo trắng với đường, ba cho mình “hai đồng nửa xu” mới tinh, tay ôm cuốn dầu “con thỏ và con rùa”, tay phải nắm tay má rụt rè tới trường… thỉnh thoảng mình buông tay má vạch túi xem hai đồng nửa xu còn không.
Ðến cổng trường, trời… học trò sao mà đông thế. Những đứa lớn đùa giỡn, la lối, rượt bắt nhau như ong vỡ tổ. Mặt mình lúc ấy hình như mếu rồi, mình sợ quá nắm tay má thật chặt, mặt cứ rúc vào tà áo dài bằng hàng trắng thật mới của má, mình ngửi mùi hàng thấy ngọt ngào làm sao! Có những tên lạ cũng mếu, ngơ ngác theo ba má chúng đi xin học như mình!
Trước căn phòng hiệu trưởng, nhiều người dìu con đi học nên có sự chen lấn xảy ra. Có một tên chèn mình vì bị ba nó kéo lên phía trước… Suýt chút bị sút tay khỏi tay má, mình sợ lạc má nên vội thúc vào hông nó thật mạnh khiến hắn khóc ré lên…
Ðến phiên mình vào, trời khiếp, ông Ðốc Mão sao to béo thế. Ông cầm đơn xin học của mình đoạn nhướng mắt nhìn mình qua làn kính trắng, giọng oang oang hỏi má: “Trò Minh chưa đủ tuổi mà học cái gì?”. Má vội đưa tấm danh thiếp giới thiệu của ông Dournot, thanh tra người Pháp, ông này quen với ba sao đó. Bấy giờ ông Ðốc Mão “dịu giọng” ngay: “Thôi được” và ra lệnh người tùy phái dẫn má và mình đến lớp năm A gặp thầy Phước làm mình thất vọng quá. Ðang hi vọng trở về vì chưa đúng tuổi! Mặt méo xẹo, riu ríu theo má đi gặp thầy Phước, tay ông đang cầm cây thước nhịp nhịp vào không khí, mình thấy ông ta nghiêm quá, vội rúc vào lòng má, ôm chân má thật chắc. Thầy Phước khẽ cười, cúi đầu đáp lễ má và nói: “Dạ, bà giao em cho tôi”, tay thì nắm lấy tay mình kéo đi, mình khóc rú lên “má ở đây má ơi!”, má cười gượng, gỡ tay mình đang ôm đùi má và an ủi mình: “Không sao đâu con, má phải về còn đi chợ nữa chớ”. Mình cố gào thét nhưng vô hiệu!
Má đi rồi, thầy Phước vừa dỗ vừa dọa, tay ông cầm cây thước dọa dọa. Không còn má, mình thấy bơ vơ trong thế giới của học đường và sợ hãi trước ông giáo xa lạ, mình hết dám khóc. Thầy Phước dìu mình đến ngồi bàn thứ hai.
Mình lấy tay áo mới, chùi mắt và mũi, khẽ liếc chung quanh, thấy các bộ mặt “mếu” chẳng khác gì mình, chúng đang lấm lét nhìn ông thầy. Mình thấy dường như vừa mất mát cái gì to lớn lắm!
(*) (Anh Tư: Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo)
Ngày… tháng… năm…
Ngày bãi trường đầu tiên
Mình làm quen thế giới học đường được một năm rồi, sau kỳ thi tất cả 52 đứa đều được lên lớp tư. Không biết thông lệ từ hồi nào, ngày bãi trường là học sinh đóng tiền liên hoan đãi Thầy do các tên lớn đề xướng và tổ chức.
Hôm ấy, từ lớp tư trở lên đều liên hoan rầm rộ. Còn lớp mình im ru buồn hiu vì toàn là bé con. Chẳng có tên nào lãnh đạo, thành lớp mình buồn hơn đám ma!
Có lẽ cảm thấy nỗi buồn ấy, hơn nữa sắp xa đám học trò, các tác phẩm do chính tay mình gầy dựng cả năm trời… bất thần có tiếng leng keng của người Tàu già bán kẹo đục đi qua. Thầy Phước vội kêu vào bảo đục 53 phần kẹo, mỗi phần một xu!
Năm mươi ba phần kẹo được đục xong, thầy Phước móc bóp đếm cẩn thận năm tờ giấy một cắc và ba đồng xu, trả tiền kẹo, tay run run…
Lúc ấy, mình hết nhìn người bán kẹo lại nhìn thầy Phước, xong lại nhìn 53 phần kẹo, miệng nuốt nước bọt. Mình thấy thương thầy Phước quá, bao nhiêu lần bị phạt, bị đòn trong năm đều tiêu tan hết…
Thầy Phước tay chắp sau đít, đi qua đi lại như bao ngày, ông ho gằn mấy tiếng có lẽ vì cảm động, đoạn nói: “Các em, hôm nay ngày bãi trường, thầy trò mình bắt đầu xa nhau… Hôm nay, thầy đãi các em một xu kẹo đục, bắt đầu trò Ẩn đi lên lần lượt lãnh kẹo”. Tụi mình lãnh hết, còn lại một phần, ông cầm lấy và ra lệnh ăn. Ðứa nào đứa nấy mặt hớn hở nhìn Thầy đầy trìu mến!
Trong đời mình, có lẽ không có bữa tiệc nào quý và cảm động bằng một xu kẹo đục của thầy Phước…”
Tâm hồn Lê Hằng Minh giàu cảm tình và nhân hậu là thế, nên khi hồi tưởng lại giây phút tôi gặp chú lúc đi lạc giữa súng ống và binh lính ngổn ngang, sợ hãi đứng khóc một mình trong ngày biến cố đảo chánh ở thành Cộng Hòa. Ðang là vị sĩ quan chỉ huy và cũng chắc rất đang bận rộn với những trách nhiệm của mình, vậy mà chú cũng đến bên tôi, dỗ dành cho nín khóc và đưa về tận nhà. Ðó là hình ảnh tôi không quên qua nghĩa cử của một người có tấm lòng nhân ái đối với trẻ em. Và cũng từ cơ duyên đó, 38 năm sau tôi mới có dịp viết, vẽ lại chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa cao đẹp qua hình ảnh cố Trung tá Lê Hằng Minh.
Chú Minh ơi, sau khi cánh cổng rào nhà cháu khép lại, là từ đó cháu không bao giờ còn gặp lại chú nữa. Nhưng hôm ấy, cháu còn giữ lại nơi chú một nụ cười trìu mến vỗ về, dù cháu đã hết sợ và nín khóc từ lúc mới gặp chú. Cả ngày hôm đó, con bé tám tuổi vẫn nhớ tới chú vì còn giữ mấy cánh hoa sứ trắng trong túi áo mà chú đã nhặt và hái cho. Cháu đã đem ép vào những cuốn sách mà cháu yêu thích nhất vì nghĩ hương thơm hoa sứ sẽ còn hoài trên những trang sách.
Tác giả : Luật Sư Georges Graham Vest (1830-1904) Tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ. Được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.
Thưa quý ngài hội thẩm — Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta. — Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là những đứa con vô ơn. — Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. — Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ. — Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. — Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở: ĐÓ LÀ CON CHÓ CỦA TA. Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù…. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ…. Thì khi ấy còn bên nấm mồ ta là con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi…
Đặng Chí Bình sinh ngày 20 Dương Lịch tháng 2, năm 1933. Tên thật là Châu, còn có tên là Lê Viết Hùng, gián điệp của Việt Nam Cộng Hòa với bí danh X.20. Bị bắt vào năm 1962, khi đột nhập miền Bắc, bị tra tấn và tù đày 20 năm. Tác giả tập hồi ký Thép Đen nổi tiếng đã được tái bản nhiều lần.
Tháng 11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh, khiến những ghe nhỏ không thể cặp vào tầu để vợi muối. Số muối dự định chở sang Singapore phải bỏ lại đến 1 phần 3. Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng 6/75 mới có thể trở về Việt Nam. Tôi thật sự lo lắng miền Nam không thể đứng vững, vì đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc quân có cả một hậu phương rộng lớn: Trung Cộng và các nước trong khối Liên Xô.
Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok, rồi đi Phi Luật Tân… Hết Cebu đến Manila, qua Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc Borneo. Tình hình đất nước ngày một khẩn trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm. Những sà lan, những ghe thuyền chở đồng bào tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển, không lương thực, không nước uống. Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ con đem từ các sà lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng hoàng và xúc động mãnh liêt.
Tôi không phải là một sĩ quan trong quân đội cầm súng chống quân thù. Tôi là một nhà hàng hải, có thể giúp được gì cho Quê Hương, cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này? Tôi rất muốn được giúp đồng bào tôi, được cùng chia xẻ với đồng bào trong giờ phút đau thương này. Ngồi trên con tàu cách xa quê hương ngàn dặm mà lòng tôi bồn chồn như lửa đốt…Tôi cố hồi tưởng và viết lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng nhau vượt biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng Sản và đi tìm Tự Do. Sau đây là diễn tiến của nhiều việc đã đưa đến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân. Những sự kiện mà sau này lúc ngẫm nghĩ lại thì tôi thấy dường như đã được sắp đặt một cách huyền diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi, để thử thách mọi người trên tàu phải phấn đấu để đạt được niềm ước vọng quí giá là hai chữ Tự Do.
Bến kho 5 Khánh Hội Sàigòn, 30/4/1975
Tàu Trường Xuân rời bến Kho Năm, Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975 sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, và quân Cộng sản tiến chiếm Saigon hồi 10 giờ sáng…
(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số và đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.
(2) Lúc ghé Singapore, Cơ khí trưởng tàu Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu say, khi về đến cổng thương cảng thì bị vấp ngã, bị thương ở đầu bất tỉnh nhân sự. Cảnh sát phải chở đi nhà thương điều trị. Tàu Trường Xuân về đến Saigon, Cơ khí trưởng xin tạm nghỉ việc để điều trị vết thương. Vị Cơ khí trưởng này thường phát biểu ý tưởng có nhiều thiện cảm với phe bên kia cho nên tôi nghĩ rằng nếu anh ta không gặp tai nạn thì đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu xuống tàu để di tản và đến giờ phút cuối cùng thì không dễ gì tìm được một người Cơ khí trưởng.
(3) Tàu Trường Xuân về đến Saigon ngày 17/4/75, cặp bến Thương cảng Khánh Hội gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau tàu) ra biển. Tàu đã đến hạn lên ụ để tu sửa đại kỳ hàng năm. Vì công xưởng hải quân bận việc nên tàu chỉ tu sửa những bộ phận cần thiết ngay tại bến thay vì nằm ụ cả tháng trời. Tàu lấy hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100 tấn nước ngọt và 10 bao gạo để chuẩn bị đi Manila. Tàu có thể khởi hành ngày 24/4/75 nhưng tôi nấn ná chưa khởi hành vì tình hình đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng…
(4) Tôi xin Công Ty Vishipco tuyển dụng Cơ khí trưởng Lê Hồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công Ty mới chấp thuận cho Cơ khí trưởng Phi nhận việc.
(5) 5 giờ chiều ngày 29/4/75, tôi xuống tàu không gặp Cơ khí trưởng Phi, và sĩ quan phụ tá cho biết là Phi đã về nhà đưa gia đình ra bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75 hồi 11:30 sáng.”
(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên chở tôi ra tàu cùng với Phạm Trúc Lâm. Đường sang thương cảng Khánh Hội bị chắn nhiều khu phố. Sau khi quan sát tàu, Thuyên đưa tôi về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở khoảng 200 người gồm gia đình, thân nhân và bà con lối xóm, ra thương cảng…
(7) Bình thường trước khi tàu khởi hành, sĩ quan phụ tá phải cho thử tay lái trên đài chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, và chính tôi cũng thân hành tự kiểm soát lại. Tuy nhiên sáng 30/4/75, tôi nhớ là đã tự nhủ phải đi kiểm soát lại tay lái xem có gì trục trặc không, nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái vì bụng bảo dạ: “Giờ này mà còn đi lo những việc nhỏ… Cộng quân đã tiến vào Saigon rồi… Việc thử tay lái đã có sĩ quan phụ tá lo…” Rồi tôi lại tự trách sao lại đi lo những chuyện không đáng lo. Và thực ra không hiểu vì sao chính sĩ quan phụ tá lần đó cũng quên thử tay lái trước khi nhổ neo, vì nếu được biết trước tay lái đã bị hỏng hay bị phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến.
(8) 9 giờ sáng, Sĩ quan Vô tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình…
Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được… (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định cư ở vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)
Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc.
Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.)
(9) Khoảng 12 giờ trưa, dân cũng như quân ào ào đổ xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị gãy. Cơ khí trưởng Phi báo tin tàu có thể khởi hành và tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho tàu tiến nhẹ, bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu chạy thẳng.
Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy, cặp lại bến. Tôi mới nhận ra là tay lái đã bị hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu ép để điều khiển bánh lái, nhưng sau được biết hệ thống điều khiển bánh lái đã bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra và cho nước vào. Thật là một sự kiện kinh hoàng đến choáng óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ chuyến đi…
Cơ khí trưởng sau khi xem xét lại hệ thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng được. Trong suốt cuộc đời làm Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử dụng tay lái phòng hờ, mà bây giờ lại không có lấy được một người thủy thủ biết lái. Chưa biết đối phó với tình huống nan giải thì một người đứng gần đó tự nguyện nhận điều khiển tay lái phụ…
(10) Khoảng 13 giờ, nước bắt đầu lớn – thủy triều lên. Tôi cho mở giây ở phía lái tàu để tàu tự động xoay 180 độ trên sông, hướng mũi ra khơi… Ngay lúc tàu vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi từ bờ đẩy tầu ra giữa sông. 13 giờ 25 tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu qua một ống loa dài chừng 20 thước dẫn đến người bẻ bánh lái ngồi trong một cái chòi ở phía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang phải 10 độ thì tàu lại hướng sang phía trái. Tôi chợt nhận ra ngay là núm điều khiển tay lái phụ chỉ ngược chiều với hướng tàu chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên phải thì tôi lại ra lệnh ngược lại. Cứ thế mà đi trên sông.
(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng Cơ khí trưởng hét lên qua ống loa: “Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay! Phải ngừng máy đèn!” Ai bỏ neo bây giờ? Bỏ neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy ngon trớn.
Đầu óc rối như tơ vò! Nhưng lúc này cần phải bình tĩnh, không thể làm một quyết định sai lầm. Tôi biết rằng không thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng và sẽ không dùng máy để kéo neo lên được. Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc bờ sông vì khi nước triều xuống thì tàu sẽ mắc cạn và tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại duy nhất mà tàu có thể tự cứu vãn là tìm cách cho tàu lên cạn, mũi ghếch lên bờ, chân vịt chìm dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ tự rút ra được.
Chiều xuống, tàu vẫn đâm mũi vào bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản mừng thắng trận nổ vang rền, sáng rực khu Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được vì không còn hơi ép cho nổ máy. Cái nguy căn bản nhất là không còn hơi ép để cho chạy máy đèn. Máy đèn chạy mới có thể có hơi ép làm nổ máy cái. Cơ khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn… Đây có thể là một hành động vô ý thức hay là phá hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc xét xử và điều tra mà phải làm sao cứu vãn được con tàu.
Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu nằm mắc cạn ở đây chắc chắn Cộng sản sẽ bắt hết mọi người. Cùng lắm chúng xử bắn mình là cùng…” Tự nhủ như thế để tâm trí không bị rối loạn vì nếu làm những điều sai lầm trong giờ phút này là mất hết.
Tàu Trường Xuân chờ Tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975
Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi ngang vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy thẳng. Trong lúc đó có một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy từ hướng Saigon đến. Tàu Hải quân thấy vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ ầm vang chấn dội lồng ngực, Song An quay trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu Trường Xuân giây kéo đều bị đứt. Đến gần tối thì nước lớn, Song An mới kéo được tàu Trường Xuân ra sông, rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày 1/5/75 mới tới Vũng Tàu.
(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền Trung đã có bạo động trên những xà lan, cho nên tàu vừa rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập Ban Trật tự và Ban Cứu thương. Nhờ sự tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã có em bé sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được mẹ tròn con vuông.
(13) Vừa tới hải phận quốc tế, lệnh hạ khí giới được triệt để tôn trọng. Tàu khởi hành ra khơi mà tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và nhiều người có thể bị thương hay bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.
(14) Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt được anh Vũ Văn Thụ, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo lắng cho sự an nguy của một nhân mạng, mà mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị kỷ và nghĩ đến những người đồng cảnh ngộ với mình.
Tàu Clara Maersk và Trường Xuân
(15) Nhờ có Sĩ quan Vô tuyến gửi đi những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần Clara Maersk đã đến cứu và đưa chúng ta đến bến bờ Tự Do.
(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi người đã được chuyển sang tàu Clara Maersk an toàn thì một người từ phòng máy đi lên, thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ huy.
Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk.
Tôi đã đi nhiều nơi và gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.
Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy Cơ khí trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ.
Ngày 12/6/2006, tôi được gặp lại Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt Bùi Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ từ Saigon chạy ra. Anh đã bắn phát súng thị uy bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự và một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu Trường Xuân trong lúc tàu Song An buộc dây kéo tàu Trường Xuân ra khỏi cạn.
32 năm đã trôi qua mà hình ảnh và diễn tiến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Những sự kiện dường như đã được tiền định để cho tất cả chúng ta cùng gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu và cùng đến được bến Tự Do.
I. “TÔI ĐÃ KHÓC TRÊN SUỐT ĐƯỜNG VỀ” HAY CHUYỆN CỦA MỘT ÔNG GIÀ NÔ-EN CHUYÊN NGHIỆP
kim thanh kể lại từ báo Mỹ
Eric Schmitt-Madzen, 60 tuổi, cư dân Caryville, Tennessee, sinh ngày 6 tháng 12 (chú thích của KT: đúng ngày lễ Saint Nicholas –còn được gọi là Santa Claus bắt nguồn từ Sinterklaas, tiếng Hòa Lan, thời Trung Cổ) là một kỹ sư cơ khí và giám đốc hãng Packing Seals & Engineering tại Jacksboro. Chuyên đóng vai, và rất giống, Santa Claus, mỗi năm, với thân hình hộ pháp 6-foot, 310 pounds, và chòm râu dài, tự nhiên, trắng như tuyết. Sắm vai ông già Nô-En (chú thích của KT: rất quen thuộc trong ngôn ngữ Việt, le père Noël trong tiếng Pháp, tương tự Santa Claus của Mỹ) rất thiện nghệ, và đặt may riêng một bộ quần áo, màu đỏ. Để mang niềm vui cho bá tánh và tiếng cười hồn nhiên cho trẻ thơ khi mùa đông và lễ Giáng Sinh tới. Một hôm, ông kể, ông vừa từ sở làm về nhà, thì có tiếng điện thoại reo, của một nữ y tá mà ông biết đang làm việc tại một bệnh viện. Cô nói, có một bé trai 5 tuổi đang bị bệnh nặng sắp chết muốn gặp Santa Claus. Ông trả lời, để ông thay trang phục Santa cái đã, nhưng cô bảo, không kịp đâu, bộ dây nâng quần của Santa (suspenders, mà ông luôn đeo sẵn trên người) cũng đủ rồi, và giục ông đến ngay cho. Ông đến bệnh viện, 15 phút sau, thấy mẹ của đứa bé và nhiều người trong gia đình. Bà mẹ đã mua một hộp đồ chơi
và nhờ ông trao cho đứa bé. Ông quyết định sẽ làm gì, và nói với mọi người hiện diện đừng theo ông vào phòng, vì nếu thấy ai khóc, ông sẽ bị xúc động mạnh, và sẽ không hoàn thành nổi công việc. Mọi người đứng bên ngoài, nhưng ghé mắt theo dõi qua cánh cửa sổ, trong hành lang của Phòng Điều Trị Đặc Biệt, và khóc sụt sùi. Ông kể tiếp (nguyên văn): “Khi tôi bước vào, bé nằm yên, yếu đến nỗi như đang sẵn sàng rơi vào cơn ngủ. Tôi ngồi xuống giường, và hỏi: ‘Ông nghe nói rằng con lo sẽ hụt mừng lễ Giáng Sinh, phải không? Không, con không thể nào hụt lễ Giáng Sinh được. Tại sao, con là thằng bé Số Một của ông mà!’ Bé bèn ngước mắt lên, và hỏi: ‘Thật vậy không ông?’ Tôi trả lời: ‘Chắc chắn rồi!’ Tôi trao cho bé hộp đồ chơi. Bé yếu đến nỗi chỉ vừa đủ sức mở hết lớp giấy bọc. Khi thấy cái gì bên trong, bé nở một nụ cười rạng rỡ, rồi đặt đầu lên gối trở lại. ‘Họ bảo rằng con sắp chết’, bé nói với tôi. ‘Con có thể nói gì khi đến nơi dành cho con?’ Tôi bảo: ‘Con có thể làm cho ông điều này được không?’ Bé trả lời: ‘Được chứ!’ Tôi tiếp: ‘Vậy thì con sẽ nói với họ rằng con là đứa bé cưng Số Một của Santa và ông biết chắc rằng họ sẽ cho con vào.’ Bé hỏi lại: ‘Thật thế sao?’ Tôi trả lời: ‘Thật lắm!’ Bé làm động tác như ngồi dậy và ôm tôi, rồi hỏi thêm một câu nữa: ‘Santa, ông có thể giúp con được không?’ Tôi choàng tay ôm lấy bé. Trước khi tôi có thể nói một lời gì thì bé đã chết ngay lúc ấy. Tôi để bé ngồi yên với tư thế đó, vẫn ôm bé trong vòng tay. Mọi người ngoài phòng biết điều gì đã xảy ra. Mẹ của bé chạy vào, thét lên: ‘Không, không, không, chưa đâu!’ Tôi giao cho bà đứa con trai, và rời khỏi phòng rất nhanh với hết sức mình.” Trên suốt đường về nhà, Schmitt-Madzen kể tiếp, ông đã khóc. Khóc nhiều đến nỗi mắt nhòa lệ không còn thấy đường để lái xe. Trong lúc tuyệt vọng, ông đã toan treo lên giá chiếc áo Santa Claus, bỏ nghề. Nhưng rồi gom hết sức lực, ông ráng làm một lần chót: “Khi thấy những đứa nhỏ cười, tôi bị kéo trở lại với các cháu, và hiểu rõ vai trò mình phải thực hiện. Cho các cháu và cho chính tôi nữa.”
Portland, 16 Dec. 2016 Lược dịch bài “I cried all the way home: Boy who asked for last wish dies in Santa’s arms”, Sam Venable (Knoxville, Tenn.), trong USA Today Network, News Sentinel 12:03 p.m. EST December 12, 2016
II. BUỒN BIẾT ĐẾN KIẾP NÀO NGUÔI
kim thanh
Quận Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân. Tôi nhận lệnh dẫn một nửa
Đại đội 202 CTCT, từ Ba Gi (Qui Nhơn), đại bản doanh của Sư Đoàn 22BB, ra tăng phái cho Trung đoàn 40 –lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên đường Bồng Sơn và Tam Quan. Nửa đại đội được chia làm hai toán, mỗi toán trên dưới mười người, do hai chuẩn úy chỉ huy, hằng ngày đi xuống các xã ấp thuộc quận, hoặc bằng xe dodge cơ hữu, hoặc thỉnh thoảng, vì lý do an ninh, bằng trực thăng của Sư đoàn I Không Kỵ (1 st Cav) Hoa Kỳ, để làm công tác Tâm lý chiến, một cách độc lập, nhưng đôi khi phối hợp với Dân sự vụ Mỹ. Xuống những xã, ấp xa xôi, hai toán chúng tôi phải tự bảo vệ, và vì thế được vũ trang tương đối đầy đủ, và các toán viên thường là lính tác chiến đổi về, có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ít khi phải nhờ đến sự trợ giúp của những đơn vị địa phương quân hay nghĩa quân. Tôi nhớ buổi sáng hôm đó là ngày 25 tháng 12, đúng lễ Giáng Sinh. Chuẩn úy Hoàng, trưởng toán, bị bệnh. Tôi phải đi thay, dẫn toán của anh đến ấp Vĩnh Phụng, xã Hoài Xuân –nằm dọc, cũng như những xã khác của quận Hoài Nhơn, theo dòng Lại Giang chảy lững lờ ra biển. Không khí cuối năm vắng lặng, đơn điệu, đến độ nhàm chán. Tại những vùng quê Việt Nam thời ấy không có nhà thờ, không tổ chức mừng Giáng Sinh rầm rộ như dân thành thị, Sài Gòn hay Nha Trang của tôi, chẳng hạn, dù có đạo hay không. Không có tiếng chuông giáo đường ngân vang, rộn rã. Không có, như bây giờ, ông già Nô-En đứng trước cửa siêu thị Mỹ, rung chuông leng keng, chúc lễ và phát quà cho trẻ em. Chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất tại thị trấn Bồng Sơn cho toàn quận Hoài Nhơn, và dân Công giáo, từ các xã ấp, phải lên đó để dự lễ mỗi sáng Chúa Nhật. Chúng tôi đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân sự vụ và Tâm lý chiến. Như thường lệ. Nghĩa là bắt loa kêu gọi dân trong ấp đến tập hợp trên một khoảng đất trống, rộng, và chung quanh có bóng cây xanh mát, lại gần trụ sở ấp, rất an toàn, để được y tá khám bệnh, phát thuốc tại chỗ, hoặc được chở về bệnh viện Bồng Sơn trong trường hợp bệnh nặng, cần cấp cứu… Hay để nghe một toán viên, từ chiếc loa cầm tay, đọc lên những lời viết sẵn đề cao chính nghĩa quốc gia, và kêu gọi đồng bào đừng bỏ xóm làng, “lên núi thoát ly” theo Việt Cộng, đừng “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản” v.v… Các em nhỏ được phát kẹo bánh, tập vở, bút mực, và sau đó được tập bài quốc ca VNCH hay những bài hát quen thuộc, ví dụ, tôi nhớ, Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời… Việt Nam, hai câu nói… hay Đây Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng… Làm xong công tác thì đã hết buổi sáng. Tôi cho cả toán nghỉ ngơi, ăn trưa và tự do đi lại trong ấp, chờ đến giờ trở về Đệ Đức. Còn tôi và một vài anh lính trải poncho nằm bên gốc cây, ngước nhìn ánh nắng lấp lánh chiếu qua vòm lá và nghe tiếng chim hót líu lo trên cành. Một số toán viên, còn trẻ, xin đi vào nhà dân, để thăm hỏi các cụ già và, tôi đoán, để nhân dịp, tán tỉnh các cô gái mơn mởn đào tơ, má hồng môi thắm tự nhiên.
2. Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ chuyện đời, và một anh lính đang nghêu ngao một bài vọng cổ, thì bỗng một tiếng mìn nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ tôi nằm bao nhiêu. Giật mình nhổm dậy, chụp vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ hớt hải chạy về phía tôi: “Ông
Thiếu úy ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia kìa…” Cũng đoán biết được chuyện gì đã xảy ra, chúng tôi tất tả chạy theo các em, về phía cánh đồng, súng cầm tay, trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Đến nơi, thấy nằm nửa dưới ruộng, nửa trên bờ, một bé gái, tức “con nhỏ Út”, độ chín, mười tuổi, cao và gầy như khúc củi, mình mẩy đầy máu, nhuộm đỏ cả chiếc áo cụt trắng. Mấy đứa trẻ mách: Út ra ruộng sớm, mót lúa, đã đạp phải mìn gài sẵn. Chưa biết của bên nào. Tôi thận trọng, đưa mắt quan sát hiện trường, xem có còn quả mìn hay lựu đạn nào chưa nổ, hay một tên du kích nào đang rình chờ chúng tôi. Y tá Thám cúi xuống, cầm lấy bàn tay Út bắt mạch, rồi đặt ống lên ngực nghe nhịp thở, trong khi tôi choàng tay cẩn thận đỡ bé ngồi dậy. Người bé mềm nhũn, miệng rên nho nhỏ. Vì trái mìn bẫy đặt ngược hướng, sợi dây kíp khá dài, và nổ khi Út đứng khá xa, nên thân thể còn nguyên vẹn, không nát bấy, chỉ bị ghim đầy những mảnh sắt li ti. Gương mặt xinh xắn lúc ấy xanh như tàu lá, và cặp mắt lờ đờ ngước nhìn tôi. Thám quay sang, kín đáo khẽ lắc đầu, và tôi hiểu. Từ thân thể Út máu tiếp tục chảy từng giọt, chắc bé đau đớn lắm. Bé kêu khát. Tôi mở bi đông, đổ nước vào nắp, cho bé uống vài ngụm nhỏ. Vừa suy nghĩ rất nhanh. Tại các ấp, như Vĩnh Phụng, làm gì có trạm cấp cứu, nhân viên y tế, hay thuốc men. Chở đi Bồng Sơn không kịp nữa, vì bé đã yếu lắm rồi, lả người trong vòng tay tôi. Gọi máy PRC 25 về trung đoàn, buổi trưa, không gặp ai. Gọi thẳng Sư đoàn 1 st Cav Mỹ xin trực thăng tải thương thì không biết tần số, và tốn thời gian lắm, lại chưa chắc họ tin mình. Không còn biết làm gì hơn, tôi dùng khăn ướt lau sơ máu trên mặt, trên tay của bé và cầu nguyện cho bé gắng gượng thêm khoảng một giờ nữa thôi –thời gian vừa đủ để xe chúng tôi đưa bé về tới Bồng Sơn. Bỗng Út mở to mắt, nhìn thẳng vào tôi, một cách lạ thường, ngơ ngác, như vừa tỉnh cơn mê từ một cõi nào rất xa xôi. Bé hỏi, giọng thều thào:
-Con qua nổi không chú? Tôi liếc nhanh về phía y tá Thám, rồi gật đầu:
– Qua nổi chứ con! Nếu con hứa là con gượng thêm một giờ nữa, các chú sẽ đưa con về được bệnh viện Bồng Sơn… Bé mở hé đôi môi, cố gắng mỉm cười, khó khăn, lắc nhẹ đầu, và đáp khẽ:
-Không kịp đâu chú, con biết con sẽ chết, con mệt quá rồi. Khi nãy ngủ mê, con có gặp mấy cô áo trắng có cánh nói đang chờ để rước con đi… Rồi Út nói tiếp, giọng rời rạc, càng lúc càng nhỏ dần, nhỏ dần:
– Chú ơi, con muốn được ôm, trước khi chết… Con là đứa mồ côi, không cha không mẹ, không người thân thích… Con ở đợ, mót lúa cho nhà người ta… Không ai thương con hết… Con muốn được ôm, một lần thôi… Tôi bật khóc, ôm bé vào lòng, hôn lên hai má, mà nước mắt tuôn trào như mưa, chảy xuống ướt chiếc áo trận, hòa lẫn với máu của bé chưa kịp khô. Vừa lúc ấy, trên cặp môi tím ngắt, bé như cố nở một nụ cười mãn nguyện. Rồi ngoẹo đầu vào ngực tôi, bé làm động tác muốn giơ hai cánh tay lên, nhưng không đủ sức, bỏ xuống, và nửa giây sau, bé từ từ nhăm mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi. Tất cả diễn ra không đầy bốn phút, từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng.
Tôi nhẹ nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn trong tấm poncho còn mới của tôi. Bé đã được liệm bằng poncho, giống như một người lính chiến thật sự. Giống như những đồng đội của tôi chết trận tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết, Quảng Đức… năm nào. Nhìn quanh, tôi thấy mọi người vẫn đứng yên, lặng thinh, mắt đỏ hoe, kể cả tốp lính địa phương quân vừa kịp đến để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này. Tôi biết, cũng như tôi, những người lính, rất chai lì vì phải thường trực thách đố với cái chết cận kề, không khóc dễ dàng. Nhưng trước thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út, một bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh tàn khốc, phi lý, gỗ đá cũng khóc theo, huống chi người. Khi tôi hỏi, mìn do ai gài, một anh địa phương quân nói lớn, giận dữ:
-Mìn của mấy thằng du kích Việt Cộng gài đó, ông thầy. Còn ai trồng khoai đất này. -Sáng nay, tụi em chưa kịp đi gỡ thì con nhỏ Út ra ruộng sớm, đạp trúng. Tội nghiệp nó quá. Tôi giao tấm poncho gói xác Út cho nhóm địa phương quân và moi tiền từ các túi quần, cộng với tiền gom góp của anh em tự nguyện trong toán, không đếm bao nhiêu, nhưng đoán khá nhiều, đưa hết cho trung sĩ trưởng nhóm, và nói:
Bé Út mồ côi, nghèo khổ, tôi nhờ các chú mua cái hòm cho bé và làm ơn chôn cất tử tế giùm. Còn thiếu bao nhiêu các chú bù giúp cho.
3. Trên đường về lại Bồng Sơn, cả toán không ai nói với ai một lời nào. Giống như một lần trước đó không lâu, khi chúng tôi chở đến bệnh viện quận lỵ một bé trai mười tuổi từ một ấp, xã khác, gần hơn, đã đạp phải lựu đạn cũng của Việt Cộng –bị thương khá nặng, nhưng sống sót, vì được cứu kịp thời, chỉ phải cưa một chân. Tôi ngồi im, như tượng đá, và mắt vẫn còn cay sè. Đến Bồng Sơn, đi ngang nhà trọ của Thơ Thơ, tôi bảo tài xế dừng lại, chờ tôi mười phút. Nàng mở cửa, thấy quần áo tôi dính bê bết máu, hoảng hốt hỏi dồn:
-Trời ơi, anh bị thương phải không? Tôi lắc đầu, gượng mỉm cười. Nàng ôm tôi vào lòng, siết chặt, như sợ tôi bay đi, và tôi kể hết câu chuyện bé Út. Nàng vừa nghe vừa rơm rớm nước mắt. Rồi nghẹn ngào nói nhỏ:
Tội nghiệp bé quá. Tối nay em sẽ thắp nhang khấn vái cho hồn bé được siêu thoát. Sau khi nghe chuyện này, em yêu anh quá, em yêu anh nhiều hơn, em yêu anh mãi mãi. Mãi mãi, anh biết không? Cái chết cũng không bao giờ có thể chia lìa hai đứa chúng ta. Hôm sau, Hoàng hết bệnh, tôi bèn trả lại toán cho anh để tiếp tục xuống công tác thường nhật tại Vĩnh Phụng. Còn tôi, từ đó cho đến ngày rời bỏ Bồng Sơn trở về Bà Gi, tức hơn nửa năm sau, không bao giờ đặt chân lên ấp đó nữa, dù chỉ ghé qua một lần. Để tránh nhớ một trong những kỷ niệm thảm thương nhất, nếu không muốn nói một kỷ niệm thảm thương nhất, trong suốt đời lính. Sau ba tháng, tôi được lệnh bỏ quận Hoài Nhơn, điều động cả hai toán ra công tác ở Tam Quan –một quận lỵ nguy hiểm nhất của Bắc Bình Định.
4. Rồi qua bao nhiêu thăng trầm, trong suốt hơn nửa thế kỷ, kể từ Noël 1969 đó, tôi cố quên chuyện bé Út, giữa những chuyện khác về Bồng Sơn, cũng không kém buồn
đau, đã được kể rồi trong bài “Bồng Sơn, dòng sông tương tư”, như chuyện ba người trong đại đội tôi bị phục kích chết, sau lần công tác ở Tam Quan trở về, hay Thơ Thơ, người yêu dấu, bị mất tích, tháng 4, 1975, trên đường di tản từ Kon Tum. Muốn xem tất cả như dĩ vãng tàn khốc và kỷ niệm thảm thương của chiến tranh, của một thời để yêu và một thời để chết. Cố quên, nhưng không thể được. Đặc biệt bé Út. Quả thế, cứ mỗi cuối năm khi mùa Giáng Sinh tới, và nhất là những lần giơ tay ôm hug ai, hay toan ôm ai vào lòng, thì hình bóng tội nghiệp của bé bỗng dưng lại hiện về trong tâm trí, với thân xác đầy thương tích, đau đớn, với những lời thều thào, đứt quãng, “con muốn được ôm… không ai thương con hết…” Hỡi ơi, buồn này biết đến kiếp nào mới nguôi? Như một ám ảnh dịu dàng, vời vợi. Như một linh hồn nhỏ mồ côi, trắng tinh như tờ giấy mới, xua bao tăm tối ra khỏi trái tim cằn cỗi. Như một quý nhân phù trợ mà anh linh còn mãi lẩn quất bên tôi, hơn cả chiêm bao, qua suốt nửa thế kỷ. Để cùng với Thơ Thơ, một hồng nhan bạc phận, cầm tay tôi, dắt đi qua những phong ba của cuộc đời này.
Portland, 19/12/2020 Bài viết này đã được chính tác giả ra Anh ngữ Kim Thanh
III. ĐÊM GIÁNG SINH TRONG TRẠI TÙ LONG GIAO
kim thanh
1. Tháng 12 năm 1975. Chúng tôi bị lừa, bị lùa vào trại Long Giao, do bộ đội quản lý, và đã ở đó hơn sáu tháng. Long Giao thuộc tỉnh Long Khánh, là một căn cứ cũ của Sư đoàn 18, mà trước kia tôi chưa hề đặt chân đến, nói chi bấy giờ bị giam cầm tứ phía lại càng thấy mù mịt hơn. Thời gian buồn hiu và không gian xám ngắt. Trời mưa, đất Long Giao trơn như mỡ và biến thành bùn đỏ quyện vào chân và gấu quần, không khác chi đất Pleiku, Kontum và Ban Mê Thuột mà tôi đã ghé ở qua những ngày chinh chiến cũ. Tù binh được chia thành tổ, mỗi tổ gồm tám đến mười người. Bốn tổ lập thành một đội, còn gọi là nhà, hay B. Dãy tù kế bên, ngăn cách bởi một hàng rào kẽm, dành cho sĩ quan cấp tá, trong đó có Thiếu tá Lê Ân, Văn Hóa Vụ trưởng trường Đại Học CTCT Đà Lạt, chỉ huy trực tiếp của tôi, mà thỉnh thoảng tôi được thấy mặt và chào hỏi qua lớp kẽm gai. Có một khu giam riêng một số nữ quân nhân, từ cấp trung tá trở xuống, vài chị
trông rất trẻ, đẹp. Đôi khi gặp nhau tình cờ ngoài hiện trường lao động, các chị nhìn chúng tôi với ánh mắt buồn bã, cảm thương, nếu không muốn nói tội nghiệp, mặc dù cùng trong cảnh chim lồng cá chậu.
2. Tổ tù của tôi gồm tám người, thuộc đội 2, còn gọi là B2, Nhà 2, dưới quyền của “nhà trưởng” tên Thạnh, người Huế, mập lùn, đại úy Công Binh, hiền lành, dễ dãi, ví dụ mỗi lần phải thi hành “lệnh trên” anh đều lịch sự năn nỉ các đội viên (“xin các anh làm ơn… cố gắng…”), thay vì hống hách, nạt nộ, đe dọa như một số B trưởng tiến bộ quá nhanh, muốn lập công để được tha về sớm. Một nửa tổ tôi là sĩ quan ngành Y ‒ít nhiều quen biết nhau ngoài đời, trong số có người bạn cùng đơn vị, bác sĩ Đặng Phùng Hậu, trưởng bệnh xá Trường Đại Học CTCT, và bạn của anh, bác sĩ Trần Đại Quốc, nghe nói có liên hệ bà con với một cán bộ cao cấp đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Hòa đàm Paris. Tuy vậy, tôi không coi điều đó quan trọng, vì Quốc là người bạn tù tốt, chững chạc, cởi mở, có tư cách, và theo tôi nhận xét lúc ấy, thuộc loại “phản động” hạng nặng. Thỉnh thoảng buổi chiều cùng tôi đi dạo mát trong sân, anh nhắc nhở: “Đừng bao giờ tin VC. Đừng bao giờ khai thật, và khai sao thì nhớ giữ nguyên lời khai, không thay đổi.” Y như lời ba tôi khuyên nhủ, trước ngày tôi chuẩn bị trình diện đút đầu vô rọ. Ngoài ra, có bác sĩ Nguyễn Xuân Thanh, người Huế, và dược sĩ Trần Lương Ngọc, Bắc kỳ di cư, cả hai rất tử tế, vui vẻ. Bốn sĩ quan ngoài ngành Y Dược là anh tổ trưởng, đại úy đại đội trưởng Địa Phương Quân Vùng 4 tên Lân, một trung úy Pháo Binh tên Thanh, ít nói, một đại úy Hành Chánh Tài Chánh tên Thạnh, đều dân Nam kỳ, và tôi, quê Nha Trang, đại úy Trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đó là một nhóm thân hữu dễ thương, chia cho nhau từng mẩu bánh mì khô, từng lát thịt bò ướp mỗi lần một tổ viên được “thăm nuôi”, tin tưởng nhau, phát biểu, bình luận thời cuộc một cách vung vít mà không sợ bị báo cáo. Trong tổ, chỉ một mình tôi là Công giáo.
3. Mấy ngày trước Noël, Bác sĩ Nguyễn Xuân Thanh gọi tôi ra sân, vừa cùng đi bách bộ vừa nói nhỏ: – Đêm Noël một số anh em sẽ tổ chức mừng lễ. Mọi thứ đã được chuẩn bị. Bây giờ nhờ anh viết lời bài hát “Đêm Thánh Vô Cùng” ra tiếng Pháp và Latin. Tiếng Anh thì có người lo rồi, bản tiếng Việt thì tôi thuộc, vì trước kia tôi học trường đạo ở Huế. Nói xong, anh bắt giọng, hát cùng với tôi, khe khẽ: Đêm thánh vô cùng… Giây phút tưng bừng… Đất với trời… Silent night, holy night, All is calm, all is bright. Round yon virgin mother and child, Holy infant, so tender and mild.
Sleep in heavenly peace, Sleep in heavenly peace … Phần tôi phấn khởi lắm, nhưng không hỏi thêm chi tiết. Và nhận viết lời Pháp mà tôi thuộc từ hồi nhỏ. Còn Latin, tôi không biết nguyên văn, nhưng dựa theo tiếng Pháp mà dịch đại ra, không tự điển, và bây giờ chỉ còn nhớ câu đầu: Tranquilla nox, sancta nox… Sau đó, từng nhóm nhỏ tập dượt, bằng cách đi trong sân, khuất những cặp mắt ăng-ten, nhất là hung thần tên Bái, ở cùng đội B2, bảo hoàng hơn vua, lúc nào cũng mặc bộ bà ba đen cổ quấn khăn rằn, trông ngứa mắt không chịu nổi, chuyên lấy điểm cán bộ bằng cách tố cáo, kết án đồng tù, và tôi cũng là một trong nhiều nạn nhân bị hắn đấu tố, những buổi đội họp kiểm điểm, về cái tội “chây lười lao động” và là “sĩ quan dạy tại trường đại học CTCT ác ôn”. Trong lúc tập dượt, nhóm chúng tôi hát thuộc lòng âm ư trong miệng. Chỗ nào vắng vẻ, an toàn, thì lên giọng to hơn. Tôi hướng dẫn phát âm lời Pháp và Latin.
Douce nuit, sainte nuit! Dans les cieux! L’astre luit. Le mystère annoncé s’accomplit Cet enfant sur la paille endormi, C’est l’amour infini, C’est l’amour infini …
4. Đúng đêm 24. Đêm Chúa sinh ra đời. Mới bảy giờ, trời đã tối. Từ trại, nhìn ra quang cảnh chung quanh, tôi thấy có những ánh đèn leo lét, trong một xóm nhà về hướng Tây, tức hướng Sài Gòn, và, cao hơn, một ngôi sao khổng lồ thắp sáng trên nóc một ngôi thánh đường. Các bạn bảo tôi, “đó là xóm đạo di cư Long Giao”, nhưng không ai biết họ đạo ấy tên chính xác là gì. Một lúc sau, từ nhà thờ vọng lại, liên hồi, tiếng chuông Noël giục giã, quen thuộc. Quen thuộc, vì thời gian trước 1975, không bao giờ tôi thiếu vắng nó, vào mùa Giáng sinh, dù phải xa gia đình êm ấm, kể cả những đêm hành quân ngủ bờ ngủ bụi, lúc chiến tranh trở nên khốc liệt. Đêm ấy, trong trại tù Long Giao tình cờ được nghe lại, tôi nghĩ đó là một ân sủng từ Chúa Hài Đồng còn xót thương, một lần duy nhất như kỷ niệm bền lâu, vì những năm sau, bị đưa ra Bắc, tôi không còn bao giờ được nghe nữa. Tiếng chuông Noël thân thương tắt lịm, chết đi –như cuộc đời chúng tôi. Không có cả tiếng chuông gọi hồn ai, for whom the bell tolls, như trong Hemingway. Tự dưng thấy lòng bồi hồi, xúc động. Nước mắt lưng tròng. Chợt nhớ một đoạn văn, trong quyển Souvenirs de la maison des morts, đã đọc thời trung học, của văn hào Nga, Dostoïevski, bị lưu đày ở Sibérie, cũng kể rằng đêm Noël ông nghe từ một xóm đạo xa xa tiếng chuông nhà thờ vẳng lại. Vừa lúc ấy, Dostoïevski viết, tình cờ tên cai ngục mở cửa, và ông có cảm tưởng Thiên Chúa đã hiện ra với ông. Đối với một tử tù biệt giam, xa cách thế giới loài người, sự hiện hữu của bất cứ ai, kể cả tên cai ngục, là một đặc ân, niềm an ủi và mừng vui vô biên Chúa gửi đến.
Bao nhiêu năm qua rồi, những đêm Giáng Sinh cứ tiếp nối trên xứ sở tự do, sung sướng, mà sao tôi vẫn không tìm lại được cảm xúc êm đềm, niềm hoan lạc vô giá, từ một đoạn văn cũ ấy –cái cảm xúc kỳ lạ, lâng lâng, bình an trong hồn những tù nhân cô đơn, tuyệt vọng. Và gần hơn, từ đêm Noël đầu tiên tại một trại giam Việt Cộng. Từ tiếng chuông vọng về của một xóm đạo, phía bên kia đời văn minh, gần gũi mà sao thấy xa vời vợi, còn sót lại phủ đầy ánh sáng và yêu thương, dưới chế độ vô thần, bạo tàn, rừng rú. Từ những bài hát Giáng sinh được tập dượt trong những buổi chiều lén lút, lo âu tại trại tù Long Giao.
5. Tám giờ. Trên sân bên hông tổ chúng tôi, một bó lửa được thắp lên giữa những thanh củi xếp theo hình ô vuông, và các anh em từ những đội khác nhanh chóng kéo tới tập họp làm thành vòng tròn lớn, nắm tay nhau hát to bài “Đêm Thánh Vô Cùng” bằng bốn thứ tiếng, do Nguyễn Xuân Thanh, cùng vài anh khác, điều khiển và bắt giọng. Những khúc củi được thảy vô thêm, và ánh lửa vươn cao, bập bùng, vui như trong đêm lửa trại của hướng đạo sinh. Không có cây sapin, không có hoa đèn rực rỡ, không có cả một linh mục nào chủ lễ, xướng kinh. Chỉ có tấm lòng và đức tin bền vững của tù nhân dành cho Thượng Đế trước những bất hạnh, tủi nhục, đọa đày. Những tù binh không tham gia cũng đứng chung quanh, tò mò nhìn, trong số, dĩ nhiên, có vài tên ăng-ten mà ai cũng biết tiếng. Khoảng mười phút sau, hát xong, trong khi anh em đứng lặng im, trầm tư, có người lâm râm cầu nguyện, thì bỗng nghe tiếng chân bộ đội rầm rập chạy về phía chúng tôi, súng lên đạn kêu răng rắc. Lập tức, tất cả tự động giải tán, ai về phòng nấy, biến mất như những bóng ma, cũng nhanh chóng như khi tập họp. Tôi nán đứng lại xem, bên đống lửa gần tàn, với vài người trong đám hiếu kỳ. Một thằng ăng-ten nổi danh, thuộc một B khác, cựu phi công trực thăng tải thương, đứng chỉ chỏ, báo cáo. Bọn lính và quản giáo luôn mồm hỏi: “Anh nào cầm đầu tổ chức phản động? Anh nào?”. Không ai biết, kể cả những tên ăng-ten. Mà biết cũng không ai nói, trừ bọn này, dĩ nhiên. Cuối cùng một anh, nói giọng Bắc, bước ra “nhận tội” thay cho tất cả. Sáng hôm sau, anh tù binh Lê Lai cứu chúa ấy, các đội trưởng và một số “nghi can” khác bị dẫn đi làm việc. Rất may, không ai bị kỷ luật, yên ổn trở về các đội. Trong một cuộc điện đàm mới đây, Bác sĩ Hậu cho biết thêm: “Khi cán bộ và bộ đội chạy đến sân hỏi ai là người tổ chức, anh trưởng đội B1, mà rất tiếc moa không nhớ tên và binh chủng, hình như là một phi công, bước ra nhận chính anh là người tổ chức đêm nguyện cầu đó”. Nghe Hậu nói, tôi mới kịp nhớ và óc tự động quay lại đoạn phim này, lúc ấy không quan trọng lắm, nhưng bây giờ rất quý báu vì chứng tỏ thái độ hiên ngang và cái dũng hiếm hoi của một cựu sĩ quan QLVNCH trong lúc sa cơ. Nguyễn Xuân Thanh, tôi biết, chỉ là người được phân công móc nối trong B2 chúng tôi, không phải người đứng ra tổ chức. 6. Khi bài viết của tôi được các cư dân Mạng, Netizens, đọc thì một cựu tù nhân không quen, viết cho tôi, qua email, nguyên văn: “Khi nằm ở Nam Hà B, tôi gặp anh Lộc (hình như Trần Tấn Lộc), truyền tin, nói chính anh ấy đề xướng vụ hát giáng sinh
này.” Rất có thể như thế lắm. Vì tù binh quá đông, không ai có thể biết hết tất cả. Vả lại, tại trại, khi tiếp xúc với Nguyễn Xuân Thanh, tôi không hỏi ai tổ chức, mà Thanh cũng không tự động nói. Về sau, chuyện này, cán bộ trại không nhắc đến nữa. Riêng tôi vẫn nhớ mãi, kể từ đêm ấy đến nay đã 45 năm. Rồi một số được đổi đi trại khác, phần đông là giới Y Dược, trong đó có bốn chàng mousquetaires của tổ tôi, về trại Kà Tum ở thêm hai năm nữa, trong điều kiện khắc nghiệt hơn Long Giao nhiều, Hậu kể. Còn lại, rất đông, có tôi, bị “biên chế” phân tán đi các đội khác, để vài tháng sau được tàu Sông Hương chở ra Bắc ưu ái bán cái cho Công An, bắt đầu một cuộc hành trình mới gian nan hơn, khổ cực hơn, dành cho những “tù nhân chính trị” chánh hiệu.
Một buổi chiều, cách đây 17 năm, tiếng điện thoại vang lên. Bác sĩ Nguyễn Xuân Thanh bất ngờ gọi tôi từ Oakland, CA. Mừng rỡ. Ôn lại biết bao kỷ niệm. Nhất là về cái đêm Giáng Sinh 1975 tại Long Giao. Sau đó, thỉnh thoảng tôi gọi Thanh. Tháng 12 năm 2011, máy nhắn trong điện thoại của anh trả lời “no longer in service”. Về đâu rồi, hỡi bạn Nguyễn Xuân Thanh, một trong những người hùng đêm Noël 75? Còn Bác sĩ Trần Đại Quốc, theo lời một người cháu họ của anh cho biết, hiện còn ở Việt Nam. Bác sĩ Đặng Phùng Hậu đang có phòng mạch tư tại Port Arthur, Texas, và năm 2004, đã đến Portland cùng với bà xã, tham dự lễ hôn phối của vợ chồng tôi. Dược sĩ Trần Lương Ngọc, nghe nói, đang làm việc tại một bệnh viện Sài Gòn. Những bạn đồng tù thân thiết khác thì bặt vô âm tín. Trừ một anh tên Nam họ Huỳnh, cựu đại úy Hải Quân, cùng đội B2, hiện ở San José, một lần tìm đâu được số điện thoại của tôi, đã gọi lên thăm…
Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.
Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ.
Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến.
Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội.
Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.
Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.
Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.
Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được.
Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới.
A, tay này ngon.
Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp.
Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng.
Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.
Giây phút cuối của Chương Thiện,
Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:
“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua.
Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975.
Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá.
Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “
“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”
Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.
“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo.
Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà nói rằng.
“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”
Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính.
Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức.
Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Biển Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó.
Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.
Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.
Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn. Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.
Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.
Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.
Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.
Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế
Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế. Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.
Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m Vietnamese.” Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế …!
. Ku Búa @ Café Ku Búa PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa !!!
Kính chuyển đến đến các bạn hàng trăm phim xưa hay và giá trị của thế kỷ 20 (có phụ đề Việt ngữ) như: Cleopatra, Titanic, Love Story, God Father, Romeo Juliette, 7 hiệp sỹ đạo, Bạch Tuyết 7 Chú Lùn, James Bond …