Christian Golcyznski, 8 tuổi, trong đám tang của Cha –Marine Staff Sgt. Marcus Golcyznski – tử trận tại Iraq, 2007. (1)
ĐIỆP MỸ LINH
Thời gian gần đây, những biến động tại Afghanistan khi Hoa Kỳ rút quân khiến nhiều ngòi bút đưa ra sự so sánh giữa miền Nam Việt Nam, tháng Tư năm 1975 và Afghanistan, tháng Tám năm 2021. Vâng, tôi thấy vài điểm tương đồng như Cha Mẹ đưa em bé qua hàng rào kẽm gai để em bé được vào vòng tay của người lính Mỹ – chỉ với hy vọng cho con được đến chốn an toàn. Taliban đến từng nhà, tại Afghanistan, treo cổ những người làm việc cho Mỹ. Vài người liều, “đu” theo máy bay, bị rớt, chết; trong số này có một thanh niên thuộc Afghanistan’s youth natonal football team, v.v. Ngoài vài điểm tương đồng như trên, tôi còn nhận thấy ba điểm rất đáng chú ý. 1.- Năm 1973, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam; Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) giữ vững miền Nam cho đến năm 1975. 2.- Năm 2021, Mỹ rút chưa hết quân khỏi Afghanistan mà quân Taliban đã chiếm thủ đô Kabul của Afghanistan rồi! 3.- Nếu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có câu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm!” thì, tại Afghanistan cũng có câu: “No one trusts anything that comes from the Taliban’s mouth.” Link: https://www.cnn.com/2021/08/20/asia/afghanistan-taliban-rule-friday-intl/index.html]
Riêng tôi, kể từ ngày Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan, tôi cứ hồi hộp, lo âu và cầu nguyện để Taliban đừng pháo kích bừa bãi vào đoàn người chạy loạn hoặc pháo kích vào phi trường Kabul – như cộng sản Việt Nam (csVN) đã pháo kích vào phi trường và pháo kích chính xác vào đoàn người cùng dòng máu Lạc Hồng – đang chạy về phía VNCH để được che chở, năm 1975. Trong khi tôi đang thầm vui vì tưởng rằng Taliban không tàn ác như csVN thì, bản tin trên CNN, ngày 08/26/2021, làm tôi tức giận. Trưa nay, 08/27/2021, tôi lại thấy tin bổ túc, lúc 12:36 PM ET: “… a bombing at Kabul’s airport killed at least 170 people including 13 US service members {…} More than 200 people were injured in Thursday’s attack, an official with Afghanistan’s Ministry of Health told CNN on Friday…” Link: https://www.cnn.com/2021/08/27/asia/afghanistan-kabul-airport-attack-update-intl-hnk/index.html
Thì ra, cái ác lúc nào cũng chập chùng trong thế giới này! Tôi ngậm ngùi nghĩ đến những vụn vỡ trong trái tim của người Mẹ, người vợ, người con, người chị/em gái và người tình của người lính Mỹ – tưởng sắp thoát được vùng lửa đạn – phải gục ngã vào giờ phút cuối!
Là một ngòi bút không chuyên nghiệp, không thích và không muốn tìm hiểu về chính trị, tôi chỉ xin được nhìn hai sự kiện Việt Nam 1975 và Afghanistan 2021 từ “lăng kính” của một phụ nữ. Tôi chỉ xin được viết từ tâm thức của một người Mẹ, người vợ, người con, người chị, người yêu hoặc là người em gái của một người lính tác chiến.
Từ vị thế của người vợ, những lần được tháp tùng các cuộc hành quân hỗn hợp của Hải Quân VNCH – để viết tường thuật – tôi đã thấy và cảm nhận được sự hy sinh cũng như nỗi đau trong lòng người lính Mỹ khi phải xa quê hương để dấn thân vào cuộc chiến mà chính họ không hiểu được lý do!
Lần đầu tiên tôi thấy người Mỹ – Hải Quân Đại úy Graham, cố vấn trưởng của Duyên Khu II – đổ máu trên chiến trường Việt Nam là năm 1964, tại Vĩnh Hy, Cam Ranh. Thời điểm đó, Hải Quân Trung úy Hồ Quang Minh (Bố của các con tôi) là Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn 26, hậu cứ tại Bình Ba, vịnh Cam Ranh.
Lần thứ hai, khi Minh chỉ huy Giang Đoàn 30 Xung Phong, tham dự hành quân dài hạn Tam Giác Sắt. Cố vấn của GĐ30XP – Hải Quân Trung úy Martin – bị thương nặng, trên chiếc Command.
Lần thứ ba, Hải Quân Đại úy Blust – cố vấn của GĐ26XP, hậu cứ tại Long Xuyên – bị Việt cộng “bắn sẻ” trên chiếc Command, trong lúc Minh chỉ huy đoàn chiến đỉnh giang hành trên kinh Trèm Trẹm, để tiếp cứu đồn thứ Chín.
Lần thứ tư, tại xã Hộ Phòng, quận Gia Rai, cũng thời điểm Minh chỉ huy GĐ26XP. Trên con kinh đào rất hẹp, Hải Quân Đại úy Taylor – cố vấn của GĐ26XP – bị thương vì Việt cộng bắn B–40 vào chiếc Command.
Lần thứ năm, tại Kinh Ngang, Minh là Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn V Tuần Thám. Khi đoàn PBR – Patrol Boat Riverine, khinh tốc đỉnh – đến khúc cua ngặt, bị B–40, B–41 của Việt cộng bắn xối xả. Một B–41 xuyên qua khinh tốc đỉnh chỉ huy. Minh và cố vấn Gronados đều bị thương.
Đối với tôi, cảnh lửa đạn trên sông hoặc dọc bờ sông, vào ban đêm, mang nặng tính chất hào hùng và bi thảm. Nhưng, hình ảnh và tiếng hát nghẹn ngào của Hải Quân Đại úy Ashmore – thay thế cố vấn Blust, GĐ26XP – nơi mũi chiếc Command vào một đêm trăng, trên sông Cái Lớn, lại cho tôi hiểu thế nào là thương nhớ, thế nào là cô đơn, thế nào là bơ vơ, lạc lõng của một người lính chiến phải xa quê hương cả nửa vòng trái đất!
Gần nửa thế kỷ qua, không thể nào tôi nhớ được tựa đề của ca khúc mà Ashmore thường hát trên những dòng sông nhuộm máu. Nhưng giọng hát đầy u uẩn và bóng dáng đơn độc của Ashmore nơi mũi chiếc Command thì mãi hoài đọng lại trong hồn tôi!
Mỗi khi nhớ lại giọng hát và hình ảnh của Ashmore, tôi tự hỏi: Từ khi tôi được sinh ra cho đến bây giờ, biết bao nhiêu ngàn lính Mỹ đã “rơi” vào tình cảnh bơ vơ, lạc lõng sau mỗi trận chiến – nếu họ may mắn còn sống? Biết bao nhiêu ngàn lính Mỹ bị tàn tật? Biết bao nhiêu ngàn lính Mỹ đã bị “mất xác”?
Nhắc đến người lính Mỹ bị “mất xác”, tôi xin trích một phân đoạn từ tùy bút Tạ Ơn Mảnh Đất Này, của ĐML, có liên quan đến sự “trở về” của First Lieutenant Paul Magers!
“… Paul Magers chết khi chàng chỉ 25 tuổi và mới đến Việt Nam chỉ có hai tuần! Paul biết quê tôi chỉ có hai tuần nhưng thân xác của Paul thì ‘ở lại’” đó đến gần 40 năm! Trong ảnh, nụ cười của Paul rất rạng rỡ, vô tư. Nụ cười đó mà biết hận thù ai! Ánh mắt đó mà muốn bắn giết ai! Bởi vậy mới có một chiến binh Hoa Kỳ – James Lenihan – trong trận Thế Giới Đại Chiến II, đã bắn kẻ thù xong thì gục đầu bên xác kẻ thù mà khóc:
I shot a man yesterday
And much to my surprise,
The strangest thing happened to me
I began to cry.
He was so young, so very young
And Fear was in his eyes.
He had left his home in Germany
And came to Holland to die.
I knelt beside him
And held his hand
I begged his forgiveness
Did he understand?
It was the War
And he was the enemy
If I hadn’t shot him
He would have shot me.
I saw he was dying
And I called him “Brother”
But he gasped out one word
And that word was “Mother.” ... (2) (Hết trích)
Kể từ Thế Giới Đại Chiến thứ II, theo tài liệu trên internet, số thương vong – không kể thương binh –của lính Mỹ trên thế giới là:
• Thế Chiến Thứ II: 461,800.
• Việt Nam: 58,220.
• Iraq: 4,431.
• Afghanistan: 2,376.
• Triều Tiên: Chưa được ghi nhận.
• Bị bệnh Posttraumatic stress disorder (PTSD): Chưa được kiểm chứng.
• Tự tử sau mỗi cuộc chiến: Chưa được phổ biến.
Một đất nước – the United States of America (USA) – đã đóng góp cho thế giới Tự Do bao nhiêu nhân sự và xương máu, chưa kể tài chánh, quân trang, quân dụng, khí giới, v.v. mà mỗi lần USA rút quân khỏi một nước nào thì USA cũng đều nhận bị “lên án”, như “đâm sau lưng đồng minh”, “tháo chạy”, “bội ước”, “phản bội”, v.v.
Thế csVN bội ước, xâm phạm bao nhiêu Hiệp Ước ngưng bắn trong cuộc chiến 21 năm trên Quê Hương tôi, để cuối cùng cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, đã ai thẳng thắn, mạnh dạn lên án csVN chưa?
Chưa!
Điều cay đắng và mỉa mai nhất là: Mỗi lần Hoa Kỳ “phản bội”, “tháo chạy”, “bội ước” một nước nào thì chính người lính Mỹ cũng phải canh gác, giữ trật tự, an ninh – nhiều khi phải chết vì những nhiệm vụ sau cùng này, như sáng 26 tháng 08 năm 2021, tại phi trường Kabul – chỉ với mục đích đem được càng nhiều dân địa phương càng tốt về Mỹ để... nuôi, làm người tỵ nạn!
Biết bao nhiêu con cháu của các sắc dân tỵ nạn tại Mỹ đã thành công vượt bực trên nhiều lãnh vực, trong mọi địa hạt; thế mà đã có tổ chức nào của người tỵ nạn thành lập Hội Giúp Đỡ hoặc biết ơn Thương Binh và tử sĩ Hoa Kỳ chưa?
Chưa!
Người lính Mỹ, trong nhân dáng hiên ngang, với những bước chân chắc nịch, đôi mắt nhìn thẳng và kỹ thuật tác chiến tuyệt vời. Nhưng người lính Mỹ cũng có trái tim biết rung động, biết nhớ thương, biết đau khổ như bạn và tôi. Xin đừng “thần thánh hóa” hoặc đòi hỏi những điều mà người lính Mỹ không thể thực hiện được; vì người lính Mỹ còn phải chu toàn bổ phận đối với người hôn phối, gia đình và người thân.
Xin hãy nghĩ đến những trái tim tan vỡ trong mỗi gia đình, khi một người lính Mỹ gục ngã!
Tôi quan niệm, người Mỹ chỉ như người láng giềng tốt bụng. Khi bạn bị té ngoài sân, người láng giềng tốt bụng đó chỉ có thể đỡ bạn dậy, gọi 911 rồi an ủi, phủi bùn đất cho bạn. Thế là bạn may mắn rồi! Đừng buồn trách khi người láng giềng đó không ở lại đàn hát cho bạn nghe trong thời gian bạn dưỡng thương!
Nhưng, khi gia đình bạn nuôi một con thú bất trị, chuyên phá phách trong nhà, sân vườn của bạn, của làng xóm – có khi cắn người thân của người láng giềng tốt bụng – thì người láng giềng tốt bụng đó sẽ không ngại ngùng gì mà không kiện bạn hoặc giết con thú bất trị của bạn.
Sau đó, người láng giềng đó có thể chỉ dẫn cho bạn cách thức làm vườn, trồng những loại hoa đẹp. Thế thôi! Bạn không thể buộc người láng giềng đó phải tự tay chăm sóc vườn hoa cho bạn hoặc “đền” cho bạn con thú khác!
Để kết thúc bài viết, tôi xin mượn lời của một cựu quân nhân Mỹ từng tham chiến tại Iraq.
Veterans Club Founder and CEO Jeremy Harrell, an Army veteran who served in Iraq, said: “I think that’s a really good idea. I’m glad President Biden is keeping President Trump’s idea to bring troops home and to get folks out of Afghanistan.”
(1) Hình trong bài của Wonbo Woo, Kate Snow and Tracy Connor – ngày 20, Dec. 2013 – US News. (2) Washington (CNN) – What does it feel like to kill a man? James Lenihan of Brooklyn knew. He fought in Europe in World War II and he killed a German soldier during a battle in Holland.
Nguyễn Hữu Huấn Dr. Rupert Neudeck: Sống thanh đạm, hoạt động cao cảRất nhiều người đã cho rằng: Chúa Giêsu và triết gia người Pháp Albert Camus (1913-1960) là hai thần tượng của Dr. Rupert Neudeck, xuyên qua dụ ngôn “Người Samirita nhân hậu” trong Kinh Thánh và “huyền thoại Sisyphos” của Albert Camus, người đoạt giải Nobel văn học qua các sáng tác của ông đã đưa ra ánh sáng những vấn đề phải đặt ra cho lương tâm loài người trong thời đại này. 77 năm trên dương thế của Dr. Neudeck đều được tóm gọn trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa với lòng nhân hậu cứu độ tha nhân, bất chấp bất cứ chống đối nghịch cảnh nào, không khác gì một Sisyphos nhỏ bé phải lăn một tảng đá tròn khổng lồ lên đỉnh một ngọn núi dốc cao chót vót. Suốt cuộc đời hành sự nhân đạo cứu người của ông đều được phát xuất từ tinh thần bác ái Thiên Chúa Giáo, cộng với ý tưởng nhân bản qua lời của Albert Camus: “Con người không phải xấu hổ khi mình đang được hưởng hạnh phúc, nhưng họ sẽ phải xấu hổ khi chỉ biết giữ lấy hạnh phúc đó cho riêng mình.”Tôi may mắn – có thể nói là một diễm phúc – lần đầu tiên được hội ngộ với Dr. Rupert Neudeck vào tháng 4 năm 1980, khi ông dẫn đầu phái đoàn của Ủy Ban Cap Anamur có ông Hans Voss (chủ tàu Cap Anamur – người đã hiến tặng tàu này để vớt thuyền nhân VN trong 3 năm mà không nhận tiền thuê mướn) và bà bác sĩ Bärbel Krumme, đến trại tỵ nạn Singapore thăm các thuyền nhân tỵ nạn VN được tàu Cap Anamur cứu vớt. Ông linh hoạt, nhanh nhẹn, áo chemise trắng, quần jean, vai đeo lủng lẳng túi xách màu xám lòng thòng dây nhợ từ cái máy thu băng và tươi cười hỏi thăm từng thuyền nhân ông gặp.Cái tên “Rupert Neudeck” thật rất lạ và chẳng có ý nghĩa gì cho lắm đối với một thuyền nhân tỵ nạn vô danh vừa được tàu Cap Anamur cứu sống trước đó chỉ một tháng.
Không thể ngờ rằng, từ hôm đó cho đến ngày ông lìa đời, tôi được theo chân ông và cùng với ủy ban Cap Anamur và Hội Mũ Xanh (cả hai đều do ông sáng lập), đã có những liên hệ mật thiết, từ các công tác thiện nguyện cứu người đến những sinh hoạt bình thường cá nhân, từ những chuyến công tác xa xôi đến những sợi dây vô hình gắn bó giữa hai gia đình thành một đại gia đình. 34 năm làm việc với gia đình ông, tôi đã học được rất nhiều điều cần phải học; 34 năm cùng chung niềm vui mỗi khi công tác hoàn thành như ý; 34 năm được ông hướng dẫn để vượt qua những khó khăn trong nhiều dự án… và 34 năm cũng là thời gian đủ để hiểu rõ con người ông, cá tính của ông và cả những ước vọng của ông.Sống nhân đức, khổ hạnh, tự nghiêm khắc với mình, rất giản dị, hiền hoà và có đầu óc khôi hài dí dỏm, nhưng lại có những suy nghĩ táo bạo khác người, bướng bỉnh, nhiều khi độc đoán, thẳng thắn chỉ trích chống đối, lì lợm và liều mạng, dám nói dám làm những gì mà người khác chưa nghĩ đến hoặc không dám nghĩ đến: đó là 2 con người đối nghịch trong cùng một con người mang tên Rupert Neudeck, nhưng ông lại thành công trong hầu hết những công việc nhân đạo mà ông muốn thực hiện, khiến những kẻ chống đối đả kích ông trước đây, sau này đều phải cảm phục kính trọng ông.Trong suốt quá trình cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn VN từ năm 1979 đến năm 1988, Dr. Rupert Neudeck là người đứng mũi chịu sào trước những chống đối mãnh liệt của hầu hết các chính trị gia trong chính quyền Đức thời đó. Bây giờ, 37 năm đã trôi qua và Dr. Rupert Neudeck cũng không còn nữa, tôi xin kể vài câu chuyện rất ít người biết sau hơn 34 năm học hỏi theo gót chân ông, để tưởng nhớ đến ông và cũng để chúng ta thấy được con người của ông với những táo bạo liều lĩnh và tấm lòng nhân hậu của ông đối với các thuyền nhân tỵ nạn VN cũng như người tỵ nạn trên thế giới nói chung.Thuở ban đầu, ít ai biết chuyện có nhiều phần tử cực đoan quá khích người Đức đã ném từng gói phân vào nhà ông như một hành động chống đối việc ông đang kêu gọi cứu vớt thuyền nhân VN. Ông không nản lòng và bà thì chỉ thấy tội nghiệp cho họ, vì khi họ phải tự gói đóng những thứ này thì chính họ đã phải ngửi trước mùi vị của nó. Nhiều người gọi ông là “tên quái gở” hay là “kẻ buôn người”.Ông chỉ trích thẳng thừng chế độ quan liêu cứng ngắc của chính quyền Đức và sự thờ ơ của các chính trị gia Đức thời đó. Mặc dù là người tu xuất theo Dòng Tên (Jesuits), một tín đồ Công Giáo thuần thành, sau này ông vẫn phê bình cả Giáo Hội Công Giáo Đức là quá hoang phí tiền của để sửa sang nhà thờ, trưng bày hoa nến một cách xa hoa, hay chỉ biết ngày đêm cầu nguyện trong phòng kín mà không thực sự bằng hành động cứu giúp tha nhân đang khốn cùng chết chóc, nghèo đói vì chiến tranh hay thiên tai. Ông kêu gọi phải chấm dứt việc này vì theo ý ông, đó chính là Giáo Hội Công Giáo của ngày mai. Ông cũng không tán thành việc thu thuế nhà thờ từ các tín đồ Thiên Chúa Giáo mà ông cho rằng đó là một trong những nguyên nhân giới trẻ Đức bỏ đạo. Bù lại, ông vui mừng và hãnh diện là thuyền nhân tỵ nạn VN đã đóng góp cho Giáo Hội Công Giáo Đức hơn 10 vị Linh Mục và nhiều tu sĩ nam nữ, thí dụ chỉ trong một ghe tỵ nạn được cứu vớt vào đầu năm 1982 đã có đến 3 vị Linh Mục, 2 hiện ở Đức và 1 ở Úc. Ông còn can đảm công khai chỉ trích và lên án chính sách chà đạp nhân quyền của chính phủ Do Thái đối với người Palestine, một việc mà giới truyền thông Đức không bao giờ dám làm mà chỉ đưa tin và không bao giờ dám phê bình chỉ trích.Hai lần con tàu Cap Anamur bắt buộc phải chấm dứt trở về cảng Hamburg là hai lần đã cứu vớt đủ số lượng thuyền nhân tỵ nạn VN đã được chính quyền Đức phê chuẩn chấp nhận vào định cư tại Đức. Ông đã liều mạng bất chấp luật lệ và hậu quả, ra lệnh cho chúng tôi mỗi lần trước khi trở về phải kéo dài thêm thời gian tìm cứu người vượt biển và cố gắng vớt thêm được càng nhiều càng tốt. Chính vì thế mà lần thứ nhất, tháng 5 năm 1982, chuyến cuối cùng của tàu Cap Anamur I đã mang theo 178 thuyền nhân tỵ nạn cập cảng Hamburg, trong khi con số được chấp thuận chỉ còn vỏn vẹn vài chục. Rồi đến tàu Cap Anamur II sau hơn 3 tháng hoạt động đã phải trở về Hamburg vào tháng 6 năm 1986 với 357 thuyền nhân, trong khi chỉ còn hơn 100 được chấp thuận trước đó. Ông đã mạo hiểm cố tình đẩy chính quyền Đức lúc bấy giờ vào thế tiến thoái lưỡng nan, bắt buộc phải nhận thêm số người thặng dư này vì cả hai con tàu đều mang quốc tịch Đức và cảng mẹ cũng tại Đức (theo luật tỵ nạn LHQ lúc bấy giờ). Cũng trong thời gian này, chính quyền Đức đã hai lần trao tặng ông Huân Chương Danh Dự (Bundesverdienstkreuz), loại huân chương cao quý nhất của Đức; Hai lần ông đều từ chối và sẵn sàng đổi 2 huy chương đó lấy 2 chuyến tàu tiếp tục đi vớt thuyền nhân tỵ nạn VN.Năm 1987, nước Đức cương quyết không nhận thêm thuyền nhân VN nữa, ông hợp tác ngay với hội Y Sĩ Thế Giới của Pháp (Médecins du Monde) cho ra con tàu Cap Anamur III, mang quốc tịch Pháp, nước Pháp nhận hết thuyền nhân (905 người) và ủy ban Cap Anamur chịu tất cả mọi phí tổn. Khi các trại tỵ nạn đóng cửa không tiếp nhận thuyền nhânCùng với chương trình thanh lọc và cưỡng bức hồi hương, thì năm 1989 ông lại âm thầm cho ra khơi liên tiếp 2 con tàu (tháng 6 Cap Anamur IV và tháng 10 Cap Anamur V) với hai mục đích là đánh đuổi bọn hải tặc Thái Lan và giúp đỡ hướng dẫn thuyền nhân VN cập đảo. Đây là một hành động đi ngược lại luật lệ, ngược lại chính sách của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ và các chính quyền đang có trại tỵ nạn tại Đông Nam Á thời bấy giờ. Mỗi khi phát hiện được ghe vượt biển, chúng tôi đưa họ lên tàu, câu luôn cả chiếc ghe. Các thủy thủ có nhiệm vụ kiểm soát an toàn cho chiếc ghe hoặc sửa chữa máy nếu bị hư hại. Các nhân viên y tế khám sức khỏe, phát thuốc và chúng tôi phân phát lương thực cho mọi người. Tất cả đều được đựng trong những túi nylon hoặc chai bằng nhựa, không nhãn hiệu, không xuất xứ để tránh có thể bị phát hiện sau này. Thuyền trưởng có nhiệm vụ chọn ngày giờ tối đen nhất, không trăng sao, tắt tất cả đèn tàu trên boong, lái tàu tiến vào chỗ gần bờ nhất, rồi câu ghe xuống. Chúng tôi dùng đèn pin đưa từng người xuống ghe, giao tận tay anh tài công 1 búa tạ lớn và 1 súng bắn hỏa pháo, dặn dò khi vào đến bờ phải đập tan nát ghe và máy ghe, rồi bắn hỏa pháo để chúng tôi biết được họ đã an toàn cập bờ. Vừa nhìn thấy hỏa pháo, thuyền trưởng tức khắc cho tàu chạy ra xa, chờ khi trời vừa sáng lại tiến vào chạy ngay bờ quan sát. Không cần ống nhòm chúng tôi cũng thấy được chiếc ghe đen đậm màu vỡ nát trên bờ cát trắng với tiếng reo hò của những thuyền nhân trong trại thức sớm.
. Cứ thế, hơn một chục chiếc ghe cập bờ với hàng trăm thuyền nhân được bình an do quyết định âm thầm đầy táo bạo và liều lĩnh của Dr.Rupert Neudeck! Chúng tôi âm thầm ra đi và yên lặng trở về, giới báo chí truyền thông cũng chẳng hay biết gì.Phải nói rằng, nơi nào trên thế giới chiến tranh khốc liệt nhất, người dân bị đầy đọa khốn cùng nhất, nơi nào không ai dám đến nhưng cần phải được cứu giúp thì đều có mặt Dr. Rupert Neudeck, bất chấp hiểm nguy, bất chấp luật lệ. Vào cuối thập niên 80, Nga Sô xua quân xâm chiếm Afghanistan và tàn sát dã man, khiến hàng trăm ngàn người dân vô tội tỵ nạn phải trốn chạy vào các hang hóc trong những dẫy núi hiểm trở tránh bom đạn, không nước uống, không thực phẩm, không thuốc men….Năm 1986, ông đơn thân độc mã với bộ râu hàm, quấn khăn phủ đầu, cưỡi con lừa tả tơi không khác một tín đồ Hồi Giáo đi vào vùng kháng chiến quân Afghanistan (Mudschaheddin) chống quân xâm lăng Nga Sô gần biên giới Pakistan để quan sát và giúp đỡ thực phẩm thuốc men cho họ. Lần đó, đoàn của ông bị trực thăng Nga Sô phát hiện và bắn đuổi bằng súng máy và hỏa tiễn Ông phải trốn chạy hơn 30 tiếng đồng hồ mới thoát qua được biên giới Pakistan. Hai người trúng đạn và 1 con lừa bị đạn. Sau này ông kể lúc đó ông nghĩ mình sẽ không thoát khỏi cái chết nát thây, nhưng ông vững tin vào Thiên Chúa, nhớ về ba người con còn nhỏ dại và như một phép lạ, ông đã thoát chết trở về bình an.Năm 1987 tại Uganda, nhà độc tài quân phiệt Milton Obote tàn sát tập thể dân chúng khiến họ phải chạy trốn đến biên giới Süd-Sudan, ông cũng có mặt tại đây và bị bọn lính chĩa súng bắt phải uống rượu trước khi chúng thả ông.Năm 1988 khi đang cứu trợ dân tỵ nạn Eritrea thì hàng loạt máy bay Migs của quân đội Äthiopie thả bom xối xả. Ông theo đoàn tỵ nạn phải trốn lánh trong hầm sâu hàng giờ và ông thoát chết.Năm 2001, khi nước Đức và nhiều quốc gia Âu Châu đang khủng hoảng vì bệnh dịch thịt bò (BSE), dân chúng sợ hãi căn bệnh chết người không dám ăn và hàng trăm ngàn con bò bị thiêu hủy không cần biết chúng có bị nhiễm hay không, trong khi người dân CS Bắc Hàn đang chết đói hàng loạt vì thiếu lương thực. Ông mướn ngay tàu chở theo hàng trăm con bò chưa/ không nhiễm bệnh từ Âu Châu cứu đói người dân CS Bắc Hàn. Cho đến nay, tôi cũng không biết làm cách nào ông được phép mua lại những con bò ấy, tại sao chính quyền Đức cấp giấy phép cho ông và lý do gì một quốc gia CS khắc nghiệt Bắc Hàn lại đồng ý cho một con tàu viện trợ từ một quốc gia Âu Châu cập cảng. Ông chỉ cười và nói rằng, đây là căn bệnh cố hữu của tư bản nhà giàu, họ luôn… sợ chết, mà dân Bắc Hàn có ai chết vì thịt bò ông cứu trợ đâu?Tháng 5 năm 2013 trong khi cứu trợ người tỵ nạn tại Syrien, 3 thành viên người Đức của ông trong tổ chức “Hội Mũ Xanh” bị phiến quân bắt cóc. Ông không sợ hãi hay nản lòng, không yêu cầu chính phủ can thiệp, không thông tin với báo chí mà tự giải quyết với năng lực và sự khôn khéo của mình. Cuối cùng cả 3 thành viên đã tự giải thoát trở về sau gần 3 tháng bị cầm tù.Những câu chuyện trên cho người ta thấy rõ được con người nhân đạo quyết liệt của Dr. Rupert Neudeck: cứu sống sinh mạng con người phải cấp tốc tức khắc, không chần chừ do dự, không sợ hãi, không ràng buộc luât lệ, không tính toán hơn thiệt, không câu nệ phương thức, không phân biệt màu da, không phân biệt chính kiến… vì theo ông, tất cả đều là con người, và mỗi người đều có trách nhiệm hỗ trợ và cứu giúp lẫn nhau để cùng chung sống an bình.Người ta vẫn không giải thích được, từ đâu và tại sao, một con người mang tên Dr. Rupert Neudeck, với đôi mắt luôn luôn suy tư, mũi to sần sùi với bộ râu trắng phau quanh hàm, một con người làm việc không ngừng nghỉ bất chấp thời gian và không gian, một con người lặn lội khắp nơi, bất chấp khó khăn hiểm nghèo… lại là một con người có một cuộc sống khổ hạnh, gầy còm, da bọc xương nặng chưa đầy 50 ký, ăn mặc giản dị, luôn luôn với cái túi xách lòng thòng trên vai, nhưng lại làm được những việc mà ít ai có thể làm được. Nhiều người phỏng vấn ông, ông trả lời: “Nói thật lòng, đây là một câu hỏi duy nhất mà tôi không có câu trả lời”. Nhiều nhà báo đã mô tả ông là “một cụ già trên 70 nhưng mang một thân xác của chàng thanh niên 18… gầy còm ốm đói”.Tôi không tài nào quên được lần tháp tùng ông về Việt Nam sửa soạn cho hai dự án xây dựng nhân đạo tại Đồng Tháp Mười và U Minh (2006 và 2007) qua đóng góp tài chánh của cựu thuyền nhân VN tại Đức. Ông chọn hãng máy bay thật rẻ, giờ giấc bất tiện và phải chờ đổi chuyến bay rất lâu. Hành trình Frankfurt-Saigon kéo dài đến hai ngày trời vì phải chờ đổi chuyến bay tại xứ CS Bắc Hàn (Pjöngjang-Bình nhưỡng) 10 tiếng đồng hồ, cộng thêm 3 tiếng vì thời tiết xấu. Ông an ủi tôi rằng ít nhất ông có thì giờ yên tĩnh để đọc và viết sách. Ông với tôi gật gù trên hàng ghế vắng tanh, thay phiên nhau canh chừng mấy túi xách tay trước những cặp mắt cú vọ của bọn an ninh Bắc Hàn làm tôi lo sợ không ít.Tôi mua cho ông 1 miếng bánh mì kẹp nhỏ hơn bàn tay và 1 ly cola khoảng 20 ml. Họ đòi 12 US cho miếng bánh mì kẹp và 8 US cho ly coca. Tôi hết hồn! Ông vứt trả lại hết, miệng lẩm bẩm “Die Kommunisten! Unglaublich!” (Bọn Cộng Sản! Không thể tưởng tượng nổi!). Ông bỏ đi trước tiếng la hét chửi bới đòi tiền của tên đàn ông bán hàng. Ông mở túi khoe hai ổ bánh mì kẹp của vợ ông gói cho ông đi đường rồi ăn ngon lành. Chúng tôi đến Saigon khoảng 2 giờ sáng, phi trường vắng tanh.Chúng tôi về nhà của một cựu thuyền nhân Cap Anamur tên M., hiện đang làm thương mại tại đây và cũng là đại diện Hội Mũ Xanh tại VN. Bảy giờ sáng ông đã thức giấc đòi chở lên vùng cao nguyên lúc bấy giờ rất sôi động vì giáo dân Tin Lành nổi dậy chống đối sự đàn áp tôn giáo của chính quyền CS. Anh M. sửa soạn ăn sáng, nhưng ông nhất định lôi chiếc bánh mì kẹp còn lại trong túi xách ra ăn. Khi vừa mở bánh mì ra, tôi thấy có mấy … con gì đó lúc nhúc bên trong vì ông quên vẫn để trong túi xách hầm hơi nóng đã hơn 2 ngày. Ông bình thản nhặt từng con ra, rồi nói với chúng tôi rằng, nhiều người trên thế giới đang đói khát không có mà ăn, mình vứt ra rồi ăn có sao đâu, đừng hoang phí; hơn nữa đây là bánh mì mà bà Christel (vợ ông) đã làm cho ông.Suốt quãng đường Saigon-Kontum-Gia Lai-Saigon ông không ăn, không uống, mà chỉ xem xét, hỏi han và ghi chép, đến nỗi anh tài xế vừa mệt vừa đói không muốn lái xe nữa. Tôi năn nỉ ông cho dừng lại một quán bên đường, ông vẫn ghi chép rồi chau mày hỏi tôi “Cậu cũng phải ăn hay sao?”. Tất cả chúng tôi mệt lả người và đói khát trong khi ông vẫn… tỉnh bơ, âm thầm ghi chép làm việc. Chỉ 5 ngày ở VN, ông đi từ vùng cao nguyên xuống tận U Minh qua Rạch Giá, Vũng Tàu và đến cả Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh. Ông muốn nhìn tật mắt những nơi thuyền nhân VN đóng ghe vượt biển năm xưa như Bến Đá, Rạch Dừa, bến Ninh Kiều Cần Thơ, Rạch Giá… Tiếc thay những nơi này không còn như xưa. Tôi chở ông bằng xe gắn máy đi thăm nhà thờ Đức Bà, Chùa Vĩnh Nghiêm… rồi ngồi ghế đẩu uống nước quán vỉa hè rất thoải mái. Đêm cuối cùng trước khi về lại Đức, anh M. có nhã ý mời ông dùng cơm tối trên một chuyến tàu lớn chạy vòng quanh trên sông Saigon. Ông đi với vẻ miễn cưỡng. Sau chuyến đi anh M. hỏi ông nghĩ sao, ông trả lời không nhân nhượng: “Uổng phí 3 tiếng đồng hồ làm việc, dùng số tiền ấy đi giúp người nghèo đói có phải tốt hơn không!”.Năm 1986, gia đình ông nhận một chú bé thuyền nhân VN không cha mẹ thân nhân làm con nuôi. Ba năm sau thì được tin người cha ruột của chú bé này vừa được định cư tại Hoa Kỳ và có ý muốn nhận lại con. Ông muốn chính mình đưa chú bé giao tận tay cho gia đình (cha nuôi gặp cha ruột – như ông nói). Tôi liên lạc và thu xếp để ông đi. Người Việt tỵ nạn bên Hoa Kỳ muốn tiếp đón ông như một đại ân nhân thật trang trọng. Cả một phái đoàn người Việt áo quần chỉnh tề với bó hoa thật đẹp. Máy bay đáp xuống, hành khách lần lượt bước ra gần hết nhưng vẫn không ai thấy ông đâu và ai cũng lo sợ nhầm chuyến bay hoặc khả dĩ liệu ông đổi ý vào giờ chót chăng. Bỗng có người thấy một ông già với bộ râu xồm xoàm, gầy đét, quần jean áo bỏ ngoài đang ngồi trong một góc vắng cười đùa nói chuyện với một chú bé VN. Có người đến hỏi ông, ông mỉm cười tự giới thiệu. Lúc đó cả phái đoàn giật mình, đồng loạt cởi bỏ áo vét và cravattes, ngượng ngùng trao ông bó hoa. Ông từ chối mọi phỏng vấn, từ chối mọi tiếp đón để trao tận tay cậu bé cho người cha ruột. Ông từ chối đến khách sạn đòi nghỉ đêm tại nhà cha ruột của cậu bé và trở về lại Đức ngay sáng hôm sau.Năm 1987 sau khi con tàu Cap Anamur III về Pháp, nhiều đoàn thể tổ chức người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ (sau này là Úc và Canada), đã nhiều lần mời Dr. Rupert Neudeck và một số vị ân nhân khác của thuyền nhân tỵ nạn VN sang Hoa Kỳ để vinh danh, đồng thời quyên góp cho những công tác cứu người vượt biển của ủy ban Cap Anamur và tổ chức Medicins du Monde của Pháp do ông Bernard Kouchner và Alain Deloche lãnh đạo. Dr. Rupert Neudeck luôn luôn từ chối không tham dự mặc dù tôi cố gắng đốc thúc. Ông suy nghĩ khác, vì theo ông, vinh danh là thừa thãi vô ích, ông không thích được vinh danh và ông muốn tôi nói với người Việt bên Hoa Kỳ rằng, nước Mỹ phải có trách nhiệm với thuyền nhân VN và người Mỹ gốc Việt có dư thừa điều kiện và khả năng sao không vận động cho ra một con tàu như ông để tự cứu chính dân tộc mình !!!Dr. Rupert Neudeck được rất nhiều đài truyền hình, đài phát thanh hay các tổ chức người Đức mời phỏng vấn hoặc diễn thuyết. Ông yêu cầu chuyển tất cả mọi thù lao vào trương mục của Cap Anamur hay Hội Mũ Xanh. Ông từ chối không nghỉ trong khách sạn 5 sao và cũng yêu cầu chuyển chi phí khách sạn cho hai tổ chức của ông. Bất cứ đi đâu trong nước Đức ông đều đi xe lửa và có vẻ thích thú khoe với tôi rằng ông có vé xe lửa bớt 50% nên rẻ lắm. Mỗi lần có việc lên Hamburg hay vùng Bắc Đức ông đều nghỉ đêm trong nhà tôi. Ngại ông không hợp thức ăn VN, tôi mời ông đến nhà hàng. Không những ông từ chối mà còn không cho vợ tôi nấu nướng gì rồi tự xuống bếp, khi thì chọn hộp xúp gà với nui, khi thì ăn miếng bánh mì lát chấm với súp thịt hộp Gulasch và một ly nước suối, nói chuyện dăm câu rồi đi ngủ. Lần nào ông cũng thức giấc rất sớm, uống vội tách cà phê không đường, đem theo một chai nước suối nhỏ, ít lát bánh mì và một trái táo, đủ làm hành trang cho một ngày của ông.Tôi chở ông đến trạm xe lửa, khi thì đi Bá Linh, khi thì Stuttgart, München hoặc nơi nào đó vì ông liên tiếp có những cuộc hẹn quan trọng. Nhiều lần vào mùa đông, buổi sáng giá rét, ông mượn tôi chiếc áo len để mặc vì vội đi nên quên. Có lần trước khi chở ông đến đài truyền hình ARD, tôi chợt thấy ông choàng chiếc khăn quấn cổ màu xanh của hội đá banh FC Schalke 04. Ông giật mình cởi ra ngay rồi hỏi mượn tôi chiếc khăn khác. Ông bảo có một thanh niên Đức gần nhà ông biết ông là Fan của hội này nên mang đến tặng ông và khi đi ông vơ đại chiếc khăn đó choàng vào cổ. Tôi nghĩ đá banh là sở thích của ông, nhưng ông lại bảo, ông chưa từng đi xem đá banh, kể cả trên truyền hình. Tôi nghĩ sở thích của ông là… “làm việc nhân đạo, cứu giúp người tỵ nạn”.Một lần khi sửa soạn tổ chức đại hội Cap Anamur tại Troisdorf, ông bảo tôi và một số anh em trong ban tổ chức ghé nhà ông nghỉ đêm. Vì mang sẵn túi ngủ nên chúng tôi xin ngủ trên sàn nhà trong phòng khách. Ông bà và con cái ngủ hết trên lầu. Đang đêm khuya có ai bật đèn, chúng tôi choàng dậy thấy ông mặc quần áo lót trắng cụt ngủn, tay ôm chiếc gối vuông, lum kum lần mò trong ánh sáng ngọn đèn mờ. Ông bảo ông đang tìm chỗ ngủ và nói chúng tôi xích gọn lại cho ông nằm chung, vì tối hôm ấy bà Neudeck cũng rủ một người bạn gái bác sĩ trong Cap Anamur về nhà. Ông bảo ông không thể nằm chung một phòng với cả hai người đàn bà. Trong khi chúng tôi thì thầm với nhau vừa buồn cười vừa thấy kính mến vô vàn một con người nổi tiếng được cả thế giới biết đến, lại bình thường giản dị đến thế… thì ông đã ngáy khò khò ngủ say bên cạnh từ lúc nào. Chắc các anh em này vẫn không thể quên được đêm hôm ấy.Cũng có lần tôi hướng dẫn một số anh chị em đến nhà ông để bàn họp. Vợ tôi vì đã quen nhà ông nên rủ vài chị đi pha cà phê và nước trà. Gia đình ông vẫn sử dụng bình pha cà phê thời thập niên 80, cái máy cũ rích kêu rồn rột như vòi nước bị nghẹt. Cả một ngăn tủ ly tách hiệu Ikea thì đủ màu, đủ kiểu, đủ cỡ không có cái nào giống cái nào, cứ như ngoài chợ trời. Một chị khệ nệ bưng khay cà phê vừa đi vừa nói tiếng Việt: “Quý vị coi chừng nhé, uống cà phê phải để ý coi chừng bị rách môi đó” vì chị thấy nhiều ly tách bị mẻ miệng.Tuy thế, ông rất vui tính và dí dỏm.Một nhà báo Đức hỏi ông tại sao mỗi lần ông xuất hiện thì có hàng trăm người VN xếp hàng nối đuôi nhau muốn chụp ảnh với ông, ông trả lời: “Bạn không biết sao? Tôi là người được chụp ảnh nhiều nhất nước Đức đến nỗi các ông bà chính trị gia phải phát ghen lên đấy!”Ông kể cho tôi rằng thuở ban đầu, ông có 2 người bạn chính trị gia kiên quyết ủng hộ ông, đó là ông Dr. Ernst Albrecht (thủ hiến tiểu bang Niedersachsen) và ông Johannes Rau (thủ hiến tiểu bang Nordrhein-Westfalen, sau này là tổng thống Đức) và hai chính trị gia chống đối ông mãnh liệt nhất là ông Franz Josef Strauß (thủ hiến tiểu bang Bayern) và ông Holger Börner (thủ hiến tiểu bang Hessen). Ông dí dỏm đại ý rằng, cứ để 2 phe cấu xé nhau đi, mình ở giữa, làm… ngư ông hưởng lợi. Và “cái lợi” đó chính là 11.300 thuyền nhân VN tỵ nạn đã được cứu sống – ông nói.Khoảng 15 năm trước, trong một lần ghé thăm gia đình ông, bà Christel Neudeck bới trong đống cây cỏ héo ngoài góc vườn nhỏ chỉ cho chúng tôi một đầu người được đúc bằng đồng rất nặng. Một điêu khắc gia nổi tiếng tại Đức vì cảm phục và quý mến ông nên đã khắc và đúc tượng đầu của Dr. Rupert Neudeck và chính tay mang đến tặng gia đình ông bà và bà miễn cưỡng phải nhận. Bức tượng rất đẹp và rất giống ông. Bà Neudeck cũng… dị đoan, thắc mắc nói với chúng tôi rằng, chồng bà vẫn còn sống, sao lại có người mang đến tặng như thế, nên bà đem ra giấu ở góc vườn dưới đám lá khô. Bà bảo chúng tôi mang về nhà và phải hứa khi hữu sự thì phải mang trả lại cho ông… Nhưng thật lòng chúng tôi không bao giờ muốn trả lại cho ông!Cách đây vài năm ông bị mổ tim lần thứ nhất. Khi tỉnh dậy ông mới biết vị bác sĩ mổ tim cứu sống ông lại là một thuyền nhân VN được tàu Cap Anamur cứu sống gia đình anh, khi anh mới được 3 tuổi. Ông nắm tay vị bác sĩ này và nói: “Năm xưa tôi cứu sống anh và người VN, năm nay anh cứu sống tôi, như thế người Việt tỵ nạn và tôi huề với nhau, chúng ta không ai còn nợ nần ai nữa!”.Ông nhiều lần kể cho tôi những chuyện thật hy hữu với khuôn mặt rạng rỡ thích thú rằng, một lần sau khi dự hội nghị về người tỵ nạn thế giới của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR) tại Hoa Thịnh Đốn, ông gọi một chiếc taxi. Anh tài xế vừa lái vừa ngoảnh cổ nhìn ông hỏi: “Ông có biết ông Neudeck ở bên Đức không?” Ông cười và trả lời “Ông ta là ai? Tôi không biết”. Anh taxi hơi ngượng nói lại: “Tôi nhìn ông sao giống ông Neudeck quá, ông ấy cứu vớt tôi từ ngoài biển đấy!”. Cả hai cùng cười… để rồi anh taxi nhất định không nhận tiền ông. Ông nói với tôi: “Thì ra cuốc xe này đáng giá cả một mạng người”.Một lần khác trên phố Manhattan/New York khi ông đang lững thững đi bộ qua toà nhà World Trade Center (cũ), chợt có một chị từ trong tòa nhà bước ra ôm chầm lấy ông la lớn: “Ông là ông Neudeck-Cap Anamur phải không? Tôi là Cap Anamur 6 đây, ông nhớ không?”. Lại một anh khác chạy đến nắm tay ông nói: “Kính chào ông Neudeck, tôi Cap Anamur 12 đây”… Ông chẳng hiểu Cap Anamur 6 hay Cap Anamur 12 là gì nhưng vẫn tươi cười trả lời: “Tôi nhớ chứ! Tôi nhớ chứ!”… Ông kể cho tôi rồi hỏi: “Không nhẽ tôi nổi tiếng đến thế sao?”.Tháng giêng năm 2014, một phụ nữ VN được chọn tham dự chương trình “Wer wird Millionär ?” của Günther Jauch và thắng được 125.000 Euro. Cô tên là Đinh Quỳnh Anh Rohm, cô và gia đình được tàu Cap Anamur cứu sống năm 1982 khi cô mới 5 tuổi. Dr. Rupert Neudeck vui và hãnh diện lắm. Ông đến thăm vợ chồng cô và đích thân mời gia đình cô đến tham dự lễ kỷ niệm 35 năm con tàu Cap Anamur ngày 09 tháng 8 năm 2014 tại cảng Hamburg. Ông bảo đó chính là nguồn an ủi nhất của ông và gia đình khi ông đã khổ công tranh đấu đem những người tỵ nạn VN này vào nước Đức và ngày nay, họ là những “nhà vô địch thế giới về sự hội nhập”, thành công trên tất cả mọi lãnh vực trong xã hội Đức này.Có lẽ trong thời gian cuối đời, niềm an ủi thảnh thơi nhất của ông là quây quần đùa nghịch với 5 đứa cháu nội ngoại. Ông không muốn bất cứ ai quấy rầy ông trong thời gian đàn cháu nội ngoại đến thăm ông. Tôi đã từng chứng kiến cảnh tượng một ông già gầy tong teo gập chân quỳ xuống bò rạp trên sàn làm con ngựa già để đứa cháu 3 tuổi cưỡi quanh nhà. Chính đứa cháu này đã muốn hóa phép cho ông sống lại nhưng không tìm được cây đũa thần – như bà Neudeck rưng rưng kể lại.Ít người biết được là ông bà Dr.Rupert Neudeck có những liên hệ mật thiết với rất nhiều nhân vật quan trọng và chính trị gia nhiều quyền lực khi xưa và đương thời. Có ai biết rằng sau hai lần tái nhiệm chức vụ thủ tướng nước Đức (2009-2013 và 2013-2017), bà Angela Merkel đều mời ông bà Dr.Rupert Neudeck đến tư gia trò chuyện. Các vị cựu chủ tịch quốc hội Đức như bà Rita Süssmuth và ông Wolfgang Thierse, cựu Tổng Thống Đức ông Johannes Rau (75), đương kim bộ trưởng tài chánh Đức ông Dr. Wolfgang Schäuble, cựu chủ tịch đảng SPD cũng là cựu phó thủ tướng Đức ông Franz Müntefering, cựu phó chủ tịch liên đảng CDU/CSU tại quốc hội Đức ông Arnold Vaatz, cựu giám đốc cơ quan tình báo và bộ trưởng ngoại giao Đức ông Klaus Kinkel… nhiều thống đốc tiểu bang hay cựu bộ trưởng liên bang Đức như ông Dr.Ernst Albrecht (84), bà Sabine Leutheusse-Schnarrenberger, ông Gerhard Rudolf Baum, ông Dr.Norbert Blüm…. và rất nhiều vị khác kể không hết, trong đó phải nhắc đến bà Marion Gräfin Dönhoff (93 sáng lập tuần báo Die Zeit) và ông Karl-Heinz Böhm (86 tài tử điện ảnh Áo, với nhiều hoạt động nhân đạo tại Phi Châu).Tất cả đều là bạn bè thân hữu sát cánh bên ông. Ông coi cựu phó tổng thống Đức gốc Việt Philipp Rösler như một người con và rất thích thú khi ông này biết và hiểu rất rành mạch về thuyền nhân tỵ nạn VN. Ông Peter Scholl-Latour (90, nhà báo nổi tiếng, trước đây ủng hộ việc gởi con tàu “Cap Anamur” cứu vớt thuyền nhân VN của Dr. Rupert Neudeck, sau này lại hỗ trợ ông qua mục đích nhân đạo của “Hội Mũ Xanh”), hay ông Günter Grass (88, văn hào với giải Nobel văn chương) cho đến khi qua đời vào tháng 4 năm 2015 cũng đều là bạn đồng hành với ông. Ngay đến ông Aiman A. Mazyek (chủ tịch hội đồng trung ương Muslime tại CHLB Đức) và ông Musa Ataman (chủ tịch cộng đồng Kurden tại Bonn) cũng đã từng cộng tác và ủng hộ ông.Tôi hẹn gặp lại ông nhân dịp lễ trao giải “Erich Fromm Preis 2016” ngày 6 tháng 4 năm 2016 tại Stuttgart. Đây là lần đầu tiên giải này được trao tặng cho một đôi vợ chồng là ông Rupert Neudeck và bà Christel Neudeck. Ai có ngờ đâu, đây là lần cuối cùng tôi gặp ông. Sức khỏe ông suy sụp thấy rõ. Trong phần diễn thuyết ngày hôm đó, tôi thấy ông ngập ngừng qua dấu hiệu quên trước quên sau. Ông mệt mỏi đi xuống và nói tôi lấy cho ông một ly nước suối. Bà Christel Neudeck thay ông trả lời phỏng vấn của giới truyền thông hoặc cám ơn quan khách đến chia vui cùng ông bà. Trước đó, ngày 30 tháng 1 năm 2016, ông tham dự ngày hội Tết Nguyên Đán Bính Thân của người Việt tỵ nạn tại Bielefeld. Ông cảm thấy mỏi mệt, tức ngực và khó thở nên đi ra khỏi phòng và yêu cầu tôi chở ông về, trong khi chương trình vẫn còn đang tiếp tục. Chính bà Christel Neudeck đã nhiều lần lo lắng và cảnh cáo ông, nhưng ông vẫn nói mình còn rất nhiều việc phải làm.Dr.Rupert Neudeck lần đầu tiên bị mổ tuyến tiền liệt (Prostata) khoảng 2 tuần trước lễ khánh thành bia ty nạn thuyền nhân VN ngày 28 tháng 4 năm 2007 tại Troisdorf, nơi gia đình ông cư trú. Ông gắng gượng lững thững một mình lái xe đạp đến tham dự và tuyên bố rằng: “Troisdorf chính là thủ đô của người Việt tỵ nạn tại Đức”.Cũng hai tuần trước đại hội Công Giáo VN tại Đức kỳ thứ 40 tại Aschaffenburg từ 14 đến 16 tháng 5 năm 2016, ông phải nhập viện mổ tim lần thứ 3 chỉ trong vòng 4. Lần này ông không đến tham dự được năm sau này và nằm hôn mê trên giường bệnh cho đến khi lìa đời lúc 8 giờ sáng ngày 31 tháng 5 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi (1939-2016). Có những lúc ngón tay ông đã cử động, cũng có những lúc ông đã mở mắt nhìn vợ và con cháu mình và gật đầu khi được hỏi ông có muốn nghe nhạc Mozart không. Những niềm hy vọng chợt lóe lên trong sự mong đợi khát khao của gia đình, nhưng ai ngờ đâu đó chỉ như ngọn nến chợt bừng sáng trước khi thật sự lịm tắt. Ông đã thật sự vĩnh viễn ra đi.Lễ mai táng ông được tổ chức âm thầm và giản dị trong gia đình và thân hữu vỏn vẹn chưa đến 30 người vào ngày 8 tháng 6 năm 2016. Quan tài dành cho ông là 6 miếng ván gỗ thô, không sơn màu, không chạm trổ, không hoa, không nến, nằm cô đơn dưới bậc thềm Cung Thánh trong ngôi nhà thờ nhỏ gần nhà ông. Con cái và thân nhân ông tự khiêng ông đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ tại Troisdorf.Người thân vĩnh biệt ông với từng nắm đất và những cánh hoa dại mọc bên đường. Giữ đúng lời hứa với bà Christel Neudeck trước kia, tôi kính cẩn đặt tượng đồng khắc đầu ông trên mộ.Một tuần sau, ngày 14 tháng 6 năm 2016, Toà Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Koeln và tang quyến tổ chức Thánh Lễ tưởng niệm ông tại Vương Cung Thánh Đường St.Aposteln do Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki chủ tế cùng với 12 Linh Mục Việt Nam (đa số đều được tàu Cap Anamur cứu sống trước đây). Gần 2.000 người tham dự, hầu hết là thuyền nhân Việt Nam đến từ các nơi trong nước Đức và các quốc gia lân cận.Hầu hết các Chùa Việt Nam và các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam trên toàn nước Đức đồng loạt tổ chức lễ tưởng niệm và cầu hồn cho ông như một nghĩa cử cám ơn và thương tiếc vị ân nhân đã cứu sống họ và gia đình.Ngày 25 tháng 6 năm 2016, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Đức cũng tổ chức Thánh Lễ cầu nguyện cho linh hồn ông tại Thánh Đường St. Hippolitus trong thành phố Troisdorf, nơi gia đình ông cư ngụ, với 9 Linh mục Việt Nam và hơn 500 giáo dân.Không những người Việt tỵ nạn thương tiếc ông mà người dân Đức cũng bày tỏ lòng quý mến một con người đã thay đổi được bộ mặt của nước Đức qua nhiều hành động khác nhau. Trên một chuyến xe lửa trong thành phố Koeln ngay trong ngày lễ tưởng niệm ông (14.6.2016) có người đã viết trên 1 toa xe dòng chữ “R.I.P. Rupert Neudeck” (Rest InPeace – Rupert Neudeck – Yên Nghỉ Trong An Bình).Dr. Rupert Neudeck ra đi với nhiều ước mơ chưa trọn vẹn. Ông ước mơ một thế giới an bình không chết chóc chiến tranh. Ông ước mơ tiếp tục cứu giúp người tỵ nạn trên thế giới. Ông ước mơ ngày nào đó sẽ chạy Marathon trên suốt giải Gaza tại Palestine. Ông ước mơ đi trên chuyến xe lửa xuyên hết đất nước Sudan. Ông ước mơ học tiếng Việt và tiếng Ả Rập và ông ước mơ mình sẽ sống tại Phi Châu trong những tháng năm cuối đời….Kính thưa ông Dr.Rupert Neudeck,Cho dù bây giờ ông có thể sống tại Phi Châu hay Palestine, hay trên bất cứ đất nước nào như trong mơ ước của ông, nhưng có một điều chắc chắn rằng, ông vẫn còn sống mãi trong lòng những người tỵ nạn Việt Nam và tất cả mọi người trên thế giới.Để tưởng nhớ Dr. Rupert NeudeckNguyễn Hữu HuấnHamburg, tháng 7 năm 2016
Cứ mỗi độ Xuân về, lão nhớ về những ngày của tháng 4 năm 1975… 30/4/1975! Ngày đánh dấu thảm họa cộng sản đến trên quê hương của lão; Đó là Ngày Quốc Hận, ngày bất hạnh của miền Nam rơi vào tay giặc phương Bắc, cũng là ngày đại tang của dân tộc! Sau cuộc tổng nổi dậy của giặc cộng vào Tết Mậu Thân 1968 hàng hàng lớp lớp trai trẻ miền Nam trong đó có lão lên đường tòng quân giữ nước. Họ tòng quân vì nhiều ước mơ: ước mơ tự do, ước mơ độc lập, và ước mơ ấm no cho toàn dân miền Nam. Người lính VNCH đã chiến đấu kiên cường, bất khuất để thực hiện những ước mơ chính nghĩa đó. Nhưng vận nước đổi thay không cho phép họ hoàn thành sứ mạng mà họ mong muốn. Ngược lại cộng sản chỉ có độc nhất một mong muốn, đó là xâm lược miền Nam bằng mọi gía. CSBV đã thắng. Miền Nam bị bức tử, người lính VNCH bị trói tay, kết thúc cuộc chiến kéo dài 20 năm.
Nổi đau đất nước điêu linh vì chiến tranh và quê hươngtan nát dưới sự cai trị của cộng sản làm dấy lên trong lòng lão sự uất hận và căm thù cộng sản đến tận xương tủy. Lão rời bỏ quê hương ra đi với mối hờn vong quốc và không một lần trở về từ đó..
Ở đây, lão tự xưng là ‘người thủy thủ gìa’ không phải lão gìa theo nghĩa có nhiều năm phục vụ trong quân chủng hải quân, mà lão gìa vì lão đang ở cái tuổi ‘thất thập cổ lai hy’. Chặn đường chinh chiến của lão ngắn ngủn chỉ có hơn 5 năm làm lính thủy tính từ ngày lão rời đại học tình nguyện vào khóa 21 sĩ quan hải quân giữa năm 1969 vừa lúc lão đúng 20 tuổi. Đơn vị hải quân đầu tiên của lão ở tận một hải đảo xa xôi có tên gọi là Hòn Khoai (Duyên đoàn 41 Poulo Obi) hay ‘Hải đảo Giáng Tiên’, ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ… “Obi gió lạnh không tình sưởi, Rượu uống mềm môi vẫn thấy thèm”. (Thơ của Giang Hữu Tuyên, người bạn cùng khóa hải quân với lão) Rời hải đảo Giáng Tiên lão thuyên chuyển về Duyên đoàn 42, hậu cứ đồn trú tại An Thới (Phú Quốc) và sau đó lão thuyên chuyển đến Hải đội 5 Duyên Phòng rồi tăng phái Hải đội 4. Những đơn vị đi biển này đã toi luyện lão thành gã lính biển chuyên nghiệp. Lão chưa có cơ hội phục vụ các đơn vị chiến đầu trong sông là những đơn vị hào hùng của hải quân VNCH với những chàng trai kiêu hùng cùng những ‘kình ngư’ dậy sóng ngày đêm trực diện quân thù với những trận đánh oanh liệt làm cho địch quân khiếp sợ mà lão được đọc qua các bài viết của đồng đội, của các đặc san hải quân và tài liệu hải sử. Cuối năm 1974, lão bàn giao duyên tốc đĩnh (PCF)HQ.3909 đang biệt phái tuần tiểu vùng biển Hòn Tre Rạch Gía cho một sĩ quan khác để thuyên chuyển về Hạm đội tiếp tục xây mộng hải hồ trên Tuần duyên hạm PGM HQ-611. Nhưng không may, vận nước đến thời đen tối, lão xuống HQ.611 vào thời điểm miền Nam nhiễu nhương và đang dần dần co cụm lại trước sự tấn công xâm lược khốc liệt của cộng sản miền Bắc sau khi ‘Mỹ’ gỡ bỏ vòng đai chống cộng vùng ĐNÁ và bán đứng miền Nam qua HĐ Paris 1973; ‘Mỹ’ rút quân về nước; ‘Mỹ’ bỏ rơi VNCH, ‘Mỹ’ bôi nhọ 58 ngàn lính Mỹ tử vong và trên 300 ngàn lính Mỹ bị thương tật trên chiến trường Việt nam và ‘Mỹ’ bôi bẩn các cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt nam khi trở về nước; Ở đây chữ ‘Mỹ’ lão muốn nói đến Quốc hội Mỹ phe cánh tả, những chính khách qùy gối trước cộng sản, chối bỏ trách nhiệm, phản chiến và không muốn Hoa Kỳ chiến thắng trên chiến trường Việt nam.
QLVNCH, một quân đội còn non trẻ đơn độc, đang cạn kiệt phương tiện chiến đấu, không quân viện, chiến đấu trong tuyệt vọng phải đương đầu cả khối cộng sản phương Bắc đang mở đường tấn công xâm lược ồ ạt tiến xuống miền Nam….Từ đó Vùng I thất thủ đến mất Vùng II…Dinh Độc Lập ngày 8/4/75 và Phi trường Tân Sơn Nhất chiều 28/4 bị dội bom, Saigon giới nghiêm, Bộ Tư lịnh Hải quân Saigon từ cấm trại đến báo động đỏ và đêm 29/4 hạm đội di tản. Sáng 30/4 Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, QLVNCH bị bức tử, nhiều tướng tá binh sĩ VNCH uất ức tuẫn tiết, quân Bắc Việt tiến vào Saigon…
* * *
Sáng sớm 30/4/1975, lão tần ngần đứng trơ trọi tại cầu A đối diện với cỗng Bộ Tư lệnh Hải quân Saigon, nơi chiến hạm của lão lúc chiều hôm qua con tàu còn đó mà giờ đây nó đã biến mất cùng với nhiều chiếc hạm lớn nhỏ khác dọc trên bờ sông Saigon. Bến tàu vắng tanh….Lão như kẻ mất hồn, thẩn thờ; Lão không màng quan tâm chung quanh cảnh vật tan hoang đổ nát. Lão cảm thấy như bị vứt vào vùng tối đầy cô đơn và mất mát. Lão cảm nhận được tâm trạng ‘lìa đàn’, mất mát đau tận đáy lòng: Mất chiến hạm, xa đồng đội, mất bạn hữu, tan nát mộng hải hồ và mất cả Tổ quốc. Lão cũng không màng nghĩ đến, không sợ hãi những gì sẽ xảy ra cho kẻ ‘thua cuộc’ như lão phải ở lại với kẻ thù và lão đang đứng nơi đây còn trong bộ quân phục ngày nào, mặc kệ cho kẻ thù đang tiến vào Saigon…
-Ê Nam! Có đi không? Lên tầu tao. Tiếng gọi tên lão từ chiến hạm tuần duyên PGM đang từ từ cập vào cầu A nơi lão đang đứng cắt đứt dòng cảm xúc bơ vơ của con chim hải âu gãy cánh lìa đàn; Tiếng kêu thảm thiết của cánh chim lạc đàn đang dấy lên trong lòng lão biến thành dòng nước mắt lẽ loi, bơ vơ và mất mát sắp tuông ra khóe mắt, làm mắt lão cay xè. Lão nhận ra giọng Bắc kỳ quen thuộc của người bạn cùng khóa gọi tên lão từ chiến hạm đang cặp cầu. Lão bắt dây cho con tàu và trèo lên chiến hạm.
-Cám ơn mày Báu. Tao không đi, tao không thể bỏ lại vợ con mày à. Sao tàu mày đi trễ vậy?
-Tao từ Vũng Tàu vào đây đón hạm trưởng nhưng không thấy ổng; Trung úy Báu nói. Lão thúc giục thằng bạn:
-Thôi! Vậy mày đi lẹ đi. Tao trở về nhà ngay bây giờ.
Nói xong lão trèo xuống và tháo dây cho chiến hạm tách khỏi cầu. Chiếc hạm ra giữa dòng sông và từ từ xa dần… Lá quốc kỳ phía sau cột lái phất nhè nhẹ như nghẹn ngào chào gĩa biệt Saigon làm cho lòng lão chùng xuống, se lại. Lão bùi ngùi chứng kiến chiến hạm cuối cùng của hải quân VNCH ra đi. Bên kia phía Thủ Thiêm mặt trời đã lên khỏi mái nhà. Lão rời cầu A… Dựng chiếc xe gắn máy trước cỗng nhà, lão chưng hửng khi thấy Thủy thủ Tô Nhật Hà mở cỗng; Hà là người lính thủy trẻ tuổi dưới tàu đã lái xe đưa lão về nhà chiều hôm qua. Lão ngạc nhiên hơn khi thấy lố nhố gần hai chục thủy thủ khác đứng ngồi trong phòng khách. Thấy lão bước vào, họ đứng lên chào lão… Họ đang chờ lão. Vào hẵn bên trong phòng khách lão mới biết ra là các thủy thủ tập hợp tại nhà lão để báo tin tối hôm qua (29/4) tàu bị nhiều quân nhân có vũ trang ùn ùn trèo lên chiến hạm và cưỡng ép tàu ra đi mặc cho tàu không có hạm trưởng. Giữa đường ra Vũng Tàu, chiến hạm bị vô nước và chìm. Họ lội vào bờ và đi bộ về đây. Lão chưa hỏi được tại sao tàu vô nước đến chìm vừa lúc cái radio trên đầu tủ đưa tin tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Lão và anh em thủy thủ đoàn HQ.611 nhìn nhau bàng hoàng…vài thủy thủ rơi lệ…
-Thôi! anh em nhà ai nấy về, rồi tính sau. Lão nghẹn ngào nói
Lão bùi ngùi tiễn anh em thủy thủ ra cỗng. Nhìn theo họ thất thểu đi khuất khỏi đầu ngỏ lão cảm thấy đau lòng. Nếu chiều tối hôm qua đứa con gái của lão không lên cơn suyễn nặng, lão và vợ phải đưa con bé vào bệnh viện Nguyễn Văn Học và bồng con bé suốt đêm thì có lẽ cuộc đời đã đổi thay; Lão sẽ mang được vợ con, thân nhân xuống tàu di tản trong đêm 29/4 và HQ.611 của lão sẽ là chiếc ‘soái hạm’ đưa Đô đốc Tư lịnh Hải quân Chung Tấn Cang ra biển như bài viết ‘HQ 601: Soái hạm nhỏ nhất’ trên website tài liệu của niên trưởng HQ. Trần Đỗ Cẩm (khóa 10). Lão cũng được đọc bài viết “Đêm giang hành lịch sử” của HQ Trung tá Trần Hương (‘Người thủy thủ già’ khóa 9), vị sĩ quan hộ tống Đô đốc Tư lịnh Chung Tấn Cang xuống HQ.611 nhưng lão không có mặt dưới tàu nên phái đoàn di tản của Đô đố chuyển sang HQ.601 của Hạm trưởng Trần Minh Chánh vào lúc 7 giờ tối ngày 29/4. Sau ngày 30/4 lão đăng ký trình diện ‘ban quân quản’ của Việt cộng nhưng lão không giao nộp khẩu colt 45 theo lệnh của chúng. Khẩu súng ngắn mà chiều 29/4 trước khi rời tàu lão vào kho vũ khí lựa lấy một khẩu còn khá mới với hai gấp đạn. Lão nhờ vợ tìm nơi kin đáo trong nhà cất dấu khẩu súng để phòng khi hữu sự hoặc nếu cần lão sẽ có vũ khí quyết tử với kẻ thù. Quyết định của lão làm vợ lão sợ hãi. Cứ mỗi độ Xuân về nổi buồn tháng Tư Đen trỗi dậy cùng hình ảnh chiến hạm HQ-611 một thời dọc ngang trên sóng biển theo ký ức kéo về như một thước phim là mỗi lần lão xót xa nghĩ đến số phận anh em thủy thủ đoàn của chiến hạm mang tên ‘Trường Sa’ phải sống ra sao dưới chế độ bạo tàn Việt Cộng? Thương lắm anh em thủy thủ đoàn HQ.611, những người lính thủy trung kiên với quân chủng và thượng tôn kỷ luật đến tận giây phút cuối cùng của cuộc chiến.
* * *
Phần 2: Tháng ngày sau 30/4/1975
Lão trở về gia đình sau hơn 7 năm tù ‘cải tạo’ khổ sai qua nhiều trại giam khác nhau trong miền Nam. Trong thời gian còn ‘quản chế’ (tù treo) tại địa phương, mỗi ngày lão đưa đón vợ đi làm, đưa hai con đi học và gặp gỡ bạn bè quay quanh các câu chuyện vượt biên tại các quán cà phê bên vĩa hè. Gia đình vợ lão có đóng ghe vượt biên, nhưng lão không đi trên chiếc ghe của gia đình vì trong một buổi xuống bến ghe Ngọc Hà (Bà Rịa) thử ghe mới, lão chạm mặt với tên trưởng công an Việt cộng trong buổi tiệc ghe hạ thủy. Ông anh vợ giới thiệu với tên công an VC lão sẽ là tài công (người lái ghe) của chiếc ghe. Tên công an chầm chầm nhìn lão, một hồi lâu hắn nhận ra lão từng là tài công cho một chiếc ghe đánh cá của một công ty thủy sản Saigon có nhiều lần ghé vào đây. Lão cảm thấy không ổn và linh tính cho lão biết sẽ gặp rắc rối, thậm chí có thể bị nguy hiểm nếu lão ở lại đây qua đêm. Lão kể cho ông anh vợ nghe lão có đôi lần lái ghe thủy sản từ bến Bình Đông Chợ Lớn ra Vũng Tàu để dò đường vượt biên. Cứ mỗi chuyến đi như vậy khi thì lão nói cho ghe chạy thử máy khi qua các trạm kiểm soát hay gặp tàu tuần xét hỏi, khi thì lão gỉa vờ cho ghe hư máy để ghé vào bến ghe Ngọc Hà. Bị tên công an nhận diện và không hiểu tên Việt cộng nghi ngờ gì về lão, mặc cho ông anh vợ xác nhận lão là em rễ nhưng hắn cứ bô bô rằng hắn cho phép đóng ghe tại đây nhưng sẽ bắt tù nếu ghe tổ chức vượt biên; Trong thâm tâm lão biết tên VC hâm dọa vì hắn muốn đánh tiếng che đậy việc hắn nhận tiền hối lộ cho đóng ghe vượt biên; Lão là người trong nhà nên lão hiểu rõ chuyện này. Trước thái độ hoài nghi về lão và lời lẽ hâm dọa của tên VC, lão quyết định ‘tẩu vi thượng sách’ trước khi tên công an tỉnh rượu. Chờ cho trời vừa chập tối lão đi nhanh băng qua khu chợ ra đường lộ đón xe đò về Saigon. Sau này lão giới thiệu một ông bạn, sĩ quan hải quân đoàn viên cựu hạm trưởng tàu dầu, tên Mạch thay lão làm tài công cho chiếc ghe của gia đình vợ. Lão bôn ba trong bóng tối vượt biên và nhận nhiều chuyến đi khác nhau. Chuyến đi đầu tiên lão bị tàu hải quân (LCU) VC bắt trên biển Rạch Giá vì máy ghe Ấn Độ không nổ máy và không có dầu. Bọn VC đòi vàng để thả người. Lão yêu cầu thuyền nhân chung vàng cho chúng. Tàu hải quân VC kéo ghe vượt biên vào cửa sông Tắc Cậu rồi chặt dây cho ghe lủi vào bờ. Gia đình lão và một cựu đại úy VNCH chi thêm vài chỉ vàng nữa làm lão mất chiếc nhẫn đính hôn. Bọn VC cho gia đình lão và ông đại đại úy ở lại trên tàu đưa vào cửa biển Rạch Gía, cập tàu trước Đền thờ Nguyễn Trung Trực. Gia đình lão lên bờ lúc nữa đêm, đường phố không một bóng người. Chiếc LCU của VC quay trở ra cửa biển. Lão biết giữa khuya thế này đi bộ ra chợ chắc chắn sẽ bị bắt dọc đường. Đánh bạo lão dẫn vợ con đi thẳng đến trạm gác đối diện đang có tên công an VC đứng gác với cây súng AK:
-Thưa đồng chí, tôi ở dưới tàu mới lên không có nơi nghĩ qua đêm, đồng chí cho chúng tôi ở tạm đây nhá. Tên VC vui vẽ nhận lời vì hắn thấy rõ ràng gia đình lão từ dưới tàu hải quân lên đây:
-Vâng, đồng chí cứ vào trong nghĩ đi. Tớ gác bên ngoài. Nói xong hắn móc gói thuốc lá mời lão một điếu:
-Đồng chí chờ đây một tí, tớ lấy tấm chiếu cho mấy cháu và chị nghĩ nhé.
Vợ con lão vì mệt mõi cả ngày trên biển đã lăn đùng ra ngủ. Lão gỉa đò nhắm mắt nằm đó, mong trời mau sáng…Vừa hừng sáng, lão đánh thức vợ con dậy đón xe xích lô đi thẳng ra bến xe đò. Gia đình lão về đến nhà vào buổi chiều đó. Thật hú hồn!. Sau đó lão tiếp tục nhận các chuyến đi khác. Nhưng số lão không may mắn, các chuyến đi sau này đều thất bại vì tổ chức ‘bến bãi’ đổ bể. Cho đến tháng 6 năm 1983 HQ Thiếu tá Nguyễn Duy Khanh (K.12) giới thiệu lão đến một tổ chức vượt biên. Qua lời giới thiệu của Thiếu tá Khanh, người chủ ghe hết sức vui mừng biết lão là cựu thuyền trưởng hải đội dưới thời Thiếu Tá Khanh là Chỉ huy phó Hải đội 5 Duyên phòng nên chủ ghe quyết định cho vợ và 2 con anh ta theo chuyến đi của lão. Chuyến vượt biên thành công. Ghe nhổ neo từ vườn hoa Lạc Hồng (Mỹ Tho) đến địa điểm đón thuyền nhân và ghe ra đến cửa biển Bình Đại khi trời hừng sáng. Thủy trình trong sông đầy cam go, căng thẳng và nguy hiểm khi phải tránh né nhiều trạm gác dọc bờ sông và ba lần bị tàu tuần Việt cộng đuổi bắt từ trong sông ra xa cửa biển. Tài công phụ, thợ máy và 89 thuyền nhân ói mửa say sóng nằm như chết khi ghe ra đến biển. Đêm thứ ba, ghe ra đến hải phận quốc tế, lão cho ghe bỏ neo để dưỡng máy và lão cũng muốn nhắm mắt ngủ đôi chút sau hai ngày một mình lão lèo lái con tàu; Các thanh niên thay nhau tát nước biển tràn vào lườn ghe. Hừng sáng hôm sau lão cho kéo neo và tiếp tục cuộc hải hành xuôi về Nam. Nhiều đàn cá heo tung tăng đùa giỡn lội theo nhảy múa trước đầu ghe. Đến trưa ghe của lão được một chiếc tàu dầu khổng lồ của Mỹ đi ngược chiều vớt trên đường chiếc tàu này đi từ Singapore về Nhật Bản. Sau khi thuyền nhân lên hết tàu Mỹ, lão ở lại ghe giúp một thủy thủ người Mỹ phá một lổ hổng lớn dưới lườn ghe cho nước biển tràn vào nhấn chìm chiếc ghe. Đứng trên boong tàu lão nhìn chiếc ghe trôi dạt ra xa và dần dần chìm mất vào lòng đại dương; Lão cảm thấy luyến thương chiếc ghe nhỏ bé đã cưu mang gia đình lão và 85 thuyền nhân sau hai ngày hai đêm trên biển. Vị thuyền trưởng xin lão tấm hải đồ vẽ đường hải hành và tay lái ghe để lưu niệm. Ông ta dẫn lão vào một phòng rộng có cầu thang dẫn lên đài chỉ huy và ông cho lão biết chiếc ghe của lão là chiếc thứ tư được tàu ông vớt. Ông đưa lão đến trước một tấm vách lớn và chỉ vào một khoảng trống trên vách cho biết nơi đây sẽ trưng bày tấm ảnh bán thân của lão cùng tấm hải đồ và tay lái ghe để lưu niệm. Ông không quên giới thiệu các vật lưu niệm khác của ba chiếc ghe mà tàu ông vớt trước đó. Lão tò mò đến sát để nhìn 3 tấm ảnh của 3 tài công kia là ai. Lão vui mừng khi nhận ra hai tấm ảnh tài công của chuyến thứ nhất là Quang nhí Coastguard và chuyến thứ ba là Qúy rổ OCS. Lão khoái chí chỉ vào 2 tấm ảnh khoe với vị thuyền trưởng:
-Ồ! Thưa ông, đây là 2 người bạn cùng khóa hải quân với tôi.
Sau đó vị thuyền trưởng đưa lão lên đài chỉ huy tặng lão một chiếc mủ đi biển mới toanh màu trắng có huy hiệu bánh xe tay lái tàu nằm bên dưới dòng chữ LNG AQUARIUS (tên của chiếc tàu) màu xanh dương và ông mở ngăn tủ nhỏ lấy tấm danh thiếp trao cho lão:
-Anh có muốn đi biển nữa không? Nếu muốn thì theo địa chỉ trên danh thiếp này tại New York. Thay vì tàu Mỹ đưa ghe lão vào một trại nào đó ở Indonesia (Nam Dương) cách nơi vớt khoảng 6 giờ đồng hồ, nhưng theo yêu cầu của tất cả thuyền nhân, họ muốn đến trại tỵ nạn Nhật Bản. Vị thuyền trưởng người Mỹ vui vẽ nhận lời. Sau 7 ngày đêm trên biển, cuối cùng chiếc tàu dầu khổng lồ cặp bến Nhật Bản. Gia đình lão và 85 thuyền nhân được xe bus đưa đến trại tỵ nạn Omura (Nagasaki) của Nhật Bản. Sau gần 3 năm tạm cư tại Nhật, cuối cùng gia đình lão cũng được đặt chân đến ‘vùng đất hứa’, vùng đất của ‘giấc mơ Mỹ’ vào tháng 6 năm 1986.
Hoàng Ðình Báu – Apr 3, 2021 cập nhật lần cuối Apr 3, 2021
Hộ tống hạm Kỳ Hòa HQ-09, hình chụp những năm 1960. (Hình minh họa: history.navy.mil)
Lời Giới Thiệu: Tác giả Hoàng Ðình Báu là hạm trưởng hộ tống hạm Kỳ Hòa (HQ-09) trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông xuất thân Khóa 11 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Ông hiện định cư tại Hoa Kỳ sau trên 10 năm trong ngục tù Cộng Sản.
Ðầu năm 1974 tôi được chỉ định làm hạm trưởng hộ tống hạm Kỳ Hòa (HQ-09). Suốt năm đó HQ-09 có hai nhiệm vụ chính: Tuần tiễu vùng Trường Sa và yểm trợ các giàn khoan dầu của Hoa Kỳ ngoài khơi từ Vũng Tàu đến Côn Ðảo. Mỗi chuyến công tác kéo dài ba tháng nên việc nghỉ bến để tiếp tế lương thực, dầu và nước là Vũng Tàu, đôi lúc cũng ghé Côn Sơn để nghỉ ngơi và tiếp tế.
Ðến năm 1975 khi các tỉnh ở Cao Nguyên Trung Phần bị lọt vào tay Cộng Quân. Ðầu Tháng Hai thì Huế và Quảng Trị bắt đầu rối loạn, Sư Ðoàn 1 đóng tại Huế đang được di tản vào Ðà Nẵng. Vào thời điểm này HQ-09 được lệnh chuẩn bị ra công tác khẩn cho Vùng 1 Duyên Hải. Ðây được coi như là chuyến công tác cuối cùng của HQ-09 mà hằng năm vào dịp 30 Tháng Tư vẫn còn ghi đậm trong lòng thủy thủ đoàn đã từng phục vụ trong những ngày tháng cuối cùng đó.
Sáng ngày 26 Tháng Ba, 1975, chiến hạm khởi hành ra Vùng 1 Duyên Hải.
Lúc 6 giờ sáng ngày 28 Tháng Ba, 1975, chiến hạm tới cửa Sơn Trà để chờ lệnh.
Các tin tức nhận được từ Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải và do dân chúng tỏa ra bằng ghe cập vào chiến hạm lúc sáng như sau: Tối hôm trước Cộng Quân pháo kích vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bằng hỏa tiễn 122 ly và sơn pháo 130 ly, làm hư hại chiếc trực thăng của Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải, Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Toàn thành phố bị thiết quân luật 24/24. Lính của các quân binh chủng di chuyển về Ðà Nẳng quá đông, không nơi ăn chốn ở, gia đình ly tán. Lợi dụng cơ hội này đặc công Cộng Sản trà trộn để phá hoại nên có nhiều tiếng súng và vài đám cháy nhỏ xảy ra trong thị xã. Các đơn vị cơ giới hạng nặng cùng các chiến xa, quân xa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đậu dài từ cầu Trịnh Minh Thế cho đến bờ biển Tiên Sa. Một vài nhóm quân nhân đã uy hiếp một tàu Hải Quân, buộc phải đưa họ tách bến. Nhưng tàu này bất khiển dụng nên rất may là không có gì đáng tiếc xảy ra. Với tình hình đó HQ-09 được lệnh không vào Ðà Nẵng mà cũng không cập cầu Tiên Sa.
Chiến hạm vận chuyển với hai máy tiến một, chạy lòng vòng ngoài cửa Ðà Nẵng để chờ lệnh. Chiến hạm quan sát thấy hàng trăm ghe tàu đủ loại đang tiến ra biển; một số ghe tiến về chiến hạm rồi cập vào để đưa một số binh sĩ và thường dân lên boong tàu.
Vào 12 giờ trưa ngày 28 Tháng Ba, 1975, chiến hạm nhận lệnh xuôi về Qui Nhơn để đón Sư Ðoàn 23 Bộ Binh di tản. Trên đường đi, chiến hạm cũng đã vớt nhiều đồng bào từ Quảng Ngãi, Cù Lao Chàm và Cù La Ré. Phần đông họ đi trên các ghe thúng hoặc ghe nhỏ. Chiều hôm đó chúng tôi đã chứng kiến bao cảnh thương tâm mà không sao cứu giúp được. Ðó là các đồng bào đang ở trên sà lan do các tàu dòng của hãng thầu RMK kéo về Sài Gòn. Tàu kéo thì quá chậm, trên sà lan lại quá đông người, lẫn lộn với nhiều binh sĩ đầy đủ súng ống. Trời nóng như đốt, không nước, không lương thực thì chuyện rối loạn là điều không tránh khỏi. Chiến hạm không thể đến gần để giúp đỡ vì lúc đó trên tàu cũng đang đầy người, nếu đến gần không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ðành bấm bụng cho tàu chạy lướt qua, để lại đàng sau những tiếng la cầu cứu lẫn tiếng súng.
Lúc 8 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, đến Qui Nhơn, lúc bấy giờ đã thấy hiện diện nhiều chiến hạm gồm LSM, LST, WHEC, DER và rất nhiều tiểu đỉnh của Vùng 2 Duyên Hải đang di tản, một số quân nhân của Sư Ðoàn 23 từ bờ ra biển. Bãi biển Qui Nhơn với bãi cát vàng được ôm ấp bởi hàng trăm cây dừa xanh tươi, nay nhìn vào chỉ thấy lửa và khói.
Đến 12 giờ trưa ngày 29 Tháng Ba, 1975, chiến hạm được lệnh tác xạ để phá hủy ba bồn dầu ở ngã ba quốc lộ 1 và đường vào thị xã. Cùng vài chiến hạm bạn, sau gần nửa giờ tác xạ, ba bồn dầu đã bị phá hủy, khói đen cao ngất che phủ một góc trời.
Lúc 4 giờ chiều cùng ngày, chiến hạm được lệnh về Nha Trang. Ðến 4 giờ sáng ngày hôm sau thì tàu đến hòn Pyramid, nằm ngoài khơi Nha Trang. Tàu tiếp tục xuống Hòn Yến rồi Hòn Dung để chờ sáng sẽ vào Nha Trang bằng ngõ Cầu Ðá phía bên Hải Học Viện.
Trời sáng dần, biển êm, gió nhẹ, chiến hạm bắt đầu nhiệm sở tác chiến. Trên đài chỉ huy nhìn hướng 10 giờ là Hòn Tre với đài kiểm báo trên đỉnh như còn say ngủ. Bên hướng 3 giờ là con đường Duy Tân với bao biệt thự xinh đẹp cùng một dãy các ki-ốt dọc theo bờ cát trắng. Xa xa là “Chụt,” phi trường, quân trường Hải Quân Nha Trang. Xa hơn nữa là Xóm Bóng, Hòn Chồng, Ðồng Ðế. Tất cả đều lần lượt thấy rõ qua mắt thường.
Chiến hạm chạy từ từ, thận rọng, quan sát. Có lúc chiến hạm chạy sát bờ biển Nha Trang đến nỗi có thể thấy rõ người đi bộ. Ðặt ống nhòm nhìn càng rõ hơn, toàn người và người. Tuyệt nhiên không thấy xe thiết giáp nào của Cộng Sản cả. Có vài chiếc xe hơi rọi đèn pha ra phía biển, không biết có còn ai ngồi trong đó. Lúc đi ngang qua khách sạn lớn của thành phố, chiến hạm thấy có nhiều người đang đứng trước khách sạn này, có người lấy nón vẫy cầu cứu.
Từ Cầu Ðá đến Xóm Bóng, bờ biển Nha Trang dài độ 6 cây số, chiến hạm đi qua rồi vòng trở lại Cầu Ðá. Quan sát kỹ nhưng chẳng thấy bóng dáng T 54 của Cộng Sản như lời đồn đãi lúc bấy giờ. Thủy thủ đoàn làm việc ngày đêm, ngoài việc đi phiên hải hành thường lệ, họ còn giúp đỡ đồng bào lúc lên tàu. Kiểm soát an ninh và trật tự vì có nhiều binh sĩ quá giang, nhiều đàn bà và trẻ em đang cần sự giúp đỡ. Bận rộn nhất là nhân viên nhà bếp, luôn luôn phải có cơm nóng và nước uống cho đồng bào. Tôi còn nhớ tên một vài người đã làm việc rất tích cực như giám lộ Long và Thiếu Úy trọng pháo Dũng trong chuyến công tác này.
Ngày hôm sau chiến hạm được lệnh tuần tiễu ngoài khơi vùng biển Nha Trang. Chỉ thị của Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh, tư lệnh Vùng 2 Duyên Hải kiêm tư lệnh tiền phương sau khi mất Ðà Nẵng, là: Tuần tiễu và chận bắt các tàu lạ xâm phạm hải phận Vùng 2 từ Nha Trang đến Cam Ranh. Vào lúc này, các tàu lạ mang quốc tịch Trung Quốc và Liên Xô di chuyển về phía Nam rất đông. Các thương thuyền này ngang nhiên xâm phạm hải phận Việt Nam một cách trắng trợn.
Tôi báo cáo lên cho Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải và xin chỉ thị. Lần này tôi được lệnh không ngăn chận nó mà chỉ theo dõi và báo cáo mà thôi. Số lượng tàu ngoại quốc đi sát bờ biển Việt Nam càng lúc càng đông, đến nỗi không thể nào kiểm soát hết; vả lại các thương thuyền lạ này có trọng tải và vận tốc lớn, nên chiến hạm ta không đủ khả năng bám sát được. Có lần chiến hạm thử chặn đầu một thương thuyền có mang cờ Búa Liềm bằng cách chớp đèn, nhưng nó vẫn tiến mà không hề giảm tốc độ. Buộc lòng chiến hạm phải né sang một bên, nếu không tránh kịp sẽ bị đứt làm đôi.
Ngày 2 Tháng Tư, 1975, chiến hạm được lệnh tiến đến “Chụt,” một làng nhỏ cách Cầu Ðá Nha Trang độ 1 km, để phá hủy hai bồn dầu của kho xăng nằm dưới chân núi đối diện phía bên kia con đường. Các bồn xăng sơn màu bạc, từ chiến hạm nhìn vào giống như hai ống khói khổng lồ nhô lên trong đám dừa xanh. Tôi yêu cầu sĩ quan trọng pháo lên đài chỉ huy để chuẩn bị dùng 76 ly tác xạ vào hai bồn dầu dó. Chiến hạm tiến gần sát thêm vào mục tiêu; giám lộ Long và sĩ quan đương phiên xác định điểm neo. Lúc đó là 10 giờ sáng, trời tốt, biển động nhẹ, gió nhẹ. Khoảng cách mục tiêu cần tác xạ là 1 hải lý. Nhân viên vào nhiệm sở tác xạ, tất cả sẵn sàng. Tôi nhìn kỹ mục tiêu lần chót trước khi ra lệnh tác xạ.
Tôi cũng như mọi người trên tàu đều thấy rõ hàng ngàn đồng bào đang lũ lượt lên dốc núi để qua bên kia Cầu Ðá, họ đang hướng về bến cảng nơi đó có hàng trăm ghe thuyền đang chờ đợi để di tản về Sài Gòn. Các ụ súng cũng báo cáo thấy rất đông đồng bào đang di chuyển ngang qua bồn dầu. Tôi ra lệnh ngưng tác xạ, theo dõi mục tiêu và chờ lệnh. Tôi báo cáo lên phòng hành quân của Tư Lệnh Hoàng Cơ Minh rằng mục tiêu không thể tác xạ được vì đồng bào đang đi qua đó rất đông. Vài phút sau tôi lại được lệnh bằng mọi giá phải triệt hạ hai bồn dầu đó. Biết không thể nào từ chối việc thi hành lệnh cấp trên, tôi chỉ cho sĩ quan trọng pháo nên bắn lên các đỉnh núi cao nằm phía sau kho xăng đó.
Khẩu trọng pháo 76 ly bắt đầu nhả đạn, từng viên, từng viên nổ chát chúa rung chuyển cả con tàu, tạo nên những cột khói trắng trên đỉnh núi cao, tựa hồ như những đám khói cuả các người đốt rừng để trồng trọt.
Sau khi tác xạ theo lệnh xong, tôi lên máy báo cáo: Ðã tác xạ 10 viên 76 ly. Bên kia hỏi cho biết kết quả. Tôi trả lời không trúng mục tiêu. Sau đó tôi bị dằn vặt bởi lời báo cáo này. Nhưng tôi không biết phải làm gì hơn, trong khi tất cả nhân viên trên chiến hạm cũng như tôi ai cũng cảm thấy nhẹ nhõm.
Ngày hôm sau, chiến hạm lại được lệnh tiêu hủy hai bồn dầu đó, trước khi rút về Cam Ranh nhận lệnh mới. Chiến hạm trở lại “Chụt” lần nữa, vẫn còn thấy nhiều người qua lại gần bồn dầu. Vì lý do nhân đạo tôi liền báo cáo về Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải là tôi sẵn sàng chịu nhận mọi trách nhiệm vì không thể tác xạ vào hai bồn dầu này được.
Ngày 5 Tháng Tư, 1975, chiến hạm khởi hành về Cam Ranh mang theo gần 500 đồng bào và binh sĩ. Số người quá đông nên vấn đề ăn uống và vệ sinh bắt đầu khó khăn. Chiến hạm cập cầu Cam Ranh lúc 12 giờ trưa. Một số đông đồng bào rời tàu để tìm phương tiện khác vào Sài Gòn. Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải đã di tản nên không thể liên lạc được, một vài thủy thủ còn lang thang trên cầu tàu, xa xa các bồn dầu Cam Ranh đã tiêu hủy từ các ngày trước chỉ còn lại đống tro tàn.
Ngày 8 Tháng Tư, 1975, sau 14 ngày chiến hạm liên tục hoạt động không ngơi nghỉ. Hai máy chánh bắt đầu có trở ngại, máy quá nóng nên chiến hạm cho chạy một máy, máy kia nghỉ. Nước ngọt và dầu cặn đã bắt đầu cạn mà không có nơi tiếp tế. Tôi báo cáo mọi hư hỏng về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài Gòn xin được về để sửa chửa và tiếp tế. Một ngày sau Bộ Tư Lệnh cho chiến hạm về Phan Thiết để tuần tiễu từ mũi Kê Gà đến Vũng Tàu. Tại đây chiến hạm sẽ nhận tiếp tế dầu, nước từ các chiến hạm bạn đang cùng công tác trong vùng. Khi nhận được tiếp tế đầy đủ, chiến hạm lại tiếp tục chở đồng bào và quân nhân từ Phan Thiết về Vũng Tàu.
Ngày 16 Tháng Tư, 1975, mới được lệnh về Sài Gòn để sửa chữa.
Ngày 17 Tháng Tư, 1975, chiến hạm ráng lết về Sài Gòn với một máy chánh tả. Cập cầu HQCX vị trí 1 cho đồng bào lên bờ. Các thủy thủ bắt đầu dọn dẹp vệ sinh. Tôi rời tàu, ra cổng HQCX gọi Honda ôm để về nhà. Trên đường đi tôi bị ám ảnh bởi cảnh đọa đày trên sà lan mà đồng bào ta đang chịu đựng, làm lòng tôi nôn nóng muốn mau về để thấy mặt vợ con. Tôi nghĩ lại mình còn có hạnh phúc hơn nhiều người.
Ngày hôm sau tôi vào hạm đội và trình diện Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Xuân Sơn, tư lệnh Hạm Ðội. Ông cũng là vị hạm trưởng đầu tiên nhận lãnh chiến hạm HQ-09 năm 1960 tại Hoa Kỳ. Ông nói tôi phải đưa lệnh công tác sửa chữa gấp cho HQCX, đồng thời xúc tiến ngay việc lãnh gạo và nhiên liệu để sẵn sàng công tác. Ðặc biệt lần lãnh gạo này được cấp đầy kho, điều đó cũng đã nói lên ý định của hạm đội chuẩn bị cho một cuộc di tản sắp tới.
Ngày hôm sau Ðại Tá Sơn bị cách chức và Hải Quân Ðại Tá Phạm Mạnh Khuê lên thay thế. Một buổi họp khẩn cấp các hạm trưởng của hạm ðội, Ðại Tá Khuê tuyên bố: “Anh em yên chí, chúng ta vừa mới thả hai trái bom CBU ở Long Khánh, Cộng Quân đang bị chận đứng. Mọi công tác vẫn như thường lệ, việc chuẩn bị chiến hạm di tản hủy bỏ.” Tất cả mọi người lặng lẽ ra về.
Tuần lễ cuối cùng của Tháng Tư, 1975, là một tuần lễ thê thảm của HQCX. Máy chánh, máy điện rả ra mà chẳng có thợ xuống ráp lại. Mỗi ngày có một đốc công xuống xem qua rồi lên, họ lắc đầu nói chờ “part” v.v. Các nhân viên chiến hạm cũng điểm danh đầy đủ, có một sĩ quan vào chào từ biệt tôi để đi Hoa Kỳ ngày 20 Tháng Tư, 1975, anh nói đã có vé máy bay vì bà xã làm ở cơ quan Mỹ.
Chiều 29 Tháng Tư, 1975, các chiến hạm từ cầu A cho tới sở Hàng Hà đều đầy nghẹt người, riêng các chiến hạm đậu trong HQCX thì ít người hơn vì vào lối này phải có người hướng dẫn. Trung Tá Trị, hạm trưởng HQ-406, đang đậu vị trí ngoài cùng gặp tôi đang lúc anh đưa gia đình ngang qua HQ-09, anh bảo tôi cùng đi nhưng gia đình tôi chưa vào được nên tôi từ chối.
Chiều lại, tôi tập họp nhân viên trên tàu, mọi người nhìn tôi chờ đợi. Tôi nói tàu mình hư không thể chạy được, anh em nào muốn đi thì qua HQ-406, tối nay sẽ khởi hành. Riêng bản thân tôi thì ở lại, vì vợ con tôi không vào được. Một vài người qua HQ-406, còn bao nhiêu hầu như cùng ở lại chiến hạm như tôi.
Tối hôm đó tôi vào phòng truyền tin để theo dõi việc di tản. Trong phòng đã có sẵn hai nhân viên vô tuyến đang đàm thoại với những chiến hạm bạn. Tôi chỉ sợ nếu có một chiến hạm bị bắn cháy trên đoạn đường từ Sài Gòn ra Vũng Tàu thì cuộc di tản của chúng ta sẽ như thế nào? May thay đám du kích Việt Cộng hai bên bờ sông Lòng Tào và Soài Rạp chưa đủ sức để làm chuyện này.
Sáng 30 Tháng Tư, 1975, đứng trên đài chỉ huy tôi chỉ thấy một vài chiến hạm còn lại đang cột ngoài phao ở giữa sông, hay cập bến tại các cầu tàu. Phần đông các chiến hạm đều bị bất khiển dụng, chỉ có một số ít chiến hạm không đi, mặc dầu còn khiển dụng một máy hoặc cả hai máy. Lý do vì không có hạm trưởng hay cơ khí viên. Nhưng không phải vì thế mà chiến hạm bị bỏ ngỏ. Tất cả vẫn nhiệm sở tác chiến. Họ là những người lính, nên dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng đều tuân lệnh và chiến đấu hết mình.
HQ-09 cũng vậy, tất cả vào nhiệm sở để chiến đấu dù tuyệt vọng. Nếu ông Dương Văn Minh không tuyên bố đầu hàng, chắc chắn các chiến hạm còn lại cũng phải một sống một chết với Cộng Quân.
Hình chụp lúc 9 giờ sáng ngày 17 Tháng Giêng, 1963, hộ tống hạm Kỳ Hòa HQ-09. (Hình minh họa: Flickr manhhai)
Lúc 11 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Tôi tập họp anh em trên chiến hạm một lần chót: “Tôi nói anh em đã nghe rồi, chúng ta đầu hàng. Bây giờ các anh em có quyền về nhà.”
Trước khi về, anh Quản Nội Trưởng cho anh em mang gạo về mà ăn. Cứ mở kho, ai mang được bao nhiêu thì mang.
Tôi thay thường phục lái xe về nhà. Tôi mang theo xách tay, trong đó có hai khẩu súng (một Ru-lô và một Colt 45). Theo xe tôi có Hạ Sĩ Thành, anh là trọng pháo nhưng luôn luôn sát cạnh để lo ăn uống và giúp đỡ cho tôi khi cần. Vừa ra khỏi HQCX tôi quẹo phải đường Cường Ðể. Trước hết tôi thấy bao nỗi kinh hoàng còn ghi dấu hai bên đường. Nào là các xe hơi, xe Jeep, xe Honda nằm đầy la liệt với hàng đống vali và xách tay cùng hàng đống hình ảnh và búp bê rơi tung tóe. Ðến đường Hiền Vương tôi quẹo trái, gần ngang cổng Nha Hàng Không Dân Sự thì gặp phải một chiếc T 54 của Cộng Sản đang tiến nhanh ngược chiều về phía tôi, tôi nép qua phải, chút nữa là tôi bị cán nát. Ðây là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt T 54.
Về đến nhà, tôi thấy vợ con tôi và một số bà con đang ngồi bẹp dưới sàn nhà. Có lẽ mọi người cũng như tôi đã chờ đợi suốt đêm qua, nhưng mỗi người chờ đợi mỗi cách. Gia đình và bè bạn thì chờ tôi về để đưa đi. Còn tôi và toàn thể nhân viên trên chiến hạm thì chờ đợi những giờ phút cuối cùng của lịch sử trong đời quân ngũ. Một lúc sau chẳng ai nói với ai một điều gì, mọi người tự giải tán trong nặng nề và u uất. Tôi đưa cho Hạ Sĩ Thành khẩu Colt 45 và một ít tiền để anh về xe, anh ở tận Cần Thơ. Từ đó tôi chẳng bao giờ gặp lại mặt anh.
Những ngày đầu Tháng Năm, Sài Gòn như lên cơn sốt bệnh tật. Nhà nhà đóng cửa, ngoài đường xe cộ chạy loạn xạ, một chiếc đâm vào nhà tôi làm sập cánh cửa sắt, mặc dầu nhà tôi ở trong hẻm nhỏ. Người lái xe chẳng ai xa lạ, mà là một cậu xì ke nhà đầu xóm. Cậu ta vừa mới vớ được chiếc xe Jeep của ai mới bỏ sáng nay nên lái chạy chơi, có người còn cầm súng bắn lên trời mừng chiến thắng. Sực nhớ còn khẩu Ru-lô trong túi xách, tôi bảo vợ tôi lấy tờ báo gói lại rồi đem ném vào đống rác ở chợ Bàn Cờ. Vợ tôi lặng lẽ ra đi một lát sau bà về bảo đã làm xong nhiệm vụ. Tôi tự nhủ thầm, hôm nay tôi mới thực sự giã từ vũ khí.
Ngày 2 Tháng Năm, 1975, tôi đứng dậy sau một ngày nằm dài như người mê man. Tôi cố đi một vòng quanh khu Bàn Cờ chỗ tôi ở. Hai bên đường cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam treo đầy, các “bộ đội giải phóng” “hồ hởi phấn khởi” mặc đồ đen, đồ xanh, có người quấn khăn rằng, có người đội nón tai bèo. Họ vừa chạy xe Honda vừa bóp còi inh ỏi.
Một tuần sau tôi lại đi lần nữa để xem có gì khác lạ không, khi đi ngang qua rạp hát Văn Hoa trên đường Ðiện Biên Phủ gần Ngã Bảy, tôi thấy bộ đội miền Bắc đóng đầy trong đó, ngoài cổng có hai tên đầu đội nón cối, chân đi dép râu, tay cầm AK báng đỏ đứng gác. Nhìn chung quanh đường tôi chẳng còn thấy bong dáng cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đâu cả mà thỉnh thoảng có vài lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc các cao ốc. Tôi nghĩ bụng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ chiến thắng có vài ngày thôi, họ hy sinh nhiều nhất mà thua cũng mau nhất.
Vài ngày sau tôi đạp xe chạy xuống bến Bạch Ðằng. Hôm đó trời mưa lất phất, dẫn xe đạp qua gần cầu B, tôi thấy vài chiến hạm còn đậu ngoài phao, nhìn về phía HQCX tôi thấy mũi tàu HQ-09. Tôi im lặng với bao niềm thương nỗi nhớ. Vĩnh biệt HQ-09!
Sau khi các Đơn Vị Hải Quân của Vùng I, Vùng II Zuyên Hải và TTHL/HQ rút về Sài gòn, thì khu vực Hải Quân trở nên náo nhiệt, từ Cát Lái cho đến trại Bạch Đằng. Áp lực của Việt Cộng ở phía Bắc Sài gòn càng ngày càng trở nên nặng nề.
Phi cơ phản lực A37 có huy hiệu của Không Quân VNCH, phát xuất từ Phan Rang, dội bom Dinh Độc Lập. Phi trường TSN, máy bay Mỹ lên xuống liên tục để di tản “non-essential personnel” của tòa Đại Sứ Mỹ và của các hãng thầu. Một số đồng bào Việt Nam “lạnh cẳng” cũng xô đẩy nhau vào….ăn có.
Pháo binh của Cộng Sản nhả đạn liên tục “giã nát” phi trường Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Dù. Vài quả rơi vào thành phố Sài gòn giết đồng bào một cách vô tội vạ. Có một quả rơi vào cư xá Hải Quân Lê Thánh Tôn, làm phu nhân Đại Tá Nguyễn Hiền Năng, K3/SQNT, bị tử thương.
Sợ đạn pháo kích tiếp tục rơi vào khu vục Hải Quân gây thiệt hại cho gia đình, tôi bàn riêng với Phó Đề Đốc TMT/HQ về việc đưa 2 gia đình chúng tôi đi Phú Quốc lánh nạn, còn chúng tôi ở lại tử thủ với Đô Đốc Tư Lệnh. Phó Đề Đốc Thủy đồng ý và tìm cho tôi 16 vé Air Vietnam đi Phú Quốc. Đến ngày lên phi cơ, thì phi trường TSN đóng cửa vì bị hư hại nặng nề sau trận pháo kích của Cộng Quân. Trong cái rủi cũng có cái may, nếu 2 gia đình đi Phú Quốc một cách suông sẻ, thì khi hạm đội rời hải phận Việt Nam, hai gia đình chúng tôi sẽ bị mất liên lạc. Trường hợp nầy nếu xẩy ra chắc tôi phải theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam với Trần Đình Trụ, K8/SQHQ/NT vì dường như gia đình Trần Đình Trụ cũng đang chờ anh ở Phú Quốc.
Các đơn vị Hải Quân được lịnh cấm trại 100%. Để giữ vững lòng tin và tránh cảnh hỗn loạn có thể xẩy ra như trường hợp của cuộc tan vỡ của Quân Đoàn I và Quân Đoàn II, Tư Lệnh HQ nghiêm khắc chỉ thị: “Hải Quân không có kế hoạch di tản”. Có một vài anh em không nghiêm chỉnh thi hành lệnh cấm trại, trốn về nhà với gia đình, nên khi hạm đội rời Sài gòn các anh bị kẹt lại. Sau nầy gặp lại tôi ở Mỹ, các anh nầy trách ĐĐ/TL ra đi không cho họ biết,… Oh, well!!
Trong thời gian đó có một vị Đơn Vị Trưởng của một đại đơn vị âm thầm, đơn phương “vẽ” một kế hoạch (di tản) đưa tàu ra biển kể cả việc (theo lời đồn) chỉ thị một Dương Vận Hạm (LST) neo tại Nhà Bè chờ lệnh. Đặc biệt kế hoạch nầy sẽ không có “chỗ trống” cho CNO. Kết quả là vị Đơn Vị Trưởng nầy bị giải nhiệm …. . tout suite! (ngay tức khắc).
Các “cố vấn” Mỹ như Đại Tá Joe Gildea ra vào BTL/HQ với gương mặt khẩn trương và tự đặt mình trong tình trạng báo động. Bên người luôn luôn đeo theo một radio transistor ở vị trí “ON” để chờ nghe bản nhạc..Ngựa Phi Đường Xa. Việc phòng thủ khu vực Hải Quân được chia làm 3 Phân Khu do Đại Tá Bùi Kim Nguyệt, K3/SQNT và Trung Tá Tòng, K7/SQNT, chỉ huy. Phân Khu I- công trường Mê Linh do Trung Tá Xuân, K10/SQNT, đảm trách; Phân Khu II – HQCX, do Đại Tá Trần Văn Triết, K7/SQNT, trách nhiệm; Phân Khu III – trại Cửu Long (không nhớ tên). Trung Tá Xuân, CHT Tổng Hành Dinh, cũng là một trong số bạn sinh tử với tôi, mở kho vũ khí trao cho tôi 2 khẩu M18 để thường trực trên xe jeep….phòng thân.
Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi qua BTL/HQ thì gặp Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, TMT/HQ và ông cho biết ông vừa đại diện Đô Đốc Tư Lệnh lên gặp Tổng Thống và được Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ thị: “Kể từ giờ phút nầy, các anh được toàn quyền quyết định cho đơn vị mình”, Đô Đốc Thủy còn nói thêm với tôi “mình sẽ rời Saigon đêm nay”. Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29 tháng 4, năm 1975. Trên bầu trời Sài gòn lúc đó tràn ngập trực thăng loại đổ bộ của US Marine, ồn ào như đàn ong vỡ tổ cộng với tiếng gầm như gào thét của phản lực cơ hộ tống của US Navy, đáp lên, đáp xuống ở điểm hẹn” để rước “American Citizens và American Buddies” ra hàng không mẫu hạm, ngoài khơi Vũng Tàu. Trước cảnh hỗn loạn đó làm cho lòng tôi cảm thấy bồi hồi, muốn rơi nước mắt. Tôi hồi tưởng lại vài năm trước, một ký giả ngoại quốc ôm máy ảnh ngồi chờ ở nhà hàng Continental để chụp tấm ảnh đầu tiên khi T54 của Cộng Sản tiến vào Sài gòn, tôi cười……no kidding! Nhưng bây giờ tôi mới biết mình là thằng khờ.
Theo kế hoạch của Đô Đốc Tư Lệnh, nếu Saigon thất thủ thì tất cả hạm đội và các đơn vị yểm trợ rút ra ngoài biển, tập trung rồi kéo về miền Tây cố thủ.
Với một người không có căn bản quân sự thì việc đưa Hạm Đội ra khỏi Sài gòn là một hành động “tháo chạy” nhưng với cá nhân tôi thì đó là một quyết định “di binh chiến lược” để bảo toàn lực luợng và tiềm năng chiến đấu của QLVNCH. Đó là quyết định cuối cùng (không có sự lựa chọn) chỉ cần chờ giờ ..G ….để xuất phát. Thủy trình của hạm đội từ Sài gòn ra biển phải theo hai thủy lộ: sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp, nếu đặc công đánh chìm tàu buôn để “khóa” hai con sông này thì Hải Quân ta như cá nằm trên thớt. Việt Cộng sẽ dùng hỏa công (trọng pháo) đốt chúng ta không còn……..manh áo va-rơi.
Giờ … .G … đã tới!
Tôi từ giã Đô Đốc TMT về văn phòng thu dọn giấy tờ và tìm cách đón gia đình tôi, ở bên cư xá Văn Thánh, chỉ cách HQCX bằng một con kinh. Tôi không có dịp từ giã CHT tôi là Đại Tá Ngô Khắc Luân và sỹ quan trong bộ tham mưu. TRAM QUAN CANH HAI QUAN TAI CONG TRUONG LAM SON TUONG DUC TRAN HUNG DAO
Các nút chặn Mê Linh và Cường Để đã khóa kín vì dân chúng ở ngoài quá đông chỉ chờ có lỗ trống thì tràn vào. Tôi tự nghĩ, mình có thể ra, nhưng chưa chắc mình và gia đình có thể trở vào.
Tôi trở vào HQCX để tìm phương thức khác, thời may lúc đó có một chiếc LCVP của TTHL/Bổ Túc đi chợ Thị Nghè, tôi nhờ mấy anh em thủy thủ đưa qua “kinh Văn Thánh”, ủi bãi cạnh nhà Tr/Tá Tòng, Tư Lệnh Phó/BTL/HQ/BKTD. Tôi đứng giữ tàu, tay thủ khẩu M18 (bây giờ đổi tên là AR 15, weapon of choice của mấy anh Red Neck), nhờ anh thủy thủ vào nhà tôi và đón gia đình tôi xuống tàu. Cùng lúc cũng có gia đình anh Hoàng Thế Thái, K8/SQNT, cùng tháp tùng qua sông. Trên bờ, mấy anh lính TQLC cầm súng M16 bắn chỉ thiên mấy phát, miệng la lớn “tụi nó chạy rồi tụi bay ơi!”. Tôi sợ mấy anh nầy mất bình tĩnh, chĩa súng về phía chúng tôi thì rất nguy hiểm. Tôi cho LCVP rút ra ngay để về cặp cầu bên HQCX. Khi rời tàu, chúng tôi và gia đình anh HTT chia tay, tôi phải đưa gia đình tôi đi “gửi” tạm một nơi an toàn để tôi có thể trở lại đón khi cần. Tôi chỉ có đủ thì giờ đón được vợ và hai con, còn cha mẹ, anh em đều bị kẹt lại vì không có chuẩn bị trước.
Sau nầy anh HTT đã tố khổ tôi với một số bạn bè và nói những điều không tốt về tôi. Trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng đó, mạnh ai nấy tự lo cho mình chứ không ai có khả năng và phương tiện để lo cho người khác. Vào phút chót, chính ông Tư Lệnh HQ, tôi và mấy cận vệ cũng không biết mình sẽ lên chiến hạm nào trong khi các chiến hạm lớn đã tháo dây ra lênh đênh giữa dòng.
Tôi trở lại BTL/HQ, Trung Tá Nguyễn Tuấn Khanh, Chánh Văn Phòng TL/HQ, thấy tôi mừng rỡ và bỏ nhỏ: “Anh H. ở lại với Tư Lệnh, tôi còn phải về đón gia đình”. Khanh, K10/SQNT, khoá sau tôi nhưng chúng tôi là bạn thân, đặc biệt là có chung một lập trường, nên việc bảo vệ cho Đô Đốc Tư Lệnh là trách nhiệm chung và ĐĐ Tư Lệnh tin cậy chúng tôi một cách tuyệt đối. Trung Tá Khanh rời BTL/HQ và không trở lại được. Toán bảo vệ an ninh cho Đô Đốc Tư Lệnh chỉ còn tôi và 5 anh Cận Vệ: Thuận, Thâu, Phúc, Quang, và Vân, các anh em nầy đều là hạ sỹ quan Hải Quân và họ đã sống gần gũỉ với Tư Lệnh nhiều năm.
Tôi đi một vòng ngoài văn phòng Tư Lệnh, tôi thấy có hai người đàn ông mặc thường phục, mặt rất khẩn trương, tôi chào xã giao nhưng không gợi chuyện. Về sau tôi mới biết là người nhà của Tổng Thống Dương Văn Minh.
Tôi đang sắp đặt công việc với các anh cận vệ thì có một anh quân cảnh từ công trường Mê Linh vào gặp tôi và cho biết: Có một Đại Tá Dù muốn gặp tôi gấp. Anh QC liền lái xe đưa tôi ra nút chặn, tôi thấy Tường, bạn cùng khóa với tôi ở trường CH&TM Long Bình, đứng ngăn cách với tôi bằng 5 lớp hàng rào ‘kẽm gai”. Tường nhìn tôi mừng rỡ, rơm rớm nước mắt, nói qua giọng nghẹn ngào: “Căn Cứ của tao bị pháo cháy hết rồi H. ơi!”. Tường cho biết anh đã đứng chờ hơn 4 tiếng đồng hồ tại đây nhưng không thể nào vào đuợc.
Trời xui, đất khiến, click! Một ánh sáng chớp trong đầu, anh bỗng nhớ tên tôi, nên nhắn tin cầu cứu. Tôi nhìn kỹ thấy Tường và gia đình đứng lố nhố bên cạnh chiếc jeep. Tôi nhờ các anh quân cảnh kéo mấy “con ngựa kẽm gai” cho gia đình Tường đi qua. Cũng như gia đình anh HTT, tôi để Tường và gia đình tự tìm phương tiện ra biển vì tôi còn phải trở lại với Tư lệnh.
Tường và tôi mất liên lạc kể từ chiều hôm đó, cho đến đúng 39 năm sau (29 Tháng 4 Năm 2014) Tường và tôi mừng rỡ “gặp nhau” qua điện thoại. Tường cho biết hắn và gia đình, đêm đó ra khơi bằng HQ 502. Và hắn cũng không quên kể cho tôi sự gian truân khi tìm nhảy một “sô (saut) bồi dưỡng” cuối cùng bằng tàu thủy. Tường cũng báo cho tôi tin buồn là Tr/Tá Trần Văn Vinh, CHT/TTHL/ND, cùng học khóa CH&TM với chúng tôi đã qua đời trong trại tù cải tạo.
Khi Trung Tá Khanh rời BTL/HQ, không có trao cho tôi kế hoạch di-tản, tôi cũng không nhận được khẩu lệnh của Đô Đốc nên tôi tự hoạch định, sắp xếp cho cuộc ra đi được an toàn và suông sẻ.
Vào lúc 6 giờ 30 tối, tôi chỉ thị một anh cận vệ về tư dinh Đô Đốc để đón gia đình Đô Đốc Tư Lệnh và gia đình tôi.
Vào lúc đúng 7 giờ (1900H) trời vừa sập tối, tôi thấy những chiến hạm lớn đậu ở cầu B và các cầu tàu trong HQCX đã tháo giây ra giữa dòng. Tôi mời Đô Đốc Tư Lệnh lên đuờng.
Tôi dẫn đầu với một thủy thủ tên Tiếng (nhân viên theo tôi trong những ngày cuối cùng), hướng dẫn Đô Đốc Tư Lệnh và gia đình theo sau, 5 anh em cận vệ chia nhau bảo vệ hai bên sườn và đoạn hậu. Tất cả chúng tôi đều trang bị M18 (7 khẩu) cho gọn gàng, riêng tôi còn có thêm một khẩu “rouleau” nhỏ ngắn nòng, bên hông. Đoàn người rời văn phòng Tư Lệnh và đi về hướng cầu A vì nơi đây còn có 2 chiếc PGM, mũi hạ giòng, chưa vào nhiệm sở vận chuyển.
Quãng đường tuy ngắn nhưng tôi cảm thấy…quá dài và rất nguy hiểm, tinh thần chúng tôi căng thẳng và cảnh giác vì sự bất trắc có thể xẩy ra trong chớp mắt.
Đoàn người lầm lũi đi trong bóng đêm. Công trường Mê Linh súng nổ liên hồi, anh em quân cảnh bắn dọa chỉ thiên để chặn sự hỗn loạn và đập phá chướng ngại vật. Ngoài phố dân chúng chạy ngược chạy xuôi mặt mày hơ hãi. Trên sông Sài gòn, PCF và PBR đảo tới, đảo lui …at full speed, quậy sóng cuồn cuộn.
Khi đoàn “công voa” đến cây cầu nhỏ, nối liền Bến Bạch Đằng và cầu A, thì một số thủy thủ bỏ tàu đi ngược về phía chúng tôi. Chúng tôi xuống chiếc PGM đầu tiên, cặp ở vị trí trong cùng, không thấy sỹ quan hiện diện mà chỉ có một số ít thủy thủ đứng trên boong tàu, trạng thái hỗn xược, miệng la to “tàu không đi, tàu không đi”.
Chúng tôi trèo qua chiếc PGM ngoài cùng thì gặp Đại Úy Trần Minh Chánh (con trai Đề Đốc Trần Văn Chơn) và Đại Tá Nguyễn Văn Ánh, còn những vị khác hiện diện trên tàu, trong giai đoạn khẩn trương nầy, tôi không để ý. Tôi yêu cầu Đại Úy Chánh đưa chúng tôi rời khỏi Sài gòn. Đại Úy Chánh, Hạm Trưởng PGM, ngần ngừ một chút rồi trả lời: “tàu vừa đi công tác về và vừa lấy dầu xong, chúng tôi không có ý định rời Việt Nam vì ba tôi (ĐĐ Chơn) và gia đình còn ở lại, và kể cả gia đình của thủy thủ đoàn”. Nhưng sau một phút suy nghĩ, Đại Úy Chánh lại nói với tôi: “Tôi đưa quý vị ra đến biển rồi chúng tôi sẽ quay trở về”.
Hạm Trưởng Trần Minh Chánh liền ra lệnh tháo giây, HQ 601 từ từ tách bến, khởi đầu cho Đêm Giang-Hành Lịch-Sử.
HQ 601 rời Sài gòn, không đèn hải hành, âm thầm di chuyển trong đêm. PCF và PBR vẫn ngược xuôi quậy sóng bao quanh các chiến hạm như để hộ tống, luyến tiếc tiễn đưa những người bạn, đã một thời chiến đấu bên nhau, ra khơi lần cuối.
Kho đạn Thành Tuy Hạ bị pháo kích bốc cháy sáng rực một góc trời, bom, đạn nổ ầm ầm liên tục. Hạm đội từ chiếc, từ chiếc, nối đuôi nhau vận hành ra biển. Thành phố Sài gòn về đêm đang hấp hối trong ánh đèn không đủ sáng.
Đô Đốc Tư Lệnh ngồi ở ghế hạm trưởng, gương mặt khẩn trương. Tôi đứng bên cạnh, tôi đặt một tay vào tay ông, tôi cảm thấy tay ông run run xúc động. Trách nhiệm của ông quá lớn, liên quan đến Hạm Đội và hơn 40,000 binh sĩ dưới quyền. Những gì sẽ xẩy ra trong những ngày sắp tới?
Tàu rời bến Nhà Rồng, rồi qua Nhà Bè và dưới sự chỉ huy khéo léo và kinh nghiệm của Hạm Trưởng Trần M Chánh HQ 601 đã ra đến biển một cách bình an. Riêng HQ 1 bị mắc cạn và HQ 502 bị Việt Cộng “pháo” trực xạ tại cửa Cần Giờ lúc 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chúng tôi lên HQ 3 do Trung Tá Nguyễn Kim Triệu, K7/SQNT, làm Hạm Trưởng. Tôi nhận thấy sự có mặt của Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng và Đại Úy Armitage (Phú). Trong lúc rời HQ 601 một cách vội vã, tôi không kịp bắt tay từ giã Đại Úy Chánh và nói tiếng cám ơn, thật là một điều sơ xuất. HQ 601 hoàn tất nhiệm vụ và quay trở về Sài gòn.
TDH Tran Nhat Duat HQ3 tai dao Con Son ngay 30-4-1975.
HQ 3 trở thành soái hạm của Hạm Đội di tản. Đô Đốc Tư Lệnh, qua máy truyền tin, chỉ thị tất cả chiến hạm tập trung tại Côn Sơn chờ lệnh.
Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên máy phóng thanh, Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ thị tất cả đơn vị còn đang chiến đấu “buông súng đầu hàng” để bảo vệ sanh mạng, xương máu của lính và dân.
Từ trong Côn Đảo, anh em Địa Phương Quân và giới chức quản lý nhà tù bơi xuồng túa ra xin được theo tàu Hải Quân rời đảo. Nhân viên chiến hạm yêu cầu họ thả súng xuống biển trước khi lên tàu.
Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử. Nước mất, nhà tan, chúng ta, những người Chống Cộng bảo vệ Tự Do, bỗng trở thành những người Vô Tổ Quốc. Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tung bay trên các kỳ đài chiến hạm đang hải hành ngoài hải phận quốc tế nhưng đối với thế giới thì ngọn cờ nầy không còn tồn tại….
Đầu tháng 4 năm 1967, tôi tình nguyện gia nhập quân đội, khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, vào lúc tình hình chiến sự bắt đầu leo thang trên cả hai phương diện, Trận Địa Chiến và Du Kích Chiến. Lúc đó, cuộc chiến đã hình thành rõ rệt giữa hai phe,
1) Phe Thế Giới Tự Do gồm Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc, Nam Hàn, Brazil, và Thái Lan.
2) Phe Cộng Sản, Bắc Việt Nam, Trung Cộng, Liên Sô, Tiệp Khắc, Bắc Hàn, Cuba, và một số quốc gia Cộng Sản Đông Âu. Số quân Mỹ, chưa kể đồng minh, năm đó lên đến gần 500,000 người.
Thời gian đó, tôi được miễn dịch vĩnh viễn, nghĩa là không bao giờ phải đi lính như những người trai thời loạn khác với lý do gia cảnh, Gia đình có 3 anh em trai, thì 2 anh đã nhập ngũ. Anh lớn nhất thụ huấn khóa 4 Thủ Đức (phụ) tại Đà Lạt, anh thứ hai phục vụ ngành An Ninh Quân đội (sau này được gửi đi thụ huấn tại Úc, và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hoàng Gia Úc).
Tuy nhiên, vì luôn theo dõi tin tức chiến tranh, tôi cảm thấy căng thẳng, thừa thãi, không biết làm gì để tiếp tay với mọi người chống lại bọn Việt Cộng dã man, cứ pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư vô tội, hoặc đắp mô, đặt mìn giết hại dân lành trên các con đường liên tỉnh.
Ngay tại thủ đô Saigon cũng không có an ninh vì bọn đặc công Việt Cộng cứ gài chất nổ, nay phá khách sạn này, mai nổ chỗ khác, hoặc ném lựu đạn vào đám đông, gây ra bao thảm cảnh, thây thiếu nữ, thanh niên, trẻ em nằm rải rác khắp nơi. Nhìn thấy những cảnh máu me tràn lan, tay chân vương vãi trên mặt đường, tôi nghẹn ngào muốn khóc, và rồi, một buổi sáng sớm, không nói với bất cứ ai trong gia đình, chỉ lẳng lặng cầm cái túi sách nhỏ đựng mấy thứ cần thiết, tôi đi xe buýt đến Quân Vụ Thị Trấn, vào hỏi chi tiết nhập ngũ, rồi ghi tên và leo lên xe GMC trực chỉ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Tôi được thả xuống đúng trại nhập ngũ nơi anh lớn tôi là Chỉ Huy Phó trại, nhưng anh không hề hay biết, vì tôi không gọi. Nếu thấy bóng anh thấp thoáng đâu đó, là tôi trốn. Mãi đến khi tôi qua Quân Trường Thủ Đức 3 tuần rồi, tôi mới viết thư cho anh và Mẹ tôi hay. Mẹ tôi theo anh tôi lên trường, gặp tôi, bà khóc nghẹn ngào. Còn anh tôi mắng tôi ầm ĩ, “Sao mày ngu thế? Có khùng điên không? Thời buổi này, chiến tranh chết chóc như rạ!”
Sau đó, anh buộc tôi phải theo anh lên gặp ông Liên Đoàn Trưởng Sinh Viên Sĩ Quan, là bạn anh, để mong chút ân huệ nào đó cho tương lai của tôi, nhưng tôi cự lại, “Em tình nguyện đi lính để đánh giặc, chứ không phải để chạy chọt vào chỗ tốt. Nếu muốn nhờ cậy, thì em cứ ở nhà, khỏe re, cần gì đi lính!”
Và thế là tôi đã trở thành một người lính Việt Nam Cộng Hòa, hạnh phúc vì được phục vụ cho đất nước. Cũng vì tinh thần xung phong đó mà khi được bổ vào Đại Đội 9 của Trung Úy Sự, người Sĩ Quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt, lúc nào cũng phong độ uy nghi, tôi tình nguyện giơ tay làm Thư Ký Đại Đội luôn.
Qua 6 tháng huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Thủ Đức, nghe thông báo là Trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ muốn tuyển người đi thụ huấn bên Mỹ, tôi lại giơ tay tình nguyện nữa. Ngày đầu tiên, cùng với gần 400 người lên giảng đường thi Anh Ngữ, tôi “pass” cùng với vài chục bạn nữa, để lên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, thi thêm 2 lần. Qua khỏi 3 cửa ải Anh Ngữ này, tôi cùng với khoảng 30 bạn nhập vào một Trung đội Đặc Biệt (Special Platoon) cùng với khoảng 10 Thông Dịch Viên từ các đơn vị gửi về thành 40 người để được một Cố Vấn Mỹ, Đại Úy Isler, rèn luyện về thể lực trong 1 tháng, cũng ngay tại trường Thủ Đức, 24 giờ một ngày, nghĩa là bất cứ khi nào cũng có thể bị hành xác.
Từ sáng sớm đến nửa đêm, đôi khi đang ngủ cũng bị dựng cổ dậy, hít đất, trồng chuối ngược, móc chân vào thanh giường trên, tay chống xuống đất, rồi dí ngón tay trỏ vào nón sắt, chạy vòng vòng quanh nón đến khi nằm gục xuống thì nghỉ, để lại đứng lên ngồi xuống 20 lần, nghe quát tháo và chửi bới nặng lời. Chạy sáng sớm, chạy buổi tối, chạy đến lớp học, chạy đến nhà cơm, chạy từ nhà cơm về, chạy đi “toilet.”
Nếu ngưng chạy thì hít đất, nhẹ nhất là 20 cái, trung bình 50 cái…Nghĩa là chạy “đoạn đường chiến binh” liên tục trong 1 tháng. Nhiều sinh viên chịu không nổi, rớt đài từ từ, cuối cùng còn lại 10 Sinh Viên Sĩ Quan thuần túy cộng với 8 Trung Sĩ Thông dịch Viên của các Sĩ quan Cao cấp Hoa Kỳ là 18 người lên đường sang Mỹ vào đầu tháng 10 năm 1967.
1. Chuẩn bị
Nơi học đầu tiên là Viện Sinh Ngữ Quốc Phòng (Defense Language Institute) tại Căn Cứ Không Quân, Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas. Ở đây, ngày 2 buổi, chỉ học các danh từ chuyên môn quân sự cùng với các quân nhân đồng minh khác, Iran, Iraq, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan.
Chiều, tối, Thứ Bẩy, Chủ Nhật đi chơi. Đời sống thanh thản như một sinh viên thuần túy. Nhưng tại đây, xẩy ra một vụ đánh lộn ly kỳ. Một buổi sáng đi xe buýt ra phố chơi cùng với nhóm Iran, Iraq… Một tay Đại Úy Iran có cái mồm oang oang, nói vang cả xe, gây khó chịu cho một vị Thiếu Tá Nhẩy Dù Việt Nam. Ông nhỏ nhẹ nói,
“Làm ơn nói nhỏ chút!”
Tên này khinh thường người Việt, cứ tiếp tục nói liên tục. Vị Thiếu Tá nhắc đến lần thứ 3 mà hắn cứ tỏ ra khinh khỉnh làm ông nổi giận, chửi liền,
“Fuck you, Iran! Mày coi thường dân Việt tao hả?”
Rồi xông đến giáng cho hắn 2 quả đấm, tên này gục xuống, máu miệng phun ra. Xe buýt dừng. Cảnh sát đến. Vị Thiếu Tá bị cảnh sát điệu đi đến chiều thì được thả về, nhưng rồi ông bị gọi lên gặp Sĩ Quan Liên Lạc và nhận lệnh phải trở về Việt Nam gấp. Nghe tin này, dân Việt giận quá. Đêm hôm ấy, đúng 12 giờ, nhóm Việt chúng tôi im lặng tiến đến khu phòng ngủ của bọn Iraq đang ngủ say, thình lình đập cửa xông vào, đấm đá bọn Iraq mất dậy kia một trận tưng bừng rồi lặng lẽ rút lui, để chúng không kịp bật đèn nhìn thủ phạm. Hôm sau cả Viện nháo nhào vì tin đánh lộn, nhưng vì không ai khai, không ai làm chứng, nên mọi chuyện ồn ào một hồi rồi cũng qua.
Ba tháng học ở đây như lên thiên đường, riêng tôi, lại có 2 mối tình, Một chuyện tình với cô Giáo sư người Mỹ lai Tây Ban Nha, đẹp rụng rời; và một anh chàng Mễ là chuyên viên phòng Lab, bệnh Gay, mê tôi như điếu đổ, chưa kể hai chị em 17,18 con một bà bạn, từng chơi đùa, ôm nhau lăn lộn ngoài bãi biển (chuyện này kể sau.). Ngày tôi rời San Antonio, Cô giáo khóc nức nở trước mặt các giáo sư khác, rồi ký tên trên mảnh bằng tốt nghiệp của tôi là “You are the most wonderful man I ever meet in my life. Love you forever.” Còn anh chàng Mễ, khi biết tôi ra đi không trở lại, thì mấy ngày trước, lăn ra ốm gần chết. Hắn gửi lời nhắn cho tôi đến nhà hắn, nhưng tôi lờ đi. Thôi, bye!
Tháng 3, năm 1968, lên máy bay, đến Fort Benning, Georgia, để bắt đầu học Quân Sự tại Quân Trường Infantry Officer Candidate School, gọi tắt là O.C.S. (Trường Sinh Viên Sĩ Quan Lục Quân). Trong thời điểm có cuộc chiến Mậu Thân 1968, nên chương trình huấn luyện cực kỳ căng thẳng. Sinh viên Sĩ Quan phải trải qua 6 tháng kinh hoàng để có thể có sức khỏe mà chiến đấu trong một xứ nóng, đầy dẫy bom mìn, cạm bẫy, thương vong.
2. Thủ tục
Ngay ngày đầu tiên, lúc còn xách 2 vali nặng chĩu, ông Thượng Sĩ nhất cũa Đại Đội Sinh Viên đã gào thét bắt chúng tôi phải xách vali chạy lên, chạy xuống 3 tầng lầu. Vừa xuống đến đất lại phải chạy lên lại, mấy lần như thế…Vali rồi tung tóe, người ngã nghiêng, hơi thở đứt đoạn.
Sau khi thấy chúng tôi sắp xỉu, thì ông Thượng Sĩ gào lên, “Các anh vào đây, muốn sống sót thì phải quên mình là “con người” mà chỉ là những con vật, đui, què, là ổ cứt thối, là đồ đầu lừa đít bò, cứt chó (you’re animal, you’re shit, you dumb, deaf, donkey head, cow ass, dog shit)…
Nếu ai mà nghĩ mình là người thì chỉ có cách tự tử mà chết thôi!” Ông dậy chúng tôi làm quen với cách mở miệng nói. Bất cứ lúc nào muốn nói với cấp trên (ông Thượng Sĩ đó, Huynh Trưởng, hay Sĩ Quan Cán Bộ) thì phải gào lên, “Sir, Candidate Tien requests permission to speak!” (Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho được nói!), mặc dù chỉ là để trả lời câu hỏi của ổng. Đi bất cứ đâu, qua phòng ăn, phòng học, đi toilet, vừa nhìn thấy cấp trên, là phải vội vàng đập lưng cái “bốp” vào tường, mắt nhìn thẳng ra phía trước, và gào thật to, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho đi qua!”
Nếu ông cho qua, thì đi thẳng người qua, nếu ông không cho qua, thì phải đứng im, không nhúc nhích. Nếu ông bảo bò giữa hai chân ông, là phải bò như chó cún. Vào phòng ăn, sau khi lấy đồ trên khay, đứng thẳng người trước bàn ăn, tay vẫn cầm khay, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ngồi.”
Nếu có cấp trên, thì ổng sẽ nói, “Ngồi đi!” thì mới được ngồi. Ngồi xuống, đặt khay cho thẳng hàng với cạnh bàn, sắp dao, nĩa chéo góc 45 độ với cạnh khay, để hai tay xuống đùi, ngồi thẳng người, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ăn.”
Có một cấp trên nào đó, ra lệnh, “ăn đi”, thì mới được ăn, Tay trái để trên bàn, cùi chỏ thẳng góc với mặt bàn, tay phải cầm nĩa, chọc vào thức ăn, đưa thẳng lên, ngang miệng, há miệng, đút thẳng đồ ăn vào, trong khi đó lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, nhai không được mở mồm, không được liếc qua bên cạnh (eye ball!). Hễ nhai mà để người khác thấy răng là bị chửi, “Ê! Thằng chó chết kia! Mày ăn như heo vậy hả! Làm cho tao 50 cái coi!”
Nếu liếc qua bên cạnh, là lập tức phải bỏ ăn, hít đất 50 cái. Một anh SVSQ Mỹ kia vô phúc, đang ăn lại liếc, bị ông sĩ quan phạt chạy một vòng vũ trường, dài đúng 1 mile, chạy nửa chừng giữa nắng, lăn ra chết luôn! (Một anh khác bị phạt hít đất giữa trời nắng hơn 100 độ cũng chết ngắc! Tại một đại đội khác, một sinh viên Mỹ tự tử bằng súng M.14. vì nhục quá!)
Điều bực nhất là có một hôm, vợ của một sĩ quan đến ăn, thì ông kia nổi hứng, chỉ tay vào tôi, hất hàm bảo, “Thằng con lừa kia! Mày leo lên bàn, làm xiếc khỉ cho vợ tao coi. Vợ tao không cười là mày chết ngắc!” thế là phải bỏ ăn, leo lên bàn, nhẩy múa, làm con khỉ nhăn răng, cho vợ hắn coi, mong cho bà ấy cười, mặc dù trong bụng chửi thề, “Bitch! God damn you!”
Thật ra, vì cần sức khỏe phải ăn, chứ đôi khi mệt lả, miệng đắng nuốt không vào, vì trước khi đến cửa phòng ăn (Mess Hall), là bị cây hít “pull-up bar” chặn đường. Hai tay huynh trưởng đứng hai bên cột sắt, bắt nhẩy lên, bám lấy cây ngang, hít lên, hạ xuống 20 lần rồi mới cho vào phòng ăn. Khi nào rã rời, kéo lên không nổi thì hít 50 cái thay thế…
Trở lại ngày đầu tiên nhận phòng ngủ, cứ 2 người một phòng, 2 giường sắt, 2 tủ quần áo gỗ có 4 ngăn mà 3 ngăn dưới rộng ngang để quần áo gấp, 2 ngăn nhỏ trên cùng để trưng mu-xoa, insignia (huy hiệu…) 2 cái hòm gỗ đựng đồ, 2 cái bàn làm việc giao nhau và 2 tủ sắt đứng treo quần áo tập luyện vuông vức, mỗi chiều khoảng 4 feet, cao 6 feet. Tất cả kích thước trưng đồ đều được tính sẵn, không sai 1 ly, thí dụ, quần và áo trận thẳng nếp được gấp vuông 30” là phải đúng 30”, cách mép trong ngoài 5” là đúng 5”, chỉ cần lệch ½” là 50 hít đất. Ngăn kéo dưới kéo ra ngoài 20”, ngăn trên 15”, ngăn trên nữa 10”, ngăn trên cùng 5.” Sĩ quan Cán Bộ hay Huynh Trưởng cầm thước đi đo, nếu lệch chút xíu là 50 hít đất. Chăn phủ giường phải thẳng băng, một vết nhăn là 50 hít đất… Thật sự, hít đất tôi không ngán, vì có thể hít 70, 80 cái như chơi, nhưng tôi ớn nhất là cái bàn, trên đó để 1 miếng bìa 60” x 60” bằng giấy thật, vì một tay huynh trưởng đến chỉ vào tấm bìa giấy đó, ra lệnh, “Ê! Mày đánh bóng cái tấm bìa này sao cho giống như cái gương để tao soi mặt!”
Mới nghe lệnh, tôi tưởng hắn giỡn, và nghĩ thầm, “Mẹ kiếp! Chỉ hù! Làm thế quái nào mà cho tấm bìa trở thành cái gương được?”
Nhưng vì là lệnh, nên tôi cũng kỳ cọ, dùng Wax (xira) đánh, đánh mãi vẫn cứ thấy nó bì bì ra.. Khoảng tiếng đồng hồ sau, tay kia trở lại, thấy tấm bìa vẫn lì lợm, phạt tôi nhẩy xổm 20 cái, hít đất đúng thế 20 cái. (Hít đúng thế nghĩa là người thẳng băng, tay huynh trưởng kia cúi xuống dùng tay móc lấy cái thắt lưng của tôi kéo lên, ấn xuống theo từng nhịp đếm!) Làm không đẹp là bỏ, đếm lại… Mỗi khi nhúng người xuống thì gào to, “One, Sir!” rồi “2, Sir”, 3, Sir..” Gào không to, thì bỏ, làm lại từ đầu.
Vì thế, khi nói 20 cái là sẽ thành 50, 60 cái… Mỗi ngày, tên huynh trưởng ác ôn kia đều tới kiểm tra miếng bìa. Đến chừng 4,5 ngày sau, bìa vẫn hoàn bìa, tôi bị hắn lôi tôi ra ngoài vườn, bắt trồng chuối ngược, chân dựng lên cửa sổ, tay chống xuống.. đá răm! Hễ rớt chân xuống, là cái đầu gối dập vào đá, phun máu! Đau quá, tôi phải năn nỉ tên cùng phòng chỉ cho tôi cách đánh bóng rồi tôi phải “lén” bỏ ngủ mấy đêm liền để đánh xira tấm bìa cho đến 1 tuần lễ sau, thì quả thật, miếng bìa đã thành tấm gương sáng choang, cho tay huynh trưởng kia soi thấy mặt mũi mình, hết phạt! (nói là “lén” bỏ ngủ, vì đúng 10 giờ đêm là có tiếng hô, “Sleep!” thì tất cả đều phải nằm ngay như tượng, nhắm mắt. Chờ cho tay gác đi qua, thì nhổm dậy, bật đèn pin, rồi chà bóng mọi thứ, từ cái bàn đến sàn phòng.)
Nguyên tắc đánh Wax phải theo đúng, không sai một ly, một cái nắp hộp Wax đựng nước thật sạch, một miếng vài trắng tinh. Cuộn vải vào 2 ngón tay trỏ và giữa, nhúng vào nước, rồi nhúng vào Wax mà chà xoay một vòng tròn bằng đầu ngón tay cho đến khi nào cái vòng tròng bằng ngón tay ấy sáng lên, thì lan ra dần đần cũng theo kiểu vòng tròn. Nếu chà kiểu xẹt qua, xẹt lại thì đến Tết mọi cũng không sáng, mà không sáng thì cứ bị phạt liên tu bất tận. Việc đánh bóng sàn phòng cũng giống như thế. Vì lệnh đưa ra là sàn nhà phải bóng để cán bộ hay huynh trưởng vừa vào đến cửa phòng là cúi xuống nhìn sàn nhà, nếu thấy mặt của họ in trên sàn thì OK, và nếu chưa thấy thì chỉ có .. tắt thở! Để cho sàn nhà được bóng, thì hai thằng thay nhau chà Wax từ 8 giờ tối đến 10 giờ đêm, rồi leo lên giường, giả bộ ngủ, chờ kiểm soát đi qua, là chồm dậy, soi đèn pin đánh đến nửa đêm về sáng, cả tuần như vậy, thì sàn nhà sẽ bóng như gương.
Đau khổ nhất là sau khi sàn nhà sáng rồi, thì chính mình không dám bước lên sàn, mà mỗi khi đi học hay tập về, là phải bám tay vào thành trên của cửa chính để đu vào cái tủ gỗ, nhẹ nhàng như rắn, rồi từ từ đặt chân vào thành sắt của giường, từ từ đặt mình xuống bàn, hoặc đặt mình lên giường, vậy mà chiều hôm sau, đi về, thấy các dấu chân của cán bộ, huynh trưởng ác ôn, dùng mũi giầy chà qua chà lại làm cái sàn lại dơ, tim như nghẹt lại, nước mắt chẩy ra chan hòa! Lại phải thức khuya làm vài ngày nữa. Trong khi ấy thì bị phạt… Hoặc vác súng M.14 chạy 1 vòng 1 dặm, hoặc đi thao diễn cơ bản 10 vòng quanh sân, hoặc trồng chuối ngược trên sân đá răm, hễ rớt chân xuống là cái đầu gối đập vào mỏm đá, thì chẩy máu be bét…Nhẹ nhất là hít đất từ 50 cái lên đến 100 cái…
Nói chuyện chà bóng sàn nhà, bàn giấy mà không nói đến đánh bóng giầy và búp nịt thì thiếu sót lớn. Giầy bốt đờ sô của Mỹ là loại da bò dầy cui, lồm xồm, vậy mà phải đánh bóng thế nào cho đến khi cấp trên đến đứng trước mặt mình, cúi nhìn xuống, thấy cặp mắt của hắn nhìn lên! Nếu nhìn thấy mắt mà không rõ nét, thì bị tay kia lấy đế giầy của hắn đè lên chân mình mà day day…rồi ra lệnh đánh lại! Búp nịt cũng thế! Phải sáng choang hơn lư đồng ngày Tết, phải phản chiếu cái búp nịt của cấp trên như hai cái gương đối nhau. Áo trận có cái nẹp gài nút, phải thẳng tuốt từ trên xuống dưới, chạy đúng qua đường thẳng của cái búp nịt, xuống cửa quần… là một đường thẳng băng. Lỡ quay qua quay lại làm lệch cái đường áo với đường cửa quần là.. toi mất một buổi tối không được nghỉ ngơi mà chịu phạt.
Tôi nhớ một buổi sáng, tên SVSQ Đại Đội Trưởng (cũng là do huynh trưởng chỉ định), đứng giữa sân, đọc nhật lệnh. Bốn trung đội chúng tôi đứng thành hình vuông. Tay SVSQ/ĐĐT kia đang cầm hồ sơ đọc cái gì đó, thì bị một tên huynh trưởng đến đứng trước mặt, tò mò nhìn xuống mũi giầy của tên đang đọc, không nhìn thấy mắt hắn, liền ra lệnh cho tên SVSQ/ĐĐT kia cúi xuống tháo giầy ra để bên cạnh, rồi bắt cởi áo, bỏ xuống, đến cởi quần ngoài, rồi áo thung, rồi quần xịp….đứng trần truồng giữa sân!
Chưa hết, tên huynh trưởng bắt tên truồng này cầm bản nhật lệnh lên tiếp tục đọc. Bọn tôi nghiến răng lại, cắn môi đến bật cả máu ra, không dám cười, không dám liếc vì nếu nhúc nhích một chút mà bị bắt thì cũng lại phải cởi quần áo ra, đứng phơi giữa trời…thay thế cho tên kia. Hình ảnh tếu lâm này, tôi nhớ mãi không bao giờ quên.
………………………………………….
3. Lên huynh trưởng và hành xác
Sau 12 tuần huấn nhục, tôi đã được lên huynh trưởng, hãnh diện đeo lên cổ áo và cầu vai dấu hiệu (insignia) có 3 chữ tắt “O.C.S.” bằng đồng vàng trên nền nhung xanh da trời, khác với dấu hiệu của đàn em là nền nhung đen. Từ giai đoạn này, chúng tôi không còn bị hành hạ nữa, và được tôn trọng như một Sĩ Quan. Ngày đánh dấu lên huynh trưởng rất quan trọng bằng một cuộc Party lớn.
Một phong tục lạ với chúng tôi là để chuẩn bị cho cuộc party này, các SVSQ được mời các em độc thân ở ngoài phố vào chơi và “blind dating” (cặp bồ không biết mặt!) Một SVSQ đại diện đi hỏi hết 240 SVSQ về hình dáng, cơ thể của từng người, tóc đen hay đỏ, và hỏi xem muốn cặp với thiếu nữ loại nào, cao bao nhiêu, tóc vàng hay tóc đen….rồi gửi danh sách ra ngoài thành phố, để tuyển người tình nguyện cặp bồ trong một đêm thôi, vì sau Party chấm dứt, các SVSQ có quyền dẫn bồ ra khách sạn hoặc đi đâu đó tùy ý, sáng mai trở lại trường, phờ phạc!
Khi được ngỏ ý, chúng tôi từ chối liền vì nghĩ rằng “chắc toàn là gái gọi, lây bệnh chết ngắc!” Biết được nhóm An-nam-mít này từ chối, Ông Đại Úy Đại Đội Trưởng mời chúng tôi lên và hỏi ý xem có thích “cặp bồ” với người Mỹ không? Nếu không, thì ông sẽ gửi thư mời các nữ quân nhân, trợ tá.. Việt Nam đang thụ huấn tại các quân trường khác đến chơi…Trong khi anh em còn đang phân vân, tôi nói lời cám ơn với ông, và từ chối vì phong tục Việt Nam chúng tôi không cho phép làm như vậy.. (Bây giờ, nhớ lại thấy.. tiếc hùi hụi! Được đi chơi đêm với một thiếu nữ cùng quê hương là một giấc mơ tuyệt vời, vậy mà từ chối! Trời ạ!)
Sự thật chứng tỏ chúng tôi đúng là con “cù lần” mà là “cù lần lửa”! Buổi tối đó, các xe nhà binh rần rần chở các em đẹp ngây ngất bước xuống, mỗi người mang một bảng tên của SVSQ chọn mình lên áo. Các em 18, đôi mươi, già nhất chưa tới 30, thân thể no tròn, mắt long lanh, môi tươi hơn hoa hồng, và đều là sinh viên, công chức, tư chức….nhưng là dân chịu chơi, mê sĩ quan.
Các cô nháo nhác tìm tên của người chọn mình, rồi tiến lại ôm nhau như đã từng quen từ kiếp trước. Trong khi các SVSQ Mỹ tán hươu tán vượn, nhẩy đầm tưng bừng, thì nhóm Việt chúng tôi đứng nhìn, thèm chẩy nước miếng. nhất là sau khi party tàn, “chúng nó” kéo nhau ra khách sạn đã đặt phòng sẵn, 18 thằng chúng tôi nằm dài trên giường, nhắm mắt, tưởng tượng, buồn và giận mình ngu cho đến hết đêm…
Sau đêm đó, cứ cuối tuần, chúng tôi oai phong đi dạo phố. Theo luật, hễ đàn em mà gặp đàn anh ngoài phố thì không phải xin phép để đi qua như trong trường, nhưng phải nép mình sang một bên đường, và giơ tay chào. Nếu đàn em đi với gia đình, hay với đào, thì phải bảo người đi theo xếp hàng một sau lưng tên đàn em, khi đi ngang đàn anh, đàn em phải giơ tay chào và nói, “Good Morning, Sir!” Hôm đó, tôi đang đi lơn tơn, thấy một tên đàn em Mỹ trắng bóc, to kềnh, đi với bố mẹ và em gái. Hắn nhìn thấy tôi rồi tảng lờ quay đi. Tôi hùng hổ tiến lại, quát to,
“Ê, Sinh Viên kia! Đứng lại. Cấm cử động!” (Hey! Candidate! Stop right there! Don’t move!.” Tên kia lúng búng quay lại. Tôi tiến sát hắn, mặt tôi gần mặt hắn đến chỉ còn 1 inch nữa là đầu mũi tôi chạm vào đầu mũi nhọn hoắt của hắn, và gầm lên,
“Mày coi thường tao phải không? Mày thấy tao là dân Á Châu, mày kỳ thị hả? Sao mày không chào tao?”
“Bây giờ mày có muốn bơm 50 cái hít đất trước mặt bố mẹ mày không? Thằng ngu kia?”
Tên đàn em vội trả lời, “Thưa Ngài, chào, chào!” rồi quay lại với gia đình, ra hiệu cho 3 người kia đang trố mắt ra nhìn thằng con bị hành, đứng thành hàng một sau lưng hắn, rồi nghiêm phắt lại, giơ tay chào tôi, và nói lớn,
“Good morning, Sir!”
Tôi gật gù, nói nhỏ giọng,
“Hôm này mày may mắn đó, tao tha tào, không bắt mày làm 50 cái bơm trước mặt bố mẹ mày đó! Mày có cám ơn tao không?”
Hắn vội vã, nói to, “Dạ, thưa Ngài, xin cám ơn Ngài. Chúc ngài mọi chuyện tốt đẹp!” (Yes, Sir! Thank you, Sir. Wish you the best!) rồi đi ngay, người thẳng băng, không dám quay lại. Tôi khoái chí, cười tủm một mình.
Với chính sách “đàn anh đì đàn em” thả giàn, làm cho những hình phạt hành hạ nhục nhã mất nhân phẩm như vậy mỗi ngày mỗi tăng, vì lớp này bị đì 9 phần, thì khi làm Huynh trưởng, lại tìm cách trả thù thêm thành 10 phần. Như cá nhân tôi, sau 12 tuần làm đàn em, thì đến tuần thứ 13 làm đàn anh, và kiếm cách hành thằng mới tới.
Hôm đó, ngày thứ Hai, theo tục lệ, mà tất cả những SVSQ vào trường đều phải gọi là “Blue Monday”, nghĩa là “Ngày Thứ Hai Buồn”, chúng tôi là đại đội đàn anh, hẹn nhau đúng 3 giờ sáng, lặng lẽ thức dậy, mặc quân phục chỉnh tề, lặng lẽ bước sang đại đội đàn em đang say ngủ, cứ một huynh trưởng đứng trước một phòng. Đúng 4 giờ sáng, đột nhiên chúng tôi lấy cả bàn tay đập cửa rầm rầm, hò hét vang trời,
“Dậy! Dậy! Đồ đầu lừa! Dậy mau!”
Đàn em đang ngủ say, giật mình dậy để thấy Thiên lôi, Hà bá đứng trợn mắt nhìn, thì hoảng hốt vùng lên. Tôi quát lớn,
“Thằng khốn này! Mày cởi quần áo ra mau! Tao không muốn thấy mày mặc quần áo!”
Tên kia lập cập tụt quần đùi, cởi may ô đứng tồng ngồng nhìn tôi, sợ hãi. Tôi quát,
‘Mày lấy kem đánh răng ra đây! Bóp hết hộp kem này lên người mày! Bôi vào.. chỗ kín kia thật nhiều! Mau! Mau!”
Đàn em cuống quít làm theo. Thấy người hắn đầy bọt trắng xóa, tôi đuổi ra ngoài,
“Mày dơ dáy quá! Đi tắm!”
Rồi tôi bắt hắn bò giữa hai chân tôi đến phòng tắm. Tới nơi, tôi mở vòi nước lạnh xịt lên người hắn. Tên kia rú lên,
‘Thưa Ngài, lạnh quá! Lạnh quá!”
Tôi gằn giọng,
“Lạnh hả! để tao đổi nước nóng!”
Tôi bắt hắn nằm chống tay xuống sàn tồng ngồng như con heo bị cạo lông, rồi xả ngay vòi nước nóng vào lưng. Tên kia gào lên,
“Ngài ơi! Nóng quá! Cháy! Cháy !”
Tôi lại tắt nước nóng, mở nước lạnh, làm mấy lần thì tên kia vật ra, thở hổn hển. Tôi ra lệnh cho hắn về phòng. Đứng trước giường, tôi quát,
“Mày leo lên đây nằm, mà tao không muốn nhìn thấy mặt mày trên giường, mày làm sao thì làm!”
Tên kia suy nghĩ, rồi vội vàng lật tấm nệm lên, chui vào nằm trên.. mớ lò xo, rồi đậy nệm lên, che người đi. Đứng từ xa, tôi hô lệnh, “Đằng sau, quay!” Tên đàn em lập cập xoay người dưới tấm nệm, bị lò xo nghiến thịt, đau quá, khóc òa lên. Thấy mình quá trớn, tôi cho hắn đứng dậy, ra ngoài hành lang, rồi bắt thêm 5 tên nữa, là 6 tên, ra lệnh cho cả 6 đàn em trần truồng hết, lôi cái hòm gỗ ra, xếp hai bên hành lang, mỗi bên 3 cái, cho 2 tên đàn em leo lên đứng, làm bộ đám cưới, bắt 2 cô dâu chú rể mặc đồ Adam, Eva kia cặp tay nhau đi đi lại lại, còn 4 mạng kia thì hát bài Wedding, “You by my side….” Tôi hành đàn em cho đến gần sáng thì mới tha Tào.
Thật ra những trò chơi ác này vô hại, trong khi bạn tôi, hồi mới vào, bị ngày “Blue Monday” này hành hạ đến bệnh nặng. Mấy tay huynh trưởng bắt cả nhóm SVSQ đàn em, trong đó có bạn tôi, trang bị đầy đủ, ba lô, mũ sắt, chạy ra sông cạn gần đó, bắt nhẩy xuống, lúc mặt sông lạnh gần đóng băng vào giờ 30 sáng, ngoài trời lạnh khoảng 40 độ. Cả toán nhẩy ùm xuống sông, lóp ngóp như rái cá một lúc mới được cho lên, tên nào tên nấy mặt cắt không còn hột máu, trở về trại là bệnh cả đám.
Ở quân trường này mà khai bệnh lại còn khốn hơn. Cá nhân tôi, có một lần cảm lạnh, khai ốm để ở nhà, rồi cạch luôn đến khi ra trường, không dám ốm lại. Buổi sáng ấy, chờ đại đội chạy đi học rồi, thì ông Thượng Sĩ đưa cho tôi một cuốn sổ bệnh, bảo tôi chạy lên bệnh xá ở trên đỉnh đồi, cách đấy hơn 1 dặm! “Chạy! Không được đi, nghe chưa!” và tôi chạy lên đồi cao, tới nơi thì gần tắt thở, ngồi chờ cả nửa tiếng mới gặp Bác Sĩ, nghe tim chớp nháng, rồi đuổi tôi về với mấy viên thuốc cảm. Chạy trở về, tim đập như trống làng, trình lại cuốn sổ bệnh, ông Thượng Sĩ hất hàm bảo,
“Mày xuống dưới hầm, thấy một cái thùng rác to, mày khiêng lên đây cho tao!”
Tôi đi xuống hầm, gần 20 bậc thang, nhìn thấy một cái thùng rác xanh đầy ắp, to cao y như thùng rác hiện tại của mỗi gia đình Mỹ, đột nhiên lạnh cả người. Nhưng biết làm sao, phải ôm lấy nó rồi vần dần dần từng bậc lên, hết 20 bậc thì lăn ra nằm thẳng cẳng. Một lúc mới tỉnh dậy, ráng ngồi lên, vần cái thùng rác đó ra chỗ chờ xe đổ rác (thùng rác không có bánh xe).
Không thấy xe rác đâu, tôi để thùng rác đó, lết tới văn phòng ông Thượng sĩ, ông ta nói, “Không có xe rác à! Không được để đó, sĩ quan đi tuần thấy, phạt. Mày phải vần nó trở lại dưới hầm!” Tôi chết lặng người, chân nhũn ra, nhưng vì không có lựa chọn, đành lê lết lại cái thùng rác khốn nạn kia, vừa ôm nó lăn đi, vừa chửi thề, “F. you! F. you!” vừa khóc lặng lẽ.
Lăn cái thùng rác vào chỗ cũ xong, thì chính mình cũng lăn quay. Tôi nằm thở hồng hộc một khoảng thời gian, thì thấy nhẹ người, mồ hôi toát ra đầy mình, ướt hết cả quần trong, quần ngoài. Đứng dậy về phòng, thay quần áo xong, chẳng cần uống thuốc mà hết cảm! Lúc đó mới biết đó là phương pháp giải cảm tuyệt vời của quân trường. Nhưng chỉ tốt với ai không bị bệnh tim mà thôi. Tên nào yếu tim mà theo học ở đây, thì chỉ có chết!
4. Tập thể lực
Chúng tôi nhỏ con hơn mấy tên Mỹ, có một bạn tôi, cao chỉ đến nách một tên Mỹ thôi, nhưng cũng ráng theo cho kịp, kẻo bị làm nhục. Ngoài việc hít đất từ 50 cái trở lên đên100 cái, tập đu và hít trên xà ngang 20 cái trở lên, việc tập thể lực trước hết là chạy, chạy lên thang gác, chạy xuống lầu, chạy đi cầu, chạy đi học, chạy đi ăn…không bao giờ đi bộ, chạy riết rồi hai cái đầu gối muốn long ra. Sáng, trời Fort Benning lạnh cắt ruột, mà phải ở trần, vác những cây gỗ dầu dài khoảng 5, 6 mét, đường kính cả 30 cm, vác lên vai, để xuống đất cả chục lần.
Leo thang dây theo tiếng còi, nhẩy qua các thanh gỗ ngang cao hơn một mét (lần đầu tôi nhẩy không qua, cái chỗ “ấy” bị đập vào thanh gỗ, đau thấu trời xanh, té xuống, nằm thẳng cẳng. Tên nào lùn, nhẩy không qua thì phải chui theo tiếng chửi!), tập leo tường, đu dây tử thần từ đỉnh núi nọ qua đỉnh núi kia, dây kinh dị, tập leo núi, tuột núi, chạy qua đống vỏ xe (mỗi chân thọc vào một cái lỗ vỏ xe cồng kềnh). Tập cận chiến, tập đánh nhau bằng gậy.
Lần đánh nhau bằng gậy này cho tôi nhiều kỷ niệm. Không hiểu sao, một tên người Puerto Rico, (tên chạy nhanh kỷ lục, chỉ có 6 phút một dặm, trong khi tôi cần 10 phút, các bạn Mỹ khác từ 9 đến 12 phút.) lại gây với tôi. Hắn nói, “Tao chán cái dân tộc Việt Nam của mày. Tao không muốn chết ở Việt Nam!” thế là tôi nổi điên, lôi nó vào chỗ tập, thách nó đấu gậy với tôi, vì nghĩ rằng thằng này dám khinh dân tộc mình. Ai dè, hắn nhanh như sóc. Tôi vừa mới thủ gậy, chưa kịp vung lên, là hắn đã quất tôi một cái nháng lửa vào đầu. Tôi xiểng liểng, nhưng cố phóng tới chọc gậy vào bụng hắn. Lần này hắn dọng tôi một cú vào mồm, làm dập miệng và lợi, máu miệng bắt đầu phun ra. Tôi hung lên, quất túi bụi, trái phải, trên dưới như thằng điên, mà quên rằng nếu hắn đã là vô địch chạy nhanh, thì cái gì cũng nhanh. Hắn chỉ trúng đòn vài chỗ không quan trọng, còn tôi thì máu me tung tóe, máu mắt, máu tai, máu mồm chẩy đầy ngực. Thấy tôi chẩy máu quá nhiều, tên này đâm sợ, nó ngưng gậy và nói, “thôi, tao không đấu với mày nữa!” nhưng lúc ấy, tự ái dân tộc nổi lên, tôi cứ gào lên và xông vào,
“F. you! Tao đánh mày đến chết thôi, ai bảo mày dám khinh dân Việt tao!”
Nhưng mỗi lần nhào vô, là người tôi lại bị hắn quất bung lên như trái banh trong Baseball vậy! Trái banh hơn 100 lbs tôi bắn ra cả thước! Người tôi nhễu nhão, máu me nhưng cứ cố gượng đứng dậy, xông vào nữa, miệng lảm nhảm, “F. you! I ….kill… you…” Thấy tôi lì quá, tên Puerto Rico kia đâm sợ, hắn quỳ xuống, chắp tay lạy tôi mấy vái, “Tao lạy mày rồi! Mày dữ như cọp ấy!”
Lúc đó, tôi mới buông gậy ra và ngồi phịch xuống cho bạn bè kéo lê đi tắm… Sau trận này, mấy tay Mỹ kia đặt tên tôi là “Tiến Cọp!” và bảo nhau, “Đừng đụng đến thằng Tiến Cọp. Nó điên rồi!” (Don’t touch Tien Tiger! He’s crazy!)
Thú thật, vì là du đãng, dù là du đãng vặt, tôi rất lì. Một buổi sáng, đang sắp hàng chuẩn bị đi học, không hiểu sao, tay Thiếu Úy Trung Đội Trưởng Trung đội 6, (tôi thuộc Trung Đội 5) đi ngang qua tôi và bật lên câu nói, “Tao chán mấy cái thằng Việt Nam chúng mày!” (I’m tired of your Vietnamese!)
Rồi quát lớn, “Nằm xuống, chống tay vào thế, bơm 50 cái!” Tôi hận quá, nằm xuống vừa hít đất vừà chửi thề nho nhỏ,
Cứ thế mà tôi làm cả 100 cái rồi hết pin, nhưng vẫn chống tay vào thế. Lúc đó, đại đội bắt đầu đi học, Tay Thiếu Úy kia kêu tôi “đứng dậy! đi học!”, tôi tỉnh bơ, cứ chống tay, thỉnh thoảng hít một cái, “One hun…dred… and… five… sir!” Tên kia gọi mấy lần, tôi cũng không đứng dậy, mặc cho cả đại đội kéo đi rồi. Ông Đại Đội Trưởng nghe báo cáo, vội chạy ra, ngồi xổm xuống, hỏi tôi,
“Sao anh không đi học!”
Tôi gầm gừ,
“Thưa Ngài, ông Thiếu Uy kia nhục mạ dân tôi, tôi sẽ hít đất đến khi nào chết thì thôi.”
Ông ĐĐT nghe nói đến chữ “chết” thì lo quá, hỏi,
“Thế… thế .. anh muốn gì thì mới đứng dậy, đi học?”
“Tôi.. tôi.. muốn ổng xin lỗi dân tộc tôi…”
Ông ĐĐT đứng dậy, quát anh Thiếu Úy kia,
“Nghe rõ chưa? Làm được không?”
Tay Thiếu Úy bị Đại Úy la, đành phải ngồi xổm xuống, cạnh tôi, nói thật to,
Tôi thấy chơi tới đây cũng đã đủ rồi, bèn run rẩy đứng dậy, chào ông ĐĐT rồi liểng xiếng lê thân đi học, nhưng không chạy. Ông ĐĐT thấy tôi đi bộ, cũng chẳng nói gì, mà bỏ vào trong. Tên Thiếu Úy chạy ngang tôi, quay lại chửi thêm lần nữa, “Fuck you!”
Tôi nhe răng cười.
Cùng với các môn cận chiến, chúng tôi tập bò trên bùn, dưới đạn đại liên, đạn thật, bắn xéo xéo trên đầu, tên nào ngóc đầu lên một chút là vỡ sọ ngay, nhưng không cái nào ghê bằng bò trong ống cống bằng thép! Cái ống cống để giữa trời, dài hàng mấy trăm mét, đứng ở đầu này nhìn đầu kia nhỏ như hòn bi, chỉ vừa đủ một người chui vào với súng, đạn, ba lô. Vừa chui vào, nhìn thấy lỗ ra hun hút bên kia, đã thấy sợ, nhưng không ớn bằng những tiếng hò la bên ngoài, và những cục gạch, đá ném tới tấp vào ống cống.
Trong khoảng không gian nhỏ xíu đó, tiếng đá, gạch đập vào thành sắt còn to hơn tiếng bom, người bò sợ hãi ráng bò thật nhanh, nhưng không thể được vì vướng cây súng ngang tay, lại không thể bò lùi, chỉ biết nhắm mắt mà lê lết cho đến khi chui ra khỏi cống thì như người chết rồi, lỗ tai lùng bùng, tim đập mạnh, đầu óc hoảng hốt gần như phát điên, bạn bè chờ sẵn lôi xềnh xệch ra vòi nước lạnh…
Thật ra, những cái tập thể lực này chả thấm gì với đòn tâm lý. Hôm đó, sau khi ăn cơm chiều, đột nhiên có lệnh là tối nay không được ngủ, chỉ đứng và chỉ đứng bằng 2 chân bằng nhau, cấm đứng 1 chân (1 chân thẳng, 1 chân cong), không được dựa vào bất cứ điểm tựa nào, nghĩa là lưng không dựa tường, bụng không tựa vào bàn, ghế, cầu tiêu… Trường thông cảm cho các SVSQ là được uống 1 ly cà phê đen, không đường, và chỉ 1 ly thôi. Đêm hôm đó là đêm kinh hoàng nhất trong đời, ban ngày tập như điên, cơ thể rã rời mà tối không được ngủ và không được nói chuyện! Đến nửa đêm, nhìn trong mắt nhau, đều thấy chung một điều, Chết, sướng hơn!
Mặt trời lên, tưởng bở là được nghỉ, ai dè lại nghe tiếng còi tập họp, không ăn sáng, chạy ra bãi, vác gỗ lên xuống như tập tạ! One, Sir! Two, Sir! Three, Sir!… Lúc đó, chỉ là cái xác không hồn! Mãi cho đến 11 giờ, nghe lệnh chạy đi ăn cơm, thì ôi thôi, y như lên Thiên Đàng, xơi luôn 2 hộp sữa tươi, 2 quả chuối, 2 trái táo, và một miếng thịt to đùng!
Tuần thứ 11 là tuần lễ ghê nhất, chạy 12 dặm (18 cây số) với đầy đủ súng đạn, balô, xẻng, mùng, lều bạt, cân nặng đúng 30 lbs. Chạy dặm đầu tiên thì còn đếm nhịp, One, two, three, four.. nhưng đến dặm thứ hai thì câm hết. Dặm thứ 3 là hổn hển. Thứ Tư thì phì phò như trâu thở. Thứ 5, thứ 6 thì vừa chạy vừa đi.. đến dặm thứ 10 thì ngã dúi dụi trên đường, súng một nơi, người một nẻo, 2 dặm cuối thì bò như chó bị thương…bò một lúc lại nghỉ, thở, rồi bò tiếp để khỏi bị chửi. Mấy sĩ quan ngồi xe díp đi theo sát bên, hò hét, “Thằng ngu kia! Chạy đi! Đồ đầu trâu, đít chó! Mày có là người không? là người thì phải chạy… Đồ con lừa!”
Có mấy mạng chạy không nổi, giơ tay xin đầu hàng, thì được đứng dậy, và treo vào cổ cái tấm biển đề chữ, “Tôi là thằng hèn nhát!” (I am a coward!) rồi được thất thểu đi bộ, nhục nhã… Còn tôi, nghiến răng bò bằng hai bàn tay, và hai đầu gối, mãi đến chiều thì cũng tới địa điểm tập họp là một khu rừng hoang. Tại trung tâm, các sĩ quan cán bộ ngồi quanh một cái bàn gỗ dài, chia nhiệm vụ cho từng trung đội, kéo dài theo hình ngôi sao 6 cánh. Mỗi trung đội kéo dài thành một đường từ trung tâm tỏa ra. Trung Đội Trưởng chia vị trí cắm lều, mỗi lều 2 người và phải đào 2 cái hố cá nhân và có rãnh thoát nước mưa.
Tại đây, tôi lại phạm một lỗi lầm quan trọng có thể bị đưa ra tòa án quân sự, cố tình giết người! Tôi được chia ra cắm lều ở điểm cuối cùng của cánh sao, nghĩa là từ chỗ tôi tới trung tâm là phải qua 19 cái lều khác, và lều của tôi lại chỉ có một người, thằng bạn được chỉ định cùng lều với tôi, khi chạy đã gẫy xương ống quyển, phải chở vào bệnh viện, nên chỉ mình tôi dựng lều, đào rãnh, đào hố!
Chuyện bắt đầu từ tên SVSQ Trung đội Trưởng, thằng to con nhất trung đội. Nó kỳ thị tôi, nên đứng ngay tại trung tâm điểm, gào to, “Tiến! Mày đi chặt cây làm củi đốt lửa cho trại!” Tôi đang đào hố, chống cuốc lại và gào đáp, “Lều tao chỉ có một người. Thằng bạn lều tao đi bệnh viện rồi. Mày kêu thằng khác đi!” Nó không nghe, ngoắc ngoắc ngón tay, “Tao ra lệnh, mày phải nghe!” Tôi gào lớn, (cũng vì gào to mà tôi thoát tội!), “Mày kêu thằng nào ở gần đó đi, lều nào có 2 người đó. Tao chỉ có một mình, mà phải dựng lều theo lệnh Sĩ Quan, không theo lệnh mày được!”
Tên khốn kia không thèm nghe lý luận của tôi, cứ ngoắc ngoắc, “Mày phải lại đây! Ngay bây giờ! Tao không cần biết mày 2 người hay một người. Tao bảo mày phải tuân theo! Mày phải lại đây ngay! ” (Come here! Now! I don’t care two or one man! I told you do something, you do that! Come here!) Bất ngờ, tôi lại nổi cơn điên, gào lại, “O.K! I come!” rồi cầm cái xẻng hầm hầm tiến lại. Vừa tới chỗ hắn đứng, tôi vung xẻng lên chém vào cổ hắn liền, nghe cái “bụp!”
Mấy tay Quân Cảnh đang đứng theo dõi cuộc cãi lộn, vội nhẩy vào, đè tôi bẹp xuống đất, rồi lấy còng số 8 ra còng tay tôi liền. Nhưng mấy ông Sĩ Quan đã theo dõi từ đầu, biết là thằng kia quá trớn, nên ra lệnh cho Quân Cảnh thả tôi ra, cũng vì tên kỳ thị kia không việc gì, Hắn mặc áo lạnh quân đội, cổ áo có bông dầy cui, nên chiếc xẻng của tôi không làm hắn rớt đầu chỉ làm hắn ngã ngửa! Từ sự việc này, toàn thể đại đội nhìn tôi như thằng điên, không ai dám kỳ thị tôi nữa.
…………………………………
Tranh Chu Tất Tiến vẽ trên tường, ngay trước cửa phòng SVSQ.
5. Học tập
Trường O.C.S là quân trường lớn thứ hai trên toàn nước Mỹ, sau West Point nhưng lại là quân trường đổ mồ hôi nhiều hơn West Point. So sánh một cách đơn giản, West Point là trường dành cho giai cấp quý phái, còn O.C.S Fort Benning là trường dành cho giới bình dân, nông dân. Tuy SVSQ tại 2 quân trường đều tốt nghiệp Thiếu Úy, nhưng tại West Point, SVSQ được học những môn sang trọng, xã giao cao cấp, lãnh đạo chỉ huy và các chuyên viên trong mọi ngành quân sự của Mỹ trong 4 năm, trong khi O.C.S chỉ học gấp rút trong 6 tháng để rồi quăng vào Việt Nam, đánh nhau chết bỏ.
Điều khác nhau nữa là trường West Point là trường gồm các thanh niên tình nguyện, trong khi O.C.S. gồm các thanh niên bị gọi động viên và một số tình nguyện, vì thế mà trình độ học lực của các SVSQ O.C.S khác nhau xa, có thể chưa qua Trung Học, và cũng có thể là Cử Nhân, Kỹ Sư, Giáo Sư.
Tại Fort Benning, SVSQ được học đủ thứ vũ khí, trang cụ hạng nặng nhưng học gấp rút. Tôi được học lái xe tăng, lái xe lội nước, tập đeo ba lô súng đạn rồi nhẩy không dù từ trực thăng xuống đất, học bắn đủ loại đại bác, từ 105 ly đến 155 ly, được xem biểu diễn bắn 175 ly mà một viên đạn cần đến 6 người khiêng, cùng các loại vũ khí tối tân.
Chúng tôi bắn đại liên M.60 như cao bồi, nghĩa là đứng thẳng, tỳ báng súng trên đùi, rồi bóp cò. Sức giật của đại liên làm mấy thằng nhỏ con Việt Nam té bật ngửa, đạn bay lên trời.. Với súng đại liên 50 thì phải đứng dưới hố mới bắn được, vì sức giật của nó làm cho người khỏe đến đâu cũng té ngửa.
Sau này, khi cuộc chiến Việt Nam tàn, suy nghĩ lại về vũ khí và cách huấn luyện, tôi mới thấy rằng NGƯỜI MỸ KHÔNG BAO GIỜ MUỐN THẮNG TẠI VIẾT NAM, mặc dù bề ngoài thì muốn thắng ở Việt Nam, vì trên bức tường nào cũng có hàng chữ khổng lồ “WIN IN VIETNAM”, và trên cặp sách đi học cũng có hàng chữ ấy. Trên đường chạy đến lớp học, chúng tôi hát những bài quân hành đều nói về chiến tranh Việt Nam, “Vietnam á a à a. Vietnam á a à à. Anh đi đâu thế? Tôi đến Việt Nam! Đến Việt Nam hả! coi chừng du kích. Khi anh ngủ, chúng nó bò vào, cắt cái đầu anh!” (Where are you going? I come to Vietnam. Be careful, when you sleep, VC come and chop your head… á a à a…)
Các bài khác nói về muỗi, mòng và cạm bẫy của du kích. Những bài hát ấy làm cho SVSQ Mỹ ớn lạnh. Bên cạnh đó, có những bài học về Du Kích Chiến (Guerilla Warfare) được giảng rất cẩn thận. Về thực tập, Quân trường đã làm sẵn những làng y hệt ở Việt Nam, cũng mái tranh, cũng tre vây quanh, cho Mỹ đóng giả du kích mặc áo nâu, đội nón lá. SVSQ Mỹ phải hành quân y như thật, kẻo bị VC (giả) bắt được thì nhừ đòn. Một anh bị VC bắt, bị đè xuống đất, tay chân bị cột vào cọc, mấy thằng VC tiểu vào mồm! Một anh bị trói úp vào cây, cho kiến cắn. Anh bạn Việt Nam của tôi, ngủ gật khi đang gác, bị chúng lôi đi xa, rồi cột hai tay vào thành trên của xe cam nhông, phóng đi trong rừng, tung lên tung xuống, người rã ra.
Sau đó, chúng thả anh về, nhưng lấy mất giây giầy, và nước uống, buộc anh phải lê lết trong rừng gai cả nửa ngày mới về. Còn tôi, một lần nhận nhiệm vụ làm liên lạc viên, theo địa bàn, đi xuyên rừng tre chằng chịt, mới đầu thì còn thưa, càng về sau càng kẹt, vì tre dầy đến nỗi tôi bị kẹp cứng giữa ba, bốn thân tre, không xoay sở được, hết hồn hết vía! Phen này chết đói, chết lạnh và chết vì kiến càng cắn! Kiến ở đây khổng lồ, chích một phát là nhẩy dựng lên, la trời. Đứng một lúc lâu cho hết sợ, rồi mới từ từ rút cây mã tấu đeo bên hông ra, cưa chầm chậm cả tiếng đồng hồ cho một thân tre gẫy xuống rồi mới cử động được cánh tay, rồi vung mã tấu chặt bừa, kiếm được lối mòn ra đường cái.
Trở lại về vấn đề vũ khí chứng tỏ là người Mỹ không muốn thắng ở Việt Nam mà chỉ muốn xài lính Cộng Hòa như những vật thí nghiệm. Năm 1968, chúng tôi đã bắn M.16 muốn gẫy cả tay. Một ngày tập trận phải mang theo trong ba lô 600 viên đạn mã tử, và phải bắn cho hết. Vì ba lô chứa rất nhiều thứ, nặng hơn 20 ký lô, nên tôi chỉ bắn một phần còn lại thì lén đào lỗ, chôn bớt! Vậy mà ở trận Mậu Thân, lính Việt Nam vẫn phải bắn Garant M.1, bắn phát một, đến sau khi nhiều thành phố bị Việt Cộng chiếm bằng AK 47, liên thanh của Nga, có khả năng bắn vài chục viên một phút, Mỹ mới chở sang M.16 mà chỉ cho các đơn vị trừ bị như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến thôi. Mãi sau mới hoàn toàn trang bị cho miền Nam súng M.16. Phải chi những năm 1960-1965, Việt Nam được trang bị súng trường M.14 như SVSQ Mỹ thì cuộc diện cũng có thể thay đổi. Hồi đó, vũ khí cá nhân mà tôi mang theo suốt thời gian quân trường là súng trường M.14, lúc súng không đạn thì nặng 4.1 ký lô, có lắp đạn là 10 kí lô, bắn liên thanh 20 viên, khi đặt xuống đất, kéo càng ra, là thành trung liên, lợi hại hơn AK 47 vì tầm sát hại mạnh hơn, bắn xa hơn, và chính xác hơn. M.14 cũng có thể dùng làm súng bắn xẻ vì tầm bắn xa trên 800 mét, tối đa là 1,200 mét.
Về súng cối, mỗi ngày một anh SVSQ Mỹ phải bắn 6 quả 4.2 inch khổng lồ. Loại súng cối này có thể bắn qua nóc nhà, rừng cây qua bên kia rất chính xác, và có thể để trên xe M.113 di chuyển, nhưng ở quê nhà, vẫn chỉ có súng cối 81, nhiều đơn vị vẫn phải dùng súng 60 ly là loại súng mà chúng tôi bắn chơi như cao bồi, tỳ đế lên đùi, một tay cầm nòng súng, một tay thả quả đạn vào và bóp cò.
Khi Việt Cộng tấn công các đồn bót miền Nam bằng B.40 hoặc B.41, thì đa số các đơn vị miền Nam vẫn còn dùng Bazoka, các SVSQ Thủ Đức vẫn học cách bắn Bazoka từ thế chiến thứ nhất! Sau này, Quân Đội Cộng Hòa mới có M.72 để chống lại B40, B 41. Riêng M.72 cũng có tác dụng bắn hạ các xe tăng loại nhẹ của Liên Xô, nhưng đến khi miền Bắc được tăng cường T-54 thì miền Nam khựng lại vì M.72 không xuyên thủng được lớp thép dầy của T-54, 80 mm hai bên thành xe, 30 mm trên nóc và 20 mm ở đáy.
Do đó trong các trận chiến sau này, đặc biệt là ở An Lộc, khi T-54 lùi lũi tiến vào thì các chiến sĩ miền Nam phải thay đổi cách đánh, bắn đứt xích T-54 bằng M-72 rồi xông ra, cận chiến. Các chiến sĩ anh hùng miền Nam đã phải dùng chính thân mình làm vũ khí để chống lại xe tăng hạng nặng của phe Cộng Sản quốc tế. Trong khi đó, cùng năm 1968, tôi đã được bắn hỏa tiễn XM-202 là khắc tinh của T-54! Loại hỏa tiễn để trên vai này, có 4 nòng, mỗi quả đạn 66mm, có thể xuyên thủng lớp thép 80 mm của Nga, rồi phóng thêm một quả đạn lửa vào bên trong. XM-202 cũng có thể bắn đạn chống biển người, cả hàng ngàn mũi tên thép bay ra một loạt thì một đại đội địch chỉ phút chốc là biến mất.
Nếu XM-202 mà được sử dụng ở An Lộc, Bình Long, thì không có những trân Xuân Lộc sau này. Đau lòng thay là mãi đến năm 1973, sau khi Việt Cộng đã lấn đất, giành dân nhiều nơi rồi, các SVSQ Thủ Đức mới được học loại hỏa tiễn này, và cũng không biết có bao nhiêu đơn vị miền Nam nhìn thấy loại vũ khí này trước khi thất trận!
Nhiều thứ vũ khí lợi hại vô cùng, cũng có thể dẹp tan các đợt tổng tiến công cấp Sư đoàn của Việt cộng trong vài phút, nhưng không hề được trang bị cho quân miền Nam. Trong một lần biểu diễn hỏa lực cho SVSQ coi, có nhiều loại xe tăng lạ lùng, khủng khiếp như xe tăng phun lửa, xe tăng có 4 nòng đại bác, xe tăng có 1 nòng cụt ngủn, nhưng chạy nhanh như xe hơi, xe tăng lội nước, và xe tăng bắn lựu đạn! Trong các loại xe tăng này, xe tăng bắn lựu đạn là khắc tinh kinh hoàng nhất cho các cuộc phục kích của Việt Cộng núp trong rừng cao su vì có thể phun ra 400 quả lựu đạn M.79 trong một phút như “bò đái”!
Nếu bắn đại bác, thì đạn có thể vướng cây to và nổ trên cao, không tác hại bao nhiêu, trong khi đó, chỉ cần một chiếc xe tăng này, phóng 400 quả M.79 từ trái sang phải là cả tiểu đoàn địch tiêu vong, vì lựu đạn nhỏ có thể xuyên qua rừng cây, mà tầm sát thương của một quả lựu đạn là 10 mét đường kính, thì cho dù núp dưới hố cũng bị banh xác. Vì Mỹ không muốn miền Nam thắng trận, nên không viện trợ cho loại xe tăng này.
Về đại bác, Quân Miền Nam được trang bị đại bác bắn đạn 105 ly đên155 ly là những loại đại bác hạng nặng và có tầm bắn tối đa là 14 cây số, trong khi đó, Việt cộng có những loại súng nặng bắn xa tới 22 cây số! Không cần nói đến khả năng sát thương, mà chỉ nói đến tầm bắn xa hay gần, đã thấy quân đội Cộng Hòa thua từ đầu, 8 cây số chênh lệch! Việt Cộng có thể đứng xa hơn mà nã trúng đồn của mình, trong khi mình chịu trận vì bắn không tới địch!
Sau này, để yểm trợ chiến thuật, Mỹ đã tăng cường cho vài cây đại bác khổng lồ 174 ly, bắn xa 40 cây số, nhưng điều kiện di chuyển thì không dễ vì sức nặng của chiếc xe tăng khổng lồ này sẽ làm sập tất cả các cây cầu ở các tỉnh nhỏ, cầy nát mặt đường đi chuyển của quân ta, do đó, chàng khổng lồ này chỉ đứng tại chỗ, ngó quanh mà thôi. Năm 1968, tại quân trường Mỹ có biểu diễn những chiếc xe díp chở đại bác 105 ly không giật, tuy tầm bắn ngắn, nhưng lại chạy vèo vèo trong rừng. Loại này nếu mà được cung cấp cho Việt Nam thì cả sư đoàn xe tăng Cộng Sản phải tan xác.
Đó là nói sơ về vũ khí, còn về chiến thuật cũng là một điểm báo trước ngày tử nạn của Việt Nam Cộng Hòa. Các Sĩ Quan Mỹ không được học về tình hình xã hội, lịch sử, văn hóa và dân tộc Việt Nam, nhất định sẽ gây ra những va chạm bất lợi cho người Mỹ cũng như Việt Nam. Thực tế đã xẩy ra như vậy. Khi nổ ra vụ Mỹ Lai, tôi đọc báo Times và thấy hình ảnh đàn bà, con trẻ nằm la liệt chồng chất lên nhau, hình ảnh những người lính Mỹ thản nhiên quăng mẹt lửa lên mái nhà, hình ảnh một đứa trẻ lúc trước còn chạy, lúc sau thì gục bên hào, tình đồng bào trong tôi làm tôi phẫn nộ, tôi ngồi khóc lặng lẽ cả buổi tối.
Để giải độc dư luận, giúp cho các SVSQ Mỹ dịu bớt căng thẳng, một buổi sinh hoạt đặc biệt được tổ chức gấp tại đại giảng đường với cả ngàn SVSQ tham dự. Khoảng 3 vị Tướng, Tá trên ngực đầy huy chương nói chuyện linh tinh, trên trời dưới đất. Nghe họ nói những diễn tiến có lợi cho viên Thiếu Úy Calley, người ra lệnh tàn sát làng Mỹ Lai, tôi nổi nóng giơ tay, xin phát biểu,
“Thưa quý ngài, tôi là SVSQ Tien xin có một câu hỏi.”
Một ông Tướng gật đầu, “Muốn hỏi gì, nói đi!”
Tôi nói, “Thưa quý Ngài, tôi có thắc mắc. Khi quý Ngài hành quân đến một khu làng mới, để tránh cho trường hợp Mỹ Lai tái diễn, các Ngài có phương pháp nào để phân biệt ai là Việt cộng, ai là dân thường không?”
Một ông Tướng trả lời, “Dễ lắm! Tôi chỉ việc kêu một người nào trong làng đó, đánh trống, và kêu gọi tất cả ra trình diện. Ai không chịu ra, người đó là VC”.
Tôi phản bác ngay, “Thưa Ngài, phương pháp này hoàn toàn bất lợi. Người già làng Việt Nam rất cổ hủ và rất tự ái, khi nghe một người lính Mỹ vào buộc ra mít tinh, thì họ nhất định không ra. Nếu Ngài ra lệnh bắt hoặc bắn mấy người không ra họp này, Ngài đã tạo cơ hội cho Việt Cộng lấy thêm lính.
Một ông Tướng thứ hai nói, “Theo tôi, thì tôi cho người đi xét thẻ căn cước. Ai không có căn cước thì là du kích.”
“Điều này càng sai hơn. Tại các làng xã xa thành phố, nhiều người không thích làm căn cước, hoặc lẩm cẩm cất đâu đó rồi quên, hoặc đánh mất mà không chịu đi khai. Trong khi bọn VC lại có thể đút lót để mua một căn cước giả rất dễ dàng.”
Một vị khác góp ý, “Ta có thể mua chuộc, gạ gẫm, hứa cho tiền thưởng một người nào đó để họ chỉ cho những kẻ nằm vùng?”
Tôi càng phản đối mạnh hơn, “Việc này càng nguy hiểm, vì kẻ bị mua chuộc có thể có tư thù cá nhân với ai đó, mà tố cáo bậy, thì chết người vô tội. Ngoài ra, cũng ít có kẻ dám làm vậy, vì nếu tố cáo VC ban ngày, là ban đêm sẽ bị VC vào cắt cổ cắm vào cọc đầu làng. Như vậy, thưa quý Ngài, việc thảm sát Mỹ Lai xẩy ra là vì quý Ngài không ai biết phong tục, văn hóa của người Việt.”
Nói xong, tôi ngồi xuống, người toát mồ hôi vì giận Mỹ mà thương người Việt mà không ngờ tôi bị ghi sổ đen. Cùng với các hành động chống đối khi trước của tôi, ông Thiếu Úy Cán bộ Trung đội Trưởng, gốc Ý, gọi tôi lên văn phòng và cho tôi biết là hồ sơ tôi đã bị ghi là “chống Mỹ” (Anti-American), nhưng ông chỉ nói cho tôi biết vậy thôi, và khuyên tôi nên cẩn thận, kẻo bị bắt hay bị tống về nước với cái lon Trung Sỹ. Ông nói nhỏ nhẹ vì ông đã mắc nợ tôi.
Trong lần Party lên huynh trưởng, tôi có chụp hình ông đứng với vợ, tấm hình nhỏ xíu thôi, và khuôn mặt của bà trong tấm hình chỉ chừng đầu ngón tay trỏ, nhưng tôi ngẫu hứng vẽ phóng ra, bằng Arcrylic, thành môt bức tranh khổ 15 x 30”, rồi lẳng lặng đem treo vào phòng làm việc của ông, một buổi tối. Sáng hôm sau, ông vào phòng làm việc, thấy bức tranh vợ, ngạc nhiên quá, đi hỏi mãi, biết tôi là tác giả, ông mời lên, cám ơn tôi rối rít.
Thật ra, tôi phát triển nghề vẽ của tôi trong khi học là vì.. tôi mệt quá với các công việc tạp dịch, lau cầu tiêu, chùi hành lang, lau phòng Cán bộ, làm vệ sinh chung quanh trại…nên nghĩ ra cách trao đổi công tác. Một hôm, tôi lên trình bầy với ông Đại Úy Đại Đội Trưởng là tôi muốn trang trí các bức tường trong Câu Lạc bộ SVSQ còn trống trải quá. Ông kia khoái quá, rút ngay tiền ra đưa cho tôi để mua đồ, nhưng tôi từ chối, vì .. sợ ! Sợ làm ông tốn kém mà vẽ không được thì bị đì chết tươi. Tôi bỏ tiền túi ra đi mua sơn dầu, Arcrylic, cọ vẽ.. rồi cứ ăn cơm chiều xong, là vác cái thang ra, gác vào bức tường ngay cửa ra vào và phác thảo môt bức tranh anh hùng David Crocket của Mỹ, anh chàng đứng tì tay lên mũi súng để dựng ngang chân, trông bất cần đời.
Mấy ngày đầu, tôi lo lắng vô cùng, vì đó là lần đầu tôi vẽ bằng cọ sơn! Tôi từng học vẽ nhiều năm khi còn trẻ, nhưng toàn là bằng Phấn Pastel, chưa bao giờ học pha mầu sơn, hay vẽ bằng cọ và lại vẽ thẳng trên tường! Liều mạng vẽ mấy ngày, chỉ một cái đầu thôi, mà không ra con giáp nào, mầu nọ chửi cha mầu kia, bị chúng chê bai, chửi quá chừng! Tôi sợ quá, nên đành bỏ ngủ, thức cả đêm để vẽ, mắt nhòe ra, nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ nhân ảnh.
Nhưng Trời thương, chỉ 5 đêm sau, là tôi biết cách pha mầu và cứ thế là phóng tay vẽ như điên. Bức tranh cao 3 thước, rộng 1 thước trấn ngay cửa ra vào, được hoan hô nhiệt liệt. Tới luôn đi, bác tài! Tôi cao hứng vẽ thêm môt bức tranh nữa trên bức tường đối diện, cũng ở trên cao, cách mặt đất 3 mét, một bức tranh đám cưới cổ Việt Nam, ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau. Lính khiêng heo, lính khiêng trầu, cau, lính che lọng, bề ngang 3 mét, bề cao 1 mét rưỡi (1). Ông Đại Đội Trưởng khoái quá, miễn tạp dịch cho tôi đến hết khóa.
Chưa hết, tôi đề nghị với ổng là tôi sẽ vẽ hình đầu cọp, báo, sư tử trên gỗ và cho treo trên khắp các tầng lầu, thể hiện tinh thần của từng trung đội, Trung đội 1 là đầu cọp, trung đội 2 mang đầu báo, trung đội 3 là đầu gấu, 4,5,6… mỗi trung đội một hình tượng. Ổng Ok liền và ra lệnh cho bên hành chánh đi ra phố, tìm tiệm gỗ, cưa gỗ theo đúng hình vẽ của tôi, rồi về cho tôi vẽ và treo lên trước cửa từng trung đội. Riêng trước cửa phòng tôi, tôi vẽ một con cọp khổng lồ đang đi xuống thang gác (2, hình đính kèm).
Rồi cũng ổng, năn nỉ tôi vẽ một bức tranh cho buổi Party khác, tôi vẽ một bức tranh cao hơn 3 mét, hình một chàng Cao bồi đang cưỡi trên một con ngựa đứng 2 chân, nhe răng. Tiếng đồn lên tới Tiểu Đoàn. Ông Tiểu đoàn Trưởng mời tôi lên, nhờ thảo cho một bức tượng người lính bộ binh để dựng trước văn phòng Tiểu đoàn.
Thế là tôi được nghỉ học, ung dung cầm bản vẽ, bút chì đi ngắm nghía và vẽ luôn một tượng đài vuông vức, trên là một anh lính đang giơ tay phải lên, xung phong. Chưa hết, trước ngày lễ mãn khóa, tôi vẽ một bức tranh Chùa Một Cột đem tặng cho Chỉ Huy Trưởng Trường, để kỷ niệm một anh SVSQ Việt Nam được thụ huấn ở đây… Thật là liều mạng vì như đã nói ở trên, tôi chưa từng học vẽ sơn dầu, chưa từng học kiến trúc, mà dám chơi luôn một cái tượng đài! Bức tượng này được hoàn thành gấp rút, chỉ trong vòng 2 tháng là đã đúc xong. Ngày mãn khóa, tôi đi qua, ngắm nghĩa và hãnh diện một mình. Dân Việt Nam chơi liều không thua ai.
Nhiều chục năm trôi qua, nhìn kỹ lại từng vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam, tôi nghĩ rằng, người Mỹ, nói chung, là một dân tộc trọng tinh thần Dân Chủ, Pháp Luật, và Quyền Tự Do cá nhân tối đa,. Nguòi Mỹ, trên phương diện hình thức, tôn kính Chúa Trời, cho nên trên đồng tiền cũng có Chúa, các lời thề nhậm chức hay ra trước pháp luật, đều có Chúa chứng giám. Do đó, họ có nhiều đức tính tốt vượt bực, có sự quan tâm đối với các dân tộc nhược tiểu, nhưng ngược lại, các chính phủ Mỹ, dù Cộng Hòa hay Dân Chủ, lại là một tập thể chính trị biệt lập. Chính phủ Mỹ, dù ngành nào, Tư Pháp, Lập Pháp, hay Hành Pháp, luôn dành hết khả năng của mình vì quyền lợi của nước Mỹ, làm cho nước Mỹ mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn.
Do đó, nếu có sự gì cản trở bước tiến của nước Mỹ, hoặc không làm cho nước Mỹ vĩ đại hơn, thì các chính trị gia lãnh đạo sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, có thể bất chấp đạo đức, dẹp bỏ mọi lời hứa với đồng minh, và tỉnh bơ trước mọi lời phê bình, chê trách. Như việc giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hứa yểm trợ đồng minh rồi lại bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho Trung Cộng và khối cộng sản, cho biệt kích sang Panama, tóm cổ Tổng Thống nước này đem về Mỹ, giam tù…
Hiện tại, lúc thì bắt tay khen ngợi Trung Cộng, lúc lại hăm dọa chiến tranh. Với Bắc Hàn cũng thế, hân hoan chào đón hay chuẩn bị phóng hỏa tiễn cũng là tùy theo tình hình và lời khuyên của các “Think Tank” đặc biệt (Không phải nhóm cố vấn trong Bạch Cung). Vì thế, mới có câu, “Làm kẻ thù của nước Mỹ thì tốt hơn là làm bạn với Mỹ” và “Với nước Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn cũng như không có bạn thân mãi mãi.”
Trên hết, Cám Ơn Nước Mỹ đã cho chúng tôi được Tự Do.
Chủ tịch hội đồng đai diện Cộng Đồng Người Mỷ Gốc Việt, ông Michael Đổ đã bỏ rất nhiều công sức vừa xuất bản quyễn “Remembering the ARVN” có tất cả cáp hiệu, phù hiệu và huy hiệu QLVNCH.
Sách bán trên Amazon, rất hửu ích nếu ai cần tham khảo khi ăn mặc hoặc chỉ đễ biết. Các hội đoàn nên có một bản.
Sau đây một bài viết của một dân sự bình luận về quân phục của quân nhân VNCH khá vui:
Lời Giới Thiệu: Nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận , ông Nguyễn Ðình Phúc tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Ban Ðốc Sự Khóa 11, nguyên Phó Tỉnh Trưởng Phước Tuy, hiện cư ngụ tại Vancouver BC, Canada, đã có nhã ý sưu tập gửi đến độc giả tài liệu đặc biệt về huy chương, cấp hiệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xin cảm tạ ông Nguyễn Ðình Phúc và xin giới thiệu cùng quý độc giả.
Sau 30.4.1975, chủ quyền đất nước mất vào tay cộng sản (việt cộng và cộng sản Nga, Hoa). Chánh Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Ngày nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi khác nhưng lý tưởng, chánh nghĩa người Chiến Sĩ một đời theo đuổi vẫn còn đó, Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm vẫn còn đó, Quê Hương-Dân Tộc vẫn còn đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù mang một hình thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đấu cho nền Ðộc Lập Dân Chủ Tự Do thực sự cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn dân. Một điều khẳng định, chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc, Ðồng Bào vì khi vừa nghe tin những Quần Ðảo Hoàng Sa, Trường Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản Giốc…vừa bị ‘’bạo quyền cắt đất cầu phong’’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp đoạt, dâng hiến… tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng vùng lên…Ðiều này chứng tỏ chúng ta vẫn mãi mãi là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày mai, khi công cuộc tranh đấu dành lại được chủ quyền từ tay cộng sản cho toàn dân, nền Ðệ Tam Cộng Hòa được thiết lập, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tái tổ chức thì câu chuyện về quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…hôm nay chẳng là câu chuyện phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài liệu cần đến.
Từ hơn 2000 năm trước, Ðức Khổng Tử đã nói đến tầm quan trọng của nhung phục, đại ý Ngài dạy: ‘’Người tráng sĩ tự mình chưa đủ oai dũng khi lên yên chiến mã nếu như thiếu nhung y giáp trụ, thiếu cờ hiệu, cờ lệnh…’’ Bài viết xin được các Chiến Hữu, Ðộc Giả bổ sung, tha thứ vì hầu như hoàn toàn dựa vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện ‘’lính kể lính nghe’’ trong những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị cháy.
Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5.6.1948 được ký kết giữa Ðại Diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc Trưởng Bảo Ðại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Ðộc Lập, Thống Nhất nhưng vẫn còn nằm trong Liên Hiệp Pháp. Quân Ðội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế mới chỉ là một lực lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu chống Việt Minh (cộng sản) bên cạnh quân đội liên hiệp Pháp. Cho đến những năm đầu thập niên 50. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia vẫn còn nhiều sĩ quan Pháp làm việc, nhiền đơn vị do sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp chỉ huy, quyền chỉ huy tối cao còn thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur (Tiểu Khu, Chi Khu Chiến) của Pháp tại địa phương. Sau đó một số Khu Vực mỗi lần được trao trách nhiệm lại cho Quân Ðội Quốc Gia như những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn thư, danh xưng còn dùng Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S. P (Secteur Postal) thay vì Bộ Tổng Tham Mưu hay K.B.C Trong hoàn cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…tương tự như quân đội Pháp.
Trên toàn lãnh thổ có 4 Quân Khu: Ðệ Nhất Quân Khu (miền Nam). Ðệ Nhị (miền Trung). Ðệ Tam (miền Bắc). Ðệ Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/Sơn Cước). Lực lượng chính yếu gồm các Tiểu Ðoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien), Tiểu Ðoàn Nhảy Dù…Bên cạnh, chánh quyền địa phương cấp Phần, đứng đầu bởi Vị Thủ Hiến có tư cách pháp nhân riêng, ngạnh sách riêng, quân đội riêng như Bảo Chính Ðoàn (Bắc). Việt Binh Ðoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam), Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân và những lực lượng giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên…
QUÂN PHỤC
Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu, quân phục chưa quy củ, luộm thuộm vì ngay cả quân phục quân đội Pháp cũng không hơn. Nhiều Quân Nhân mặc chenise vàng, quần trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Ðến khi Quân Ðội Quốc Gia chính thức thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc Phòng Phan Huy Quát), quân phục mới được quy định tề chỉnh hơn.
Lễ phục Sĩ Quan ngoài màu trắng, có màu xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục màu nào thì phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh không kể màu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các Phòng, Sở, ra khỏi Doanh Trại (số 2) ‘’gabardine’’ hay ka-ki. ‘’béreto’’ cùng màu vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) màu xanh ‘’olive’’ riêng Nhẩy Dù thêm áo sô (saut) trông rất oai hùng.
Tới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa Ðại Lễ Phục Sĩ Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao cúc (nút) vàng, thắt lưng đen ‘’casquett’’ trắng, quần sậm, có sọc như các Quân Trường, có cả dạ phục. Còn Tiểu Lễ Quân Phục số 2 màu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa.
Nhớ lại sau Hiệp định đình chiến 1954, Quân Nhân ra Phố mặc đồ tác chiến sẽ bị Tuần Cảnh bắt giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại, quân phục vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên hay Khóa Sinh Quân Trường.
Chuyện trang phục của chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất là từ cấp Tướng Lãnh. Một Ðại Tướng vì gốc Dù nên mặc Ðại Lễ thay vì đội casquette, ông vẫn ‘’sính’’ đội beret đỏ. Một Vị Lãnh Ðạo Quốc Gia, vì gốc Phi Công ‘’anh dũng muôn đời’’ nên cứ diện phi bào với 2 sao để cho Tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một Tướng biệt phái sang Hành Chánh thường mặc đồng phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp Tổng Thống hay Thủ Tướng lại móc ngay 3 sao trong túi đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một Ðô Ðốc, quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong Quân Chủng…Vẽ lại vài ba hình ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi vì thời phong kiến đã có câu ‘’luật không áp dụng với người trên’’ nên nhằm nhò gì chuyện nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu.
Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở Quân Ðội Hoa Kỳ ‘’ngoài quy định từ Thống Tướng tới Binh Sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một quy định gì so với đồng ngũ đồng cấp’’. Sự đồng nhất triệt để tới cả mức gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau. Chắc các Chiến Hữu còn nhớ chuyện một Vị Tướng Hoa Kỳ, ông đã đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người chê sai, người bên vực đúng nhưng ông vẫn tự sát vì sự kiện này.
Tất nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động vì mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy trang, nhưng trong dịp Quốc Khánh, kỷ niệm Quân Lực…các Ðơn Vị mặc chiến phục diễn hành vẫn theo đầy đủ cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương thòng…để thêm oai dũng khác ngày thường.
Khi mới thành lập, chúng ta còn đi giầy đinh (có đinh ở dưới) gọi giầy ‘’săng đá’’ (do chữ Pháp Soldat-Quân Nhân), bước đi gây tiếng cồm cộp. Những toán hầu kỳ, chào kính còn mang ghệt (guêtre) trắng bằng da hay vải bố để túm ông quần lại cho gọn, đẹp. Hành quân dùng giầy bố. Sau này dùng giấy sô (botte de saut) cột dây, có nhiều loại khác nhau. Những Quân Nhân nào diện còn cắt ống giầy gắn fermeture, nhưng khi đổi giầy có thể bị phạt vì làm hư quân trang. Giống như một Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng vì nhu cầu an ninh đã sơn xe jeep mầu dân sự, khi đổi xe đã phải phạt và đền tiền sơn lại như màu nguyên thủy.
Những năm sau này, thêm nhiều Quân Binh Chủng được thành lập nên ngoài chiến phục của Bộ Binh có nhiều kiểu và màu sắc đặc thù riêng rất oai hùng như phi bào (Không Quân) quân phục trắng (Hải Quân) Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân…Ðây cũng là một trong những nét khác biệt của từng màu cờ sắc áo. Sau 1975 trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn rất rét, bị ám ảnh khi thấy hình bóng các thiên thần mũ đỏ, cọp biển…chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh ‘’nhiều cán binh sống sót về lại miền Bắc không dám đứng dưới quạt trần vì còn ngỡ cánh quạt trực thăng săn đuổi’’.
Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều. Xưa kia mũ ‘’béret’’ ka ki vải rất rộng (miền Bắc gọi là mũ bánh đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ ‘’calot’’ xám, đen trên đỉnh xẻ đôi có hai màu xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng đội chapeau de brousse mũ vải cứng rộng vành (hơi giống Quân Nhân Úc) một bên vành mũ bấm gọn lên để khỏi vướng khi vác súng. Sang thời Cộng Hòa ‘’béret’’ xám đội theo quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tròn khác màu tùy mỗi hàng Binh Sĩ, Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 1963, thường mặc ‘’tréllis’’ nên mũ vải lúc đầu cứng (như képi) sau như ‘’casquette’’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘’làm dáng’’ tay mũ cũng gắn nhành dương liễu như casquette đại lễ. Mũ sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như Biệt Ðộng Quân cũng tiện.
Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2 không kể cấp hiệu, phù hiệu được mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cấp phần sau. Chỉ riêng việc này đã làm mất tính bí mật quân sự. Ðịch dễ dàng nhận diện hay trên xác Tử Sĩ để lại chiến trường đủ tình trạng quân vụ (Ðơn Vị, cấp bậc…) ngoài những cáo phó, chia buồn góp vui đầy trên báo chí. Ngoài cổng Doanh Trại ghi đầy đủ hệ thống thuộc, Ðơn Vị đồn trú. Trong khi việt cộng đến khi chiếm trọn miền Nam trước cổng chỉ có tấm bảng ‘’doanh trại quân đội nhân dân’’. Như vậy, bài học vỡ lòng che dấu, ẩn nấp để ‘’ta thấy địch, địch không thấy ta’’ trở thành hài hước.
CẤP HIỆU
Cấp hiệu là quy ước có hình thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp ‘’Huynh đệ chi binh’’ là mối tương quan trong đời Quân Ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ khác một vạch, màu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.
Từ khi thành lập Quân Ðội Quốc Gia, cấp hiệu được gọi bằng lono (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như quân đội Pháp cho tới thời Cộng Hòa được thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện sách báo khiêu dâm…Ðây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp.
Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘’lon’’ Sĩ Quan, ngoại trừ Thiết Giáp Binh (Kỵ Binh) dùng vạch trắng. Từ ‘’adjudant’’ (ông Ách) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy dọc, ‘’aspirant’’ (Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt lúc đó chúng ta thường gọi Quan Một, Quan Hai…tới Quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan cao cấp (Officier Supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan cấp thấp (Officier Subalterne). Trên Quan Tư có khoanh trắng (Lieutenant Colonel) với 5 vạch (3 vàng 2 trắng) và Quan Năm khoanh vàng (Colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở lên). Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ mang vạch hình chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh tay.
Người viết không rõ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ Quốc Phòng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng Sĩ xuất xứ từ Lực Lượng Bảo Chính Ðoàn (Bắc Việt) đặt ra trước cùng lúc với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Ðoàn trong khi Sĩ Quan Chính Quy vẫn còn đeo ‘’lon’’ hoàn toàn như sĩ quan Pháp. Xin được mở dấu ngoặc nói thêm về cấp hiệu của Bảo Chính Ðoàn.
Bảo Chính Ðoàn là lực lượng quân sự cấp Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ huy hoàn toàn Việt Nam, không có một hạ sĩ quan hay sĩ quan Pháp nào. Tư Lệnh Phó Bảo Chính Ðoàn (có lúc gọi là Phó Giám Ðốc) là Ðốc Quân Ðoàn Chí Khoan (sau này là Ðại Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc). Ông Ðoàn Chí Khoan có thể coi như người soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo Chính Ðoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức Quân Ðội Trung Hoa Quốc Dân Ðảng và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân cho Sĩ Quan cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có 3 hạng: Phó Ðốc Quân hạng ba, hạng hai và hạng nhất (tương đương Thiếu, Trung, Ðại Úy) và Ðốc Quân cũng có ba hạng. Trên hết là Chánh Ðốc Quân (như cấp Tướng, nhưng chưa có ai được phong). Tư Lệnh Biệt Chính Ðoàn đầu tiên là Ðốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là một trong 6 Ðại Tá đầu tiên của Quân Ðội Quốc Gia). Tư Lệnh Phó là Ðốc Quân hạng 3 Ðoàn Chí Khoan. Giám Ðốc Trường Sĩ Quan Biệt Chính Ðoàn là Ðốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa).
Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân đều đeo hoa mai bạc (hạng 3 một bông…hạng 1 ba bông) nằm ở vạch ngân tuyến. Cấp Ðốc Quân thêm hai sợi ngân tuyến chạy kèm song song hai bên. Kể cả hàng Binh (Bảo Chính Viên) trở lên đều đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo hình chữ V. Ðiểm đặc biệt là danh xưng Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ được đặt ngay thời đó và sau này vẫn còn được dùng. Riêng danh xưng Ðốc Quân, Phó Ðốc Quân không được duy trì vì không thuận tiện (nếu chỉ gọi Ðốc Quân sẽ không rõ cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu kê).
Nhân đây, xin nói về truyền thống, ý nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3 Quân Binh Chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống quốc tế vì thường có tầm hoạt động ngoài lãnh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng không gồm Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp Binh và Lực Lượng Cảnh Sát. Không hiểu lý do nào, khi quy định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ chỉ riêng Hải Quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo như Quân Ðội. Trước đây Ngành Cảnh Sát đã có tổ chức quy củ với những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên…đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều Sĩ Quan và có lẽ tiện việc sắp đặt chức vụ, đã dùng theo cấp bậc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bỏ quy chế, cấp hiệu cũ, không quan tâm đến thời gian huấn luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng trình độ văn hóa và thời gian thụ huấn như một Chuẩn Úy Bộ Binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Ðại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc như Quân Ðội. Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có thẩm quyền gì với Quân Nhân lại tạo cho dư luận, cộng sản dễ chỉ trích quân phiện, cảnh sát trị trong khi chính bộ máy kìm kẹp, phá hoại của việt cộng có tới cấp bộ công an.
Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng quân sự địa phương chính quy hóa. Bảo An Ðoàn mang cấp hiệu riêng như Bảo Chính Ðoàn trước kia. Vì thiếu thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trong vừa giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhành lúa ôm hai bên trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát Sĩ Quan Ðồng Minh kể cả cấp Tá cũng như Huấn Luyện Viên, một điều Yes Sir hai điều cũng yes, General với Thiếu Úy và còn chào kính túi bụi vì nghĩ thầm ít gì cũng Chuẩn…Tướng.
Trở lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mang mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) vì muốn cho Hội Ðồng Tướng Lãnh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘’Tướng trẻ’’ dễ dàng khống chế lớp ‘’Tướng không trẻ’’ hoặc để áp lực cho đi ‘’Ðại Sứ’’. Ðó là thời ‘’Loạn Tướng’’. Ðề cập đến loạn Tướng thiết nghĩ phải nói đến quy chế Tướng Lãnh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đã bước lên hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đã bỏ binh quyền, đời quân ngũ. Vì vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu Thiếu Tướng…mà là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa… Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ, dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lãnh, chỉ thêm chữ hồi hưu như General Westmoreland (Ret). Quân Ðội vẫn phải đãi ngộ Tướng Lãnh với đầy đủ quy chế, nghi lễ, lương bổng, quân phục, cấp hiệu, Tướng Kỳ, Tùy Viên, Hộ Tống, chào kính…ngoại trừ binh quyền.
Ngoài ra tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp hiệu, phù hiệu của các Lực Lượng Ðồng Minh tham chiến tại Việt Nam trước kia. Ngoài những gì theo truyền thống quốc tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay Không Quân, chữ thập Quân Y…có những đặc thù riêng như Khối Liên Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan…) với Vương miện (Crown). Tháiland trọng bảo tháp (Phật) dành cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.
Nhiều người khen quân phục Hoa Kỳ đẹp, quy củ nhưng cấp hiệu không ý nghĩa. Thật ra Hoa Kỳ lấy biểu hiệu từ thấp lên cao, cấp Thiếu và Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và Ðại Úy 2 vạch trắng là kim loại còn nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với lá vàng, trắng. Ðại Tá đeo hình chim đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn…(thường dùng danh hiệu đại bàng) Ngôi sao sáng hàng Tướng Lãnh mang biểu hiệu cao tột đỉnh, dẫn đạo chỉ huy.
Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hình chữ V ngược nơi tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cao cấp), còn hàng Hạ Sĩ Quan cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như sau này, trái lại quân đội Pháp còn quy định những Tướng lãnh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu Binh Nhất, Hạ Sĩ, Trung Sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như Ðại Tướng De Latter, được đeo thêm cấp Hạ Sĩ Nhất danh dự. Trung Tướng Cogny thêm cấp Hạ Sĩ. Ðây là quy định chính thức như chức Huyện, Phủ Hàm thời trước, không như cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là Hạ Sĩ danh dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các Ðại Ðơn Vị (commandant en chef/commander in chief) thay vì Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘’Tư Lệnh’’ nói lên sự toàn quyền ban phát lệnh thay vì chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp Chỉ Huy Trưởng.
HUY HIỆU HUY CHƯƠNG
Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rõ Ðơn Vị trực thuộc. Nhiều khi còn dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo, hoặc các ‘’nơ’’ màu để dễ nhận bạn.
Thời phôi thai, Quân Ðội mới có đến cấp Tiểu Ðoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra còn được làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp thuốc…). Các Quân Trường Võ Khoa Thủ Ðức, Liên Quân Ðà Lạt…cũng có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các Ðại Ðơn Vị, Binh Chủng…phù hiệu vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu Ðơn Vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta còn đeo thêm các bằng chuyên môn…như bằng Rừng Núi Sình Lầy, bằng Dù, cánh Bay…
Quân Ðội có nhiều hình thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn Ðơn Vị, cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de guerre, Médaille d’honneur…của Pháp, nhiều loại được lãnh phụ cấp hàng tam cá nguyệt. Sang thời chính thể Quốc Gia, Quốc Trưởng ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với 5 hạng, trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp thưởng rất khó khăn đòi hỏi những chiến công hiển hách, thành tích lớn lao đối với Tổ Quốc, Dân Tộc. Nghi thức trao gắn rất long trọng, Quân Nhạc cử điệp khúc Quốc Thiều, người được ân thưởng tay nâng Huân Chương để Nguyên Thủ Quốc Gia chào kính. Nếu phạm trọng tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Ðối với hạng nhất, nếu tôi nhớ không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh Danh Dự Ngự Lâm Quân. Kế là Ðại Tướng De Latter, Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp tại Ðông Dương, nhờ chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng Ðệ Nhị Ðẳng. Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Ðại Tướng và truy tặng Ðệ Nhất Ðẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với Nhành Dương Liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ về chiến công và phạm vi tuyên dương trước Quân Ðội hay chỉ trước cấp Lữ Ðoàn, Sư Ðoàn.
Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của Quân Ðội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương thuộc các Quân Binh Chủng được ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương…chưa kể huy chương của nhiều Quốc Gia, Quân Lực Ðồng Minh cũng trao tặng.
Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang tên màu:Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương màu tam hợp đòi hỏi toàn thể Ðại Ðơn Vị phải lập chiến công và ít nhất phải được tuyên dương công trạng cấp Quân Ðội từ ba lần trở lên.
Huy chương khi được ban thưởng, ngoài văn thư có một bằng treo, không kể huy chương (thòng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải tuân theo các cách thức quy định. Huy chương cao hơn phải đeo từ trong phía ngực trái ra ngoài, hàng trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc Huân Chương Ðệ Ngũ và Ðệ Tứ Ðẳng dù thấp nhất trong Bảo Quốc nhưng cũng phải xếp trên cùng. Ðệ Tam đeo dây vòng qua cổ, Ðệ Nhị một bên cạnh sườn và Ðệ Nhất vắt ngang vai. Trong Tiểu Lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ có phần cuống).
Với dạ phục mang huy chương thòng nhưng thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một huy chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các Quân Binh Chủng, Ðại Ðơn Vị, cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đã được ban thưởng.
Với huy chương của các Quốc Gia Ðồng Minh, phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức, Quân Nhân đương sự mới được mang.
Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu…vì không được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn kém cho Quân Nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành.
NGHI THỨC CHÀO KÍNH
Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều cách thức chào kính như: Chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian.
Theo một số tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa ở Tây Phương. Khi gặp Vua Chúa, Quan quyền, thần dân thuộc hạ phải dơ tay phải lên che mắt để không được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không võ khí. Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở Ðông Phương.
Ðến giữa thập niên 50, số Sĩ Quan cũng còn rất ít. Ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, một Thiếu Úy ra vào cổng chính, Lính gác đã phải đứng nghiêm, Từ Trung Úy phải chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc Binh Sĩ không đủ thời gian đem súng xuống. Tại các Ðơn Vị, từ cấp Ðại Ðội Trưởng (Thiếu hoặc Trung Úy) mỗi khi ra vào cổng, Toán Binh Sĩ trực đã phải dàn chào dưới sự chỉ huy của Ðốc Canh.
Thời trước, Binh Sĩ chào súng theo kiểu Pháp, súng dọc thân mình phía phải, tay phải đỡ đế súng, bàn tay trái khép để trước súng, lòng bàn tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, nòng súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Ðoàn, súng vác vai, tay trái đặt ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước, giữa thân mình. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng. M16 loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai tay trái giữ dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác thì bộ máy cò sát vai (ngược lại kiểu xưa ngửa lên trời), mặt ngước về Thượng cấp. Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai tay mang xách hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào kính bằng cách ‘’hất mặt’’ về cấp chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ, nhà ăn, chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù trình diện cấp trên cũng chỉ đứng nghiêm (không chào nữa).
Khi Sĩ Quan vào phòng, Quân Nhân cao cấp nhất thấy trước sẽ hô ‘’phắc’’ hay ‘’vào hàng phắc’’ đối với từ cấp Trung Tá (Ðơn Vị Trưởng) trở lên. Khi Thượng cấp rời khỏi phòng chỉ hô ‘’nghiêm’’. Khi hô ‘’vào hàng phắc’’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy (xạ thủ về trước súng, âm thoại về trước máy…).
Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào kiếm trong Lễ mãn khóa của Sinh Viên Thủ Ðức dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong, đàng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bải chỉ đúng có vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp dưới mắt Cụ, Nhà Lãnh Ðạo gốc dân sự, chưa quen Lễ Nghi Quân Cách nên bước ngay xuống, dơ tay bắt tay Sinh Viên Thủ Khoa. Phần này không dự liệu nên anh Thủ Khoa hốt hoảng vã mồ hôi, nhất là nhìn tay Quốc Trưởng đã đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp, chuyển kiếm sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong khi tay trái cầm kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ anh được lãnh ngay lệnh phạt gia tăng từ Ðại Ðội Trưởng lên tới Tướng Chỉ Huy Trưởng với lý do ‘’chào kính Nguyên Thủ sai quy cách’’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được bắt tay).
Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy Tỉnh, Quận vào những dịp cúng tế tại Ðình Miếu đã rất lúng túng hoặc hành xử sai quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương…có ông tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường được hỏi về thái độ thích nghi và đã cố giải thích: ‘’Với Quân Nhân cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu tượng Quốc Kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo Quân Cách. Quân Ðội không dự trù có trường hợp Quân Nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh, Quận Trưởng, cho dù với tư cách Thượng Khách, khi được mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay vì các động tác này không hề có theo Quân Cách). Việc cử hành lễ là hoàn toàn là quyền hạn và trách nhiệm của Ban Hương Chức. Nếu muốn bày tỏ cung cách nào khác hơn, hãy mặc thường hay quốc phục’’. Không biết các ý kiến Niên Trưởng ra sao? (Đúng!)
Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu…rất dài, phức tạp. Ðủ thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu hay toàn thể Chiến Hữu chứ đâu phải do một anh Lính ‘’tốt đen’’. Tuy vậy, đã là Lính từng biết hô lớn câu ‘’tan hàng, cố gắng’’ nên cuộc đời ‘’cố gắng’’ đã quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy.
Nhìn lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Ðiều này sao tránh vì chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của Ðồng Minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.
Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh thì mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do mình chọn từ chiến công, hình ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Ðằng, mũi khoan Yết Kiêu (Hải Quân, Người Nhái), ngựa sắt Phù Ðổng (Thiết Kỵ), lò đúc Cao Thắng (Quân Cụ), nỏ thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa Thành (Công Binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trãi (Tâm Lý Chiến)…kể sao cho hết.
Người viết, một Khinh Binh Việt Nam Cộng Hòa, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào Quốc Kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc, chào Quân Kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Ðội. Kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Anh Hùng Liệt Sĩ, Chiến Hữu đã hy sinh. Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến Chiến Hữu, Ðộc Giả.
Nguyễn Đình Phúc
***
Xin kính gửi vài trang trong sách để quý vị xem. Michael Đỗ
Michael Do (Do Van Phuc) Chairman of the Board of Directorss. The Vietnamese American Community of the USA
Tháng Tám năm 1985. Thành phố Los Angeles với nhà cửa san sát và xe cộ đông như kiến hiện rõ dần dưới ánh nắng chiều, tiếng cô tiếp viên hàng không loan báo phi cơ chuẩn bị hạ cánh khiến tôi háo hức. Nhân đi công tác ở Palo Alto ở bắc California, tôi bay xuống Los Angeles chơi cuối tuần với vợ chồng Canh; Canh là bạn đồng nghiệp dạy ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Minh Đức. Cuối tháng Sáu năm 1975, tôi đã gặp Canh trong trại tỵ nạn Trại Pendleton, nhưng từ đó đến nay mặc dù thư từ và điện thoại thường xuyên, chúng tôi chưa gặp lại nhau. Canh mừng rỡ khoát tay lia lịa khi thấy tôi ở cuối jetway (hành lang dẫn từ phi cơ vào phòng đợi phi trạm). Hai đứa ôm chầm lấy nhau; tôi nhìn bạn từ đầu đến chân và cố dấu vẻ xúc động, “Mày không chịu bơ sữa đế quốc hay sao mà người ngợm tang thương thế kia?” “Còn mày trông như thằng cha thiếu thuốc, có khác gì tao? Chúng mình già rồi Ba Hoa ạ,” Canh đỡ lấy chiếc cặp da trên tay tôi. “Cô Lòng Heo. . . à Long Huê có khỏe không? Chiều nay cô ấy đi làm hả?” Ngày còn là sinh viên ban Điện tử của Đại học Khoa học Sài gòn, Canh bị bạn bè gọi đùa là “Tiết Canh.” Khi Canh cặp bồ với cô sinh viên lớp Lý Hóa Nhiên (hay “chứng chỉ” SPCN) Long Huê người Việt gốc Hoa quê ở Rạch Giá, lũ bạn bèn tức cảnh sinh tình phang ngay cho nàng cái tên “Lòng Heo” để đi đôi với Tiết Canh cho . . . hợp duyên. Canh mỉm cười trách nhẹ, “Mày chứng nào vẫn tật ấy! Hôm nay bà ấy nghỉ làm ở nhà nấu nướng đãi mày.” “Tụi mày nhiễu sự, bày vẽ làm chi cho mất công.” “Mười năm mới có dịp đón tiếp gã nhà quê từ nơi đồng nội North Dakota đến thăm viếng chốn thị thành ấy mà! Hôm nay có thằng Tiễn và vài người bạn ở quanh đây.” Dễ đến mười tám, mười chín năm nay tôi mới gặp lại Tiễn. Ngày đó, lớp đệ nhất niên ban kỹ sư của ba trường Công chánh, Công nghệ, và Điện học chung và học các môn khoa học cơ bản; Tiễn thuộc ngành Công chánh và tôi là dân Điện. Mặt rỗ chằng rỗ chịt, người bé loắt choắt, giọng nói oang oang, và tính ưa nghịch phá, Tiễn lân la làm quen rồi chơi thân với tôi. Tôi nghe từ vườn sau Tiễn cười vang kể chuyện xưa, “Trong giảng đường gần tám chục mạng mà chỉ có hai thằng đứng thẳng lưng là tao và thằng Chích Chòe. Bọn cù lần kia sợ thầy như đĩ thấy cha, tối ngày đứng khom lưng một điều ‘Thưa giáo sư,’ hai điều ‘Dạ vâng, giáo sư.’” “Còn mày, phét lác cho lắm mà sao bị xoọc-ti lát thành dở ông dở thằng?” có tiếng hỏi vặn lại; “xoọc-ti lát” là “sortie latérale” tiếng Pháp nghĩa là ra trường ngang hay bị đuổi học. “Hà hà, ‘anh mày’ là dân chơisố dzách! Tình cờ thấy ông Thế Trưởng ban Khoa học Cơ bản vào cầu tiêu sau giảng đường có ổ khóa treo lủng lẳng bên ngoài, tao bèn tiện tay lật bản lề, móc khóa vào bấm lại, và bỏ chạy một nước. Sau đó ông ta biết tao là thủ phạm và ra tay trù tới nơi tới chốn. Làm sao tao thọ sang năm thứ hai?” Tiễn bắt tay tôi với nụ cười mở rộng đến mang tai; tôi hỏi, “Hai mươi năm rồi mà sao bạn ta không lớn thêm được tí ti nào? Đã vợ con gì chưa hay vẫn phòng không chiếc bóng?” “Thứ nửa người nửa ngợm nửa đười ươi như nó, con Chín dưới đò cũng chê, đàn bà con gái ai mà thèm?” Canh cười khà khà khiêu chiến; “chín dưới đò” nói lái thành “chó dưới đình.” “Hôm nay có thằng Chích Chòe phương xa lại, tao tạm tha cho thằng Tiết Canh. Vả lại, cô Lòng Heo hứa cho ăn ngon nên ‘anh nó’ nhường nhịn một tí cho phải đạo,” Tiễn vênh váo trả lời và giới thiệu người bạn đứng bên cạnh với tôi, “Thằng Hoàn ở chung nhà với tao. Xưa kia nó có vợ đình huỳnh, nhưng khi dzọt khỏi Sài gòn, gặp ‘hên’ vợ ngủm củ lèo nên thành ra độc thân vui tính như tao.” Hoàn trông tương phản với Tiễn một trời một vực: thân hình cao lớn, hùng tráng khôi ngôi, nhưng vẻ mặt u sầu với đôi mắt buồn thăm thẳm. Hoàn bước lại gần tôi nói nhỏ nhẹ, “Tôi là dân trung học Võ Tánh Nha Trang, hồi đi thi tú tài đã nghe danh ‘ông.’ Trong lúc ‘ông’ làm bá chủ hội đồng Võ Tánh cả hai năm, tôi chật vật lắm mới qua được cửa ải Tú tài I, nhưng năm sau trượt vỏ chuối trong hai kỳ thi Tú tài II.” “Sau đó ‘ông’ làm gì?” “Tôi tình nguyện đi sĩ quan Không quân. Sau thời gian thụ huấn tại trường Sĩ quan Không quân Nha Trang, tôi đi Mỹ học lái phi cơ vận tải. Đầu năm 1975, tôi là đại úy lái C-130 ở Không đoàn Chiến thuật XX trong căn cứ Tân Sơn Nhứt.”
C-130 Hercules (Dũng sĩ Hercules) là máy bay vận tải có bốn động cơ tua-bin cánh quạt có thể cất cánh và hạ cánh trên phi đạo ngắn không dự bị trước. Gần cuối bữa tiệc thịnh soạn do Long Huê khổ công nấu nướng, và khi màn đấu láo của đám bạn dịu lại, tôi gợi chuyện với Hoàn, “Năm 1975, ‘ông’ ra đi bằng gì? Chắc hẳn không phải là tàu Hải quân như tôi rồi.” “Tôi lái C-130 chở gia đình quân nhân Không quân trốn thoát qua căn cứ U-Tapao bên Thái Lan.” Căn cứ Không quân U-Tapao được Hoa kỳ dùng làm căn cứ cho phi cơ oanh tạc B-52 đi giội bom thời chiến tranh Việt nam. “’Bà’ ấy mất vào lúc nào?” tôi ái ngại hỏi. “Quế Hương cũng là dân Nha Trang; nàng ra đi trong chuyến bay định mệnh đó. Ở Sài gòn chỉ có hai đứa tôi, gia đình hai bên ở hết và kẹt lại ngoài Nha Trang,” với giọng nói buồn tênh, Hoàn chậm rãi thuật lại quãng đời đau thương mười năm trước. * * * Trong mấy tuần lễ cuối cùng của Việt nam Cộng hòa (“VNCH”), quân nhân Không quân, nhất là các phi công như Hoàn, công khai thảo luận và chuẩn bị di tản gia đình bằng máy bay của mình. Ba giờ rưỡi sáng ngày 29 tháng Tư, đợt pháo kích đầu tiên của Việt Cộng vào căn cứ Tân Sơn Nhứt khiến Hoàn và Quế Hương thức dậy và sửa soạn ra đi. Khoảng chín giờ, Hoàn trông thấy ông Phó Kiền lên trực thăng bay theo hướng đông về phía Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ ngoài hải phận quốc tế. Chín giờ 45 phút, ban Tình báo căn cứ loan báo đợt pháo kích sắp tới sẽ gây thiệt hại rất nặng nề; đó là hiệu lệnh giờ G đã điểm. Giờ thì mạnh ai nấy bay. Hoàn và Quế Hương chạy như bay và leo lên chiếc C-130 chàng bay thường ngày, phi cơ đã đầy ắp người. Chàng vội kiếm chỗ cho Quế Hương ngồi rồi bước ngay vào phòng lái mở máy cho phi cơ chạy từ từ ra phi đạo; nhiều người loi nhoi chạy theo và cố nhảy lên cửa trước còn để mở. Ra tới phi đạo, chàng ra lệnh đóng cửa, gia tăng tốc độ, và cất cánh bay về hướng tây giữa lằn đạn pháo kích. Đáp phi cơ xuống U-Tapao an toàn, chàng thở phào một tiếng nhẹ nhõm và đợi hành khách xuống hết mới ra khỏi phi cơ. Trong khi mọi người được đưa tới khu tạm trú trong các nhà để máy bay, ba-rắc lính, và lều vải nhà binh, chàng kinh hoảng nhảy bổ đi tìm Quế Hương; không ai thấy nàng đâu cả. Cuối cùng, chàng gặp anh hạ sĩ quan cơ khí quen, anh ta mếu máo, “Đại úy ơi, ở Tân Sơn Nhứt, khi cửa còn mở, bà đứng nghiêng mình ra ngoài giúp kéo những người đất lên. Họ níu kéo chen lấn và đẩy bà rớt xuống, bà bị máy bay cán lên người.” Trời đất sụp đổ trước mắt Hoàn. Người vợ yêu quý chết tức tưởi. Đi ra ngoại quốc làm gì khi lẽ sống duy nhất trong đời không còn nữa? Chàng phải trở về Việt nam tìm xác nàng mai táng cho trọn tình trọn nghĩa. Dù chết cũng về, nhất định thế. Căn cứ U-Tapao trở thành trại tiếp cư cho 3,900 người di tản. Vị chỉ huy trưởng là Đại tá Harold R. Dallas, một sĩ quan có ba mươi năm quân vụ, phải chạy đôn chạy đáo lo ăn ở cho đám người này. Nhưng khẩn thiết hơn là ông phải di chuyển họ ra khỏi Thái Lan ngay lập tức. Chính phủ Thái sợ Việt Cộng kiếm cớ gây hấn và xâm chiếm, nhất định đòi trục xuất họ ra khỏi nước, và đe dọa sẽ tống giam và hành hình nếu họ không tuân lệnh. Bộ chỉ huy Không quân Hoa kỳ vùng Thái bình dương đóng tại Hạ Uy Di cấp tốc gửi 21 phi cơ vận tải hạng nặng C-141 sang để chở tất cả qua đảo Guam. Khi những chiếc C-141 đầu tiên đáp xuống U-Tapao, Đại tá Dallas lại đương đầu với khó khăn mới: Kể cả người phi công vừa mất vợ, có 65 quân nhân VNCH trẻ nói đã ra đi lầm và muốn trở về Việt nam. Tất cả đều đi trên chiếc C-130 do Hoàn lái sang và do một thiếu úy tên Lý cầm đầu; Lý cùng tuổi với Hoàn và phục vụ ở phòng Kỹ thuật Không quân. Đại tá Dallas cậy một đại tá Không quân là vị sĩ quan VNCH cấp bậc cao nhất thuyết phục 65 người đó đi sang Guam tỵ nạn; ông này vạch rõ ra rằng nếu họ trở về, Việt Cộng sẽ không dung tha và đem ra xử bắn như không. Rốt cuộc, 52 người đồng ý đi Guam, nhưng 13 người còn lại (gồm cả Hoàn) kiên quyết, “Về hay chết tại đây!” Mười ba người cực kỳ bướng bỉnh đó đặt Đại tá Dallas vào một hoàn cảnh vô cùng khó xử, giao họ cho chính phủ Thái là điều sau chót một chiến binh yêu thương đồng đội như ông muốn làm. Giữa lúc đó, y sĩ của căn cứ đưa ra đề nghị: Truyền thống của quân đội Hoa kỳ là không bỏ bạn lại (“no one left behind”), và nếu vì một lý do nào đó quân nhân bị thương thà chết chứ không chịu rời chiến trường, quân luật Hoa kỳ cho phép toán quân y dùng thuốc an thần để cưỡng bách tản thương. Trong khi chiếc C-141 cuối cùng để máy nổ nằm chờ trên đường ra phi đạo, vị chỉ huy trưởng buộc lòng chấp thuận giải pháp này. Người đầu tiên bị tiêm thuốc an thần là Lý, Lý vùng vẫy kịch liệt khi bị khiêng vào trạm quân y. Mười hai người kia ngập ngừng, nhưng không kháng cự. Theo đúng thủ tục, đại tá Dallas phái bốn quân cảnh và một y tá đi theo hộ tống họ. Đến Guam, 13 người phản đối dữ dội, biểu tình tố cáo lính Mỹ “dùng thuốc mê để bắt cóc” họ, và khiếu nại với văn phòng đặc trách thỉnh nguyện hồi hương của Hoa kỳ. Báo chí đăng tin và làm lớn chuyện khiến Đại tá Dallas bị cách chức và bắt buộc phải giải ngũ. Kể đến đây, Hoàn mím môi cố nén nỗi bực tức, “Phải công nhận thằng Lý có tài xúi giục và huy động đám đông. Ở Guam, nó cầm đầu những vụ biểu tình, cạo đầu, tuyệt thực, và có lần bạo động đốt doanh trại và đánh lính Mỹ bị thương. Nhưng khi chính phủ Hoa kỳ đồng ý cho đi về bằng tàu Việt nam Thương tín thì trước ngày lên tàu nó xin ở lại.” “Mẹ nó, đúng là thằng Việt Cộng nằm vùng! Xong công tác đó, nó ở lại Mỹ để tiếp tục đánh phá cộng đồng tỵ nạn,” tôi buột miệng la lớn. “Ai cũng thấy vậy; tôi còn nghi nó là thủ phạm gây ra cái chết của Quế Hương. Tôi bèn đổi ý xin ở lại, đó là quyết định sáng suốt duy nhất của tôi trong gần sáu tháng trời.” Thấy tên “Lý” nghe quen quen, tôi hỏi, “Bây giờ thằng Lý đó ở đâu, ‘ông’ biết không?” “Nó lấy vợ, và hai vợ chồng sống ở San Francisco và kết nạp bọn thân Cộng, gây quỹ, và ra báo tuyên truyền cho Cộng sản trên đất Mỹ tự do. ‘Ông’ biết trong giới người Việt tỵ nạn mình có một nhóm võ trang bí mật tên là Việt nam Diệt Cộng Hưng quốc chứ? Khoảng ba năm trước, họ gửi thư ngỏ cảnh cáo vợ chồng nó, nhưng cặp Cộng con không những không ngưng hoạt động mà còn lên mặt thách đố. Nhóm Hưng quốc ra tay, vợ chồng nó bị bắn chết trước nhà, và cảnh sát địa phương và FBI (Văn phòng Điều tra Liên bang) điều tra mà không tìm ra manh mối.” “Đáng đời hai đứa gian ác! Tôi có đọc vụ này trên cả hai tờ Time và Newsweek,” tôi gật đầu; Time và Newsweek là hai tuần san nổi tiếng phát hành tại Hoa kỳ và lưu hành khắp thế giới. “Mười năm qua, tôi rất ân hận về việc mình làm: Với tư cách một quân nhân đồng minh, Đại tá Dallas đã áp dụng nguyên tắc ‘không bỏ bạn lại’ để cứu giúp 13 quân nhân Việt nam Cộng hòa. Vậy mà tôi nghe theo lời kẻ gian và góp phần vào việc chấm đời binh nghiệp của một sĩ quan đáng kính.” Tôi thấy có đến hai người đáng kính: Một người là Đại tá Dallas – đã đành, người kia chính là Hoàn. Dù trải qua bao nhiêu khổ đau mất mát, chàng can đảm nhận lỗi lầm của mình. Tôi đâm ra phục người bạn mới quen. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 9 tháng Mười, 2019
Ngày nay chúng ta đã biết được tại sao người Mỹ lại mất quá nhiều thời gian như vậy trước khi rút khỏi Việt Nam.
Nhưng nếu sự tham gia của Mỹ được hiểu rõ, người ta lại chẳng thể nói điều tương tự về siêu cường đối thủ của họ, Liên Xô. Người Liên Xô nhận được gì từ việc ủng hộ một cuộc chiến nơi rừng rậm xa xôi, gửi các cố vấn, vật tư và tiền của đến giúp đỡ Bắc Việt – chấp nhận thực hiện một hành động không chỉ làm đóng băng quan hệ Xô-Mỹ, mà còn có nguy cơ châm ngòi xung đột toàn cầu?
Có phải là bởi tầm quan trọng địa chính trị của Việt Nam? Hay là do mối bận tâm của Moskva về truyền bá tư tưởng cách mạng? Chúng ta thường có thói quen gán cho phía bên kia những tầm nhìn và mục đích mà ta không muốn làm cho bản thân mình. Thực ra, có nét tương đồng đáng kể giữa sự hiện diện của Mỹ và Liên Xô tại Việt Nam. Giống như người Mỹ, điều mà Moskva quan tâm nhất là uy tín của mình trên cương vị một đồng minh và một siêu cường, cũng như tính chính danh trong nước và quốc tế mà uy tín ấy mang lại.
Nikita Khrushchev, người tiên phong xoay trục Liên Xô sang thế giới thứ ba vào thập niên 1950, có rất ít sự quan tâm và kiên nhẫn dành cho Bắc Việt, những người mà ông tỏ ý nghi ngờ, đặc biệt là sau khi Hà Nội bắt đầu nghiêng về phía Trung Quốc trong chia rẽ Xô – Trung.
Việc Bắc Việt Nam đứng về phía Trung Quốc được xem là một động thái chiến thuật khi không có lựa chọn tốt hơn. Chính Khrushchev đã góp phần dẫn đến hành động đổi chiều khi từ chối cung cấp viện trợ, nhưng ông lại đổ lỗi rằng việc đánh mất Bắc Việt là do những mưu mô tưởng tượng của “con cháu gốc Hoa” (Chinese half-breeds) trong hàng ngũ lãnh đạo đảng của Việt Nam. Đối với Khrushchev, vấn đề Việt Nam chỉ là một khía cạnh trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn với Trung Quốc, và cụ thể hơn, chỉ là một khía cạnh khá bên lề.
Tất cả thay đổi khi Khrushchev bị lật đổ trong một cuộc “đảo chính” vào tháng 10/1964. Người kế vị ông, Leonid Brezhnev và Alexei Kosygin, muốn chứng minh rằng họ thực sự trung thành với cam kết khi đồng minh cần cung cấp viện trợ quân sự. Lý do cơ bản là lãnh đạo mới của Liên Xô đang phải đối mặt với sự thiếu hụt tính chính danh. Giúp đỡ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại “chủ nghĩa đế quốc” sẽ giúp họ được công nhận – bởi nhân dân, anh em và đồng minh của họ, cũng như bởi thế giới nói chung – về tư cách là người thừa kế hợp pháp vai trò lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa. Cũng vì lý do tương tự, Moskva đã cố gắng cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Mao Trạch Đông lại chẳng mảy may đáp lại. Điều này càng trở nên rõ ràng trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kosygin hồi tháng 02/1965. Vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã nói về sự cần thiết của một “hành động thống nhất” nhằm giúp đỡ nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Mao đáp lại lời đề nghị ấy bằng sự mỉa mai thù địch, tuyên bố trước Kosygin rằng đối đầu Trung – Xô sẽ kéo dài cả một vạn năm. “Mỹ và Liên Xô giờ đây đang quyết định vận mệnh thế giới,” Mao nói một cách chua chát. “Thế thì cứ đi mà tự quyết định.” Ông tỏ ra không chút bận tâm đến chiến sự leo thang ở Việt Nam: “Vậy thì sao? Có gì là khủng khiếp khi một số người phải chết?” – và phản đối lo lắng của Kosygin về xung đột ngày càng sâu sắc bằng lời kêu gọi lạc quan tiến hành một cuộc “chiến tranh cách mạng.”
Khi quan hệ của Moskva với Trung Quốc tiếp tục xấu đi, Hà Nội cũng chuyển dần từ lập trường thân Trung Quốc sang vị thế trung lập hơn. Đó là bởi vì Bắc Việt cần vũ khí của Liên Xô, đặc biệt là các tên lửa phòng không tiên tiến, để tự bảo vệ mình trước các đợt ném bom của Mỹ. Nhưng Cách mạng Văn hóa Trung Quốc cũng là một phần nguyên nhân. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã phẫn nộ trước việc Bắc Kinh khuấy động chủ nghĩa cực đoan trong cộng đồng người Hoa khá lớn đang sinh sống ở miền Bắc Việt Nam. Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Vinh, vào năm 1967, thời điểm đỉnh cao của sự tham chiến của người Mỹ, nói rằng “Nghe thì có vẻ nghịch lý nhưng người Việt Nam không sợ người Mỹ mà sợ các đồng chí Trung Quốc.”
Căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hà Nội trở nên rõ rệt hơn vào năm 1971, sau chuyến đi bí mật của Henry Kissinger đến Trung Quốc và các thông báo về chuyến thăm sau đó của Nixon. Bắc Việt đã không được hỏi ý kiến và đương nhiên cảm thấy bị phản bội. Nhưng có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn: Người Trung Quốc và người Việt Nam có những quan điểm rất khác nhau về tầm quan trọng tương đối của họ. Các lãnh đạo Trung Quốc coi Bắc Việt là thuộc hạ. Họ đã giúp Bắc Việt. Họ chỉ dẫn cho Bắc Việt. Và cái họ mong chờ là sự thần phục. Nhưng người Việt lại không chịu thần phục. Sau nhiều năm chiến đấu chống lại Mỹ, họ cảm thấy mình có quyền tuyên bố là lãnh đạo cách mạng, ít nhất là ở Đông Nam Á.
Đây là thông điệp mà tướng Võ Nguyên Giáp mang đến Moskva vào tháng 12/1971, khi Bắc Việt đang chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công mùa xuân để giáng đòn cuối cùng vào Nam Việt Nam. Ông Giáp hứa hẹn rằng chiến thắng chung của liên quân Xô – Việt tại Việt Nam sẽ đưa Hà Nội vươn lên hàng ngũ lãnh đạo, đồng thời trở thành đầu cầu của chủ nghĩa xã hội ở thế giới thứ ba. “Chúng tôi muốn thực hiện nhiệm vụ này cùng với Liên Xô, bởi vì không ai có thể làm điều đó mà không có Liên Xô,” ông nói. Các nhà lãnh đạo Liên Xô ủng hộ thông điệp này, đặc biệt là sau khi ông Giáp hứa sẽ cho Liên Xô quyền đóng lực lượng hải quân tại Vịnh Cam Ranh mà khi ấy vẫn do Mỹ kiểm soát.
Có những nguy hiểm trong việc ủng hộ thái độ quân sự cứng rắn của Hà Nội. Sự khởi động lại các trận đánh lớn vào tháng 03/1972 đã đe dọa bước tiến trong hòa hoãn Mỹ – Xô. Sau khi người Mỹ đáp trả các chiến dịch phản công của Hà Nội bằng các đợt tấn công ném bom trên diện rộng, một số người trong giới lãnh đạo Liên Xô, bao gồm Kosygin, đã đề xuất hủy bỏ hội nghị thượng đỉnh sắp tới ở Moskva. “Anh đang đùa à?,” Brezhnev hỏi. “Tại sao không chứ!,” Kosygin đáp. “Đây có thể là thứ bom chúng ta cần.” “Đây là một quả bom, đúng vậy,” Brezhnev nhận xét, “nhưng ai sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn?”
Brezhnev coi hòa hoãn là một thành tựu cá nhân và không sẵn sàng hy sinh nó vì lợi ích của Việt Nam. Tuy nhiên, ông cũng không sẵn lòng gây áp lực với Việt Nam chỉ vì mối quan hệ tốt hơn với Mỹ, ý tưởng mà Kissinger và Nixon gọi là “mối liên hệ” (linkage). Điều mà bộ đôi người Mỹ chưa hiểu rõ là Việt Nam là một yếu tố quan trọng trong nỗ lực trở thành lãnh đạo toàn cầu của Brezhnev. Sự ủng hộ của Liên Xô dành cho Hà Nội là điều khiến Liên Xô trở thành một siêu cường thực sự và ngang hàng với Mỹ.
Nixon cũng từng nhớ lại việc bị bất ngờ trong Thượng đỉnh Moskva tháng 05/1972, khi Brezhnev, “người mà phút trước còn cười nói vỗ vai tôi, bỗng bất chợt la hét giận dữ,” ông cáo buộc Mỹ đã phạm những tội ác khủng khiếp ở Việt Nam. Brezhnev làm thế bởi ông phải bảo vệ uy tín của mình trước các đồng nghiệp và trước Bắc Việt. “Tôi cho rằng tôi hay các đồng chí của tôi chưa từng phải nói chuyện với bất kỳ ai một cách mạnh mẽ và gay gắt như khi chúng tôi nói chuyện với Nixon về Việt Nam,” Brezhnev sau này kể lại cho Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng như vậy.
Quan hệ Trung-Việt thời điểm đó đã xuống một mức thấp mới. Tính đến mùa hè năm 1973, khi Mỹ đang hoàn thành việc rút quân, Lê Duẩn bắt đầu lo lắng về Trung Quốc, nói với Brezhnev rằng ông nghĩ Mao đã lên kế hoạch “xâm chiếm toàn bộ Đông Dương và Đông Nam Á khi thời cơ đến.” Brezhnev tiếp tục hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam – lần này là chống lại người hàng xóm phía bắc của họ.
Chi phí tái thiết sau chiến tranh là rất lớn. Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đã thẳng thắn với Brezhnev về những kỳ vọng của Hà Nội: Sẽ phải có một nguồn viện trợ rất lớn từ Liên Xô để giúp “công nghiệp hóa” Việt Nam, từ đó cho toàn bộ Đông Nam Á thấy lợi ích thiết thực của định hướng xã hội chủ nghĩa. “Chúng tôi chẳng có gì cả,” Lê Duẩn nói với Brezhnev, hàm ý rằng mọi thứ sẽ phải đến từ khối Xô Viết trong vòng 10 đến 15 năm tiếp theo.
Brezhnev đồng ý xóa tất cả các khoản nợ của Hà Nội. Đồng thời, họ vẫn tiếp tục cho vay thêm, và đến năm 1990, Việt Nam đã nhận được hơn 11 tỷ đô la viện trợ, hầu hết trong số đó không bao giờ được hoàn trả. Trợ cấp cho Việt Nam trở thành gánh nặng quá lớn đối với nền kinh tế Liên Xô trong thập niên 1980, góp phần khiến cho Moskva kiệt quệ.
Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc với chiến thắng của phía Liên Xô và Việt Nam, nhưng chí ít là với Moskva, đó là một chiến thắng với cái giá quá lớn. Duy trì các đồng minh phụ thuộc là điều tốt cho uy tín của một siêu cường và cho tính chính danh của các nhà lãnh đạo, nhưng nó không tốt cho ngân sách nhà nước. Chính sách của Nga trong những năm gần đây, đặc biệt là trong các hoạt động tại Syria, gợi nhớ đến những hành động vì tính chính danh trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh ở Việt Nam. Và hậu quả lâu dài của hành động này cũng sẽ không kém phần thảm khốc.
Serge Radigan là Giáo sư Quan hệ Quốc tế tại Đại học Cardiff, Wales.
Những điều chưa biết về Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưaNghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ của giới ‘quý tộc’ Sài Gòn trước khi thành phố đổi tên, nơi đây nhiều nhân vật nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ “đã từng” yên nghỉ, tôi dùng chữ “đã từng” vì tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám ngày nay. Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, còn được gọi qua tên Đất thánh Tây, là một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm uất của Sài Gòn xưa. Vì là nghĩa trang của giới quý tộc nên một khoảnh đất nhỏ trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài Gòn.Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với dòng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lý “Hãy nhớ mình là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đã chết”… Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đã lo cho ‘người đã chết’ bằng những mộ phần hào nhoáng Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông hình hộp, áo quan của ông Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu. Mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai ngôi mộ nằm lọt thỏm, đìu hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố, những kẻ cơ hội quay lưng với gia đình họ Ngô đã đành, những người thân cũng ngại đến thăm viếng vì sợ chính quyền thời đó dòm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí còn không người đưa tiễn!Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn còn cứng. Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập.Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu (Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương). Mộ ông Ngô Đình Cẩn (được chôn tại nghĩa trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu.Trong khu đất rộng hàng nghìn hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ gia đình họ Ngô nằm cùng một dãy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh) và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quãng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc Jean Baptiste Cẩn.Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu còn có mộ thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng nghìn nhân vật tên tuổi trong chính quyền. Trước năm 1975, một số người vì muốn thân nhân đã khuất được danh giá, bản thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nguồn: Sài Gòn Xưa.