Suốt mấy năm trường trong đời quân ngũ rày đây mai đó, chưa có nơi nào đơn vị tui “Mọc rễ” bằng vùng đất Tam Quan & Bồng Sơn của xứ Nẫu Bình Định, vì nhiệm vụ là lực lượng tổng trư bị của quân đội nên khi vùng đất nào bình yên rồi thì không còn bóng dáng của tụi tui, bởi phải rày đây mai đó vì vậy tui còn giữ được giọng nói của Sài gòn, bằng không thì ít nhiều tui cũng sẽ nói chuyện với chút ít âm sắc của người Bình Định kia rồi.
Tạm biệt sân bay Đệ Đức , một sân bay dã chiến nằm ở Quận Hoài Nhơn nơi BCH Liên đoàn tụi tui trấn giữ, đoàn quân xa đưa tụi tui lên đèo Phù cũ cách cầu Bồng sơn vài cây số về phía nam, đang ở gần phố chợ Bồng sơn đông vui người qua lại, đùng một cái phải lên đèo trấn giữ nơi khá vắng vẻ thử hỏi mấy ai không buồn.
Ngọn đèo này trước đây do một trung đoàn của sư đoàn 22 bộ binh trấn giữ, nay giao lại cho đám Thần Hổ tụi tui canh chừng, thú thiệt trong bụng tui không khoái chút nào, trên cao độ tròm trèm ba trăm mét nhìn xuống quốc lộ một vòng vèo bên dưới, tui thấy những chiếc xe đò nhỏ như những món đồ chơi của trẻ em, còn những người di chuyển bằng xe gắn máy giống y như con kiến bò trên miệng ve.
Hạ trại xong, cả đơn vị chỉnh đốn lại giao thông hào và các lô cốt, nhằm để bảo đãm sinh mạng cho mọi người khi bị pháo kích.
Tui cũng vừa đào xong hố cá nhân của mình bên cạnh hầm truyền tin, bổng anh Võ Thành Quế cùng anh Dương văn Lập thuộc ban quân xa đến kêu tui:
-Hùng ơi! Hố cá nhân đào vậy là ngon lành rồi, trăm lẻ bảy li có nổ sát bên cũng chẳng ăn thua gì đâu, thôi tới câu lạc bộ uống nước nghỉ tay đi.
Nói câu lạc bộ cho oai, chứ thật ra căn hầm dã chiến làm bằng những tấm ván thông từ thùng đạn pháo binh, bên trên lót lớp vĩ sắt PSP, phía trên nữa được dằn mấy lớp bao cát, câu lạc bộ do hạ sỹ Đắc làm chủ, món ăn VIP thời bấy giờ là Mỳ gói hiệu con tôm, anh ta còn bán thêm cà phê, nước ngọt, một ít Lave , bánh kẹo nữa. Câu lạc Bộ của anh Đắc bán rất đắc hàng, nhất là buổi sáng nhiều người đến nhâm nhi cà phê, ăn sáng để đấu láo cho vui, buôn bán vậy đó mà tui thấy anh ta chẳng thu tiền ai bao giờ, lúc đầu tui không biết nhưng về sau tui biết anh em ăn uống xong liền lòn vô quầy nơi anh Đắc ngồi thu ngân, họ lấy tay ra hiệu, anh Đắc đầu thì gật, tay thì lấy cuốn sổ dầy cộm để ” Gô sỹ” tiền ăn uống của mấy trự kia, cuối tháng khi ban quân lương từ Sài gòn ra thì Hạ sỹ Đắc đem cuốn sổ “Nam tào” ra để trừ lương tại chỗ.
Ăn sáng uống cà phê xong, anh Quế nói nhỏ cho tui với anh Lập nghe:
-Tui mới o bế ông Thượng sỹ Kiệm ban Tư, ổng cho cây súng M16 chiến lợi phẩm lưu kho lâu rồi, tụi mình chế lại thành khẩu M18 xài chơi.
Anh Lập là tay thợ máy giỏi của đơn vị, nghe anh Quế bày mưu như vậy anh cũng hào hứng nói:
– Anh Quế tính vậy được đó, thôi về ban Quân xa mình tính tiếp..
Thuở đó các đơn vị được trang bị súng M16 cho lính tác chiến , còn loại súng M18 chỉ có các đơn vị thám báo nhảy toán, hoặc các đơn vị của lực lượng đồng minh họ mới có loại súng này, tui tui mỗi khi thấy tay nào mang cây M18 là thèm lắm, chỉ có nằm mơ thôi chứ dễ gì có được khẩu súng nọ.
Lôi từ thùng đồ nghề ra gồm đủ loại chìa khóa miệng từ nhỏ tới lớn, rồi mỏ lết , cưa sắt , khoan điện , dũa, dùi V.v…, anh Lập nói :
-,Anh Quế đem cây súng ra đi, tụi mình ráng làm xong hôm nay đem xuống chợ Bồng sơn lấy le chơi.
Anh Quế tháo rời từng bộ phận cây súng ra, anh lập lấy ê tô kẹp bá súng rồi đo vẽ theo tính toán, xong xuôi anh lấy cưa sắt ra cưa, anh cũng gọt đế cao su dưới đế súng cho vừa,chỗ mới cưa, cắt bớt cái lò xo hoàn lực trong bá súng, kể cả ống dẫn lò xo, khi các cơ phận được hoàn chỉnh anh Quế ráp cái bá súng lại,
Anh Lập tháo cái loa che lửa nòng súng ra , cắt ngắn bớt nòng súng áng chừng bằng chiều dài cây M18, anh giao cái nòng súng mới cắt cùng cái loa che lửa cho Hạ sỹ Nghé đem xuống tiệm tiện ở Bồng sơn để zen răng lại cho khớp với răng của loa che lửa.
Phần hốc búa nhất của việc làm phần miếng che tay nơi nòng súng. Vì hai miếng nhựa gỗ che tay của khẩu súng khi tháo ra rồi không thể cắt ngắn để ráp vô theo kích thước ngắn lại được, chợt nhớ có cái vỏ đạn đại bác 57 ly trong căn hầm ban quân xa, anh Quế lôi ra ngắm nghía, anh Lập cũng châu đầu vô để tìm cách chế tạo.
Hai ông xúm lại cưa cái vỏ đạn ra,làm hai mảnh theo chiều dọc, rồi đi chiều dài nơi dự định gắn vào bên ngoài nòng súng, sau một thời gian mài, gò , uốn, gỏ thì hai anh cũng hoàn thành công việc rất phức tạp này, sở dĩ xài cái vỏ đạn năm mươi bảy ly vì nó có những cái lổ nhỏ để thoát hơi nóng từ nòng súng khi bắn , nhìn cái miếng che tay bằng vỏ đạn đại bác gắn vô cây M18 “lai căng” coi bộ rất ngầu, phải nói tụi tui mừng vô cùng khi thấy cây súng M18 lạ của hai “kỹ sư” ban Quân xa làm ra, để tự thưởng công mình hai anh mua lại Thượng sỹ Nghiệp Hỏa đầu vụ của đơn vị một con gà mái dầu để đãi cả nhóm.
Sáng nọ, tụi tui canh me sếp lớn của đơn vị đi họp ở bộ tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh, khi xe của ổng vừa đổ đèo do tài xế Hổ cầm lái, anh Quế vác cây M18 của mình ra đứng sát bờ giao thông hào giáp với đỉnh đồi phía sau, anh Quế trong bộ quần áo màu Hoa rừng , đang đứng dang chân tay cầm khẩu M18 để anh Lập bấm máy chụp hình, ai cũng có phần bởi những tấm hình chụp với cây M18 kia.
Giờ phút hồi hộp bắt đầu, để xem khẩu M18 của mình hoạt động ra sao, anh Quế lắp băng đạn 20 viên vô để bắn thử.
Khi bắn với chế độ ( Bặc cú) bắn từng viên thì súng nổ ngon lành, nhưng khi chuyển sang chế độ bắn ( Ra phan) thì lò xo hoàn lực tống văng cái đế cao su chặn dưới bá súng mất tiêu, may mà không gây ra tai nạn gì.
Ông Thượng sỹ Còn ( Thường vụ của Liên đoàn) thấy cảnh nọ ông cười rồi chọc quê mấy thằng tui:
– M18 gì kỳ cục vậy mấy cha, tụi Mỹ thấy mấy ông chế tạo kiểu này chắc họ khóc thét luôn quá.
Anh Lập quê cơ quá nhưng cũng ráng vớt:
-Tại làm miếng chận lò xo hoàn lực trong bá súng hơi ẩu thượng sỹ ơi , để tui mần khẩu khác không ngon không ăn tiền cho ông coi.
Từ hôm thất bại với cây M18 “Cải tiến” của đám mình, buồn quá anh Quế rủ rê cả đám đi đào củ Hà thủ ô về làm thuốc, phải công nhận trên đèo này địa chất gồm đất sét sỏi pha cát rất thích hợp cho Hà Thủ ô sinh sống, mới đi đào chừng vài giờ tụi tui gom cả đống đem về rửa sạch, phơi khô, sắc mỏng sao thủy thổ đê dành ngâm rượu uống rất tốt cho sức khỏe, lá Hà Thủ ô phơi khô sao thủy thổ làm trà uống thơm ngon không kém các loại danh trà ở vùng hành quân, có lẽ nhờ uống củ này mà tui còn mạnh giỏi đến giờ này chăng.
Chờ hoài đến một ngày nọ, anh Quế cũng được một anh lính thiết giáp đóng quân gần bên tặng cho một khẩu M16 khác, tụi tui lại lao vô làm lại khẩu M18 tiếp theo, lần này khẩu súng chắc chắn hơn, đẹp hơn và nhất là bắn liên thanh không bị văng mất lò xo hoàn lực như khẩu trước.
Có khẩu súng kiểng này anh Quế cưng nó lắm, ngày nào cũng lau chùi o bế cho sạch bụi.
Bữa nọ thấy Trung sỹ nhất Bùi Tuyền lái chiếc GMC kéo theo cái rờ mọt để xuống cầu Bồng Sơn lấy nước sông Lại Giang về cho bếp tập thể nấu ăn, cả đám tụi tui quá giang đi theo tắm giặt, cũng không quên mang theo các ống (Sạc) loại đựng thuốc bồi pháo binh xài xong bỏ ra để đựng nước sinh hoạt, Anh Quế và anh Lập lên xe vác theo cây M18 để giật le với mấy ông Lính Địa Phương Quân gác cầu.
Mùa này nước kém nên dòng Lại Giang không còn chảy mạnh như mọi lần, những mô cát của đáy sông nhấp nhô như muốn trồi mình khỏi mặt nước, dòng nước trong veo chảy uốn lượn quanh co theo bờ cát, tất cả mọi người ùa xuống tắm giặt thỏa thích, riêng anh Quế ngồi trên bờ cứ mân mê khẩu súng, bổng dưng có vài anh lính gác cầu kéo tới xem, họ hỏi anh Quế súng này súng gì mà lạ quá từ nào tới giờ mới gặp, được dịp anh Quế tui “Vẽ rắn thêm chân” cho vui, anh nói:
-Khẩu này M18 – A1 mới xuất hiện ở Việt Nam, hiếm lắm chỉ có cây duy nhất này thôi, vì là vũ khí sản xuất để thí nghiệm chưa có trang bị cho các nơi đâu.
Mấy cha nội gác cầu nghe vậy tưởng thiệt ai nấy đều tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục anh Quế vô cùng, rồi mấy đứa nhỏ chăn bò thấy súng lạ cũng bu lại coi, anh Quế được dịp nở lổ mũi bự như trái cà chua vậy đó…
Khẩu súng M18-A1 của anh quế lần hồi tới tai ông Trưởng ban 3 liên đoàn, bữa nọ ông kêu anh Quế vô hỏi thăm.
-Tui nghe anh có khẩu súng lạ phải không, anh đưa ra cho tui coi coi.
Anh Quế trình khẩu súng cưng của mình ra, dường như hạp nhãn nên ông trưởng ban ba đề nghị anh Quế nhượng lại cho ông để làm vật trang trí cho vui, anh Quế tiếc lắm vì tiền bạc anh cũng đâu cần gì, nhưng với sự tha thiết của ông sỹ quan nọ anh Quế đành chia tay khẩu súng đặc biệt này, anh nghĩ rằng anh với anh Lập sẽ làm vài ba khẩu nữa là chuyện dư sức qua cầu.
***
Lại một lần nữa đơn vị phải từ giã ngọn đèo Phù Cũ này để về quận Đồng Xuân Phú yên đóng đô , cơ hội làm thêm vài khẩu súng M18-A1 không còn đến với mấy anh nữa, do chiến cuộc ngày càng căng thẳng, ai cũng bận bịu túi bụi với công việc của mình.
Ngày tàn chiến cuộc đã điểm, ước mơ chế tạo vài khẩu súng thật xa vời với hai ông kỹ sư thân yêu của tui, từ đó đến giờ tui không còn tin tức gì hai anh, nếu hai anh thấy được câu chuyện này chắc hai anh sẽ bừng sống lại những ngày anh em mình quân hành gian khổ mà thật thú vị phải không anh Quế anh Lập ơi ./.
Về đến cảng Cát lái sau vài ngày lênh đênh trên biển, khi đặt chân nơi đất liền vùng ven đô tui mừng muốn khóc, nhìn lại những ngày đã qua kể từ hôm 15/3/75 theo đoàn quân của Quân khu 2 triệt thoái khỏi vùng cao nguyên, một đoạn đời đau buồn khó quên của những ai từng đi trên Liên tỉnh lộ 7B.
Ra khỏi cảng Cát lái tui gặp ngay một toán Quân Cảnh chờ sẳn bên ngoài, một viên Trung sỹ giơ tay lên chào rồi anh ta cất giọng hỏi:
-Anh vui lòng xuất trình giấy tờ, anh thuộc đơn vị nào vậy, mới xuống từ Dương vận Hạm ngoài Nha trang về phải không ?
Tui nói với anh ta :
– Dạ đúng vậy Trung sỹ, tui quân số thuộc Bộ chỉ huy Liên đoàn 6 BĐQ.
Tui móc giấy tờ ra trình cho viên Trung sỹ nọ, anh ta vừa xem vừa nhìn mặt tui đối chiếu coi trùng khớp với hình ảnh trong giấy tờ hay không, chừng như anh không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta trả lại giấy tờ cho tui và đặt ra hai trường hợp, một là chịu khó chờ khi số lượng người đủ một GMC họ sẽ chở về Quân vụ thị trấn nằm đó chờ đơn vị đến lãnh đem về, hai là nếu như muốn đi tự túc về đơn vị thì anh ta cũng đồng ý và không làm khó dễ gì, sau khi ra hai điều kiện trên, anh còn hỏi tui một câu nữa :
-Đơn vị anh ở đâu sao không đi cùng mà về đây cu ki một mình vậy, giày vớ cũng không có, lè phè quá khó coi lắm.
Sẳn dịp tui thố lộ với anh ta luôn:
-Trung sỹ biết không, tui bị sốt rét ác tính khi di tản từ kontum về đến Tuy Hòa, đơn vị cho tui nằm điều trị ở Quân y viện Nguyễn Huệ Nha Trang, rồi đơn vị tiếp tục di tản theo quốc lộ 1 để về Hậu cứ ở Long Bình, khi Nha Trang tan hàng tui leo tàu Hải quân về đây đó Trung sỹ.
Nói xong tui giơ tay chào anh ta rồi đi ra cổng, tui ngoắc chiếc xe lôi họ chở tui ra ngã ba Cát lái để đón xe về hậu cứ Long bình.
Vừa về đến hậu cứ tui đoan chắc sẽ gặp lại anh em trong đơn vị hành quân, dè đâu cả Liên đoàn 6 tháp tùng Sư Đoàn 22 Bộ binh xuống vùng Long an để trấn giữ an ninh cho Thủ đô Sài gòn:
Thiếu tá chỉ huy hậu cứ của đơn vị sau khi biết rõ tình trạng của tui, ông cấp liền cho một Sự vụ lệnh liên lạc gia đình tử sỹ của đơn vị, ông nói cho tui biết :
-Sở dĩ chú em mầy mang sự vụ lệnh này mới qua được trạm kiểm soát ở gần cầu Xa lộ, vì ngoai lý do này không có sự vụ lệnh nào họ cho qua hết, chú em mầy nhớ lấy cuốn tạp ghi vài tên họ ai đó để nhá ra cho họ nếu họ hỏi gì thêm.
Tui cảm ơn Thiếu tá chỉ huy hậu cứ, tui dọt qua ban quân lương lãnh lương, vô ban 4 tiếp liệu xin đỡ đôi giày bố mang cho đủ bộ.
Quả đúng y lời của ông chỉ huy hậu cứ, tại trạm kiểm soát tui thấy nhiều sắc lính bị giữ lại nơi đây, mặc dù các anh này trình ra đủ thứ giấy tờ, thấy vậy trong bụng tui đánh lô tô, tui tự hỏi không biết mấy cha nội ” Quét Chợ”
( một cách gọi vui đặt,cho mấy ông quân cảnh ngày xưa) có ốp mình không, nhưng nghe Thiếu tá chỉ huy hậu cứ “Vẽ đường cho Hươu chạy” rồi nên tui bậm gan đến trình giấy, tay Quân Cảnh xem giấy tờ tui hồi lâu rồi mới cho tui qua trạm, trong khi chờ dợi xem xét giấy tờ, tình cờ tui thấy một chuyện đáng xấu hổ, vì “Con sâu làm rầu nồi canh” tại nơi này.
Số là có một anh lính Thiết giáp, tui chẳng biết anh bị giữ lại vì lý do gì, nét mặt anh tỏ ra bồn chồn muốn mau rời khỏi nơi này, anh đang đứng sớ rớ một nơi nọ thì có một đứa nhỏ mang cái bình bán cà rem bằng thùng xốp đến mời anh ăn nhưng tui thấy anh lắc đầu lia lịa, một lúc sau cũng thằng nhóc này tới chỗ anh lính nọ, hai người to nhỏ điều gì mà tui thấy gương mặt anh ta có vẻ vui lên, rồi anh móc bóp ra đưa tờ giấy bạc năm trăm đồng cho thằng nhở bán cà rem, nhận tiền xong thằng nhỏ lẹ chân đi đến một viên quân Cảnh rồi to nhỏ trao đổi nhau điều gì đó, thằng nhỏ nhét tờ năm trăm vô túi quần anh Quân cảnh, viên quân Cảnh đưa cho thằng bán cà rem xấp giấy tờ, nó rão bước đến anh chàng lính Kị Binh kia giao xấp giấy tờ nọ, anh lính Thiết giáp hiên ngang nhảy lên xe đò vừa tấp vô trạm để trực chỉ về Sài gòn, tui ngao ngán lắc đầu vì Sài Gòn đang “Hấp hối”,ai cũng đang buồn vì cơn binh lửa tràn về hậu phương yên bình, những người từ tuyền tuyến bất đắc dĩ qua trạm này vậy mà có người “Trấn lột” những đồng tiền ít ỏi của người lính kia, hành động này thật đáng lên án.
Tui ghé về nhà bất tử cả nhà ai cũng vui mừng, nhất là má tui, bả khóc như mưa, má tui nói trong nghẹn ngào:
-Chèn ơi! Mấy ngày nay nghe ngoài trung di tản ầm ầm, không biết tin tức gì của bây, tao với tía bây buồn muốn chết, thôi mừng rồi, giờ dìa ở luôn hay đi nữa nếu ở luôn nói tía bây xin vô làm ở Tín nghĩa ngân hàng, ông Nguyễn Tấn Đời cũng là người cùng quê với tía bây nên chắc ông nhận thôi.
Nghe má lo lắng cho tui, sợ tui dấn thân nữa có mệnh hệ nào thì buồn lắm, vì hai ông anh lớn của tui đã đền nợ nước rồi.
Tui ứa nước mắt nói với má:
– Con chỉ ở nhà một ngày thôi, mai con đón xe đò xuống Long an cùng đơn vị, bạn bè con tụi nó hay tin con xuống nó mừng lắm, anh em sống chết có nhau hai năm rồi, giờ trốn tránh bổn công dân thời chiến kỳ khôi lắm, mà con ở Bộ chỉ huy nên cũng khó chết lắm má đừng lo.
Biết có cản thằng con mình cũng không xong, má tui làm mâm cơm đơn sơ cho cả nhà quây quần bên nhau, tối đó ba tui mang ra hai cái áo ” sơ mi” , một cái màu vàng, một màu tím ( Màu của nhân viên Tín Nghĩa ngân hàng mặc đi làm hàng ngày, ba tui nói:
– Con đem theo hờ bộ đồ “si vin” , để có bề gì thay ra cho tiện, thấy tình hình chiến sự coi mòi ngày càng bất lợi, tui bèn chọn cái áo màu vàng và cái quần tây màu đen tui nhét vô ba lô để sáng sớm mai lên đường, trước khi đi tui đưa cho má tiền lương vừa lãnh hôm qua nơi hậu cứ, tui chừa một ít đủ tiền xe và chút ít dằn túi mà thôi.
Ba tui chở ra đến bến xe, tui lật đật từ giã, sợ quyến luyến hồi lâu thêm buồn…
Đến Thị xã Tân an tui đón xe lôi vô phi trường Cần Đốt ( Tới bây giờ tui cũng còn thắc mắc, ai đặt tên cho cái phi trường này thật mắc cười), vừa đến nơi tui vô hầm truyền tin thì gặp thằng Bùi Đức Kết thằng bạn thân thiết nhất của tui từ lúc gia nhập vô gia đình “Mũ nâu” thân yêu này, thằng Kết mừng rỡ kêu lên như bắt được vàng, nó nói :
-,Thằng quỷ, tao tưởng mầy xí lắc léo rồi chứ, ai dè ….
Tui chọc quê thằng Kết liền:
-,Còn khuya mới xí lắc léo nghe em, mầy thấy tao có lỗ tai Phật không, ông bà mình nói những người như tao sống lâu lắm mầy đừng lo.
Về đơn vị được hai ngày, tui bị cơn sốt rét rừng tái phát, đang lạnh run bổng dưng nó đổi tông nóng như lò nướng bánh mỳ, vậy là tui phải xuống Ban quân y của liên đoàn vô nước biển, rồi thì cứ thuốc ” Lô rô kin” trị sốt rét uống vô liên tục thì cơn sốt rét tạm lui binh, sở dĩ,tui dính cơn bệnh chết người này là do ..
Đoàn quân di tản của đơn vị tui đến được khu vực Thung Lũng Hồng, địa danh nầy được một nhạc sỹ phổ nhạc thật nên thơ, khung cảnh thật yên bình, nếu như không phải đang trên đường triệt thoái thì tui sẽ cố tận hưởng cái không khí nơi này, thậm chí biết đâu tui sẽ sáng tác được bài thơ tình ướt át trên Thung Lũng Hồng.
Qua một đoạn tiếp theo trên Liên tỉnh lộ 7B, trời nắng thật gắt, ngồi trên chiến xa M41tui thấy mệt nhoài và khô rát cổ họng, thời may đơn vị có lệnh tạm dừng để nghỉ ngơi, chiến xa lũi vô bụi rậm để ngụy trang, tụi tui phóng xuống đi tìm nguồn nước uống, trời thương những người lính đã qua nhiều gian lao nên có một hố bom sát nơi tui dừng chân, như bât được vàng khi múc đầy các bi đông nước, tui tui cuối xuống lấy tay vốc uống đến căng bụng, chưa hết cả đám cỡi đồ nhảy ùm xuống bơi lội thỏa thích, nước hố bom mát lạnh trong veo như mắt mèo, tui lặn xuống,nhìn dưới đáy thấy những xương lá cây mục nằm xếp lốp dưới đáy, tui lấy vài lá lên dự định phơi khô ép vô cuốn nhật ký thì còn kỹ niệm nào hơn. Không ngờ chưa đầy bốn mươi tám tiếng sau, tui và vài người bị con ma sốt rét rừng hành hạ tơi tả như cái mền rách…
Vừa lânh lương tháng Tư xong, sáng ngày 29.4.75 tui với thằng Kết ngồi xe lôi ra chợ Long an để ăn uống và mua sắm ít đồ dùng, ngồi ăn uống mà nghe những người bàn kế bên cứ bàn tán xôn xao, nào là quân giải phóng vô gần tới phòng tuyến các đơn vị phía bên trong, có bà còn quả quyết lính quốc gia “Quánh” không lại , vì có bộ đội chính quy từ miền bâc vô, họ kết hợp với các đơn vị du kích tỉnh nhà, rồi họ trang bị “Hiện đại” hơn mấy ông quốc gia nhiều, tui với thằng Kết nghe cũng nóng máu lắm, nhưng xét về tương quan lực lượng và yếu tố tâm lý thì mình đang thua họ, một là quân khí mình cạn kiệt do không còn quân viện từ đồng minh, tâm lí ảnh hưởng từ việc bỏ các vùng đất ngoài vùng 1 vùng 2 còn chưa hết bàng hoàng, vừa ăn hết hai tô hủ tíu thằng kết kêu thêm hai tô nữa, rồi mua hai tô xí quách, kèm theo mấy chai Larue con cọp uống cho đã thèm, trong lúc lâng lâng đầu óc, thằng Kết phán một câu xanh rờn:
– Tao với mầy xài hết tiền hôm nay đi ít bữa mấy cha Việt cộng vô là tiền hết xài lúc đó coi như giấy lộn.
Nghe dân chúng bàn tán lúc nãy, giờ lại nghe thằng quỷ Kết nói với cái giọng chắc mẽm như trên khiến tui cũng dao động, vậy là hai thằng tui xài láng te không còn cắc nào trong túi.
Đêm 29.4 thật là một đêm bận rộn, ở Trung tâm hành quân của đơn vị tui nghe các đơn vị xin yểm trợ pháo binh cho các tọa độ đang đụng độ, nào là hỏa châu, đạn pháo của hai phía, rồi vài phi tuần bay yểm trợ trên không cho đến tận sáng.
Vẫn còn cơn ngái ngủ hoành hành, đầu óc tui nó lơ lững vì thiếu ngủ, phần tại cái hơi men sáng qua ngoài chợ Long An với thằng Kết, bổng tiếng máy vang lên của một tiểu đoàn trực thuộc.
– 639 đây 90 gọi.
Tui trao ông liên hợp cho Trung tá Trương Khánh, ông Tiểu đoàn trưởng nọ báo cáo địch quân đi hiên ngang qua phòng tuyến của đơn vị ông.
Hai ông chỉ huy đang trao đổi tình hình, thì chiếc radio của Thượng sỹ Tuấn cất tiếng nói của Tổng Thống Dương văn Minh kêu gọi chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia họ vô tiếp nhận, vì Trung ương đã thỏa thuận ngưng bắn với phía bên kia rồi.
Tui thấy gương mặt Trung tá Trương Khánh hơi biến sắc, tuy nhiên ông cũng rất điềm tĩnh , ông cho gọi các sỹ quan trưởng các ban của Liên đoàn lại, ông nói rõ mục đích buổi họp, ông không quên chào và bẳt tay thuộc cấp của mình lần cuối, đang phân vân với chiếc máy PRC 25 mới tinh mình đang giữ, tui hỏi Trung Tá Khánh:
– Vậy máy này giờ sao Trung tá.
Ông nói nhỏ nhẹ :
– Hủy bỏ đi chứ còn luyến tiếc gì nữa.
Bên vòng ngoài nơi Bộ chỉ huy liên đoàn tui đồn trú, từng đoàn người bộ đội Bắc Việt họ hiên ngang kéo nhau đi thành hàng dài, có tay ngó vô đồn thốt lên câu :
– Các anh buông súng ra về đi, hòa bình rồi còn nấn ná làm chi.
Tui lục trong ba lô lấy bộ đồ si vin ra thay cho bộ đồ áo hoa rừng, tui xếp bộ đồ quân phục lại thẳng nếp để trên đầu nơi tui nằm ngủ hàng ngày, tui đeo cái máy truyền tin rồi quơ cây M16 đi ra ngoài sân cờ, thằng Kết thì hớt ha hớt hải lo sợ, vì nó không có thủ bộ đồ dân sự như tui, hai đứa tui ra khỏi nơi đóng quân khi đến cái lò gạch bỏ hoang, tui bỏ cái máy truyền tin xuống đất, lấy cục gạch thẻ đập núm chuyên tần số gãy ngang, tháo pin ra tui liệng cái máy xuống cái ao sâu kế lò gạch, vài bong bóng nước trồi lên nơi cái máy yên nghỉ dưới đáy ao, những bong bóng nước kia như cái vẫy tay chào từ biệt giữa tui với cái máy thân thương này, rồi cây súng M16 cũng yên nghỉ cạnh bên “Thằng PRC25” của tui.
Thằng kết cỡi bộ đồ trận quăng xuống ao cùng cây súng của nó, chỉ với cái quần xà lõn trên người thằng Kết e dè theo tui ra quốc lộ 4, thời may cho nó khi đi ngang ngôi nhà nọ , bà cô nọ biết là lính Sài gòn rã ngũ, bà ngoắc thằng Kết vô cho nó một bộ Pijama cũ, chắc bộ đồ của chồng bà để dành làm kỷ niệm thì phải, thấy nó khoác bộ Pijama rộng thùng thình tui cười muốn lộn ruột, tuy nhiên nhờ bộ đồ này nó mới về được nhà chú nó ở mũi tàu Phú Lâm, bằng không với đồ trận thì chắc chắn nó sẽ không yên thân với mấy ” Chú bộ đội” nhà ta đâu nhé.
Ra quốc lộ 4, từng hàng người kéo nhau đi chật ních, dân có lính có, bộ đội có, du kích xã ấp có. Tui và thằng Kết hòa vào dòng người trên để tìm phương kế về lại Sài gòn.
Đang lơn tơn đi ngang dãy xe Quân sự của bộ đội , bổng tiếng nói của một cán binh ngồi trong lề nhắc một bộ đội trẻ măng đang cầm súng gác phía ngoài lộ:
– Đồng chí , đồng chí bắt thằng áo vàng đi, ngụy đấy
Nghe tiếng nói như vậy tui dáo dát ngó chung quanh coi có ai mặc áo vàng không, tui thất vọng và lo sợ với suy nghĩ:
” Vậy là tụi nó nói bắt mình rồi còn gì”
Tui giả Nai lũi thũi đi không thèm để ý, bổng họng súng AK 47 chĩa thẳng vô người tui với giọng đanh thép:
– Anh đứng lại yêu cầu cho tôi xem giấy chứng minh.
Tui tiếp tục giả Nai:
-Chèn ơi! Nhà tui ở gần phi trường Cần đốt, bị cháy cháy luôn giấy tờ rồi, giờ tui về nhà má tui gần đây nè.
Bị tui “phang” nhanh quá nên hắn chưa kịp phản ứng, rồi dòng người phía sau đổ dồn lên khá đông, lợi dụng cơ hội này tui lẽn đi mất, thằng Kết thì không có ma nào hỏi giấy tờ nó, sau này tui nghiệm lại là do bị sốt rét da tui vàng khè, rồi thêm cái áo vàng làm cộng hưởng màu sắc nên giống “Ngụy” một ngàn phần ngàn.
Tui bắt kịp thằng Kết cũng là lúc bụng đói cồn cào, trong túi hai thằng không còn một cắc, phải chi hôm qua dằn lại một ít thì nay mướn xe về Sài gòn ngon ơ.
Tui với nó lội bộ gần rã cặp giò, sách có câu ” Ở hiền gặp lành”, mệt quá, tui rủ thằng Kết chui vô đám chuối trồng bên đường nghỉ chân, bổng có chiếc xe chở hàng tấp vô quắc hai đứa tui ý họ cho quá giang, nhanh như sóc hai đứa bay lên nắm cánh cửa rồi trèo lên thùng xe phía sau, thằng Kết lẹ miệng:
– Tụi tui lính Sài gòn chú làm ơn cho hai đứa về mũi tàu Phú Lâm nghe chú .
Phố đã lên đèn rốt cuộc hai đứa cũng về được nhà bà con thằng Kết ở Phú Lâm , đêm đó cũng là đêm cuối cùng Tui với thằng Kết chưa lần gặp lại.
Ðây chỉ là một tấm ảnh nhỏ, sờn cũ từ nhiều thập kỷ rồi. Nhưng tấm ảnh nhỏ bé ấy kể lại một câu chuyện ly kỳ và cảm động, và ám ảnh một chiến binh Mỹ tại Việt Nam trên 30 năm – cái hình ảnh một cô gái nhỏ chưa hề quen biết đã dẫn người cựu chiến binh Mỹ làm một cuộc hành trình trở lại Việt Nam, để hàn gắn đau thương quá khứ và tìm sự bình yên cho tâm hồn mình.
Ðối với Rich Luttrell, người cựu chiến binh Mỹ, thì đi tìm một người con gái trong ảnh là một việc làm khó khăn nhất trong đời ông. Ông ngồi nhìn rừng già bên dưới chiếc Boeing 747, thần kinh căng thẳng với những xúc cảm đè nén. Nhưng tất cả những gì Rich có thể trông thấy là tấm ảnh ấy. Hình ảnh người con gái nhỏ ấy có gì mạnh mẽ đến nỗi Rich phải trở lại Việt Nam?
Cô gái nhỏ ấy là ai? Tại sao Rich không thể chịu đựng được nỗi buồn bã của đôi mắt cô gái trong tấm ảnh? Rich thú nhận, “Mỗi khi tôi nhìn lại tấm ảnh, tôi dường như bị mê hoặc. Tôi cảm thấy đúng như thế kể từ ngày ấy, trong một cánh rừng già cách nước Mỹ nửa vòng trái đất.” Ðó là cái giây phút mà một hành động thời chiến đã tạo cho Rich một gánh nặng trong suốt 33 năm.
Năm 1967, Rich Luttrell gia nhập quân đội, khi là một thiếu niên 17 tuổi. Ðây là một cơ hội cho Rich thoát cảnh nghèo trong một khu gia cư rẻ tiền tại Illinois. Ông bỗng thấy mình trưởng thành, có được hai đôi giầy ống, một đôi giầy mới, và những quân phục mới. Trong đời ông, chưa bao giờ ông có nhiều quần áo như thế trong một lần. Ông nghèo, nhưng có lòng ái quốc. Ông quyết định ra đi và gia nhập Chiến đoàn dù 101. Giống như nhiều thanh niên khác, Rich được huấn luyện cho cuộc chiến tại Việt Nam.
Ngày Rich tới đơn vị, chiếc trực thăng hạ cánh xuống một khu rừng già tại Việt Nam, và ông trông thấy những người thuộc trung đội ông đứng đó – cũng trạc tuổi ông. Có những người trông rất ngầu – nhất là mắt họ. Ông hoảng sợ kêu lên, “Lạy Chúa, con sẽ phải đương đầu với những gì ở đây?”
Rich đã được huấn luyện như mọi người, để chiến đấu trong điều kiện của địch quân, nghĩa là phải chiến đấu du kích – đêm đi nằm phục kích, lùng và diệt địch. Lúc ấy Rich chỉ vừa mới 18 tuổi. Chàng thiếu niên bé bỏng từ khu gia cư rẻ tiền tại Illinois bỗng thấy mình ở trong một hoàn cảnh mà không một sự huấn luyện nào đủ sửa soạn cho rừng già Việt Nam. Tại đây trời nóng hoặc mưa, hoặc cả mưa và nóng. Không có nhà cửa, không giường chiếu, không nghỉ ngơi, và không ngừng sợ hãi. Rich chỉ là một thiếu niên gầy gò, vai đeo chiếc ba lô to hơn lưng, và phải học điều luật căn bản đầu tiên: phải tiếp tục tiến bước, tiến bước và tiến bước mãi.
Có những lúc Rich phải trèo núi, và muốn chảy nước mắt và kêu lên, “Lạy Chúa, xin dừng lại. Con không thể đi được nữa. Và chúng tôi vẫn cứ phải tiểp tục như thế, từ sáng sớm tới đêm tối. Tôi nghĩ tôi sẽ phải làm gì khi đụng trận? Tôi không thể di chuyển được nữa. Tôi quá mệt. Tôi sẽ làm sao nếu gặp địch quân? Tôi chưa sẵn sàng cho một trận đánh.”
Và một ngày đặc biệt đã làm thay đổi tất cả. Hôm ấy nóng như thường lệ, giống như mặc áo choàng đứng trong một phòng bốc hơi nóng vậy. Rich không biết địch quân chỉ cách ông vài thước trong rừng già.
Rich kể lại, “Từ khóe mắt tôi trông thấy một động đậy. Tôi có thể trông thấy một binh sĩ Việt Cộng ngồi tựa vào khẩu AK 47. Ðây là lần đầu tiên tôi trông thấy một lính Việt Cộng. Suốt đời tôi tôi chưa bao giờ trông thấy họ.”
Rich mới 18 tuổi, và bỗng nhiên vô cùng sợ hãi, người như đóng băng lại. Ông biết không thể không làm gì, và ông phải có phản ứng, phải làm một cái gì. Ðấy là quyết định của Rich. Ông ở trong tầm đạn của địch quân. Cái chết chỉ cách một nhịp tim đập. Rich quay lại và nhìn thẳng mặt người lính Việt Cộng. Ông kể lại, “Dường như chúng tôi chăm chú nhìn nhau một lúc lâu. Và rồi giống như một chuyển động chậm, tôi bóp cò súng tự động của tôi. Tên địch ngã gục xuống. Ngay sau đó là một trận đụng độ dữ dằn. Tôi chưa đủ kinh nghiệm để nhào xuống đất. Và có một người nào đó giúp tôi, đẩy tôi nằm xuống.”
Rich có thể nhận thức rằng người lính Việt Cộng ấy đã có thể giết chết ông trước khi ông trông thấy hắn. Rich công nhận, “Chắc chắn như vậy. Và cho tới bây giờ tôi vẫn lấy làm lạ, và tự hỏi tại sao hắn không bắn tôi?”
Nhưng đó không phải là điều ám ảnh Rich nhiều năm sau đó. Không phải là súng nổ, và cũng không phải việc giết người. Ngoài chiến trường thì lúc nào cũng có quá nhiều súng nổ và người chết.
° ° °
Chàng thanh niên 18 tuổi Rich Luttrell cuối cùng đã đụng địch quân và thoát chết. Người lính Việt Cộng ấy đáng lẽ ra đã giết Rich rồi. Nhưng kết quả ngược lại. Rich toát mồ hôi, chất adrenalin tỏa ra khắp người và cảm thấy như không đứng vững nữa, vì hành động vừa giết người.
Thiếu kinh nghiệm, Rich tỏ ra rất xúc động sau vụ giết người lần đầu tiên, và kinh hoàng thấy các bạn đồng đội đi tìm kỷ vật trên xác địch quân. Có người cúi xuống rút ví của tên địch vừa mới bị Rich bắn chết. Một mẩu giấy rơi ra; Rich cúi xuống nhặt lên: đó là một tấm ảnh nhỏ nhô ra một nửa, trông giống khuôn mặt một cô gái nhỏ có mái tóc dài. Rich rút tấm ảnh ra, chỉ to bằng một con tem. Ðó là ảnh một người lính và một cô gái nhỏ. Họ là ai? Phải chăng đó là người lính Việt Cộng đã chết? Có phải người lính là bố cô gái không?
Rich quyết định giữ tấm ảnh ấy. Ðúng ra, ông ngồi xuống, cúi nhìn người lính chết và nhìn tấm ảnh, rồi lại nhìn mặt anh ta. Hai người trong tấm ảnh quá trang nghiêm, quá buồn. Phải chăng họ chụp tấm ảnh này ngay trước khi họ từ giã nhau – trước khi người lính bỏ con gái ở lại, để ra đi và để bị Rich bắn chết. Rich cảm thấy đau đớn lắm. Nhưng chỉ trong vài phút, trung đội của Rich phải di chuyển. Rich nhét tấm ảnh vào ví.
Cái gì đã khiến Rich phải giữ tấm ảnh? Rich trả lời, “Tôi không biết. Tôi đã suy nghĩ cả triệu lần rồi. Cái phần đầu tiên tôi trông thấy trong tấm ảnh là cô gái, và cô ta có một cái gì buồn bã lắm.”
Nhưng Rich không phải là một người lính bất đắc dĩ, không muốn giao chiến với địch quân. Nếu Rich muốn sống thoát khỏi cuộc chiến, ông phải học cách giết người mà không hối tiếc, và Rich đã trở thành một chiến binh như thế.
Tại cái nơi ghê gớm ấy, Rich mau lẹ trở nên cứng cỏi. Cuối cùng Rich là người được giao nhiệm vụ giải tỏa những đường hầm của địch quân. Ông trở nên thiện nghệ cận chiến. Rich đã nhìn thấy các bạn đồng đội tử trận. Ông quen giết địch quân, và cầu nguyện được thoát chết. Một lần trong đêm tối trên một ngọn đồi, đạn pháo kích nổ quanh mình và nghe thấy bạn đồng đội la hét và bị tan xác, Rich đưa ba lô lên che đầu và cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin cho con đừng trúng đạn.” Rich không nghĩ ông có thể tiếp tục được như thế trong sáu tháng nữa.
Khi Rich chỉ còn 20 ngày nữa là được trở về Mỹ thì ông gặp nạn. Ðơn vị ông bị phục kích; ông được giao nhiệm vụ xông ra cứu một đồng đội bị bắn hạ. Trong lúc cứu bạn đồng đội, Rich bị trúng đạn vào lưng, và chính vết thương này giúp Rich được hồi hương sớm. Trong lúc ông được đưa lên trực thăng tải thương, Rich cảm thấy có lỗi, và bị dằn vặt vì những câu hỏi, Ta bỏ đi đâu? Ta sẽ làm gì? Ta bỏ dồng đội lại hay sao?
Rich hồi hương với một hộp đầy huân chương, và kết hôn với Carole, một người bạn gái tại quê nhà. Thập niên 60 nhường chỗ cho thập niên 70; ông không bao giờ nói về cuộc chiến ấy. Thời đại đã thay đổi. Rich có đời sống riêng – hai người con gái, một việc làm tốt tại Sở Cựu Chiến Binh Illinois. Ông cố gắng quên cuộc chiến Việt Nam, và tập trung vào tương lai với Carole.
Carole nói, “Chồng tôi thực sự không nói về chiến tranh Việt Nam trong nhiều năm. Ðó là một cái gì chồng tôi muốn giữ rất riêng tư và giấu kín.”
Rich có thể trốn tránh cuộc chiến, nhưng không không thể trốn tránh được cô gái nhỏ mà ông mang trong ví. Thực sự đã có một ràng buộc đặc biệt giữa Rich và cô gái trong tấm ảnh. Ðây là một điều lạ lùng. Rich đã chứng kiến và đã quên nhiều kinh hoàng trong cuộc chiến, nhưng khuôn mặt của cô gái trong tấm ảnh cứ tiếp tục ám ảnh tâm trí ông. Tấm ảnh nặng không tới một gam mà đè nặng tâm trí ông một cách khủng khiếp.
Vào mùa Giáng Sinh, các con gái ông thường hỏi mẹ mua quà gì cho Rich, và quà tặng ông thường nhận lại là ví da. Hàng ngày người ta thường rút ví ra để trả tiền bằng tiền mặt hoặc bằng credit card, và mỗi lần như thế, Rich lại có dịp kéo tấm ảnh nhỏ ra. Ðối với Rich thì đó là một cô gái tội nghiệp, đã không còn bố chỉ vì ông.
Rich biết nếu ông không giữ tấm ảnh thì ông đã không có những ý nghĩ tội lỗi này. Rich xác nhận, “Tôi hoàn toàn đồng ý. Sau nhiều năm tôi thành thực nói là đã có nhiều lần tôi hối tiếc đã giữ tấm ảnh ấy.”
Carole rất thông cảm và ủng hộ chồng, nhưng bà thấy chồng muốn thoát khỏi ám ảnh ấy thì phải vất tấm ảnh ấy đi. Một lần bà hỏi chồng, “Tại sao anh không vất bỏ tấm ảnh? Hãy liệng bỏ nó đi, loại nó khỏi cuộc đời anh, để anh có thể quên và tiếp tục sống.”
Nhưng Rich không thể liệng bỏ hoặc hủy hoại tấm ảnh được. Ông biết ông phải làm một cách đặc biệt nào đó, phải làm một cách trong kính trọng và danh dự, bởi vì ông nghĩ người lính ấy là một người can đảm.
Năm 1989, hơn hai mươi năm sau khi từ Việt Nam trở về, việc giải quyết tấm ảnh đã rõ ràng và cấp bách. Rich và Carole nghỉ phép hàng năm. Hai người quyết định đi thăm Bức Tường Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Tại đó Rich biết mình phải làm gì với tấm ảnh nhỏ cũ kỹ này. Rich nghĩ rằng cách tốt nhất là bỏ tấm ảnh tại Bức Tường.
Ngồi trong khách sạn, Rich quyết định phải làm cho đúng. Ông ngồi trên giường với một tập giấy trong tay. Ông suy nghĩ tìm cách nói chuyện với người lính trong tấm ảnh. Trong vài phút, Rich viết xong một lá thư ngắn, gồm có một vài điều ông vẫn từng muốn nói. Ông viết:
“Thưa ông, trong suốt 22 năm nay, tôi giữ ảnh ông trong ví. Hôm ấy tôi mới có 18 tuổi, khi chúng ta trông thấy nhau trên con đường mòn gần Chu Lai, Việt Nam. Xin tha thứ cho tôi đã giết ông. Ðã nhiều lần trong những năm qua, tôi nhìn ảnh ông và người con gái tôi đoán là con ông. Mỗi lần tim tôi bừng cháy với nỗi đau tội lỗi. Xin ông tha thứ cho tôi.”
Mỗi khi Rich đọc lại những hàng chữ trên đây, và ngay cả bây giờ, ông lại cảm thấy một cái gì. Ngày hôm sau, Rich đặt tấm ảnh và lá thư ngắn ấy tại chân Bức Tường, bên dưới tên của 58,000 binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam. Rich nói, “Hành động ấy giống như sự đứng nghiêm chào lần cuối cùng. Người lính ấy chết vì chiến đấu cho niềm tin của ông ta. Và đây là một cách vinh danh và tôn kính ông ta.”
Vào lúc ấy hai người không còn là kẻ thù nữa. Rich nói, “Ông ta không còn là kẻ thù nữa, mà là một người bạn. Giống như chào vĩnh biệt một người bạn. Vào lúc đó, giống như tôi vừa chấm dứt một trận đánh, buông ba lô xuống để nghi ngơi. Cái gánh nặng tôi mang nay không còn nữa.” Phải, tất cả đã mất rồi, và Rich bây giờ cảm thấy nhẹ nhõm, tự do và thoải mái.
Làm thế nào Rich biết được sức mạnh thực sự của tấm ảnh nhỏ bé ấy, của cô gái nhỏ có đuôi tóc, mà bây giờ không còn nhỏ nữa?
° ° °
Một người lính BV nằm chết bên cạnh đồ cá nhân trong một trận đánh năm 1968. (DonMacCullin/tate.org.uk) (thân tri sưu tầm)
Tấm ảnh của Rich đã mất rồi. Mặc cảm tội lỗi cũng mất luôn. Cái gánh nặng đã được vất bỏ tại Bức Tường hùng vĩ ấy. Và trở lại Illinois, Rich và Carole bắt đầu cuộc đời mới, sau khi nghe lời khuyên của vợ loại bỏ tấm ảnh để tránh cái tâm trạng ngã lòng mỗi khi trông thấy tấm ảnh. Rich vất bỏ tấm ảnh năm 1989.
Hoặc Rich tưởng đã có thể vất bỏ được. Hàng ngày, hàng trăm người bỏ lại nhiều kỷ vật tại Bức Tường này. Và mọi vật kỷ niệm, dù tầm thường hay thiêng liêng, đều được nhân viên của công viên thu thập lại – kể cả tấm ảnh nhỏ và lá thư xin lỗi của Rich. Tấm ảnh ấy tình cờ nằm trên cùng của một cái hộp, và nằm ngửa lên. Và cũng tình cờ Duery Felton, một cựu chiến binh Mỹ khác, trông thấy. Durey hiểu ngay đây là một cái gì khác thường.
Duery là quản lý phòng sưu tập tại đài Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam. Ông tự hỏi tấm ảnh này là gì, và cầm lên xem. Ông đã từng trông thấy đủ thứ tại Bức Tường, nhưng chưa bao giờ thấy ảnh một binh sĩ địch quân. Ông vui sướng trông thấy bộ quân phục màu xanh lá cây ấy.
Trong hơn 30 năm Duery chưa bao giờ trông thấy bộ quân phục màu xanh ấy. Một câu hỏi hiện lên trong tâm trí ông “Người con gái này là ai? Có phải là con gái hay cháu gái của người linh Việt Cộng này?”
Rồi Duery đọc lá thư xin lỗi của Rich. Ông nhớ lại khi còn chiến đấu tại Việt Nam, ông đã từng giúp khiêng xác đồng đội, những bao đựng xác và những ponchos. Ông đọc lá thư về việc giết người ấy. Thực là khó khăn khi phải làm quyết định ấy, một duyết định chỉ làm trong vài giây đồng hồ, nhưng người ta sẽ phải ân hận suốt đời. Durey cảm thấy có một cái gì an ủi, khi được biết có người cũng trải qua kinh nghiệm ấy, và viết lại lên giấy.
Duery dùng lá thư xin lỗi và tấm ảnh của Rich trong các cuộc trưng bầy về Bức Tường, dậy cho thế hệ mới về chiến tranh, và chiến đấu trong chiến tranh có hậu quả gì cho con người. Tấm ảnh ám ảnh Rich bao nhiêu năm, bây giờ lại mê hoặc một cựu chiến binh Việt Nam khác.
Cái gì trong tấm ảnh ấy mạnh mẽ đến nỗi bây giờ đến lượt Duery phải ôm giữ nó và không bỏ đi được? Có thể tấm ảnh đã vang vọng lên trong tâm thần của Duery, và gây một hậu quả sâu xa cho ông.
Dĩ nhiên tại Rochester Illinois, Rich không biết gì về Duery. Rich tiếp tục cuộc đời của ông. Ông chứng kiến hai con gái trưởng thành và sinh con đẻ cái. Bây giờ ông cưng chiều hai cô cháu ngoại của ông. Ông tìm cách đưa người con gái trong tấm ảnh ra khỏi tâm trí ông.
Nhưng người con gái ấy bây giờ lại ám ảnh Duery Felton. Khi một nhà xuất bản yêu cầu Duery giúp in ra một ấn bản về Bức Tường, ông biết rằng ông phải đưa tấm ảnh của cô gái và lá thư xin lỗi vào ấn bản ấy. Duery nói, “Tấm ảnh này ám ảnh tôi nhiều năm, và tôi không biết cô ta là ai.”
Cuốn sách có tựa là “Của Dâng Hiến Tại Bức Tường” và in tấm ảnh và lá thư xin lỗi của Rich. Ðây là một cuốn sách đơn giản, trình bày những hình ảnh, những ám ảnh, những kỷ niệm và lòng kính trọng của những người có liên hệ với Bức Tường. Một hôm cuốn sách này xuất hiện trên bàn giấy của dân biểu tiểu bang Ron Stephens. Stephens lật từng trang cuốn sách, và tới một trang đặc biệt có một tấm ảnh mà ông chưa từng trông thấy, và bỗng nhiên ông bị xúc động mạnh. Ông chợt nhận thức ông biết người lính ấy, ông biết tấm ảnh ấy.
Làm thế nào ông Stephens biết được tấm ảnh ấy? Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy tấm ảnh, nhưng ông đã nghe người bạn thân là Rich kể nhiều lần. Stephens nói, “Tôi thực sự tuột xuống khỏi Bức Tường, và ngồi phiá sau Bức Tường cầm tấm ảnh này và biết nó là tấm ảnh của Rich. Tôi biết câu chuyện Rich bỏ tấm ảnh tại chân Bức Tường. Chúng tôi nói về chuyện này nhiều lần rồi.”
Năm 1996, bảy năm sau khi Rich nghĩ có thể chào vĩnh biệt tấm ảnh lần cuối cùng, thì ông Stephens vội vã lái xe lại ngay văn phòng của Rich. Rich đang họp với một người nào đó, nhưng Stepehns xen vào và nói, “Tôi cần nói chuyện với anh,” và đặt cuốn sách lên bàn của Rich, và yêu cầu Rich mở trang 53.
Rich mở trang 53 của cuốn sách, và trước mắt ông là tấm ảnh và lá thư xin lỗi gửi người lính Việt Cộng ông bỏ lại bên Bức Tường. Rich lập tức xúc động và bật khóc. Vẫn tấm ảnh người con gái ấy, và đôi mắt buồn bã chăm chú nhìn ông, không chịu quay đi chỗ khác. Rich có cảm tưởng như người con gái muốn buộc tội ông. Lúc ấy Rich như ở trong một cơn ác mộng, và muốn hỏi cô gái muốn gì ở ông.
Nỗi ám ảnh cũ bây giờ trở lại với Rich, mạnh mẽ hơn bao giờ. Rich biết ông phải lấy lại tấm ảnh. Thế là Rich liên lạc với Durey, người cũng đang bị tấm ảnh ám ảnh. Durey bay từ Hoa Thịnh Ðốn tới Illinois, và tận tay trao trả Rich tấm ảnh. Thực là một truyện kỳ lạ. Hai người đàn ông không quen biết nhau, chưa từng gặp nhau, nay ôm nhau khóc vì một cô gái nhỏ mà cả hai đều không biết.
Rich cầm lấy tấm ảnh, và tâm hồn ông là một vết thương tái phát. Ông biết ông phải tìm cách hàn gắn vết thương này. Một buổi tối ông cho vợ biết đây có thể là một sự huyền bí hoặc là định mệnh. Nhưng dù là gì, ông cảm thấy ông phải trả lại tấm ảnh này, có nghĩa là ông sẽ đi tìm người con gái trong tấm ảnh và gia đình người lính Việt Cộng đã bị ông giết.
Nếu như ông biết người con gái ở đâu thì công việc dễ dàng quá, chỉ việc bỏ tấm ảnh vào phong bì và gửi tấm ảnh này ra khỏi cuộc đời của ông. Nhưng ông không làm thế được. Ông không biết tên và địa chỉ người con gái. Ông không có một ý niệm bây giờ người con gái trông như thế nào.
Carole cố gắng khuyên nhủ ông đây là một việc không đơn giản và không thể thực hiện được. Ông không thể đi Việt Nam tìm người con gái được, vì ông không biết tiếng Việt, không quen một ai tại Việt Nam. Ngay tìm một người tại Hoa Kỳ cũng đã khó khăn lắm rồi, huống chi tìm một người hoàn toàn xa lạ cách đây hơn 30 năm, già hơn 30 tuổi trong một quốc gia hoàn toàn khác lạ, nhất là quốc gia ấy từng có thái độ thù nghịch với Hoa Kỳ.
Ðây là những lý do đúng và hợp lý để loại bỏ ý định của Rich. Bà vợ nhấn mạnh, “Nếu chồng tôi quyết định thực hiện ý định thì ông ấy cứ việc tự đi mà làm. Tôi không cản trở chồng tôi. Nhưng tôi nói với chồng tôi việc này không thể làm được, hãy bỏ cuộc và quên đi, không đáng làm đâu. Tôi thực sự đã chán ngấy chuyện này rồi.”
Carole công nhận bà đã chán nghe chuyện về tấm ảnh này rồi. Ðây chỉ là một sự ám ảnh. Carole cũng bị đau đớn như Rich vậy, mặc dù lý do khác nhau. Cái mà Carole ao uớc là Rich có thể quên được nỗi ám ảnh và tìm được sự bằng an của tâm hồn.
° ° °
Tấm ảnh của hai bố con người lính Việt Cộng đã âm thầm làm nhiệm vụ trong nhiều năm. Nhưng bây giờ nó gây hứng khởi cho một việc làm được coi là không thể thực hiện được. Rich chỉ muốn được cô gái ấy buông tha, và Rich sẽ cố gắng tìm cô ta, nếu đó là điều cô gái ấy muốn.
Rich không biết tên và địa chỉ cô gái, và bây giờ hình dáng cô ta trông thế nào, bao nhiêu tuổi, và nhất là cô ta còn sống không? Nhưng Rich biết ông phải tìm ra người con gái. Rich nghĩ nếu ông công khai cho mọi người biết ông đang tìm cô gái thì có lợi hơn. Vì thế Rich trả lời một cuộc phỏng vấn cho tờ báo St. Louis Post Dispatch, và câu chuyện được đăng lên trang nhất của tờ Post Dispatch.
Rich cứ tiến hành dự định. Ông gấp bài báo ấy, nhét vào một phong bì cùng với một lá thư gửi cho Ðại sứ Hà Nội tại Hoa Thinh Ðốn. Rich giải thích với ông Ðại sứ rằng ông muốn một sự giúp đỡ để tìm ra người con gái, và gia đình người lính trong tấm ảnh. Ông đại sứ hứa chuyển tài liệu về Hà Nội và cho biết phải có phép lạ mới có kết quả.
Giống như tìm kiếm một cây kim trong đống rơm. Ðây là một quốc gia có 80 triệu dân. Chính Rich cũng không tin tưởng lắm. Rich thực tình không hy vọng sẽ có kết quả. Từ đáy lòng ông đã không tin tưởng, nhưng ông biết đây là một việc phải làm. Ít nhất ông phải thử cho biết.
Và thế là một bản sao của tấm ảnh được gửi tới Hà Nội, tại đấy chủ bút một tờ báo nhận thấy đây là một truyện hấp dẫn. Ông ta cho đăng tấm ảnh với lời kêu gọi “Có ai biết những người này không?”
Nếu bài báo ở Hà Nội không đạt mục tiêu ngay thì nó cũng âm thầm tạo ra kết quả. Báo chí có hai công dụng: công dụng thứ nhất là thông tin, và công dụng thứ hai là trở thành báo cũ để gói hàng. Chính công dụng thứ hai này đã đưa tới kết quả.
Một người ở Hà Nội gửi một món quà về quê biếu mẹ. Ông ta dùng cái tờ báo đăng tấm ảnh của Rich để gói món quà, và gửi về cho bà mẹ ở một miền quê xa. Tuy thế câu chuyện cũng có thể chấm dứt ở đây – nếu không vì một tình cờ, bài báo đó đã về đúng chỗ.
Mảnh giấy báo gói đồ ấy về tới một làng quê xa Hà Nội, tại đó bà mẹ mở gói đồ của con, và trên tờ giấy báo nhàu nát, hình ảnh người lính Việt Cộng đập vào mắt bà gìà. Bà ta biết người trong tấm ảnh. Thế là bà ta cầm tờ báo đi tới một thôn xóm nhỏ bé, và bảo cho chị em một nhà kia biết tấm ảnh là bố của họ.
Thật là một điều không tưởng, giống như tấm ảnh nhất định không chấp nhận bị từ chối. Trái với mọi khó khăn tưởng như không qua được, tấm ảnh như một mũi tên trúng đích.
Từ Mỹ quốc cách xa ba ngàn dặm, Rich sẵn sàng chờ đợi lâu dài hơn nữa. Nhưng chỉ vài tuần sau, một lá thư của Ðại sứ Hà Nội tới hộp thư của ông. Lá thư đó viết:
“Có một người tên là Nguyễn Văn Huệ viết thư cho biết ông ta tin rằng tấm ảnh của ông chính là ảnh của thân phụ ông ta, và người con gái nhỏ ấy là chị ông ta.”
Ba mươi năm sau khi trông thấy tấm ảnh lần đầu, cuối cùng Rich biết người con gái ấy còn sống. Trong suốt cuộc đời, người con gái ấy ở cùng một chỗ. Như vậy Rich đã tìm thấy người con gái ấy, tên là Lan, và đã có con cái.
Thực là không ngờ đối với Rich. Thoạt đầu ông không thể tin kết quả mau lẹ như vậy. Rich rất xúc động và tự hỏi không biết những người con này có thù ghét ông vì đã giết cha họ không. Ông bắt đầu lo lắng hai người con có thể hiểu lầm về việc ông tham chiến tại Việt Nam. Rich rất cởi mở và thành thực. Vì trong thư của người con có nói tới tội lỗi và lòng hối tiếc của ông. Ông thấy cần phải bày tỏ cho họ biết có sự khác biệt giữa tội lỗi và hối tiếc. Rich mang trong lòng một mặc cảm tội lỗi nào đó vì cái hành động giết cha của họ, nhưng ông không hề có một hối tiếc nào với tư cách của một quân nhân, cũng không hối tiếc đã tham chiến tại Việt Nam. Và ông nghĩ rằng điều quan trọng là họ phải hiểu như thế.
Rich mong đợi gì ở hai người con này? Dẫu sao ông cũng đã giết cha họ. Ông không mong đợi gì, không biết họ thù ghét và tức giận ông hay không. Người con gái mất bố ấy cảm thấy thế nào? Nàng có coi ông như một con quái vật trong những năm ấy không? Con gái của ông sẽ nghĩ thế nào về một người đã giết ông?
Rich không có nhiều thời giờ suy nghĩ về phản ứng của hai người con này vì một lá thư thứ hai đến với ông. Lần này chính cô gái trong tấm ảnh viết cho ông. Ông vội chạy đi tìm người thông dịch. Lá thư viết:
“Kính gửi ông Richard, đứa nhỏ mà ông đã chăm sóc qua tấm ảnh trong hơn 30 năm bây giờ đã trưởng thành rồi. Đứa nhỏ ấy đã trải qua nhiều đau khổ trong tuổi thơ ấu vì đã mất bố và nhớ thương bố. Tôi hy vọng ông sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình tôi.”
Niềm vui và hạnh phúc? Rich vô cùng kinh ngạc. Như vậy cô gái đã tha thứ cho Rich? Nhưng tin vui vừa nhận được thì tất cả dường như rơi vào tuyệt vọng. Sau một cuộc điều tra nội bộ, chính phủ Hà Nội kết luận thân phụ của Nguyễn Thị Lan không thể là người trong tấm ảnh, bởi vì hồ sơ quân đội chứng minh thân phụ cô ta không tử trận tại nơi Rich nhớ đã bắn chết ông ta.
Rồi ba gia đình khác cho Rich biết tấm ảnh ấy là của họ. Người trong ảnh là bố họ, chứ không phải là bố của Nguyễn Thị Lan.
Làm sao Rich có thể biết chắc tin nào đúng. Người Việt Nam không giữ được hồ sơ thật chính xác. Có khoảng 3 triệu người Việt chết trong cuộc chiến mà tới nay vẫn còn 300,000 lính Việt Cộng được coi là mất tích.
Nhưng rồi có một lá thư nữa xác định niềm tin của Rich đã đạt tới kết cục. Ðó là thư của một đồng đội của người lính trong ảnh, một người quen biết thân phụ của Nguyễn Thị Lan kể từ khi hai người còn nhỏ, và đã chiến đấu bên nhau. Người ấy đoan chắc người trong tấm ảnh là cha của Nguyễn Thị Lan.
Bây giờ Rich rất tin vào kết quả cuối cùng. Khi sự việc đã sáng tỏ, Rich trao đổi nhiều thư từ với gia đình, và đi đến quyết định trao trả lại tấm ảnh cho gia đình người chết. Thoạt dầu Rich định gửi trả lại bằng thư, nhưng rồi cuối cùng Rich hiểu. Chính ông phải bay sang Việt Nam, mang theo tấm ảnh ấy. Ông nghĩ đây là điều ông cần làm và phải làm.
Nhưng làm thế nào Rich có thể đương đầu với Việt Nam, với cô gái và gia đình cô ta? Chính Rich có thể nào nhìn tận mặt kẻ đã giết cha mình trong chiến tranh không? Rich không biết câu trả lời. Ông nhận rằng có một sự nguy hiểm, không biết gia đình người tử sĩ sẽ phản ứng thế nào.
° ° °
Việc gặp gia đình người lính Việt Cộng không dễ dàng đối với Rich. Nhưng chính tại đây vào mùa xuân năm 2000, Rich sửa soạn đương đầu với quá khứ. Ông cảm thấy bị cuốn trôi theo sự việc, như thể ông bị chi phối bởi câu chuyện mà chính ông khởi đầu. Ðôi khi Rich thấy khó hiểu, nhưng vẫn nghĩ rằng đây là việc chính đáng mà ông phải làm.
Nhiều năm trước ông đã thề không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Ông đã chứng kiến quá nhiều cảnh bắn giết, quá nhiều kinh hoàng. Tất cả những đau khổ ấy phản chiếu trong tấm ảnh nhỏ ấy.
Tấm ảnh ấy có lẽ chụp tại một tiệm ảnh địa phương nào đó, tại đó người lính cùng chụp với người con gái để làm kỷ niệm cho cha nhớ con và con nhớ cha, khi ông ta ra đi chiến đấu. Giống như một vật có đời sống, tấm ảnh ấy đi từ một binh sĩ tử trận trên một con đường mòn, tới một người lính Mỹ, đài kỷ niệm chiến tranh, một cuốn sách, một chiếc ví, và tới một gói trên đuờng hồi hương.
Rich và Carole lên máy bay. Không còn đường rút lui nữa. Ðối với Rich, cuộc hành trình này sẽ đánh dấu sự khởi đầu của một chấm dứt. Sự chấm dứt một nỗi ám ảnh trên 30 năm của một tấm ảnh người lính Việt Cộng và cô con gái.
Không có gì ám ảnh hơn là khuôn mặt cô gái, mà Rich biết bây giờ không còn giống như thế nữa. Nhưng chính Rich cũng đã thay đổi và ngay cả Việt Nam nữa. Ðối với Rich, Việt Nam vừa xa lạ vừa gần gũi. Trên tất cả, nó là cái gì làm căng thẳng trí óc. Ngày hôm trước khi gặp nhau, Rich rất căng thẳng. Ông nói, “Tôi thà phải ra trận còn hơn phải gặp cô gái này.”
Ðó là một ngày thứ Tư u ám tại Hà Nội. Trời có vẻ sắp mưa trong lúc Rich bước lên một chiếc xe van để làm một chuyến đi hai giờ rưỡi tới làng của Lan. Chiếc xe chạy qua một vùng rất xa lạ, qua những chợ đầy những khuôn mặt ngạc nhiên trông thấy một đám du khách và người Mỹ tóc bạc này.
Càng gần tới làng, trên xe van Rich càng bồn chồn cựa quậy. Rồi bỗng nhiên, Rich và Carole tới nơi. Ðây chính là nơi người lính ảm đạm nghiêm trang ấy từng sống và có con cái. Ðây là nơi người lính ấy không bao giờ trở lại.
Rich hoang mang, Và sau đó bước qua một bức tường đá, Rich trông thấy người đàn bà. Rich tin chắc đã trông thấy người đàn bà này rồi. Rich phải mất vài phút để lấy lại bình tĩnh, rồi tiến lại phía người đàn bà. Và bây giờ hai người đối diện nhau. Hai người chưa từng thấy nhau bao giờ. Trong vài giây, hai người không biết nói gì. Họ là hai người thân mật nhưng xa lạ. Ông lập lại câu nói tiếng Việt mà ông đã học thuộc lòng:
“Hôm nay tôi trả lại tấm ảnh của cô và cha cô mà tôi đã giữ 33 năm. Xin tha thứ cho tôi.”
Cuối cùng tất cả tuôn ra – như một sự giải thoát đau đớn kinh hoàng. Dường như ngay lúc này người con gái cuối cùng đã có thể chịu được sự đau khổ, khóc gọi người cha mà cô không thực sự biết rõ.
Cô ôm lấy Rich và khóc. Cô ôm chặt lấy Rich như thể Rich chính là cha cô, cuối cùng đã trở về từ cuộc chiến. Người em cô cho biết cả hai chị em dị đoan tin rằng linh hồn người cha sống qua Rich. Ðối với họ, ngày hôm nay linh hồn cha của họ đã trở về với họ.
Cả làng tuôn ra xem tấm ảnh trả lại. Thực ra đó là một đại gia đình, tất cả làng thương tiếc người tử sĩ. Họ biết điều ấy có ý nghĩa như thế nào đối với Lan, và tấm ảnh đã gây xúc động cho mọi người.
Người ta có thể trả lại thế nào một cái gì mạnh mẽ như tấm ảnh ấy? Một lần Rich đã nghĩ tới một nghi thức trang trọng, nhưng cuối cùng chỉ là một câu nói đơn giản của Rich, “Nói cho cô ấy biết đây là tấm ảnh tôi lấy từ ví của cha cô ấy cái ngày tôi bắn chết ông ta, và hôm nay tôi mang trả lại.”
Người con gái nhỏ ấy nay đã 40 tuổi, và đây là lần đầu cô ta cầm được hình mình và hình cha trong tay. Cô ta vùi mặt vào hình ảnh người bố. Ðây là lúc cô ta có thể nhìn bố gần nhất kể từ khi cô lên 6 tuổi và người bố ra đi. Như thể tất cả gánh nặng đã hoán chuyển trong khi tấm ảnh nhỏ này truyền tay. Bây giờ chính Rich là người an ủi Lan.
Ðây là tấm ảnh duy nhất và đầu tiên của người lính Nguyễn Trọng Ngoạn mà con cái có được. Lan và người em tên Huệ đặt tấm ảnh lên bàn thờ cha mẹ. Rich cũng tham dự nghi lễ cầu nguyện trước bàn thờ.
Rich nói, “Thân phụ của họ là một cguời can đảm, và ông chết là một chiến sĩ can trường. Ông ta không bị đau đớn. Tôi rất tiếc.”
Lan và Rich ôm nhau khóc. Hiển nhiên bây giờ Lan đã tha thứ cho Rich. Và trong những giờ sau đó, Rich trở nên gần như một người trong gia đình. Rich có dịp gặp lại bạn đồng đội của người lính đã chết, và những kẻ thù cũ trao đổi những kỷ niệm chiến tranh, như thể họ là đồng đội cùng chiến đấu bên nhau, trong cái góc nhỏ bé này của thế giới, nơi có những mộ bia ghi tên những chiến binh Bắc Việt không trở về.
Nhưng có lẽ còn có một cái gì đáng kể hơn nữa. Một cái gì trong Rich, bây giờ đã thay đổi 33 năm sau khi Rich bóp cò súng trong khu rừng già nóng nực ấy, trong cái ngày khó hiểu ấy. Bây giờ Rich đã tự tha thứ cho mình.
Rich bước đi, tự nhủ việc này “quá khó.” Rất khó cho Rich trở lại được đây, và cũng quá khó cho Rich từ giã nơi đây. Rich và Lan ôm nhau từ biệt. Trở lại xe van, Rich bật lên khóc.
Ba mươi ba năm trước đây, Rich tới quốc gia này để tham chiến. Hôm nay ông trở lại để tìm hoà bình. Ông bỏ lại tấm ảnh và cả một hồn ma nữa. Cái ám ảnh của cô gái cuối cùng đã mất đi, thay thế bằng hình ảnh một người đàn bà vẫn còn sống sau cái chết của thân phụ, và cũng đã tha thứ cái người đã giết cha mình.
Tấm ảnh đem Rich và Lan lại gần nhau và có thể giúp họ liên kết với nhau nữa. Rich cho biết ông sẽ liên lạc với Lan và gia đình. Ông cũng hy vọng câu chuyện ông đã đương dầu với quá khứ có thể giúp những cựu chiến binh khác đương đầu được với hoàn cảnh của họ. Nhiều cựu chiến binh đã trở lại Việt Nam 25 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt.
Ðối với Rich trở lại Việt Nam với tấm ảnh ấy giống như trở lại dự trận đánh cuối cùng. Và bây giờ chuyến trở lại Việt Nam đem lại cho Rich nhiều an ủi. Ông bây giờ đã trút được gánh nặng.
Gần một năm sau Rich vẫn còn mang trong lòng cái giây phút cuối cùng ấy, giống như một lá bùa may mắn, cái giây phút thay đổi của đời ông. Ông nói, “Khi tôi cầm tay và ôm cô ta, tôi cảm thấy như bỏ ba lô xuống và nghỉ ngơi, mọi thứ đều xong cả rồi.”
Rich vẫn chưa hiểu được – làm thế nào ông đã giết một người, mà lại chiếm được cảm tình gia đình của người ông đã giết? Làm thế nào những đau khổ trong những năm ấy, bỗng nhiên biến mất một cách giản dị như thế.
Trước khi trở lại Việt Nam, Rich không thể che giấu những mối lo lắng ông cảm thấy về Việt Nam – những nỗi đau buồn về tấm ảnh tội lỗi – những cảm xúc như thế thật là rõ ràng tại Việt Nam. Bây giờ những cảm giác ấy đâu? Rich nghĩ rằng ngay khi ông trông thấy người con gái ấy, các cảm giác ấy biến mất. Chính cô gái là người giải tỏa những cảm giác tội lỗi của ông.
Hai bên vẫn trao đổi thư tín, Rich và chị em Lan và Huệ. Huệ, người con trai viết cho Rich, “Trong thời gian ông viếng thăm gia đình tôi, mọi người trong làng nhận thấy ông là người rất tốt và tử tế. Khi ông rời Việt Nam, tôi cảm thấy như cha tôi đã trở về.”
Trong một thời gian lâu dài, một góc tim của Rich buồn bã lạnh lẽo. Bây giờ trái tim ấy hân hoan ấm áp trở lại. Ông nói, “Bây giờ chỉ là niềm vui, không còn đau buồn nữa.”
Hành động đầy thiện tâm của Rich không những giúp Rich thoát khỏi nỗi ám ảnh khôn nguôi trong suốt 33 năm, mà còn đem lại an ủi lớn lao cho hai người con của người lính Việt Cộng đã bị Rich bắn chết, vào một ngày mùa hạ trong khu rừng già ấy. Những tâm hồn một thời phong ba bão táp, nay đã có thể yên nghỉ.
Việc Trung Quốc tìm cách can thiệp chính trị vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam là điều không mới, nhưng một kế hoạch can thiệp ở cấp độ “quân sự”, với việc tung vào hai sư đoàn Nhảy Dù để đánh chặn Quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, lại là điều ít người biết đến. Bí mật lịch sử này lần đầu được Tiến sĩ sử học George Jay Veith tiết lộ trong phần “Tay chơi cuối cùng: Trung Quốc” (“The final actor: China,”) thuộc chương 24, “Ta sẽ tuốt gươm” (“I will draw out my sword”,) trong sách “Tuốt kiếm viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land) xuất bản năm 2021. Cuốn sách “Tuốt kiếm viễn chinh” được TS. Jay Veith phát triển từ luận án tiến sĩ sử học ông bảo vệ tại Monash University, Australia. Nhân dịp 30/4, RFA phỏng vấn TS. Jay Veith về bí mật lịch sử này. RFA: Trong sách “Tuốt kiếm viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land), ông đã trình bày những tư liệu lịch sử chưa từng được ai công bố trước đây, thu thập được từ cuộc phỏng vấn với nhân chứng Nguyễn Xuân Phong. Xin ông cho biết tại sao lời kể của nhân chứng này lại quan trọng? Tại sao trước đây, ông Phong chưa từng công bố điều này?
George Jay Veith: Nhiều nhân chứng và nhà nghiên cứu đã nói về những can thiệp chính trị của của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến. Nhưng trong các cuộc phỏng vấn của tôi với ông Nguyễn Xuân Phong, bao gồm phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn qua email, ông ấy đã cung cấp cho tôi một kế hoạch can thiệp ở cấp độ quân sự của Trung Quốc vào Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến. Có lẽ đây là lần đầu tiên điều này được tiết lộ bởi một nhân chứng lịch sử có thẩm quyền. Ông Nguyễn Xuân Phong là một nhân chứng lịch sử. Ông ấy là Quốc vụ khanh, Phó phái đoàn hòa đàm VNCH tại Paris từ 1968 đến 1975. Ông ấy xác nhận với tôi việc Trung Quốc liên lạc với ông để xây dựng một kế hoạch can thiệp trực tiếp bằng quân sự để ngăn cản Việt Nam thống nhất. Ban đầu, ông Phong miễn cưỡng kể cho tôi các câu chuyện lịch sử mà mình là nhân chứng. Nhưng sau khi tôi tiếp tục gửi cho ông những tài liệu vừa được giải mật trong khoảng thời gian đó, cuối cùng ông ấy đã đồng ý kể cho tôi câu chuyện. Sau 1975, ông ấy bị đi tù. Những người Cộng sản Việt Nam không phải là không biết gì về kế hoạch can thiệp của Trung Quốc. Họ tra vấn ông ấy về quan hệ giữa Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Trung Quốc. Nhưng ông không trả lời, và sau này cũng không nói gì về điều đó, vì muốn bảo vệ những nguồn tin và nhân chứng liên quan. Ông ấy không bị tra tấn, nhưng họ từng đánh ông trọng thương một lần vì ông chỉ nói ngắn gọn là không biết gì về điều đó.
RFA: Ông Nguyễn Xuân Phong kể cho ông nghe về những sự kiện và hoạt động nào vào cuối cuộc chiến? Những hoạt động nào trong số này có liên quan đến sự can thiệp của Trung Quốc vào Miền Nam Việt Nam? George Jay Veith: Ông Nguyễn Xuân Phong cho biết vào những ngày cuối của cuộc chiến, cả phía Bắc Việt và Trung Quốc đã liên lạc với ông. Phía Bắc Việt bắn tin cho ông, cho đại diện của Pháp (tướng Paul Vanuxem) và một số nhân vật khác, rằng nếu ông Dương Văn Minh không được đưa lên nắm quyền trước ngày 26/4/1975, họ sẽ san bằng Sài Gòn bằng hai mươi ngàn viên đạn pháo. Còn phía Trung Quốc cũng cho người đến gặp ông để đưa ra một kế hoạch can thiệp quân sự nhằm ngăn chặn Bắc Việt chiếm Miền Nam Việt Nam. Mục đích của Trung Quốc là ngăn chặn một Việt Nam thống nhất. Kế hoạch của Trung Quốc, theo lời kể của ông Phong, là trước hết xây dựng một liên minh giữa chính quyền VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN). Sau khi có liên minh này, Tổng thống Dương Văn Minh sẽ đưa ra lời thỉnh cầu quốc tế giúp đỡ. Nhân cơ hội đó, Pháp sẽ hồi đáp bằng cách đưa vào Miền Nam Việt Nam một “lực lượng quốc tế” với danh nghĩa bảo vệ chính phủ mới, nhưng trong cái gọi là “lực lượng quốc tế” này sẽ có “hai Sư đoàn lính Dù của Trung Cộng.” Hai sư đoàn Dù này sẽ được thả xuống Biên Hòa. Sau khi nhận tin từ phía Bắc Việt, ông Phong đã trở về Sài Gòn gặp Tổng thống Trần Văn Hương, người kế nhiệm sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21/4/1975, để cố gắng ngăn chặn một cuộc chiến có khả năng diễn ra ngay tại Sài Gòn. Sau đó, ông Phong gặp ông Trần Văn Đôn (lúc đó là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng,) ông Trần Ngọc Liễng (đại diện của ông Dương Văn Minh, và là một tình báo của phía Bắc Việt, sau 1975 là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), và một đại diện của CMLTCHMNVN để bàn về giải pháp xây dựng một chính phủ liên hiệp giữa Chính phủ VNCH và Chính phủ CMLTCHMNVN. Ông Phong cho biết trong cuộc gặp này, ông đã nói rằng Pháp và một số nước khác sẽ hỗ trợ chính phủ mới. Nhưng ông không nói ra thông điệp mà Trung Quốc muốn ông chuyển đến Sài Gòn. Về kế hoạch của Bắc Kinh, ông Phong giải thích trong lần tôi phỏng vấn ông năm 2006 và 2008 rằng Bắc Kinh cho ông biết họ cần bốn ngày để điều quân và đưa quân đến căn cứ không quân. Theo ông, tính toán của Bắc Kinh là họ không muốn trực tiếp ra mặt, không muốn tạo ra hình ảnh mình là bên ngang nhiên mang quân vào Miền Nam Việt Nam. Trung Quốc muốn tạo ra một vở kịch trong đó người Pháp mới là diễn viên chính can dự vào đó. Pháp sẽ kêu gọi một quốc gia tham gia “lực lượng quốc tế” do mình đứng đầu để “giúp đỡ” chính phủ liên hiệp giữa VNCH và CMLTCHMNVN còn Trung Quốc sẽ tham gia vào. Trung Quốc nói rằng họ cần đưa quân vào để ngăn chặn đà tiến công của quân đội Bắc Việt nhưng cũng không thể đóng quân lại Miền Nam quá lâu, vì họ không muốn bị buộc tội là có âm mưu chiếm đóng.
Ông Nguyễn Xuân Phong cho tôi biết là Trung Quốc, mà cụ thể là phái viên của Chu Ân Lai, lần đầu tiếp xúc với ông vào tháng 12 năm 1970. Theo tôi, kế hoạch can thiệp quân sự của Trung Quốc mà ông Nguyễn Xuân Phong tiết lộ trước khi qua đời năm 2017 là một trong những bí ẩn. Bí ẩn này sẽ được làm sáng tỏ hơn nữa nếu các nhà nghiên cứu tiếp cận được những tư liệu lịch sử chính thức mà các chính phủ liên quan công bố.
RFA: Làm thế nào để kiểm tra tính chính xác của những câu chuyện ông Nguyễn Xuân Phong kể lại? George Jay Veith: Hiện tôi chưa có nhiều tư liệu chính thức của các bên để xác minh thêm những gì ông Phong nói với tôi. Nhưng có nhiều người đã kể những câu chuyện liên quan về việc Trung Quốc cố gắng thuyết phục Tướng Dương Văn Minh trong những ngày cuối cùng là hãy yêu cầu sự giúp đỡ của Trung Quốc để cứu Miền Nam Việt Nam. Tôi tin rằng điều đó đã xảy ra. Tuy nhiên, ý định thực sự của Trung Quốc là gì vẫn còn là một bí ẩn. Có vẻ như Hà Nội cũng đã tin rằng Trung Quốc có một kế hoạch như vậy. Họ đã tra khảo ông Phong về điều đó. RFA: Trong sách “Tuốt kiếm viễn chinh”, ông có nói Trung Quốc còn tiếp xúc với cả ông Nguyễn Cao Kỳ và tìm cách tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Thiệu nữa? George Jay Veith: Không rõ chính xác thời điểm Trung Quốc tiếp cận ông Nguyễn Cao Kỳ vì ông ấy không nói cụ thể lắm. Đại khái vào tháng 9 năm 1975, ông Nguyễn Cao Kỳ trả lời phỏng vấn William Buckley trên tờ Firing Line, kể rằng Trung Quốc đã cử đặc vụ đến tận nhà ông tại Sài Gòn vào khoảng cuối năm 1972. Họ đề nghị ông
ấy đảo chính ông Thiệu rồi “tuyên bố Miền Nam Việt Nam trung lập, không thân Mỹ cũng không thân Nga.” Theo ông Kỳ kể lại, Trung Quốc “không muốn bị hở sườn phía nam, vì bị Bắc Việt, một vệ tinh của Nga trấn giữ.” Rồi đến tháng 12 năm 1975, ông Kỳ cũng kể lại lần nữa chuyện này trong một bài phát biểu ở Mỹ, được tường thuật trên tờ Baltimore Sun, ngày 6 tháng 12 năm 1975. Nhưng tôi không hiểu tại sao ông Kỳ không nhắc đến vụ này trong sách của ông. Ngoài tìm cách tiếp xúc với ông Kỳ, Trung Cộng còn tìm cách tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, họ trao trả tù binh VNCH qua ngả Hong Kong và gửi thông điệp qua Tổng Lãnh sự VNCH ở Hong Kong tới Tổng thống Thiệu, yêu cầu thu xếp một cuộc hội đàm bí mật. Năm 2007, tôi phỏng vấn ông Jim Eckes, một bạn thân của ông Nguyễn Xuân Phong và là giám đốc một hãng hàng không ở Sài Gòn lúc đó. Gia đình ông Jim sống ở Hong Kong và ông ấy đi lại giữa Hong Kong và Sài Gòn thường xuyên. Do đó, Tổng Lãnh sự VNCH ở Hong Kong nhờ Jim chuyển thông điệp của Trung Quốc về cho ông Thiệu. Ông Jim Eckes kể tôi nghe là ông lại chuyển thông điệp cho Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ ở VNCH, và thông điệp “nằm chết” tại đó. RFA: Tại sao Trung Quốc hỗ trợ Bắc Việt trong suốt cuộc chiến nhưng không muốn Bắc Việt chiến thắng? Các nhà nghiên cứu trước đây đã nói gì về điều này? George Jay Veith: Trung Quốc muốn Việt Nam bị chia nhỏ ra. Họ muốn Bắc Việt không quá mạnh, vì lúc đó họ nhìn thấy Việt Nam và Liên Xô có thể sẽ ký một hiệp ước liên minh. Kosal Path, Phó Giáo sư sử học tại Trường Đại học Brooklyn (Brooklyn College), nhận định rằng “giới nghiên cứu chia sẻ một nhận định chung là các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào năm 1973 đã càng ngày càng lo ngại việc Hà Nội nghiêng về phía Moscow.” Lo lắng này của Trung Quốc hình thành trong bối cảnh cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc Trung Quốc và Liên Xô trong khối Cộng sản trở nên khốc liệt từ thập niên 1960s. Hai cường quốc Cộng sản này đã giao tranh dọc biên giới vào tháng 3 năm 1969. Đến tháng 5 năm đó, Ấn Độ và Bắc Triều Tiên đã đồng ý tham gia liên minh với Liên Xô chống Bắc Kinh. Trung Quốc lo ngại họ sẽ nguy hiểm về an ninh nếu có thêm Bắc Việt Nam ở phía nam của họ tham gia liên minh này. Do đó, việc Bắc Việt Nam lấy thêm được Nam Việt Nam sẽ đi ngược lại lợi ích của họ. Nhà báo Nayan Chanda trong cuốn sách “Người anh em thù địch” (Brother Enemy: The War After the War,) xuất bản năm 1986 cũng viết rằng Bắc Kinh đã “thực thi một cách nhất quán chính sách duy trì tình trạng chia cắt của Đông Dương bằng mọi giá. Họ cũng ngăn chặn các cường quốc khác hiện diện. Để làm điều này, họ thực thi thủ thuật “ngoại giao thầm lặng”, cố gắng gây ảnh hưởng kinh tế, và tất nhiên, không loại trừ sức mạnh quân sự.”
Khi tiếp xúc với Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Alexander Haig để tiền trạm cho chuyến thăm tới Trung Quốc của Tổng thống Nixon tháng 2 năm 1972, Chu Ân Lai đã làm cho Haig sửng sốt khi khẳng định rằng: “Các ông đừng thua ở Việt Nam”, và rằng Trung Quốc “xem việc Hoa Kỳ thất bại và rút quân khỏi Đông Nam Á là nguy hiểm đối với Trung Quốc.” RFA: Xin cảm ơn Tiến sĩ George Jay Veith đã dành cho độc giả của chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
THAM KHẢO
1) Bài viết “Bí mật lịch sử tháng 4 năm 1975: Trung Quốc định tung lính dù nhảy xuống Biên Hòa chặn Bắc Việt? của tác giả George Jay Veith đăng trên RFA ngày 2/4/2023.
Tôi nhớ mãi buổi làm việc cuối cùng ở phòng mạch, đường Tổng Đốc Phương ở Chợ Lớn, vào chiều thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975. Bệnh nhân hôm đó đông hẳn lên.Hỏi ra mới biết các phòng mạch chung quanh đều đóng cửa, các bác sĩ đi hết. Cô Bảy, cô y tá người Việt gốc Hoa, lo lắng hỏi tôi: -Ông có tính đi không? -Tôi có một, hai đường dây nhưng chưa quyết định đi. Chờ xem tình hình ra sao đã. Tôi nói cho cô Bảy an lòng, nhưng tôi có linh cảm đây là buổi làm việc chung cuối cùng. Chiều nay trước khi đến phòng mạch tôi đã khám bệnh từ 5 đến 6 giờ ở trạm y tế của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, còn được gọi là Nhà Kiếng, của ông Trần Quốc Bửu. Địch đã về đến Long Khánh. Ông Nguyễn Bá Cẩn, người của ông Bửu, vừa lên làm Thủ Tướng. Hôm ấy người đến chờ xin được ông Bửu tiếp đứng chật ra cả sân sau. Ông Bửu vừa từ Hoa Kỳ trở về.Tôi lo lắng muốn biết tình hình ra sao, liền gọi cô Linh, cô y tá của trạm y tế nói riêng: -Tôi muốn gặp “ anh Tám”, nhờ cô lên hỏi anh có cần tôi lên đo áp huyết không. Cô Linh đi độ 5 phút rồi trở về với một người cận vệ của ông Bửu. Anh này nói: -Bác sĩ theo em, đi cửa riêng, anh Tám chờ bác sĩ. Tôi theo chân người cận vệ của ông Bửu lên lầu trên, đi dọc theo một hành lang. Ngang qua hai phòng khách, tôi liếc thấy nhiều ông bận đồ lớn ngồi chờ. Tôi được đưa vào phòng riêng của ông Bửu. Tôi thấy ông đang lặng lẽ đứng xé từng xấp giấy vất xuống một thùng cạc tông lớn để dưới chân. Hình như ông không biết đến những người khách đang chờ xin gặp ông . Nhìn thấy tôi ông nở một nụ cười. Nụ cười của ông Bửu lúc nào cũng điềm đạm. -Em đó à, đo giùm áp huyết cho anh đi. Tôi biết bệnh của ông Bửu rất rõ. Ông đã đưa cho tôi xem bản sao hồ sơ bệnh lý của ông được thực hiện ở bệnh viện Walter Reed lúc ông sang Hoa Kỳ. Tôi cứ dựa vào đó mà theo dõi . Đo áp huyết cho ông Bửu xong, tôi hỏi ngay: -Tình hình ra sao anh Tám. Có hy vọng gì không? Ông Bửu tiếp tục xé giấy vất xuống thùng. Gần cả phút nặng nề trôi qua. Lần đầu tiên tôi thấy tình hình thật sự đen tối. -Người Mỹ họ không ủng hộ mình nữa. Chắc phải liên hiệp. Em nên đi ra nước ngoài.Nếu chưa có đường đi thì nên liên lạc thường xuyên với gia đình anh , chừng nào anh đi thì đi cùng. Tôi tin lời ông Bửu nói. Trên đường đi đến phòng mạch tôi như người mất hồn. Tôi cảm thấy ân hận đã bỏ lỡ dịp ra đi bằng máy bay tuần trước. Sắp đến giờ đóng cửa cô Bảy hỏi tôi: -Thứ hai ông có đến làm việc không? -Có chứ, trừ phi tình hình thay đổi -Nếu ông đi thì phòng mạch này ai trông coi? Tôi sực nhớ đã trả tiền mướn địa điểm cho nguyên năm. Tôi liền viết giấy ủy quyền cho cô Bảy trông coi phòng mạch cho đến hết hạn và cho cô tất cả đồ đạc trong phòng mạch. Tôi đưa cô Bảy về nhà cô. Ngồi trên xe cô Bảy khóc. Đã mấy mươi năm trôi qua,mỗi lần nhớ lại ngày cuối cùng làm phòng mạch ở đường Tổng Đốc Phương ,tôi vẫn hình dung ra được những giọt nước mắt của người nữ y tá trung thành và tận tụy. Trên đường về,tôi ghé cư xá sĩ quan Chí Hòa. Tôi muốn gặp ông Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y để báo tin. Ông hay tâm sự với tôi ông có đường đi nhưng vì trách nhiệm ông chưa thể đi. Ông nói có lẽ ông sẽ để gia đình ông đi trước. Tôi đến nhà ông Chỉ Huy Trưởng lúc 8 giờ tối. Chừng nửa giờ sau thì ông về.Tôi lập lại với ông những lời ông Bửu nói với tôi và góp ý: -Nếu đi thì anh nên đi luôn với gia đình. Tình hình này chần chờ người trước người sau có khi kẹt. Sau này liên lạc lại được với ông ở hải ngoại ông cám ơn tôi đã đến cho tin, giúp ông có một quyết định kịp thời. Nhưng tôi không có dịp đi cùng ông Bửu. Tôi nghe nói sáng 30 tháng 4 ông Bửu mới rời Sàigòn trên một chiếc xà lan do tàu Đại Hàn kéo. Đêm 28 tháng 4 địch pháo dữ dội phi trường Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 29 tháng 4 là một sáng bàng hoàng cho dân Sàigòn. Yên chí mình có đường dây đi với ông Bửu tôi bình tĩnh lái xe vào Trường Quân Y xem tình hình. Cổng vẫn có lính gác. Tôi đến văn phòng tôi. Chẳng có văn thư nào để đọc hay ký cả. Lệnh cấm trại 100% của Cục Quân Y vẫn hiệu lực. Đến giờ này tôi biết một số bác sĩ của Trường đã ra đi, đi trước cả ông Chỉ Huy Trưởng. Tôi đứng ở cửa văn phòng mình một lúc thì gặp trung tá Tá, sĩ quan hành chánh. Ông hỏi tôi, giọng đầy lo lắng: -Tình hình có sao không hả bác sĩ? Tôi trả lời ông như một người am hiểu tình hình: – Chắc là phải liên hiệp nhưng rồi cũng mất, trung tá ạ. Trung tá có đường đi nên đi. -Tôi nghe ông Chỉ Huy Trưởng đi rồi thì phải. Tôi gật đầu. Tôi khuyên trung tá Tá cũng như tôi đã khuyên ông Chỉ Huy Trưởng những gì ông Bửu đã khuyên tôi. Tôi thổ lộ điều tôi biết cho trung tá Tá vì hai lẽ: ông là người có nhiều huy chương nhất Trường Quân Y vì ông đã từng phục vụ lâu năm trong quân đội Pháp trước khi sang quân đội VNCH và vì ông có một người con trai đang là sinh viên quân y ngành dược. Qua ông và rồi qua con ông, một số sinh viên quân y đang bị cấm trại có thể tìm cách ra khỏi Trường để tìm đường đi. Với chức vụ Trưởng Khối Tâm Lý Chiến của Trường tôi không thể công khai nói với mọi người nên tìm đường đi ra nước ngoài. Cho một tin như thế tôi có thể bị truy tố. Tôi rời văn phòng về nhà lúc 12 giờ trưa. Về đến nhà thì vợ tôi vừa hốt hoảng vừa trách tôi: -Làm thế nào bây giờ anh? Phải đi chứ không thể ở lại được. Đáng lẽ để em và con đi tuần trước cho rồi, cứ cản mãi.. Tôi trấn an vợ tôi: -Em yên tâm, có đường dây đi rồi, đi với ông Bửu. -Chừng nào? -Để xem tình hình sao đã. -Coi chừng để trể ông đi mất là hết đường. Tôi cho thêm mình một chữ nếu nữa.Nếu đêm nay tình hình không yên tỉnh thì sáng mai sẽ lên nhà ông Bửu. Vừa lúc ấy một chiếc xe hoa kỳ màu đen, bảng trước có gắn một sao hải quân đỗ ngay trước nhà. Xe của phó đề đốc Thăng, ông anh cột chèo với anh tôi. Vợ chồng anh Thăng đang ở Cần Thơ, nhưng chị Thăng gọi điện thoại lên cho vợ anh tôi, cho biết có một đoàn tàu của hải quân sẽ rời hải quân công xưởng và khuyên nên vào ở nhà chị, đối diện với cổng vào hải quân công xưởng, để khi có cơ hội là đi. Cũng vừa lúc ấy anh Thành, thiếu tá không quân,phi công trực thăng, anh cột chèo với tôi, chở vợ và hai con trên chiếc vespa đến tôi hỏi đường đi. Anh Thành nói: -Anh định vào Tân Sơn Nhất nhưng không vào được. Có đường nào cho tụi này đi cùng. Vợ tôi giục tôi: -Đi với anh chị Trang cho rồi, anh! Tôi trả lời buông xuôi: -Ừ, đi thì đi. Đằng nào cũng đi, vậy thì đi với ai cũng vậy. Gia đình ông anh tôi 5 người, gia đình tôi 4 người, gia đình anh Thành 4 người, phía bên ông cụ tôi và bà kế mẫu 8 người. Ngoài chiếc xe của phó đề đốc Thăng, còn có chiếc Fiat của tôi, chiếc Toyota của anh tôi. Tất cả 21 người chen chúc nhau trên 3 chiếc xe đó. Sàigòn ở khu bến tàu lúc bấy giờ vẫn yên tĩnh.Lính gác ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân mở hàng rào chắn cho đoàn xe chúng tôi vào. Chúng tôi tạm trú trong nhà phó đề đốc Thăng và chờ đợi. Không biết lúc nào thì có lệnh cho qua cổng hải quân công xưởng để xuống tàu. Bốn giờ chiều vẫn không có tin tức gì thêm. Ông cụ tôi sốt ruột muốn về. Ông nói: -Hôm qua chúng nó pháo Tân Sơn Nhất, tối nay có thể chúng pháo vào hải quân công xưởng. Nếu không đi được, qua đêm ở đây nguy hiểm lắm. Tôi nói với ông cụ tôi: -Ba ráng chờ, con nghĩ thế nào cũng có tàu đi. Ông cụ tôi bỏ vào nhà trong. Tôi bước ra ngoài, lang thang trên một đoạn đường Lê Thánh Tôn. Bất ngờ gặp tướng Tôn Thất Xứng. Ông bận đồ xi-vin. Tướng Xứng vồn vã hỏi: -Ba có đi cùng không cháu? -Dạ có, ông đang ở trong nhà anh Thăng. Chờ lâu quá ông có ý định muốn về nhà. Tướng Xứng la lên: -Chết! Chết! Nói ba đừng về. Cứ ở đây. Tình hình tuyệt vọng rồi, chú biết. -Để cháu vào nói ba cháu ra gặp chú. -Ừ, mau lên nghe cháu. Khi tôi đưa được ông cụ tôi ra chỗ tôi vừa gặp tướng Xứng thì ông không còn ở đó nữa. Ông cụ tôi lặng lẽ trở vào nhà. Chừng nửa giờ sau anh tôi gặp tôi và nói : -Ba mợ và mấy em về nhà rồi. Phải nhờ tài xế lái xe anh Thăng đưa ra, lính gác mới mở cổng. Bây giờ ở cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân có lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tôi cũng tự hỏi mình có nên liều mạng nằm đây chờ không. Tư hỏi rồi tự trả lời :Nằm đây thì còn hy vọng đi, về nhà là kẹt chắc. Ông anh tôi, cảnh sát; tôi, gốc nhảy dù ở lại chắc khó sống lắm. Ba tôi, tuy là tướng,nhưng ông về hưu lâu rồi, chắc không sao. Đúng 5 giờ chiều, trên không xuất hiện hai chiếc phản lực hình cá thu, bay lượn quanh tòa đại sứ Mỹ. Chừng mười lăm phút sau, tiếng trực thăng nghe mỗi lúc một gần. Rồi đoàn trực thăng từng chiếc, từng chiếc bay qua đầu chúng tôi, sà xuống trên nóc tòa đại sứ Mỹ. Mọi người nhốn nháo : -Mỹ di tản toà đại sứ! Hai chiếc phản lực nhào xuống thấp, xé gió nghe quặn cả ruột! Một tràng M16 nổ dòn ở cổng Bạch Đằng rồi một tràng M16 khác nghe phía cổng Cường Để. -Ai bắn vậy? -Lính mình bắn vào trực thăng di tản à? -Không phải đâu, chắc dân chúng tính tràn vào, lính hải quân bắn cảnh cáo. Tôi hỏi khẻ anh tôi : -Anh có súng không? -Tao chỉ có một khẩu rouleau nhỏ phòng thân. Tôi nghĩ đến cảnh hỗn loạn trong các cuộc di tản tại miền Trung trước đây. Tôi nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu lính gác hải quân không cản nổi làn sóng người tràn vào. Tôi chỉ nghĩ thoáng đến đó mà không dám nghĩ gì thêm. Vào khoảng sau 6 giờ chiều cổng hải quân công xưởng mở. Anh tôi quýnh quáng : -Có lệnh cho xuống tàu! Gọi điện thoại cho ba mợ hay, hỏi ông bà có muốn đi trở lại không. Anh tôi nói và làm . Giọng anh run run : -Có lệnh cho xuống tàu rồi. Ba mợ có đi không, tụi con chờ để nhờ người đưa vào. Anh tôi nghe một lúc rồi gác máy: -Cậu Kế sẽ lấy chiếc Fiat của chú đưa ba mợ và mấy em đến cổng Bạch Đằng. Tôi sẽ nhờ chú tài xế của anh Thăng ra đón và năn nỉ lính gác. Nếu cần tặng họ chiếc Fiat của chú. Chiếc Toyota của chị còn đây cũng tặng họ luôn. Cô chú có con dại vào trước đi. -Xuống cầu tàu nào và đi chiếc nào vậy anh? – Thì thấy người ta lên chiếc nào mình lên chiếc đó. Hôm ấy là hôm tôi gặp mặt ông cụ tôi lần cuối cùng. Về sau anh tôi kể lại: Xe đưa ông cụ tôi bị kẹt lại trên đường Hai Bà Trưng, gần hảng nước đá. Cậu tôi gọi điện thoại vào cho anh tôi. Anh tôi nói phải cố đến gần cổng mới đón vào được. Tình hình bây giờ gần như hỗn loạn, lính gác đã bắn ngang chứ không còn bắn chỉ thiên nữa. Ba mợ và mấy em tôi phải quay về. 14 năm sau những người trong gia đình tôi đã lần lượt đoàn tụ, trừ ba tôi. Chúng tôi nhận được điện tín ngày ông lên đường đoàn tụ và ngày ông mất cách nhau 48 tiếng! Không biết ông cụ tôi không có duyên đoàn tụ với con cái hay có cái gì níu kéo ông lại, không muốn ông gởi xác nơi xứ người. Gia đình tôi theo làn sóng người tràn vào hải quân công xưởng. Đi một quãng chúng tôi đứng lại chờ. Gia đình anh Thành vào kế tiếp, có thêm chị Thoa,chị vợ thứ hai của tôi, với 3 đứa con cùng đi với vợ chồng trung tá Nam. Chúng tôi họp lại thành một nhóm. Chờ thêm môt lúc không thấy gia đình anh tôi đâu. Tôi chưa bao giờ vào hải quân công xưởng nên không biết có bao nhiêu cầu tàu và con đường nào dẫn xuống cầu tàu nào.Chúng tôi đi trên con đường nhỏ một đoạn khá xa và gặp một nhóm người bồng bế nhau đi ngược trở ra.Tôi hỏi ngay một người đàn ông, dáng bơ phờ,tay nách một em bé gái chừng 2 tuổi đang dãy dụa khóc: -Không thấy tàu hay sao mà trở ra? -Có một chiếc nhưng đông nghẹt. Chỉ có nước dẫm lên nhau mà chết. Kinh nghiệm ở Đà Nẵng một lần rồi. Sợ lắm! Chúng tôi đi về đây. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau.Nhưng tất cả lòng muốn đi mạnh hơn ý muốn ở lại hiện rỏ trong các ánh mắt.Chúng tôi cứ đi lần theo theo hướng của những người đang lẻ tẻ đi ngược trở ra. Đến cuối đường chúng tôi thấy một con tàu lớn với hàng trăm người đang chen lấn trên bờ.Tôi lo thầm trong bụng: đông thế này làm sao lên liền cho được. Nếu tàu nhổ neo ngay thì mình còn xa cả mấy chục thước! Tôi nói với mọi người trong nhóm: -Mỗi gia đình lo lấy cho nhau. Ai lên trước được sẽ giúp người sau. Coi chừng trẻ con khi lên tàu. Trên không hai chiếc phản lực vẫn vần vũ. Từng đoàn trực thăng chốc chốc lại bay qua đầu chúng tôi. Sài Gòn bây giờ là một vùng tiếng động khốc liệt. Tôi đã từng hồi hộp trong vài cuộc đổ quân gặp sự chống trả của địch, nhưng hôm nay trong tiếng gầm thét của hai chiếc phản lực nhào lộn, tiếng tình tịch của cánh quạt trực thăng, tôi không mang tâm trạng căng thẳng của cuộc đổ quân, mà là một tâm trạng rã rời, uất ức, cô đơn đến ghê rợn, của một cuộc tháo chạy, tháo chạy ngay từ thủ đô của đất nước mình, để dấn thân vào một vùng đất lạ nào tôi chưa được rõ. Chúng tôi nhích từng chút về hướng chiếc tàu. Khoảng cách còn chừng 5 thước. Số người thối chí bỏ ra về khá nhiều cho tôi hy vọng có thể lên được tàu trước khi tàu rời bến.Tôi ẵm đứa con trai đầu lòng, bé Ngọc, mới 3 tháng, trong vòng tay phải; cái túi xách đeo ở vai phải; tay trái tôi sẽ dùng để nắm dây bước lên tàu. Hai cái xách còn lại, vợ tôi, một cái đeo vai, một cái cầm ở tay phải. Vợ tôi bám sát lưng tôi.Tàu đậu cách bến chừng một thước. Một thanh gỗ vuông rộng chừng hai mươi phân được bắc ngang làm cầu. Một sợi dây thừng, to bằng ngón chân cái, được căng từ lan can tàu xuống cái khoen sắt để buộc dây tàu nằm trên bờ. Chiếc cầu khỉ ngắn ngủn này là nơi tôi chứng kiến một thảm cảnh: Khi tôi men lại được gần thanh gỗ, thì trước tôi, một người đàn bà, vai mang một một em bé gái nhỏ trên lưng, tay phải dẫn một đứa bé trai chừng bốn, năm tuổi bước lên thanh gỗ. Nói là đi nhưng thật ra chúng tôi bị khối người phía sau đẩy tới. Lúc đứa bé nắm tay mẹ tiến lên thì trên tàu bỗng dưng có một người đàn ông chen lấn đi ngược xuống. Thanh gỗ nhầy nhụa bùn đất trở nên trơn trượt. Thằng bé, không biết hụt chân hay trượt chân, vuột khỏi tay mẹ nó, rơi tõm xuống sông. Nó chìm nghỉm. Tiếng bà mẹ thất thanh: -Cứu con tôi với! Cứu con tôi với! Không một ai đáp ứng lời kêu cứu. Tôi nghe lạnh cả người, mồ hôi toát ra đầy trán. Tay phải tôi siết chặt bé Ngọc, nó dãy lên khóc vì nghẹt thở. Tôi biết lúc này không cẩn thận là ngã xuống sông tức khắc. Người đàn bà không chịu bước, nhìn xuống mặt sông, tiếp tục la cầu cứu. Tôi hét lớn: -Đi lên tàu rồi tính! Cứ đứng lại, bị đàng sau dồn, rớt xuống sông chết cả đám bây giờ! Tôi tiến sát người đàn bà, dung đầu gối phải thúc bà đi tới. Tôi bước lên được tàu. Người đàn bà,hai tay nắm chặt lan can tàu, nhìn xuống mặt sông khóc thảm thiết. Tôi nới tay siết bé Ngọc, nó thở được, nín khóc. Sờ nắn xương sườn nó, thấy nguyên vẹn, tôi yên tâm. Cả nhóm chúng tôi lên tàu an toàn. Khoảng 7 giờ tối thì dứt tiếng phản lực lẫn tiếng trực thăng. Yên lặng và bóng tối mờ mờ bao trùm cảnh vật. Đến 9 giờ tối, tàu không còn ai lên nữa.Tôi thấy thương cho người đàn bà có đứa con rớt xuống sông ban nãy. Giá biết đến giờ này tàu vẫn chưa đi hà tất phải chen lấn nhau và đứa bé khỏi mất mạng một cách thê thảm. Một nguồn tin truyền miệng đến tai tôi rằng tàu này hư máy có thể không đi được làm cả nhóm lo lắng. Tôi len lỏi trong đám đông kiếm các sĩ quan hải quân hỏi tin tức. Tôi gặp hai người: trung tá Minh, chồng của nhà văn Điệp Mỹ Linh, và trung úy Lý, sĩ quan cơ khí, anh của dược sĩ Vỹ, trước đây cũng ở Dù với tôi. Minh cho tôi hay anh nghe Bộ Tư Lệnh Hải Quân có tổ chức một đoàn tàu đi sang Phi Luật Tân, nhưng anh không biết chiếc này có nằm trong đoàn tàu ấy hay không. Lý cho tôi biết tin đích xác hơn về con tàu: Tàu đang ở thời tu chỉnh đại kỳ, nhưng ông hạm trưởng, thiếu tá Tánh, trong thời gian qua có đốc thúc sửa chữa. Giờ này đang ráp máy thứ nhất. Tàu sẽ chạy một máy. Lý nói thêm: -Tôi đang phụ sức vào đây. Tàu sẽ chạy rất chậm vì chạy có một máy và vì người quá đông. Hy vọng 12 giờ đêm máy sẽ ráp xong. Tàu rời hải quân công xưởng lúc 1 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4. Gặp lại trung úy Lý, mồ hôi nhễ nhại nhưng nụ cười thỏa mãn: -Ráp máy xong tôi sợ nó trục trặc không chạy thì khốn. Mình đi trên sông Lòng Tảo. Hải trình này an ninh hơn nhưng ngại ở điểm lòng sông có chỗ cạn. Mắc cạn là nằm chịu chết vì tàu một máy lại chở quá nặng nên không cách gì lui được. Khoảng trưa mai mình sẽ ra tới Vũng Tàu. Đúng 2 giờ sáng địch tấn công Nhà Bè. Những bồn xăng trúng đạn bốc cháy dữ dội. Giờ hấp hối của Sài Gòn bắt đầu. Tôi thương vô hạn những người lính Cộng Hòa giờ này còn ở vị trí chiến đấu.Chống trả mà biết là vô vọng thì đau khổ dường nào! Tôi úp mặt khóc một mình. Bao nhiêu năm chiến đấu để rồi vào giờ phút này mới biết số phận đất nước mình chỉ là số phận một con tốt thí trên bàn cờ quốc tế! 13 năm sau, cũng ngày 30 tháng 4 này, khoảng 5 giờ chiều, tôi đang ngồi trực ở phòng lái của chiếc tàu Mary’S Kingstown được hội Y Sĩ Thế Giới gởi đi vớt thuyền nhân, thì thuyền trưởng Francois, tay cầm ống nhòm, leo lên đứng cạnh tôi. Tàu đang chạy sát lằn ranh hải phận Việt Nam. Ông đưa ống nhòm lên quan sát một lúc rồi nói với tôi: -Ông hướng ống nhòm về hướng tôi chỉ, nhìn cho kỹ, sẽ thấy Côn Đảo. Tôi hướng ống nhòm về phía bờ biển Việt Nam, điều chỉnh cho hình ảnh thật rõ thì quả thật thấy Côn Đảo hiện ra mờ mờ như bóng mây. Tôi nghe lòng mình xôn xao. Hình ảnh con tàu năm nào đã đưa tôi rời khỏi nước lại hiện trở về. Con tàu đã đi thâu đêm trên sông Lòng Tảo, xa dần Sài Gòn đang bị địch siết chặt vòng vây. Tôi đã thầm cầu nguyện tàu đừng hỏng máy bất chừng, đừng mắc cạn và nhất là đừng gặp địch. 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, qua máy thu thanh trên tàu, chúng tôi bàng hoàng nghe tướng Dương Văn Minh đọc lời kêu gọi buông súng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn ra rả không ngừng. Nghe bài hát tôi không thấy vòng tay mình lớn ra mà chỉ nghe tim mình thắt lại. Cái hy vọng mong manh về một chính phủ liên hiệp, sau lời kêu gọi của tướng Dương Văn Minh, bây giờ với tất cả mọi người thật sự là mây khói. Riêng chúng tôi, những người trên tàu, còn một hy vọng: thoát ra khỏi nước. 2 giờ chiều, tàu ra đến cửa biển Vũng Tàu. Mọi người vừa mừng vừa hội hộp.Bờ biển Vũng Tàu bây giờ như một cảnh chợ chiều.Cả trăm chiếc thuyền, ghe lớn ghe nhỏ lêu bêu đầy mặt nước. Có chiếc ghe gắn máy đuôi tôm, không người lái, cứ lạch tạch chạy vòng vòng trên biển như chiếc ghe ma. Tàu tiếp tục chạy. 4 giờ chiều tàu ra tới hải phận quốc tế. Mọi người trên tàu vỗ tay mừng thoát nạn. Câu hỏi được đặt ra là bây giờ đi đâu? Ý định ban đầu của hạm trưởng Tánh là đi Tân Gia Ba. Nhưng với tình trạng tàu chạy một máy hiện nay cộng với cả ngàn người trên tàu, thực phẩm và nước ngọt ít oi thì không thể nào thực hiện cuộc vượt trùng dương được.Trung tá Minh nói: -Họp ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân tôi nghe tin có một đoàn tàu hải quân sẽ đến một điển hẹn ở ngoài khơi Côn Đảo. Ở đó sẽ có hải quân Hoa Kỳ hộ tống đoàn tàu Việt Nam qua Phi Luật Tân. Đoàn tàu của hải quân Việt Nam sẽ được giao lại cho hải quân Hoa Kỳ. Tàu hướng về Côn Đảo với vận tốc 4 hải lý một giờ. Trên đoạn đường ra Côn Đảo tôi chứng kiến thêm một cái chết thứ hai: Cái chết của phi công lái chiếc phi cơ trinh sát. Anh liên lạc với tàu cho biết trên phi cơ có hai người. Tàu cho biết trên tàu có một toán người nhái sẵn sàng vớt họ sau khi nhảy ra khỏi phi cơ. Phi công cho biết phi cơ sẽ hạ thấp vòng đầu cho người hạ sĩ quan cơ khí nhảy, vòng thứ nhì anh sẽ nhảy. Vòng đầu máy bay bay rất thấp, là là mặt nước. Một người nhảy ra.Muơi giây sau một cái đầu nhoi lên khỏi mặt nước. Chúng tôi trên tàu vỗ tay reo hò. Hai người nhái phóng xuống biển vớt anh lên một cách thông thạo. Ở vòng nhì máy bay không hạ thấp như lần trước. Khi máy bay ở thế song song với tàu người phi công nhảy ra. Anh không rơi thẳng mà rơi lộn vòng. Mọi người im lặng chờ đợi. Một số người la hoảng: -Trồi đầu lên! Trồi đầu lên! Mặt biển vẫn im lìm. Tôi nghĩ người phi công đã bất tỉnh sau khi va chạm mạnh vào mặt nước. Cái chết ở thời điểm này được chứng kiến không nước mắt và được quên đi rất nhanh. Trưa ngày 1 tháng 5 tàu ra đến Côn Đảo. Nhìn lên đảo thấy người đứng lố nhố và cờ đỏ sao vàng trên đỉnh cột cờ . Tàu chạy thẳng ra khơi. Khoảng 4 giờ chiều, những tiếng la gần như đồng loạt vang lên trên tàu: -Hạm đội Mỹ! Hạm đội Mỹ! Tin của trung tá Minh chính xác. Đoàn tàu chiến Mỹ, trắng xóa, trải kín cả chân trời. Tàu đánh điện xin tiếp tế lương thực, nước uống và thuốc men. Trên tàu lúc bây giờ đếm ra có 10 bác sĩ. Chúng tôi họp nhau thẩm định tình trạng sức khỏe của đồng bào. Tiêu chảy và viêm mắt khá nhiều. Một người đàn bà mang thai đến ngày sinh cần chuyển gấp sang tàu Mỹ. Chúng tôi cũng cần sữa cho trẻ con. Tôi được giao phó báo cáo tình trạng sức khoẻ và nhu cầu thuốc men. Tàu tiến dần về một khu trục hạm rồi tắt máy nằm song song với chiếc tàu Mỹ. Thủy thủ, sĩ quan Mỹ đứng kín cả boong tàu nhìn chúng tôi. Họ cười với chúng tôi; chúng tôi cười với họ. Tôi cố tìm mà không hiểu nỗi nghĩa nụ cười của đôi bên. Tôi nghe có chút gì cay đắng trong lòng. Tôi không biết phải coi họ là gì của mình bây giờ? Những người bạn đồng mình hôm qua! Đúng rồi hôm qua, hôm qua ! Sáng hôm sau mười mấy chiếc tàu của hải quân Việt Nam được sắp lại thành đoàn. Chiếc tàu của chúng tôi vì đông người, vì chạy có một máy, nên được một chiếc tàu khác của hải quân Việt Nam cột giây kéo cho đi nhanh thêm và được ưu tiên sắp đi đầu. Theo lục lệ của hải quân, hai chiếc phản lực, cất cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó, lượn mấy vòng, rồi đoàn tàu bắt đầu di chuyển đi Subic Base của Phi Luật Tân. Sau 13 ngày trên biển, tàu đến hải cảng Subic Base của Phi Luật Tân. Có lệnh phải hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống trước khi cập bến vì Phi Luật Tân đã thừa nhận thể chế mới ở Việt Nam. Chúng tôi làm lễ hạ cờ và hát quốc ca. Có lẽ đây là buổi chào hạ cờ duy nhất mà mọi người hiện diện, già trẻ, lớn bé, dân sự lẫn quân sự, đều nước mắt chan hòa. Tôi có làm một bài thơ chỉ có 4 câu:Tôi đứng trên boong tàu/ Chào quê hương lần cuối/ Nước mắt bỗng tuôn dâng/ Khi màu cờ hạ xuống. Chúng tôi được chuyển từ chiếc HQ 400 sang một chiếc tàu buôn của Mỹ. Đi thêm 2 ngày thì tới đảo Guam. Tối hôm đó tôi ngồi thao thức rất khuya trước lều. Tôi nghĩ đến những ngày sắp tới. Tôi thấy mình đang trắng tay. Gia tài còn lại là 20 mỹ kim, đổi được từ tháng lương cuối cùng trước khi rời nước. Bây giờ làm thân tị nạn, tôi sẽ phải đi đâu, xin định cư xứ nào? Xin đi Pháp thì có thể tôi sẽ dễ dàng lấy lại bằng hành nghề nhưng nghe nói đời sống kinh tế bên đó khó khăn. Ở Canada nghe có tỉnh bang Québec nơi đó người ta nói cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh, khí hậu lạnh nhưng đời sống dễ chịu. Lúc đó tôi không hề nghĩ đến chọn nước Mỹ. Không biết có phải vì vốn liếng Anh ngữ của tôi không dồi dào bằng vốn liếng Pháp ngữ hay còn có một lý do thầm kín nào khác thì tôi không rõ. Chẳng biết câu châm ngôn thời đi Hướng Đạo:’’ Hướng đạo sinh vui tươi trong lúc khó khăn’’ có giúp tôi giữ được vui tươi trong những lúc khó khăn hay không , nhưng câu châm ngôn ngắn gọn mà giản dị của thời đội Mũ Đỏ:’’ Nhảy Dù! Cố Gắng!’’quả thật đã giúp tôi rất nhiều. Cố gắng bình tỉnh, cố gắng nhẫn nại, cố gắng hy vọng. Tôi đã cố gắng bình tỉnh trả lời ông sở di trú ở đảo Guam khi tôi đến xin định cư ở Québec, Canada. Ông nhìn hồ sơ của tôi rồi nói: -Đất nước chúng tôi không ưu tiên cho thành phần ở trong Quân Đội. Tôi nhớ tôi đã trả lời ông: – Tôi ở một nước đang có chiến tranh, ngoại trừ trẻ em và người cao niên, đàn ông thuộc thành phần còn lại đều phải ở trong quân ngũ. Ông ta bồi thêm câu thứ hai: -Tỉnh bang Québec hiện đang thừa bác sĩ. Rất có thể qua đó ông không hành nghề trở lại được. Tôi cũng đã bình tỉnh trả lời: -Tôi sẽ hết sức cố gắng để trở lại nghề. Nhưng nếu không được ít ra tôi và gia đình tôi cũng được sống trong một xứ có tự do. Bốn ngày sau gia đình tôi cùng với khoảng 200 tị nạn người Việt đầu tiên được bốc từ đảo Guam sang thành phố Montréal của tỉnh bang Québec. Sau hai tuần nhận được trợ cấp, tôi được ông di trú thúc đi kiếm việc làm. Tôi được giới thiệu đi làm bán thời gian ở một bệnh viện tâm thần. Tôi làm ca đêm, thuộc ‘’équipe volante’’, trại nào thiếu người tôi được gởi đến. Tuy chức vụ chỉ là phụ y công, với đồng luơng cao hơn đồng lương tối thiểu 40 xu, tôi cũng phải qua một khóa huấn luyện một tuần để biết cách làm giường, cách thay quần áo cho bệnh nhân,cách đỡ bệnh nhân ngồi dậy v..v.. Nếu có những ca đêm rơi đúng vào các trại bệnh nhân ổn định, gặp các bà y công tốt bụng, biết tôi là bác sĩ tị nạn chưa hành nghề lại được, họ làm hết mọi việc, tôi chỉ ngồi ôm sách học. Nhưng nếu ca đêm nào rơi đúng vào trại bệnh tâm thần nặng, tôi phải ngồi canh ở một chiếc ghế đặt giữa hành lang, dưới ánh đèn mờ mờ. Bệnh nhân ở trại này mỗi người được giữ trong một phòng riêng, có khóa bên ngoài.Trong phòng không có vật dụng nào ngoài cái bô vệ sinh. Cái giường ngủ cũng làm bằng xi măng. Tôi không rõ họ được nuôi ăn như thế nào. Làm ca đêm ở trại này tôi không những không học được mà còn hầu như không ngủ được vì những tiếng hú, tiếng hét chốc chốc lại vang lên trong đêm khuya. Một kỷ niệm từng khiến tôi ‘’lạnh người’’ làm tôi nhớ mãi. Ở trại này, buổi sáng trước khi chấm dứt ca trực của mình, người y công chính giao tôi nhiệm vụ mở khóa phòng từng bệnh nhân, lấy cái bô vệ sinh của họ đem đi đổ. Một buổi sáng, mở khóa cửa phòng của một bệnh nhân, bước vào trong tôi không thấy anh ta đâu. Tôi hết hồn vì nếu bệnh nhân đã thoát ra khỏi phòng thì tôi sẽ gặp rắc rối. -Bonjour! Tôi giật mình quay người lại thì thấy người vừa chào tôi, trần truồng như nhộng, lông lá đầy mình, đứng núp sau cánh cửa, hai tay chéo nhau như cố che kín hạ bộ của mình, nhìn tôi với cặp mắt dò xét.Tôi vội vàng khom người với tay kéo cái bô vệ sinh, mắt vẫn không rời người bệnh kèm thêm một nụ cười cầu thân. Xong, tôi rút nhanh ra khỏi phòng và khóa cửa. Tôi đã sống với nghề phụ y công trong 10 tháng. Cho đến khi thi đậu nội trú.Y Sĩ Đoàn Québec vào đầu năm 1976 mở một khóa huấn luyện 3 tháng nói là để trình bày về nền y khoa ở Québec cho nhóm bác sĩ Việt Nam , lúc đó có khoảng 80 người. Sau khóa huấn luyện, Y Sĩ Đoàn Québec mở một khoa thi đặc biệt dành cho các bác sĩ Việt Nam. Có 40 người được chấm đậu. Tôi may mắn có tên trong số người này. Tiếp đó Y Sĩ Đoàn Québec thông báo 4 Đại Học Y Khoa ở Québec cho biết chỗ nội trú dành cho các bác sĩ Việt Nam niên khóa 1976-1977 là 20 chỗ. Tôi lại may mắn có tên trong số người được chọn. Tôi được gởi đi làm nội trú cùng 3 bác sĩ Việt Nam khác ở Đại Học Y Khoa Sherbrooke, cách Montréal chừng 100 câysố. Tại đây có thêm 5 bác sĩ ngoại quốc, 4 ở Nam Mỹ, 1 ở Bắc Phi, sang tu nghiệp vừa nội trú vừa thường trú. Chúng tôi họp thành một nhóm mà chúng tôi gọi đùa là ‘’ Peloton des Légionnaires’’ ( Tiểu Đội Lê Dương ). Nội trú người bản xứ được thi lấy bằng hành nghề vào năm thứ tư. Vì thế khi làm nội trú họ không phải lo thi cử gì cả. Các nội trú hay thường trú gốc Nam Mỹ hay Bắc Phi họ cũng thi lấy bằng hành nghề. Nhưng đậu thì cũng tốt, không đậu cũng chẳng sao. Đằng nào trước khi trở về nước họ cũng được cấp chứng chỉ đã tu nghiệp ở Canada. Riêng với nhóm nội trú Việt Nam thì chuyện thi lấy bằng hành nghề là một vấn đề sinh tử. Cho nên ngoài trực gác, chăm sóc bệnh nhân, phụ mổ, chúng tôi còn phải lo học thi. Đêm nào tôi cũng phải thức đến một hai giờ sáng để học. Và may mắn đã đến cho 3 trong 4 nội trú Việt Nam chúng tôi năm đó. Kể từ tháng 9 năm 1977 tôi chính thức trở lại nghề trên quê hương thứ hai của mình. Mới đó mà đã gần nửa thế kỷ xa quê hương! Chừng nào tôi mới về thăm? Có lẽ phải chờ cái ngày mà miền Bắc chân thật nhìn nhận, vào thời điểm 30 tháng tư năm 1975, họ cũng chỉ là một con tốt trên bàn cờ quốc tế, chỉ khác hơn miền Nam một chút, họ được chọn làm con tốt sang sông, thế thôi. TRANG CHÂU
Tối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối Máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản Bắc Việt quản lý. Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen chúc lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm nghiêng. Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghĩ ngơi, thoải mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẩm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận. đấu tố. Thể chất mệt mỏi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng. Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị qụy, chỗ kín bị ra máu, không được chữa trị hoặc thuốc men. Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do :”tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ”(nguyên văn).Về đến nhà thì ba mẹ và các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn nhà cũ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ . Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tỉnh dậy tôi trở về tâm trạng cũ, May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ cũ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi luỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bế cháu tìm đường về Sa Đéc.Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót xa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã quỵ. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.Sáng hôm ấy, đang cho con bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ. chạy về phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiểm soát tâm trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ…Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy: – Các đồng chí vào vị trí sẳn sàng tác chiến.Sau đó tiếng quát ra lịnh: – Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ đuợc cách mạng khoan hồng !Tiếp theo là hai tên có võ trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về… Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “ dàn chào bảo vệ” của chúng. Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại Sài Gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ. Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào dây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ cũ, tôn giáo, đảng phái chính trị… đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp. vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió mang theo hơi nóng làm rát da. Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ con tôi đuợc nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nuớc triều cường mới có chút ít nước từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thoát ra, vì thế nuớc có màu đen của dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phảng phất, đó cũng là mần mống bịnh hoạn.Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày đuợc lưng chén nuớc cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với dòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho họ.Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!Ngoài cái đói triền miên hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng cũ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số phận làm người trong xã hội “thiên đường”cộng sản.Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc phạm.Do thiếu thốn vật chất, tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ người thân – tôi mõi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu. Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mủ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra. Tôi lo quá, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dửng dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẩm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!”. Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẻ nhờ thế mà hôm sau, ngày 30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi sống héo hắt, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài Gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thoát được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản”. Tôi nguyện cầu cho bà sớm đuợc về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót xa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không đuợc có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi được thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới đuợc thả về. Giây phút đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù cường quyền địa phuơng ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán dạo… gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp đuợc người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thưở anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đỡ. Chị trở thành người mẹ thứ hai của chồng tôi,Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạo tàn khắc nghiệt cộng sản, lòng bùi ngùi thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất hạnh của quê huơng, xin được khóc những dòng lệ cho những oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống chế.Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, Con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì sự an toàn và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công lý và tự do trên quê huơng tôi.Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa chúng từ nơi tối tăm bi thảm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẩm con người.Xin cám ơn những ân nhân, vì tình nhân ái, vì nghĩa đồng bào mà điển hình là hội Gia Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.Học theo Quý vị, chúng tôi nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi. Chúng tôi giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn vong của Dân tộc. Thiết nghĩ dó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực nhất.Việt Nam là dân tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn. Đó là lời cuối cùng của dòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.Little Sài Gòn, ngày Truyền thống CSQG/VNCH –Cựu Thiếu-Úy CSQG LÊ THỊ XUÂN.
Trước khi làm bản tự khai, tên Quản Giáo ngồi một chân để thõng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thuốc. Vài đám du kích mặt non choẹt mang vũ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường Trung Học. Hắn từ từ đứng lên nói: “Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nấm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đánh phá Cách Mạng là tội chết, nhưng nhờ lượng khoan hồng của Nhà Nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của Nhà Nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh….”. Hắn nói tràng giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: “Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó…” Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.
Trong bản tự khai gã ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong Ban Quản Giáo Trại Tù đọc tờ khai của gã và bắt gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như cũ. Tư Cần gọi gã lên la lối:
– Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn riêng anh cứ còn dấu giếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết không? Gã thản nhiên trả lời:
– Thưa anh, tôi đã khai đủ.
– Anh không có thân nhân họ hàng?
– Dạ đúng.
– Ai sinh anh ra anh, anh không biết nữa hả!
– Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:
– Còn hoạt động đánh phá Cách Mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!
Gã nhỏ nhẹ:
– Dạ đủ lắm rồi Cán Bộ. Cán Bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà Cán Bộ có….
Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa gã miếng giấy trắng khác và nói: “Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh hiểu chưa???”. Gã mang giấy về và vẫn khai y như cũ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chỗ nằm. Anh em trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt hai tuần ở trong phòng tối, gã ăn, ỉa tại chỗ. Với mỗi ngày một lon nước trong phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mỉm nói: “Tôi con bà phước làm gì có ai gởi”. Gã ít khi quan tâm đến sinh hoạt trong phòng, ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm sự với ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước đong. Anh em thấy vậy nên chia sẻ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẳng có ai thăm nuôi, nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới hạn nào đó. Riêng về Ban Quản Giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối ra. Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh Chương Thiện bị đốt hết. Họ cứ dằn mặt: “Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian!”. Thế nhưng cho đến khi chuyển trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết có bấy nhiêu mà chẳng thấy họ hạch hỏi gì thêm.
Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thếch. Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẫn mồ côi như cũ. Gã tự đi “Cải hoạt” với cái bẫy chuột tự sáng chế. Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ dáy nên lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu, lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẫy chuột. Nhiều đêm cái bẫy sập đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát giác khi bẫy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẫy được chuột, chuột giẩy dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mổ bụng chuột xong, gã cười khà khà: “Ê bắt được chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm”. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc bỏ vào miệng ăn ngon lành, mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói. Chẳng ai cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: “Tay nầy đúng là một tên khật khùng…!” Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:
– Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn chuột dơ bẩn như thế?
Gã cười cười trả lời:
– Thưa cán bộ thêm thịt…
– Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?
– Dạ không có.
– Cá nục…rau cải, nước mắm đấy.
– Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.
– Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?
– Dạ ăn để sống mà cán bộ.
– Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?
Gã cúi đầu ngưng nói. Tên cán bộ tức khí:
– Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh quay đầu đi ra khỏi phòng.
Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh, nơi mật khu cũ của mặt trận trá hình “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” dựng trại, phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10 người ngủ trong lều nylon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa căng lều lại. Gã vẫn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:
– Ngủ quên mà, sao không kêu tui.
Ít lâu sau gã xin được một miếng nylon nhỏ che đủ một bên gần kế lều chung, để khi mưa gió, khỏi lo anh em càu nhàu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với cơn ngáy đều đều!!!
Trong lao động hằng ngày hễ gã đi chung với nhóm nào là các bạn trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo. Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn, nặng nhẹ, gã cười trừ: “Làm gì mà dữ vậy ông?”. Gã luôn từ tốn, hề hà không giận ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẳng ai ghét gã được…?
Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10 người của ai nấy lo. Cây đốn xong, dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thõng, còn gã thì chả cần miễn có ba cây là được. Gã thả rề rề dưới nước và luôn luôn là người về rất trễ. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chỗ tập trung. Có một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giữ cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chị kêu gã lên xuồng ngồi, be bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xước, máu chảy ướt đẫm, gã xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: “Em giúp anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại”. Chị bảo: “chờ em một chút, em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh”. Chị chống sào giữ xuồng, lên bờ đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vải. Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chỗ bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gỗ về điểm tập trung. Hôm nay gã là người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: “Sao hôm nay tài quá vậy?”. Gã cười mỉm không trả lời.
Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muỗi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hình, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường 30 tháng Tư được thành lập.Tin tức chuyển trai đi nơi khác được anh em rỉ tay nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tụ với gia đình. Anh em trong nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:
– Cho tôi ở lại được không cán bộ…?
– Không được, có lệnh là phải rời trại.
Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lũi về láng. Anh em trong nhóm ngạc nhiên hỏi:
– Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im lặng vấn thuốc hút…
Đó là cuối năm 1980.
Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại để làm lễ và lãnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo cho thân nhân vợ con vào ký vào giấy bảo lãnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẳng có ai. Ban Chỉ Huy Trại hỏi anh, anh nói: “Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi không còn ai là thân nhân”. Cuối cùng Ban Chỉ Huy Trại cấp cho gã một công rừng ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được Cán Bộ Trại chỉ cho gã miếng đất được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị Y Tá băng vết thương ở tay, chỉ cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùng khốn nầy. Nhưng người vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.
Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cảm giác nôn nao truyền khắp cơ thể khiến Lượm mơ màng một điều gì đó không rõ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp tới nàng sẽ còn được gặp gã.
Cuộc đời nàng rất hẩm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào nàng được cái cảm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được nhào nặn hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào. Trình độ thì chỉ nhá nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới đám dứa gai. Cái hầm chật ních hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai cơ thể cứ như ran ran truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rã một thứ gì đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một cái ực vào. Thằng bạn thấy nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồn xuống thấp và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẫn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm im, một lúc Lượm nghe gió thổi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…Nàng tê dại và cảm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một góc ngủ say.
Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xã, tới xã đội trưởng. Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm đó. Họ tạo điều kiện đề gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẵn sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với Lượm. Các anh nói: “Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác”. Lượm tin như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nỗi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi họp kiểm điểm nàng: “Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ Cách Mạng”. Anh nhấn mạnh: “Phụ nữ Cách Mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngũ, chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ…”. Vợ của Tư Hồng là Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Cách Mạng, sau khi kiểm điểm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan Y Tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.
Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác. Nàng được nằm tại bệnh xá huyện và chuyển đi học Y Tá vài tháng thì ngày 30 tháng Tư đến.
Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không có một chút tình cảm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cải tạo làm lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dửng dưng chẳng nhìn nàng như mấy lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tới với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ. Lượm thường đứng nhìn gã kéo gỗ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẳng có ai thăm nuôi. Nàng đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.
Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm nói thầm: “Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh …cứ lơ lơ chẳng để ý gì hết ráo…”
Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẽ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: “Cái anh nầy đi đâu, tối mò mà chưa zdìa để nhà tối om?”. Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho nên nàng hay chăm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy gã ở trần trùng trục phơi cái lưng vạm vỡ với màu da trắng muốt. Nàng thấy nôn nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng ran. Luợm ước gì được nằm sát với gã. Khi ấy nàng nhắm mắt mơ màng nghĩ đến một dòng ái ân tràn ngập trong đầu… Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót. Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẳng thấy ai bên trong. Lượm đi vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gã vừa mới ở dưới mương nước bước lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng chập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra phía trước gọi: “Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy?”. Gã nghe nàng gọi thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: “Có tôi…chờ chút nha ?”. Vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:
– Có gì hông cô Lượm?
– Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh zdìa chưa?
– Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.
Nàng vờ như không biết gì và nói: “Dzậy mà em tưởng anh đi đâu?”. Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà trống trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã nói: “Cô ngồi lên giường đỡ”. Lượm ngồi lên mép giường nhìn quanh quất căn nhà rồi nói: “Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh cần món gì cho em biết”. Gã đứng xớ rớ một góc nhà nói: “Chưa biết cần gì nữa cô ơi?”. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: “Nhà thiếu đàn bà có khác” và cảm thương cho gã một cách chân thành. Lượm hỏi:
– Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.
– Tui quen rồi cô.
– Em muốn lo cho anh…lo hoài hoài được hôn?
Gã xua tay:
– Không được đâu. Cô là Cán Bộ, tôi là tên tù mới được thả ra…nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo lắng và sự giúp đỡ của của cô.
Lượm trân trân nhìn gã và nói:
– Anh…! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á! Em là một người con gái…không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở vùng nầy đều biết các anh là ai…là những người tử tế chứ không như những điều bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh… Dường như có một cơn sục sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: “Em thương anh!”. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cảm xúc… gã vội tỉnh trí đưa hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: “Không được đâu…cô về đi…! Không được đâu….!”. Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau … Cánh đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước úp vào mặt.
Vào một buổi trưa ngày.. tháng …năm 1984 một chiếc võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T…. ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi, lòng tự hỏi: Ai dzậy kìa???
Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh xá nhìn sang đấy, thấy gã chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ thì kêu ba ơi ba…! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để… Tất cả gia đình gã di tản sang sống ở Mỹ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở Sài Gòn có chồng bị tù ở vùng U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn chiếc võ lãi vào rước gã về. Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: “Trời ơi! vợ con của ảnh!!!”
Chiều đó chiếc võ lãi quay mũi chạy ra khỏi nông trường, đi ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: “Anh có nhiều kỷ niệm với cái trạm xá nầy”. Người thiếu phụ nói: “Vậy hả…?” Chiếc võ lãi chạy khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi đau xót tận cùng buồn bã. “Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi…!”. Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẽ.
Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm Y Tá cho một bệnh xá ở huyện…Một hôm nàng nhận được một món quà từ Bưu Điện. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần năm nào gởi từ Mỹ về.
Cali..ngày… tháng….năm…..
Lượm thương mến,
Tôi hiểu rõ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự giúp đỡ của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30 tháng tư năm 1975. Gia đình tôi lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về cùng di tản ra hạm đội Mỹ, nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng tôi được lệnh tử thủ của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng…và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận. Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó. Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát hơn vị Đại Tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận…và cuối cùng tôi gặp lại vợ con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc sống và xin cám ơn em đã tận tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận. Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của tôi.
Thương mến,
Lê văn T…
Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều. Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu…?
Tôi không có đi di tản hồi những ngày cuối tháng tư 1975 nên không biết cảnh di tản ở Sài gòn ra làm sao. Mãi đến sau nầy, khi đã định cư ở Pháp, nhờ xem truyền hình mới biết ! Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia xẻ…
Chuyện 1
Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên bong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang !
Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ : bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn
trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp.
Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc : bà già đó sợ gì mà phải đi di tản ? con cháu bà đâu mà để bà đi một mình ? rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao ? còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu ?… Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…
Chuyện 2
Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phíamáy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh !
Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…
Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà : cái nón lá ! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng. Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương…
.
Chuyện 3
Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm ! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ – chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ
mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quang của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy – người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn.
Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầybồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…
Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội.
Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió ! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….
Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm !
Chuyện 4
Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết ! Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dâyđong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay
ra dấu như muốn nói : « Đi, đi ! Đi, đi ! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất ! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia… Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt !
Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi — ở đâu ? Cha con nó có gặp lại nhau không ? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy…
ĩnh Chánh là một Bác sĩ Nhảy Dù. Năm 2019 ông xuất bản một cuốn sách, nhan đề là Tháng Ngày Tao Loạn.
Tên cuốn sách đưa người đọc đến ngay cảnh: “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi”.
Nhưng những nỗi truân chuyên trong cuộc chiến Việt Nam không giới hạn trong giới má hồng, mà trùm khắp lên cả nam lẫn nữ, từ đứa trẻ lên đến người già, và đủ mọi thành phần.
Điểm son đầu tiên và cũng lớn nhất trong cuốn sách là:
Khi nói đến thảm họa 30/4/1975, tác giả luôn luôn dùng chữ “mất nước”, chứ không bao giờ dùng chữ giải phóng của bọn Bắc kỳ Việt cộng. Chỉ cần viết hai chữ thôi, lập trường của Bác sĩ Vĩnh Chánh đã hiển nhiên.
I. Vĩnh Chánh rất thẳng tính. Vị Bác sĩ này ngoan đạo, nhưng không ngần ngại khi thú nhận rằng đã có những ao ước thầm kín được quỳ bên nàng trong nhà thờ khi cầu nguyện và nhất là để được nắm tay nàng khi chúc nhau bình an. Sự ao ước được tiếp xúc thân cận, bắt đầu bằng cách được nắm tay là hiện tượng rất phổ thông trong lòng những người con trai mới lớn thời đó. Điều này khác hẳn với cách sống của xã hội âu tây ngày nay.
“Trong vài năm trước khi mất nước, có mấy nhà thờ tân tiến như nhà thờ ở Trung Tâm Đắc Lộ tại Sài Gòn người vào đi lễ có thể đứng ngồi ở bất cứ chỗ nào trống chứ không nhất thiết phải ở dãy thuộc về nữ hay nam. Điều này khiến tôi thầm tiếc đã không xảy ra khi còn ở Huế, tôi đã không có cơ hội được quỳ gần Nàng trong nhà thờ, cùng cầu nguyện đọc kinh bên cạnh nhau, nghe Nàng hát thánh ca, và… để được nắm tay Nàng khi chúc nhau bình an.”
Ông cũng không trù trừ gì, khi cần vẫn lôi tên những linh mục làm lợi cho Việt cộng ra:
“Không ngờ chỉ sau mấy tháng tạm yên tĩnh, cộng sản leo thang dấy lại cuộc binh đao, quyết tâm dồn mọi sức lực tấn công Miền Nam trong tư thế thượng phong với toàn bộ vẫn nằm ém tại Miền Nam, chiếm đất giành dân, lợi dụng thể chế tự do dân chủ của Miền Nam để xúi giục các thành phần thứ Ba biểu tình, các nhóm dân biểu đối lập liên tục gây áp lực đả phá chính quyền, các linh mục ‘tiến bộ’ như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cẩn, Phan Khắc Từ… công khai gián tiếp nối giáo cho giặc. Cuộc chiến dần xoay chiều có vẻ bất lợi cho phía phe ta.”
Bác sĩ Chánh nói hết ra những liên hệ họ hàng, hay bạn bè với những người của cả hai phía quốc gia và cộng sản.
– Phía quốc gia:
“Anh em nhà Ngô Đình kêu Bà Nội tôi bằng Dì, thường cho người đem quà biếu trong các dịp lễ tết.”
Kể về vai vế, ông gọi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bằng bác, họ bên mẹ.
Vĩnh Chánh nói thẳng ra, mà không hề sợ những người vốn không thích, hay có lòng thù nghịch nhà họ Ngô ngày đó, bây giờ biết được liên hệ họ hàng này, mà đâm ra ghét lây sang mình.
– Phía cộng sản:
A – Thân phụ Ông, là bạn thân của Đặng Thái Mai, là người thầy của Võ Nguyên Giáp.
“… Sang đời ba tôi, Ông Nguyễn Phúc Bửu Tiếp, sinh năm 1904, được Ông Nội cho theo Tây học. Đầu thập niên hai mươi, khi ra Hà Nội học trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, ông Tiếp có người bạn thân cùng lớp là Ông Đặng Thái Mai, sinh năm 1902, lớn hơn ông hai tuổi. Cả hai cùng tham gia các hoạt động sinh viên.
Tuy là trường Tây nhưng hội sinh viên tại đây tự xưng là: ‘Hưng Nam Phục Việt’ hàm ý chống lại ách lệ thuộc người Pháp. Năm học cuối, ông Đặng Thái Mai chọn chuyên khoa văn chương. Ông Bửu Tiếp chọn ngành khoa học. Cả hai tốt nghiệp năm 1926, sau đó cùng nhau về Huế làm giáo sư Quốc Học, giao tình ngày càng thân thiết hơn.”
Tuy thế, thân phụ Ông đã bị cộng sản thanh toán.
“… Ngày 24 tháng 7, sau khi người Y tá vừa rút mũi kim chích thuốc khoẻ ra khỏi mạch máu ở tay, là Ba tôi đứng tim chết, khi Măng tôi vừa bước chân vào nhà.
Măng tôi kể là ngay khi ôm xác Ba trong tay, bà đã cảm thấy có điều gì bất thường. Ba tôi lúc đó đang khoẻ mạnh, việc chích thuốc bổ chỉ là để gìn giữ sức lực. Người chích thuốc là một y tá bà con xa, và thường chích thuốc khoẻ Huile de Camphre vào thịt mông Ba tôi. Tại sao lần này ông ta lại chích vào mạch máu?
Vì đó chính là mũi thuốc được thi hành theo một ‘lệnh xử lý’, từ ngữ cộng sản, có nghĩa là ‘giải quyết hoặc thủ tiêu’”.
Điều này, thân mẫu ông chỉ mới nghi ngờ, nhưng sau do ngẫu nhiên, trong một lần tới nơi họp, bà nghe được:
“… Sau khi ba tôi mất, suốt thời kháng chiến chống Pháp, chi hội phụ nữ nằm vùng tại Huế cố lôi kéo Măng vào tổ chức của họ, nhưng Măng đã nhiều lần thoái thoát với lý do goá phụ bận rộn nuôi bầy con, mười lần bị kêu đi họp thì chỉ đi đến một lần cho có lệ…
… Vào thời gian chia đôi đất nước của hiệp định Genève 1954, Măng tôi thình lình đến nơi họp, và đến trễ. Đang đứng bên ngoài cửa căn nhà họp trong chiều tối, tình cờ Măng nghe tiếng các người bên trong phòng đang bàn tán về mình ‘Thằng Tiếp không chịu ra ngoài Bắc làm việc theo chỉ thị cấp trên nên chúng ta đã xử lý nó rồi. Cái thứ công giáo đó chỉ làm hư danh cách mạng thôi. Nay còn con Liễu (tên của Măng tôi), ráng chờ xem nó có chịu tập kết hay không rồi sẽ quyết định.’ Nghe vậy Măng tôi lạnh cả xương sống, từ từ rời căn nhà họp không một tiếng động. Từ đó bà dứt khoát cắt đứt mọi liên lạc.
… Khi nghe bà kể chuyện này tôi hỏi Măng, phải chăng ba chết do lệnh cộng sản thủ tiêu, rồi sau đó dàn dựng một lễ an táng long trọng kiểu nhà nước để mờ mắt thiên hạ. Măng tôi trả lời đúng như vậy. Bà cũng xác nhận ông bà chỉ là những người quốc gia chống Pháp vì yêu nước, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản. Bà nói thêm, càng về sau Măng càng nghiệm ra những giả dối của cộng sản và từng lo ngại khi thấy hai con trai lớn không có kinh nghiệm này.”
B – Thân mẫu ông là bà Huỳnh Thị Liễu bạn thân của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ của Võ Nguyên Giáp. Cả hai bạn với nhau từ lúc 13,14 tuổi.
C – Hai người anh ruột.
1. Sau 1975, trong khi các Bác sĩ của Việt Nam Cộng Hòa đều bị nhốt tù thì Bác sĩ Vĩnh Toàn lại được dùng và còn được chuyển từ Hội An về Đà Nẵng tới một bệnh viện lớn hơn.
“Về anh Vĩnh Toàn, ông anh đầu của tôi, tuy hai anh em cùng ở trong nước nhưng vì hoàn cảnh, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Tôi chỉ được biết, sau khi tốt nghiệp bác sĩ thời Việt Nam Cộng Hoà, anh từng làm Trưởng Ty Y Tế Quảng Nam. Mùa xuân 1975, khi miền Trung thất thủ, anh đang là Giám Đốc Bệnh Viện Hội An. Sau đó được chế độ mới thuyên chuyển về làm việc tại bệnh viện toàn khoa tại Đà Nẵng. Mãi sau ngày đi tù cải tạo về, hai anh em mới gặp lại lần đầu, khi anh vào Sài Gòn thăm Măng tôi. Nghe anh nói đã quyết định tiếp tục sống trong nước, không đi đâu cả, tôi hiểu là anh em chúng tôi sẽ đường ai nấy đi.”
2. Vĩnh Anh
“Anh Vĩnh Anh kể lại chuyện chính anh vừa trải qua. Năm 1990, các thành viên chủ chốt của nhóm Việt Kiều Yêu Nước (VKYN) tại Montréal, trong đó có ông anh tôi, đuợc ban Việt Kiều của chính phủ cộng sản Việt Nam mời về nước với mục đích, góp ý cho Đảng Cộng sản Việt Nam làm cách nào tránh được hiện tượng Thiên An Môn/Tiamen Square xảy ra tại Trung Quốc năm 1989, sẽ không thể xảy ra tại Việt Nam.
Theo kế hoạch của nhóm Montréal, anh Vĩnh Anh nằm chờ tại Sài Gòn, 4 người kia bay ra Hà Nội. Một anh ở chờ trong khách sạn, 3 anh còn lại vào họp, mang theo bản văn góp ý của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montréal: bãi bỏ chế độ độc đảng, cho thành lập chế độ đa đảng càng sớm càng tốt.
Sau hai ngày không thấy các bạn mình trở lại khách sạn, và cũng chẳng nhận được tin nhắn miệng nào, người chờ bên ngoài khách sạn Hà Nội điện thoại báo tin cho anh tôi. Đoán chuyện không hay xảy ra, anh tôi tức tốc bay ra Hà Nội, đến tư gia ‘bác Võ Nguyên Giáp’ xin vào gặp với tư cách là ‘con trai của ông Bửu Tiếp’, người thày giáo Quốc Học Huế thời xưa. ‘Bác’ Võ Nguyên Giáp lắng nghe, lắc lắc đầu, rồi bảo anh tôi về chờ tại khách sạn.
Thêm hai ngày căng thẳng chờ đợi trong lo âu. Bỗng trong đêm thứ hai, cả anh tôi và người bạn thứ hai được chở vào bên trong một cơ quan, nhìn thấy ba người bạn mình, người nào cũng xám xịt, căng thẳng, một người lại có băng trắng ở cổ tay. Không dài dòng giải thích, cả 5 người được lệnh ký tên vào giấy cam kết đủ thứ, kể cả việc không bao giờ được về lại Việt Nam.
Sau khi đồng loạt ký tên, cả 5 người được chở thẳng ra phi trường lên chuyến bay sớm nhất về Canada. Trên máy bay anh tôi được các bạn cho biết, sau khi phát biểu ý kiến chủ trương đa đảng của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montréal, cả 3 bị bắt đưa ngay vào một bệnh xá tâm thần. Anh bạn tổng thư ký của nhóm quá tức giận nên quyết tự sát bằng cách rạch cứa vào cổ tay mình, nhưng được cứu thoát. Chính vì vậy mà chúng mới thả cho về vì e ngại sẽ có khó khăn với bộ ngoại giao Canada.
Vậy là nhóm Việt Kiều Yêu Nước Montréal trước đây đã từng rúng động bởi hiện tượng vợ chồng Phục & Vĩnh Thuỷ vượt biên trở về lại Canada, nay lặng lẽ tan rã. Mỗi thành viên mang một nỗi niềm riêng.”
Bác sĩ Vĩnh Chánh phổ biến tất cả những dữ kiện trên một cách rõ ràng. Và Ông cũng kể luôn cả việc người vợ sau của Võ Nguyên Giáp là Bích Hà đến thăm thân mẫu ông sau năm 1975.
“… Miền Nam càng ngày càng đói khổ, mà ngoài Bắc vô đây cái gì cũng tha ra ngoài đó. Khi chia tay tưởng đã đi luôn. Không ngờ Bích Hà còn trở lại lần thứ hai, và khi ra về còn xin đem theo những sách quý bằng tiếng Pháp của Măng tôi. Lần này, Măng không những chỉ cho sách mà còn gửi lời kính thăm bác Đặng Thái Mai và ông Giáp.
Có thể nhờ hai cuộc viếng thăm này mà các anh công an khu vực có phần nương tay với ngôi nhà của Măng ở cư xá Bắc Hải, khi đi tù về, tôi cũng không bị làm khó dễ.”
Trong tiếng Việt, để chỉ việc đem từ chỗ này sang chỗ khác người ta dùng những động từ như: đem đi, mang tới, cõng vào, đưa ra.
Còn khi súc vật di chuyển một thứ gì đó, thì người ta dùng chữ tha, giống như câu thường nói: “chó tha đi, mèo tha lại”. Chúng ngoạm vào mồm rồi bốn chân bước.
Chỉ một dòng viết: “Miền Nam ngày càng đói khổ, mà ngoài bắc vô đây cái gì cũng ‘tha’ ra ngoài đó’”. Thân mẫu Bác sĩ Chánh đã dùng chữ “tha” thật tuyệt vời khi kể lại chuyện bà vợ thứ hai của Võ Nguyên Giáp tới thăm bà.
Lẽ dĩ nhiên thân mẫu của Vĩnh Chánh chẳng muốn dính dáng gì tới cái đám Việt cộng đó cả, nhưng tránh trời không khỏi nắng. Bà “đại tướng” lại vào thăm lần thứ hai và vét hết sách vở tiếng Pháp của bà ra ngoài Bắc.
Vĩnh Chánh có một lập trường rõ ràng, là dưới mắt ông, cộng sản chỉ ăn có và ăn cướp.
II. Nhảy Dù Cố Gắng
Phương châm của Binh Chủng Nhảy Dù là CỐ GẮNG, cố gắng trong mọi hoàn cảnh, dù tình thế khó khăn đến đâu, và dù nguy hiểm đến mức nào.
Nhưng có một điều Bác sĩ Vĩnh Chánh, một người rất ngoan đạo, không cố gắng. Không thể cố gắng. Không muốn cố gắng. Và sẽ không bao giờ cố gắng làm theo ý Chúa muốn là “phải thương yêu kẻ thù”.
“… Cầu nguyện với Chúa bao nhiêu đi nữa. Xưng tội với Chúa bao lần đi nữa, tôi vẫn còn mắc phải một cái tội mà không khi nào tôi có làm lành với chính mình. Người ta thường nói ‘mắt đối mắt’, ‘răng đối răng’. Phần riêng tôi, đối với bọn cộng sản thì tôi xin bẻ cho được cái ‘răng cấm’. Vì tôi không thể là cha Don Camillo và nhất là bọn cộng sản Việt Nam ác độc kia không thể như ông Xã Trưởng Pepone được.
Bởi vậy, Chúa ơi, con chưa được là con người hoàn thiện như ý Chúa muốn: ‘Phải thương yêu kè thù’.”
Ông đã suy nghĩ và quyết định theo lương tâm của mình.
Émile Durkheim (1858–1917), một nhà xã hội học Pháp, đã nói: Quand notre conscience parle, c´est la société qui parle en nous, “Khi lương tâm của chúng ta nói, đó là xã hội nói trong chúng ta.”
Lương tâm của Vĩnh Chánh nói, ông không thể thương yêu kẻ thù được. Đó chính là tiếng nói của xã hội miền Nam trước 1975, là nơi sinh sống của những người cư xử với nhau theo cung cách đã có của bốn nghìn năm văn hiến. Đó là tiếng nói của người của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Muốn thương yêu kẻ thù, thì trước hết phải quên được những tội ác chúng đã làm. Nhưng Bác sĩ Vĩnh Chánh không những không quên, mà còn nhớ rất rõ.
“… Sự tráo trở, tàn bạo của Cộng sản Việt Nam đã đẩy nhiều thế hệ vào cảnh tương tàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Ba tôi bị thủ tiêu như bao người quốc gia khác bị thủ tiêu, những bà con Huế bị tàn sát thời Tết Mậu Thân và tất cả những người Việt gục ngã trong thời chiến và hậu chiến đều là nạn nhân của cộng sản.
Cái chủ nghĩa ma quỷ ấy đã là thứ hết thời. Dăm ba mảnh tàn dư của nó rồi cũng lụi tàn. Nhiều tội ác sẽ bị khuất lấp hoặc sẽ đuợc quên đi. Nhưng quên, với tôi, không có nghĩa là tha thứ, vì tha thứ là quyền của những người đã chết.”
III. Vĩnh Chánh viết rất nhiều về hoa quả và những cây trong vườn nhà ông nội. Từ mít, dừa, măng cụt, đu đủ, chuối, đến những cây trái ít người nghe nói tới, chứ đừng nói là được ăn bao giờ, như vả, sấu. Trái vả, họ nhà sung. Trái Sấu, ở ngoài bắc rất nhiều.
Đọc chương sách này của ông,
– Người Nam sẽ thấy thích thú và hãnh diện về những trái cây của họ: xoài, cóc, măng cụt, vú sữa, và trứng cá.
– Người Bắc sống ở Hà Nội trước năm 1954, sẽ nhớ lại những cây Sấu dọc hai bên những con đường yên tĩnh, sang trọng của thời vàng son đó, và vị đặc biệt của trái cây này.
Ông còn nhắc cả tới cam Xã Đoài, không có trong vườn nhà ông nội, mà ông không biết ngưồn gốc ở đâu. Điều này người viết có thể trả lời cho ông được. Cam Xã Đoài gốc ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Người dân sống ở đây, luôn luôn hãnh diện mà nói tới hai thổ sản ngon của họ là “Cam Xã Đoài và Bưởi Phúc Trạch”.
Chuyện viết trong chương này rất nhiều, rất chi tiết, nhưng không phải là những chuyện vụn vặt không đáng kể ra. Trái lại, chương này đáng đọc đi đọc lại nhiều lần. Vì trong đó, Ông tài tình cho ta thấy đó là hình ảnh của quê hương: từ cách ăn uống, các món ăn vặt, những hương vị ngày Tết, cách chữa bệnh thô sơ, những đồ chơi trẻ em, những câu nói khôi hài, và cảnh thanh bình trên đất thần kinh cho đến những liên tưởng sự ăn cướp trắng trợn của Việt cộng:
– Là những hình ảnh của quê hương.
– Là một số điều về cách ăn uống, thực phẩm, như ăn chuối chát nhiều bị táo bón, hột mít gây trung tiện:
“… Còn hột mít thì luộc hoặc lụi trong tro nóng, vừa ăn vừa thổi. Và thổi đi luôn những luồng hơi không mấy thơm từ bụng xì ra.”
– Là những món ăn vặt:
“… Một phần quan trọng gắn bó với tuổi thơ, cũng theo tôi lớn lên. Cắn một trái ổi giòn vừa hái trên cây xuống, bỏ vào miệng hút nước ngọt của trái nhãn, bóc vỏ một trái dâu, xẻ một trái mít, cầm nguyên cả chùm đào trên tay, nhăn mặt vì một miếng khế chua, cắt khoanh một trái măng cụt, bóp mềm một trái vú sữa, dú trong cartable một trái thị vàng chín… dẫn ta về với bao nhiêu hương vị của thời xa xưa khó quên. Những kỷ niệm quá êm đềm gắn bó với tuổi xanh!”
– Là những món đầy hương vị Tết:
“… Khi lớn lên, tôi mới bắt đầu biết thêm có me dầm, mứt me bao trong giấy gương, me ngào đường, nhất là vào các dịp tết.
Tại nhà, để đón Tết, các anh chị em ngồi xúm lại cắt dừa làm mứt dừa, một món mứt rất được ưa thích và tương đối dễ làm. Khi thì dừa trắng bóc, hay mầu hồng, thơm cả mùi đường sau khi ngào xong. Riêng tôi luôn đứng chực ăn các miếng mứt dừa vụn cháy sót lại trong chảo.
… Vì vậy tôi không hiểu từ đâu mà chợ Huế bán đầy trái Quất vào dịp trước Tết để thiên hạ mua về làm mứt Kim Quất. Măng tôi và các chị tôi xúm lại dùng kim cúc buộc lại từng bó, đâm bào từng trái Quất, rồi bóp cho hột và nước chua ra hết, xong mới trụng sơ trong nồi nước sôi trước khi ngào với đường trắng. Thật công phu và mất nhiều giờ. Nhưng đó là hình ảnh của hạnh phúc khó quên khi cả nhà xúm xít ngồi bên nhau sửa soạn ngào những món mứt vào dịp Tết.”
– Là cách chữa bệnh rất thô sơ, theo kinh nghiệm: vỏ măng cụt khô, dùng để chữa tiêu chảy. (Không thấy tác giả nói tới công dụng của lá ổi trong hỗn loạn này của bộ tiêu hóa.)
– Là những đồ chơi của trẻ em:
“Ngoài phố Huế, có người dùng lá dừa xếp thành những con châu chấu, những con chuồn chuồn hay những chiếc xe hơi. Hay thật!”
– Là một vài câu nói vừa phổ thông, hơi có tính chất khôi hài, vừa đúng vừa không đúng, hư thực ra sao chỉ có trai gái nằm bên nhau, mới tự biết:
“… Mùi bốc lên ngọt ngào mê hoặc nhưng nồng, hèn chi mà người ta thường viết:
‘Em thơm như múi mít,cũng phải.’”
– Là cảnh thanh bình trên đất thần kinh:
“Khi tôi ở ‘nội trú’ tại trường Đồng Khánh, tôi thường ra Bến Đò Thừa Phủ, nằm trước toà tỉnh Trưởng, để hớt tóc, nhìn mấy anh lính Bảo An và các người khác chơi boules, và nhất là để chiêm ngưỡng mấy chị học sinh Đồng Khánh đi đò qua lại sông Hương, giữ 2 bến đò Thừa Phủ bên này và Thương Bạc bên kia. Ngay tại bến đò Thừa Phủ, có một cây Sung lớn, với trái xanh, vàng đỏ quanh năm. Nhiều loại chim khác nhau thường rất thích đậu trên cây Sung này, mổ ăn những trái Sung chín khiến đa số trái Sung rụng xuống nước vì nhiều nhánh cây nghiêng hẳn về phía sông. Đây là nơi tôi từng trèo lên ngồi vắt vẻo trên cành là đà gần mặt nước say mê xem Nhảy Dù nhảy biểu diễn trên sông Hương nhiều lần trong cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, và đã để lại cho tôi ấn tượng hào hùng về Nhảy Dù khiến tôi quyết định gia nhập binh chủng Thiên Thần Mũ Đỏ về sau.”
– Là khi viết đến mít, ông nhắc đến nỗi thất tình của mình.
– Là điều mà cây đu đủ nhắc Vĩnh Chánh nhớ tới sự ăn cướp của Việt cộng:
Vườn nhà tôi có 4–5 cây Đu Đủ, trong khi vườn nhà Ông Nội có cả chục cây, ở khắp góc cạnh của vườn trước, bên hông hay vườn sau. Có nhiều cây có vẻ rất già, khô ốm vì thiếu nước quanh năm. Về sau, tôi nhớ và vẫn cười khi nghe mấy câu vè hay xem hình hoạt hoạ người ta thường ví von mấy chú Việt cộng ốm đói cho đến nỗi đánh đu trên cành Đu Đủ mà cũng không làm gẫy cành. Nay thì ngược lại! Chút tiền của mấy anh Việt cộng treo trên cây Đù Đủ chắc cũng đủ làm cây trốc gốc!
IV. Rải rác trong các chương khác, người ta hiểu được: Phong tục ngày Tết ở đất thần kinh. Cảnh con cháu tề tựu đông đủ, chúc Tết Ông Bà, Cha Mẹ.
– Cách dạy học trò ở Việt Nam ngày đó.
“Hơn nữa trong phòng Cha Tôn, có một hàng roi mây, cái nào cái nấy đều tua cái đầu. Ngay cả các bà sơ cũng dùng roi mây.”
Vĩnh Chánh còn khoe:
… Còn vỏ mít, với những cái gai lởm chởm! Tôi cũng đã từng được các Sơ bắt quỳ trên đó khi không chịu làm bài hoặc trả bài không thuộc.
Điều này phù hợp với lời dặn trong ca dao: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.”
– Mấy loại mưa gió:
“… Đi dạo được gần hai phần ba con đường quen thuộc, gió chuyển lạnh dần, mây đen kéo dầy rồi trời bỗng đổ mưa. Lúc đầu chỉ vài giọt lắc rắc đây đó, dần dần nhiều hơn một chút, rồi hai chút. Sau đó mưa xoà đổ mạnh. Mạnh đây là đối với vùng Cali thiếu mưa quanh năm này, chứ có thấm tháp gì đối với những cơn mưa kéo dài cả giờ với mây đen nghịt và sấm sét rầm trời của Sài Gòn dạo nào, hay những cơn mưa dài vô tận, lê thê từ tuần này qua tuần nọ của Huế tôi. Và cũng chẳng thấm vào đâu nếu so với những ngày mưa rừng dầm dề thê lương của thời còn lội hành quân với Tiểu đoàn Dù. Vì ngoài chuyện mưa trời còn có thêm một loại mưa chết người khác nữa là mưa pháo. Một loại mưa mà núp kỹ dưới hầm vẫn chết, nằm trong hố cá nhân vẫn tan xác, đôi khi đến hai lần. Mưa chết người như vậy nhưng riết rồi người lính vẫn coi thường vì ‘ăn pháo’ như cơm bữa và phải ‘đội pháo’ trên đầu hàng ngày.”
Trong một đoạn ngắn mà tác giả đã tả được cả mưa bốn vùng. Thật là tài tình.
Cũng tài tình như chỉ mấy câu trong bài “Huynh đọc kinh với đệ”, mà diễn tả được đúng tâm trạng cũng như cách sử sự của những người Bắc di cư 1954. Họ đã có nhiều kinh nghiệm đau thương với Việt cộng. Họ hiểu cái thế của mình sau khi vừa mất tất cả ở miền Bắc lúc đất nước bị chia đôi, nên rất nhẫn nhục và khôn ngoan.
“… Qua kinh nghiệm của một người di cư, Tân luôn nhắc nhở tôi cần phải tuyệt đối thận trọng khi làm tờ khai sơ yếu lý lịch, càng đơn giản, càng ít chi tiết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và nhất là phải nhớ những điều mình đã khai, đã viết lên trang giấy, vì bút sa gà chết. Tân cũng thường xuyên căn dặn tôi phải dè dặt với mọi người, tránh to tiếng, tránh gây gổ và nên hạn chế làm thân hay chuyện trò với các người bạn tù khác, nhất là những người mình không quen biết nhiều hay những người ở trong các đơn vị trọng yếu như quân báo, thám báo, phượng hoàng, an ninh, cảnh sát, chiến tranh chính trị, xây dựng nông thôn… để tránh bọn antennas theo dõi.”
– Việc trao đổi tù binh:
“Chiến tranh Việt Nam bước qua một giai đoạn khác sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào tháng Giêng 1973, nối tiếp là những đơn vị quân đội Mỹ lần lượt rời Việt Nam, và trao trả tù binh. Tôi có mặt trong phái đoàn sinh viên tham dự lần trao trả tù binh Việt Nam tại sông Thạch Hãn vào giữa mùa Xuân 1973. Nhìn thấy cả mấy trăm tù binh Bắc Việt được nuôi ăn nuôi mặc tươm tất sạch sẽ với xách tay mới trên tay, được thả ra chỉ để đổi lấy có ba quân nhân của phía ta xơ xác, yếu ốm, nằm trên cáng khiêng… mới hãnh diện nhìn thấy lòng nhân đạo và tinh thần đánh giặc cao thượng của Việt Nam Cộng Hoà, ngay cả trong cách cư xử với tù nhân chính trị hay tù nhân chiến tranh. Một sự thật mỉa mai sau này tôi càng thấm thía hơn nữa khi ở trong tại tù cải tạo cộng sản.”
– Sự không bỏ anh em đồng đội:
Chương Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè là một thí dụ rõ rệt về tình gắn bó giữa những bạn đồng ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
V. Mối tình của Vĩnh Chánh
Ông yêu một người, rất say mê.
Về điểm say mê này Vĩnh Chánh cũng giống thi sĩ Nguyên Chẩn đời Đường, là người trước khi gặp được nàng Thôi Oanh Oanh đã nói: “Chỉ khi nào gặp người tài sắc tuyệt vời, thì mới điên đảo say mê, mà đã điên đảo say mê, thì chẳng thể quên tình.”
Vĩnh Chánh không quên được suốt 9 năm.
Thời gian này chỉ bằng một phần ba thời gian Thi sĩ Vũ hoàng Chương mơ tưởng mong có được người yêu:
Ta đợi em từ ba mươi năm Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương ôm mối tình tuyệt vọng trong cảnh thanh bình, yên vui của thành phố Hà Nội trong khoảng 1930.
Vĩnh Chánh, bỏ ra 9 năm, nhưng thực ra khó khăn hơn nhiều.
“… Nàng là một cô bé nhỏ nhắn mặc áo đầm vàng đi dạo cùng Mẹ và các em trong công viên trước trường Đồng Khánh mà tôi đã tình cờ nhìn thấy trong một chiều óng ánh đầy nắng vàng vào cuối hè 1967. Vài ngày sau tại nhà tôi, tim tôi đập lỗi nhịp đầy thích thú khi bất ngờ gặp chính cô bé đem bánh của Mẹ làm đến biếu ‘Bà Vú’, tiếng nàng gọi Măng tôi, vì Măng tôi là Vú Đỡ Đầu cho Mẹ nàng khi Ba Mẹ nàng làm đám cưới. Đây cũng là nhân vật trong bức ảnh gia đình, một quà tặng của Mẹ nàng cho Măng tôi từ bao năm trước, được treo trên tường, gần bàn học của tôi. Mỗi khi nhìn đến, tôi thường liên tưởng rằng có một ngày tôi sẽ có được nàng, như một ám ảnh, một mơ ước thầm kín. Một nguyện cầu vu vơ. Dù bấy giờ nàng chỉ là một cô bé tuổi 13 đang học lớp Đệ Ngũ trường Đồng Khánh.”
Nhằm mục đích xâm lăng miền Nam, Cộng sản Bắc Việt bắt đầu mở trận tấn công lớn đầu tiên tại Ấp Bắc năm 1963, rồi cứ thế liên tục, tại bốn vùng chiến thuật. Người miền Nam, dễ gì ai sống được qua những năm đó. Họ có thể bị giết bất cứ lúc nào. Dân quê tại làng mạc. Người ở thành phố, chết bởi pháo kích, và có khi bị tàn sát tập thể như hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế.
– Thăm nàng 1968
“Sau vài ngày tạm trú ở trường Kiểu Mẫu, khi biết tin gia đình người tôi yêu đang lánh nạn tại Dòng Chúa Cứu Thế, tôi tức tốc tìm đến thăm dù đường đi còn vắng hoe, nguy hiểm với dấu tích tàn phá và chết chóc hai bên đường… chỉ để kịp gặp nàng vài ba phút, thăm hỏi đôi ba câu trước khi nàng vội vã quay vào với gia đình. Hình ảnh xanh gầy của nàng với đầu tóc ngắn thân thuộc trong một buổi sáng đầy gió lạnh và mây xám trên trời mãi mãi ám ảnh tôi từ dạo đó.”
– Thăm nàng 1971
“… Trái chuối thường ăn chín sau khi dú vài ngày, nhưng anh chị tôi ít khi chờ được, nên hễ cứ đói bụng, mang chuối vừa chín tới đem ra luộc rồi chấm muối mè, rất ngon dù hơi chát một ít. Chuối cũng thường được phơi khô bán trong bao ngoài chợ, hay làm chuối chiên, chè chuối, kẹo chuối. Vào gần hè năm 1971, theo tiếng gọi con tim, tôi lên Đà Lạt tìm đến thăm người tôi yêu…
… Trước ngày bay về Huế, Nàng và tôi rảo bước đến chợ Hoà Bình. Nàng mua khá nhiều hoa quả, trái cây Đà Lạt, trong đó có mấy bịch chuối mật khô, dẻo, ngon và ngọt, nhờ tôi đem về biếu Bà Vú, là Măng tôi. Còn phần tôi, nàng cho tôi một khối tình… đau mang về nhà! Để từ đó tiếng mưa trên tàu lá chuối buồn, nghe như nức nở, thì thầm. Như nhắn nhủ, đợi chờ. Da diếc và ray rứt làm sao khi mơ tưởng về người mình yêu nơi xa.
… Riêng phần tôi vào Nhảy Dù đơn giản hơn. Tôi vào Nhảy Dù vì… thất tình. Nhưng về sau, cũng chính nhờ bộ áo Hoa Dù và Mũ Đỏ, tôi lại từ từ chiếm được trái tim Nàng.
… Chị thứ năm Mai Tâm của tôi bỏ học dù đang là sinh viên năm cuối của phân khoa Chính Trị Kinh Doanh của Đại Học Đà Lạt, và quyết định lấy chồng là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân khi tiểu đoàn đến giải toả thị xã Đà Lạt trong vụ cộng sản tấn công vào Tết Mậu Thân. Lần chị đem người yêu về trình diện gia đình tôi thích anh liền. Không những vì anh đã xuất thân từ 16 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, mà vì anh trông cao ráo, điển trai, rất điềm đạm và thật hào hùng trong bộ đồ rằn ri. Có lẽ từ đó tôi có suy nghĩ nếu muốn lấy được cảm tình người đẹp, chắc tôi phải tạo cho mình một hình ảnh sắt đá oai hùng của một chàng trai đúng nghĩa của thời chiến. Đúng với hình ảnh ‘Em là gái trong khung cửa, Anh là mây bốn phương trời…’
… Đến nước đó, tôi cương quyết giữ vững lập trường của mình, cho biết tôi dứt khoát muốn trở thành một Bác sĩ Nhảy Dù, rằng tôi muốn tự thực hiện một thay đổi quan trọng cho đời mình, dấn thân vào chốn nguy hiểm để xem mình có thể quên được người con gái tôi hằng đeo đuổi và thương nhớ trong nhiều năm qua. Xót xa cho thằng em mình, các chị tôi bênh vực tôi và cuối cùng Măng tôi đành miễn cưỡng chấp nhận.
… Nhờ vậy tôi có dần sự chững chạc trong suy nghĩ và trong phong cách, vẻ hiên ngang khí khái của một Thiên Thần Mũ Đỏ và nhất là sự quyết chí và bền bỉ khi tìm gặp người tôi hằng yêu thương sau 3 năm xa cách…
… Đúng vào chiều Mùng Một Tết, hiên ngang trong bộ hoa dù mũ đỏ, và chững chạc phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi tìm đến thăm nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Mối tình tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi theo thời gian. Dưới mắt nàng tôi không còn là một bạch diện thư sinh ngày nào mà là một con người dày dạn phong sương, tự tin và lạc quan.”
VI. Ngày mất nước
“Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù tôi đón nhận 4 thương binh của Tiểu Đoàn. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tải thương gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi truyền nước biển và viết giấy tải thương. Ban 3 cho biết không thể tải thương vì không liên lạc được với bất cứ quân y viện nào như Bệnh Viện Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cộng Hoà. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với Thiếu tá Phú ý định tôi sẽ chuyển thương binh này về Bệnh Viện dân sự Nguyễn Văn Học.
Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tải thương, anh ta bỗng kêu lên ‘Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để tôi chết tại đây…’ và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu M16 nằm dọc cạnh anh trên băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ còn kịp thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung toé. Tôi cầm bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dãn ra, anh từ từ đi vào cõi chết.
Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt được ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Tất cả bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính. Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho cho bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng [tôi] nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh lặp lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến. Thiếu tá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo đi theo ông. Tôi ngồi sau lưng trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. Tiểu Đoàn Phó ở lại bộ chỉ huy Tiểu Đoàn.
Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân Toà Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân đang chạy hỗn độn trong sân, tranh giành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. Thiếu tá Phú đến bên tôi nói nhẹ ‘Bác sĩ đi đi!’ Rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong toà tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Thiếu tá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối cùng tôi rời vĩnh viễn Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù. Tôi cúi đầu trong ngẹn ngào. Sững sờ trong đê hèn. Bàng hoàng trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghĩ đến.
Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền ‘Ông cởi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên’. Như một cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cởi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chặn anh ta lại và xin bộ quần áo đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh ta. Không một chút do dự anh thả bao gạo xuống, rồi vừa nhìn tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…
Tôi cởi áo giáp, giây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cởi đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần xanh đậm, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo trở về đường Cao Thắng ở Sài Gòn. Nhà nàng.
Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, có những xe chở đầy người với mặt mày sát máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; lòng tôi như tê dại chẳng thể suy nghĩ gì. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước lên nhìn trời. Một màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.”
Lệnh trên bắt phải đầu hàng. Không còn thể nào chiến đấu. Không còn bạn đồng ngũ. Đơn vị phải tan hàng. Vĩnh Chánh bây giờ hoàn toàn trần như nhộng về phương diện tinh thần. Vị Bác sĩ bây giờ sẽ lâm vào tình trạng cọp xuống đồng bằng bị chó nó khinh, bất cứ lúc nào. Cũng có thể vốn hùng mạnh như một con rắn hổ mang, nhưng đang ở thời kỳ lột da. Hay nói theo ngôn ngữ của truyện kiếm hiệp Kim Dung thì giống như trường hợp Thiên Sơn Đồng Mỗ, cực giỏi, nhưng tới thời kỳ phải tu luyện lại, thì mất hết võ công. Chỉ như là một đứa bé sơ sinh. Bất cứ kẻ nào trong giang hồ, chỉ giơ một ngón tay lên cũng sát hại được.
Trong gia đình Vĩnh Chánh, có nhiều người ở trong những binh chủng thường phải vào sinh ra tử. Con trai một bà cô ruột là Đại úy Nhảy Dù. Một người anh rể là Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.
Và đang lúc tuyệt vọng, kề với cái chết, Vĩnh chánh lại gặp một người Nhảy Dù nữa.
Nước mất rồi, nhà sắp tan, thân sẽ nát.
Nói trở lại một người Nhảy Dù nữa mà Vĩnh Chánh sắp gặp. Phái nữ.
Người này, nói cho thật đúng, chưa từng nhảy dù, nhưng hiểu rất rõ nguyên tắc của Nhảy Dù. Hiểu rất rõ rằng khi một người nhảy dù ra khỏi máy bay, khi cái dù chính không mở thì sẽ bị rơi tự do với gia tốc của trọng lực, theo công thức 1/2 gt 2, chớp mắt là nát thây trên đất.
Người hiểu mối nguy này là Minh Châu, người mà Vĩnh Chánh yêu say mê, theo đuổi đã 9 năm. Chưa thành công hẳn.
Thành ra, Vĩnh Chánh tôn thờ một hình ảnh trong thời kỳ mà mỗi người mở mắt ra lúc buổi sáng thì mới biết là mình còn may mắn sống.
Người người đều lâm vào cái cảnh sống nay chết mai. Nhất là những người lính.
Thưở đó, có những thanh niên, vừa ra chiến trường lần đầu tiên, đã tử trận ngay. Còn dân chúng, bất cứ giây phút nào cũng có thể mạng vong, vì Việt cộng bất thần pháo kích. Do đó ai cũng sống một cách vội vã.
Ai cũng biết “có sống đến mai không mà để dành củ khoai đến sáng?”
Ấy thế mà, Vĩnh Chánh cứ dành tình yêu của mình cho một người, chín năm liên tục vẫn chưa được đáp lại.
Nhưng vào lúc 10:20 sáng ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh đầu hàng, thì người người đều biết rằng như vậy là nước mất rồi, nhà sắp tan, và thân sẽ nát.
Cách nát thân của những người dân miền Nam sẽ khác nhau. Sẽ mỗi người một cách. Có thể do bị tàn sát ngay. Có thể bị đi đày, trong những nơi tập trung theo cách ở quần đảo Gulag bên Nga.
Cũng có người sẽ tự tử. Người có gia đình sẽ đắn đo nhiều trước khi huỷ mình. Kẻ độc thân dễ quyết định hơn. Người có người yêu khó dứt áo đi sang thế giới bên kia. Còn kẻ bị người yêu cự tuyệt sẽ quyết liệt nhất, nhanh chóng nhất. Xá gì một cái thân này nữa, khi không có ai ở trên cái miền Nam sắp mất này yêu thương mình?
Tuy Vĩnh Chánh chưa nghĩ đến cái chết, nhưng Minh Châu, người yêu của chàng, người chàng theo đuổi đã chín năm, hiểu rất rõ chàng sẽ làm gì. Và nàng quyết định, phải giang rộng hai tay ra thật nhanh, như tốc độ bung ra của một chiếc Dù bụng. Để cứu mạng người.
Nếu nàng chỉ ngần ngừ mấy giây thôi, sẽ không còn kịp nữa.
Bác sĩ Nhảy Dù Vĩnh Chánh, thì như vừa bị xô ra khỏi máy bay, cái Dù chính hết mở được rồi. Thân sẽ nát trên đất Việt cộng đã chiếm.
Bỗng dưng, một cái Dù bụng mở tung.
Minh Châu đã quyết định thật nhanh. Nàng tự biến thành một cái Dù bụng để cứu mạng Vĩnh Chánh.
“… Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các em chạy xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Cơ thể tôi rã rời và tinh thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu vì sao mình lại về được đến nhà an toàn.
… Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hoà cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, vì cư xá Sĩ Quan Chí Hoà quá nguy hiểm.
… Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện vói nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết ‘anh xin làm bóng mát trên con đường em đi’. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuỗi ngày đen tối, đoạ đày và tôi e ngại chẳng còn bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã quyết định tự lúc nào.”
VI. Vĩnh Chánh kể nhiều chuyện cảm động. Ở đây xin đề cập tới hai truyện điển hình:
1. Truyện Chị Agnès.
“Vào năm Terminal tôi chuyển trường từ Providence ở Huế vào Lycée Blaise Pascal tại Đà Nẵng, và tạm chú trong biệt thự của người chị con bác ruột tại đường Nguyễn Thị Giang trong suốt niên học. Gia đình anh chị Châu có 4 đứa con, 3 trai và một gái út đang ở tuổi từ tiểu học đến trung học đệ nhất cấp. Gia đình rất mộ đạo, tối nào cũng đọc kinh chung với nhau trước bàn thờ. Tôi cũng tham gia khi không quá bận với các bài học.
Thỉnh thoảng, vào cuối mỗi hai tuần, thân phụ của anh Châu tới thăm, mang những sản phẩm trong vườn nhà tại Hoà Vang, như các loại rau, ớt, su le, mướp, khoai lang, chuối, ổi, nhãn, mận, mít, bòn bon, chanh, xoài, cà na… cùng với gà vịt tươi. Ngoài ra ông còn đem theo hai chị em là cháu ngoại của ông, kêu anh Châu bằng cậu, từ trong nội trú của dòng nữ tu Sacré Coeur tại Đà Nẵng, về chơi suốt ngày Thứ Bảy rồi đem trả lại nhà dòng sau lễ sáng Chủ Nhật. Người chị lớn tên Thanh còn được mấy đứa nhỏ trong nhà gọi là chị Agnès, thua tôi khoảng ba hay bốn tuổi. Mỗi khi đến chơi, Thanh luôn mặc đồng phục màu xanh da trời, nhìn vào biết ngay đang là đệ tử thanh tuyền.
Ngoài chuyện thỉnh thoảng tôi chỉ dạy cho các cháu nhỏ chút bài vở, nhất là các bài tập về toán vào cuối tuần theo sự yêu cầu của cha mẹ, cả đám xúm xít ngồi nghe tôi kể chuyện, thường vào buổi tối Thứ Bảy, bao gồm bốn đứa con anh chị chủ nhà, hai chị em Thanh và một đứa con trai khác là con của em gái chị chủ nhà. Tất cả đám từ Thanh lớn nhất cho đến đứa nhỏ nhất đều kêu tôi bằng cậu.
Giữa Thanh và tôi, chúng tôi luôn giữ một khoảng cách tuy rằng giống như mấy đứa cháu nhỏ kia, càng lúc càng thân tình một cách tự nhiên, và tôi luôn miệng kêu Thanh là chị Agnès.
Có một lần, tôi múa miệng khoe với chị Agnès là tôi biết coi chỉ tay vì tôi có đọc qua 2 cuốn sách La Main Qui Parle và Les Lignes De La Main. Đó là hai cuốn sách mà Măng tôi thường xuyên nghiên cứu và thỉnh thoảng giảng dậy cho tôi đôi chút trong những khi cầm bàn tay tôi để so các chỉ tay. Thế là chị đưa bàn tay cho tôi đọc. Tôi vừa cầm tay chị Agnès vừa thao thao bất tuyệt giảng và chỉ vào lòng bàn tay các lignes de vie, de tête, de coeur, de destinée mà nhiều người còn gọi là ligne de chance và vài lignes nhỏ phụ thuộc khác như de santé, de l’amour, de l’argent, de l’intuition… thì bỗng ông Ngoại của chị bước đến gần, trừng mắt với chị và ra dấu bắt chị vào trong nhà. Chị Agnès đứng dậy đi ngay; phần tôi cảm thấy vô ý, vụng về, và sượng cả người.”
Thế rồi, bẵng đi một thời gian lâu.
“Tháng 8, 1974, khi đoàn xe chuyển quân Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù của tôi trên đường từ Điện Bàn đến tham chiến tại một vùng phía Tây Đà Nẵng tạm ngưng di chuyển, tôi nhảy xuống xe và tình cờ nhìn thấy một giáo đường nhỏ nằm phía phải và cách quốc lộ chừng vài trăm thước. Tôi bước vào nhà thờ bấy giờ vắng hoe, đứng ở góc gần cửa ra vào, đọc kinh cầu nguyện xin Ơn Trên phù hộ cho tôi trong chuyến vào trận đầu đời lính của mình. Bước ra khỏi nhà thờ, tôi thấy một nữ tu trong bộ đồ màu xanh nhạt, có mang lúp cùng mầu trên đầu, dáng người nhỏ và gầy; tôi tiến lại gần nữ tu và hỏi tên nhà thờ giáo xứ. Sau đôi ba câu mở đầu, bỗng chị nữ tu thốt lên ‘Xin lỗi ông, có phải ông là em của mợ Châu trước đây ở Đà Nẵng không?’ Đang khi tôi chưa kịp nhớ tên người bà con, người nữ tu tiếp liền, có lẽ vừa đọc bảng tên màu đen của tôi trên áo trận.
‘Và ông tên Chánh phải không?’
Thế là chị Agnès và tôi cùng nhận ra nhau. Trong ít phút nói chuyện. Chị Agnès cho biết chị khấn hứa trọn đời vào cuối năm 1969. Sau một năm làm việc tại một giáo xứ trong Quảng tín, chị được điều về làm việc ở làng Hoà Vân từ đầu năm 1971.”
Vĩnh Chánh không hề kết luận, có phải vì cô Thanh đưa tay cho Vĩnh Chánh cầm, mân mê rồi xem tướng, song vì ông ngoại của cô bắt gặp, trừng mắt và ra dấu bắt cô vào bên trong nhà đã đưa đến việc sau này cô đi tu hay không. Nhưng người đọc có thể đoán, trong lúc bàn tay cô nằm trong bàn tay Vĩnh Chánh, trái tim cô đã có lúc xao xuyến.
Và khi gặp lại, cảnh người nữ tu bỗng thốt lên: “Và Ông tên Chánh phải không?” cho người đọc thấy rõ được có sự bồi hồi. Và khi có bồi hồi, dù chỉ trong vài phút ngắn ngủi, tức là có sự nhớ lại mối rung động trong quá khứ.
2. Truyện Bồ Câu
– Bà yêu thương cháu
“Khi vợ chồng tôi quyết định tìm đường ra đi, Măng tôi đã lặng lẽ góp phần. Nhưng chuyến đi đầu tiên thất bại. Tháng 6 năm 1978, vợ chồng tôi cùng cả nhóm vượt biên bị bắt tại Vũng Tầu đưa về trại giam Cần Giờ. Tôi bị chuyển trại về khám Chí Hoà, nhưng vợ tôi nhờ mang bầu sắp sinh nên được thả ra sớm.
Chính Măng tôi đã lo liệu chăm sóc khi con gái chúng tôi được sanh ra. Tên khai sanh của cháu là Hoài Anh, tên ở nhà là Bồ Câu do bà nội đặt. Lần đầu thăm nuôi, vợ tôi đứng cách tôi khoảng 20 thước và đưa Bồ Câu lên cao cho tôi nhìn thấy con. Chỉ nhìn từ xa thôi. Phải gần một năm sau, tôi mói có thể ôm con khi được thả ra khỏi khám Chí Hoà.
Măng tôi rất thương yêu cháu Bồ Câu, vì như lời bà nói, ngay khi còn là thai nhi, cháu đã cùng mẹ đi tù vượt biên. Khi cháu vào đời, bố còn tiếp tục nằm trong khám Chí Hoà. Bà thường cầm tay, vuốt tay cháu và khen Bồ Câu có bàn tay rất đẹp, giống như bàn tay của người ‘Chirurgien’. Bà còn nói, chắc sau này con bé sẽ thành một Y sĩ giải phẫu như ‘thằng bố của nó’.”
– Tai nạn thảm thương
“Một buổi sáng cuối tháng 10, 1981, cha mẹ đem Bồ Câu đến bệnh viện South Coast Medical Center ở thành phố Laguna Beach cho Bác sĩ Nha Khoa bọc bảy cái răng bị siết trong cùng một lần. Bé vui vẻ nói bye bye bố mẹ khi theo y tá vào phòng mổ. Trước khi Nha sĩ bọc răng, phải gây mê toàn diện, thủ thuật sẽ mất khoảng một giờ rưỡi, chúng tôi đuợc biết. Chờ quá hai giờ. Rồi ba giờ. Bốn giờ. Nôn nóng hỏi thăm, chỉ được bảo tiếp tục phải chờ.
Mãi xế chiều, một y tá đưa chúng tôi vào phòng hồi sức cấp cứu. Bồ câu nằm bất động trên giường, phủ chăn trắng. Không mở mắt, không hay biết. Bố mẹ sững sờ. Mới hồi sáng, bé tươi tỉnh, không một lo sợ, vẫy tay bye bye cha mẹ trước khi y tá đẩy xe vào phòng mổ, mà giờ đây như một xác không hồn. Y tá giải thích ngắn gọn là em bị phản ứng thuốc nên tạm thời hôn mê.
Sự thực không như lời người y tá giải thích. Qua thủ tục pháp lý chúng tôi nhận được phó bản của toàn bộ hồ sơ chữa trị. Riêng hồ sơ liên hệ đến giải phẫu và gây mê cho thấy chính bác sĩ gây mê đã gây ra tai hoạ. Thay vì đặt ống bơm dưỡng khí vào phổi, ông ta đưa ống vào bao tử, khiến bé hoàn toàn không nhận được dưỡng khí để thở trong 10 phút, gần như chết ngộp.
Hồi tưởng lại buổi sáng định mệnh ấy, khi ngồi trong phòng chờ, tôi nghe loa loan báo ‘code blue’ nhiều lần, cứ ngỡ là cho ai. Sau này mới biết lệnh cấp cứu đó chính là cho con mình. Đau đớn thay! Nhờ hô hấp nhân tạo, Bồ Câu sống lại, được nuôi qua ống chuyển sữa ensure từ mũi xuống bao tử, nhưng bộ não bị tổn thương trầm trọng.
Sau gần hai tháng chữa trị tại Children Hospital of Orange County với cha mẹ túc trực cạnh giường ngày đêm, bác sĩ cho biết Bồ Câu bị chứng Cerebral Palsy –Liệt Não– Nên dù sống sót nhưng cả hai phương diện thể xác và tâm lý đều sẽ phát triển chậm (both severe physical and mental retardation). Vì đòi hỏi săn sóc đặc biệt, đành phải chấp nhận chuyển bé qua trung tâm phục hồi chức năng trong một thời gian vô hạn định, nhưng không có ngày nào mà chúng tôi không ghé thăm Bồ Câu cho dù bụng thai của vợ càng ngày càng nặng nề.
Một ngày trời mưa sau Tết 1982, khi đến thăm, vừa vào bên trong toà nhà của trung tâm phục hồi, chúng tôi bắt gặp trên chiếc giường đẩy, ngay giữa hành lang, một thân hình bé nhỏ đang quằn quại trong cơn động kinh liên tục. Đến gần hình hài ấy chính là con mình. miệng nghiến chặt trong cơn động kinh liên tục, mình mẩy ướt mèm. Ôm con mà xót xa cay đắng. Còn cảnh cùng cực nào lớn hơn thử thách này, Chúa ơi! Tất cả chỉ còn nguyện cầu duy nhất là xin cho con mình được sống và sống chung với cha mẹ và gia đình, chứ không trong một trung tâm săn sóc xa lạ.
Từ đó không ngày nào chúng tôi không tới thăm Bồ Câu. Điều cầu nguyện cho con được sống và sống bên cha mẹ trở thành một quyết tâm thôi thúc vợ chồng tôi sát cánh, tiến hành mọi thể thức.”
– Nguyện Cầu cho con được sống, và sống bên cha mẹ.
“… Với trợ giúp từ các cơ quan xã hội để chuẩn bị đem con về nhà.
Đứa con thứ hai ra đời ngày 10 tháng Tư, 1982. Dù phải chịu đựng quá sức khi mang thai, nhưng cháu Bea vào đời bình an, xinh xắn, khoẻ mạnh. Ngay ngày thứ hai sau khi rời bệnh viện sản khoa, chúng tôi đến thẳng trung tâm phục hồi, ký giấy đón Bồ Câu về nhà.
Sau tai hoạ, ơn trên cho chúng tôi được hưởng nhiều phép lạ trên cả mức chờ đợi.
Đầu tiên, là từ khi về lại nhà, Bồ Câu vĩnh viễn thoát khỏi chứng động kinh co giật. Con mắt bắt đầu có thần hơn dù vẫn chưa di chuyển lên xuống qua về. Nhờ từng được hướng dẫn và thực tập, vợ tôi đã có thể một mình đặt ống naso–gastric tube từ mũi xuống bao tử cho con, sau đó trong suốt cả năm sau đó còn tập cho Bồ Câu uống qua đường miệng, từ giọt, tăng lên 2 giọt, 3 giọt rồi kiên nhẫn tập cho bé nuốt từng chút nhỏ đồ ăn nghiền đến từng 1 hột cơm, 2 hột cơm.
Tiếp theo, là chỉ sau khi có Bồ Câu về nhà, cuối tháng Tư 1982, tôi được nhận vào làm bác sĩ tổng quát cho bệnh viện tư Leesville General Hospital, thuộc Tiểu bang Lousiana. Leesville là một thị xã nhỏ của vùng Southern nơi dân bản xứ có tiếng là kỳ thị.
Với tôi, cơ hội trở lại hành nghề bác sĩ tại đây đồng thời cũng là một thử thách sinh tử, đòi hỏi sự bén nhậy khi định bệnh, tận tụy khi trị liệu. Khi giao thiệp bằng tiếng Mỹ, dù chưa thể thuần thục, vẫn cần sự chính xác, tinh tế trong ngôn từ. Đó là thời kỳ phải vừa làm vừa học, vừa giữ gìn nhân cách của một Bác sĩ Việt duy nhất trong vùng.
Rất may mắn, chỉ một thời gian sau, tôi chính thức được bệnh viện chấp nhận như một bác sĩ chính ngạch, tăng lương thêm 50% cộng bonus cuối năm. Nhờ vậy, cuộc sống gia đình mau chóng được ổn định. Số lượng bệnh nhân đến khám với tôi nhiều hơn. Trong những lần gia đình ra bên ngoài, nhiều dân cư bản xứ dừng lại bắt tay tôi và chào hỏi vợ con tôi.
Sau trên một năm được kiên trì tập luyện, Bồ Câu tạm thời đã có thể uống sữa, ăn cháo, ăn cơm với luôn cà rau thịt cá cắt nhỏ, khi được mẹ đút vào miệng. Phản xạ nuốt tốt dần. Phép lạ lại xảy đến khi chúng tôi quyết định rút ống chuyển mũi–bao tử. Bồ Câu giữ khả năng ăn, nuốt bằng miệng, thân thể dần mạnh hơn, tay chân cứng cáp dần, miệng bắt đầu biết cười và bập bẹ ư ê như em Bea, khi hai chị em ở cạnh nhau.
Nhờ thu nhập khá dần, căn nhà mới có phòng tập lớn với đầy đủ tiện nghi, ngày ngày luôn có người thay phiên đến nhà làm việc, luyện tập cho Bồ Câu, nào là physical therapist, occupational therapist, speech therapist, sức khoẻ của bé hồi phục dần.”
VII. Về triết lý sống
– Ông thường lạc quan.
– Ông cũng nhận rằng cuộc đời là bể khổ theo cách Phật giáo thường nhắc tới:
“Nếu thấy và hiểu đời là bể khổ, mỗi người ai cũng có một cây thánh giá để vác, không cái nào nhẹ hơn cái nào thì chúng ta dễ dàng chấp nhận những sự bất như ý trong cuộc sống. Vấn đề là rán vác làm sao cho khéo léo. Nhẹ nhàng thì tốt hơn. Đỡ khổ hơn.”
– Khi viết về trái Cóc, ông nêu lên một ý:
“Mình đến tuổi chỉ thích ngọt thôi. Cay và chua làm gì nữa!?”
– Phát biểu về Tình yêu:
“Bạn ơi! Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi. Và chen vào giữa đời lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì chỉ duy nhất tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khổ, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để sống sót vươn lên trong thử thách bão lửa. Cho dù đó là tình quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ. Là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương. Hoặc chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.
… Tình yêu đó như thể cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng.”
VIII. Văn phong
Trong mọi chương của cuốn sách, dù viết về điều gì, Vĩnh Chánh cũng không bao giờ dùng một chữ nào của cái giống Việt cộng cả. Đó là một điểm đáng phục.
Vĩnh Chánh viết một cách linh hoạt:
A – Khi viết về thân phụ và những biến chuyển chính trị thời đó, ông viết rất cặn kẽ, nghiêm trang. Người đọc dễ chú tâm để tìm hiểu.
B – Tới phần về cây trái, hoa quả, ngòi bút của Vĩnh Chánh đưa người ta vào trong vườn, để hưởng làn gió hiu hiu, và thanh nhàn thưởng thức hương thơm vị ngọt trong khung cảnh thanh bình.
C – Tuy nhiên lời văn của ông không chỉ như thế. Văn ông không đơn điệu. Có lúc chợt như sét đánh ngang trời. Dưới đây là vài đoạn tiêu biểu:
a/ Về Tết Mậu Thân
“… Đúng vậy, Có ai ngờ quân cộng sản đã mưu mô xé lệnh hưu chiến, đem chiến tranh đến tận các thành phố trong những ngày thiêng liêng của đât nước trong Tết 1968. Biết bao nhiêu người đã lo âu sợ hãi khi nhìn thấy chiến tranh với bom đạn và chết chóc đến ngay tận làng xóm mình, ngay tận nơi nhà mình? Đã nhìn thấy cảnh đổ nát kinh hoàng của thành phố, đã kẹt giữa hai lằn đạn? Đã chứng kiến sự dã man tàn ác của phe gọi là giải phóng? Có bao nhiêu người là chứng nhân cho sự thảm sát tại Huế khi người thân trong gia đình, người quen trong khu phố bị giết chết, bị bịt mắt đem đi thủ tiêu, bị tra khảo, đập vào đầu trước khi bị xô xuống khe suối hay bị cột chùm chôn sống với 2 tay bó chặt đằng sau lưng bằng dây điện thoại? Ở đâu ra những hố chôn tập thể tại Gia Hội, Gò Cát, Bãi Dâu, Tây Lộc, Phú Thứ, Đá Mài…? Và biết bao ngàn người đã ai oán khóc trong căm hờn và đã chít khăn tang?”
b/ Trong phần kể về cuộc hành quân ở Đại Lộc:
“… Sau này, khi Nhảy Dù và trên đường tiến đánh chiếm lại ngọn đồi 1062 ở Thường Đức–Đại Lộc vào tháng 7, 1974, tôi di hành theo chân với Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, vượt qua nhiều đồi trọc tràn ngập bởi màu tím Hoa Sim. Một màu tím đẹp… chết người, và nguy hiểm vì đã chôn đầy mìn cá nhân trên quãng đường lắt léo quanh co qua các ngọn đồi lên đến bìa rừng trên cao, đề phòng và chống trực thăng vận của phe ta. Sau khi công binh mở đường dò mìn đi trước, mọi người trong đơn vị được căn dặn cẩn thận đi hàng một, người sau theo đúng chân người đi trước. Ngay cả khi lệnh trên cho nghỉ, hay cá nhân muốn đi tiêu tiểu, đều phải đứng trên con đường nhỏ. Một chuẩn úy trong đại đội chỉ huy bước ra ngoài con đường cách bộ chỉ huy Tiểu Đoàn nơi tôi đang đứng nghỉ không quá 20 thước. Trong một tích tắc một tiếng nổ ầm vang lên cùng với bụi khói và mùi thuốc súng, anh đã gục ngã tại chỗ giữa những bụi cây Sim tím, với hai cẳng chân hoàn toàn bị cắt lìa do sức nổ. Đó là cái chết đầu tiên tôi đau khổ chứng kiến. Dù đã nhanh tay làm hồi sinh cấp cứu.”
c/ Trong lúc đơn vị ông trấn giữ cầu Bình Triệu:
“… Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên ‘Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…’ và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động…”
D – Bác sĩ Vĩnh Chánh viết, giống như cách giãi bày tư tưởng trong một lá thư gửi về cho gia đình. Cũng như cách đang nhắp rượu hay uống trà, rồi khề khà tâm sự cùng bạn thân.
Cuốn Tháng Ngày Tao Loạn chấm dứt ở trang 287. Ông đã dứt lời, nhưng người đọc vẫn còn rỏng tai lên, muốn nghe tiếp. Ông đã đạt được đến mức Văn hết, mà Ý chưa hết. Ý hết, mà Tình chưa hết. Có người sẽ hỏi: Tình chưa hết là thế nào? Lời thưa của tôi là, xin mời đọc tiếp sẽ hiểu.
Bác sĩ Vĩnh Chánh là người:
1. Chí tình với người yêu mà chàng đã phải theo đuổi 9 năm, rồi mới thành được vợ chồng cho đến nay.
Lễ cưới Vĩnh Chánh & Minh Châu, 3 ngày sau khi mất nước
“Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi đây là ‘đám cưới chạy tang khi mất nước’ diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. Hình ảnh kỷ niệm chỉ có hai tấm hình đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi tù vượt biên, em đã cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho đến khi chúng ta đến bến bờ tự do.”
2. Từ ái đối với con
Bồ Câu, người con gái đầu lòng của Ông, chẳng may gặp tai nạn do đánh thuốc mê, trong một cuộc chữa răng. Bộ óc bị hỏng từ lúc đó. Sống được, nhưng từ ăn uống cho tới đi đứng đều cần được giúp, đến nay liên tục hơn 40 năm.
Bác sĩ Vĩnh Chánh đi đâu cũng đem cháu theo. Từ những buổi họp mặt giữa thân nhân, bè bạn cho tới những buổi Đại hội Y–Nha–Dược Sĩ, ngay đến cả những buổi ra mắt sách nữa.
“… Gia đình đông dần với sự ra đời thêm 2 đứa con sinh sau. Dù bận rộn tất bật hơn, chúng tôi luôn sinh hoạt chung với các con, từ trong nhà cho đến ra bên ngoài, ở đâu có cha mẹ là có đầy đủ 4 đứa con. Nếu cha không kịp đẩy xe lăn cho Bồ Câu thì Bea đẩy chị. Nếu mẹ chưa kịp cho chị ăn thì Betty lo giùm.
… Dù ở nơi xa lạ, không thân thích, không một bóng đồng hương, nhưng đúng là lời chúng tôi cầu xin cho con được sống và sống với cha mẹ đã được bề trên lắng nghe. Các linh mục trong nhà thờ giáo xứ đặc biệt cho phép Bồ Câu chịu phép rước lễ vỡ lòng ở tuổi 18 (First Holly Communion) dù Bồ Câu không qua lớp giáo lý căn bản.
… Cô học trò Bồ Câu 41 tuổi nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già, khi vẫn còn có một đứa con trong nhà để coi ngó, săn sóc, vui chơi, đi đâu cũng có nhau. Đêm đêm, chúng tôi vẫn cùng nhau cầu nguyện, tạ ơn trên cho con được sống và sống bên cha mẹ, như điều từng nguyện ước.”
MỘT NGÀY THƯƠNG CON
Con đã trên bốn mươi Vẫn non nót, thơ dại Như thuở mới vào đời Bên mẹ cha thân ái
Sáng sớm thức con dậy Bữa điểm tâm đang chờ School bus đến đúng giờ Đón con tới trường học
Áo quần đã tươm tất Cô học trò bốn mươi Cùng bạn bè vào lớp Học yêu đời, yêu người
Xế chiều, trời rực nắng Xe trường đưa con về Có mẹ cha đầm ấm Dìu con từng bước đi
Ti vi chiều football Cha con cùng la hét Mẹ vui lây cười giòn Bữa ăn chiều ngon ngon.
Tháng 2, 2017
Năm trăm năm trước công nguyên, triết gia Lão Tử (còn gọi là Lão Đam), lúc đang 70 tuổi, thấy cha mẹ đã quá già yếu, thường hay buồn rầu, ông hàng ngày đứng trước giường cha mẹ, kể chuyện và làm trò giống như một đứa con nít, để cho cha mẹ vui.
Ngày nay, 25 thế kỷ sau, Bác sĩ Vĩnh Chánh muốn cho người con bị tật nguyền vui, cùng với con xem football trên truyền hình rồi cùng la hét.
Cả hai tấm gương cổ kim trên, đều đáng quý và đáng trọng. Một người chí hiếu với bố mẹ. Một người rất mực từ ái với con.
Cả hai đã sống, và cư xử với cả tấm lòng “phụ từ, tử hiếu”.
3. Thương xót oan hồn những kẻ bị thảm sát.
“… Vì vài ngày sau, Cộng sản Bắc Việt và bọn Việt cộng nằm vùng tráo trờ xé bỏ đình chiến cho 3 ngày Tết và dốc sức tấn công chiếm giữ Huế trong 3 tuần, gây bao tang thương chết chóc cho dân Cố Đô. Xin ngậm ngùi xót xa tưởng nhớ đến Giáo Sư Gunther Krainick, Giáo Sư Raymon Disher, Giáo Sư Alter–Koster đã bị thảm sát và chôn trong cùng một ngôi mộ tại khuôn viên chùa Tường Vân, Thầy Nguyễn Văn Đệ bị chúng bắt theo và chết trên đường dài ra Bắc, một số nhỏ anh chị em trong trường Y Khoa kẻ thì mất tích, người thì duồn theo phía địch, hay bị giết, cùng chung số phận với trên năm ngàn người dân, công chức, linh tráng… bị bắn bỏ, đập vỡ sọ, chôn sống trong các ngôi mộ tập thể… Thế giới sững sờ và công phẫn khi nhìn thấy sự dã tâm và sắt máu của con người cộng sản, giết người hàng loạt trong khi lại nhân danh giải phóng. Thật là mỉa mai và nghịch lý!”
4. Và vô cùng yêu Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
“… Giờ đây, nhìn lại ngày tháng tuổi hoa niên của mình, tôi nhận biết đã làm một quyết định đúng khi vào Nhảy Dù. Tôi đã Đi. Đã Thấy. Đã sống. Đã làm tròn Bổn Phận với Đất Nước. Đã qua vinh quang cũng như tủi nhục. Và chưa một lần tôi hối tiếc thời gian tôi phục vụ Quân Y Nhảy Dù, cho dù đã phải trả cái giá của mấy năm tù tội và gian nan trên biển cả.
… Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước Việt Nam, khi chính thể Cộng sản hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những người bạn từ xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn đã chết trong các biến cố của đất nước, trong các trại tù, trên biển… nhập tiệc. Kẻ đang sống và người thiên cổ bên cạnh nhau. Cùng hoài niệm đến một miền thuỳ dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, và để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương.”
Tất cả những điều trên đây đều phát ra từ “Tâm” của Bác sĩ Vĩnh Chánh.