Lá rụng không về cội

Thứ bảy tuần rồi, ông Trương nhận được hai món quà, do ông bà sui vừa về thăm quê bên Việt Nam mang sang tặng. Hai món quà thực ra không đáng bao nhiêu tiền, nhiều lắm cũng chỉ bằng giá một tô phở bán ở Little Saigon, nhưng với ông nó lại là vô giá, đã làm ông xúc động, nghẹn ngào đến nỗi không thốt lên được hai tiếng cám ơn. Cả tuần nay, nhiều đêm ông trằn trọc mất ngủ, ban ngày ngồi thẫn thờ, hoặc chắp tay sau lưng lẩn thẩn một mình trong khuôn vườn nhỏ sau nhà, suy nghĩ mông lung.

Năm vừa rồi, con cháu đã tổ chức mừng Lễ Thượng Thọ cho ông, mặc dù ông thường cản ngăn điều ấy. Nhưng con cháu làm vậy là phải, vì gia đình ông trải qua bao đời sống trong gia phong lễ giáo, hơn nữa suốt một đời vào sinh ra tử mà ông sống được tới hôm nay cũng là lạ lắm. Con cháu không chỉ mừng ông mà còn phải cảm tạ Đất Trời.

Sinh ra ở vùng quê, một cái huyện nghèo, mà thơ mộng. Biển xanh nằm sát bên dãy trường sơn hùng vĩ, cực bắc tỉnh Khánh Hòa. Cuộc đời ông có nhiều may mắn bất ngờ. Vì sinh kế, cha mẹ ông phải vào Nam lập nghiệp. Ông được một người trí thức có lòng nhận làm dưỡng tử. Người này gốc Quảng Bình, tốt nghiệp kỹ sư công chánh từ École Centrale bên Pháp, vừa mới hồi hương và đang làm cho hãng thầu Descours &Cabaud đặc trách hai công trường xây cầu NeakLuong và Norodom, cách thủ đô Nam Vang 6 – 10 cây số. Là “dưỡng tử” nhưng ông thường được xưng hô là “thầy trò″. Ông kỹ sư chưa lập gia đình. Để thuận tiện công việc làm, ông thuê một ngôi nhà đơn lập, nằm cạnh nhà của người bạn là một nhà giáo, và gởi gấm cậu dưỡng tử theo học. Thời đó Nam Vang không có một trường nào dành cho văn hóa Việt Nam, mà chỉ có trường Pháp và Miên. Ông kỹ sư sống ở Pháp hơn bốn mươi năm, thấm nhuần văn hóa Pháp, vì vậy “cậu bé” Trương tất nhiên chịu ảnh hưởng của người dưỡng phụ, nên học hành rất nhanh và sớm thi đỗ Diplôme.

Ngày 8 tháng 3 năm 1945, quân Nhật lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Ông kỹ sư dưỡng phụ bị quân Nhật bắt đem đi mất tích. Không còn nơi nương náu, ông Trương chỉ còn con đường duy nhất là về lại quê xưa. Bảy tháng sau, quân Pháp từ Ban Mê Thuột đổ xuống đồng bằng như thế chẻ tre. Ông Trương, lúc này đã là một thanh niên, bị bắt. Khi Phòng Nhì Pháp thẩm vấn, ông đội (Phinh) thông ngôn dịch sai câu trả lời của ông Trương, làm cho viên sĩ quan Pháp hiểu lầm tức giận, đứng lên định tát vào mặt ông Trương. Nhờ lanh trí và với căn bản Pháp văn vững chãi, ông Trương trình bày tận tường sự việc, làm cho vị sĩ quan Pháp ngạc nhiên, thán phục. Thay vì làm tù binh, ông Trương được đưa vào Nha Trang để làm thủ tục đồng hóa vào quân đội Pháp. Sau đó ông được sự giúp đỡ của một số Sĩ quan Pháp tốt nghiệp trường Võ Bị Saint Cyr, thi đỗ vào École Militaire InterArmes de Dalat (EMIAD) ( trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt). Tốt nghiệp với thứ hạng cao, ông được chọn làm huấn luyện viên cho các khóa Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch
Rồi từ ngày ấy ông biền biệt xa quê, nơi chôn nhau cắt rốn, cho tới hôm nay. Đúng ra, trong thời gian hơn sáu mươi năm ấy, ông chỉ sống ở quê mình vỏn vẹn có ba năm, khi ông bất ngờ được chọn về đây làm quận trưởng. Nhiều người cho đây là một điều may mắn. Hơn nữa lúc này là thời Đệ Nhất Công Hòa, tiêu chuẫn để chọn một quận trưởng rất khó khăn.Vậy mà khi nhận được Lệnh Bổ Nhiệm, ông đã xin từ chối. Ông biết làm việc ngay ở quê mình là một điều không dễ, bởi còn có nhiều người thân, em út trong nhà , bà con chú bác. Dù tình lý có phân minh, cũng khó tránh được đôi lời dị nghị.

Nhưng cuối cùng ông cũng phải mang balô, từ giã một tiểu đoàn thiện chiến, do chính ông dày công tổ chức và rèn luyện, về chính quê mình nhận trách nhiệm mới, nặng nề phức tạp. Lời khẩn cầu từ chối của ông không được chấp thuận. Lý do được Bộ Nội Vụ đưa ra: Ông (cố vấn) Ngô Đình Nhu đang là dân biểu Quốc Hội (đảm trách hai quận thuộc tỉnh Khánh Hòa, trong đó có quận của ông), đề nghị Trung Ương bổ nhiệm một vị quận trưởng phải có đạo đức, lập trường kiên quyết chống Cộng, vừa có kinh nghiệm tổ chức chiến đấu vừa am tường địa hình và dân chúng trong quận. Trong danh sách những người được đề nghị, ông Trương là đối tượng duy nhất đáp ứng các tiêu chuẩn trên.

Ba năm, sau khi đã ổn định tình hình và tổ chức được một hệ thống chính quyền xã ấp cùng một lực lượng an ninh vững mạnh, xây xong một con đập lớn (Bình Trung) và ngôi trường trung học công lập đầu tiên cho quận, ông làm đơn xin được trở lại đơn vị cũ. Là một sĩ quan chiến đấu, ông không hứng thú với những thủ đoạn ở chính trường. Đơn chưa được xét, thì xảy ra cuộc đảo chính ngày 1.11.63. xóa bỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa một thời thịnh trị. Ông bị đám tướng tá “cách mạng” chụp cho chiếc nón Cần Lao, mặc dù ông là một phật tử ngoan đạo, thuần thành. Cuối cùng không tìm ra tội, họ phải chấp nhận đề nghị của ông: trả ông về quân đội. Ông được bỗ nhậm về Trung Đoàn 48BB biệt lập, đang quần thảo với địch quân trong Chiến khu D. Bàn giao công việc cho người kế nhiệm.Thêm một lần nữa ông phải ra đi trong thương tiếc của mọi người. Và ông cũng không ngờ, lần ra đi này cũng là lần vĩnh viễn xa quê.

Bao nhiêu năm lăn lộn ở các chiến trường, biết bao lần vào sinh ra tử, đơn vị ông đã tạo nhiều chiến thắng lẫy lừng. Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ rồi Đệ Tứ Đẳng ông được tưởng thưởng từ khi còn khá trẻ, được chính các vị nguyên thủ quốc gia trao gắn. Cũng có một thời ông được chọn về làm huấn luyện viên cho các quân trường lớn : Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, Võ Khoa Thủ Đức, Chỉ Huy Tham Mưu Đà Lạt. Ông cũng là đồng soạn giả của một số Binh Thư dành cho các cấp chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn bộ binh.

Tình hình Vùng 1 Chiến Thuật ngày càng nặng nề, từ ngày đường mòn Hồ Chí Minh với những ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam – không hiểu vì sao – gần như bỏ ngõ (?), để từng đoàn xe pháo Bắc quân xâm nhập. Từ những chiến trường khu D, Bình Long, ông được điều ra tận vùng địa đầu hỏa tuyến, tái tổ chức một trung đoàn biệt lâp, với trang bị và nhiệm vụ phù hợp với một sách lược do chính cá nhân ông biên soạn lúc còn phục vụ tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Đà Lạt. Đó là kế hoạch“Chữ Tâm Trong Lũy Tre Xanh” (The Hearth Within The Green Bamboo Rampart), có nghĩa là phía quốc gia phải chinh phục được niềm tin của dân làng trước (và trong) kế Hoạch Bình Định & Xây Dựng Nông Thôn. Và cũng vì chính sách lược ấy, ông được thuyên chuyển đến vùng lãnh thổ này: Hai quận Hòa Vang và Điện Bàn thuôc tỉnh Quảng Nam được cơ quan MACV đề nghị làm thí điểm cho việc thực thi kế hoạch.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã tái tổ chức xong trung đoàn, lấy Tâm Lý Chiến làm hành trang cho binh sĩ mang vào vùng trách nhiệm, đến tận những nơi thâm sơn để theo dõi, bám sát và tiêu diệt các đại đơn vị Bắc quân xâm nhập. Mặc dù luôn bóp méo, viết sai sự thực, nhưng trong quân sử của đối phương không hề dám viết một dòng nào về hai Sư đoàn 304 và 324B của chúng đã đụng độ với lực lượng Hưng Quảng I của ta tại Quảng Nam. Bởi theo yêu cầu và chỉ điểm của đơn vị ông, một ngày, bốn phi vụ B52 trải thảm tại một khu vực nhỏ hẹp ở Gò Nổi (Phù Kỳ, huyện Điện Bàn) mà sau đó, các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phải dùng Rome Plough của Sea Bee để vào chôn xác quân thù. Đủ biết số tử vong của địch cao biết chừng nào.

Trong hồi ký, Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Gia Thọ, nguyên là bác sĩ quân y của Trung Đoàn, đã viết về ông khi vị bác sĩ này mới về trình diện:

….Tôi có cảm tình ngay với vị chỉ huy mới, vừa lịch sự vừa dứt khoát, lệnh lạc rõ ràng, và coi quân y quan trọng cho đơn vị. Tôi hình dung lại dáng người của ông, cao gầy, mặt xương. Sau tôi biết ông là người có tú tài Pháp, sùng đạo Phật, đêm nào cũng thắp nhang khấn ngoài trời, và trong ngôn ngữ truyền tin, ông là Phượng Hoàng…..

và về chiến tích đầu tiên mà vị bác sĩ này được vinh dự góp phần, một ngày không xa sau đó:

….Kết quả cuộc tấn công của Việt Cộng: ta gần như vô sự, chỉ có Canh, xạ thủ đại liên, rớt từ chòi cao xuống, xương sống gãy một đốt đi lom khom và tôi, bị miểng đạn vạt mất mông bên trái, không ăn thua gì. Còn địch thì để lại trên một trăm xác chết ngoài hàng rào.

Sau trận đó, tôi được thưởng anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc, và chiến thương bội tinh.

Đại Tướng Hoa Kỳ Louis C. Wagner, từng là cố vấn trưởng trung đoàn, được ông Trương đề nghị ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, trong tập bút ký nổi tiếng Steel and Blood, đã hết lời ca ngợi trung đoàn dưới sự chỉ huy của ông.

Nhưng với ông, người Mỹ đã làm cho ông thất vọng. Từ sự trở mặt của một đồng minh cho đến cả cái tình một thời chiến hữu.

Ngoài trách nhiệm nặng nề của người anh cả một đại đơn vị, ông còn trách nhiệm của người anh cả đối với những đứa em trai không cha, mẹ già, chu cấp lo lắng cho các em học hành. Ông cũng không thể dắt díu hết bầu đoàn thê tử theo ông ra vùng lửa đạn, nên phải gởi cậu trai lớn về quê ngoại Ninh Hòa và hai cậu con trai nhỏ cho hai người em trọ học ở Nha Trang. Sau này, tất cả các em và con trai đều theo bước chân ông vào quân ngũ. Có người là sĩ quan biệt động quân, người ở hải quân, không quân.

Trung Đoàn Biệt Lập của ông trở thành một đơn vị hàng đầu thiện chiến, luôn ở tuyến đầu lửa đạn. Cuộc đời ông lại gắn chặt dưới những giao thông hào, trong những lô cốt làm bằng những bao cát (được gọi là trung tâm hành quân) và đại gia đình ông bây giờ chính là những người lính chiến dưới quyền, cùng ông sống chết, nhục vinh.

Với khả năng lãnh đạo chỉ huy, đức tính cương trực liêm khiết, cùng bao nhiêu kinh nghiệm chiến trường, ông được tướng Ngô Quang Trưởng, điều về làm Tư Lệnh Phó cho một Sư Đoàn thiện chiến vào bậc nhất miền Nam. Một Sư Đoàn đã tạo nên bao chiến tích lẫy lừng cùng những vị Tư Lệnh và nhiều cấp chỉ huy nổi danh một thời của Quân Lực: Ngô Quang Trưởng, Phạm văn Phú, …, Lê Huấn, Võ Toàn, …

Đầu tháng 3/75, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Quân Đoàn II có lệnh triệt thoái khỏi Cao Nguyên theo Tỉnh Lộ 7. Một cuộc lui binh tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh. Tướng Ngô Quang Trưởng đau đớn nhận lệnh bỏ Quân Đoàn I, trong khi người bạn đồng minh phủi tay và chính quyền trung ương cùng cả một hậu phương rối ren, hổn loạn. Sư Đoàn của ông cũng cùng chịu chung số phận. Vị Tư Lệnh cùng vài vị trung đoàn trưởng tử nạn trực thăng, không ai tìm ra tung tích. Ông nhìn cả một đại gia đình tan tác mà trong lòng như có trăm ngàn vết chém. Cuối cùng ông cũng phải rời khỏi vùng đất địa đầu miền Nam, nơi có những người lính anh hùng,giẫm lên xác thù, cấm cờ trên Cổ thành Quảng Trị, có cố đô của một triều đại cũng từng một thời dẹp Bắc bình Nam, mở rộng cả một vùng giang sơn bờ cõi, nơi đã hơn 30 năm đứng vững trong bom đạn hung hãn của kẻ thù và những tranh chấp hận thù của những người nhân danh tôn giáo. Ông đã phải cắt ruột mà đi, không những chỉ bỏ lại máu xương, bao nhiêu nấm mồ đồng đội, cùng với những chiến tích vang dội một thời, mà còn cả một đứa con trai, cũng là lính chiến, rút lui theo đoàn quân lên tàu, nhưng chẳng bao giờ tới bến. Người con trai của ông đã nằm lại vĩnh viễn ở một nơi nào đó cùng với đồng đội – những chiến sĩ vô danh .

Như một phép màu, ông Trương đã được bốc đi vào đúng giờ thứ hai mươi lăm của cuộc chiến, khi địch quân cấm lá cờ oan nghiệt nửa đỏ nửa xanh trên nóc ngôi nhà ” Dinh Độc Lập”. Hôm đó người ông đi, mà hồn ông vẫn còn ở lại trên quê nhà.

Đến Mỹ, ông tìm một nơi tạm cư vắng vẻ, cùng với một gia đình không trọn vẹn, sống âm thầm những tháng ngày còn lại. Ông tìm lãng quên trong sách vở, với những đứa cháu nội ngoại không hề biết quê hương nơi ông sinh ra và cả một đời chiến chinh và nỗi đau cắt ruột. Niềm vui duy nhất của ông bây giờ là tìm lại những đồng đội ngày xưa, nhắc nhớ nhau một thời trận mạc. Nhưng vui đó rồi lại buồn đó, khi bất chợt có ai nhắc lại tên một người đã mất hoặc vẫn còn sống mà khốn khổ lạc loài trên chính mảnh đất quê hương.

Những lúc rảnh rỗi, ông đóng cửa phòng, đọc sách, hồi tưởng lại cả một chuỗi quá khứ của đời mình, nhớ lại từng chi tiết trong các trận đánh, phân tích các điều thành bại rồi viết lại và lưu giữ trong computer. Lâu lâu ông lại mở ra đọc, nghiền ngẫm hằng giờ. Rồi thở dài. Ông tiếc thầm, vì những kinh nghiệm có được từ bao nhiêu máu xương này không còn biết đem truyền lại cho ai.

Nhiều lúc ông da diết nhớ quê, nhớ mồ mả cha mẹ tổ tiên, nhưng ông không bao giờ có ý nghĩ trở về, dù chỉ một lần, và chỉ một đôi ngày ngắn ngủi. Bởi một lý do đơn giản: ông nghĩ nơi ấy không còn là quê hương ông ngày xưa, mà chỉ còn là một vùng đất lạ lẫm, mà mỗi ngày, mỗi một phút, lũ cầm quyền vong bản, hèn mạt, bất tài, đua nhau bán rẻ quê cha đất tổ, cướp đi từng hạt cát của biển, hạt lúa của ruộng đồng, từng cành cây của rừng, từng tảng đá của núi và cả những giọt nước mắt, mồ hôi của những người dân khốn khổ, trong đó có nhiều người bà con của ông đã gần 50 năm chưa hề gặp lại. Ông cũng hổ thẹn, thấy chính mình có lỗi khi để quê nhà lọt vào tay bọn giặc man rợ, bất lương.


Suốt một tuần nay, buổi sáng nào, sau khi thức dậy, ông cũng rón rén đến bàn thờ, tìm hai món quà mà ông bà sui đã tặng : một chiếc nón lá và một bao nilon chỉ toàn là cát.

Hôm nay, ông ngồi thật lâu, dường như suy nghĩ một điều gì quan trọng lắm. Cuối cùng, ông đi tìm chiếc ghế, đứng lên đóng một cây đinh vào vách phòng khách, nơi mà trước đây ông luôn dặn dò, nhắc nhở vợ con mình không được làm điều ấy. Ông trịnh trong treo chiếc nón lá lên đó. Rồi ông lùi ra nhìn chiếc nón. Bất chợt trong nhạt nhòa nước mắt, ông nhìn thấy bóng dáng mẹ ông, nhớ tới bài văn xuôi rất học trò của ông Thanh Tịnh, mà ông đã thuộc lòng từ thời tấm bé :

“….Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi lại lắm lần..”. Hôm ấy mẹ ông cũng đội một chiếc nón lá .

Nhớ tới bao nilon cát, ông tìm một tấm nhựa mới, đổ hết cát từ trong chiếc bao hai lớp, lên tấm nhựa. Những hạt cát mà ông bà sui của ông đã hốt lên từ bãi biển ở quê ông, nơi mà thời còn nhỏ dại ông thường tụ tập tại đây tắm biển, vui đùa với đám bạn bè con nít, reo hò đón những chiếc ghe đầy cá của những bác ngư ông láng giềng trở về từ biển cả. Ông lấy cái lư hương trên bàn thờ xuống, lau chùi bên trong sạch sẽ, lót lên một tấm vải màu đỏ, rồi trịnh trọng bốc từng bốc cát bỏ vào. Những hạt cát đối với ông bây giờ là những hạt ngọc, trong lóng lánh ông tưởng chừng như bao nhiêu đôi mắt của người thân, của đồng đội, bạn bè, dù còn sống hay đã chết, bây giờ biền biệt ở nơi nào đó, mịt mờ trong cõi hư vô.

Ông chỉ bỏ vào chiếc lư hương một nửa số cát, nửa còn lại ông gói thật kỹ vào tấm vải đỏ, rồi bỏ vào trong một chiếc hộp thiếc, vốn là hộp trà kỷ niệm lễ cưới của thằng con trai út.

Ông dặn lòng, tối nay, ông sẽ thức khuya một đêm nữa, viết tờ di chúc cho vợ và các con. Cả một đời ông đã bỏ lại quê nhà, sang xứ người khi tuổi đã về chiều, ông chỉ còn biết đem hết công sức nuôi nấng, dạy dỗ các con. Trời không phụ lòng ông, tất cả con cái đều đã nên người, hiếu thảo. Mai này, khi nhắm mắt ra đi, ông cũng chẳng còn gì để lại, ngoài cuốn nhật ký ghi lại đời mình. Và bây giờ có thêm chiếc lư đồng, trong đó chỉ có những hạt cát quê hương, mà ông xem như “vật gia bảo” trên bàn thờ tiên tổ. Nửa số cát còn lại, ông cất kỹ dưới đầu giường và xin vợ con ông sẽ rắc trên di thể của ông trước khi đậy nắp quan tài.
Ông hình dung tới những chiếc lá trong cơn bão, tả tơi, tan tác, bị cuốn đi trong trời đất mênh mông, để không bao giờ được rơi về với cội. Lòng thấy xót xa. Bỗng bất chợt, ông nhìn lên bàn thờ, mắt ông sáng lên, rạng rỡ, khi nghĩ rồi đây bên cạnh mình còn có nắm cát của quê hương.

phạm tín an ninh

Sài Gòn Trong Những Ngày Cuối Cùng – Người Thủy Thủ Già

Thủy thủ già (Trần Hương Khóa 9/NT)

Sau khi các Đơn Vị Hải Quân của Vùng I, Vùng II Zuyên Hải và TTHL/HQ rút về Sài gòn, thì khu vực Hải Quân trở nên náo nhiệt, từ Cát Lái cho đến trại Bạch Đằng. Áp lực của Việt Cộng ở phía Bắc Sài gòn càng ngày càng trở nên nặng nề.

Phi cơ phản lực A37 có huy hiệu của Không Quân VNCH, phát xuất từ Phan Rang, dội bom Dinh Độc Lập. Phi trường TSN, máy bay Mỹ lên xuống liên tục để di tản “non-essential personnel” của tòa Đại Sứ Mỹ và của các hãng thầu. Một số đồng bào Việt Nam “lạnh cẳng” cũng xô đẩy nhau vào….ăn có.

Pháo binh của Cộng Sản nhả đạn liên tục “giã nát” phi trường Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Dù. Vài quả rơi vào thành phố Sài gòn giết đồng bào một cách vô tội vạ. Có một quả rơi vào cư xá Hải Quân Lê Thánh Tôn, làm phu nhân Đại Tá Nguyễn Hiền Năng, K3/SQNT, bị tử thương.

Sợ đạn pháo kích tiếp tục rơi vào khu vục Hải Quân gây thiệt hại cho gia đình, tôi bàn riêng với Phó Đề Đốc TMT/HQ về việc đưa 2 gia đình chúng tôi đi Phú Quốc lánh nạn, còn chúng tôi ở lại tử thủ với Đô Đốc Tư Lệnh. Phó Đề Đốc Thủy đồng ý và tìm cho tôi 16 vé Air Vietnam đi Phú Quốc. Đến ngày lên phi cơ, thì phi trường TSN đóng cửa vì bị hư hại nặng nề sau trận pháo kích của Cộng Quân. Trong cái rủi cũng có cái may, nếu 2 gia đình đi Phú Quốc một cách suông sẻ, thì khi hạm đội rời hải phận Việt Nam, hai gia đình chúng tôi sẽ bị mất liên lạc. Trường hợp nầy nếu xẩy ra chắc tôi phải theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam với Trần Đình Trụ, K8/SQHQ/NT vì dường như gia đình Trần Đình Trụ cũng đang chờ anh ở Phú Quốc.

Các đơn vị Hải Quân được lịnh cấm trại 100%. Để giữ vững lòng tin và tránh cảnh hỗn loạn có thể xẩy ra như trường hợp của cuộc tan vỡ của Quân Đoàn I và Quân Đoàn II, Tư Lệnh HQ nghiêm khắc chỉ thị: “Hải Quân không có kế hoạch di tản”. Có một vài anh em không nghiêm chỉnh thi hành lệnh cấm trại, trốn về nhà với gia đình, nên khi hạm đội rời Sài gòn các anh bị kẹt lại. Sau nầy gặp lại tôi ở Mỹ, các anh nầy trách ĐĐ/TL ra đi không cho họ biết,… Oh, well!!

Trong thời gian đó có một vị Đơn Vị Trưởng của một đại đơn vị âm thầm, đơn phương “vẽ” một kế hoạch (di tản) đưa tàu ra biển kể cả việc (theo lời đồn) chỉ thị một Dương Vận Hạm (LST) neo tại Nhà Bè chờ lệnh. Đặc biệt kế hoạch nầy sẽ không có “chỗ trống” cho CNO. Kết quả là vị Đơn Vị Trưởng nầy bị giải nhiệm …. . tout suite! (ngay tức khắc).

Các “cố vấn” Mỹ như Đại Tá Joe Gildea ra vào BTL/HQ với gương mặt khẩn trương và tự đặt mình trong tình trạng báo động. Bên người luôn luôn đeo theo một radio transistor ở vị trí “ON” để chờ nghe bản nhạc..Ngựa Phi Đường Xa. Việc phòng thủ khu vực Hải Quân được chia làm 3 Phân Khu do Đại Tá Bùi Kim Nguyệt, K3/SQNT và Trung Tá Tòng, K7/SQNT, chỉ huy. Phân Khu I- công trường Mê Linh do Trung Tá Xuân, K10/SQNT, đảm trách; Phân Khu II – HQCX, do Đại Tá Trần Văn Triết, K7/SQNT, trách nhiệm; Phân Khu III – trại Cửu Long (không nhớ tên). Trung Tá Xuân, CHT Tổng Hành Dinh, cũng là một trong số bạn sinh tử với tôi, mở kho vũ khí trao cho tôi 2 khẩu M18 để thường trực trên xe jeep….phòng thân.

Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi qua BTL/HQ thì gặp Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, TMT/HQ và ông cho biết ông vừa đại diện Đô Đốc Tư Lệnh lên gặp Tổng Thống và được Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ thị: “Kể từ giờ phút nầy, các anh được toàn quyền quyết định cho đơn vị mình”, Đô Đốc Thủy còn nói thêm với tôi “mình sẽ rời Saigon đêm nay”. Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29 tháng 4, năm 1975. Trên bầu trời Sài gòn lúc đó tràn ngập trực thăng loại đổ bộ của US Marine, ồn ào như đàn ong vỡ tổ cộng với tiếng gầm như gào thét của phản lực cơ hộ tống của US Navy, đáp lên, đáp xuống ở điểm hẹn” để rước “American Citizens và American Buddies” ra hàng không mẫu hạm, ngoài khơi Vũng Tàu. Trước cảnh hỗn loạn đó làm cho lòng tôi cảm thấy bồi hồi, muốn rơi nước mắt. Tôi hồi tưởng lại vài năm trước, một ký giả ngoại quốc ôm máy ảnh ngồi chờ ở nhà hàng Continental để chụp tấm ảnh đầu tiên khi T54 của Cộng Sản tiến vào Sài gòn, tôi cười……no kidding! Nhưng bây giờ tôi mới biết mình là thằng khờ.

Theo kế hoạch của Đô Đốc Tư Lệnh, nếu Saigon thất thủ thì tất cả hạm đội và các đơn vị yểm trợ rút ra ngoài biển, tập trung rồi kéo về miền Tây cố thủ.

Với một người không có căn bản quân sự thì việc đưa Hạm Đội ra khỏi Sài gòn là một hành động “tháo chạy” nhưng với cá nhân tôi thì đó là một quyết định “di binh chiến lược” để bảo toàn lực luợng và tiềm năng chiến đấu của QLVNCH. Đó là quyết định cuối cùng (không có sự lựa chọn) chỉ cần chờ giờ ..G ….để xuất phát. Thủy trình của hạm đội từ Sài gòn ra biển phải theo hai thủy lộ: sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp, nếu đặc công đánh chìm tàu buôn để “khóa” hai con sông này thì Hải Quân ta như cá nằm trên thớt. Việt Cộng sẽ dùng hỏa công (trọng pháo) đốt chúng ta không còn……..manh áo va-rơi.

Giờ … .G … đã tới!

Tôi từ giã Đô Đốc TMT về văn phòng thu dọn giấy tờ và tìm cách đón gia đình tôi, ở bên cư xá Văn Thánh, chỉ cách HQCX bằng một con kinh. Tôi không có dịp từ giã CHT tôi là Đại Tá Ngô Khắc Luân và sỹ quan trong bộ tham mưu.
TRAM QUAN CANH HAI QUAN TAI CONG TRUONG LAM SON TUONG DUC TRAN HUNG DAO

Các nút chặn Mê Linh và Cường Để đã khóa kín vì dân chúng ở ngoài quá đông chỉ chờ có lỗ trống thì tràn vào. Tôi tự nghĩ, mình có thể ra, nhưng chưa chắc mình và gia đình có thể trở vào.

Tôi trở vào HQCX để tìm phương thức khác, thời may lúc đó có một chiếc LCVP của TTHL/Bổ Túc đi chợ Thị Nghè, tôi nhờ mấy anh em thủy thủ đưa qua “kinh Văn Thánh”, ủi bãi cạnh nhà Tr/Tá Tòng, Tư Lệnh Phó/BTL/HQ/BKTD. Tôi đứng giữ tàu, tay thủ khẩu M18 (bây giờ đổi tên là AR 15, weapon of choice của mấy anh Red Neck), nhờ anh thủy thủ vào nhà tôi và đón gia đình tôi xuống tàu. Cùng lúc cũng có gia đình anh Hoàng Thế Thái, K8/SQNT, cùng tháp tùng qua sông. Trên bờ, mấy anh lính TQLC cầm súng M16 bắn chỉ thiên mấy phát, miệng la lớn “tụi nó chạy rồi tụi bay ơi!”. Tôi sợ mấy anh nầy mất bình tĩnh, chĩa súng về phía chúng tôi thì rất nguy hiểm. Tôi cho LCVP rút ra ngay để về cặp cầu bên HQCX. Khi rời tàu, chúng tôi và gia đình anh HTT chia tay, tôi phải đưa gia đình tôi đi “gửi” tạm một nơi an toàn để tôi có thể trở lại đón khi cần. Tôi chỉ có đủ thì giờ đón được vợ và hai con, còn cha mẹ, anh em đều bị kẹt lại vì không có chuẩn bị trước.

Sau nầy anh HTT đã tố khổ tôi với một số bạn bè và nói những điều không tốt về tôi. Trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng đó, mạnh ai nấy tự lo cho mình chứ không ai có khả năng và phương tiện để lo cho người khác. Vào phút chót, chính ông Tư Lệnh HQ, tôi và mấy cận vệ cũng không biết mình sẽ lên chiến hạm nào trong khi các chiến hạm lớn đã tháo dây ra lênh đênh giữa dòng.

Tôi trở lại BTL/HQ, Trung Tá Nguyễn Tuấn Khanh, Chánh Văn Phòng TL/HQ, thấy tôi mừng rỡ và bỏ nhỏ: “Anh H. ở lại với Tư Lệnh, tôi còn phải về đón gia đình”. Khanh, K10/SQNT, khoá sau tôi nhưng chúng tôi là bạn thân, đặc biệt là có chung một lập trường, nên việc bảo vệ cho Đô Đốc Tư Lệnh là trách nhiệm chung và ĐĐ Tư Lệnh tin cậy chúng tôi một cách tuyệt đối. Trung Tá Khanh rời BTL/HQ và không trở lại được. Toán bảo vệ an ninh cho Đô Đốc Tư Lệnh chỉ còn tôi và 5 anh Cận Vệ: Thuận, Thâu, Phúc, Quang, và Vân, các anh em nầy đều là hạ sỹ quan Hải Quân và họ đã sống gần gũỉ với Tư Lệnh nhiều năm.

Tôi đi một vòng ngoài văn phòng Tư Lệnh, tôi thấy có hai người đàn ông mặc thường phục, mặt rất khẩn trương, tôi chào xã giao nhưng không gợi chuyện. Về sau tôi mới biết là người nhà của Tổng Thống Dương Văn Minh.

Tôi đang sắp đặt công việc với các anh cận vệ thì có một anh quân cảnh từ công trường Mê Linh vào gặp tôi và cho biết: Có một Đại Tá Dù muốn gặp tôi gấp. Anh QC liền lái xe đưa tôi ra nút chặn, tôi thấy Tường, bạn cùng khóa với tôi ở trường CH&TM Long Bình, đứng ngăn cách với tôi bằng 5 lớp hàng rào ‘kẽm gai”. Tường nhìn tôi mừng rỡ, rơm rớm nước mắt, nói qua giọng nghẹn ngào: “Căn Cứ của tao bị pháo cháy hết rồi H. ơi!”. Tường cho biết anh đã đứng chờ hơn 4 tiếng đồng hồ tại đây nhưng không thể nào vào đuợc.

Trời xui, đất khiến, click! Một ánh sáng chớp trong đầu, anh bỗng nhớ tên tôi, nên nhắn tin cầu cứu. Tôi nhìn kỹ thấy Tường và gia đình đứng lố nhố bên cạnh chiếc jeep. Tôi nhờ các anh quân cảnh kéo mấy “con ngựa kẽm gai” cho gia đình Tường đi qua. Cũng như gia đình anh HTT, tôi để Tường và gia đình tự tìm phương tiện ra biển vì tôi còn phải trở lại với Tư lệnh.

Tường và tôi mất liên lạc kể từ chiều hôm đó, cho đến đúng 39 năm sau (29 Tháng 4 Năm 2014) Tường và tôi mừng rỡ “gặp nhau” qua điện thoại. Tường cho biết hắn và gia đình, đêm đó ra khơi bằng HQ 502. Và hắn cũng không quên kể cho tôi sự gian truân khi tìm nhảy một “sô (saut) bồi dưỡng” cuối cùng bằng tàu thủy. Tường cũng báo cho tôi tin buồn là Tr/Tá Trần Văn Vinh, CHT/TTHL/ND, cùng học khóa CH&TM với chúng tôi đã qua đời trong trại tù cải tạo.

Khi Trung Tá Khanh rời BTL/HQ, không có trao cho tôi kế hoạch di-tản, tôi cũng không nhận được khẩu lệnh của Đô Đốc nên tôi tự hoạch định, sắp xếp cho cuộc ra đi được an toàn và suông sẻ.

Vào lúc 6 giờ 30 tối, tôi chỉ thị một anh cận vệ về tư dinh Đô Đốc để đón gia đình Đô Đốc Tư Lệnh và gia đình tôi.

Vào lúc đúng 7 giờ (1900H) trời vừa sập tối, tôi thấy những chiến hạm lớn đậu ở cầu B và các cầu tàu trong HQCX đã tháo giây ra giữa dòng. Tôi mời Đô Đốc Tư Lệnh lên đuờng.

Tôi dẫn đầu với một thủy thủ tên Tiếng (nhân viên theo tôi trong những ngày cuối cùng), hướng dẫn Đô Đốc Tư Lệnh và gia đình theo sau, 5 anh em cận vệ chia nhau bảo vệ hai bên sườn và đoạn hậu. Tất cả chúng tôi đều trang bị M18 (7 khẩu) cho gọn gàng, riêng tôi còn có thêm một khẩu “rouleau” nhỏ ngắn nòng, bên hông. Đoàn người rời văn phòng Tư Lệnh và đi về hướng cầu A vì nơi đây còn có 2 chiếc PGM, mũi hạ giòng, chưa vào nhiệm sở vận chuyển.

Quãng đường tuy ngắn nhưng tôi cảm thấy…quá dài và rất nguy hiểm, tinh thần chúng tôi căng thẳng và cảnh giác vì sự bất trắc có thể xẩy ra trong chớp mắt.

Đoàn người lầm lũi đi trong bóng đêm. Công trường Mê Linh súng nổ liên hồi, anh em quân cảnh bắn dọa chỉ thiên để chặn sự hỗn loạn và đập phá chướng ngại vật. Ngoài phố dân chúng chạy ngược chạy xuôi mặt mày hơ hãi. Trên sông Sài gòn, PCF và PBR đảo tới, đảo lui …at full speed, quậy sóng cuồn cuộn.

Cau B BTL Hai Quan ngay 30 thang 41975.

Khi đoàn “công voa” đến cây cầu nhỏ, nối liền Bến Bạch Đằng và cầu A, thì một số thủy thủ bỏ tàu đi ngược về phía chúng tôi. Chúng tôi xuống chiếc PGM đầu tiên, cặp ở vị trí trong cùng, không thấy sỹ quan hiện diện mà chỉ có một số ít thủy thủ đứng trên boong tàu, trạng thái hỗn xược, miệng la to “tàu không đi, tàu không đi”.

Chúng tôi trèo qua chiếc PGM ngoài cùng thì gặp Đại Úy Trần Minh Chánh (con trai Đề Đốc Trần Văn Chơn) và Đại Tá Nguyễn Văn Ánh, còn những vị khác hiện diện trên tàu, trong giai đoạn khẩn trương nầy, tôi không để ý. Tôi yêu cầu Đại Úy Chánh đưa chúng tôi rời khỏi Sài gòn. Đại Úy Chánh, Hạm Trưởng PGM, ngần ngừ một chút rồi trả lời: “tàu vừa đi công tác về và vừa lấy dầu xong, chúng tôi không có ý định rời Việt Nam vì ba tôi (ĐĐ Chơn) và gia đình còn ở lại, và kể cả gia đình của thủy thủ đoàn”. Nhưng sau một phút suy nghĩ, Đại Úy Chánh lại nói với tôi: “Tôi đưa quý vị ra đến biển rồi chúng tôi sẽ quay trở về”.

Hạm Trưởng Trần Minh Chánh liền ra lệnh tháo giây, HQ 601 từ từ tách bến, khởi đầu cho Đêm Giang-Hành Lịch-Sử.

HQ 601 rời Sài gòn, không đèn hải hành, âm thầm di chuyển trong đêm. PCF và PBR vẫn ngược xuôi quậy sóng bao quanh các chiến hạm như để hộ tống, luyến tiếc tiễn đưa những người bạn, đã một thời chiến đấu bên nhau, ra khơi lần cuối.

Kho đạn Thành Tuy Hạ bị pháo kích bốc cháy sáng rực một góc trời, bom, đạn nổ ầm ầm liên tục. Hạm đội từ chiếc, từ chiếc, nối đuôi nhau vận hành ra biển. Thành phố Sài gòn về đêm đang hấp hối trong ánh đèn không đủ sáng.

Đô Đốc Tư Lệnh ngồi ở ghế hạm trưởng, gương mặt khẩn trương. Tôi đứng bên cạnh, tôi đặt một tay vào tay ông, tôi cảm thấy tay ông run run xúc động. Trách nhiệm của ông quá lớn, liên quan đến Hạm Đội và hơn 40,000 binh sĩ dưới quyền. Những gì sẽ xẩy ra trong những ngày sắp tới?

Tàu rời bến Nhà Rồng, rồi qua Nhà Bè và dưới sự chỉ huy khéo léo và kinh nghiệm của Hạm Trưởng Trần M Chánh HQ 601 đã ra đến biển một cách bình an. Riêng HQ 1 bị mắc cạn và HQ 502 bị Việt Cộng “pháo” trực xạ tại cửa Cần Giờ lúc 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Chúng tôi lên HQ 3 do Trung Tá Nguyễn Kim Triệu, K7/SQNT, làm Hạm Trưởng. Tôi nhận thấy sự có mặt của Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng và Đại Úy Armitage (Phú). Trong lúc rời HQ 601 một cách vội vã, tôi không kịp bắt tay từ giã Đại Úy Chánh và nói tiếng cám ơn, thật là một điều sơ xuất. HQ 601 hoàn tất nhiệm vụ và quay trở về Sài gòn.

TDH Tran Nhat Duat HQ3 tai dao Con Son ngay 30-4-1975.

HQ 3 trở thành soái hạm của Hạm Đội di tản. Đô Đốc Tư Lệnh, qua máy truyền tin, chỉ thị tất cả chiến hạm tập trung tại Côn Sơn chờ lệnh.

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên máy phóng thanh, Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ thị tất cả đơn vị còn đang chiến đấu “buông súng đầu hàng” để bảo vệ sanh mạng, xương máu của lính và dân.

Từ trong Côn Đảo, anh em Địa Phương Quân và giới chức quản lý nhà tù bơi xuồng túa ra xin được theo tàu Hải Quân rời đảo. Nhân viên chiến hạm yêu cầu họ thả súng xuống biển trước khi lên tàu.

Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử. Nước mất, nhà tan, chúng ta, những người Chống Cộng bảo vệ Tự Do, bỗng trở thành những người Vô Tổ Quốc. Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tung bay trên các kỳ đài chiến hạm đang hải hành ngoài hải phận quốc tế nhưng đối với thế giới thì ngọn cờ nầy không còn tồn tại….

THẾ LỰC ĐEN TỐI MUỐN CẦM TÙ …… ĐẠI DỊCH VÀ NHỮNG BÍ ẨN

(Những chuyện kinh hoàng về Dr. Fauci và CDC)Huong Nguyen: Lời giới thiệu: Hôm qua xem được video này, càng xem tôi càng thấy kinh hoàng, mặc dù đã biết nó sẽ là như thế. Có người muốn tôi dịch lại bài này. Tôi thấy quá hay nên bỏ nguyên ngày hôm nay dịch ra để làm tài liệu. Tôi cũng gặp vài trở ngại như laptop shutdown vì hết pin, rồi cái video bị Youtube gở mất, phải đi tìm lại.


Hy vọng các bạn đọc qua để hiểu thế giới này ma quỷ như thế nào, Bác Sỹ Judy Mikovitz đã hy sinh sự tự do cũng như danh vọng của bà để giống lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho ngành y tế Mỹ đã bắt đầu đi vào đường cùng. Những cơ quan tham nhũng thối nát như CDC và FDA, những con người tham danh vọng và tiền bạc như Anthony Fauci. Họ kiểm soát nguồn thuốc men của chúng ta. Họ chỉ cho chúng ta uống loại thuốc nào có lợi cho họ chứ không phải tốt cho chúng ta.
God bless Dr. Judy Mikovitz.
Và các bạn đọc nhanh và chia sẻ trước khi bị lấy xuống như cái video này.


o0o


Bác sỹ Judy Mikovitz là một bác sỹ thành công nhất trong thế hệ của bà. Năm 1991 bà trình bày một luận án tiến sỹ với tựa đề Lối Chữa Trị Đột Phá Bệnh SIDA.
Trong khi nghề nghiệp của bà đang lên dỉnh điểm, bác sỹ Mikovitz đăng bài nghiên cứu nổi tiếng của bà trên tờ báo Science. Bài báo có tính cách bàn cãi này đã tạo nên một cơn chấn động trong giới khoa học, khi nó tiết lộ những lối dùng mô tế bào của bào thai con người cũng như thú vật có thể làm khởi phát ra bệnh truyền nhiễm lan truyền nguy hiểm.
Cũng vì tìm ra chuyện bí mật chết người này, những công ty bào chế thuốc lớn đã khai chiến với Bác Sỹ Mikovitz. Họ tìm cách tiêu diệt tên tuổi, nghề nghiệp cũng như cuộc sống riêng tư của bà.
Ở thời điểm nguy hiểm của tổ quốc hiện nay, bà lên tiếng và chỉ tên những người lũng đoạn kiếm lời trong đại dịch đã đưa con người đến sự nguy hiểm. Vì bà đã tìm ra bí mật và đi ngược lại những gì họ tuyên truyền nên họ tìm cách thủ tiêu bà.
Bà bị bắt, ra toà không được nói câu gì. Và cũng không được lên mạng xã hội tuyên bố gì [gag order] trong vòng 5 năm và nếu bà mở miệng họ sẽ tìm bằng chứng khác để xử bà và bỏ tù bà trở lại. Bà nói: “Đã có nhiều lần tôi bật khóc, vì không có bằng chứng gì nhưng họ dùng quyền lực để tàn phá vị trí tín dụng tốt trong xã hội của tôi, và tôi phải khai phá sản. Để tôi không thể đưa ra 97 người nhân chứng gồm xếp của Bác sỹ Anthony Fauci, Ian Lipkin Giám Đốc của Bộ Y Tế và HHS [Health and Human Service]. Đương nhiên là họ phải xuất hiện trước toà án để chứng minh chúng tôi không làm gì sai cả.”
Họ không có gì để kết tội tôi cả nhưng tôi phải ngồi tù, họ gọi tôi là người chạy trốn công lý [fugitive from justice]. Họ đến bắt tôi mà không có trát toà, họ đến và lôi tôi ra khỏi nhà trước mặt hàng xóm tôi, họ lục lọi nhà tôi cũng không có giấy tờ, họ làm cho chồng tôi khủng hoảng trong 5 ngày liền. Họ nói nếu bà không tìm ra quyển tập ghi chú, mà lúc đó tôi không có giữ. Họ tìm cách bỏ nó vào nhà tôi làm như tôi ăn cắp nó từ phòng thí nghiệm mang về nhà.
Tôi có thể chứng minh rõ ràng rằng tôi không có lấy nó về. Họ thông đồng với nhau để phá huỷ thanh danh của tôi. Bộ Tư Pháp và FBI giấu diếm vụ này làm như vụ này không có, để luật sư của tôi không làm gì được. Vì thế họ đã lấy hết quyền hiến định của tôi, cả cho đến ngày nay.
Nhiều người như bà thì họ đã về hưu nhưng bà lại không, khi lệnh cấm nói [gag order] đã kết thúc, bà lại tiếp tục tranh đấu, viết một quyền sách với tựa đề “Dịch Tham Nhũng” (Plague of Corruption) để mang lại lòng tin tưởng và hứa hẹn của khoa học, và bà cũng chỉ đích danh những người tham nhũng. Họ đã không thành công khi muốn bịt miệng bà.
Khi được hỏi sao bà quá tự tin để tố cáo họ, khi bà rời khỏi căn phòng này thì sao? Bà nói nếu chúng ta không ngưng họ ngay bây giờ, thì tổ quốc và tự do của chúng ta kể như hết, và họ sẽ giết hết chúng ta với chương trình của họ.
Vây Anthony Fauci, người đứng đầu nhóm người đặc biệt nghiên cứu coronavirus của TT Trump có liên quan đến việc che giấu này, không những thế ông là người hướng dẫn họ, và mọi người được trả bằng một số tiền rất lớn, cả triệu đô, được cung cấp bởi Tony Fauci và cơ quan của Dr. Fauci. Những nhân viên điều tra cho tới nay vẫn còn được trả tiền bởi NIAID [National Institute of Allergy and Infectious Diseases], và thế giới vẫn còn lắng nghe lời hướng dẫn của ông này về vấn đề đại dịch.
Được hỏi làm sao chúng ta biết học hỏi được gì từ Dr. Fauci? Bà nói, chỉ toàn là tuyên truyền thôi, sự tuyên truyền này đã giết chết hàng triệu người từ năm 1984. Chính Fauci nói, “Chúng ta biết từ nghiên cứu rất rõ ràng rằng, sẽ có sự trì hõan khá lớn nếu người nào đó không chịu uống thuốc này!”
Vụ này bắt đầu khi tôi mới 25 tuổi, tôi phải phân tích nước miếng và máu từ bệnh nhân SIDA từ bên Pháp. Lúc đó Luc Montagnier [Bác sỹ của viện Pasteur Pháp] đã thành công tìm ra con virus SIDA này, nhưng Tony Fauci và Robert Gallo đang tìm cách thay đổi chiều hướng của khám phá này sang hướng khác. Lúc đó Bác Sỹ Rossetti đi xa, bài viết đang được đăng và họ muốn một bản sao. Bà không chịu giao bản sao vì nó nằm trong chế độ mật.
Fauci la lên và đòi bà đưa bản sao ngay cho ông, nếu không, ông doạ sẽ đuổi bà vì không nghe lời. Bà mới trả lời, hãy đợi Bác Sỹ Rossetti về rồi ông nói chuyện với ổng. Bác Sỹ Rossetti trở về, nhưng vài tuần sau cũng bị áp lực để giao bàn sao cho Fauci.
Fauci giữ hồ sơ này không cho đăng báo trong vài tháng, trong khi Robert Gallo tự viết bài nghiên cứu (chắc sao bản báo cáo này) để làm của riêng. Cũng như làm bản chủ quyền. Vấn đề này đã làm chậm lại việc tuyên bố con virus SIDA làm rất cho dịch này lan tràn và giết hàng triệu người. Dĩ nhiên không ai đau khổ về bệnh SIDA hơn là nhà báo Larry Kramer ở New York. Anh ta rất hận chính phủ và những công ty làm thuốc. Người biết rõ vấn đề này hơn ai hết là Anthony Fauci.
Bà nói, tôi đâu bao giờ nghĩ những nghiên cứu của tôi năm 1999 làm họ tránh né. Họ đã tránh né từ năm 1982, 1983 khi tôi tìm ra con virus. Nhưng tại sao mãi đến năm 1984 họ mới xác nhận, họ đã làm bao nhiêu người bên Africa chết, nguyên thế hệ họ chết. có phải tại một nhóm người xem họ là trên hết gồm ngay cả Robert Redfield, người đang đứng đầu CDC, và cả Tony Fauci họ hợp tác để làm tiền, lấy tiếng, lấy bằng chủ quyền, và sửa đổi về cách chữa trị IL2. Đó là cách chữa trị sai lầm, nếu không có nó cả triệu người đâu có chết từ bệnh SIDA.
Được hỏi những người có quyền thế để khuyên thế giới cách chọn thuốc chữa dịch mà lại có bằng chủ quyền bán thuốc vaccine vậy có xung đột lợi ích không? (conflict of interest). Bà trả lời, “đương nhiên là xung đột lợi ích, và tôi muốn TT Trump cho gỡ bỏ luật Bayh-Dole Act. Luật này cho phép nhân viên chính phủ được có bằng sáng chế về khám phá của mình. Tức là vừa lãnh lương do dân đóng thuế, nhưng nếu sáng chế thì đưa vào tên mình.
Từ khi có luật đó năm 1980, nó đã tàn phá khoa học, và càng ngày càng có nhiều vấn đề xung đột lợi ích. Và đây là những tội ác khi để một người như Bill Gates với tài sản nhiều tỷ đô la, không có bằng bác sỹ, cũng không ai bầu hắn lên chức vụ nào, mà chúng ta để cho hắn có tiếng nói trong chính phủ, trong khi chúng ta giết đi hàng triệu sinh mạng.
Bill Gates nói: “Sự bình thường sẽ không bao giờ trở lại trừ khi chúng ta chích vaccine toàn cầu.”
Chuyện là nếu chúng ta vaccine dân chúng trên thế giới, ai đó sẽ kiếm được hàng trăm tỷ đô la bán vaccine. Và cơ nguy là họ cũng có thể giết cả triệu người như họ đã làm trong quá khứ với vaccines của họ. Bác sỹ Mykovitz nói rằng hiện giờ không có một vaccine nào chuẩn bị ra lò để trị RNA virus mà hiệu quả cả.
Bà nói bà không chống vaccine, vì vaccine là cách chữa dùng kháng thể như inteferon alpha. Công việc của tôi là phát triển cách chữa trị dùng kháng thể, và nó chính là vaccine. Khi được hỏi bà có nghĩ là con virus corona được tạo ra trong phòng thí nghiệm không? Bà trả lời, tôi không muốn dùng chữ “được tạo ra”, nhưng chúng ta không thể nói nó là từ thiên nhiên mà ra, nếu nó phải qua phòng thí nghiệm. Vì thế rất rõ ràng rằng con virus này được chế biến, dòng họ của con virus này cũng bị chế biến và học hỏi trong khi thú vật cũng được đưa vào đó. Và kết quả là những con virus này bị lọt ra ngoài, cố ý hay không. Những con virus này không phải từ thiên nhiên, nó không thể nhảy từ thú vật sang người ngoài chợ được.
Nếu con virus này xảy ra từ thiên nhiên, nó đòi hỏi 800 năm mới xảy ra được. Bà cũng cho biết con virus xảy ra từ hai nơi này: Giữa phòng thí nghiệm ở tiểu bang North Carolina, Fort Dietrich, USA thuộc viện Nghiên Cứu Bệnh Truyền Nhiễm và Phòng Thí Nghiệm Vũ Hán. $3.7 triệu đô la chuyển từ CDC ở Mỹ sang trợ giúp cho phòng thí nghiệm Vũ Hán, China, nơi mà bao nhiêu người nói rằng đó là chỗ con virus này phát xuất.
Chúng ta cũng biết rằng NIAID thuộc viện Y Tế Quốc Gia do Dr. Fauci trách nhiệm cũng đã từng làm thí nghiệm chung với phòng thí nghiệm Vũ Hán về Coronavirus. Nếu Bác Sỹ Fauci không thành thật với dân chúng về vấn đề có liên hệ với phòng thí nghiệm Vũ Hán, thì Dr. Fauci phải từ chức.
Bác Sỹ Mikovitz nói, năm 1999 bà làm việc ở Căn Cứ Quân Đội Fort Dietrich của Mỹ. Bà đã dạy về sự nhiễm trùng của Ebola vào tế bào của con người nhưng không làm chết họ. Ebola không thể tấn công tế bào của con người cho đến khi chúng ta mang chúng vào phòng thí nghiệm và dạy chúng. Chúng ta không thể bỏ qua số người bị chết quá nhiều tới báo động.
Chúng ta rất dễ dàng thấy rằng chính phủ đã nghe theo từng lời nói của Bác Sỹ Birx, và lối nhìn phóng khoáng về sự chết. Nếu giả dụ chồng tôi chết về bệnh phổi COPD, thì phổi anh ta cũng giống như phổi của bệnh nhân Covid-19, mà anh ta không bị nhiễm trùng, vì thế nếu bạn không đi thử và nếu bạn vào bệnh viện thì người ta sẽ nói bạn bị Covid-19, chúng ta nghe những điều này từ BS và Y tá bất mãn. Chúng ta thấy rất nhiều bác sỹ, y tá lên mạng làm những video về những cách thức bất nhất mà CDC bắt họ tuân theo.
Một bác sỹ nói rằng, mới đây ông nhận được một tập hồ sơ nói rằng, nếu ông có một bệnh nhân 86 tuổi, nếu bệnh nhân này bị sưng phổi (Pneumonia) nhưng chưa bao giờ thử Covid-19, nhưng người này tiếp xúc với một người con chưa có triệu chứng, nhung sau này khám ra bị covid-19, nếu bệnh nhân này chết thì sẽ ghi là chết vì Covid-19.
Một bác sỹ khác nói rằng, khi ông ta viết giấy chứng nhận tử vong, ông bị ép ghi là Covid-19, ông hỏi tại sao vậy? Ông nói, có phải họ muốn con số chết vì Covid-19 tăng lên không. Ông nói là chắc vậy. Tại sao họ muốn con số chết vì Covid-19 tăng lên?
Một bác sỹ nói, “fear is another way to control people.” Sợ hãi là một cách để điều khiển con người. Đôi khi con người không thể tự suy nghĩ được vì họ quá sợ.
 Tôi không muốn điều đó xảy ra cho con người, tôi muốn mọi người nói chúng ta sẽ vượt qua sự khó khăn này. Chúng ta phải dùng đầu óc của chúng ta, bằng cách tham khảo mọi nguồn tin, lắng nghe mọi người, và chúng ta tự quyết định. Dó là lối hành động của người Mỹ.
Dr. Mikovitz nói: “Chúng ta không chết với sự nhiễm trùng, nhưng chết từ sự nhiễm trùng. Người phỏng vấn BS Mykovitz nói rằng, “Tôi có nói chuyện với một bác sỹ, người đó nói rằng nếu họ ghi người chết là vì Covid-19 thì có thể quyền lợi họ sẽ cao hơn.”
Nếu một bệnh nhân là covid-19 bệnh viện sẽ được trả $13,000, và nếu bệnh nhân đó dùng máy trợ thở (ventilator), bệnh viện sẽ được Medicare trả $39,000. Bác Sỹ Mikovitz nói tiếp, “Và họ đã giết bệnh nhân vì dùng ventillator sai.”
Một bác sỹ khác nói: “Tất cả những việc làm này không đúng tí nào, bệnh nhân trước mặt tôi, phổi cũa họ tôi tìm cách làm tốt hơn, tôi thấy rằng chúng ta theo một phương pháp không đúng, và cách xử sự sai lầm này sẽ dẩn đến những thiệt hại kinh hoàng cho rất nhiều người trong một thời gian ngắn.”
Câu hỏi kế tiếp là nước Ý, tại sao nước Ý bị thiệt hại nặng vậy? Bác Sỹ Mikovitz nói, nước Ý có một dân số khá lớn tuổi, và họ bị bệnh nhiễm trùng vào đầu năm 2019 với một loại vaccine cho loại cúm chưa được thử, với 4 loại khác nhau gồm trong đó có loại H1N1.
Trong lúc quốc gia đang vật vã với coronavirus, một câu hỏi được dấy lên, chuyện gì đã xảy ra với thuốc Hydroxychloroquine, chúng ta biết rằng Hydroxychloroquine và Zinc rất hữu hiệu cho bệnh nhân, thì ngay lúc đó Dr. Fauci xuất hiện và nói rằng, họ đã nghiên cứu giữa thuốc này và một loại thuốc vô thưởng vô phạt (Placebo), không thấy rõ hiệu quả.
Một nghiên cứu gần đây của 2300 bác sỹ trên 30 quốc gia cho thấy hydroxychloroquine (HCQ) là loại thuốc hữu hiệu nhất để trị Covid-19.
Bác Sỹ Mikovitz nói: “The AMA nói rằng bác sỹ sẽ bị mất bằng nếu họ dùng HCQ, loại thuốc chống bệnh sốt rét, loại thuốc hiệu nghiệm đã xài khắp thế giới trên 70 năm.” Đây là câu trả lời của Dr. Fauci: “Những dữ kiện đó là dữ kiện truyền miệng [anecdotal data].”
Đây không thể nào là dữ kiện truyền miệng được nếu chúng ta có cả ngàn trang giấy dữ kiện về sự hữu hiệu đối với con virus này. Chỉ tốn 50 xu một liều thuốc, chúng ta có thể cứu chữa hàng ngàn bệnh nhân trong 7 ngày, hai cữ một ngày. Đây là loại thuốc rất tốt và rẻ nhưng họ không cho dân chúng xài, không những bây giờ mà trước đây bệnh tự kỷ (autism) cũng có thể chữa trị bằng loại thuốc chống virus cũ cả trăm năm có tên là Sermon nằm trong danh sách những loại thuốc cần thiết của cơ quan WHO, nó có thể giúp trẻ em hồi phục tốt. Nhưng họ đã lấy nó đi không cho dùng nữa, bây giờ cũng không thể tìm được.
Khi họ giấu một loại thuốc nào đó, không nhất thiết phải là từ WHO, mà còn FDA, CDC, Tony Fouci, họ đóng cửa tất cả.
Khi bà được hỏi, “Có công bằng mà nói rằng những loại thuốc chưa có bằng sáng chế thì họ không được lợi lộc gì cả không, như những loại thuốc dân gian có muôn đời?”, Bà trả lời: “Đúng thế, công bằng mà nói nó là như vậy thôi. Đó là những gì đang xảy ra.”
“Trong đại dịch Covid-19, chương trình hành động là không cho thuốc chữa trị cho đến khi tất cả mọi người đều bị nhiễm trùng, rồi đẩy ra loại vaccine cúm, loại này sẽ làm tăng lên cơ nguy nhiễm covid-19 36%, và dữ liệu này tôi lấy ra từ báo cáo của quân đội khi họ bắt mọi người chích vaccine cúm, sau đó họ lại dễ bị nhiễm coronavirus hơn.”
Lúc đó thì một bác sỹ khác nói: “Điều này thật vô lý, chúng ta mang mặt nạ trong trường hợp khẩn cấp nhất thời để tự bảo vệ, nhưng chúng ta lại không mang, sao vậy? Vì chúng ta hiểu vi khuẩn học, hiểu hệ thống miễn nhiễm và chúng ta muốn có một hệ thống miễn nhiễm tốt. Hệ thống miễn nhiễm gồm những việc sờ mó, chúng ta san sẻ lọai vi trùng Staphyloccocus, Jack Takako, những con vi khuẩn. chúng ta phát triển hệ thống miễn nhiễm qua những việc làm hàng ngày này, và khi cấm làm những việc này, hệ thống miễn nhiễm của chúng ta sẽ giảm xuống. Khi chúng ta bị cách ly với xã hội, hệ thống miễn nhiễm cũng giảm xuống. Và chúng ta cách ly càng lâu thì nó càng xuống. Ở nhà, chúng ta luôn luôn rửa tay, lau chùi bàn ghế, lo lắng những chuyện mà nhờ nó chúng ta được sống.”
Một bác sỹ khác nói thêm: “Bạn biết miễn nhiễm của bạn tốt và bạn không phải là người già cả, bạn có thể ra ngoài mà không cần mặt nạ, tôi không nghĩ mọi người phải mang mặt nạ, hoặc bao tay vì chúng giảm thiểu loại vi trùng chủ [bacteria flora], vi trùng chủ và một số virus tốt là bạn của cơ thể, để chống lại bệnh tật, bây giờ không có chúng, không ai giúp chúng ta cả, nên dễ nhiễm trùng hơn.”
“Và khi chúng ta ra khỏi thời gian bị cách ly với hệ thống miễn nhiễm yếu ớt và bắt đầu đối diện với virus nguy hiểm, chuyện gì sẽ xảy ra? Bệnh tật đương nhiên sẽ tăng lên.”
“Tôi bảo đảm, khi chúng ta mở cửa, sẽ có một số rất lớn người bị bệnh.” Nền móng căn bản của hệ thống miễn nhiễm là những con vi khuẩn và vi trùng. Vậy thôi.”
Bác sỹ Mikovitz nói: “Mang mặt nạ sẽ làm khuấy động những con virus tốt của chúng ta, chúng sẽ làm chúng ta bị bệnh.” bà cũng không phải là bác sỹ sinh học đầu tiên nói ngược lại những gì đáng làm để chặn vi trùng và tạo miễn nhiễm. Tại sao chúng ta lại đóng cửa bãi biển, nơi này là môi trường tốt cho cơ thể, có những yếu tố hàn gắn làm cơ thể lành mạnh trong muối biển. Thật là khùng.
Những nhà máy lớn làm ô nhiễm môi trường và cơ thể chúng ta, có lúc chúng phải tự chiến đấu, nhưng chúng đã tìm cách khuynh đảo dân chúng, làm cho dân chống lại dân. Rốt cuộc không còn tiếng nói đấu tranh nữa trong một xã hội tự do này, một điều mà chúng ta không nghĩ là sẽ thấy trong cuộc đời này.
Tôi không ngờ những tuyên truyền từ năm 2011 đến nay mà tôi trải qua, quá mức hiểu biết của tôi, là sao xã hội có thể ngờ nghệt để cho những tuyên truyền này chia rẽ chúng ta, ghét nhau. Hy vọng sau vụ này người Mỹ sẽ tỉnh giấc và chúng ta sẽ thắng nếu không nó sẽ dùng chương trình này với những tin tức này và đối với tôi nó là một tin tốt vì các bác sỹ đã thức tỉnh, và họ sẽ nói rằng: “Chính ông đó, ông bác sỹ, tại sao ông không lên tiếng, tôi ngồi đây và lên tiếng để bảo vệ ông, tôi lên tiếng để bảo vệ tự do của tôi, tự do của gia đình tôi. và quyền của bệnh nhân được có sự lựa chọn cho cuộc sống của họ. Tôi không hiểu sao lại không có nhiều bác sỹ như tôi nói về vấn đề này. Chúng ta nên đoàn kết lại với nhau, vì sự tự do của quý vị dã từ từ mất đi, vì những tin tức giả tạo. Quá sai, đáng lẽ họ phải vào tù mới đúng.”
Bác sỹ Mikovitz nói: “Không phải khoa học gia không thành thực, họ lắng nghe những người mà trong 40 năm qua đã kiểm soát ai được cung cấp tiền, ai được cho phép đăng bài, và tôi rất tiết là rất nhiều người đã lấy tiếng tăm , lấy tiền, mà ủng hộ những điều không đúng sự thật.”
Hỏi: “Bà nghĩ sao về những nhân viên y tế mới vào nghề và nhận ra rằng họ đã bị đưa đi con đường sai.” Bà nói,”hãy tự tha thứ mình đi, một điều rất khó khăn là nhận diện chúng ta học hỏi và cố đi đúng đường, và những dữ liệu cung cấp cho chúng ta cứ tưởng là đúng, nhưng lại sai, và khác hẳn với những gì chúng ta đã học. Và chúng ta không theo, sẽ không được cung cấp tiền, sẽ không cho đăng bài, đó là một hình phạt cho tôi, và nữa là khi báo chí khoa học đã thay đổi những khám phá để chữa bệnh …”
Một diễn giả lúc đó xuất hiện trên màn hình và hỏi: “Cộng đồng khoa học có can đảm trả lời câu hỏi là phải quý vị đã tạo ra căn bệnh này không?”
Từ khi tôi ra khỏi nhà tù, tôi đã thành lập một cơ quan giáo dục để cảnh tỉnh những bác sỹ, điều này thật sự không dễ dàng, Nhưng những bác sỹ đã nhận ra họ là phần tử tạo ra trở ngại, họ đã quay đầu và tiến đến một xã hội tốt đẹp hơn, và đưa lại sự tin tưởng, hứa hẹn của ngành y tế. Đó là những gì chúng ta có thể làm.
Người phỏng vấn: “Vâng, Bác Sỹ Mikovitz, tôi cảm ơn bà rất nhiều đã cho chúng tôi thời gian, và cũng rất hân hạnh được tiếp chuyện với bà, và tôi cũng biết ơn sự can đảm của bà.”
Ở cuối video, xuất hiện Bác Sỹ Anthony Fauci với giọng nói: “Với ý tưởng là chỉ còn một số ngày nữa sẽ có một chính quyền mới, và tôi cũng được giới thiệu là đã làm ở vị trì này rất lâu, và làm việc với năm đời tổng thống. Tôi muốn dùng nó như một lối nhìn của tôi về vấn đề chuẩn bị cho đại dịch và tôi muốn gởi đến quý vị một lời nhắn tin sau đây là CHẮC CHẮN SẼ XẢY RA MỘT DỊCH LAN TRÀN BẤT NGỜ [surprise outbreak]. Vấn đề chúng ta tin tưởng là chúng ta sẽ thấy nó trong một hai năm nữa.
Tôi xin tạm ngừng ở đây, vì thấy tạm đủ để chúng ta thấy một thế lực kinh hoàng chi phối đời sống chúng ta trong bóng đêm mà chúng ta không hay biết. Mạng sống chúng ta thuộc về họ. Cả chính Tổng Thống cũng phải khó khăn khi đối diện với họ.
Nhưng sau vụ đại dịch này TT Trump đã thấy rõ mưu đồ kinh hoàng của FDA và CDC, ngay cả Bill Gates cũng muốn ăn có trong vấn đề vaccine này.
Hy vọng TT Trump thay đổi luật lệ, nhất là Bayh-Dole Act, lấy bớt đi quyền hạn của những cơ quan này.
Huong Nguyen

CHOLESTEROL

BS: HỒ NGỌC MINH

Tôi đã viết nhiều về liên hệ giữa cholesterol và bệnh tim mạch, và cũng viết về triệu chứng của bệnh mất trí nhớ. Tuy nhiên, tôi chưa trình bày mối về liên hệ giữa cholesterol và bệnh mất trí nhớ. Một mối liên hệ nghịch:
– cholesterol càng cao thì nguy cơ bị mất trí nhớ… càng thấp!

Hồi nhỏ, thỉnh thoảng, mẹ tôi có mua não bò, đem chưng cách thủy, để ăn với muối tiêu và rau răm. Ăn thì ăn, nhưng tôi thấy nghẹn cổ họng vì nó quá béo, ngầy ngậy. Não người cũng thế, tuy nhỏ, chỉ chiếm 2% sức nặng của cơ thể, nhưng nó chứa 25% tổng số cholesterol trong người.

Gần đây, rất nhiều bệnh tật, khiếm khuyết của não bộ, thí dụ-bệnh mất trí nhớ- bệnh run Parkinson…
nguy cơ tăng cao vì thiếu cholesterol.

Trên thực tế, người trên 70 tuổi
– cholesterol càng cao, càng sống lâu, càng ít bị truỵ tim và càng minh mẫn hơn.

Các tế bào thần kinh, cũng như các tế bào khác trong cơ thể
– cần cholesterol làm nguyên liệu cấu trúc cho màng tế bào. – Những vỏ bọc tế bào thần kinh, neuron, cũng được cấu tạo từ cholesterol- và những “mạch điện” thần kinh liên lạc với nhau, truyền tín hiệu cũng nhờ vào cholesterol.
Không có cholesterol thì những mạng thần kinh nầy sẽ bị “chạm điện” và bị “mát dây”.

Ở đây, xin nói thêm về cholesterol một chút.
Chúng ta thường lầm tưởng là có hai loại choleterol, LDL là loại xấu và HDL là loại tốt. Thực ra chỉ có một loại cholesterol duy nhất là… cholesterol!

– HDL (high-density lipoprotein) chỉ là tên gọi của chất protein chuyên chở cholesterol mà thôi. Người ta cho rằng HDL là loại tốt vì nó chở cholesterol dư thừa về trở lại trong lá gan, như thế là làm sạch mạch máu. Gần đây những nghiên cứu mới cho biết, HDL cũng không hẳn là tốt: người có HDL cao vẫn bị bệnh tim, như thường.

– LDL (low-density lipoprotein) là loại xấu vì nó chở cholesterol ra làm dơ mạch máu.
Thật ra LDL có nhiều kích thước khác nhau, và trước LDL còn có những “xe chuyên chở” khác nữa như VLDL (very low density, loại nhẹ) và IDL (intermediate density, loại trung bình). Để dễ hiểu, mạch máu của bạn là một xa lộ.
– HDL là những xe tải 18 bánh chở cholesterol dư thừa đi ngược chiều về là gan.
– Còn các loại xe khác, to nhỏ như xe đạp, xe gắn máy, xe ba bánh, xe bốn bánh, xe thồ, xe lam… chở cholesterol, tiếp liệu ra… mặt trận.

Như thế, một khi tuyến đường bị nghẽn, không phải là vì cholesterol mà vì đường xá bị hư hại, bị “ổ gà”, bị bom mìn khủng bố chẳng hạn.
– NHỮNG XE NHỎ VLDL, IDL, LDL thường dễ bị sụp hố và làm nghẽn đường mạch máu.
– Trong trường hợp bị gãy cầu xa lộ thì XE 18 BÁNH HDL cũng gây ra tai nạn, như chơi.

Tháng 2 năm 2012, chính cơ quan FDA công nhận rằng:
– thuốc giảm cholesterol statins có thể làm tăng nguy cơ bị lú lẫn và mất trí nhớ.
Đồng thời một nghiên cứu trong Tháng Giêng năm 2012, cho thấy:
– phụ nữ dùng statins có nguy cơ bị bệnh tiểu đường tăng 42%.
– Người bị bệnh tiểu đường, lại có nguy cơ bị bệnh mất trí nhớ tăng gần gấp 3 lần.
– Khi đường thặng dư trong máu sẽ gây ra hiệu ứng “làm mứt” hay “thắng đường, rim tôm”, những phân tử cholesterol, làm cho DÍNH CHÙM với nhau và DÍNH VÀO CÁC CHỖ LỠ LOÉT trong mạch máu.

Tương tự như mạch máu tim, não bộ đã thiếu cholesterol lại còn bị nghẽn mạch máu não, sẽ đưa đến tình trạnh hao mòn sớm, gây ra các chứng bệnh về hệ thần kinh.

Khoảng thập niên 1970, lượng cholesterol 240 mg/dL được xem là bình thường. Sau khi thuốc statins ra đời
– mức độ ấy giảm xuống còn 200mg/dL, với LDL dưới 130 mg/dL.

Nếu bạn có người thân trong gia đình bị truỵ tim, nhiều bác sĩ sẽ bắt bạn uống statins:
– để giảm chỉ số ấy xuống dưới 180mg/DL
– và LDL phải dưới 70 mg/dL!

– Từ khi thuốc statins ra đời đến nay, chỉ số bị TRỤY TIM cho những người dùng thuốc, giảm từ 3% XUỐNG còn 2%,
– Trong khi tỉ số bị bệnh MẤT TRÍ NHỚ TĂNG gần gấp ba.

Sẵn đang nói về xe và xa lộ, dường như cách chữa bệnh:
– xe nhả ra khói (cholesterol cao) hiện nay là bằng cách, bịt ống khói hoặc là huỷ bớt một, hai xy-lanh (uống statins kinh niên) để cho xe chạy bớt ra khói
thay vì làm sạch đường ống dẫn xăng và thay xăng dầu:
– thể dục thể thao
– cải thiện thức ăn
– bớt đường
– và tinh bột

HỒ NGỌC MINH, M.D.

BA DÒNG NƯỚC MẮT

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận được thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố.

Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31.

Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:

“Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với
mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chữa trị những vết thương khó lành được trong lòng.

Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt”.

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình.

Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa.

Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng?

Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.

Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện.

Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung Đại Đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao.

Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè.

Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân.

Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài Gòn, trong lúc kinh kế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính.

Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm.

Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui.

Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài Gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó.

Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho quân đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt.

Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch.

Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang.

Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.

Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động.

Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà.

Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận.

Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế.

Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị.

Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc.

Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.

Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hòa, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói.

Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm.

Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, Phi Đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ.

Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu.

Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành.

Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu: Cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.

Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate.

Khách khứa lên đến trăm người. Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.

Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển.

Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không”, đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hòa.

Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học.

Mỵ Khê, bà xã của Bình, cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hòa lẫn tiếng khóc của trẻ thơ.

Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần.

Biên Hòa bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo.

Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khóa, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29/4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng.
Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển.

Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường.

Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài Gòn để kịp đưa vợ con đi.

Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là Vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam.

Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.

Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày, thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.

Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình.

Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn.

Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em.

Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả.

Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng.

Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên.

Trong trại tị nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên.

Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina, lúc 9 giờ rưỡi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ.

Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để đối phó với những điều bất trắc.

Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khóa chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box.

Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép.

Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng.
Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.

– Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.

– Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trước khi gặp vợ chồng Bình.

Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á Châu.

– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quầy mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự:

– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình, sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè. Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quẩn.

Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì bác mà gây nên cớ sự.

Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào.

Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó.

Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết.

Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.

Tôi đưa tay xin ngưng lời bác:

– Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác?

– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii.

Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn.

Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè.

Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.

– Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác?

– Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư.

Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó.

Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.

Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.

Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó.

Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi.

Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm.

Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự:

– Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này.

Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người.

Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.

Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng. Mong nó trở về đây.

Cháu Lina, con gái của tao, cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống.

– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao?

– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.

– Bây giờ mày tính sao? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày?

– Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.

– Còn mày thì sao?

– Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Na Uy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu
không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.

Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những giông tố trong đời.

Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má.

Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ ‘hello’, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.

Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì.

Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, Chủ Nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo.
Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu dây giọng nói quen thuộc của thằng Định:

– Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.

Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình:

– Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây.

Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận.

Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của người cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu.

Bác sĩ bên này giỏi thật. Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều
thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà:

– Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào:

– Hello, Ninh! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ.

Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.

Phạm Tín An Ninh

Hồi Ký “Dang Dở

của cựu Đ/tá Dương Hiếu Nghĩa …

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang “Hồi Ký Dang Dở” ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy.

Dương Hiếu Nghĩa

Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình, tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp “may” ở lại để chứng kiến tận mắt những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, tự xưng là để “giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam “; của những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho “tạm mang dép râu, đội nón cối” (mà không biết!). Ở lại để chứng kiến những con “cọp 30”, những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!
Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam để giành lấy cho đảng cái chánh nghĩa “giải phóng dân tộc”.

Cho đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng, thù ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà con không ai ngờ là” cùng là người Việt Nam với nhau ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được. “
Do đó những gì chúng tôi kể lại đây không hẳn là những trang “hồi ký” của riêng cá nhân mình mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng, những sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe…, để tạm gọi là “luận cổ” (nói về chuyện xưa), để những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng ta có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam,mà “suy kim” (suy biết được cái hiện tại). tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai.

Người dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là “ngày quốc hận” vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và củaThế Giới Tự Do nói riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Ba Lê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước.

…………………

Ngày 1 tháng 2 năm 1973

Tôi và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành lập theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng giêng 1973 tại Ba Lê.

Từ hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán, sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất cứ điều khoản nào mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh, một bản dịch “thật sát nghĩa” từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc!

Đúng vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và chúng tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.

Tôi muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của chúng ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt ngay từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên ở Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một danh từ thật kêu là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

………………..

Ngày 28 tháng 4/1975: 8 giờ sáng,

Đại tá Ngyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại trực tiếp cho tôi nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng 4/75.(một bộ hạ thân tín của tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt. ) Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là CSBV và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng đại tá Đài cho tôi biết là “ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng”. Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình và cuối cùng phái đoàn của Tổng Thống Minh “được đồng ý cho vào trại Davis gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTMN” (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại).

(Xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn Văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là “Sĩ Kiến, Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị đối nghịch nhau tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh thì anh Sĩ lại được tướng Tràn văn Trà cho làm đại diện cho Cộng sản để “mật đàm với đại tá Nghĩa” nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải “đi một xuồng” với tướng Trà).

Phái đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết vì anh không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn ngoài câu “như đã thỏa thuận với anh hồi nãy”, tức phải được hiểu ngầm là “chỉ có viếng thăm xã giao mà không có bàn đến các vấn đề gì khác”

Tò mò hơn, qua điện thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi được biết là Ông Dương Văn Minh đã “mò” lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.

(Dương Văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý Cáp với gia đình tướng Minh từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản.)

Vẫn theo lời anh Đẩu thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là “chỉ còn một cách duy nhất là “đầu hàng vô điều kiện” mà thôi.

4 giờ chiều :

Tôi muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ tư dinh của ông ngay trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.

Anh còn ở đây chưa đi đâu sao anh Nghĩa?
Thưa thiếu tướng chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh em quân nhân của Ban Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai 29 thưa thiếu tướng.
Gia đình anh đi chưa?

Thưa thiếu tướng đã đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn ở đây?
Tôi và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên) cho phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau.
Nói đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp:
Phải đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về đây. Theo lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết rồi không còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!…, Ông Minh đã nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm gì nữa anh Nghĩa?
Nói tới đây ông sụt sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua điện thoại. Tôi nghĩ có lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời ngang dọc của ông coi như bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn chánh trị.. . . và xúc động thấy mình sắp phải rời khỏi quê hương.
Không thấy tôi nói gì nữa ông nói tiếp:

Vậy tôi đi hôm nay nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp nữa đó. Anh Tiên chắc cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân nữa, chắc phải đưa tất cả phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe, chúc anh may mắn
Xin chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an.
Cám ơn anh.
Một lúc sau đó anh Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia đình ông Kỳ vừa bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi đã nói gì với ông Kỳ làm cho ông khóc vậy? Tôi đáp :
Có lẽ ông cảm động trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của ông Minh Dương chớ tôi thì không có nói gì cả. ?
Từ sáng sớm hôm nay, căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân Sơn Nhất tất cả phi cơ các loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng các loại, tất cả nhân viên phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau về hết ở đây cho đến gần 7 giờ chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình hay thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng toàn bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả Vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà thôi.
6 giờ chiều

Chúng tôi vào D.A.O. đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ quan /Ban Liên Hợp Quân sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8).

Chờ cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp, vẫn phải trực như mọi người và mọi đơn vị.

10 giờ đêm:

Từ 10 giờ đêm, Bắc Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay ban chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều chỉnh vào khu vực sân bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu dân cư ở xóm Trương minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay. Nhưng từ 10 giờ đêm trở đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích kích pháo 82 ly và hỏa tiễn đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và các kho bom đạn cũng như Bộ chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng tôi cũng được hưởng mấy trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà bị cháy và gây tử thương vài binh sĩ, làm bị thương một số khác

Chúng tôi và đại tá Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng trước văn phòng nằm tránh đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng tôi chừng 15 thước bị một mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa. Từ đó, Bắc Việt pháo kích từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ loại, không ngừng cho đến sáng hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay tiềm kích nào cất cánh lên được suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có tiếng súng phản pháo nào.

Riêng trại Davis của hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng 100 thước, thì không bị một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền sát viên Bắc Việt giúp điều chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì trong 2 năm ở đây họ đã nắm rõ từng vị trí trong sân bay nầy rồi!

Ngày 29 tháng 4:
9 giờ sáng:

Chúng tôi qua Phòng họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo, từ đó mới xử dụng được đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt hại vật chất và nhân mạng đêm qua..

Đến 9 giờ sáng thì có một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống ngay trước phòng họp để bốc chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không chịu đi. Và tôi cho trực thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng bắn, người Nam Dương.

Tôi vẫn còn nhớ ơn đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo của phái đoàn Nam Dương nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ trận liệt ghi rõ tiến trình xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn chánh quy bộ binh Bắc Việt và các sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh nặng, vừa được cập nhật vào đầu tháng giêng năm 1975.

– lần đầu ngày 3 tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho Tổng Thống Thiệu ngày 4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo đúng tin tức tình báo mà phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất đầy đù, (nhưng sau đó tôi đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông bảo tôi phải mang sang cho Trung tướng Đặng văn Quang)

– lần thứ hai ngày 1 tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù của cộng sản là Ban Mê Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu và thời điểm tấn công của Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75. Tôi cũng đã mang tay bản đồ và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu, nhưng lần nầy thì ông bảo tôi mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng.. Tôi đã y lệnh thi hành. Dĩ nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội và Tổng Tham Mưu Trưởng hai ông đã có quyết định kịp thời về một “đường lối hành động” nào hay không. .

10 giờ sáng:

Tôi liên lạc với Đại tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân nhân các cấp, khoảng 30 người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy có các Đại tá Chuân, đại tá Đóa,v.v. thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số anh em sĩ quan và nhân viên còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng sẽ xuống luôn bến Bạch Đằng khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản thương xong cho một số anh em quân nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị thương đêm qua.

11 giờ 30 sáng:

Chúng tôi nghe thấy có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng cất cánh khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep mui trần có gắn liên thanh 12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm ngay giữa các phi đạo bắn lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất cánh rời khòi phi trường. (sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh nầy, mang súng lục đang đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra đây là một tên cộng sản nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis trong công tác ngăn chận không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng 4.)

Chúng tôi lên xe đi xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng lúc vừa đi ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại sao thình lình tôi lái xe Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu. Hai xe jeep và 2 xe 4/4 trong đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng theo xe của tôi.

Đến ngay Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội trường của Bộ Chỉ Huy nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không còn biết ất giáp trời trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ quan theo tôi từ Tân Sơn Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại tá Lộc, pháo binh thuộc Ban Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh, trung tá Hoàng chánh văn phòng v.v.) đều theo tôi vào hết trong hội trường vắng trống nầy.

Đến 4 giờ chiều, thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới tàu của Hải Quân nên lên tiếng hỏi:

Tàu của chúng ta đã chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?

Chạy đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung tá Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời.
Tôi bàng hoàng đứng ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ Tổng Tham Mưu. Bèn ra lệnh:
Anh em lên xe ngay đi để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt chắc chắn còn đợi tôi.
Không kịp nữa rồi ông ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không cho ai ra vô gì nữa hết, chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được.
Vậy là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè!
Trung tá Hoàng cố gọi chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . .
Thế là số mạng bắt ta phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy khi sực nhớ lại không biết vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch Đằng để xuống tàu. Về sau nầy tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ tôi không chịu nhổ neo tách bến nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng xuống tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa )

7 giờ chiều

Trung tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá nhân tôi và đại tá Nhận lên văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới biết được là ở Bộ Tổng Tham Mưu hiện giờ không cón Tham mưu Trưởng, không còn một số trưởng phòng quan trọng nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều đã tìm phương tiện di tản hết rồi, chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi. Không cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy được tình hình chung như thế nào rồi.

Đại tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất trong hiện tại, vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng Tham Mưu để tìm phương tiện di tản.

8 giờ 30 tối:

Các trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống D.A. O. (Phòng Tùy viên Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu để bốc người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa Kỳ. Không có một tiếng súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt từ dưới đất bắn lên, điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một mật ước nào đó rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ.

Có tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay ngang qua không phận Bộ Tổng Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp trực thăng bên D.A.O. ngay phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của Ban Liên Hợp (đang ở đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng và đã vượt rào kẽm gai của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O. (khoản 40 thước đường) trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ quan cấp úy khác. Riêng tôi thì không thích “chui rào” như họ, (có lẽ vì tự ái cá nhân hay vì số mạng không biết )

Ngày 30 tháng 4:
6 giờ sáng:

Do đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử Nam Anh và một số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực thăng Mỹ di tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham Mưu.

7 giờ sáng:

Nhân lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng tôi tháp tùng theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi đây được nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.

Ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là “đường ai nấy đi” vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số phận của Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi!

Tôi lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần áo và nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và chánh trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây gờ chỉ còn xem con đường nào thuận tiện nhứt để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng tàu thì hoặc phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu hay Gò Công? Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một vòng xem sao rồi mới quuyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng em họ kêu cho hay là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham Mưu trưởng..

11 giờ trưa

Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam “đơn phương ngừng bắn vô điều kiện”, một cách chơi chữ để nói lên một sự “đầu hàng Cộng sản Bắc Việt không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc Việt đã trao cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát thanh Sài Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu và kêu gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống!

Lắng tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và tướng Hạnh tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút bỏ bộ quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong mượn chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi thế là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng quá nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn là không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là cộng sản Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có giải pháp chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì đâu có chuyện anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa đi vừa suy nghĩ mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu lúc nào không hay. Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường Trương minh Giảng xuống Sài Gòn.

Lúc nầy đã quá 1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà đóng kín cửa. ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác từng biệt thự do người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân quá sợ cộng sản đã bỏ đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại quốc.

Tuy không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn còn lác đác một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ hướng trại Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp Quân sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của anh em “Biệt kích 81 Dù” đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng Cha Cả lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc tăng T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ mặc dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay.

Đường Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng người, không một chiếc xe nào chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài đường, gần cầu, hình như của bọn đặc công Bắc Việt.

Khắp các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và cả Gia Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống đạn dược đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn ngang từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống rãnh.. có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu hàng của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên đài phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người chạy long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi trần truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề tục tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan tâm khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản!

Bến Bạch Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá đông đang còn lóng nhóng chờ… tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc chắn không còn chiếc nào.

Tôi vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh sát dã chiến ở chốt đầu cầu đã được lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không cho một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến ngăn chận, như thế có nghĩa là từ 6 giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con đường ra khỏi Đô thành, khó mà dùng đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn cộng sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ đô nầy rồi.

Như thế là coi như tôi không còn khả năng và phương tiện nào thoát ra khỏi thủ đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ, đường thủy và đường bay. Thôi thì đành phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế tôi quay xe trở về Bàn Cờ.

Trên đường về, đột nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ Sài Gòn. Quá tò mò tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng chiến xa chạy rầm rập ở hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã xảy ra rồi, nhưng quá đau lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem, tôi vội chạy về Bàn Cờ ngay.

6 giờ chiều:

Tôi có ý định lên Hạnh thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp của mình. Nhưng khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một cảnh tượng quá đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh binh dìu nhau đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5 giờ chiều nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt vào hàng “chiến lợi phẩm chiến tranh”. Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất cả đều phải ra khỏi bệnh viện, và “ngay tức khắc” không được chậm trễ, không được mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ Ngụy, không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình.

Tất cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y tá, trợ tá xã hội, lao công dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại, không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ hay chưa? lành hay chưa lành? v.v. Thật quá khủng khiếp cho những anh em thương binh vừa được chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được mổ mà chưa khâu xong vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương lang thang xuất viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình có đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận.

Đây là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng, giữa Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau. Ngay như trong cả 2 thế chiến, người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và nhẫn tâm vô nhân đạo như thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng?

Để giúp cho những người khốn khổ nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh chùa Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu gọi được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô máy, xích lô đạp.. đưa giùm một số thương bịnh binh nặng, đang trong tình trạng giải phẫu dở dang.. đến các bệnh viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ Rẫy, Grall và một số bệnh viện tư của người Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện tư nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn văn Tạo, Nguyễn duy Tài ở đường Pasteur.. để nhờ tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho họ về với gia đình..

Giờ nầy thật tình thời gian đã trôi qua quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử hỏi dân chúng Miền Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai biết đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm nhất của anh em quân nhân chúng tôi, nhất là những anh em thương bịnh binh thuộc QLVNCH đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay một cách vô nhân đạo ra khỏi bàn mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của Cục Quân Y của Quân Đội Nhân Dân BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi là ngày chiến thắng của họ trong chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên gọi là chiến dịch Hồ chí Minh!!!

Đêm nay về Bàn Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi trước một bữa cơm ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ được chỉ mong cho trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh “đổi đời”! Ước gì cảnh đó phải hoàn toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều hôm qua ở Gò Vấp!

Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975

Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ “Văn Hóa đồi trụy” :

Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là “ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy” ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con “cọp 30”), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban.

“Văn hóa đồi trụy” được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).

Mục tiêu mà các “ông cọp 30” nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc gia (national library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ Thuật, Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v… mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị “cọp 30” xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ Encyclopedia lên xem mà ứa nước mắt… nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một “cọp 3O” khoảng 16 tuổi tới đuổi:

“Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì Ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!!”
Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!!
(Về sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm “mặt bằng” cho mướn làm tiệc cưới và tiệc “liên hoan” của cán bộ công nhân viên các cấp).

Mục tiêu kế tiếp của bọn “cọp 30” là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn… sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt, bỏ… nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy “ông cọp 30 trẻ” nầy.

Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại “nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy).

Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay vì đẩy Miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau… nhằm đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa đúng theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối thập niên 80, lúc tôi ra khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh nhờ chạy theo phong trào “đổi mới” của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng đó mới thấy được là đảng cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi lùi vào thời kỳ đồ đá… từ sau ngày cướp được chánh quyền mùa thu năm 1945 và nhất là để mất đi một cơ hội và một thời gian quá dài từ sau ngày nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam 30 tháng 4 1975.)

Ngày 4 tháng 5

Tôi đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về Sài Gòn qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được biết là người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành động phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn thân, trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rễ của Ngô công Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới được biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào tiếp thu Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên văn lời của ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau :

“Sau khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo suy đoán của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng quân sự cuối cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn vào sân thượng hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng sự viên thân tín nhứt trong Chánh Phủ của ông. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp.

-“Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông”

Sĩ quan nầy dùng danh từ “mầy tao” xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:

– “Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có “quyền” nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây.Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!

Mặt tướng Minh co dúm lại. ông chợt hiểu là ông không gặp được những người của MTGPMN mà là những người cộng sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe. Không phải là những người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất trận!

Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn ông nói tiếp:

– “Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua…

Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng:

– “Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao, một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn”

Sau đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng trưởng hiện diện vào một gian phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận và không khoan nhượng trước sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm vụ quay phim, chụp ảnh lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy.

Sau đó ông Minh bị “bộ đội” bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Ông được đưa đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,…

Đến 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng hầm. “

Cũng vẫn theo lời của anh bạn tôi:

– Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại dinh Độc Lập ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh, cùng với nội các của ông Vũ Văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xưng là thành phần thứ ba (như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v…). Khi ông Minh được đưa trở về đến Dinh Độc Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu “bất hủ” với sĩ quan chỉ huy Bắc Việt rằng:

-“Tôi còn ở đây chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng”.

Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc:

-“Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!”.

Và ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ngay chiều ngày 30/4/1975, trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện Bắc Việt, để chỉ dẫn họ cách thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng nầy. Sau đó ông Hảo vẫn bị đưa về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác”.

………………

Ở nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một cảnh “ngu dốt” của một toán bộ đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu đáng thương hại của người dân Miền Bắc nói chung:

Trong lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng khách trò chuyện thì có một toán chừng 6 anh “bộ đội” ập vào nhà “khám xét”.

Người chỉ huy cầm trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức :

Cái “đài” nầy là của anh?
Phải, của tôi
Anh làm “chức vụ” gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái “đài” nầy? anh dùng cái đài nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải bắt anh ngay về cơ quan để “làm việc”, mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc đó anh Đức ở trần)
Xin lỗi anh tôi không đi đâu hết, cái nầy là cái điện thoại chớ không phải cái đài.
Đồ ngoan cố, cái nầy là cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà anh có một cái điện đài mà không chịu đi khai báo.. . .
.. . . . . . .
Tôi rời khỏi nhà anh Đức trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội nghiệp cho cái anh chàng phản chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với thực tế có lẽ anh mới sáng mắt thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và mức độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào đối với dân chúng..! Tội nghiệp cho cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng thật quá tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng sắp tới… có lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt của kẻ xăm lăng thống trị, đến từ Miền Bắc…

Ngày 5 tháng 5/75

Tôi quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm trú và tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi “học tập”. Ở đây có lẽ yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ tôi), dù sao ở ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở tỉnh, như một số tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay tỉnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị họ kết án là “có tội với nhân dân” mà không thông qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu…Riêng anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.)
Sáng nay tôi phải lên thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì tại một ngôi chùa ở Hạnh Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công tác hậu sự cho quân nhân các cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo chăm nom săn sóc nơi an nghỉ cuối cùng của anh em quân nhân chúng tôi là “nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây” nằm ở đối diện không xa với chùa nầy.

Đưa tôi vào chánh điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ còn có hai chúng tôi thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp úng nói không thành lời. Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ cho tôi nghe là không phải ông khóc vì chuyện “mất nước”, nhưng khóc vì động lòng từ bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm săn sóc đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày mồng 3 tháng 5 vừa qua.

Mặc cho sự van xin cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng tọa) họ vẫn san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi mộ cuối cùng…… Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc:

” Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà trồng trọt để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy mà làm nghĩa địa thì phí của trời quá… độc ác với nhân dân quá!”
Thật tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình, nhìn sự việc qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy phải xuất phát từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng sản Miền Bắc, đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.! Dù họ là người Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày hôm nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo đúng lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều khiển họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy.
Ông bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho những lời “tố cộng” của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là những chuyện “đặt điều” cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán chính Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi, rồi đây có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản nầy. Nhưng từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ phải chịu nhiều cảnh thương đau cùng cực nữa… trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ.

Tôi mời ông thiếu tá tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa để xem thử là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã nhận được thì hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3 tháng 5.

Có đi đến nơi chúng tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm! Trước hết là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài “Thương Tiếc”, một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ đường ở mặt tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn, và ủi sạch không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến thành bình địa!

Trên đường về Hạnh Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một lời nào, tôi tin chắc là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác hẳn với cảm nghĩ của một chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước khi giã từ, tôi cũng nói rõ cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của tôi:

– Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã man nầy thật không đúng là hành động của bất cứ người Việt nào nhất là ở Miền Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo đạo lý và truyền thống của dân tộc Việt, người Việt Nam chúng ta ai cũng biết là “nghĩa tử là nghĩa tận” hay “chết là hết”. Dù giữa cá nhân anh và tôi có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay tôi có người đã nằm xuống rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn, không ai còn muốn nhắc đến nữa. Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc QLVNCH có nghĩa là gì đây? Nếu không muốn nói trước hết là nhằm “trả thù cho quân đội và nhân dân Miền Bắc”? sau đó lại “xóa sạch được vết tích của QLVNCH, người đã chết xóa trước, người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn bộ lịch sữ trong tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu tranh dai dẵng của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn chận làn sóng xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải xóa bỏ ? Tôi nghĩ chỉ có như vậy họ mới đang tâm có những hành động phi nhân đạo nầy. Và chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều phải chịu chung một số phận.Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận của chúng tôi… những chiến binh còn sống sót.

Nhưng ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá nhân tôi thì ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!!

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang “Hồi Ký Dang Dở” ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy.

Dương Hiếu Nghĩa

Truyện ngắn: ĐỨA CON TỪ “LÁN” TÙ

ĐIỆP MỸ LINH

Cho phi cơ lượn vài vòng trên không trung, Dinh cảm thấy vui hẳn lên với cảm giác được hoàn toàn tự do. Nhìn xuống, thấy đồng ruộng xanh ngát, tự dưng một giòng nhạc khởi lên trong lòng, Dinh hát theo điệu Valse Lente: 
“Làng tôi yêu mến có lũy tre đầm ấm,
khoát bóng lên lều tranh…
Tình quê hương ấy mỗi lúc sương chiều rơi,
quyến luyến dâng đầy vơi tâm hồn tôi.” (1) 
Lời ca khiến Dinh nhớ những chiều theo đoàn tù trở về trại, nhìn về phương Nam, Dinh cũng “ngân nga” những câu hát này cho vơi bớt nỗi niềm. Đang hát, Dinh chợt giật mình, vì chàng là sĩ quan Nhảy Dù chứ không phải sĩ quan Không Quân – thế mà tại sao chàng có thể lái máy bay? Vừa khi đó, nhận ra kim chỉ nhiên liệu xuống đến chữ E, Dinh vội vàng cho phi cơ đáp khẩn cấp.
Trời tối dần. Nhiều người tò mò kéo đến. Dinh cho nhóm người biết rằng phi cơ hết xăng, Dinh cần mua xăng. Nhóm người này bảo: Ở đây xăng chỉ dùng cho công xa chuyển vũ khí đi “B”. Thấy quân phục của Dinh nhiều người kéo đến, nhìn Dinh bằng đôi mắt sôi sục căm thù.
Nghe hai tiếng “đi B” rồi thấy ánh mắt căm thù, Dinh hãi sợ, bỏ chạy. Nhóm người đuổi theo. Nhiều âm thanh hãi hùng vang lên: 
-Ngụy trốn trại! Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!
Nhóm người vừa đuổi theo vừa lượm đá quăng về phía Dinh. Dinh trúng thương, ngã xuống.
Khi tỉnh giậy, trong nhiều tiếng lao xao/mơ hồ, Dinh nhận ra tiếng Duy, con lớn của chàng, quát đứa em:
-Dục! Xem ổng còn thở không?
Dinh muốn đáp: “Ba không sao đâu”, nhưng nói không được! Trong khi Duy và Dục bế Dinh để lên giường, Dinh cố nhớ lại giấc mơ. Dinh tự hỏi, tại sao những lần trốn trại và những trận đòn thù xưa cứ ám ảnh chàng hoài? Dinh muốn lấy điện thoại, gọi cho Huyền – chị của Dinh, ở Mỹ – nhưng Dinh không thấy được gì cả!
Trên taxi, sau khi bảo tài xế lái đến bệnh viện Đồng Nai, Duy than:
-Mẹ bà nó! Đây rồi ổng nằm một đống, đái ỉa một chỗ, ai lo được, Trời!
-Ông là anh cả, trưởng nam, ông phải lo chớ ông tính “bán cái” hả?
-Mẹ! Con c. tao chứ trưởng nam. Cũng vì hai chữ trưởng nam mà năm 75 ổng không chịu di tản; vì ông bà già của ổng không chịu đi. Mẹ bà nó! Ngoại trừ sĩ quan cấp nhỏ như ông Bảng – em của Dinh – ở tù ngắn hạn, Mỹ không nhận; còn ai ra tù cũng nạp hồ sơ xin đi Mỹ, mà ổng không nộp; vì bà già của ổng chỉ muốn ở với trưởng nam chứ không chịu ở với ông Bảng.
-Bởi vậy tui với ông mới bốc cứt mà ăn.
Dinh muốn gào lên: “Ba không xin đi diện H.O. vì bà Nội chỉ một phần; lý do chính là vì hai con đều trên 21 tuổi, không được chấp thuận. Lúc đó, chỉ vì thương bà Nội và thương hai con – và cũng vì Ba không biết được rằng Ba cứ qua Mỹ, từ từ Ba sẽ bảo lãnh bà Nội và hai con sang sau – mà Ba không đành đi Mỹ một mình. Ba đã quyết định sai; nhưng sự sai lầm đó là do tình thương mà ra.” nhưng Dinh không nói được! Dinh vừa đau xót, vừa tủi thân, vừa giận hai thằng con thiếu giáo dục!
Đây không phải là lần đầu tiên Dinh nhận ra sự thiếu giáo dục ở thế hệ trẻ. Ngay từ khi được ra tù, trên chuyến xe lửa về Nam, Dinh rất buồn lòng vì nhận thấy ngôn từ và hành động của người trẻ trên xe lửa cũng như tại ga xe lửa, đều khó chấp nhận. Về đến nhà, thấy Duy và Dục cũng ứng xử như những người trẻ vô học, Dinh rầy. Duy đáp: 
-Thời buổi này kiếm hột cơm đổ vô họng còn chưa có, ở đó mà lễ nghĩa/đạo đức!
-Con nên nhớ, ông bà mình dạy rằng: “Đói cho sạch, rách cho thơm.” 
-Lời ông bà, xưa rồi! Lời cách mạng là tiền. Tiền! Tiền! 
-Con nói chuyện với Ba mà tại sao con dùng những lời thiếu giáo dục vậy?
-Có ai giáo dục tui đâu mà thiếu với đủ? 
Dinh nghẹn lời! Từ đó, Dinh cố tình tránh mọi va chạm với hai con.
Lòng buồn vô hạn, nhưng khi nhận biết Duy và Dục, mỗi đứa một đầu, cố sức khiêng Dinh vào nhà thương, Dinh lại cảm thấy thương con vô vàn. Dinh muốn khóc nhưng khóc cũng không được, rồi Dinh từ từ lịm vào hôn mê.
Nghe giọng Bảng lay gọi, Dinh tỉnh lại và nghe tiếng Duy:
-Dục! Mày ở đây với ông Bảng, tính gì cho ổng thì tính; tao về lục hình của ổng, đem đi phóng lớn để lo hậu sự cho ổng.
Dinh muốn gào lên:“Con ơi! Ba chưa chết, con ơi!” nhưng nói không được! Bảng nạt Duy:
-Hậu sự cái gì? Để tao “điện” qua cho cô mày.
Duy mỉa mai:
-Bệnh của ổng như vậy tiền núi cũng chữa không lành nói gì xin bà Huyền. Mỗi lần xin bả cho có vài trăm đô chớ mấy!
Bảng im lặng, bấm số. Hay tin Dinh bị stroke Huyền khóc nức nở. Sau khi cơn xúc động dịu xuống, Huyền hỏi:
-Hiện tại bác sĩ đang làm gì cho anh Dinh?
-Bác sĩ nói trễ quá, không làm gì được. Họ cho ảnh ra phòng ngoài, nằm chung với mọi người rồi.
-Trời! Tình trạng của Dinh như vậy tại sao họ không cho nằm ở phòng hồi sinh?
-Em đâu biết.
-Tìm bác sĩ, yêu cầu bác sĩ trực tiếp nói chuyện với chị, nhanh đi.
Bảng “dạ”. Một chốc sau, Huyền nghe giọng Bảng văng vẳng: 
-Chị tôi mới là người có khả năng thanh toán “viện phí”. Bác sĩ không nói chuyện với chị tôi thì tôi với hai thằng này là ba mạng cùi chứ làm sao tụi tôi trả được.
Nghe giọng lạ “Allo”, Huyền hỏi:
-Thưa, có phải bác sĩ là người đã khám nghiệm cho em tôi, Trần Dinh, không ạ?
-Vâng.
-Thưa, theo bác sĩ thì em tôi có khoảng bao nhiêu phần trăm hy vọng sống sót?
-Một phần trăm. Nhưng bệnh viện này không đủ phương tiện để giúp ông Dinh.
-Thế thì bác sĩ làm ơn chỉ cho tôi bệnh viện nào có thể cứu em tôi?
-Nếu có phương tiện tài chánh, bà nên đưa ông Dinh đến bệnh viện Chợ Rẫy.
-Thưa, nhờ bác sĩ giúp bằng cách cho một xe hồng thập tự đưa em tôi đến Chợ Rẫy, được không ạ?
Một thoáng chần chừ. Huyền tiếp:
-Thưa bác sĩ, người em kế của Dinh là Bảng, người mà lúc nãy đã yêu cầu bác sĩ nói chuyện với tôi đó. Bảng sẽ làm giấy cam kết với bệnh viện rằng Bảng và tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả mọi phí tổn mà bệnh viện đã cung cấp cho Dinh.
-Vâng, nếu thế thì không gì trở ngại.
-Cảm ơn bác sĩ.
Trao điện thoại lại cho Bảng, bác sĩ bảo:
-Xong, anh vào gặp tôi ngay.
Sau khi “đăng ký” cho Dinh vào bệnh viện Chợ Rẫy, Bảng bảo Duy và Dục ở lại trông chừng Dinh, Bảng đến ngân hàng nhận tiền Huyền gửi về bằng Moneygramme; nhưng Bảng không cho Duy và Dục biết.
Khi trở lại bệnh viện, Bảng thấy Dinh đã được đưa ra phòng ngoài. Thấy Dinh nằm cùng giường, ngược đầu với một bệnh nhân khác, Bảng trách:
-Duy, Dục! Sao hai đứa mày không xin cho Ba tụi bay nằm riêng một giường mà để ổng nằm hửi cẳng người ta, tội quá vậy?
Duy đáp như Dinh là người xa lạ:
-Ổng nằm đây không lâu đâu mà lo.
-Mày nói cái gì, mày nói lại tao nghe?
-Thì bác sĩ ở đây cũng nói giống bác sĩ ở Đồng Nai chứ khác gì đâu. Ông không cho tui về rửa ảnh lo hậu sự cho ổng thì tui “điện” cho vợ tui, biểu vợ tui lục hình, đem đi rửa lớn, mua nhan đèn sẵn, thì cũng vậy thôi.
Những lời đối đáp của Duy và Bảng khiến Dinh chỉ muốn chết ngay tức thì! Bảng bảo Duy và Dục ở lại trông chừng Dinh, Bảng phải về Đồng Nai để thanh toán “viện phí”.
Bảng vừa rời bệnh viện thì y tá vào phòng, hỏi:
-Có ai tên Trần Duy ở đây không?
-Có. Tui.
Người đàn ông phía sau người y tá bước đến gần Duy:
-Ba mày tên gì?
-Trần Dinh.
-Mày có người bà con nào bên Mỹ không?
-Có. Chị của Ba tui.
-Bà ấy tên gì?
-Trần thị Huyền.
Vừa nói người này vừa ra dấu cho Duy bước ra sân:
-Bà Huyền emailed thông báo bệnh trạng của ông Dinh cho những người cùng khóa Sĩ Quan Thủ Đức với ông Dinh. Nhóm người này góp được một số tiền; anh tôi “điện về”, bảo tôi ứng trước số tiền đó để giúp ông Dinh.
Sau khi nhận tiền, Duy vào phòng bệnh, bảo Dục trông chừng Dinh, Duy phải đi gấp. Duy đến những chốn ăn chơi mà lúc nào Duy cũng mơ ước.
Hôm sau Bảng trở lại gặp lúc Duy đang xin bác sĩ cho Dinh xuất viện. Bảng cản:
-Không được. Bệnh của Ba mày như vậy mà mày đem ổng về nhà để ổng chết hả?
Duy muốn đem Dinh về vì Duy nghĩ tình trạng của Dinh, nếu sống được thì cũng chỉ báo đời thôi; càng để Dinh nằm bệnh viện lâu bao nhiêu thì “viện phí” càng tăng bấy nhiêu. Số tiền mà những cựu Sĩ Quan Thủ Đức gửi về biếu Dinh, tối hôm qua Duy “đi thoải mái” “chỉ tốn gần hai trăm đô chớ mấy”! Duy dự tính trả tiền nhà thương khoảng hai, ba trăm nữa, số tiền còn lại Duy sẽ mua một “quần bò” thật “xịn” để tặng con nhỏ làm ở quán bia ôm mà Duy thích. Nhưng Duy lại đáp khác:
-Đem ổng về có gì vợ tui lo giúp để tui còn đi làm ăn chứ bộ tui ở trong này để vợ con tui chết đói sao?
-Thì mày với thằng Dục thay phiên nhau ở đây.
-Ông đâu có bưng cứt đổ đái cho ổng. Ông đâu có ở đây để hửi mùi hôi/mùi thúi và nghe người bệnh rên la cả đêm.
Duy vừa dứt câu, bác sĩ bước vào. Bảng xoay sang bác sĩ:
-Xin lỗi bác sĩ, chị tôi bên Mỹ “điện” về, bảo tôi nhờ bác sĩ giúp cho anh tôi được nằm một phòng riêng.
-Ở đây không bệnh viện nào có tiêu chuẫn như thế.
-Cùng lắm thì xin bác sĩ cho anh tôi nằm một mình một giường. Bác sĩ giúp giùm, chị tôi không quên ơn bác sĩ.
Câu cuối Bảng nói chỉ vừa đủ cho bác sĩ nghe; và cũng chính câu cuối cùng của Bảng khiến bác sĩ gật đầu:
-Vâng. Tôi có thể giúp anh điều đó.
Bác sĩ rời phòng. Bảng hỏi Duy:
-Thằng Dục đâu?
-Nó cũng lo đi làm ăn chớ bộ nó ở đây lo ôm xác ổng sao!
-Mày ăn nói mất dạy. Ngày nào Ba mày có quyền có chức thì Mẹ con mày “dựa hơi”; khi Ba mày đi tù, Mẹ mày lấy cán bộ, giao hai đứa mày cho Bà Nội mày nuôi. Bây giờ Ba mày trong tình cảnh này thì hai đứa mày chỉ mong cho ổng chết nhanh, phải không? Chờ đó, tao gọi cho cô mày.
-Gọi cho bả làm “đe.” gì! Mẹ bà nó, cho nhỏ giọt, “đe.” thèm nhắc tên bả nữa!
Không muốn đối đáp với đứa mất dạy, Bảng bấm số điện thoại. Sau khi nghe Bảng trình bày, Huyền bảo:
-Bảng mở speakerphone, để gần tai bên phải của anh Dinh. Bảng cầm tay phải của anh Dinh và cố để ý phản ứng của anh Dinh.
Khi Bảng báo cho Huyền biết mọi điều đã xong, Huyền vừa khóc vừa nói rất chậm:
-Dinh ơi! Chị đây. Nếu chị nói gì mà Dinh nghe và hiểu được thì Dinh bóp tay Bảng, nha!
Tiếng Bảng reo lên:

  • Đó, đó, ảnh bóp tay em.
    Những người thăm nuôi và bệnh nhân nhẹ cùng phòng đều tò mò vây quanh giường của Dinh. Huyền tiếp:
    -Dinh biết ai nắm tay Dinh không?
    Nhiều tiếng reo lên: 
    -Ối Giời! Ông ấy biết đấy.
    Huyền tiếp:
    -Mấy anh Thủ Đức bên này và bên Úc chung lời cầu nguyện cho Dinh. Dinh gắng vượt qua, nha!
    Bảng không kềm được xúc động:
    -Anh Dinh nghe và biết hết, chị à!
    Cuộc điện đàm vừa đến đây thì phải ngưng; vì người nằm cùng giường với Dinh phải chuyển sang nằm chung với bệnh nhân khác. Và một bệnh nhân trẻ, tên Diên, bị băng nơi chân, được đưa vào, nằm nơi góc phòng.
    Duy và Dục ra ngoài ăn tối. Bảng tìm vị bác sĩ – mà lúc nãy Bảng yêu cầu ông ấy giúp cho Dinh được nằm riêng một giường – để “trả ơn”, như Bảng đã hứa. Sau đó, Bảng tìm nhân viên trực, tặng họ tiền; vì kinh nghiệm cho Bảng biết rằng nếu không có thủ tục “đầu tiên” thì đêm hôm Dinh có bề gì nhân viên trực sẽ không báo cho bác sĩ.
    Trên đường trở lại phòng bệnh, Bảng thấy một nhân dáng rất quen đang hối hả đi về phòng bệnh. Nhìn kỹ, Bảng nhận ra đó là Trang, vợ cũ của Dinh. Bảng gọi:
    -Chị Trang!
    Trang quay lại:
    -Ủa, chú làm gì ở đây?
    -Em cũng muốn hỏi chị câu đó.
    -Con của tôi bị tai nạn xe gắn máy, đưa vào đây. Tôi từ Long An, nghe tin vội lên thăm cháu. Còn chú?
    Sau khi nghe Bảng kể qua bệnh trạng của Dinh, Trang khóc. Bảng nói:
    -Chị với anh Dinh hết duyên hết nợ thì thôi; chỉ tội nghiệp cho anh Dinh là nếu anh Dinh bị xúc động mạnh trong tình trạng này thì anh ấy sẽ khó qua. Em yêu cầu chị là chị cố gắng đừng cho anh Dinh biết có sự hiện diện của chị trong phòng bệnh.
    -Chú cho tôi thăm cháu xem tình trạng của cháu như thế nào rồi tôi sẽ liên lạc với chú.
    -Chị ghi số điện thoại của em đi. À, chị cũng phải lánh mặt thằng Duy với thằng Dục nữa, nha! Hai thằng đó mất dạy lắm!
    Trang vừa ghi số điện thoại vừa hỏi:
    -Anh Dinh và Duy, Dục hiện sống ở đâu, chú?
    -Vẫn ở kinh tế mới…
    Bảng chưa dứt câu, Trang chợt nghe giọng Tâm, chồng của nàng:
    -Ôi Giời, Trang! Em đến sao không vào thăm con ngay mà lại ở đấy? Còn mấy đứa kia đâu, sao em không đưa các con đến thăm anh nó?
     

Vừa đẩy chiếc xe lăn có Dinh ngồi bên trong, Bảng vừa nói:
-Anh em mình ra nghĩa trang thăm mộ, cúng tạ Ba Má và mấy em xong, mình trở về để người ta làm vật lý trị liệu cho anh, nhen!
-Bảng cúng chứ anh đâu lạy được.
-Thì anh ra với em cho “dzui”.
Đến bên nghĩa trang nho nhỏ của gia đình, Bảng xoay xe lăn về hướng đường mòn, hỏi:
-Anh Dinh! Nhìn xem bà nào mà trông quen quá vậy?
Dinh nhìn ra đường mòn, hơi ngờ ngợ, không tin vào mắt chàng. Trang đến gần, lấy nón xuống, nhìn Dinh. Dinh gằn giọng:
-Cô còn gặp tôi để làm gì?
-Em biết em có lỗi với anh nhiều lắm. Nhưng anh nên cho em nói với anh những điều cần nói; nhỡ mai này chúng ta không thể gặp lại nhau.
-Gặp lại để làm gì?
-Anh cho em thố lộ với anh một lần, chỉ một lần thôi.
-Vâng. Cô muốn nói gì, nói đi.
Bảng lẻn đi về. Trang ngồi lên phiến đá nhỏ:
-Những lời của em không phải là những lời chạy tội mà chính là nỗi thống khổ của vợ một tù cải tạo.
-Chuyện cải tạo/cải tiết, xưa rồi, đừng nhắc nữa!
-Vâng. Em sẽ tôn trọng yêu cầu của anh. Ngược lại em cũng yêu cầu anh cho em được nhắc lại chỉ một chi tiết thôi.
-Chi tiết nào?
-Anh nhớ lần em đến trại Yên Bái thăm anh không?
Dinh gật đầu. Trang tiếp:
-Anh còn nhớ là hôm đó anh quyết liệt từ chối, không muốn nghỉ qua đêm với em trong “lán” cạnh cổng trại hay không?
Làm thế nào Dinh có thể quên được. Trước khi Trang được phép thăm nuôi, Dinh đã cố gắng thuyết phục bạn tù thực hiện những buổi văn nghệ đặc sắc. Dinh giả vờ hăng say, vui thích vừa đàn vừa hát những nhạc phẩm sặc mùi “cách mạng”. Dinh thực hiện mọi phương thức để tạo niềm tin nơi ban quảng giáo – chỉ với mục đích sẽ tìm cơ hội vượt ngục.
Sự thay đổi thái độ của Dinh làm bạn tù bất mãn bao nhiêu thì ban quảng giáo lại hài lòng bấy nhiêu. Nhờ sự hài lòng này, khi Trang ra thăm, ban quảng giáo cho Dinh một đặc ân là Dinh được ở lại “lán” với vợ một đêm. Dinh cương quyết từ chối. Nhưng…Trang tiếp:
-Chính em là người đã khóc và năn nỉ anh; vì em thương anh, em nhớ anh, em chỉ muốn được ôm anh trong vòng tay.
-Nhắc lại để làm gì?
-Em chỉ muốn anh biết sự thật.
-Sự thật gì? Cô lấy chồng cán bộ, tôi mừng cho cô.
-Anh đừng tàn nhẫn với em.
-Ai tàn nhẫn với ai?
-Anh Dinh! Anh phải biết rõ nguyên do trước khi anh phán xét.
-Rồi, Mẹ con cô nghèo khổ, vì trước 75 tôi là một sĩ quan sạch. Cô lấy cán bộ vì cô chịu cực không được. Còn gì nữa?
-Còn một đứa con – kết quả của hôm anh nghỉ qua đêm tại “lán”, với em – mà anh không biết, anh ơi!
-Tôi vừa về nhà sau thời gian quá dài nằm nhà thương, cô đừng đày đọa tâm hồn tôi nữa!.
Trang đứng lên, đổi giọng:
-Tôi sẽ trở lại trong vài phút.
Trang trở lại với Diên. Thấy Diên, Dinh ngạc nhiên đến sửng sờ! Diên có đôi mắt buồn buồn của Dục và đôi chân mày rậm, sóng mũi cao, cái cằm nhòn nhọn của Duy. Trang bảo Diên chào “Bác”. Diên chào. Dinh đưa tay phải ra. Diên lễ phép bắt tay Diên và miệng hơi mỉm cười. Ôi! Nụ cười của Diên sao lại y như nụ cười mà ngày xưa Dinh thường thấy mỗi khi Dinh soi gương! Trang bảo:
-Con ra tiệm bi-da chơi, chờ Mẹ một tý nữa thôi.
Diên lại chào Dinh một lần nữa rồi đi. Trang hỏi:
-Anh nghĩ gì?
-Thú thật với cô tôi không hiểu tôi nghĩ gì!
-Sau lần đi thăm nuôi anh ở Yên Bái, em không “to be”. Em vừa phải chống chọi với những cơn nôn mửa từng ngày, vừa chịu đựng những lời chửi rủa thậm tệ của Má anh và vừa suy nghĩ xem có nên cho mọi người biết sự thật hay là phá thai? Em không thể phá thai, vì em đạo Thiên Chúa. Cuối cùng em cho Má anh biết sự thật. Má anh lý luận: Ba anh cũng tù cải tạo, khi Ba anh chết Má anh còn không biết tin chứ đừng nói đến chuyện Ba anh được phép nghỉ qua đêm với Má anh. Chú Bảng là sĩ quan cấp nhỏ, cũng bị tù mà thiếm Bảng không được ở lại qua đêm; còn anh là một sĩ quan cao cấp, em là “cái thớ” gì mà được ở qua đêm với anh? Má anh than với mọi người rằng em đã lấy Tâm – một cán bộ thường theo tán tỉnh em mà quanh xóm ai cũng biết. Anh Dinh! Em có thể chịu cực nhưng em không thể chịu nhục.
-Má tôi mất lâu rồi, nên để Má tôi yên.
-Em không đổ lỗi cho Má anh. Em chỉ trình bày sự việc.
-Rồi, cô bất mãn Má tôi, cô đi. Nhưng tại sao cô lại bỏ Duy và Dục cho Má tôi nuôi?
-Sau 75, gia đình bên anh sa sút như thế nào thì gia đình bên em cũng vậy. Nhưng ít ra, bên anh còn có chị Huyền giúp đỡ. Em nghĩ, Duy và Dục ở lại, trước nhất là hai con có được miếng ăn; hai nữa là hai con có thể đỡ đần Má anh những lúc Má anh cần. Thứ ba là em không biết Tâm đã biết tin em có thai hay chưa? Nếu Tâm biết em có thai, chưa chắc Tâm chịu lấy em. Nếu Tâm không lấy em thì làm thế nào em nuôi được cả ba đứa con? Anh tưởng em không đứt ruột khi phải xa hai con hay sao?
Trang mũi lòng, khóc. Một lúc lâu lắm, Dinh hỏi:
-Chồng cô có biết chuyện của Diên không?
-Dạ, không. Sau khi em lấy Tâm, em năn nỉ Tâm xin thuyên chuyển thật xa để chôn vùi quá khứ. Khi sinh Diên em cho tiền bác sĩ và y tá, yêu cầu họ xác nhận Diên bị sinh thiếu tháng.
-Hiện tại Diên làm gì?
-Dạ, Diên vừa tốt nghiệp đại học, ngành tin học.
-Tại sao mãi đến nay cô mới cho tôi biết sự thật về Diên?
-Nếu anh vẫn khỏe mạnh và nếu em không thấy anh trong trạng thái hôn mê lúc ở nhà thương thì có lẽ em sẽ không tiết lộ.
-Sự tiết lộ này có mục đích gì?
-Dạ, mục đích thứ nhất, em muốn minh oan với anh; nhưng em không xin anh tha thứ. Mục đích thứ nhì, em muốn hỏi ý kiến anh xem em có nên cho Diên biết sự thật hay không?
Sau một lúc nhíu mày suy nghĩ, Dinh đáp:
-Thôi, hãy để cuộc sống của Diên phẳng lặng và tươi đẹp như vậy.
-Em cảm ơn anh. Chiều rồi, em phải về.
-Vâng.
Tần ngần một lúc, Trang để tay lên vai Dinh:
-Anh cho em đẩy xe anh vào nhà, nha!
-Thôi, tôi tự lo được.
-Lúc trẻ, anh cùng em đi không trọn đoạn đường. Bây giờ già, anh cho em đi cùng anh một khoảng ngắn của đoạn đường còn lại, nha!
Khi Trang đẩy chiếc xe lăn của Thịnh đến lề quốc lộ, cạnh tiệm bi-da, Dinh ra dấu cho Trang dừng xe, rồi bảo:

  • Cô vào bảo Diên ra đón xe về kẻo trễ.
    Biết Dinh muốn thấy Diên một lần nữa, Trang quay đi.
    Khi Diên chào, bắt tay từ giã Dinh, Dinh nhìn vào mắt Diên – chính lúc đó Dinh cảm nhận được niềm thương yêu vô bờ dâng ngập trái tim chai sạn của chàng. Dinh bịn rịn, không muốn rời tay Diên.
    Nhưng, Trang đưa tay đón, chiếc xe đò dừng lại.
    Xe đò từ từ lăn bánh. Dinh nhìn theo chiếc xe với tất cả xót xa và thương cảm như những lần Dinh nhìn theo Trang sau mỗi lần nàng đến trại tù thăm nuôi chàng. Vừa khi đó, từ tâm thức buồn thảm của Dinh, giòng âm thanh xưa vọng về: 
    “…Ôi! giòng nước mắt trong tim
    chảy lai láng vào hồn nửa đêm gọi đến mình…
    Giọt nước mắt thương em, theo vận nước điêu linh.
    Giọt nước mắt không tên, xin để lại Quê Hương…” (2)
    Khi xe đò khuất xa, Dinh kín đáo thấm nước mắt rồi tự lăn chiếc xe dọc theo đoạn đường còn lại của chàng!

ĐIỆP MỸ LINH
 https://www.diepmylinh.com/

1.- Nguồn Mến Yêu của Hoàng Trọng
2.- Nước Mắt Cho Quê Hương của Trịnh Công Sơn

Danh Nhân Người Việt

Nào ai đoán trước được Bill Gates và Mark Zuckerberg chỉ học năm thứ nhất Đại học Harvard lại nằm trong số lãnh đạo “5 Công nghệ kỹ thuật số” chi phối cuộc sống của nhân loại gồm có Amazon, Apple, Google, Facebook và Microsoft.

Có ai biết được tương lai huy hoàng khi Jeff Bezos (Amazon) và Elon Musk, (SpaceX) ở vào thời niên thiếu?

Dương Nguyệt Ánh

Các cô gái Việt Nam mảnh khảnh, e lệ mà khi đến Mỹ sau năm 1975 đã trở thành khoa học gia nổi tiếng như Dương Nguyệt Ánh đã chế bom “áp nhiệt” làm vô-hiệu-hoá nơi ẩn trú thiên nhiên an toàn nhất của các tên trùm khủng bố quốc tế, làm tàn lụi Tổ chức khủng bố quốc tế al Qaeda.

Nguyễn Thục Quyên

Nguyễn Thục Quyên đến Hoa Kỳ muộn màng, tiếng Anh chập chờn mà trở thành nữ khoa học gia nằm trong số 1% các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới suốt 4 năm liền.

Bà Giao Phan, tổng giám đốc mới của NAVSEA. (Hình: Hải Quân Hoa Kỳ)

Tổng công trình sư Giao Phan chịu trách nhiệm đóng 3 chiếc Hàng không mẫu hạm tối tân nhất thế giới với kinh phí 40 tỉ USD mà chiếc thứ nhất đã bàn giao cho Hải quân Hoa Kỳ, chiếc thứ hai xong ½, chiếc thứ ba đang khởi công.

Eugene Trinh

Eugene Trinh (Trịnh Hữu Châu) tham gia chuyến bay Columbia STS-50 của NASA kéo dài 14 ngày và Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ từ 25/06/1992 với nhiệm vụ thí nghiệm về “động lực học chất lỏng”.

Luật sư Đinh Đồng Phụng Việt

Luật sư Đinh Đồng Phụng Việt (tức Viet Dinh) tị nạn năm 1978, Phụ tá Bộ trưởng Tư pháp, Kiến trúc sư trưởng Đạo luật chống khủng bố “PATRIOT ACT” sau sự kiện 11 tháng 9 năm 2001. Từ năm 2003, Ông trở về Giảng dạy tại Đại học Georgetown.

Tony Phạm

ông Tony Phạm, một người Mỹ gốc Việt, được bổ nhiệm làm lãnh đạo cơ quan Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) của Mỹ

Người Mỹ gốc Việt

CỘNG SẢN LÀ ĐỒ CHÓ ĐẺ !

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

Tôi thách thức tất cả chóp bu cộng sản có thể chứng minh cho tôi thấy đảng cộng sản đã làm bất cứ một điều gì tốt, hữu ích cho nhân dân Việt Nam, để có lý do chính đáng lãnh đạo dân tộc Việt Nam. Còn tôi, tôi khẳng định chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa chó đẻ và tôi có thể chứng minh bằng những dữ kiện hùng hồn, mà cộng sản không thể chối cãi.

Chủ nghĩa cộng sản giương cao lý tưởng cao đẹp, như: làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, công bằng xã hội, không còn có cảnh người bóc lột người, cán bộ là đầy tớ nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nhưng trong thực tế, khi chúng cướp được quyền hành trong tay, thì bọn chóp bu cộng sản đều làm ngược lại những gì chúng đã hứa hẹn.

Tại sao chủ nghĩa cộng sản tồi tệ như thế, mà chúng có thể cướp quyền cai trị người dân? Tại vì trí thức ngu! Trí thức là người có kiến thức rộng, phải có bổn phận đem kiến thức của mình ra để dạy dân. Chủ nghĩa cộng sản phế truất quyền tư hữu, bần cùng hóa nhân dân là việc làm phi đạo đức. Quyền tư hữu là quyền thiêng liêng của mỗi người. Con mắt này là của tôi, cái đầu này là của tôi, thân thể này là của tôi. Tất cả những thứ đó là của tôi, thuộc về tôi. Không ai được quyền chiếm dụng. Cộng sản chủ trương thủ tiêu quyền tư hữu, tức là tước đoạt cái quyền chính đáng của mình, để cho mình không còn là mình nữa. Mình trở thành công cụ của chế độ. Trí thức không thấy điều đó, mà nhắm mắt đi theo, là vì trí thức ngu!

Tôn giáo dạy loài người về đạo đức. Phật dạy từ bi. Chúa dạy bác ái. Cộng sản dạy căm thù, cá lớn nuốt cá bé. Vì cái vũ trụ quan phủ nhận Thượng Đế, nên hai chữ sám hối không bao giờ có trong chủ nghĩa cộng sản. Vì cái nhân sinh quan phi đạo đức, cộng sản có thể giết người không gớm tay mà không cảm thấy hối hận. Đạo cộng sản chỉ đẻ ra những đứa mất dạy: con tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau, anh em giết nhau thì mới được đảng đánh giá cao về cái gọi là giác ngộ cách mạng, giác ngộ lập trường giai cấp.

Có nhiều người đã là nạn nhân cộng sản. Nhưng khi nghe tôi nói Chống Cộng là nghĩa vụ thiêng liêng của người không chấp nhận làm súc vật, thì họ tỏ ra khinh thường, châm biếm, chế giễu, cho rằng tôi nói một điều đã xưa như trái đất. Đúng! Đã xưa như trái đất, nhưng cho đến nay cộng sản vẫn sử dụng những thủ đoạn súc-vật-hóa con người tinh vi hơn! Phải chi cộng sản ngày nay biết tôn trọng quyền con người, biết tôn trọng sự thật, có nhân tính mà tôi vẫn “chửi” cộng sản là đồ chó đẻ, thì sự khinh thường, châm biếm, chế giễu của những người cho rằng tôi lỗi thời, được xem là đúng đi! Khốn kiếp thay! Cộng sản vẫn giữ nguyên bản chất cũ, vẫn lừa đảo, vẫn lưu manh, vẫn bạo hành, vẫn khủng bố, làm sao tôi có thể im lặng, quay lưng lại trước nỗi bất hạnh của con người?

Năm 1954, Mỹ cung cấp phương tiện cho người Miền Bắc di cư vào Nam để lánh họa cộng sản là chính đáng. Chúng ta cám ơn người Mỹ. Nhưng Mỹ bắt buộc Miền Nam xây dựng chế độ dân chủ là sai, giống như bắt buộc một đưa bé vừa mới biết lật sấp lật ngửa, mà phải đứng lên chạy là không đúng. Nếu Miền Nam không có cộng sản nằm vùng phá hoại, không có bọn phản phúc “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” thì còn có thể xây dựng dân chủ. Vậy Miền Nam muốn có dân chủ, thì trước hết cần có một chính quyền mạnh để vận động toàn dân phải diệt các ổ cộng sản từ trong trứng nước, không dung túng bất cứ một đứa nào thở ra cái hơi cộng sản để tuyên truyền phá hoại, thì mới may ra thành công.

Tổng thống Ngô Đình Diệm noi gương người xưa “Đem đạo nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, nên thất bại. Bằng cớ là thành phố Long Xuyên được bình an vô sự, trong khi tất cả các thành phố khác ở Miền Nam đều bị Việt Cộng tổng tấn công trong Tết Mậu Thân là nhờ tín đồ Hòa Hảo quyết liệt diệt trừ Việt Cộng! Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ bị Việt Cộng bắt đi, rồi thủ tiêu không trở về. Từ đó tín đồ Hòa Hảo quyết không đội trời chung với Việt Cộng, nên tỉnh Long Xuyên được bình yên.

Nếu các đảng Đại Việt, Quốc Dân Đảng đều quyết tâm trả thù cho lãnh tụ của mình bị Việt Cộng thủ tiêu, giống như tín đồ Hòa Hảo, thì Việt Cộng làm sao xâm chiếm được Miền Nam? Một đất nước muốn tránh họa cộng sản, nhà cầm quyền phải đoàn ngũ hóa nhân dân. Mỗi người dân phải là một cán bộ quân sự, chính trị, tình báo, phản gián để khám phá kip thời bọn phản quốc (phản lý tưởng tự do) nhằm có biện pháp thích nghi. Đừng bao giờ nuôi hy vọng sự tử tế có thể cảm hóa được cộng sản trở nên tử tế. Chiêu hồi nhưng phải theo dõi đường sự!

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều người giàu có như bà chủ hãng Cát Hanh Long Nguyễn thị Năm đã hy sinh tính mạng lẫn tài sản để ủng hộ cộng sản. Hồ Chí Minh từng xưng tụng bà Nguyễn thị Năm là Mẹ Chiến Sĩ. Thế nhưng khi “cách mạng” chưa thành công, Hồ Chí Minh đã đưa hàng vạn Bà Mẹ Chiến Sĩ ra đấu tố, làm nhục và giết một cách hết sức tàn nhẫn, dã man. Hãy đọc “Đèn Cù” của ông Trần Đỉnh – một nhà báo rất thân cận với Hồ Chí Minh – tường thuật, thì biết cái việc Hồ Chí Minh dùng bao vải bịt râu, Trường Chinh mang kính đen để ngồi chứng kiến cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm mà không ai có thể nhận diện. Hành động giấu mặt của Hồ Chí Minh, của Trường Chinh là đồ chó đẻ hay không? Trả lời đi!

Mỹ dùng Miền Nam làm phòng tuyến cho Việt Cộng, nhưng không hiểu trí thức Miền Nam tồi, Tướng lĩnh Miền Nam phản phúc là một khuyết điểm lớn của Mỹ. Lẽ ra Kennedy nghe lời dặn của Tổng thống Eisenhower giúp Tổng thống Ngô Đình Diệm có đủ thời gian đào tạo một đội ngũ quân sự, hành chánh có kiến thức hơn, có khả năng điều hành việc nước hơn, có lòng yêu nước hơn và đặc biệt có sự hiểu biết cộng sản là đồ chó đẻ, thì cái phòng tuyến mà Mỹ muốn dựng lên mới thành công. Ngược lại, Kennedy ra tay giết Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ đó tình hình chính trị Miền Nam trở nên nát bét. Đáng lý ra quân đội Mỹ phải tự mình diệt cộng sản từ nơi xuất phát cuộc xâm lăng để bảo vệ nền an ninh của nước Mỹ, họ lại cố gắng xây dựng cho Miền Nam có bộ mặt dân chủ, như tổ chức bầu cử Quốc hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp, rồi tổ chức bầu cử Tổng thống, Thượng Viện, Hạ Viện. Quả là một trò hề!

Nếu Tổng thống Lyndon Johnson thay Tổng thống John Kennedy thực tình muốn diệt quân xâm lăng Miền Bắc, đâu có gì là khó khăn? Vì chiến thuật leo thang chiến tranh từ từ, khiến cho Hà Nội được Liên Xô cung cấp cho Việt Cộng những vũ khí tối tân hơn như hỏa tiễn SAM để khắc chế các cuộc dội bom lên Đất Bắc làm chết nhiều dân lành vô tội, càng giúp Hà Nội có lợi thế tuyên truyền với thế giới. Ông Johnson chỉ cần ra tối hậu thư nếu quân xâm lăng Việt Cộng không rút quân về Miền Bắc, ông sẽ cho lệnh đánh vỡ con đê sông Hồng Hà vào mùa nước lớn, thì cả Miền Bắc trôi ra biển ngay. Bố thằng Hồ Chí Minh, thằng Lê Duẩn, thằng Võ Nguyên Giáp cũng không dám tiếp tục làm tay sai cho Trung Cộng để nhuộm đỏ thế giới!

Richard Nixon ra tranh cử năm 1968 hứa hẹn sẽ chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tôi tưởng Nixon thực hiện kế hoạch đánh vỡ đê sông Hồng Hà, nên trong lòng khấp khởi mừng. Không ngờ ông đưa ra chương trình Việt Nam Hóa (Vietnamization) để giao cho Việt Nam Cộng Hòa tự lo liệu lấy, mà lại cung cấp cho Việt Nam Cộng Hòa loại vũ khí phế thải. Phi cơ F-5, A-37 nguyên là phi cơ T-38, T-37 mà Không Quân Hoa Kỳ không còn dùng để huấn luyện phi công nữa, họ vứt đi, rồi biến cải thành phi cơ chiến đấu để thí cho Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, trong trận chiến Hoàng Sa, Trường Sa, Không Quân Việt Nam đành bó tay vì không đủ xăng để trở về căn cứ sau khi xong phi vụ oanh tạc.

Tổng thống Kennedy giết Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ba tuần sau Tổng thống Kennedy bị giết. Hoa Kỳ chơi đểu, vứt bỏ Miền Nam cho một chế độ chó đẻ. Gần 50 năm sau, Hoa Kỳ đang phải đối diện một chế độ chó đẻ phát xuất từ Trung Cộng. Ai quan tâm đến thời cuộc đều thấy đảng Dân Chủ với sự phụ họa của Tuyền thông Thổ tả đang thi hành biện pháp chó đẻ kiển cộng sản để giành quyền lực. Trong cuộc bầu cử ngày 3 tháng 11 năm 2020, chúng ta được dịp thấy rõ Triều đại Cha Con Bush (Bush’s Dynasty) cho đến Bill Clinton, Barack Hussein Obama đã tạo ra những tai to mặt lớn bị nhiễm sinh tử phù của Trung Cộng.

Tỷ phú Donald Trump vốn là một tay chơi, nhưng cực kỳ sùng bái Thiên Chúa và yêu nước Mỹ, thấy được mối họa từ cái đầm lầy, nên đã lìa bỏ nếp sống vương giả để liều mình dấn thân cứu nước. Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đã có ý định vào dòng tu, nhưng do sự yêu cầu của Hoàng Đế Bảo Đại, đành tiến tới bàn thờ xin Thiên Chúa phù hộ độ trì để cứu nước. Không may, Ngài bị một tín đồ Thiên Chúa lãnh đạo nước  Mỹ ra tay giết. Chẳng hay, Tổng thống Donald Trump có bị bọn phản Chúa như Nancy Pelosi, Joe Biden giết hay không?

Tất cả 6 vị Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện gồm Clarence Thomas, John Roberts, Samuel Alito, Neil Gorsuch, Brett Kavanagh, Coney Barrett đều là tín đồ Công giáo, trong đó có ba vị được Tổng thống Donald Trump đưa lên. Thế mà chỉ có hai ông Clarence Thomas và Samuel Alito đồng ý thụ lý đơn khiếu nại của Texas và 17 Tiểu bang Cộng Hòa về sự gian lận bầu cử. Còn 7 vị khác chưa thèm đọc đơn, đã phê Texas “không có tư cách pháp nhân”. Rồi đến đơn khiếu nại của Tổng thống Donald Trump thì Tối cao Pháp viện hứa sẽ cứu xét vào ngày 22 tháng Giêng, sau buổi lễ đăng quang Tổng thống vào ngày 20 tháng Giêng. Tối cao Pháp Viện gồm 9 vị quan tòa có nhiệm vụ phê phán vấn đề Hợp Hiến hay Bất Hợp Hiến mà có hành động khuất tất đáng khinh như thế, là vì Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa và bắt tay Trung Cộng. Ngày xưa cộng sản kêu gọi nhân dân lao động toàn thế giới đoàn kết lại để tiêu diệt bọn Tư Bản. Ngày nay chủ nghĩa toàn cầu hóa (một loại cộng sản trá hình) từ những tinh hoa (élites) giàu có bậc nhất hoàn cầu đang cấu kết nhau để đưa nhân dân toàn thế giới trở thành nô lệ cho bọn chúng. Bọn “Élites” này cũng là một thứ chó đẻ vì chúng học theo cách thức đấu tranh của cộng sản để cướp chính quyền. Chẳng hiểu đơn kiếm Donald Trump có thể diệt được đám quần ma trên nước Mỹ hay không?

Quanh Tổng thống, người ta không thể biết ai là bạn đồng hành, ai là kẻ phản bội. Đến như Mitch McConnel, thủ lãnh Khối Đa Số đảng Cộng Hòa tại Thượng Nghị Viện, mà cũng mở miệng chúc mừng Tổng thống Truyền thông Joe Biden, thì thật là chó má quá cỡ thợ mộc! Tôi hy vọng hơn 74 triệu cử tri người Mỹ bầu phiếu cho Tổng thống Donald Trump, hết lòng yêu thương Tổng thống qua các cuộc biểu dương lực lượng trên khắp nước Mỹ sẽ mạnh mẽ đứng lên chống lại bọn chó đẻ để nền văn minh của nhân loại tồn tại.

Tôi căm thù các Tổng thống Hoa Kỳ đã dùng đất nước Việt Nam làm tiền đồn Chống Cộng, mà không tiêu diệt mầm mống xâm lăng cộng sản, lại bắt nhân dân Việt Nam vừa mới thoát khỏichế độ phong kiến, thực dân phải đảm đương. Cuối cùng, Hoa Kỳ bỏ rơi Miền Nam cho cái chủ nghĩa chó đẻ để toàn dân Việt Nam bị giam hãm trong nhà tù vĩ đại, để cho hàng triệu người phải chết trên biển cả, để cho hàng triệu người lìa bỏ quê hương bị mất phẩm giá. Ngày nay chính quốc Hoa Kỳ bị họa cộng sản là vì Mỹ phạm sai lầm. Chưa bao giờ trong xã hội văn minh Hoa Kỳ mà có nhiều trí thức thượng thặng trở thành chó đẻ khốn nạn đến như thế!

Nghị viện Âu Châu ra Nghị quyết 1481 kết án chủ nghĩa cộng sản về tội diệt chủng, chống nhân loại. Tại Thủ đô Washington, người Mỹ dựng bức tường tưởng niệm 100 triệu nạn nhân cộng sản. Đáng lý ra nước Mỹ phải triệt để đặt chủ nghĩa cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Kẻ nào cổ súy chủ nghĩa cộng sản đều phạm pháp, cần phải đày chúng biệt xứ. Bởi vì, bao lâu còn chủ nghĩa cộng sản chó đẻ trên thế giới, nhân loại còn bị khốn khổ. Bởi vì chủ nghĩa cộng sản là một tổ chức tội ác được huấn luyện bằng cách nhồi sọ tư tưởng độc hại vào nhân dân, bất chấp đạo đức, nhưng luôn luôn nhân danh đạo đức để khống chế người lương thiện. Hiện nay bộ máy Tư Pháp, Lập Pháp, Hành Pháp của Hoa Kỳ đã bị bọn chó đẻ xâm nhập lũng đoạn. Tôi không hiểu Tổng thống Donald Trump dùng cách nào để tiêu diệt bọn chó đẻ mà không dùng những Tướng lãnh yêu nước, chưa bị trở thành chó đẻ, trong Quân Đội để cứu nước.

Cuộc chiến trong những ngày tới hứa hẹn vô cùng khốc liệt. Bọn tỷ phú đầy lòng kiêu ngạo, tự ví chúng ngang hàng với Thiên Chúa, coi con người là vật thí nghiệm các phát minh của họ. Chúng ta không lấy làm lạ khi chứng kiến những nhà tỷ phú như George Soros, Bill Gates, chủ Amazon, chủ Facebook, Twitter và các chủ Đại công ty đồng thời làm chủ các cơ quan truyền thông như CNN, ABC, NBC, CBS, MSNBC và ngay cả FOXNEWS đều gieo rắc tin giả để nhân dân trở thành đàn cừu tuân theo mệnh lệnh của họ.

Dẫu Tổng thống Donald Trump có ba đầu sáu tay cũng không thể nào chiến thắng bọn ma quỷ tình nguyện làm tay sai con quỷ chúa Trung Cộng quyết tâm hãm hại nước Mỹ. Tất cả mọi người đều cảm thấy bất lực, chỉ biết thành kính cầu nguyện Thiên Chúa ra tay. Nếu Tổng thống Donald Trump chiến thắng trận giặc này, con số nhân dân trên thế giới sẽ cúi đầu cảm tạ Thiên Chúa vô cùng đông đảo. Nếu Tổng thống Donald Trump bị thế lực ma quỷ đánh bại, tôi bảo đảm rằng thế giới sẽ bị sức nặng của 1 tỷ 400 người Trung Cộng đè bẹp, trong đó có cả bọn “Élites” giàu có và phát minh kỹ thuật cao (high teck) cũng không khỏi thoát nạn. Và lúc bấy giờ sẽ không còn một tôn giáo hiện diện trên trái đất.

Tôi biết tôi dùng hai chữ “CHÓ ĐẺ” để nói về chủ nghĩa cộng sản sẽ làm cho các nhà trí thức đạo đức Việt Nam cau mày. Nhưng sau nhiều đêm suy nghĩ nát óc tự hỏi tại sao nước Mỹ văn minh đứng đầu thế giới mà lại có những giáo sư Đại học, lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo chính trị  được trọng vọng lại trở nên tồi bại, đốn mạt đến thế này? Tại sao có sự kiện gian lận một cách trắng trợn về bầu cử trong một quốc gia có truyền thống dân chủ lâu đời?

Cuối cùng, tôi phải nghĩ đến luật nhân quả: Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa để giao du, làm ăn buôn bán với Trung Cộng nên mới bị lây nhiễm cái chứng bệnh cộng sản. Cái chứng bệnh đó tôn thờ quỷ, không cho phép ai được quyền yêu nước, được quyền sống làm người tử tế, cưỡng bức mọi người phải tuân hành luật pháp của giới cầm quyền khốn kiếp, khốn nạn. Tôi phải dùng chữ CHÓ ĐẺ mới diễn tả đầy đủ bản chất của chúng. Tôi đồng ý với nhà văn Dương Thu Hương đòi ỉa lên mặt những thằng lãnh đạo cộng sản.

Vậy ai muốn cho nền văn minh, văn hóa nhân loại còn, thì nhân dân toàn thế giới phải quyết tâm ỉa lên mặt bọn CHÓ ĐẺ để không bị chúng cám dỗ hoặc cưỡng bức đi vào con đường tội ác.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Telephone: 714 – 276 – 5600

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com  

Chiến hữu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.” Trung úy Đỗ Lệnh Dũng

Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cấp bực làng nhàng, cỡ như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khóa cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc … vài ngàn! Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi – với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ. Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân – sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung – đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người – toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch – nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông: “Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa  xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc – theo đường mòn Hồ Chí Minh – để đi cải tạo. Gần mười năm sau, năm 1982, trung úy Đỗ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam – và tiếp tục … ở tù!

Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn ) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được nhà văn Lê Thiệp viết lại, bằng một cuốn sách – dầy đến bốn trăm trang – lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Quê Hương đã cho phát hành phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu – như sau:

“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.

Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại song thân thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đọa đầy tại những trại tù …

Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt tại thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái – chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân – người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

Thiếu Tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa – đang tản mát khắp năm Châu – đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị – hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ.

Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức dậy. Gần như đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về … chốn cũ. Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều – theo kiểu “ngày ở / đêm về” – như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai – bao quanh trại cải tạo Tân Rai – ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.

Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn – của ký giả Bùi Bảo Trúc:

“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.

Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay. Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”

Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn. Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

“Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?

“Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống … Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội.

“Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: ‘Thưa anh chị chính tôi đây…’ Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấy tôi mà khóc. Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc, người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc…” (Nguyễn Cảnh Tân (2). “Nỗi Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung.” Việt Luận).

Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi – như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều cuối năm?

Chú thích:

(1) Cuốn Đỗ Lệnh Dũng giá 28 Mỹ Kim, kể cả cước phí, có thể đặt mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

(2) Địa chỉ liên lạc của ông Nguyễn Cảnh Tân: Hội Thiện Nguyện Cứu Trợ Thương Phế Binh Bị Lãng Quên Ở Việt Nam 42 Cardwell St – Canley Vale. NSW, Australia. Điện thoại: (02) 9728 3640. Điện thư: VASFIVV@yahoo.com.au.