30/4 XIN ĐỪNG VONG ƠN

Tâm Tư Ngày Quốc Hận Thứ 43, giáo sư Nguyễn Thanh Giàu đã nói:
“Chúng tôi rất buồn khi thấy một số người sinh hoạt tôn giáo bị ru ngủ bởi một câu nói ‘tôn giáo không làm chánh trị’. Chính họ đã khoanh tay, bó gối, thản nhiên nhìn đồng bào chúng ta tiếp tục bị đau khổ, bị cướp bóc, bị tù đày và dần dẩn nước mất mà họ vẫn dững dưng…..Những người Vượt Biên và những người bỏ mạng trên đường vượt biên là những Anh Hùng…Nếu không có HỌ thì làm sao thế giới mở rộng vòng tay đón nhận người tỵ nạn…và nếu không có HỌ thì ngày nay làm sao có cộng đồng người Việt ở khắp năm châu…”
Và nếu không có HỌ thì làm sao ngày nay có nhà thờ, chùa chiền của người Việt ‘nguy nga, tráng lệ’… Thế mà Ngày Quốc Hận 30/4 biết bao người kể cả các ‘ngài’ lãnh đạo tinh thần tôn giáo không hề quan tâm đến, không một lời cầu nguyện và tri ân đồng bào bỏ mạng trên đường vượt biên hay cám ơn những người tỵ nạn cộng sản sớm đặt chân đến các nước tự do, có công khai phá, xây dựng cộng đồng người Việt khắp nơi….Những kẻ vong ơn này đã và đang đạp đổ đạo lý làm người của dân tộc Việt và đi ngược lại văn hóa, đạo lý của người bản xứ vốn xem nặng hai chữ ‘THANK YOU’. Vì ‘CẢM ƠN’ hay TRI ÂN’ là văn hóa và đạo lý làm người của các xứ sở văn minh, tiên tiến….Hai chữ ‘Cảm Ơn’ bị lãng quên và lu mờ ở các nước cộng sản: xã hội cộng sản Việt Nam ngày nay đã là vậy.

VONG ƠN’…Bài nói chuyện Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4/1975 lần thứ 43, năm 2018 đáng phải nghe, nhất là giới sinh hoạt tôn giáo và qúy vị ‘lãnh đạo tinh thần tôn giáo’

https://www.youtube.com/watch?v=2vp_yjivuK4

Người phi công Việt Nam đầu tiên

Đỗ Hữu Vị (1883 – 1916)
Đỗ Hữu Vị – phi công đầu tiên của Việt Nam

Đỗ Hữu Vị sinh năm 1883 tại Chợ Lớn, là con thứ năm trong số 11 người con của của tổng đốc Đỗ Hữu Phương.

Trong số những phi công đầu tiên của Pháp là người Đông Dương có Phan Thất Tạo, Cao Đắc Minh, Felix Xuân Nha, Đỗ Hữu Vị, nhưng đại úy (capitaine) Đỗ Hữu Vị, được xem là anh hùng nổi tiếng nhất. Đến nỗi, nhà nước Pháp cho phát hành tem mang hình ông.

Tem Đỗ Hữu Vị phát hành tại Đông Dương

Điều thú vị là trong dịp kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ nhất, truyền hình Pháp đã công bố các hình ảnh, tư liệu quý hiếm về binh lính Việt tham gia chiến trường này.

Hình ảnh Đỗ Hữu Vị với bộ ria mép đầy chất lính xuất hiện nhiều lần, từ các tấm ảnh ông chụp chung với các sĩ quan Pháp ở trường đào tạo không quân đến cảnh ông ngồi lái máy bay, cưỡi ngựa. Các bưu ảnh cũng in hình ảnh, tên tuổi ông trang trọng…

Đỗ Hữu Vị là con trai thứ năm trong 11 người con của ông Đỗ Hữu Phương, vị tổng đốc khét tiếng giàu có nhất nhì miền Nam hồi cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1883 theo giấy tờ khai tại Pháp (có tài liệu cho rằng năm sinh thật của ông là 1881), ông Vị cùng các anh em trai của mình được người cha chịu ảnh hưởng sâu nặng văn hóa Pháp cho theo học trường Tây tại Sài Gòn.

Sau đó, anh em ông tiếp tục sang Pháp học Trường Janson de Sailly, Paris. Giống cha mình, họ nhanh chóng trở thành “người Pháp” hơn cả dân Pháp.

Rời ngôi trường cổ kính này, ngày 1-10-1904, ông Vị đăng ký nhập học Trường võ bị Saint-Cyr. Đây là trường đào tạo sĩ quan cực kỳ danh giá của nước Pháp, lò tôi luyện của rất nhiều tướng lãnh Pháp, trong đó có đại tướng Leclerc, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp quốc tại Đông Dương.

Trải qua hai năm ở Saint-Cyr, năm 1906 Đỗ Hữu Vị ra trường với quân hàm thiếu úy (sous – lieutenant) trong quân đoàn lê dương số 1, tham chiến tại các chiến địa Oujda Maroc, Casablanca, Algérie…

Sau một thời gian dài chinh chiến, đến cuối năm 1910 ông Vị tiếp tục đăng ký vào Trường Quân sự lái máy bay (l’école militaire de pilotage).

Đây là thời điểm nền hàng không thế giới mới ở buổi bình minh phát triển, đặc biệt là không quân, nên sự chọn lựa của ông được rất nhiều người ngưỡng mộ.

Tháng 11-1911, ông tốt nghiệp khóa học được cấp bằng lái máy bay của Aéroclub de France và thăng một cấp lên trung úy. Nam Phong Tạp Chí số tháng 2-1920 đã có bài viết rằng Đỗ Hữu Vị là phi công Việt Nam đầu tiên bay vòng quanh nước Pháp.

Đây có lẽ chính là chuyến bay ông đã thực hiện cùng người bạn phi công Pháp Victo Ménard năm 1911 và được ghi vào sử sách.

Ngoài ra, ông cũng là phi công lái thử máy bay mới, không chỉ đòi hỏi kỹ năng điều khiển mà cần cả sự dũng cảm bởi phương tiện hàng không buổi sơ khai này còn rất kém an toàn.

Trong một lần bay thử chiếc Gaudron hai tầng cánh, khi đã lên đến độ cao 300m thì máy bay bị trục trặc, rơi xuống nhưng ông may mắn thoát chết.

Trong hồ sơ quản bạ quân đội, Đỗ Hữu Vị tham gia quân đội Pháp ở Maroc. Nhưng đến năm 1914 ông trở lại Việt Nam để trở thành một trong những người Việt đầu tiên học vận hành loại thuyền lướt trên sông chạy bằng động cơ cánh quạt máy bay do Charles de Lambert chế tạo.

Đây chính là khoảng thời gian nền khoa học hàng không thế giới mới xuất hiện ở nước Việt. Đỗ Hữu Vị trở thành phi công Việt Nam bay biểu diễn cùng các phi công nước ngoài ở Sài Gòn và Hà Nội. Ông cũng tham gia câu lạc bộ hàng không đầu tiên do người Pháp thành lập ở Đông Dương.

Tuy nhiên, Đỗ Hữu Vị không thể nán lại quê hương được lâu. Năm 1914, cuộc đại chiến thế giới bùng phát khốc liệt, ông lại cấp tốc sang Pháp cùng người anh Đỗ Hữu Chấn để tái nhập đơn vị không quân chiến đấu ngay tại chiến trường chính quốc này.

Ông đã tình nguyện tham gia nhiều trận chiến nguy hiểm và được giao trách nhiệm phi đội phó một phi đội máy bay ném bom.

Trong danh sách các phi công thuộc địa tham chiến cùng quân đội Pháp, người ta tìm thấy những tên tuổi đến từ Đông Dương như Phan That Tao, Cao Dac Minh, Do Huu Vi, Felix Xuan Nha…, nhưng Đỗ Hữu Vị có lẽ nổi bật hơn cả bởi những tên đường, trường học, bưu ảnh mà người Pháp đã lưu danh ông.

Nhắc nhớ sự dũng cảm của phi công Việt Nam này, người Pháp kể lại chính câu nói của ông: “Sự can đảm của tôi gấp đôi người thường vì tôi vừa là dân Pháp vừa là người Việt”.

Tham chiến

Năm 1915, thời điểm Thế chiến thứ nhất diễn ra vô cùng ác liệt, quân Pháp chịu nhiều thiệt hại nặng trước đối thủ Đức.

Cũng trong năm chiến sự nóng bỏng này, Đỗ Hữu Vị rơi máy bay sau một trận đánh vì trúng một trận bão lớn. Chiếc chiến đấu cơ hư hỏng hoàn toàn, ông bị thương nặng, bất tỉnh gần chục ngày với cánh tay gãy, vỡ xương hàm mặt nhưng một lần nữa lại thoát chết…

Sự can đảm của Đỗ Hữu Vị tiếp tục làm cho người Pháp kính nể khi ông không chịu giải ngũ theo tiêu chuẩn thương binh được hưởng, mà vẫn tình nguyện ở lại đơn vị dù không thể lái máy bay được nữa.

Được thăng quân hàm đại úy, ông đảm nhiệm công việc mặt đất hỗ trợ không chiến. Sau đó ông gia nhập quân đoàn kỵ binh lê dương số 1 và được giao nhiệm vụ chỉ huy đại đội số 7 cùng khoảng 300 quân ở mặt trận Somme, miền Bắc nước Pháp.

Đây là chiến địa vô cùng tàn khốc trong Thế chiến thứ nhất mà liên quân Anh – Pháp và đối thủ Đức bị thương vong hàng trăm ngàn binh sĩ với hàng chục sư đoàn bị xóa sổ.

16 giờ chiều 9-7-1916, tức khoảng một tuần sau khi trận đánh quy mô ác liệt nhất kéo dài suốt năm tháng ở vùng này nổ ra, đại úy Đỗ Hữu Vị được giao chỉ huy đơn vị của mình đánh phá chiến hào quân Đức ở cánh đồng giữa hai làng Belloy – en – Santerre và Estrée.

Trong một đợt chỉ huy xung phong, ông bị trúng nhiều phát đạn súng trường của quân Đức và lần này thì ông tử thương ngay tại chiến địa. Các chiến hữu Pháp đã chôn cất người lính Việt dũng cảm Đỗ Hữu Vị ở cánh đồng làng Dompierre bên bờ sông Somme.

Bốn năm sau, người anh Đỗ Hữu Chấn cũng là một sĩ quan quân đội Pháp đã đưa hài cốt em mình về nước trên chuyến tàu vượt đại dương.

Tổng đốc Phương lúc này đã mất nhưng anh em trong gia đình đã tổ chức lại cho Đỗ Hữu Vị một đám tang trang trọng nhất Sài Gòn vào thời điểm ấy.

Các quan chức phủ toàn quyền và quân đội Pháp đã thay nhau túc trực tang lễ, tri ân người sĩ quan không quân Việt đầu tiên đã dũng cảm chiến đấu và hi sinh cho nước Pháp.

Thái độ trân trọng của chính quyền Pháp sau đó còn được thể hiện qua các bưu thiếp Đông Dương in ảnh ông.

Đặc biệt ở thành phố Casablanca, Maroc và làng Lafaux, Picardie, Pháp đều có đường mang tên Đỗ Hữu Vị. Tại Việt Nam thời Pháp thuộc, nhiều con đường, trường học tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng cũng được đặt tên ông.

Đỗ Hữu Vị và Victor Ménard
Đỗ Hữu Vị năm 1911
Đõ Hữu Vị và sổ quân bạ của ông
Đỗ Hữu Vị hàng ngồi, thứ 2 từ trái sang phải cùng các phi công phi đoàn phóng pháo số 1
Loại máy bay Caudron G-3 trong Đại chiến thứ nhất, do Đỗ Hữu Vị lái

CUỘC HÀNH QUÂN CẢM TỬ của Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt

SUICIDE MISSION of Frogman Nguyễn Văn Kiệt, Vietnam Navy


Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt

Lời ngỏ: Cuối năm 2001 người xem TV các chương trình “Suicide Missions” (History Channel), “Navy SEALs: Untold stories” (TLC – The Learning Channel) sẽ thấy một nhân vật Việt Nam tên Kiệt được nhắc đến trong những chuyến công tác chưa bao giờ được kể lại. Nhân vật này là ai? Tình tiết trong các phim tài liệu đó có chính xác không? Mời đọc giả đi ngược thời gian….Cách đây gần 30 năm về trước, vào mùa hè năm 72 được biệt danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Cộng sản Bắc Việt (CSBV) mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận: Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc. 30 ngàn quân CSBV trang bị vũ khí tận răng, tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch…


 Phi cơ thám thính điện tử EB-66

Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của không lực Hoa Kỳ bất thình lình bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hãi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người còn lại trong phi hành đoàn. Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ mình dưới đất. Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “tìm kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến. Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nhì ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.


 Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton.

Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một mình dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN. Hôm đó là ngày Phục Sinh, chủ nhật 2 tháng 4, 1972. Không quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta vì địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả mìn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần. Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton thì lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về. Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ. Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Đại Uý William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton. Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối. Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng. Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị CSBV lùng bắt được. Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command). Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch. Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.


Phóng đồ hành quân Bat 21 Bravo và Nail 38 Bravo giải cứu Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton từ ngày 2 đến ngày 14 tháng 4 năm 1972.

Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. Vì hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng vòng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng. Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt. Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ. Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton. Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ. Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người. Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy mình. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống còn…. Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.

Ngày 9 tháng 4, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công. 5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác. Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.

Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác: một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này? Câu trả lời: Biệt kích Mỹ và Việt. Đại Úy Thomas Norris – (hình trái) – US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị. Cùng lúc đó, không lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong lòng địch tìm cách tới điểm hẹn. Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt. Tối ngày 10 tháng 4 sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. Còn Trung Tá Hambleton cách giòng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua vòng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông. Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ. Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Phòng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô hình của US Navy SEALs.

Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược dòng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó. Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành. 6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đã bất chấp sức mạnh của không lực HK. Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược dòng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi dòng xuống. Nhưng vì dòng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông. Toán biệt kích chậm rãi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiểu thường xuyên canh phòng. Đây là một việc chậm rãi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đã dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn. Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.


Trực trăng Jolly Green HH-53 cấp cứu phi công lâm nạn.

Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi dòng sông. Đó chính là Trung Úy Clark. Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu thì một toán tuần tiểu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi dòng sông. Đến khi kẻ địch đã đi qua thì Trung Úy Clark cũng biến dạng trên dòng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark. Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông. Trời đã hừng sáng, tuy đã tìm được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn còn ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm rãi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành trình đào tẩu khỏi vùng địch. Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích còn ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong vì vẫn còn một phi công HK cần giải cứu. Ngày hôm sau, 11 tháng 4, toán biệt kích chuẩn bị lên đường. Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đã chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. Vì thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đã dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường. Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.

Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương. Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ còn lại 4 người: Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người còn lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu. Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào lòng địch. Càng vào sâu, nhìn thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trời đã hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui. Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không còn bao lâu trước khi ông ta gục ngã chết lịm trong rừng già. Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức thì không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn. Sức khoẻ của ông đã đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay thì có lẽ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. Họ cũng lượng định rằng trong tình trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi tìm cho ra được ông ta.


Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt và Người Nhái Hải Quân Hoa Kỳ Tom Norris.

Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất tình nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn tình nguyện đi vì yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng vì lòng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu. Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47. Họ quyết định dùng xuồng đi ngược dòng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rõ mồn một tiếng trò chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu. Họ chèo chậm rãi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp dòng sông che chở họ khỏi sự dòm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ. Khi nghe tiếng chân bộ đội Bắc Việt tuần tiểu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi dòng sông và tìm kiếm Trung Tá Hambleton. Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng tìm ra Trung Tá Hambleton, một thân hình tong teo gục ngã gần bờ sông. Ông ta chỉ còn thoi thóp thở. Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân hình ông ta. Họ bắt đầu cuộc hành trình rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm rãi như mọi khi. Lúc bấy giờ hừng đông đã ló dạng. Bất thình lình, Kiệt nghe tiếng gọi “Ê, lại đây!”. Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ. Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều bình tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam. Vừa chèo, Kiệt đã bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo. Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại bình thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu. Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm não của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời … Tom lập tức báo cáo bằng radio là đã giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong vì họ vẫn còn sâu trong lòng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. Vì thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào. Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đã báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu. Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn dòng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàng cây dầy đặc ven sông che dấu bớt hình ảnh chiếc xuồng mong manh. Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức. Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa. Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi dòng an toàn. Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đội hai bên dàn trận ra “tiếp đón” lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đội VNCH bên bờ Nam. Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt dìu Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn ….


Người nhái Nguyễn Văn Kiệt và Thomas Norris cứu sống được Trung Tá Hambleton đưa về phòng tuyến Việt Nam Cộng Hoà.

Cuộc giải cứu đã thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay thì những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng mình đi vào trong lòng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.

Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim với những tài tử quen thuộc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyện. Vậy mà 2 nhân vật “CHÍNH” nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến. Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ. Đại Úy Thomas Norris được trao tặng huân chương “Medal of Honor”. Huân chương cao quý nhất của quân đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đã có hành động dũng cảm phi thường. Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, người Nhái anh dũng của Hải Quân VNCH, được trao tặng huân chương “Navy Cross”. Huân chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh. Kiệt là người chiến sĩ Hải quân VNCH duy nhất nhận huân chương “Navy Cross” trong cuộc chiến Việt Nam.

The President of the United States
takes pleasure in presenting theNavy Cross 
toNGUYEN VAN KIET 
Petty Officer Third Class 
Republic of Vietnam Navy
for service as set forth in the following:Citation: 
For extraordinary heroism while serving with friendly forces engaged in armed conflict against the North Vietnamese and Viet Cong communist aggressors in the Republic of Vietnam.  On 13 April 1972, Petty Officer Kiet participated in an unprecedented recovery operation for a downed United States aviator behind enemy lines in Quang Tri Province, Republic of Vietnam.  He courageously volunteered to accompany a United States SEAL Advisor in an extremely hazardous attempt to reach the aviator, who was physically unable to move toward friendly positions.  Using a sampan and traveling throughout the night, they silently make their way deep into enemy territory, past numerous major enemy positions, locating the pilot at dawn.  Once, after being spotted by a North Vietnamese patrol, he calmly continued to keep the enemy confused as the small party successfully evaded the patrol.  Later, they were suddenly taken under heavy machinegun fire.  Thinking first of the pilot, he quickly pulled the sampan to safety behind a bank and camouflaged it while air strikes were called on the enemy position.  Due to Petty Officer Kiet’s coolness under extremely dangerous conditions and his outstanding courage and professionalism, an American aviator was recovered after an eleven-day ordeal behind enemy lines.  His self-discipline, personal courage, and dynamic fighting spirit were an inspiration to all; thereby reflecting great credit upon himself and the Naval Service.
For the President, Secretary of the Navy

Đến nay đã gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đã được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành động dũng cảm, anh hùng này đã được mọi người biết đến.

Thế Trân

Được đăng bởi suoinguontuoitre vào lúc 21:30 –Thứ Bảy, ngày 14 tháng 3 năm 2015

HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974: SAU 45 NĂM NHÌN LẠI VỚi NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT.

HQ Phạm Quốc Nam biên soạn

Lời giới thiệu
Các bài viết về trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 có quá nhiều với những cách nhìn khác nhau từ tài liệu của nhiều phía và của những nhà bình luận quân sự, chiến lược quốc tế. Đồng thời không ít những bài viết cá nhân có tách cách hư cấu hoặc diễn tả câu chuyện có nhiều chi tiết rất mâu thuẫn, bất hợp lý về diễn biến, số hiệu chiến hạm, thời điểm, chiến thuật, v.v… gây cho người đọc rơi vào trạng thái lẫn lộn, khó hiểu câu chuyện và không biết đâu là sự thật.
Đặc biệt bài viết này đồng quan điểm với những youtube với số lượng người theo dõi rất cao của Vietstar Media, Ngô Kỷ, nhằm phản đối và lên án những livestream từ Texas và Cali (như của LS Hoàng Duy Hùng, Nguyễn Phương Hùng, v.v…) qua những luận điệu xuyên tạc sự thật về trận chiến Hoàng Sa 1974 để bôi nhọ HQVNCH và QLVNCH nói chung.
Mặt khác tác giả mong muốn được thực hiện DVD về Hải Chiến Hoàng Sa, người viết đã phải nghiên cứu hàng chục tài liệu, bài viết, phim ảnh từ nhiều nguồn khác nhau và những giải mật mới nhất về trận hải chiến nhằm hệ thống lại thời gian, diễn biến, cũng như những đóng góp của Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, HQ Thiếu Tá Trần Bá Hạnh, cựu sĩ quan nghiên cứu trận liệt cuộc Hải Chiến Hoàng Sa tại BTL Hải Quân SaiGon và nhà báo Hải quân P.K., cựu sĩ quan Ban Báo Chí BTL-HQVNCH để dàn dựng thước phim lịch sử về trận Hải Chiến (sẽ ra mắt một ngày gần đây).
Hy vọng qua bài viết và thước phim này, người đọc hoặc xem phim không bị lẫn lộn, khó chịu trước những sự kiện không tuần tự và không hợp lý khi muốn tìm hiểu cặn kẽ về Hải Chiến Hoàng Sa Năm 1974.
Để nội dung bài viết và thước phim mang tính trung thực khi viết về trận Hải chiến Lịch sử này, người viết xin phép sử dụng bài viết và câu chuyện tường thuật của những nhân chứng sống từng tham dự trận hải chiến trong phạm vi trách nhiệm hay trong nhiệm sở của chính họ trên chiến hạm (PQN).

PHẦN I
NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT VỀ HCHS

Dẫn nhập:
Thiết nghĩ khi đánh giá Hải Chiến Hoàng Sa, chúng ta cần phân biệt hai sự kiện khác biệt về thời điểm:
Trận Hải Chiến Hoàng Sa (19-1-1974) và Sau Trận Hải Chiến (20-1-1974)

  • SỰ THẬT THỨ NHẤT – Hải chiến Hoàng Sa xác định lãnh hải của VNCH: Trận Hải Chiến ngày 19 tháng 1 năm 1974 kéo dài khoảng hơn 30 phút. Hải đoàn Đặc nhiệm Hoàng Sa I của Hải quân VNCH gồm HQ-4, 5, 10 và HQ-16 đã làm tê liệt lực lượng tham chiến của Hải Quân Trung Cộng gồm các chiến hạm 271, 274, 389, 396, Nam Ngư 407 và 402 ngay sau mươi phút khai chiến, khi HQVNCH bắn chìm 271, 389 và tiêu diệt trọn Bộ Chỉ huy Tham mưu của địch trên Soái hạm 274, làm tử thương một cấp tướng và nhiều cấp tá cao cấp của địch. Đây là chiến thắng của HQVNCH đối với trận Hải Chiến Hoàng Sa khi so sánh kết quả thiệt hại đôi bên. Nếu cho rằng HQVNCH thảm bại trong trận Hải chiến Hoàng Sa thì đó là cái nhìn của cá nhân và đúng hơn họ không nắm vững kỹ thuật và cấu trúc của một ‘Chiến hạm’.
    Dù nhìn ở góc độ nào hay phê phán thắng hay bại thì Hải chiến Hoàng Sa là chiến tích lịch sử VNCH xác định chủ quyền lãnh hải của mình đối với quân xâm lược Trung cộng và quốc tế. Đồng thời nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của Quân lực VNCH.
  • SỰ KIỆN THỨ HAI – Hoàng Sa thất thủ: Sau trận Hải Chiến ngày 20 tháng 1 năm 1974 Hải quân Trung Cộng hay gọi là Hải quân PLAN (Chinese People’s Liberation Army Navy – Hải Quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay Hải quân Trung Cộng, kết hợp sử dụng tàu quân đội và tàu của dân sự) xua một đội quân mạnh gấp chục lần HQVNCH gồm hải, lục, không quân, hỏa tiễn, tàu ngầm chiếm lấy Hoàng Sa khi HQVNCH rời khỏi Hoàng Sa từ ngày trước.

I. Trận Hải Chiến Lịch sử (ngày 19-1-1974) xác định chủ quyền lãnh hải của VNCH và nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của QLVNCH.

  • Theo cuộc phỏng vấn Đề đốc Lâm Ngươn Tánh và Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại của Ủy Ban Hoàng Sa tháng 10 năm 2006:
  • Đề Đốc Tánh khi đến Đà Nẵng vào chiều tối thì cuộc hải chiến đã kết thúc. Ông ở lại cùng với Đô Đốc Trần Văn Chơn đón các chiến hạm trở về từ Hoàng sa và ủy lạo các chiến sĩ hải quân từ Hoàng Sa trở về. Sau đó ông đi bệnh viện Quy Nhơn để thăm viếng, ủy lạo và gắn ‘Chiến thương Bội tinh’ cho các chiến sĩ HQ trôi dạt trên biển được cứu sống. Đề đốc Tánh ở lại Đà Nẵng từ chiếu tối ngày 19/1/1974 cho đến cuối tháng. (Đề đốc Tánh trả lời UBHS).
  • Phó Đề đốc Thoại là người nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Thiệu chỉ huy trận hải chiến Hoàng sa.
  • HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc là Hải đội trưởng Hải đội Tuần dương từ Saigon ra Đà Nẵng để quan sát tình hình xem các chiến hạm có nhu cầu gì? Khi biết Phó Đề đốc Thoại bận đón Tư Lệnh Chơn không thể theo tàu ra Hoàng Sa được nên Đại tá Ngạc theo HQ.5 ra Hoàng Sa và Đại tá Ngạc trở thành Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật (OTC – Officer in Tactical Command ) và HQ.5 trở thành Soái hạm. (Khi chưa có Đại tá Ngạc, Phó Đề đốc Thoại chỉ thị hạm trưởng HQ.4, HQ Trung tá Vũ Hữu San làm Sĩ quan OCT).
    Cũng cần biết thêm Phó Đề Đốc Thoại, Tư Lịnh HQV1DH kiêm nhiệm tư lịnh Lực lượng Đặc Nhiệm 231. Đêm 18 tháng 1,1975 PĐĐ Thoại chỉ định HQ Đại tá Hà Văn Ngạc làm OTC tức là chỉ huy trưởng Liên Đoàn Đặc Nhiệm 231.4. (Trang 109 của Bravery in Defeat)
  • Nhìn trận đánh một cách khách quan, cùng với những tài liệu, bình luận của giới quân sự quốc tế và sự thừa nhận của Trung Cộng Hải đoàn Đặc nhiệm I Hoàng Sa của Hải quân Việt Nam Cộng Hoà (HQVNCH) với các chiến hạm tham chiến: HQ4, 5, 16, và HQ10 đã gây tổn thất nặng nề cho Hải đoàn của Hải quân PLAN tham chiến gồm các chiếc hạm mang các số 271 và 274 (Lớp: tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt), 389 và 396 (Lớp tàu T-43 quét mìn 010 đại dương) và 2 tàu dân quân, vỏ sắt, trang bị hải pháo 25 ly ngụy trang tàu đánh cá mang số hiệu Nam Ngư 402 và 407.
  • “Trên đảo phía Trung Cộng nổ súng trước và trên biển HQVNCH nổ súng trước để đánh phủ đầu, chiếm ưu thế, giảm thiểu thiệt hại và chứng minh cho Trung cộng biết rằng đây là lãnh hải của VNCH”.
    Tóm lược thủ bút của Tổng thống Thiệu chỉ thị cho Phó Đề Đốc Thoại: “Thứ nhất dùng mọi biện pháp ôn hòa mời tất cả chiến hạm của Trung cộng rời khỏi lãnh hải của Việt Nam Cộng Hoà (VNCH). Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được quyền nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền xử dụng vũ khí để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ VNCH”. Đồng thời Phó Đề đốc Thoại còn dặn HQ Đại tá Hà Văn Ngạc (Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật [OTC]) ra lệnh cho các chiến hạm đồng loạt nổ súng với mục đích phân tán sự phản pháo của địch (trích trong Can Trường Trong Chiến Bại).
    Vì vậy HQVNCH nổ súng trước đã bẻ gãy chiến thuật của hải đoàn Hoàng Sa Hải quân PLAN khi chúng dùng chiến thuật “cài răng lược” và “dao chém cạnh sườn” (dùng tàu nhỏ, thấp trên mặt biển tránh né tầm đại pháo, đánh cận chiến và vận chuyển linh hoạt cắt đội hình của địch. Đây là chiến thuật dùng tàu nhỏ tấn công tàu lớn của của các nước khối cộng sản nói chung và của TC nói riêng).
  • Viên đạn 127ly của HQ-5 bắn lạc chui lọt vào hầm máy làm HQ-16 nghiêng 20 độ là sự thật. Nhưng việc lạc đạn trong lúc giao chiến đối phó với chiến thuật “cài răng lược” của địch không thể không xảy ra. Sự thật không khó để giải thích!
  • Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal” của Toshi Yoshihara – US Naval War College Review Spring 2016, Vol. 69, No. 2: “Trận hải chiến Hoàng Sa đã nổ ra tại một điểm uốn lịch sử với những chính sách hỗn loạn của Trung Quốc. Đất nước vẫn còn quay cuồng kể từ Cách mạng Văn hóa khi cuộc chiến bùng nổ. Phong trào chính trị cực đoan đã tàn phá sự nhanh nhẹn của quân đội TC đến mức mà hải quân TC gần như đã trả giá rất đắt cho điều đó, với nổi thất bại ở chiến dịch Hoàng Sa”.
    (https://cvdvn.files.wordpress.com/2018/03/the-1974-paracels-sea-battle-a-campaign-appraisal-yoshihara.pdf)
  • Cũng theo chuyên gia Toshi Yoshihara (US Naval War College Review) các thập niên 1950, 1960 và 1970, Hải quân Mỹ thường tân trang chiến hạm cũ từ Chiến tranh thế giới thứ II rồi viện trợ cho đồng minh ở châu Á như Đài Loan, Việt Nam Cộng Hòa, Philippines… Vũ khí, hệ thống điện tử, hệ thống điều khiển của tàu viện trợ đều lỗi thời. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Cộng và một số quốc gia Đông Âu đã trang bị cho hải quân họ theo quan điểm đổi tiện nghi, trang bị điện tử để lấy ưu thế về tốc độ, vũ khí và dùng những chiến thuyền nhỏ tấn công các chiến hạm lớn.
    Trận chiến Hoàng Sa diễn ra chủ yếu trong lòng của vùng đảo Nguyệt Thiềm, chiến hạm TC nhỏ, nằm sát mặt nước nên rất khó bắn trúng, đồng thời dễ dàng nâng cao độ của hải pháo, tạo thế tấn công hữu hiệu. Hải pháo của chiến hạm VNCH nằm trên cao so với hải pháo TC nên khó xoay trở ở cự ly gần, vận chuyển chậm. Hơn nữa, khi Mỹ chuyển giao các chiến hạm cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa, các trang bị tối tân như pháo 76,2 ly bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm soát (radar control) và khóa mục tiêu (lock-on system) đã bị tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được. Khẩu 127 ly trên các tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa đều phải điều chỉnh bằng tay nên nhịp bắn rất chậm, chỉ hữu hiệu trong việc yểm trợ hải pháo.
  • Đánh giá đúng đắn về cấu trúc và hỏa lực của các chiến hạm Mỹ chuyển giao cho HQVNCH vốn là những chiến hạm cũ từ thời Đệ II Thế chiến, là những loại tàu tuần duyên, hộ tống, yểm trợ, tiếp liệu, trục lôi của Hoa Kỳ chẳng hạn như các chiếc WHEC khi chuyển cho VNCH trở thành những các chiến hạm tuần dương như HQ5, HQ16. Những chiến hạm này không phải là loại tàu có khả năng hải chiến (vì các cơ quan trọng yếu, phòng hành quân, phòng truyền tin nằm trên mặt nước). HQVNCH có 2 tàu chiến (DER) có khả năng hải chiến là HQ1 và HQ4 (các cơ quan trọng yếu, phòng hành quân, phòng truyền tin nằm dưới mặt nước). Nhưng hệ thống bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm soát (radar control), khóa mục tiêu (lock-on system), các giàn phóng phi đạn trên HQ1 và HQ4 đã bị Hoa Kỳ tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được khi chuyển giao cho HQVNCH.
    Theo HQ Trương Văn Liêm, chuyên viên về cấu trúc chiến hạm, phụ tá Hạm phó HQ.5 và là sĩ quan huấn luyện của HQ.5 nhận định: “Về hoả lực và kỹ thuật, chiến hạm chúng ta thua địch nhưng so sánh kết quả trận hải chiến thì ngay vài phút đầu giao tranh, chúng ta đã bắn chìm một tàu và tiêu diệt được bộ chỉ huy trên soái hạm của địch. Kết quả này đúng mong muốn của chúng ta”.
    Tuy hải đoàn tham dự trận hải chiến của hải quân Trung Cộng có lực lượng, cấu trúc của các các chiến hạm tân tiến, có kỹ thuật và hỏa lực vượt trội hơn các chiến hạm tham chiến của HQVNCH nhưng địch phải thất bại trước sự dũng cảm và ý chí chống ngoại xâm mãnh liệt của ngưới lính VNCH (Theo Robert Gardiner – Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982).
    Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH thời ấy đã viết như sau: “Hải Quân Việt Nam được trang bị cho nhiệm vụ chính yếu là tuần tiễu các vùng sông ngòi và ngăn chặn địch quân xâm nhập vào vùng duyên hải, thực sự không phải là đối thủ của một Hải Quân tân tiến như Hải Quân Trung Cộng trong một trận Hải chiến tuy ngắn ngủi nhưng ác liệt tại Hoàng-Sa vào năm 1974”.
  • Có nhiều bài viết và sách báo quốc tế đã bênh vực cho lẽ phải chủ quyền của Việt Nam. Khi bàn luận về Hải lực Thế giới, giới quân sự tin tưởng ở những báo cáo chính xác của “Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982” vì uy tín quá lớn của Ban Biên Tập và Nhà Xuất-bản kỳ cựu hàng mấy thế kỷ qua. Họ tin vào pho sách bàn luận về chiến lược Hải lực Thế-giới “Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982” đã đề cao tinh thần kiên quyết của HQVNCH chống xâm lược. Chủ biên là Robert Gardiner viết rằng: “Không những chiến hạm Việt Nam đã dũng cảm bắn chìm hai tàu địch (271 và 389), gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác (274 và 396) của siêu cường Trung Quốc ngoài Hoàng Sa. Ðổi lại, thiệt hại của HQVNCH rất nhẹ, chỉ có Hộ Tống Hạm HQ-10 bị chìm.”
  • Lực lượng Trung Cộng có đủ hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng tham chiến. VNCH có chiến đấu cơ hiện đại nhất thời đó là loại F5E. Tuy nhiên chiến đấu cơ F5E có tầm hoạt động ngắn, đủ nhiên liệu bay ra Hoàng Sa rồi quay về mà không thể ở lại yểm trợ hoặc chiến đấu và hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa đã từ chối tiếp nhiên liệu cho phi cơ VNCH.
  • Trong bài viết của nhà báo Lữ Giang cho biết tài liệu Hoa Kỳ tiết lộ: Ngày 18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa. Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, Tham mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã hỏi Đại tá Kussan, tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi cơ chiến đấu của VNCH khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được không? Phó Đề đốc Thủy cho biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý, do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi vừa về, nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác chiến được.
    Sau khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, Đại tá Kussan đã trả lời cho Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:
    Lý do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều 4).
    Lý do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu, các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.
    Tuy nhiên, theo lời kể lại cuộc trao đổi sau này giữa Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy và Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại khi gọi điện thoại cho Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, ông Thủy hoàn toàn phủ nhận sự việc đó. Chính Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy nói:” Moa đâu có ngu đễ không biết là phi công mình đâu có đáp hàng không mẫu hạm được và phi cơ phải trang bị cơ phận đặc biệt và Hoa kỳ đời nào tham dự vào trận chiến khi đã rút hết quân khỏi miền Nam! Tôi vì lịch sự không thu lời nói của Phó Đề đốc Thuỷ lúc đó nhưng Tú Gàn và tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cần có bằng chứng hơn là chỉ nghe theo lời kể của vài sĩ quan KQVNCH.”
    Ngày 21/1/2014 trên đài BBC Tiếng Việt, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời với phóng viên nhà báo kiêm đạo diễn Trần Nhật Phong về câu hỏi có thông tin không quân VNCH lúc đó ở thế sẵn sàng để tái chiếm đảo Hoàng Sa nhưng đã không xảy ra việc này, Phó Đề đốc Thoại nói rằng ông “thực sự không nhớ có kế hoạch gì để đưa không quân VNCH ra tái chiếm” và ông cho biết thêm: “Riêng tôi thì tôi không được biết. Những gì trao đổi ở Sài Gòn, nếu có xảy ra, thì không được thông báo. Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân cũng như Tư lệnh Quân khu 1 là Trung tướng Ngô Quang Trưởng với tôi là ba người chỉ huy và chịu trách nhiệm những gì xảy ra ở Quân khu 1 thì tôi không được nghe biết và tôi cũng không nhớ rằng tôi có nghe những kế hoạch nào từ trong Sài Gòn dùng không quân để tái chiếm lại Hoàng Sa. Quyết định đó có thể có và cũng có thể không. Nhưng có một điều tôi biết là Sư đoàn 1 Không quân, phi đoàn khu trục phản lực F5 lúc nào cũng sẵn sàng ở phi trường để cất cánh khi có lệnh để bảo vệ các chiến hạm của Hải quân VNCH.”
    Theo Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh , Tư lịnh Sư đoàn 1 Không quân cho biết F-5 chỉ chiến đấu được khoảng 15 phút, nếu hơn sẽ không đủ xăng bay về khi điện đàm với Phó Đô đốc Thoại (Theo Can trường Trong Chiến Bại, xuất bản tháng 3 năm 2007)
    Tuy tương quan lực lượng bất cân xứng nhưng các chiến hạm VNCH cũng đã gây tổn thất nặng nề cho hải quân Trung Cộng khi đánh chìm 2 chiếc 271 & 389, bắn hư hại nặng 2 chiếc 274 & 396 và tiêu diệt trọn Bộ chỉ huy Tham mưu của hải quân TC trên Soái hạm 274 ngay sau vài phút khai chiến, gây tử thương cho một Đô Đốc Chính trị viên (Tư lệnh phó Phương Quang Kinh) và nhiều sĩ quan cao cấp tham mưu trên Soái hạm, gồm có 7 Đại tá, 10 Trung tá, 2 Thiếu tá, 7 sĩ quan cấp úy tử thương và hàng trăm binh sĩ chết và bị thương. Đây là chiến thắng oanh liệt của HQVNCH trong trận Hải Chiến Hoàng Sa?
  • Theo Đô đốc Kong Zhaonian, sau đó là Phó tư lệnh Hải quân Trung cộng, nguyên tắc chiến thuật không bắn phát súng đầu tiên, thể hiện nổi lo sợ về sự can thiệp của các chiến hạm Hoa Kỳ đang hướng đến quần đảo Hoàng Sa từ Philippines và sẽ làm phức tạp thêm quan hệ ngoại giao Trung-Mỹ. Cho nên Trung cộng đã dàn dựng trận chiến như là một “phản công tự vệ” khi ra lệnh các chiến hạm TC cố tình khiêu khích các chiến hạm HQVNCH. Bắc Kinh không ngờ thủ đoạn này đã làm Hải đoàn (271, 274, 389 và 396) của chúng bị tổn thất nặng nề, coi như hải quân Trung cộng PLAN bại trước hải quân VNCH. Điều này cho thấy Chính trị (quan hệ Ngoại giao) đã ảnh hưởng đến chiến lược của Trung Cộng trong trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974.

II. Sau trận Hải Chiến (ngày 20-1-1974): Dù thất thủ nhưng đã nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của QLVNCH.

  • Dù HQVNCH gây tổn thất nặng nề cho Hải đoàn Hoàng Sa của Hải quân Trung Cộng PLAN nhưng sau đó được lệnh phải rút lui rời khỏi Hoàng Sa trước khi hải quân TC xua một lực lượng hải quân hùng hậu mạnh gấp chục lần HQVNCH gồm hải lục không quân và tàu ngầm xâm chiếm Hoàng Sa. Các hạm đội của TC kéo đến ngay sau khi trận hải chiến chấm dứt và ngày hôm sau đã bắn phá lên các đảo và đổ bộ nhiều đại đội dân quân chiếm một số đảo tại Hoàng Sa (đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa và Quang Ánh). Đội tàu đầu tiên được tập hợp lại trước đảo Hửu Nhật vào sáng 20 tháng Giêng. (Tài liệu của Trung Cộng).
    Lực lượng chiếm Hoàng Sa gồm có hạm đội Hải quân Nam Hải với 2 tàu săn tàu ngầm lớp Hải Nam mang số 281 và 282 thuộc sư đoàn đồn trú ven biển ở Sán Đầu (Shantou), cách gần 9 km tính từ Hải Nam đã tăng tốc đến Đảo Phú Lâm, tiếp nhiên liệu trên dọc đường đi ở Trạm Giang (Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin) để nhanh chóng có mặt tại Hoàng Sa và bắn chìm HQ-10 (trước đó chỉ còn một máy) thành bất khiển dụng và đang bốc cháy.
    Ngoài hạm đội Nam Hải, còn có tàu ngầm lớp Romeo loại 033, bao gồm 157, 158, và 159 có căn cứ tại Ngọc Lâm, Hạm đội phương Đông tăng cường, trang bị SY-1 tên lửa dẫn đường Loại 01 lớp Chengdu và Mao Trạch Đông đích thân ra lệnh cho ba khu trục hạm từ eo biển Đài Loan đến quần đảo Hoàng Sa. (Theo tài liệu của Trung Cộng).
  • Sau khi thăm dò thấy Hoa Kỳ hoàn toàn không can thiệp vào trận hải chiến, Bắc Kinh liền xua quân tiến chiếm Hoàng Sa.
    Quyết tâm chiếm lấy Hoàng Sa vì Bắc Kinh từng nhấn mạnh giá trị chiến lược của quần đảo Hoàng Sa, với “ngồi chắn ngang tuyến thông tin liên lạc đường biển quan trọng”.
    Theo bộ sách bách khoa toàn thư chính thức của hải quân Trung Cộng PLAN “Quần đảo Hoàng Sa phục vụ như là tấm bình phong của thiên nhiên bảo vệ Trung Quốc và cũng là một tiền đồn. Những tuyến đường biển và đường hàng không hướng tới Singapore và Jakarta từ bờ biển Trung Quốc phải đi qua khu vực này, tạo cho nó một vị trí vô cùng quan trọng”. Cách đảo Đông Sa khoảng 660 cây số về phía tây nam, cách bãi ngầm Scarborough 550 km về phía tây, và cách chừng 700 km về phía tây bắc của quần đảo Trường Sa, quần đảo có vị trí quan trọng được xem như một bước đệm cần thiết đối với những hòn đảo khác do Trung quốc tuyên bố chủ quyền trên khắp Biển Đông, mở đường cho “Đường lưỡi bò” (Từ thời Mao trạch Đông và đang được tổng thống không ngai Tập Cận Bình tiếp nối).
  • Sự chênh lệch về sức mạnh hải quân dường như giới quân sự quốc tế ủng hộ VNCH đã gây cho các nhà bình luận Trung Quốc ra sức thần thoại hóa cuộc chiến thắng của Hải Chiến Hoàng Sa. (Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal” của Toshi Yoshihara).
  • Đặc biệt giới quân sự quốc tế quan tâm đến những ký ức khác hẳn những phiên bản Trung cộng về các sự kiện Hải Chiến Hoàng Sa. Hơn nữa, những mâu thuẫn cũng đã tồn tại giữa những tường thuật, mô tả khác nhau của những người lính Trung Cộng từng tham chiến trận đánh đã gây cho giới bình luận đánh giá thấp tài liệu về Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 của Trung Quốc.
    Hải chiến Hoàng Sa 1974 là cuộc chiến do Bắc Kinh kích động nhằm thăm dò phản ứng của Washington đối với biển Đông để đặt nền móng ‘Đường lưỡi bò’ của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình thi hành và Tập Cận Bình đang tiếp tục tiến hành mộng bá quyền trên biển Đông.
    Washington đứng ngoài Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 đã sai lầm trong chính sách về biển Đông thời đó, đưa đến sự lấn áp của một nước lớn (Trung Quốc) đối với các nước nhỏ quanh vùng, dẫn đến những căng thẳng tranh chấp chủ quyền lãnh hải tại biển Đông ngày nay.

III. Kết luận:
Qua những sự thật về Hải chiến Hoàng Sa 1974 được trình bày ở trên cho thấy HQVNCH đã chiến thắng trong trận ‘Hoàng Sa Hải Chiến’ tuy nhiên sau đó không thể bảo vệ được Hoàng Sa trước lực lượng khổng lồ của hải quân Trung Cộng đang kéo đến xâm lược Hoàng Sa.
Kịp thời ra lệnh triệt thoái các chiến hạm VNCH đang tham chiến tại Hoàng Sa về lại Đà Nẵng của Đô Đốc Tư Lệnh HQ Trần Văn Chơn để bảo tồn lực lượng là một quyết định thật sáng suốt và đúng binh pháp.
Các Tử sĩ Hoàng Sa với HQ10 Nhựt Tảo chìm vào lòng đại dương như cột mốc đánh dấu lãnh hải ngàn đời của nước Việt.


PHẦN II

HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974 Đi Vào Lịch Sử Hào Hùng Chống Ngoại Xâm

Như đã trình bày nơi lời tựa Phần I để bài viết mang tính trung thật khi viết về trận hải chiến, người viết mạn phép sử dụng bài viết hay câu chuyện tường thuật của những nhân chứng sống từng tham dự trận hải chiến trong phạm vi trách nhiệm hay trong nhiệm sở của chính họ trên chiến hạm trong lúc giao tranh như của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (sách, bài phỏng vấn, youtube), HQ Đại úy Lê Văn Thự (Trung tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân của BTL vùng 1 Duyên Hải), Thiếu Tá Bộ binh Phạm Văn Hồng (Trưởng toán Công binh của Quân đoàn 1 ra Hoàng Sa), HQ Tr/úy Phạm Ngọc Roa (HQ4), ThS/ GL Lữ Công Bảy (HQ4), HQ Th/úy Nguyễn Văn Qúy (HQ5), HQ Th/úy Phạm Công Minh (HQ5), HQ Tr/úy Hà Đăng Ngân (HQ10), HQ Th/úy Phạm Thế Hùng (HQ10), HQ Tr/úy Nguyễn Đông Mai (HQ10), HQ Th/úy Tất Ngưu (HQ10), HQ Đặng Quốc Tuấn (GL/HQ16) và Nhật ký Hải hành của HQ10 do một nhân viên HQ10 đào thoát gửi cho cô Thanh Thảo, con gái của cố HQ Thiếu tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí (HQ10).

.
I. Diễn biến khởi đầu trận hải chiến

Mùa hè năm 1973, một loạt sự kiện tranh chấp một số đảo tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa VNCH và Trung cộng xảy ra.
Vào tháng Mười, hai tàu đánh cá của Trung cộng (TC), mang số hiệu Nam Ngư 402 và 407, xuất hiện gần nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) và bắt đầu hoạt động ở đó. Các thuyền viên cắm cờ TC trên các đảo mà ở đó VNCH đã kiểm soát từ nhiều thập niên trước.
Tại quần đảo Hoàng Sa (HS) TC cũng đặt một căn cứ tiếp liệu trên đảo Quang Hòa (Duncan), nơi mà VNCH đã đuổi họ hơn một thập kỷ trước.
Ngày 10 Tháng 1 năm 1974, thuỷ thủ đoàn của hai tàu đánh cá TC xây dựng một nhà máy chế biến hải sản trên đảo Hữu Nhật (Robert).
Ngày 11/1/1974, Trung cộng tuyên bố quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa) và bãi cạn Macclesfield thuộc chủ quyền của TC. Ngay lập tức, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Vương Văn Bắc lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ và lên án hành động gây hấn của TC.
Và sau đó hải quân TC liên tiếp xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khi đổ bộ chiếm đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam Tuyền dẫn đến leo thang căng thẳng tại Hoàng Sa lẫn mặt trận ngoại giao cho đến khi cuộc hải chiến bùng nổ.

.
II. Diễn biến những ngày trước trận Hải Chiến

  • Ngày 15-1-1974:
    Sáng sớm ngày 15-1, Tuần Dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 (Trung tá Hạm trưởng Lê Văn Thự) được lệnh rời cảng Tiên Sa – Đà Nẵng đưa phái đoàn Công Binh của Quân Đoàn I ra HS khảo sát và nghiên cứu xây một phi trường trên đảo HS (Pattle) cho loại phi cơ vận tải loại nhỏ có thể đáp và cất cánh như C-130. Trên đảo này có một Trung đội Địa Phương Quân của Tiểu khu Quảng Nam trấn giữ và nhân viên đài Khí Tượng HS. Phái đoàn công binh gồm có Thiếu tá Phạm Văn Hồng, Sĩ quan Lãnh Thổ Phòng 3, Quân đoàn I, làm trưởng phái đoàn, một người Mỹ tên Gerald Kosh, nhân viên Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng, 2 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan công binh. Tổng cộng 6 người.
    HQ16 đến Hoàng Sa vào chiều tối ngày 15-1-1974.
    Khi HQ.16 vừa khởi hành từ Đà Nẵng thì tiểu khu Quãng Nam cho hay địa phương trên đảo báo cáo có vài ghe đánh cá gần bờ đảo Pattle. Tư lịnh V1ZH, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại chuyển ngay tin tức đó đế HQ.16 và chỉ thị HQ.16 khi đến nơi phải đi tuần chung quanh các đảo và báo cáo chi tiết.
    Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal, của Toshi Yoshihara (US Naval War College Review Spring 2016, Vol. 69)” lấy từ tài liệu của TC cho biết TC đã ngụy tạo nguyên nhân dẫn đến trận hải chiến, cho rằng: Ngày 15-1, HQ16 tuần tiễu tại nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) bắt gặp các thuyền đánh cá số hiệu 402 và 407 của TC gần đảo Hữu Nhật (Robert Island), HQ16 ra lệnh cho hai tàu đó rời khỏi khu vực. Sau đó, HQ16 bắn cảnh cáo họ và nã pháo vào đảo Hữu Nhật, làm nổ tung cờ của TC cắm ở đó”.
  • Ngày 16-1-1974:
    Sáng sớm sau khi đưa toán Công Binh lên đảo, HQ16 theo chỉ thị của Phó Đề đốc Thoại đi tuần quan sát quanh các đảo và báo cáo tình hình chi tiết tại Hoàng Sa khi tiểu khu Quãng Nam cho hay địa phương trên đảo báo cáo có vài ghe đánh cá gần bờ đảo Pattle.
    Khoảng 10 giờ sáng ngày 18-1, HQ16 phát hiện trên màn ảnh radar 1 vệt nhỏ đang di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan). HQ16 theo dõi và phát hiện đó là tàu TC ngụy trang đánh cá, sơn mầu xanh lá cây đậm, vỏ bằng sắt, trang bị đại bác 25 ly, HQ16 dùng quang hiệu yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi lãnh hải VNCH, tàu này không trả lời, HQ16 tiến lại gần thì tàu cá TC mới rời khỏi hải phận Hoàng Sa, chạy về hướng Đông-Bắc đảo Quang Hòa. HQ16 quan sát trên đảo Quang Hòa phát hiện đảo này đã bị chiếm đóng, trên đảo có mấy dãy nhà gỗ, có chòi canh vọng gác cao, cắm cờ Trung Cộng, rất nhiều người di chuyển qua lại, đang xây cất thêm doanh trại.
    HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải (BTL/HQ/V1ZH) tình hình tại đảo Quang Hòa như kể trên và nhận được chỉ thị từ BTL/HQ/V1ZH tiếp tục quan sát các đảo khác trong quần đảo HS, ghi nhận các sự kiện sau:
  • Đảo Vĩnh Lạc (Money) vì có nhiều rừng cây cao nên HQ16 quan sát từ phía Tây không thấy được suốt bờ phía Đông của đảo, do đó HQ16 phải đi vòng qua bờ phía Đông của đảo, HQ16 thấy trên đảo cắm nhiều cờ TC.
  • Đảo Duy Mộng (Drummond) và Đảo Cam Tuyền (Robert) không có người, nhưng có cắm cờ Trung Cộng. Riêng đảo Duy Mộng (Drummond) có 2 tàu nhỏ số hiệu Nam Ngư 402 và 407, từ mũi đến lái có trang bị 3 giàn súng, tất cả được phủ lên bằng lưới đánh cá để ngụy trang đang bỏ neo sát bờ. Trên tàu đánh cá ngụy trang có nhiều người mặc áo thun quần đùi và quân phục lính TC. HQ16 dùng đèn quang hiệu, loa phóng thanh cầm tay và cờ hiệu yêu cầu họ rời khỏi hải phận của VNCH, chẳng những họ không tuân hành lại có nhiều hành động khiêu khích.
    HQ16 tiếp tục báo cáo về TTHQ/BTL/HQ/V1ZH và xin chỉ thị. Lập tức Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh HQ/V1ZH) chỉ thị Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 (Trung tá Hạm Trưởng Vũ Hữu San) đang đi tuần vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) lập tức cho tàu về ngay Đà Nẵng để đưa toán Biệt hải và Hải kích (người Nhái của Hải Quân) ra Hoàng Sa, đồng thời HQ-4 tăng cường cho HQ-16.
    9h00 tối, HQ4 rời cảng Tiên Sa-Đà Nẵng đi Hoàng Sa.
    Cùng ngày 16-1-1974 về mặt ngoại giao Ngoại trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để lưu ý tình hình đang căng thẳng nghiêm trọng có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh Việt Nam cũng như quốc tế, xảy ra bởi lời tuyên bố chủ quyền và hành động của Trung Quốc đang diễn ra tại Hoàng Sa.
  • Ngày 17-1-1974:
    Chính phủ VNCH tiếp tục gửi công hàm cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đề nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để ổn định tình hình.
    HQ4 đến Hoàng Sa vào lúc 14h00 ngày 17-1-1974.
    15h00 cùng ngày, HQ16 đến đảo Cam Tuyền, án ngữ tại phía Đông Nam để yểm trợ cho HQ4 đổ bộ 27 biệt hải lên phía Tây đảo Cam Tuyền trong khi hai tàu Trung Quốc 402 và 407 đang ở phía Nam đảo Cam Tuyền.
  • Cùng ngày, sáng ngày 17-1, Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu viếng thăm BTL/V1ZH. Ngoài Tổng Thống Thiệu còn có sự hiện diện của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I và Trung tướng Lê Nguyên Khang, đại diện Bộ Tổng Tham Mưu đã được Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại TL/V1ZH thuyết trình khoảng 45 phút về tình hình bất thường tại quần đảo Hoàng Sa: “Sự xuất hiện tàu TC và dân quân TC trên một số đảo”. Trước khi rời BTL/V1ZH để tiếp tục chương trình thăm viếng Vùng II Chiến Thuật Tổng thống Thiệu ra lệnh cố gắng ban đầu dùng thái độ ôn hòa yêu cầu các tàu và người của TC trên các đảo lập tức rời khỏi lãnh hải của VNCH, nếu cần, có thể dùng cả vũ lực đánh đuổi chúng.
  • Sau khi nhận được báo cáo từ các tàu số 402 và 407 về các hoạt động của Hải Quân VNCH, TC bắt đầu xuất kích lực lượng của mình. Ngày 16-1, hạm đội Nam Hải ra lệnh cho hai tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt số 271 và 274, đến Đảo Phú Lâm càng sớm càng tốt. Hai chiếc tàu này vội vã đến đích của chúng từ căn cứ hải quân Ngọc Lâm (Yulin) trên đảo Hải Nam. Sau khi đón nhận lực lượng dân quân hàng hải vũ trang, đạn dược, tiếp liệu tại đảo Phú Lâm. Vào ngày hôm sau, hai tàu số 271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm. Có 2 phi cơ chiến đấu J-6 (MiG-19, phiên bản Trung Quốc) yểm trợ.
    18h00, HQ4 phát hiện hai tàu Trung Quốc mang số 271 và 274 từ đảo Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu các tàu này rời khỏi lãnh hải VNCH, tàu TC cũng dùng quang hiệu trả lời rằng các đảo này thuộc chủ quyền của họ và yêu cầu chiến hạm VNCH rút lui. Tiếp đó, các tàu này chạy quanh và di chuyển chặn đầu HQ4, bất chấp quy tắc hàng hải quốc tế.
    Trước sự ngoan cố và khiêu khích của tàu Trung cộng, HQ4 dùng mũi ủi ngang hông tàu địch ra xa. Thấy sự quyết liệt của HQ16 & HQ4, tàu địch bỏ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa và thả trôi tại đó.
    Chiều ngày 17/1/1974, HQ 4 cho đổ bộ 20 chiến sĩ Người Nhái lên đảo Vĩnh Lạc (Money), thu dọn cờ Trung Cộng, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa.
    Tối 17-1 (theo Lời kể của HQ Đặng Quốc Tuần, Giám Lộ Tuần Dương Hạm HQ16):
    “HQ16 dùng xuồng đổ bộ 10 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc (đảo Money), do HQ Trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy để phá hủy và gom góp các chứng cớ ngụy tạo, nhổ cờ Trung Cộng và cấm lại cờ VNCH, tổ chức phòng thủ trên đảo. Sau trận hải chiến HQ16, HQ4 và HQ5 nhận được lệnh từ BTL/HQ/V1ZH rời vùng trở về Đà Nẵng bỏ lại toán công binh của Thiếu tá Bộ Binh Phạm Văn Hồng tại đảo HS và 10 nhân viên cơ hữu của HQ16 trên đảo Vĩnh Lạc….”
    (Xem lý do vì sao HQ16 bỏ lại 10 nhân viên cơ hữu trên đảo Vịnh Lạc và cuộc đào thoát 10 ngày đêm gian nguy trên biển trong “Phần 3. Cuộc tấn công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa” phía cuối bài viết).
    Ngày 16-1, chiến hạm HQ5 Trần Bình Trọng (HQ Trung tá Hạm trưởng Phạm Trọng Quỳnh) đang ở Vũng Tàu thì được lệnh ra Ðà Nẵng. HQ5 cập cầu quân cảng Tiên Sa chiều ngày 17-1 và Hạm Trưởng Phạm Trọng Quỳnh lên BTL/HQ/V1ZH họp hành quân và sau đó Hạm trưởng Quỳnh trở về tàu với lệnh Hành Quân Trần Hưng Ðạo 47 do HQ Đại tá Hà Văn Ngạc (Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật trận Hoàng Sa) chỉ huy 2 Hải đoàn Đặc nhiệm và các toán Biệt Hải và Hải Kích của HQVNCH, gồm:
  • Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm I: HQ4, HQ16, HQ5 và HQ10.
  • Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm II: HQ1, HQ6, HQ17, HQ11 (ghi chú: Trận hải chiến xảy ra và kết thúc nhanh chóng trong khi các chiến hạm của ĐN -II còn ở xa, chưa đến Ðà Nẵng, cho nên Hải đoàn này ít được nhắc đến trong trận Hải chiến Hoàng Sa [CHHS]).
  • Và lực lượng Biệt Hải cùng toán người Nhái Hải quân gồm 49 người do HQ Trung úy Nguyễn Minh Cảnh làm trưởng toán.
    Giữa khuya ngày 17-1, HQ10 Nhật Tảo (HQ Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy Văn Thà) và HQ5 Trần Bình Trọng nhận lệnh từ Tư lịnh HQ/V1ZH (Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại) rời quân cảng Tiên Sa đi Hoàng Sa. Trên HQ5 có HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc, HQ5 trở thành Soái hạm. HQ5 ra đến Hoàng Sa vào khoảng 3 giờ chiều ngày 18-1.
  • Về phía Trung cộng, 2 tàu săn tàu ngầm K271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm vào tối 17-1 và đổ bộ bốn tiểu đội dân quân vũ trang (mỗi tiểu đội mười thành viên) vào các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, và Quang Hòa Tây vào lúc xế nửa đêm rạn ngày 18 tháng 1. Đồng thời, hai tàu quét mìn xa bờ Loại 010 có căn cứ ở Quảng Châu, số hiệu 389 và 396, chạy đến quần đảo Hoàng Sa để tăng cường cho 2 chiếc 271 và 274 (Theo tài liệu của TC)
    Ngày 18-1
  • Sáng 18-1 theo yêu cầu của Đại Tá Ngạc toán công binh trên HQ16 được chuyển sang HQ5. Đến chiều tối 18-1, toán công binh lại được đưa lên đảo Hoàng Sa để tránh cuộc hải chiến có thể xảy ra bất cứ lúc nào (Theo Thiếu tá Phạm văn Hồng, trưởng toán công binh cho biết sự kiện đưa toán công binh trở lên đảo HS là yêu cầu của Gerald Kosh, nhân viên Sứ quán người Mỹ? Và khoảng 1 giờ trưa ngày 19-1, toán công binh cùng các nhân viên đài khí tượng và trung đội Địa Phương quân bị quân Trung cộng bắt làm tù binh đưa về Quảng Châu. Trong toán bị bắt về có HQ Trung úy Lê văn Dũng, trưởng toán Hải kích bị bắt trên đảo Cam Tuyền khi đổ bộ từ HQ4 lên đảo. Sau đó chúng chuyển tù binh VNCH về trại tù Thu Dung, huyện Huyền Hóa tỉnh Quảng Châu…).
  • Lúc 4h30 một trong bốn tàu Trung Quốc rời đảo Quang Hòa tiến về HQ4. Nhưng sau khi HQ4 tăng tốc tiến đến chặn đầu tàu địch thì tàu này rút lui về phía đảo Quang Hòa. (Theo tài liệu TC)
  • 8h45, HQ16 phát hiện thêm một tàu TC di chuyển phía Đông Nam đảo Duy Mộng. Trên đảo đã thấy cờ Trung Quốc.
    Khoảng 10h sáng, 4 chiến hạm TC lại xuất hiện, gồm 2 chiếc Kronstadt 271 và 274 và 2 chiếc khác mang số 389 và 396. Cả 4 chiến hạm TC đều di chuyển cản đường và chia cắt đội hình vận chuyển của các chiến hạm VNCH. Hành động khiêu khích này của các tàu TC đã gây ra những va chạm thân tàu của hai bên:
  • HQ16 và K-271 va chạm 2 hông tàu với nhau.
  • HQ4 đụng mũi vào hông sau của tàu T-389, làm gãy mấy trụ giây an toàn của tàu này.
    Sau sự va chạm các chiến hạm của ta và địch, 4 chiến hạm TC cùng di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan) và thả trôi ở đó, nơi có 2 tàu cá ngụy trang NG-402 và 407.
  • 10h30, HQ4 hoàn tất đổ bộ toán 15 nhân viên cơ hữu lên tăng cường giữ đảo Cam Tuyền và rút tất cả toán biệt hải trở về chiến hạm. Trong khi tàu TC mang số hiệu 407 tiến đến khiêu khích HQ16.
  • 15h00 cùng ngày, Đại tá Hà Văn Ngạc và HQ5 đến Hoàng Sa. Sau đó Hải đoàn gồm HQ4, HQ5 và HQ16 tiến về Quang Hòa với hy vọng có thể đổ bộ toán hải kích lên đảo thì gặp hai tàu K-271 và K-274 tiến tới chặn đường. Hai bên liên lạc quang hiệu, xác nhận Hoàng Sa là lãnh hải của mình và yêu cầu phía đối phương phải rời ngay lập tức. Với hành động cố tình khiêu khích, chặn đường có thể gây nguy hiểm đụng tàu, các chiến hạm VNCH tạm thời lui về phía Nam đảo Hoàng Sa chờ HQ10 nhập vùng và tiếp tục theo dõi các chiến hạm TC.
  • 19h15, HQ5 phát hiện thêm hai chiến hạm TC loại T43 cải biến mang số 389 và 396.
  • 20h00, HQ10 Nhật Tảo nhập vùng (HQ10 và HQ5 cùng khởi hành từ cảng Tiên Sa – Đà Nẵng đi HS vào giữa khuya 17-1. Nhưng HQ10 trong tình trạng chiến hạm đang chuẩn bị về Saigon sau chuyến công tác dài hạn tại vùng 1 duyên hải và HQ10 chỉ còn một máy chánh (còn một giò) nên tốc độ vận chuyển rất chậm, phỏng định khoảng 10 knots/g, cho nên HQ10 đến Hoàng Sa vào lúc 10 giờ tối ngày 18-1.
  • 23h00 HQ Đại tá Hà Văn Ngạc nhận lệnh từ trung tâm Hành quân (TTHQ) tái chiếm đảo Quang Hòa một cách ôn hòa. Đại tá Ngạc liền chia hải đoàn ra làm hai Phân đoàn đặc nhiệm chuẩn bị hành quân vào sáng 19-1: Phân đoàn 1 gồm HQ4 và HQ5 có mặt tại phía Nam và Tây Nam đảo Quang Hòa để đổ bộ hai toán hải kích và biệt hải. Phân đoàn 2 gồm HQ10 và HQ16 do HQ Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy với nhiệm vụ giữ nguyên vị trí trong lòng vùng đảo Nguyệt Thiềm để yểm trợ cho việc đổ quân của HQ4 và HQ5. Lệnh còn nhấn mạnh rằng: “Nếu cuộc đổ bộ không thành thì các chiến hạm sẽ dùng hỏa lực tiêu diệt các chiến hạm của địch trước khi đổ bộ thanh toán quân TC trên các đảo”.
    Đêm 18-01-1974 các chiến hạm VNCH nhận lệnh làm tối chiến hạm (darken ship) chờ sáng sớm hôm sau (19-1) xuất quân. Một đêm trôi qua một cách yên lặng.


III. Ngày 19-1 – Trận hải chiến bùng nổ

  • 1. Tình hình vài giờ trước khi hải chiến bùng nổ:
    Khoảng gần sáng có hai lần 2 phi cơ địch (MiG 19, theo tài liệu của TC) bay ngang vùng HS (Theo HQ Trung úy Nguyễn Đông Mai và HQ Thiếu úy Tất Ngưu, sĩ quan của HQ10 xác nhận trong bài viết của hai tác giả).
  • Sáng ngày 19-1, HQ4 đổ biệt hải và Người Nhái hải quân lên đảo Duy Mộng.
  • 7h30 sáng, 30 hải kích trên HQ5 đã đổ bộ lên đảo Quang Hòa và tiến sâu vào đảo khoảng vài chục mét thì bị lính TC trên đảo dàn ngang chận lại. Hai bên dằn co gần cả tiếng đồng hồ. Càng lúc lính TC càng đông và đẩy lùi toán hải kích VNCH trở lui về bờ biển, nơi vừa đổ bộ. Thấy tình hình gay go trên đảo, Đại tá Ngạc ra lệnh toán Người Nhái của Trung úy Lê Văn Đơn đổ bộ lên phía bờ Đông của đảo. Toán người Nhái của Trung úy Đơn đang khó khăn vượt qua cái đầm để tiến vào bãi biển thì lính TC trên đảo nổ súng làm HQ Trung úy Lê Văn Đơn và Hạ sĩ Nhất người Nhái Đỗ Văn Long (Long Sandwich) trúng đạn tử thương tại chỗ và 3 Người Nhái khác bị thương. Đại tá Ngạc thấy tình hình đổ bộ Biệt hải và người Nhái lên đảo trở thành tấm bia đạn cho lính TC tác xạ từ trên đảo, cho nên ông báo cáo về TTHQ xin lệnh rút Biệt Hải và Người Nhái trở về chiến hạm, ngoại trừ xác của hạ sĩ Nhất Đỗ Văn Long không mang được về tàu. (Theo lời kể của Thượng sĩ Giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ4)
    Trong khi từ phía Bắc đảo, lính TQ ồ ạt đổ quân lên đảo, trong khi HQ4 và HQ16 báo cáo không thể đổ bộ quân lên đảo được.
    Trên mặt biển đã thấy HQ16 và HQ10 đang tiến về phía Tây Nam đảo Quang Hòa, theo sau là 4 tàu chiến TC đang tiến vào đội hình chiến hạm của HQVNCH.
  • Khoảng 9h45 hai tàu 271 và 274 tiến đến HQ4. Các nòng súng đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly của tàu địch trực thẳng vào HQ4.
    Theo tường thuật của HQ Đại úy Lê Văn Thự, Trung tâm Trưởng trung tâm Hành quân BTL/HQ/V1ZH:
    “Cũng trong lúc này, từ Đà Lạt Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại về TTHQ/HQ/VIDH hỏi :
  • Tình hình Hoàng Sa như thế nào?
    Tư Lệnh HQ/V1ZH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trực tiếp với Tổng Thống Thiệu:
  • Chúng ta đổ bộ lên đảo có quân TC đã bị địch kích trên đảo nổ súng làm cho 2 chiến sĩ Người Nhái tử thương.
    Nghe tin xấu này Tổng Thống Thiệu hỏi tiếp:
  • Như vậy Hải Quân đã phản ứng gì chưa?
    Tổng thống ra lệnh cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại toàn quyền dùng tất cả biện pháp cứng rắn thích ứng đối với địch (TC). Nếu cần, dùng cả vũ lực để chứng minh cho Trung cộng biết rằng đây là lãnh hải của VNCH và nhất định không để mất một tấc đất vào tay giặc.”
    Theo Phó Đề đốc Thoại cho biết với câu hỏi ngắn gọn và lệnh sau cùng của Tổng Thống Thiệu như trên đã đưa Phó Đề đốc Thoại đến quyết định khai hỏa, mặc dù ông nhìn thấy được tương quan bất cân xứng giữa hai lực lượng tham chiến: phía VNCH chỉ có 4 chiến hạm tham chiến và 4 chiến hạm khác đang trên đường ra HS tiếp ứng phải đương đầu với lực lượng hùng hậu của Trung cộng có đủ tất cả lực lượng hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng tham chiến của Hạm đội Nam Hải.
    Do đó, đúng 10 giờ sáng ngày 19-1-1974 Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho Đại Tá Ngạc nổ súng trước để đánh phủ đầu địch, chiếm ưu thế và tránh nhiều tổn thất . (Lệnh này đã đưa đến kết qủa Hải quân VNCH đánh bại 4 chiến hạm TC sau 30 phút giao chiến và kịp thời rút lui trước khi Hạm đội Nam Hải kéo đến).
    Nhận được lệnh khai hỏa từ Tư lịnh Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại Tá Ngạc lập tức khai triển chiến thuật tấn công phủ đầu: HQ 10 sẽ tác xạ lên đảo Quang Hòa có quân TC để làm hiệu lệnh cho HQ4, 5 và HQ16 tác xạ thẳng vào các chiến hạm địch.
    Đúng 10h25, Đại tá Ngạc ban lệnh khai hỏa. Trận hải chiến bùng nổ ác liệt…..
  1. Cuộc tấn công của Phân đoàn 1 gồm HQ5, HQ4 diễn ra ở phía Tây Nam đảo Quang Hòa:
    Tàu của VNCH đã tìm cách giữ khoảng cách, nhưng tàu TC nhanh chóng tiến đến từ vài ngàn mét đến hàng trăm mét. Tàu địch 271 và 274 tập trung hỏa lực vào HQ-4, trong khi hai chiếc 396 và 389 tấn công HQ-16. Các đơn vị hải quân TC (PLAN) nhắm vào các thiết bị thông tin liên lạc, radar và đài chỉ huy nhằm bịt mắt và phá hoại những liên lạc của đối phương. Trong hỏa lực dử dội bắn lẫn nhau, HQ-4 bắt đầu bốc khói… (Theo tài liệu TC)
  • HQ4 trong khoảnh khắc tử chiến hạm, Hạm trưởng Vũ Hữu San cho tàu vận chuyển linh hoạt theo hình chữ chi (Z) nên tránh được nhiều loạt hải pháo của địch. Tuy nhiên có một trái đạn 100 ly của tàu địch bay lọt vào ống khói nổ tung làm mảnh đạn văng vào đài chỉ huy làm HQ Trung úy Roa bị thương nơi chân. Các mảnh đạn khác phá sập màn hình radar. Dây liên lạc các ổ hải pháo bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được. (Theo HQ Nguyễn Đông Mai trên HQ10 tường thuật)
    Phía tàu chiến TC cũng bị thiệt hại nặng. Trong làn đạn 76,2 ly của HQ4 và 127 ly của HQ5, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội và chìm. (Tuy Trung cộng lúc bấy giờ dấu diếm thiệt hại nhưng gần đây có vài youtube từ Trung cộng tiết lộ vài sự thật khi lvài đài truyền hình làm các cuộc phỏng vấn nhân chứng sống, từng là những người lính TC tham chiến HCHS)
    Sau ít phút giao tranh, hải pháo 76,2 ly của HQ4 ở sân mũi gặp trở ngại và phải chờ sửa chữa. Tuy vậy, HQ4 vẫn tận dụng hỏa lực còn lại, tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm đại liên.
  • 10h40, khẩu 76,2 ly của HQ4 ở sân lái sau bị hỏng bộ phận tự động nên phải điều chỉnh bằng tay, bắn từng phát một nặng nề và chậm chạp. Lập tức Đại tá Ngạc đã ra lệnh cho HQ4 rút lui khỏi vòng chiến để sửa chữa và chỉ thị HQ5 yểm trợ cho HQ4 rút ra xa. Thấy hoả lực chính của HQ4 bị trở ngại tác xạ, tàu TC 274 bám theo HQ4 thì bị HQ5 cắt đuôi HQ4 chận tàu 274 của địch.
    Những khối cầu lửa từ mũi HQ 5 bắn ra từ đại bác 127 ly bay thẳng vào 274. Ngoài chiếc 271 đang bốc cháy, đang chìm lại thêm chiếc 274 trúng đạn sau lái làm 274 loay hoay rồi quay ngang lãnh đủ hàng loạt đạn đại liên từ HQ4, 274 bốc cháy và dạt vào bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa. (Theo HQ Lữ Công Bảy, ThS Giám lộ trên HQ4 kể)
    HQ4 tuy bị trúng nhiều đạn nhưng máy móc chính và hệ thống truyền tin vẫn điều khiển tốt.
    Phòng truyền tin của HQ5 bị trúng 2 trái đạn 100 ly làm hư hại máy siêu tần số không còn liên lạc được và máy truyền tin trên đài chỉ huy cũng bị trúng đạn bể nát, Đại tá Ngạc phải vào Trung tâm chiến báo (CIC) dùng máy VRC46 để chỉ huy.
  • 11h00, chiếc 274 của TC được chiếc 389 tiếp trợ, hợp lực quay lại tấn công HQ5. Một mình đối đầu với 2 tàu địch (274 và 389), HQ5 bị “thương” nặng, ụ tháp hải pháo 127 ly bị trúng đạn. Tuy HQ5 bị trúng nhiều đạn nhưng phản công dữ dội khiến tàu địch thiệt hại nặng phải chùn lại. Soái hạm K-274 bị hư hại nặng, toàn bộ Bộ Chỉ huy Mặt trận của TC bị tử thương (Trong đó có Phong Songbai, Tư lệnh phó Mặt trận, kiêm Chính trị viên thiệt mạng).
    Trong khi đó, chiếc 389 sau những đòn bị bắn trúng trực diện, 389 rơi vào tình trạng nguy ngập. Con tàu bị đánh cho tơi tả, lật nghiêng một cách nặng nề và thuỷ thủ đoàn của nó không thể dập tắt lửa. Bất chấp nguy cơ của một vụ nổ, hai tàu đánh cá 402 và 407 với sự yểm trợ hỏa lực yếu ớt giúp tàu quét thủy lôi 389 bị hư hại nặng ủi vào bãi đảo Vĩnh Lạc. (Theo vài video tài liệu của Trung cộng)
    Nhận được lệnh rút lui từ Trung tâm Hành quân, với tình trạng HQ10 bất kiển dụng, HQ16 bị nước vào hầm máy, tàu nghiêng, HQ4 và HQ5 trúng nhiều đạn chỉ còn hỏa lực rất hạn chế, Chỉ huy trưởng Hải đội Đặc nhiệm Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 cùng HQ4 rút về hướng Đông Nam. HQ4 có 2 nhân viên tử thương: HQ Th/úy Nguyễn Phúc Xá (Trưởng khẩu 20 ly), HS1/VC Bùi Quốc Danh (Xạ thủ) và Biệt hải Nguyễn Văn Vượng (Xung phong tiếp đạn). Và HQ5 cũng có 3 nhân viên thương vong: HQ Tr/uy Nguyễn Văn Đồng, ThS/TP Nguyễn Phú Hào và TS1/TP Vũ Đình Quang.
  1. Cuộc tấn công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa:
    Đúng 10h25, HQ Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải quân TC tại Hoàng Sa. HQ16 và HQ10 đứng yên, mọi ổ súng lớn, nhỏ từ mũi tàu ra sau lái đều nhắm bắn vào tàu địch. Hải pháo giữa chiến hạm hai bên nã đạn trực tiếp không ngừng.
    Sau một hồi giao tranh, hai chiếc 396 và 389 bỏ chạy khỏi HQ-16 và sau đó quay vào tấn công HQ10.
    HQ-16 đối đầu rất ác liệt với tàu địch. Hạm trưởng Thự cho chiến hạm quay ngang đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba tàu địch để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Tuy nhiên bị bất lợi là HQ16 hứng nhiều đạn của đối phương. Sau một hồi giao tranh ác liệt HQ16 bị trúng đạn ở hầm đạn 127 ly phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống. Hỏa lực chính bất khiển dụng. Sau đó từ hầm máy HQ16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu phía hầm máy bên hữu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu. HQ16 bị nghiêng 15 độ đến 20 độ. (Do trái đạn 127 ly từ HQ5 bắn lạc xuyên qua lườn và chui vào hầm máy. May mắn viên đạn không nổ). Từ lúc này, HQ-16 chỉ còn một máy, sức mạnh tác chiến yếu hẳn. Hệ thống vô tuyến cũng tê liệt vì máy phát điện hư. Nhận thấy HQ16 mất khả năng chiến đấu, Hạm trưởng Thự cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo với 2 chiến sĩ thương vong: TS/ĐK Trần Văn Xuân và HS/QK Nguyễn Văn Duyên.
    HQ16 bi hư hại nặng và nghiêng 20 độ nên không thể tiến vào đảo đón toán công binh của Thiếu tá Hồng trên đảo Hoàng sa và 10 nhân viên cơ hữu của HQ16 đổ bộ lên đảo, nên Hạm trưởng HQ16 Lê Văn Thự lên máy truyền tin PRC-25 giao toàn quyền quyết định toán nhân viên cơ hữu HQ16 còn kẹt trên đảo cho trưởng toán HQ Trung úy Liêm. Trước hỏa lực qúa mạnh của tàu địch bắn phá vào đảo để dọn đường cho bộ binh đổ bộ chiếm đảo, tối ngày 20-1 trung úy Liêm quyết định rời khỏi đảo trên xuồng cao su. Sau 10 ngày trôi trên biển được ngư phủ người Việt vớt tại Mũi Yến ở Qui Nhơn đưa vào quân cảng Qui Nhơn và được chuyển đến Quân Y viện Qui Nhơn cấp cứu. Lúc 3h00 chiều quản kho Nguyễn văn Duyên đã từ trần khi được ngư phủ Đà Nẵng cứu vớt lên ghe.
    HQ10 (dựa theo tường thuật của HQ Trung úy Nguyễn Đông Mai và HQ Thiếu úy Tất Ngưu thuộc nhân viên HQ10):
  • 3h50 sáng ngày 19-1, nhân viên đã sẵn sàng và đầy đủ ở nhiệm sở tác chiến.
  • 4h30 và 5h30 có 2 phi cơ bay ngang vùng ở cao độ và lúc 6h00 lại có 2 phi cơ bay ngang, nhưng lần này bay thật thấp (MiG 19 của TC). Tất cả các họng súng 76.2ly, bô-pho 40ly, 20ly, đại liên 30 trên HQ10 bám sát 2 phi cơ lạ cho đến khi chúng mất hút ở xa tầm nhìn.
    Khoảng thời gian từ 4 giờ khuya đến 6 giờ sáng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời chưa sáng hẳn, hải đoàn của VNCH lập thành đội hình. Bên địch (Trung Cộng) gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại khiêu khích, có lúc tàu địch như muốn đâm thẳng vào chiến hạm của VNCH. Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để tấn công nhau.
    Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng từ xa, các tầu đánh cá ngụy trang di chuyển về phía Bắc và bốn chiến đỉnh của địch vận chuyển song song để bảo vệ.
    Bấy giờ các ổ súng trên HQ10 nhận được lệnh chuẩn bị tác xạ vào các tàu địch từ hạm trưởng. Lệnh của hạm trưởng Thà: “Bất kể nơi nào, thấy tàu địch nào trong tầm thì cứ bắn”, mục tiêu chính của HQ10 là chiếc T-396. Những chiếc hạm của ta và địch tiếp tục quần thảo nhau trong tư thế sẵn sàng tác xạ.
  • 10h25 nhận được lệnh khai hỏa từ Đại Tá Ngạc, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà HQ10 lập tức ra lệnh các ổ súng trên tàu tác xạ tới tấp vào tàu địch. Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch. Một chiến hạm của địch bốc cháy.
  • HQ16 rút xa ra khơi, chiếc 396 quay trở lại dồn nỗ lực để tấn công HQ10. Lợi dụng sự bất lợi về vận chuyển và hỏa lực yếu của HQ10, 396 và 389 của TC tấn công tới tấp vào HQ10. Mười phút sau Đài chỉ huy và phòng lái của HQ10 trúng đạn làm Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và hầu hết các sĩ quan, hạ sĩ quan và nhân viên ngành giám lộ và vận chuyển có mặt trên đài chỉ huy và phòng lái đều tử trận, ngoại trừ Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
    Ngoài đài chỉ huy và phòng lái, hầm máy và kho đạn cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen bốc mịt mù khắp con tàu. Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, không bỏ lỡ cơ hội HQ10 bị “trọng thương”, 389 của TC tiến vào phía sau lái phải của tàu HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào mình, HSI/VC Lê Văn Tây (xạ thủ pháo 20ly) và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn) không nao núng, tiếp tục ghì nồng súng 20 ly bắn xối xả vào 389.
    HQ10 và 389 sát với nhau rơi vào tình trạng cận chiến. Lính TC trên tàu T-389 ném lựu đạn, bắn tiểu liên cầm tay tới tấp vào HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại.
    Tuy trúng nhiều đạn và thiệt hại nặng nhưng HQ10 không nao núng dùng hải pháo 20 ly, đại liên, phóng lựu M79 và M16 nã đạn ác liệt vào tàu 389 của địch làm nó bốc cháy, khói đen mù mịt.
    “Rầm!!!” HQ10 đâm mạnh mũi tàu vào sau lái 389 của tàu địch làm nó loay hoay dạt ra xa không điều khiển được. Đồng thời bị trúng thêm đạn, 389 bốc cháy, xoay vài vòng rồi dạt vào bãi san hô Tây Bắc đảo Duy Mộng. HQ10 cũng bị thiệt hại nặng nề, hai máy bất khiển dụng, tàu bốc cháy và trôi lình bình trên biển…
    11h10, HQ16 trong tình trạng nguy kịch được lệnh rời khỏi vùng. Vì tàu trúng nhiều đạn và tàu nghiêng 20 độ có cơ nguy bị chìm nên không thể tiếp cứu HQ10 được, đành bỏ lại HQ10. Trong khi hầm máy HQ10 đang bốc cháy, kho đạn nổ, tàu vô nước sắp chìm. Hạm phó Nguyễn Thành Trí ra lệnh cho nhân viên đào thoát trước khi hai chiếc 281 và 282 của TC đến từ hạm đội Hải Nam tấn công HQ10 ba lần cho đến khi HQ10 chìm hẳn vào lúc 3 giờ chiều, mang theo thân xác của Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và 54 chiến sĩ hải quân VNCH chìm vào lòng đại dương. (28 người đào thoát và sau đó Hạm phó Nguyễn Thành Trí và 8 nhân viên lần lượt qua đời trên bè đào thoát hoặc trên Tầu Hòa Lan.
    Sau 4 ngày 3 đêm nằm bè trôi dạt trên biển được thương thuyền Kopionella của Hoà Lan cứu vớt và đã thực hiện nghi thức thủy táng Hạm phó Nguyễn Thành Trí).
  • Theo tài liệu TC: Hải quân PLAN – Hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân (Hải đoàn đang tham chiến) đã phải cầu viện đến Hạm đội Nam Hải với hai tàu săn tàu ngầm lớp Hải Nam, số 281 và 282, thuộc sư đoàn đồn trú ven biển ở Sán Đầu (Shantou), cách gần chín trăm cây số tính từ Hải Nam. Hai chiến hạm này tăng tốc đến Đảo Phú Lâm, tiếp nhiên liệu trên dọc đường đi ở Trạm Giang (Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin) để nhanh chóng có mặt tại Hoàng Sa trước khi hạm đội Nam Hải đến sau đó.
  • Có bài viết HQ10 đâm vào tàu địch 389 là do Hạm phó Nguyễn Thành Trí, mặc dù ông đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên khi đoán được ý định của giặc muốn tràn lên tàu. Từ phòng lái, Hạm phó Trí đã dùng M16 nhả một loạt đạn vào tàu địch và chờ tàu địch vào đúng vị trí mong muốn, Hạm Phó Trí cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm mạnh vào hông lái của T-389. Quá bất ngờ trước hành động quyết tử của HQ10, chiếc 389 không kịp phản ứng tránh né nên bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu huyệt của chiến hạm là phần sau lái.
    Tàu địch T-389 bị HQ10 đâm mạnh làm cho nó ngã nghiêng, cộng thêm những hư hại do đại pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy khốn, tàu bất khiển dụng, bốc cháy, sắp chìm, khiến 396 của địch phải ngưng đối đầu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu 389. Bị hoả lực tập trung của HQ16 và HQ10 đã đưa 396 rơi vào tình trạng hư hại nặng và bốc cháy. Vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang Nam Ngư 402 và 407 phía sau bất chấp 389 đang bốc cháy, có thể nổ tung đã chạy đến tiếp cứu, đưa 389 ủi vào bãi Vĩnh Lạc dưới sự yểm trợ hỏa lực yếu ớt của 396.
  • Theo Hồi ký của HQ Đại úy Lê Văn Thự – Trung tâm Trưởng Hành quân Vùng I Duyên Hải:
    “Vào lúc giữa trưa ngày 19-1, Tư Lịnh Hải Quân Đề Đốc Trần Văn Chơn vào TTHQ/VIZH nghe HQ5 báo cáo kết qủa sơ khởi ngay khi HQ10 bốc cháy. Đồng thời cũng trong thời gian này, Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Đà Nẵng gọi qua TTHQ khuyến cáo nên ra chỉ thị cho các chiến hạm của VNCH trở về Đà Nẵng lập tức vì hạm đội hải quân của Trung cộng đang kéo đến có cả tàu ngầm, hỏa tiễn, phi cơ MIG 19 đang cất cánh từ đảo Hải Nam.
    Được tin này và để tránh tổn thất vô ích cho HQVNCH Đề Đốc TL/HQ Trần Văn Chơn ra lịnh HQ4, HQ5 và HQ16 rời HS trở về Đà Nẵng”.
  • Dưới đây là những diễn biến chính của HQ10 được trích từ bài viết HQ Th/úy Tất Ngưu, Sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20ly và súng cối 81ly ở sân sau HQ10:
    “Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết cháy dưới hầm máy. Những nhân viên bị thương, sống sót được đưa lên boong tàu.
    Tình trạng HQ10 lúc này lâm vào tình trạng vô cùng bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có HQ Trung úy Huỳnh Duy Thạch, cơ khí trưởng của HQ10, hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, hai máy chính và máy điện cũng như hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không còn sử dụng được.
    Lúc này nhân viên Phòng Tai báo cáo không dập tắt nổi ngọn lửa và nước đang vào các hầm máy. Trước tình trạng tuyệt vọng của HQ10 Hạm phó Trí từ đài chỉ huy bò xuống sân tàu ra lệnh cho nhân viên đào thoát. Ông lết đến từng ụ súng thúc giục nhân viên xuống bè. Khi tất cả nhân viên đã xuống 5 bè, đại úy Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại tàu cùng với những nhân viên khác từ chối đào thoát ở lại quyết tử với tàu địch. Trong số nhân viên cương quyết ở lại tàu không chịu đào thoát có HSI/VC Lê Văn Tây (xạ thủ) và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn). Hai anh đang ghì hải pháo 20 ly sau lái bắn xối xả vào tàu địch.
    Bất chấp từ chối đào thoát của Hạm phó Trí, hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long nhất định cặp và lôi ông xuống bè.
    Tình trạng các bè cũng rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của đại úy Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng đại úy Trí vẫn còn tỉnh táo, ông ra lệnh kết các bè lại với nhau để các bè tựa nhau nổi trên mặt biển và tránh bị trôi dạt xa nhau. Tổng số nhân viên đào thoát trên 5 chiếc phao có 28 người cho đến khi được tầu Hòa Lan vớt.
    Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói mù mịt. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong. HQ16 cách HQ10 không xa lắm, nhưng HQ16 nghiêng một bên và đang cố gắng vận chuyển thật chậm rời khỏi lòng chảo. Tình huống nguy ngập của HQ16 khó lòng tiếp cứu HQ10 hay vớt người được. Về phía Trung cộng, 271 chìm ngay phút đầu nổ súng và 3 chiếc hạm còn lại cũng đang bốc cháy, hư hại nặng phải ủi bãi.
    Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi chúng đến gần thì ra là hai tàu chiến TC mang số 281, 282 của TQ tăng viện. Khi 281 và 282 đến nơi thì 271 đã chìm, 3 chiến hạm của TC còn lại đang bốc cháy và vô nước sắp chìm, ủi bãi cạn.
    12h12 khi 281 và 282 tiến gần HQ10 thì khẩu hải pháo 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ lại nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly của HQ10 im bặt. Có lẽ HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã tử thương.
    14h52 mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng 281 và 282 vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh trên biển cho đến khi HQ10 chìm hẳn tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope Reef) khoảng 2.5 km.
    Bắn chìm HQ 10 xong, hai chiếc 281 và 282 quay lại tiến gần đến các bè đào thoát, chúng chạy quanh các bè 2 vòng rồi bỏ đi.
    Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có đại úy Trí bị đứt dây tách ra khỏi nhóm.
    Tiếp theo sau Hạm phó Trí hy sinh, có thêm 8 chiến sĩ lần lượt hy sinh ngay trên bè vì vết thương quá nặng hoặc đuối sức vì thiếu nước và thực phẩm trước khi được tàu Hoà Lan cứu. Tất cả đều được đồng đội làm lễ Thủy táng.
  • Ngày 22-1 lúc 6h30 chiều khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì đúng lúc tàu dầu Kopionella của hãng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã phát hiện các bè đào thoát và vớt tất cả 19 người thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông. (Vì hành động nhân đạo này, vị Thuyền Trưởng và thủy thủ đoàn đã được chính phủ VNCH trao tặng huy chương Nhân Dũng Bội Tinh)
    Như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển 4 ngày 3 đêm và họ đã đón giao thừa Tết Giáp Dần 1974 trong cơn sốt mê man vì kiệt sức trên thương thuyền Kopionella của Hoà Lan”. (HQ Thiếu úy Tất Ngưu)

Tưởng Niệm Tử Sĩ Hải Chiến Hoàng Sa năm thứ 45,
Portland, ngày 10 tháng 01 năm 2019
HQ. Phạm Quốc Nam









2018 Portland Veterans Day Parade – 44th Annual

HÌNH ẢNH CQN VNCH DIỄN HÀNH LỄ C ỰU CHIẾN BINH HOA KỲ TẠI PORTLAND OREGON

.

Slide show

………………………………….

More Photos By Mary Nguyen 

MORE PHOTOS AT MARY NGUYEN’S ALBUM

Death by China

Cách đây 5 năm thì ai dám nghĩ tác giả của cuốn sách Death by China lại có thể làm cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Mỹ và có tiếng nói quan trọng tại Tòa Bạch Ốc. Nhưng điều không ngờ lại xảy ra và tác giả của cuốn sách “chết bởi Trung Quốc” đã trở thành cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump. Đây là tình huống mà giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã không ngờ tới và chắc chắn sẽ còn phải đau đầu rất nhiều với tác giả của cuốn sách Death by China.

Đọc cuốn sách Death by China thì thấy Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro đã vạch trần tất cả những mối nguy đến từ chính sách kinh tế của Trung Quốc. Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì Trung Quốc đã đưa ra chính sách gian lận thương mại, ăn cắp công nghệ, làm hàng giả, hàng kém chất lượng để phá hủy toàn bộ hệ thống kinh tế chuẩn mực của các nước tư bản giầu có trước đây như Mỹ và Châu Âu. Trung Quốc đã cố tình làm hàng giả, hàng kém chất lượng và bán phá giá để cho nhiều nhà máy, nhiều công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản.

Khi các nhà máy, các công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản thì người dân không có việc làm và người dân không có việc làm thì không có tiền lương mà không có tiền lương thì phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc. Đối với những nước giầu có như Mỹ và Châu Âu thì Trung Quốc đưa hàng giả, hàng kém chất lượng vào để giết chết các nhà máy, các công ty. Còn đối với các nước nghèo đói như Campuchia, Việt Nam, Lào và Châu Phi thì Trung Quốc đã đưa cả hàng độc hại để không chỉ giết chết các nhà máy, các công ty mà giết chết luôn cả người dân.

Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì nếu Mỹ và Châu Âu không có chính sách ngăn chặn Trung Quốc thì chỉ cần trong vòng 10 năm đến 20 năm nữa là Trung Quốc sẽ chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế toàn cầu.

Khi Trung Quốc đã chi phối được kinh tế toàn cầu thì dĩ nhiên là Trung Quốc sẽ chi phối về chính trị và đi xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia khác. Điều này thì ai cũng có thể nhìn thấy qua các chính sách của Trung Quốc đối với các nước nhỏ và nghèo trong khu vực như Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines, và Malaysia.

Giới chính trị gia salon của Mỹ và Châu Âu đã không nhận ra được mối nguy từ Trung Quốc hoặc có nhận ra nhưng đã cảm thấy bất lực nên đành phải nín nhịn Trung Quốc để được yên thân trong nhung lựa của cung điện.
Dưới thời Tổng Thống Barack Obama thì tỷ lệ thất nghiệp của người dân Mỹ ngày càng gia tăng mà không có cách giải quyết, ngân sách quốc gia thì thâm hụt và phải vay mượn tứ tung. Có 8 năm cầm quyền mà tiêu tiền ngân sách quốc gia nhiều hơn cả mấy đời Tổng Thống Mỹ cộng lại. Chính sách của Hillary Clinton thì chẳng khác gì Barack Obama nhưng vẫn có người đi ủng hộ Hillary Clinton và chống Trump thì quả là kém về chính trị và vô trách nhiệm với nước Mỹ, với Châu Âu và với thế giới.

Tổng Thống Trump là một nhà kinh tế, là một tỷ phú đã từng điều hành hàng ngàn công nhân nên ông hiểu được chính sách kinh tế của Trung Quốc. Từ sự thấu hiểu mà Tổng Thống Trump đã quyết định chọn người có điểm chung là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro để làm cố vấn kinh tế và đưa ra các biện pháp ngăn chặn Trung Quốc. Thực sự là Mỹ đã quá muộn và ngăn chặn được kinh tế Trung Quốc là một bài toán vô cùng khó.
Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, đã thâu tóm và lũng đoạn được chính trị của nhiều quốc gia. Trong khi hàng hóa Made in China thì đã tràn ngập thị trường Mỹ và Châu Âu.
Người dân thì vì không có việc làm và không có tiền nên vẫn phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc.
Mỹ và Châu Âu đã quá muộn để ngăn chặn Trung Quốc nhưng muộn mà còn có Tổng Thống Mỹ dám đứng ra ngăn chặn thì thế giới vẫn còn hy vọng. Cuộc đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là một cuộc đấu đầy khó khăn và khốc liệt. Nhưng với kinh nghiệm của thương trường, với lòng can đảm và với một quyết tâm cao thì Tổng Thống Trump đang làm cho thế giới có nhiều hy vọng vào một chiến thắng trước Trung Quốc. Nếu cuộc đấu với Trung Quốc mà thành công thì lịch sử nhân loại sẽ ghi ơn Tổng Thống Trump và người cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump và cũng là người đã có công viết cuốn sách Death by China để vạch trần chính sách gian manh của Trung Quốc là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro.

FB Đạt Tiến Nguyễn

TÀI LIỆU THẬT HIẾM CÓ

Tài Liệu Quân Sử VNCH Rất Đầy Đủ Và Chi Tiết, Có Cả Hình Ảnh Và Bản Đồ.                  

Dinh cong Duc

………………………………………….
SVN Navy Coastal Security Service: The Gulf Raiders – (Trần Đỗ Cẩm) 
Thiết Giáp QLVNCH Tại Hạ Lào: Dấu Chân Chiến Mã … – (Trần Đỗ Cẩm) 
Vì Sao Tân Cảnh Thất Thủ? – (Cựu Đại Tá Hà Mai Việt) 
Đảo Chánh Ngày 1/11/1963 – (Phạm Bá Hoa) 
Mặt Trận Ban Mê Thuột – (Phạm Huấn) 
Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 Ngày 17/3/1975 – (Phạm Bá Hoa) 
Thung Lũng Iadrang – (Hà Kỳ Lam)
Trận Làng Vei (Phần 1) – (Trần Ðỗ Cẩm)
Trận Làng Vei (Phần 2) – (Trần Ðỗ Cẩm)
Trận Làng Vei (Phần 3) – (Trần Ðỗ Cẩm)
Trận Làng Vei (Phần 4) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Trận Làng Vei (Phần 5) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa – Bình Thuận – (Hồ Ðinh)
Vết Xích Chiến Xa Trên Ðất Kontum – (Lê Quang Vinh – Chi Ðoàn 1/8)
Hổ Cáp – Gia Ðình 9 Kỵ Binh – (Hổ Cáp Trần Hữu Thành) 
Cuộc Ðổ Bộ Trong Lòng Ðịch – (Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa) 
Hải Long, Mặt Trận Miền Ðông Phan Thiết – (Mường Giang) 
Ðịa Phương Quân & Nghĩa Quân Bình Thuận – (Mường Giang) 
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần – (Nguyễn Lý Tưởng)
Tướng Trần Thiện Khiêm … – (Trần Ngọc Giang)
Trận Ðánh Cuối Cùng Của Thiếu Sinh Quân … – (Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng)
Trung Úy Sơn – (Charles Kuralt – Hoàng Mai Ðạt chuyển ngữ)
Mùa Xuân Không Ðến – (Lê Bình)
Nguyên Văn bản Hiệp Ước Biên Giới Viêt – Hoa 1999
Oan Hồn Trên Xứ Huế – (Ngô Xuân Hùng chuyển ngữ)
Trận Phan Rang – (Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang)
The Easter Offensive (in English) – (Lt. Gen. Ngo Quang Truong) 
Ðảo Guam, 27 Năm Sau – Tuyên Úy Nguyễn 
Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn – Phạm Văn Liễu 
Ngày Quân Lực – Bùi Ðức Lạc 
Cái Chết Của Sử Gia Phạm Văn Sơn – Nguyễn Văn Dưỡng 
Trong Cảnh Sống Còn – Nguyễn Tấn Hưng 
Những Ngày Cuối Cùng Của Hải Vận Hạm Hậu Giang – Hoàng Sa NQT
Trận Phan Rang (Tháng 4/75) – Trương Dưỡng
Tây Nguyên Sóng Dậy – Bùi Ðức Lạc
Nhớ Về Tháng Tư 1975: Vùng IV Duyên Hải Những Ngày Cuối – Nguyễn Duyệt
Thiên Anh Hùng Ca – Bùi Ðức Lạc
Người Tù Trại Phong Quang – Ngô Xuân Hùng dịch
Phúc Trình Weyand (Phần 2) – Trần Ðỗ Cẩm dịch
Phúc Trình Weyand (Phần 1) – Trần Ðỗ Cẩm dịch 
Ban Mê Thuột: Những Ngày Ðầu Trong Tay Cộng Quân – Nguyễn Ðịnh
Biệt Hải: Chuyến Công Tác Thanh Hóa – Nguyễn Văn Kha 
Biệt Hải: Chuyến Công Tác Bầu Tró (Ðồng Hới) – V.12
Ðại Tá Ngô Thế Linh – Nhân Viên T 70 
Ban Mê Thuột Ngày Ðầu Chiến Cuộc – Nguyễn Ðịnh
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 8) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 7) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 6) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 5) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 4) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 3) – Phạm Văn Sơn
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 2) – Phạm Văn Sơn 
Trận Chiến Tết Mậu Thân 1968 (Phần 1) – Phạm Văn Sơn 
Bí Mật Về Trận Thất Thủ Ban Mê Thuột – Lữ Giang 
Mặt Trận Tây Nguyên 1975 – Trung Tá Ngô Văn Xuân 
Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B – Khuyết Danh 
Nhìn Lại Trận Ðánh Ban Mê Thuột – Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật 
Trung Ðoàn 44 Trong Mùa Hè Ðỏ Lửa – Trung Tá Ngô Văn Xuân 
Tết Mậu Thân Tại QÐ II – Ðại Tá Trịnh Tiếu 
Hoạt Ðộng Của BK Dù Tại Bắc Việt – Trung Tá Nguyễn Văn Vinh 
Bắc Việt Tấn Công Xuân Lộc – Hồ Ðinh 
Máu Lửa … Charlie – Ðoàn Phương Hải
Tướng Nguyễn Khoa Nam: Hồi ký của SQ tùy viên– (Lê Ngọc Danh) 
Chuyến Công Tác Cuối Cùng Của HQ 09 – (Hoàng Ðình Báu) 
Tưởng Niệm Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh – (Ngô Xuân Hùng) 
Mùa Hè Ðỏ Lửa 72 – (Cọp Biển Trần Ngọc Nam) 
Cộng Sản Bắc Việt Xâm Lăng – (Trung Tá Trần Văn Hiển) 
Poulo Wai – Ðột Kích Thám Sát Người Nhái – (Trịnh Hòa Hiệp) 
Liên Ðoàn Người Nhái – (Lê Quán) 
Giang Ðoàn 26 Xung Phong: Những Giòng Sông Cũ … – (Trần Ðỗ Cẩm) 
HQ 802- Những Ngày Cuối Trên Biển Ðông – (Vũ Quốc Công) 
Từ Ban Mê Thuột Ðến Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên – (Tôn Quang Tuấn) 
Những Kỷ Niệm Gia Ðình Với Tướng Nguyễn Khoa Nam – (Nguyễn Thái Dương) 
Thương Tiếc Viết Về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam – (Nguyễn Khoa Phước) 
Tướng Cao Văn Viên Kể Lại 2 Buổi Họp Lịch Sử Tháng 3/75 – (Vương Hồng Anh) 
Tưởng Niệm Tướng Trần Văn Hai (1) – (Người Lính Già) 
Những Giờ Phút Cuối Cùng Của Tướng Trần Văn Hai – (Trịnh Văn Ngạn) 
Chiến Ðấu Ðến Cùng – (Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi) 
Phong Cách Anh Hùng Của Tướng Phạm Văn Phú – (Nguyễn Ðông Thành) 
Tướng Lê Văn Hưng (2) – (Bà Lê Văn Hưng, nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng) 
Tướng Lê Văn Hưng (1) – (Dale Andrade) 
Thiên Thần Mũ Ðỏ Ai Còn Ai Mất – (Tướng Lê Quang Lưỡng) 
Tướng Lê Nguyên Vỹ (2) – (Nguyễn Văn Tín) 
Tướng Lê Nguyên Vỹ (1) – (Thanh Sơn) 
Một Ngày Với Ðô Ðốc Chung Tấn Cang – (Phỏng Vấn – Phan Lạc Tiếp) 
Lực Lượng Ðặc Biệt Hải Quân: Sở Phòng Vệ Duyên Hải – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Mặt Trận Tam Biên 1972 – (Người Lính QLVNCH) 
Lam Son 719 Operation (in English) – (Maj. Gen. Nguyen Duy Hinh) 
Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm “Hổ Biển” – (Lê Bá Thông) 
Quân Sử: Chuyện Tiểu Ðoàn 1 “Quái Ðiểu” TQLC – (Bao Bất Ðồng) 
Hải Sử: Trận Ba Rài – (Phan Lạc Tiếp) 
Bài Nói Chuyện Của Ðại Tướng Nguyễn Khánh – (Lê Ðình Cai dịch) 
Quân Sử: Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo – (Nguyễn Tuyển) 
Quân Sử: Ngày Cuối Cùng Của Ðại Tá Lê Ðức Ðạt – (Vương Hồng Anh) 
Quân Sử: Biệt Cách Dù Và Quân Dù Trong Ngày 30-4-75 – (Vương Hồng Anh) 
Hồi Ký: Chuyến Di Tản Buồn – (Lê Bá Thông) 
Hồi Ký: Sanh Nam … Tử Bắc – (Cá Kình Nguyễn Văn Tâm) 
Thương Tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam – (Bào đệ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam) 
Hồi Ký: Huế, Mậu Thân và Tôi – (Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán) 
Hồi Ký: Vì Sao Tôi Bỏ Quân Ðoàn I ? – (Trung Tướng Ngô Quang Trưởng) 
Hồi Ký: Ngày Tàn Cuộc Chiến – (Ðại Tá Lê Nguyên Bình) 
Biên Khảo: Ðường Mòn Hồ Chí Minh – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 1/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 2/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 3/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 4/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 5/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Biến Cố Vịnh Bắc Việt Tháng 8 năm 1964 (Bài 6/6) – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Biên Khảo: Khái Lược Về Lịch Sử Hình Thành Của Quân Lực VNCH (Phần 1) – (Trần Ðỗ Cẩm & Trần Hội) 
Biên Khảo: Khái Lược Về Lịch Sử Hình Thành Của Quân Lực VNCH (Phần 2) – (Trần Ðỗ Cẩm & Trần Hội) 
Quân sử: Tống Lê Chân, Tiền Ðồn Quá Xa – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Phóng đồ Trận đánh tại Tống Lê Chân – (Trần Ðỗ Câm) 
Hình Ảnh Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 1 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 2 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 3 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 4 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân tại Hạ Lào – Bài 5 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Phóng Ðồ Kế Hoạch Ðiều Quân Lam Sơn 719 – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Phóng Ðồ Các Trận Ðánh Của Biệt Ðộng Quân Tại Hạ Lào – (Trần Ðỗ Cẩm) 
Hồi Ký: Tô Phạm Liệu, người ở lại Charlie – (Phạm Anh Dũng) 
Mặt Trận Tân Cảnh – Kontum 1972 – (Ðại Tá Trịnh Tiếu) 
Cơn Uất Hạ Lào – (Bùi Ðức Lạc) 
Ðường Về Kotum – (Bùi Ðức Lạc) 
Tân Cảnh: Kẽm Gai Bọc Thây Anh Hùng – (Bùi Ðức Lạc) 

24. Lich Su VN 1945-2008:

 http://vietnamsaigo n.multiply. com/ 
http://vietnamsaigo n.multiply. com/journal/ item/69

25. Những đoạn vidéos này ghi lại đối thoại của anh Lữ triều Khanh tức Émile
một sĩ quan suốt đời phục vụ trong ngành tình báo, phản gián với những BK,
vì thế những đoạn vidéos này rất hữu ích cho ai muốn tìm hiểu về công tác hậu địch.

 Fort Bragg 01 

http://www.youtube. com/watch? v=-uxl-wdirgI 

 Fort Bragg 02 
http://www.youtube. com/watch? v=ToBrjwDdgio 
Fort Bragg 03
 

http://www.youtube. com/watch? v=xsWr4yE6myI 
Fort Bragg 04
 

http://www.youtube. com/watch? v=B1Z7CayFpFE 
Fort Bragg 05
 

http://www.youtube. com/watch? v=yDIuPMr3EwI 
Fort Bragg 06
 

http://www.youtube. com/watch? v=y1ikMiIfFss 
Hội ngộ tại Fort Bragg 07
 

http://www.youtube. com/watch? v=HopuvSsT6Q0 
Hội ngộ tại Fort Bragg 08 bis
 

http://www.youtube. com/watch? v=Dm6B7JVxWbM 
Hội ngộ tại Fort Bragg 09
 

http://www.youtube. com/watch? v=UjcyGPK3yT0 
Hội ngộ tại Fort Bragg 10
 

http://www.youtube. com/watch? v=dJrZoDUDS2A 
Hội ngộ tại Fort Bragg 11
 

http://www.youtube. com/watch? v=s6pgu_Rz09s 
Hội ngộ tại Fort Bragg 12
 

http://www.youtube. com/watch? v=M5koffq8ocE 
Hội ngộ tại Fort Bragg 13
 

http://www.. youtube.com/ watch?v=DEsqIT5i ZpM 
Hội ngộ tại Fort Bragg 14
 

http://www.youtube. com/watch? v=rMYjPHGOdMs 

Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 01 
http://www.youtube. com/watch? v=IG-LfAYO4lU 
Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 02
 

http://www.youtube. com/watch? v=KUmF9YvI7No 
Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 03
 

http://www.youtube. com/watch? v=yGA6HpMX0aM 
Hồi Chuông Báo Tử cho Nguyễn Hữu Luyện 04
 

http://www.youtube. com/watch? v=DFoKtm5Jzp8

26. Về cái chết của TT Ngô Đình Diệm
Tưởng nhớ Cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm 

Tổng hợp (29-Oct-2009 20:02) 
Những chương bi thảm 

Lữ Giang (01-Jul-2009 16:39) 
Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử
Lữ Giang (14-Apr-2009 23:51) 

JFK and Vietnam: Kennedy’s assassination 45 years ago today made it an American war
Gordon M. Goldstein (22-Nov-2008 11:54) 

Đánh giá lại Diệm: Cái nhìn khác về miền Nam
Tiến sĩ Kathryn Statler/ BBCVietnamese (21-Nov-2008 22:52) 

Thánh Lễ tưởng niệm nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm tại Rottenburg-Stuttgar t (Đức quốc)
Rosa & LhThanh tóm lược (03-Nov-2008 12:21) 

Thánh Lễ cầu nguyện cho Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại Nam California
Lm Thaddeus Bùi Công Hiến Linh, OH (02-Nov-2008 14:58) 

Nhân ngày lễ các đẳng linh hồn, nhớ về một ‘giáo dân cố tổng thống’
Alfonso Hoàng Gia Bảo (02-Nov-2008 13:36) 

Hương lòng dâng tặng Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Hồng Lĩnh (31-Oct-2008 13:11) 

Liên Minh bất hoà
Lữ Giang (23-Oct-2008 22:52) 

Mời tham dự Lễ giổ Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm
Khối Tinh Thần Ngô Đình Diệm (17-Oct-2008 13:11) 

Nhà Văn Hóa Linh Mục An-tôn Trần Văn Kiệm, bạn vong niên Cố TT Ngô Đình Diệm
Trần Vinh (30-Nov-2007 10:49) 

Đây là sự thật
Trương Phú Thứ (09-Nov-2007 19:09) 

Tài liệu lịch sử: Tràng chuỗi mân côi, một trong những dấu hiệu của người Công Giáo đạo dòng
LM. Augustinô Hồ Văn Quý (04-Nov-2007 07:18) 

Little Saigon: Tổ Chức Giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Nguyễn Hoàng Qúi (04-Nov-2007 06:41) 

Nhân đọc ”Triumph Forsaken : The Vietnam War, 1954-1965” (*) Lịch sử Việt Nam những năm 1954-1965 được xét lại:

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975 RVNAF, 1968-1975 (Bill Laurie, Historian)

Bài viết của sử gia Bill Laurie về Việt Nam

 

 

Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam. Nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc Trường Đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006.


Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm, song song với những ý kiến không quanh co che đậy về giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này dịch nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bầy lại, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ.


Trong bản dịch dưới đây, những chữ in nghiêng trong ngoặc đơn là chú thích thêm của người dịch để làm rõ nghĩa văn Mỹ của tác giả, những chữ in đậm là nguyên văn tiếng Việt mà tác giả viết trong tài liệu. Hình ảnh lấy từ website của Trung tâm Việt Nam, Lubbock, Texas.

 

QLVNCH thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của QLVNCH trước năm 1968.


Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay chối bỏ rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây hoạ cho khả năng của QLVNCH bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của
 QLVNCH không thể bị xóa khỏi trang lịch sử Vinh Quang.

 

o0o

 

 

Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971, phục vụ 1 năm tại MACV, rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở Phòng Tuỳ viên quân sự.


Khởi thuỷ, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự khoá huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, Tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Đông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng châu thổ sông Mekong. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao gồm công tác liên lạc giữa bộ Tổng Tham mưu QLVNCH, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh của Việt Nam, và cả các đon vị QLVNCH ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của VNCH, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và VNCH mà cả với người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao trong những buổi thuyết trình ở Tổng hành dinh của MACV cũng như ở bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tuần lễ sau đó tôi có thể đi lội trong những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong cùng với các binh sĩ Địa phương quân, hay bay ngang tỉnh Định Tường trên một chiếc trực thăng Huey của QLVNCH, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt động Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Đông.


Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu tất cả những người ở Mỹ quả là đang nói về Việt Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?”.


Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cơ quan nhỏ, với những bún, cà-phê, mì, chè… hao hức lắng nghe người dân, người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tơi từng học ở Hoa Kỳ.


* * *


Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hàng feet khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ những người cựu chiến binh gốc Đông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam và Đông nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những người ở những xứ ấy tự trình bầy thì lại không phù hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.


Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Đúng là có những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến với Sư đoàn 9 bô binh VNCH, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hoả lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư đoàn 7 bộ binh VNCH, cái đơn bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thể thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe doạ Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư đoàn 21 bộ binh VNCH phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến sĩ James H.Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư đoàn 21 tuy không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến truờng An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt.


Nói vắn tắt, QLVNCH, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày trước… và ngày nay cũng vậy.


* * *


Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết QLVNCH vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Điều này là hiển nhiên. Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và Tân Tây Lan tới đó.


Tuy nhiên, căn cứ những chỉ dấu cho thấy lực lượng VNCH khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu. Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt động quân VNCH đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ”. Đại Uý Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, Đại uý Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu đoàn 2 TQLC, mang huy hiệu Trâu Điên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản Miền Nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”…


Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hoá phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời kỳ, thời kỳ QLVNCH không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ qua dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của QLVNCH đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lai.


Rốt cuộc thì QLVNCH cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang bị thời thế chiến thứ hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội VNCH được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt cộng và bộ đội Bắc Việt. Đồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày: (bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính quy và Địa phương quân, Nghĩa quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 trịêu 48 ngàn quân. Trong đó, Không quân gia tăng quân số tới 163%, Hải quân tăng 110%, Lục quân tăng gần 8% quân số)


Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% QLVNCH (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ QLVNCH, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm Cảnh sát dã chiến, Nhân dân tự vệ, và các toán Xây dựng nông thôn. Lực lượng Xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế giễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của Tiểu khu yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào tài liệu.


Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (trích từ các sách vở của các tác giả người Mỹ)


“ Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân tự vệ khác xuất hịện, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M 1 (không ghi rõ garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly”


Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ”


Còn nữa: một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu huỷ tại An Lộc trong cuộc bao vây năm 1972.


Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây:


“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng ta (Việt cộng).”


Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại.


Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Địa phương quân với sự trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:


“ Chúng tôi vừa vuợt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hoả lực từ một rặng cây trước mặt bắn tới. Nước văng tung toé xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hoả lực địch. Khi toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ. Duới hoả lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá haỵ”


Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970:


“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”


Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của Việt Nam mà họ không hoà thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.


Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị, Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thuỷ quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thụôc Sư đoàn 1 Bô binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt. :


“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Đây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hiện những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hoả lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta’ Chúng tôi có các cố vấn người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau” (Tác giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii)


Ở Miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Định Tường thuộc quân khu IV, Sư đoàn 7 Bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ Sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của Sư đoàn 7 Bộ binh:


“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.


Ở Bến tre (tức tỉnh Kiến Hoà) Sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi” (tác giả trích dẫn David Chenoff và Đoàn Văn Toại, sách Chân dung kẻ địch, Random House ở New York xuất bản năm 1986).


Tình hình càng tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của Sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của Sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực lượng chính. (tài liệu trích dẫn)


Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt: (Bảng thống kê trang bị ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cụơc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9,8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%)


Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, duới tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Điều này xảy ra trong khi quân số tham chỉến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích.


Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và không có bằng chứng về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân đội Bắc Vịêt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu dịêt hoàn toàn, và những ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kịểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện, Định Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa Trong Hồ” (cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng “cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng”. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “rằng phía Việt cộng không phải là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn”


Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa xả om sòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn những điềm gở . Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu thổ:


“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đ tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng tượng đươc. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”


* * *


Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hoả tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hoả tiễn chống pháo điều khiển bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 đuợc yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hoả tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gẫy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó. Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “… Nam Việt Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc” Nhiều nhà bình luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: Không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vuợt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hoả tiễn 122 ly chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km). Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại tương đương, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nôi. Hà Nội có hằng trăm hoả tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm. Tựu trung, trở lại đề tài không lực, thì Không quân Việt Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lực vào vị trí quân Bắc Việt:


“Anh ta đâm chúi đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công của Không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hoả lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam.


“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công Không quân Việt Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vuợt hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ”.


Đây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ chứng thực:


“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972… Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu”

QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận Tết Mậu thân 1968, về khía cạnh quân số và hoả lực. Ước lượng có khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết ’68 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế (ngoại trừ ở Quân khu I).


QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hịêp định Paris gian lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc nhiệm VNCH đã đánh đuổi Sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới nỗi Sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau Sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba tỉnh Định Tường-Kiến tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hung Gia Lợi trong cái Ủy ban liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các đon vị Nhảy Dù và Thuỷ quân Lục chiến của VNCH.


* * *


Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Đến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu đội bắn trong một ngày: năm 1972 năm 1975 tỉ lệ giảm


Đạn 105 ly 180 viên 10 viên 94%

Đạn 155 ly 150 viên 5 viên 97%

Đạn 175 ly 30 viên 3 viên 90%


Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tuỷ. Nhiều binh sĩ bộ binh được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một TUẦN LỄ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của gia đình. Đói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém?


Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh Ông Thiệu rút khỏi vùng Cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối. Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được biết đến. Khi Quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, Sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh súng nặng do các Trung uý Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hoả lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các trung uý Thanh v Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu tá Trương Phụng và Đại uý Phúc lì, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng chỉ còn Đại uý Phúc sống sót, oanh kích đến khi hềt đạn. Hai Trung uý Thanh, Hiền và Thiếu tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!


Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, với thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp. Truớc một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt vịện trợ như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vô trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi Tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại.  Đoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi tết Mậu thân 1968.


Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hoả lực quyết định chiến trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị mất tích, trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 trịệu. Nước Mỹ với dân số 200 trịêu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ. Điều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:


“ Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hỏang quốc gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một trịêu quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều nàỵ” (được nhấn mạnh và thêm vào)


Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so với những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ:


“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”


* * *


Kế hoạch Việt Nam hoá có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực lượng chiến đấu có khả năng?


Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam hoá có hiệu quả, nhưng lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hố thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:


1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.


2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương laỉ: 57% đồng ý.

3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng Việt cô.ng- Bắc Việt trong tương laỉ: 25% nghi ngờ


4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%


Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân vân vân… cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi :”Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu”.


Điều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm luợc Bắc Việt trong năm 1972, thuờng là không cần tới sự yểm trợ hoả lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa quân và Địa phương quân. Điều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy.


Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hềt lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:


“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tuởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”


Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Đoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh huởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư:


“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng ta… Họ phải cung cấp vịện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba hãy can thiệp với họ. Nếu không, chng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị trí và khơng rút luị”


Con Ông Bửu hy sinh tại chiến trường!


Bác sĩ Phan Quang Đán là Quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối lập với ông Ngô Đình Diệm, nổi tíếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Đại úy Tuấn bị hoả lực phòng không địch bắn rơi, tử trận. Những cá nhân ấy không phải là duy nhất. Người viềt bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng vũ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “luỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn. Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tuỵ với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan truờng Võ Bị quốc gia Đà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:

“- Anh sắp bị giết đó!

– Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.

– Sao vậy? Đã kết thúc rồi mà!

– Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản”


Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết”


Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu  là trường nội trú, trong học trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:


“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều người trong số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các Thiếu sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”


Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.


Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình. 0,7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0,8% về bình định. 2,7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình, tức 2,7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi cơng Ong Cha lừng danh của trực thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không ai biết trung sĩ thuỷ quân lục chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu Đông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW của anh:


“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe tăng không có ý nói muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm phấn khởi đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính thuỷ quân lục chiến Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”


Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm Sư đoàn 7 Bộ binh VNCH, nơi đó trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do Tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của Sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt:


“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim. … Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.”


Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ Sư đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại Đông Nam Á đều nhìn coi giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay gắt.


Phải chi giới nảy chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại phản bội văn hoá và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ. Một thuỷ quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của điều quyết tâm ấy.


* * *


Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vô coi chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến QLVNCH, chỉ viết rằng :”Việt Nam họ thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân VNCH tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội VNCH đã tấn cơng trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở Cambodia. QLVNCH đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).


Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài lịêu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu Trung tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chề độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bỏ xoá tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của QLVNCH?


* * *


Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng QLVNCH đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: Đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức của chính phủ Hoa Kỳ.


Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần phải có hội nghị đó. Những chiến luợc giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh. Không có con đường này thì cuộc chiến tranh của Hà  Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Đông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực. Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù loà, lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn.


Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược giòng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh ( Việt Nam đã qua) là một cuộc chiến không thể nào thắng đưọc.


Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cạnh những chiến hữu của họ trong QLVNCH, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tuỵ, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Đông Nam Á đã biềt yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương”


Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của người Mỹ.  Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Đông Nam Á đã trải qua loại thử thách khổ đau nào. Đầy rẫy những dữ kiện lịch sử quý gía và những nét quan trọng sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người Lào,) Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diện. Những tác phẩm của Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Trần Văn Nhựt…, và nhiều người khác, đang kêu gào để được dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là chiến tranh Đông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của QLVNCH sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.


March 18, 2006.

By: Bill Laurie, Historian.

Nguyễn Tiến Việt dịch

.

VNAF1968-1975 Bill Laurie RVNAF, the … – ButtonDePress

                                      Thân kính
                                   Nguyễn Duy Tại