Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ thăm bãi cọc Bạch Đằng Năm 2015

TTO – “Tôi rất thán phục tiền nhân anh hùng nước Việt. Đặc biệt khi biết được chiến lược mà các tướng lĩnh Việt Nam ngày xưa đã sử dụng để đánh bại quân xâm lược, dân tộc Việt đã vượt qua nhiều khó khăn bằng tinh thần kiên cường và chiến thuật tài tình để gìn giữ nền độc lập tự do”

Đó là chia sẻ của đô đốc Scott H. Swift, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, khi đến thăm di tích lịch sử Bạch Đằng Giang với bãi cọc Bạch Đằng lịch sử vào sáng 6-10.

Đô đốc Scott H. Swift năm nay 60 tuổi, ông giữ chức vụ chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ kể từ ngày 27-5-2015 – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH

Trong gần hai tiếng có mặt tại khu di tích Bạch Đằng Giang (Hải Phòng), người đứng đầu hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đã đến thăm các khu di tích tưởng niệm các vị anh hùng dân tộc của Việt Nam như: đền thờ vua Lê Đại Hành, đền thờ  Đức Thánh Trần Hưng Đạo, đền thờ vua Ngô Quyền và khu vực di tích bãi cọc Bạch Đằng.

Chia sẻ với các phóng viên sau chuyến viếng thăm, đô đốc Scott H. Swift cho rằng: “Với cương vị là tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, tôi đến đây là một biểu hiện cho thấy mối quan hệ ngày càng thắt chặt giữa hải quân của hai nước. Hiện tại chúng ta phải đối mặt với những thách thức chung và cũng có những lợi ích chung. Điều quan trọng nhất là các quốc gia trong khu vực đều có được những lợi ích từ việc duy trì được sự ổn định và hòa bình”.

“hàng không Mẫu Hạm của Mỹ sẽ đến Việt Nam trong một thời điểm phù hợp” – đô đốc Scott H. Swift nói thêm.

Bằng vốn tiếng Việt khá tốt của mình, Đại sứ Mỹ Ted Osius khẳng định: “Trong lịch sử Việt Nam đã phải đối đầu với nhiều lực lượng lớn hơn mình nhiều lần, nhưng hết lần này đến lần khác, Việt Nam đều thành công trong việc duy trì nền độc lập của dân tộc, những người Mỹ chúng tôi đều biết rất rõ điều này.”

Đô đốc Scott H. Swift đến Việt Nam vào tối 4-10. Ngay sau chuyến viếng thăm tới khu di tích Bạch Đằng Giang, tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ sẽ có buổi làm việc với Bộ Quốc phòng Việt Nam.

Trong lịch sử giữ nước của Việt Nam, sông Bạch Đằng đã từng ba lần chứng kiến quân và dân ta chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc hùng mạnh đều bằng các cây cọc gỗ cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Đó là chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chiến thắng Bạch Đằng năm 981 và đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.

Đô đốc Scott H. Swift thấp hương các tượng đền thờ và cảm thấy thán phục trước chiến lược mà các tướng lĩnh Việt Nam đã sử dụng để đánh bại quân xâm lược, hiện nay tại Khu di tích Bạch Đằng Giang dựng tượng vua Lê Đại Hành, Đức Thành Trần Hưng Đạo và vua Ngô Quyền – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH

QUỐC KHÁNH ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA NGÀY 1 THÁNG 11 NĂM 1967

Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam (1967-1975) là chính thể dân sự của Việt Nam Cộng hòa thành lập trên cơ sở của bản Hiến pháp tháng 4 năm 1967 và cuộc bầu cử tháng 9 năm 1967. Ngày 1 tháng 11 năm 1967 được xem là ngày chính thức thành lập nền Đệ Nhị Cộng hòa.

 Đệ Nhị Cộng Hòa 1-11-1964

.
.
Biên dịch: Tuong Vu

Sau nền Đệ Nhất Cộng Hòa ,bốn năm tiếp theo (1963-67) là giai đoạn giao thời. Trong thời kỳ này, chính quyền miền Nam do các sĩ quan quân đội lãnh đạo với sự cộng tác của viên chức dân sự. Lúc này ngọn lửa chiến tranh đã lan rộng với lực lượng quân đội của Mỹ và miền Bắc đổ vào miền Nam ngày càng nhiều. Cho đến năm 1966, chính trị trong nước rơi vào tình trạng bất ổn và chính quyền thay đổi liên tục. Sự hỗn loạn này là do quan hệ thay đổi giữa các sĩ quan quân đội, do các hoạt động chính trị của nhóm tu sĩ Phật giáo đã gây ra sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa, và do cố gắng của các tổ chức tôn giáo hay chính trị khác thúc đẩy hay chống lại thay đổi.

Vào năm 1967, một bản Hiến pháp mới được thông qua và thi hành, dẫn đến sự ra đời của nền Đệ nhị cộng hòa (1967-75). Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chế độ miền Nam đạt được sự ổn định chính trị và ngày càng đảm nhiệm vai trò lớn hơn trong cuộc chiến khi quân đội Mỹ rút lui dần dần và hoàn toàn vào năm 1973. Trong những năm này, thường dân, nhà giáo, nhà báo, chính khách, thương nhân, viên chức, luật sư, thẩm phán, tướng lãnh quân đội, và nhà ngoại giao, đều có đóng góp vào việc xây dựng một chính phủ hiến định dựa trên chế độ bầu cử tương đối cởi mở với các cơ quan hành pháp, lập pháp, và tư pháp riêng biệt. Trong một đất nước vừa được độc lập không lâu, trải qua một quá trình giải thực khó khăn, không có truyền thống dân chủ hay lập hiến, lại bị một nước lân cận quyết tâm phá hoại, và với một đồng minh đang tìm cách rút lui, thử nghiệm dân chủ dưới nền Đệ nhị cộng hòa vẫn diễn ra và đạt được nhiều thành công.

Hầu như tất cả các tác giả viết về những năm cuối của cuộc chiến đều lờ đi thành tích đạt được của nền Đệ nhị cộng hòa. Những thành tích đó làm cho người Mỹ xấu hổ vì một trong những lập luận chính của những người có lập trường chống chiến tranh Việt Nam là chính phủ Sài gòn là một chế độ độc tài không thể thay đổi được, không xứng đáng nhận sự giúp đỡ của Mỹ, và dù thế nào chăng nữa cũng phải thất bại. Lập trường phản chiến này đã giành được địa vị độc tôn trong giới học giả và phân tích chính trị ở Mỹ. Lập luận nêu trên giúp cho người Mỹ bớt dằn vặt về đạo đức vì nước Mỹ đã bỏ rơi một đồng minh trong cơn hoạn nạn. Nhưng thực ra lập luận đó phản ánh nỗi thất vọng của người Mỹ nhiều hơn là thực tế những gì đang xảy ra do người Việt cảm nhận. Những hồi ức trong tập sách này phản ánh những ước vọng và nỗ lực của những người quan tâm nhiệt thành đến tương lai của nền Đệ nhị cộng hòa.

Nền Đệ nhị cộng hòa đạt được ít nhất bốn thành tựu chínhThứ nhất, về mặt quân sự, Quân lực VNCH nhận trách nhiệm chiến đấu từ người Mỹ. Mặc dù biến cố Tết Mậu thân năm 1968 làm cho dư luận Mỹ chuyển sang phản đối chiến tranh Việt Nam, dư luận ở miền Nam Việt Nam thay đổi theo chiều ngược lại. Tổn thất của phe Cộng sản giúp chính phủ giành lại quyền kiểm soát phần lớn vùng thôn quê và thực thi những chính sách hợp lòng dân quê. Thêm nữa, việc người Cộng sản đem cuộc chiến vào giữa các đô thị gây căm phẫn cho dân cư thành thị. Rất nhiều người giờ đây hiểu rằng họ có một thứ cần phải chiến đấu để gìn giữ: đó chính là nền Đệ nhị cộng hòa. Với sự rút lui của quân đội Mỹ sau Tết Mậu thân, người Việt ngày càng nhận thêm trách nhiệm bảo vệ đất nước họ.

Trong hai năm 1970 và 1971, Quân lực VNCH tham chiến với quân đội Mỹ hay với sự trợ giúp hỏa lực của Mỹ đã tiến hành những chiến dịch lớn ở Lào và Cam Bốt với mục đích làm giảm bớt khả năng của quân đội Bắc Việt dùng lãnh thổ của hai nước láng giềng tấn công vào miền Nam Việt Nam. Những chiến dịch này gây nhiều tổn thất và tranh cãi, nhưng cũng giúp cho Quân lực VNCH thêm khả năng và kinh nghiệm, và phần nào đặt quân đội Bắc Việt vào thế bị động. Trong cuộc tổng tấn công trên ba mặt trận vào mùa xuân 1972 của Cộng sản, khi hầu như tất cả quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, Quân lực VNCH đã đẩy lùi Cộng quân với sự trợ giúp của không quân Mỹ. Tuy nhiên ba năm sau đó, thiếu sự ủng hộ vật chất và tinh thần của đồng minh, nền Đệ nhị cộng hòa đã bị đánh bại.

Thành tựu thứ hai của nền Đệ nhị cộng hòa là ở lĩnh vực phát triển nông thôn. Sau Tết Mậu thân, tình hình an ninh ở thôn quê được đảm bảo cho việc thực thi một chương trình cải cách ruộng đất làm thay đổi nền kinh tế, xã hội, và chính trị ở phần lớn khu vực nông thôn. Mặc dù không được phần lớn giới quan sát ngoại quốc quan tâm, chính sách này tạo ra một mối quan hệ bình đẳng hơn giữa thành thị và thôn quê cũng như bồi đắp tiềm lực của khu vực nông thôn để làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế trong tương lai. Chương trình cải cách ruộng đất được thực thi một cách hòa bình và được sự ủng hộ của dân chúng, hoàn toàn khác với các cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo ở Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Đây là một lý do nữa mà người miền Nam phải chiến đấu chống lại miền Bắc.

Thứ ba, những thành tựu quan trọng về sản xuất và phân phối lúa gạo, về quản lý thị trường, về tìm kiếm dầu hỏa, và về chính sách tài chính đưa miền Nam Việt Nam gần hơn với mục tiêu độc lập kinh tế khi viện trợ Mỹ chấm dứt. Một thế hệ lãnh đạo mới đã hình thành, trong đó nhiều người có tinh thần dân tộc cao và tốt nghiệp từ các trường đại học của Mỹ. Những người này đem chí hướng cải cách cũng như thái độ tích cực và thực tế vào một nền hành chánh vốn chịu nhiều ảnh hưởng của quá khứ thực dân quan liêu. Trong hoàn cảnh phải đối đầu với những vấn đề nghiêm trọng, thậm chí đến mức tuyệt vọng, trong hoàn cảnh nguồn lực suy yếu vì đồng minh Mỹ cắt giảm viện trợ, chính phủ Đệ nhị cộng hòa cho thấy có khả năng đưa ra những quyết định táo bạo.

Thứ tư, nhiều tiến bộ phải được ghi nhận về việc xây dựng một chính phủ hợp hiến gồm có lưỡng viện Quốc Hội, thể chế bầu cử đa đảng, và một hệ thống tư pháp độc lập giúp củng cố quy trình pháp luật để bảo vệ tự do cá nhân và những nguyên tắc chính trị dân chủ. Nhiều người Mỹ chê bai những tiến bộ trong lãnh vực này của chính phủ Đệ nhị cộng hòa bằng cách so sánh chúng với những thể chế ở Mỹ đã có hơn 200 năm phát triển. Nhưng nếu so sánh với những gì Việt Nam trải qua dưới thời thực dân và trong chiến tranh, chúng ta sẽ nhận thấy rất nhiều tiến bộ trong thời kỳ Đệ nhị cộng hòa.

Những thành tựu trên không có nghĩa là Đệ nhị cộng hòa không có khuyết điểm gì. Nhiều quốc gia hậu thuộc địa, kể cả hai nhà nước ở hai miền của Việt Nam, đều phải lệ thuộc rất lớn vào ngoại viện. Ngược lại với Bắc Việt, khuyết điểm lớn nhất của Đệ nhị cộng hòa là việc nó lệ thuộc vào một đồng minh không “chung thủy” [nguyên văn: “unreliable”]. Các chính khách của miền Nam có xu hướng coi quan hệ đồng minh với Mỹ là mặc nhiên và không tìm cách để bảo vệ mối quan hệ hay thay thế nó khi nó không còn nữa.

Đệ nhị cộng hòa thất bại trên mặt trận tuyên truyền ở Mỹ vì người ta gán cho nó những khuyết điểm của nền Đệ nhất cộng hòa và của giai đoạn giao thời. Dĩ nhiên những cặp mắt phê phán luôn có thể tìm thấy khuyết điểm ở bất cứ quốc gia nào, đặc biệt trong trường hợp một quốc gia trẻ đang cố gắng để tồn tại dù phải đương đầu với một kẻ thù ghê gớm. Nhưng những người Mỹ phê phán Đệ nhị cộng hòa lại có thái độ kẻ cả của một nước lớn. Họ đi xa đến mức chối bỏ tính chính danh của chế độ Đệ nhị cộng hòa như một nhà nước có chủ quyền. Chính phủ Mỹ cũng phạm sai lầm tương tự. Hiệp định Paris do Washington ký kết với Hà Nội đã vi phạm hiến pháp và chủ quyền của Đệ nhị cộng hòa.

Năm 1954, Pháp thay mặt cho những người Việt quốc gia đàm phán ở Geneva nhưng thực ra là làm hại họ. Chính phủ Mỹ cũng làm thế đối với Hiệp định Paris năm 1973. Ngô Đình Diệm coi Hiệp định Geneva là hành động của Pháp qua mặt chính phủ của ông ta để đàm phán với kẻ thù. Nguyễn Văn Thiệu cũng có suy nghĩ tương tự với Hiệp định Paris giữa Mỹ và Bắc Việt. Cả hai thỏa ước chứa đựng những điều khoản có thể hay thực tế đã gây khó khăn cho những người Việt quốc gia.

Một lý do gây tranh cãi về Hiệp định Geneva là việc người Pháp thừa nhận Cộng sản Việt Nam là đại diện cho một nhà nước có chủ quyền, trong khi đó họ lại không phê chuẩn một thỏa ước trao trả độc lập cho chính quyền của phe quốc gia Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo. Mưu đồ của người Pháp muốn giữ lại chủ quyền ở miền Nam là để nắm quyền xử lý tình hình ở Sài gòn cho đến khi “bầu cử” thống nhất được tổ chức hai năm sau theo Hiệp định.

Nhưng Ngô Đình Diệm không cho phép người Pháp tiếp tục khuynh đảo tương lai của Việt Nam. Ông ta tổ chức trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955 để truất phế Bảo Đại và tạo điều kiện cho nền Đệ nhất cộng hòa ra đời. Biến cố này có thể được xem là bản tuyên ngôn độc lập của người Việt quốc gia. Họ làm được việc này nhờ tìm được người Mỹ làm đồng minh. Tuy nhiên, khi người Mỹ thỏa thuận với Cộng sản để rút lui khỏi Việt Nam năm 1973, người Việt quốc gia không còn chỗ dựa nào khác.

Có lẽ chẳng có cách nào để VNCH khắc phục được khuyết điểm căn bản là thiếu một đồng minh đáng tin cậy trong khi đồng minh của Bắc Việt không bỏ cuộc cho đến phút cuối. Có lẽ chẳng có cách nào giúp chế độ Đệ nhị cộng hòa khắc phục được việc bị dư luận Mỹ đánh đồng với những thất bại của Đệ nhất cộng hòa và giai đoạn giao thời. Nhưng cũng có thể lập luận như một vài tác giả trong tập sách này rằng Đệ nhị cộng hòa lẽ ra nên tích cực chủ động hơn trong việc tác động đến dư luận Mỹ để chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ Việt Nam lâu hơn và nhiều hơn—dù rằng việc này rất khó trong điều kiện dân chúng Mỹ phải bận tâm đến những rối loạn chính trị xã hội ở nước họ.

Không thể phủ nhận rằng Đệ nhị cộng hòa phải đương đầu với những thách đố nghiêm trọng. Phần lớn nếu không phải tất cả những thách đố đó đều có liên quan đến việc giảm dần tiến tới mất hẳn nguồn ngoại viện nhưng vẫn phải mạnh lên để kháng cự quân đội miền Bắc vẫn tiếp tục được đồng minh của họ trợ giúp. Bài viết của Trần Quang Minh và Nguyễn Đức Cườngtrong tập sách này mô tả những cố gắng tái cấu trúc kinh tế và kế hoạch tự lực cánh sinh. Hồ Văn Kỳ-Thoại kể lại trận đánh giữa VNCH và Trung Cộng ở Hoàng Sa năm 1974. Khi đó, tàu của Hải quân Mỹ quan sát từ xa nhưng không can thiệp và thậm chí không cứu vớt những người lính thủy Việt Nam bị chìm tàu trong cuộc hỗn chiến. Qua cử chỉ này của quân đội Mỹ, chính phủ Sài gòn đáng lẽ phải biết rằng không thể tiếp tục trông vào sự giúp đỡ của Mỹ khi cần thiết nữa. Việc Sài gòn vẫn tiếp tục mong được Mỹ giúp đỡ có lẽ là thất bại lớn nhất của Đệ nhị cộng hòa—tuy nhiên cũng phải nói là khó tìm được một đồng minh khác có thể thay thế Hoa Kỳ.

Không khó để chỉ trích những quyết định chiến thuật và chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu trong mùa xuân 1975, nhưng không phải dễ để chỉ ra một lối thoát. Từ khi quân đội Mỹ triệt thoái năm 1973, viện trợ Mỹ cho Đệ nhị cộng hòa giảm bớt rất nhanh. Trong khi đó, địch quân được Hiệp định Paris cho phép ở lại miền Nam và tiếp tục được củng cố, huấn luyện và tái trang bị cho các chiến dịch kế tiếp.

Ai đó có thể lập luận rằng cam kết thực thi một nền dân chủ hợp hiến của Đệ nhị cộng hòa là một nhược điểm so với chế độ Cộng sản độc tài toàn trị ở miền Bắc. Chế độ này huy động tất cả dân chúng vào cuộc chiến và không cho phép ai có ý kiến khác. Đúng là việc động viên toàn bộ dân chúng kiểu miền Bắc khó có thể thực hiện được trong chế độ đa nguyên chính trị của Đệ nhị cộng hòa với một nền báo chí và cơ chế bầu cử tương đối tự do cho phép có dân biểu đối lập trong Quốc Hội, cộng thêm một nền tư pháp tương đối độc lập. Nhưng đây lại chính là ý nghĩa của cuộc chiến tranh, là lý do người miền Nam phải chiến đấu để gìn giữ. Nếu Đệ nhị cộng hòa cũng bắt chước chế độ toàn trị ở miền Bắc thì không còn lý do nào để chiến tranh tiếp diễn.

Những bài viết trong tập sách này đầu tiên được trình bày tại một hội thảo ở Đại học Cornell vào tháng 6 năm 2012. Các tác giả đại diện cho nhiều quan điểm và có những kinh nghiệm khác nhau dưới thời Đệ nhị cộng hòa, nhưng đều có ước vọng và công sức đóng góp vào xây dựng nền dân chủ hợp hiến trong thời chiến. Công cuộc xây dựng một nền dân chủ vững mạnh và thực thi những cải cách để đạt được mục đích đó đã nhận được nỗ lực và niềm tin của nhiều người Việt, dù phải tiến hành trong điều kiện chiến tranh khắc nghiệt và chịu dư luận búa rìu của một đồng minh lúc đầu thì dẫm đạp lên quyền lợi quốc gia của Việt Nam nhưng sau đó lại bỏ rơi nó. Tôi biết ơn lòng can đảm của những tác giả. Sau nhiều thập kỷ Đệ nhị cộng hòa bị người Mỹ coi thường, họ vẫn giữ được tiếng nói, và giờ đây viết lại kinh nghiệm của họ với sự trung thực.

.

Nguồn: K. W. Taylor, “Introduction: Voices from the South”, in K. W. Taylor (ed), Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975) (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program Publications, 2014), pp. 1-8.

…………………………………………………………………………………………………….

KỶ NIỆM QUỐC KHÁNH 26 THÁNG 10 NĂM 1956

 

Kỷ niệm Ngày Quốc Khánh 26/10 của nền Đệ Nhất Cộng Hòa

On 26 October 1955, Diệm declared himself the president of the newly proclaimed Republic of Vietnam…

.
Kỷ Niệm Quốc Khánh 26-10-1956
Ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm công bố Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa sau khi Quốc Hội Lập Hiến biểu quyết với đa số tuyệt đối.

*********************************************************
Sau cuộc Trưng cầu Dân ý ở phía nam vĩ tuyến 17 vào Tháng Mười năm 1955 với kết quả là Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế thì tân tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhóm họp Ủy ban Thảo hiến vào cuối năm 1955 gồm 11 thành viên để soạn Hiến pháp cho quốc gia cộng hòa mới

Sang Tháng Ba năm 1956 thì mở cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến với 123 đại biểu để hoàn tất công việc soạn thảo và thông qua bản hiến pháp. Chính Quốc hội cũng đề cử 15 người lập ra Ủy ban hiến pháp riêng, chủ tịch là Trần Chánh Thành để cùng hiệp soạn.

Tháng Bảy năm 1956 thì Quốc hội bỏ phiếu thuận và đến 26 Tháng Mười sau khi một vài điểm dị biệt giữa hai ngành lập pháp và hành pháp được giải quyết thì tổng thống ký văn bản ban hành. Ngày đó cũng là ngày quốc khánh của nền Đệ nhất Cộng hòa.

Lễ Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hoà – Saigon 26/10/1957.

 

Ngày Quốc khánh Việt Nam Cộng Hòa ( Đệ nhất Cộng hòa 1955-1963 ), Sài Gòn ngày 26/10/1962

.

Cờ vàng ba sọc đỏ ở Hà Nội và miền bắc thời Quốc Gia Việt Nam năm 1950.

.
.

QUỐC KHÁNH 1 THÁNG 11 NĂM 1967

HÌNH ẢNH NGÀY XƯA…của Nam Ròm

Hình xưa VNCH : Mục lục mới vào ngày 04-01-2015

Nhìn hình ảnh xưa để nhớ lại miền Nam VNCH

Những hình ảnh Ròm đã chôm được trên mạng  ,đem về đây để làm tài liệu, tư liệu và chia sẽ cho các bạn .

 

TỔ CHÚC MỘT ĐẠI LỄ CỦA QLVNCH

II. Các Chức vụ và các đơn vị của một đại lễ:

Chủ tọa buổi lễ   – Chủ Tọa – là một quan chức chính quyền, hoặc một Sĩ quan QLVNCH.

Xướng ngôn viên   – XNV – có thể là một dân sự hoặc một Sĩ quan QLVNCH.

Sĩ quan Chỉ huy buổi lễ   – SQCH – là một Sĩ Quan, với một tiểu đội danh dự  TĐDD.

Toán Quốc Quân Kỳ   – TQQK – gồm có Quốc Kỳ và Quân Kỳ  – QQK – và Toán Hầu kỳ  – Hầu Kỳ. QQK gồm có Quốc Kỳ VN, Quốc Kỳ Đồng minh, Quân kỳ QLVN – Quốc Kỳ luôn luôn ở vị thế thẳng đứng, Quân Kỳ và các lá cờ khác phải theo lệnh SQCH. Toán Hầu Kỳ gồm có it nhất 2 chiến sĩ quân phục đại lễ với súng trên vai trong suốt buổi lễ.

Ban Quân Nhạc   – QNc – Vì hoàn cảnh khó khăn, ta dùng 1 CD Quân Nhạc thay thế ban Quân Nhạc. Nhưng phải có một chuyên viên xử dụng 1 hoặc 2 CD players thành thạo.  

II – Các bài Kèn và Nhạc dùng trong đại lễ:

Kèn Nghiêm   Kèn Thượng Nghinh  –  Kèn Thượng Kỳ

Kèn Khai Quân Hiệu và Bế Quân Hiệu  –  Kèn Truy Điệu

Nhạc Hồn Tử Sĩ  –  Nhạc Quân Hành 1  –  Nhạc Quân Hành 2  –  Nhạc Quân Hành 3  Việt Nam Việt Nam

Quốc Ca (có tiếng hát):   VNCH

Quốc Thiều (nhạc hòa tấu):   Hoa Kỳ  –  Australia    Canada  –  Pháp  –  Hòa Lan

III – Diễn tiến các chi tiết của đại lễ:

Một Đại lễ luôn luôn có nhiều nghi lễ. Mỗi nghi lễ được bắt đầu bằng: XNV tuyên bố lễ nghi, SQCH hô Nghiêm và QNc tấu Kèn Nghiêm…cuối cùng là SQCH hô Thao diễn nghỉ.

Sau đây là thứ tự những nghi lễ trong một đại lễ, và các chi tiết của nghi lễ, đã được đơn giản để dễ thực hiện và phù hợp với hoàn cảnh của dân quân ta, đang sống tạm dung, xa Tổ Quốc VN.

1-Lễ rước Quốc và Quân kỳ

XNV tuyên bố: Lễ rước Quốc và Quân kỳ VNCH.

SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – Hầu Kỳ súng lên vai – Cờ thẳng đứng.

d  QNc tấu  Nhạc Quân Hành  

QQK: di chuyển tới vị trí hành lễ – Khi TQQK tới địa điểm ấn định, QNc ngừng nhạc.

SQCH hô: đem súng…xuống – TĐDD hạ súng – Hầu Kỳ giữ súng trên vai – Cờ thẳng đứng.

SQCH hô: thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ, Hầu Kỳ luôn luôn ở vị thế nghiêm.

2-Lễ đón vị Chủ tọa

a  XNV tuyên bố: (chức vị + tên họ) chủ tọa buổi lễ “….” đến…

SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu:  Kèn Nghiêm

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – Hầu Kỳ súng trên vai – Cờ thẳng đứng.

d  QNc tấu  Nhạc Quân Hành     

Chủ Tọa đi về hướng Quốc Quân kỳ, trong lúc QNc đang tấu nhạc quân hành.

Chủ Tọa đứng trước TQQK – Hầu Kỳ: bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

Chủ Tọa đưa tay chào Quốc Quân kỳ – QNc tấu  Kèn Thượng Nghinh

QNc dứt kèn: Chủ Tọa hạ tay xuống. QNc tấu  Nhạc Quân Hành 

 SQCH tiến tới, đưa tay mời Chủ Tọa đi duyệt hàng quân. Chủ Tọa đi doc theo TĐDD, SQCH đi theo.

k  SQCH đưa vị Chủ Tọa tới ghế danh dư nơi khán đài rồi trở về đứng trước TĐDD.

 SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng, Hầu Kỳ đem súng về vai – Cờ thẳng đứng.

m SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ, Hầu Kỳ đứng thế nghiêm.

3a-Lễ Thượng Quốc kỳ VNCH (và Quốc gia Đồng Minh nếu có)

a  XNV tuyên bố: Lễ Thượng kỳ VNCH (và…..).

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu Kèn Nghiêm 

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

d  XNV tuyên bố: Lễ Thượng Kỳ bắt đầu:

e  QNc tấu  Kèn Thượng Kỳ – Trong khi kéo các lá cờ từ từ lên hết cột cờ.

f  XNV tuyên bố: Lễ Thượng Kỳ chấm dứt.

g  SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng – Hầu Kỳ đem súng về vai – Cờ thẳng đứng.

h  SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ – Hầu Kỳ đứng thế nghiêm.

3b-Lễ Chào Quốc kỳ VNCH, và Quốc gia Đồng Minh

a  XNV tuyên bố: Lễ chào Quốc kỳ “Đồng Minh” và Quốc kỳ VNCH.

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu Kèn Nghiêm 

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

d  XNV tuyên bố: Quốc thiều, hoặc Quốc ca “tên quốc gia” bắt đầu – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ trở về vị trí thẳng đứng.

e  QNc tấu Quốc thiều, hoặc  Quốc Ca Quốc Gia Đồng Minh

f  XNV tuyên bố: Quốc ca VNCH bắt đầu – QNc tấu  Quốc Ca VNCH

g  XNV tuyên bố: Lễ chào Quốc kỳ chấm dứt.

h  SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng, Hầu Kỳ đem súng về vai – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳxuống 90 độ.  

i  XNV tuyên bố: Lễ Mặc Niệm các chiến sĩ và đồng bào…..đã hy sinh ….bắt đầu.

k SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu Kèn Nghiêm 

l  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống  xuống 45 độ.

m XNV đọc lời tưởng niệm, và tuyên bố: Phút Mặc Niệm bắt đầu – QNc tấu  Nhạc Hồn Tử Sĩ

n  XNV tuyên bố: Phút Mặc Niệm chấm dứt.

o SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng – Hầu Kỳ đem súng về vai – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

p SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ – Hầu Kỳ đứng thế nghiêm.

4-Lễ Tiễn Quốc và Quân Kỳ

a  XNV tuyên bố: Lễ tiễn Quốc và Quân kỳ VNCH.

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – Hầu kỳ vẫn súng trên vai – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

d  QNc tấu  Nhạc Quân Hành   

e  TQQK: di chuyển rời vị trí hành lễ – Khi TQQK rời khỏi khuôn viên buổi lễ, QNc ngừng nhạc.

f   SQCH hô: đem súng…xuống – TĐDD: hạ súng.

g  SQCH hô: thao diễn…nghỉ.

5-Lễ Truy Điệu các vị Anh Hùng Có thể tổ chức lễ truy điệu này cho một chiến sĩ VNCH.

a  XNV tuyên bố: Lễ truy điệu các vị anh hùng…cấp bậc, tên họ, đơn vị, và các chiến công…

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  XNV mời Chủ Tọa tiến đến vị trí cử hành lễ Truy Điệu – Chủ Tọa đoàn tiến đến đứng trước bàn thờ.

d  SQCH hô: Khai Quân Hiệu – QNc tấu  Kèn Khai Quân Hiệu

e  XNV đọc những lời truy điệu, Chủ Tọa và các thượng khách thắp nhang…xong, đứng nghiêm.

f   SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – QNc tấu  Kèn Truy Điệu    

g  SQCH hô: Bế Quân Hiệu – QNc tấu  Kèn Bế Quân Hiệu     

h  XNV tuyên bố: Lễ Truy Điệu chấm dứt, mời Chủ Tọa và quan khách an tọa.

i   SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng xuống.

k  SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ.

6-Lễ Trao Huy Chương cho các chiến sĩ xuất sắc

a  XNV tuyên bố: Lễ trao Huy chương cho các chiến sĩ…(cấp bậc và tên họ….)

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  XNV mời các …..tên họ….tiến lên vị trí hành lễ.

d  XNV mời Chủ Tọa tiến đến vị trí hành lễ – Chủ Tọa tiến đến và đứng trước các chiến sĩ xuất sắc.

e  SQCH hô: Khai Quân Hiệu: QNc tấu  Kèn Khai Quân Hiệu  

f  XNV đọc những lời khen, vị Chủ Tọa gắn huy chương….xong.

g  SQCH hô: Bế Quân Hiệu – QNc tấu  Kèn Bế Quân Hiệu  

k  XNV tuyên bố: Lễ gắn huy chương chấm dứt.

l  SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ.

7-Lễ Diễn Binh

a  XNV tuyên bố: Lễ Diễn Binh của các đơn vị….

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  SQCH hô: Súng lên vai…bắt – QNc tấu  Nhạc Quân Hành   

d  XNV giới thiệu từng đơn vị đi diễn hành ..v..v..v..

Biên soạn:

Nhạc Trưởng Vũ Tắc Toản –  www.quoctoan.com

…………………………………………………………………………….

Video: ‘Ôn lại một chút về Lễ Nghi Quân Cách’

 

 

.

 

NGHI THỨC PHỦ CỜ 

NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM THEO NGHI THỨC HOA KỲ

<center>

NHỮNG HỒI KÝ/TÀI LIỆU HAY

HỒI KÝ SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT  CỦA DUYÊN ANH
 
1      2      3      4      KỲ CUỐI
 
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
(Xin Qúy Vị Bấm vào từng số bên dưới để đọc)
 
1      2      3      4           6      7      8      Kỳ Cuối
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

Những người Hàn, họ Lý, gốc Việt

Nguyên Lương

Không phải đến năm 1975 chúng ta mới có tên gọi Thuyền Nhân (Boat People), danh từ dùng chỉ những người bỏ quê hương ra đi tị nạn nước ngoài bằng thuyền khi trong nước có nạn hay những biến cố như thay đổi chính quyền cai trị. Bên Trung Hoa, thời nhà Thanh đánh bại nhà Minh năm 1644, hàng vạn con cháu nhà Minh bỏ chạy ra khỏi nước bằng thuyền đến các nước Đông Nam Á lánh nạn. Tại Việt Nam, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, rất nhiều quan quân Đàng Ngoài không thuận với Chúa Trịnh dong thuyền vào Nam thuần phục và chịu làm tôi cho Chúa Nguyễn. Cũng trong thời này, đám người Hoa tị nạn được gọi là người Minh Hương (người trung thành với nhà Minh), cũng đến xin cự ngụ Đàng Trong với Chúa Nguyễn, trong số đó có những người nổi tiếng đã xin làm tôi thần, giúp chúa Nguyễn an định vùng đất lục tỉnh như Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu. Sau đó đến thế hệ thứ hai, cha Hoa, mẹ Việt, như Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu), và Trần Đại Định (con Trần Thượng Xuyên), cả hai đã giúp sức đắc lực cho nhà Nguyễn Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn. Cả hai đều qua đời trước khi Nguyễn Ánh làm chủ Đại Việt năm 1802.

Câu Chuyện Lý Long Tường

   Cuối đời Nhà Lý, năm 1225, một biến cố lịch sử xảy ra trên nước Đại Việt ta nên cũng có những thuyền nhân bỏ nước ra đi vì họa diệt vong. Khi vua Lý Anh Tông mất năm 1175, ông không có con trai nối dõi, truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ lúc đó đang nắm chức Thái Sư, với quyền hành tuyệt đối trong tay, ông thông dâm với bà Hoàng Hậu Trần Thị Dung, cướp ngôi  nhà Lý bằng cách thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, cháu trai của mình. Trần Thủ Độ nắm được triều chính liền ra tay tàn sát và tận diệt con cháu nhà Lý bằng khẩu hiệu “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Muốn được sống yên, người họ Lý đổi hết sang họ Nguyễn và một số sợ bị giết phải bỏ nước ra đi. Năm 1226, Hoàng Thân Lý Long Tường (cháu 6 đời của vua Lý Thái Tổ) cùng với 6000 quan quân thân thuộc nhà Lý bỏ trốn khỏi đất Đại Việt bằng thuyền từ Thanh Hóa ra biển Nam Hải. Sau hơn một tháng long đong trên biển, đoàn thuyền của họ Lý tấp vào đảo Đài Loan tránh bão. Tại đây chừng 200 người xin ở lại tị nạn, số còn lại hướng thẳng về phương Bắc. Chừng một tháng sau đoàn người họ Lý đến được cảng Hae-ju của Hàn Quốc (hải cảng này nằm trong tỉnh Hwanghae, sau chiến tranh Triều Tiên 1950, chia đôi lãnh thổ Nam-Bắc, tỉnh Hwanghae cũng bị chia đôi). Tương truyền nhà vua Hàn Quốc là Kojong của triều đại Goryeo (1192-1259) lúc bấy giờ, đêm nằm mộng thấy có một con chim Phượng Hoàng (Phoenix) từ phương Nam bay đến đậu ở vùng núi phía Tây nước Hàn. Nghe tin có một đoàn thuyền chở người tị nạn từ Đại Việt cập bến, vua Kojong ra lệnh cho các quan địa phương trong tỉnh Hae-ju trải thảm đỏ đón tiếp những người tị nạn thật trọng thể. Đoàn người Việt tị nạn dưới sự chỉ đạo của Lý Long Tường được giúp an cư, lập thành làng, sống bằng nghề đánh cá và chăn nuôi. Họ mở trường dạy văn, võ cho con cháu và dân địa phương.

 Năm 1232, quân Nguyên Mông, sau khi chiếm được toàn bộ Trung Nguyên, đem thủy lục quân tấn công Hàn Quốc. Tướng quân Lý Long Tường (Yi Yong Sang) anh dũng chỉ huy quân Hàn chống lại và thắng lớn, đánh tan đại quân Mông Cổ xâm lược. Khi ra trận, ông luôn đi đầu, cỡi con ngựa trắng, mình mặc áo giáp trắng, nên vua Hàn gọi ông là tướng Lý Bạch Mã. Năm 1253, dù tuổi đã ngoài 70, danh tướng gốc Việt Lý Bạch Mã lại một lần nữa oanh liệt đánh bại quân Mông Cổ xâm lược lần thứ hai và cũng là lần chót vào đất Hàn. Khi ông mất, Vua Hàn thương tiếc cho chôn cất trọng thể dưới chân núi Di A gần Bàn Môn Điếm ngày nay. Để tưởng nhớ công lao ông, trên đỉnh núi nơi họ Lý thường quỳ gối hướng mặt nhìn về phương Nam nơi nước Việt tổ tiên ông, vua Hàn cho dựng đền thờ và đặt tên là Đồi Vọng Quốc (Peak of Nostalgia) với một tượng đồng cao hướng mặt về phương Nam. Ngày nay dân Hàn vẫn quen gọi đây là Đồi Bạch Mã .

Câu Chuyện Lý Xương Căn

   Tính đến năm 1995, hậu duệ của Lý Long Tường ở Bắc Hàn có khoảng 1500 hộ gia đình và 600 hộ ở Nam Hàn. Trong họ tộc có rất nhiều người thành công trong quan trường cũng như thương trường. Trong số đó có những người rất nổi tiếng như Tổng Thống Nam Hàn Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee), vị Tổng Thống đầu tiên của Nam Hàn sau chiến tranh Triều Tiên và nước Hàn chia đôi. Vào những năm 1960, TT họ Lý có liên lạc với TT Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa nhờ giúp đỡ tìm lại tông tích của tổ tiên ông. Tổng Thống Diệm nhận lời, đặc cách một vị Bộ Trưởng dưới thời giúp TT Nam Hàn tìm lại cội nguồn. Rủi thay đó là thời chiến tranh Việt Nam, mộ phần vua quan nhà Lý nằm ở miền Bắc, cho mãi đến sau khi chiến tranh kết thúc họ Lý mới có cơ hội tìm về nguồn cội.

   Năm 1994, hậu duệ của nhà Lý ở Nam Hàn là Lý Xương Căn (Lee Chang Kun) và Lý Tùng Tuấn (Lee Sang Joon)  về Việt Nam đến viếng mộ tổ tiên nhà Lý tại làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và làm lễ cúng bái tổ tiên ở đền Lý Bát Đế. Họ cũng bỏ tiền ra tu sửa lăng mộ, đền thờ tám vị vua nhà Lý. Hai ông họ Lý đã ghi vào sổ lưu niệm tại đền Lý Bát Đế :”Cháu chắt xin thề nguyện không làm gì tổn thương đến vong linh tổ tiên bằng cả tinh thần và sứ mệnh trách nhiệm”. Lý Xương Căn sinh năm 1958 tại Hán Thành (Seoul) là hậu duệ đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ và là thứ 26 của Hoàng Thúc Lý Long Tường. Năm 2010 ông Căn quyết định đem cả gia đình mình hơn 50 người về Bắc Ninh sinh sống, lập cơ sở kinh doanh sản xuất và xin gia nhập quốc tịch Việt Nam. Ông Căn có một người con trai sinh năm 1997 được đặt tên là Lý Việt Quốc. Ông cho biết: “Tôi luôn tự hào là người con của quê hương Việt Nam, tìm lại đất mẹ với tâm nguyện sẽ góp hết sức mình cho sự nghiệp phát triển của quê hương và cho sự hợp tác hữu nghị giữa hai nước Việt Nam-Hàn Quốc”. Ông cũng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm bằng cách xin tình nguyện làm đại sứ du lịch của Việt Nam tại Hàn Quốc để quảng bá, giới thiệu đất nước, con người Việt Nam đến với người Nam Hàn. Năm 1967 nhà báo nổi tiếng Nam Hàn Kang Moo Hak có viết một cuốn sách tiểu thuyết lịch sử có tựa Due Yi Yong Sang ( Hoàng Thúc Lý Long Tường), cuốn sách  này được dịch ta tiếng Việt năm 1996 và cho ra mắt tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.

   Năm 1995, công ty Việt Lý miền Trung do ông Căn làm giám đốc đã đầu tư lớn vào khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc (huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam) trong lãnh vực tái chế nhựa. Sau đó công ty mở rộng ra địa bàn TP Đà Nẵng với các lãnh vực thương mãi, du lịch, sân Golf và ông  đưa một số gia đình từ Bắc Ninh vào Đà Nẵng sinh sống. Nay ông Căn nói tiếng Việt thông thạo, cả nhà ông lấy tên Việt và học ngôn ngữ Việt. Khi một phóng viên hỏi ông: “Điều gì để ông chọn Đà Nẵng làm nơi sinh sống và làm việc?”, ông không ngần ngại trả lời: “Cuộc chiến VN trước đây do Nam Hàn đứng về phía của đồng minh Mỹ dẫn đến một số người Nam Hàn bị cuốn vào cuộc chiến đó. Giờ đây người Hàn quốc phải chịu một phần trách nhiệm với mảnh đất miền Trung là giúp tái thiết, xây dựng lại, và hàn gắn vết thương…”

Câu chuyện của tôi và một người Hàn họ Lý

  Khi nghe ông Lý Xương Căn nhắc đến câu “…một số người Nam Hàn bị cuốn vào cuộc chiến đó…” là tôi biết ông muốn nói về điều gì. Không phải chỉ là một số người như ông nói mà có đến 50 ngàn thanh niên tuổi còn rất trẻ đã được đưa đến nơi này. Mới đây, ngày 6 tháng 6 năm 2017, đương kim TT Nam Hàn, ông Văn Tại Dần (Moon Jae-in) có bài phát biểu vinh danh những người lính Hàn Quốc đã tham gia chiến tranh Việt Nam bên cạnh lực lượng Mỹ và lính Việt Nam Cộng Hòa, đã làm cho Hà Nội tức giận. Cũng như Tổng Thống Obama trong bài diễn văn nhậm chức năm 2008 có nhắc đến những người lính Mỹ đã hy sinh tại Khe Sanh, miền Trung Việt Nam. Trong số những người lính Nam Hàn được vinh danh này có người bạn của tôi tên Teak Young  Lee ( Lý Hòang Tất) mà tôi hay gọi thân mật là T Y Lee. T Y được đưa đến Nam Việt Nam tham chiến từ những năm 1968-1972. T Y làm lính tình báo trong sư đòan lục quân Mãnh Hổ đóng quân tại vùng núi Vân Sơn, xã Phước Thành, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định quê tôi. Ngoài sư đoàn Mãnh Hổ, Nam Hàn còn gởi sang Miền Nam một sư đoàn bộ binh Bạch Mã (White Horse, lấy tên vị tướng Lý Bạch Mã), và một lữ đoàn thủy quân lục chiến Thanh Long (Rồng Xanh-Blue Dragon). Các lực lượng này đóng quân dọc duyên hải miền Trung từ Quảng Nam đến Nha Trang.

   Năm 1992, ông Lý Nguyên Căn đưa gia đình về Bắc Ninh nhận tổ tiên họ hàng thì tại Hán Thành tôi gặp lại T Y.   Nói là gặp lại cũng không đúng vì thời T Y đến VN tôi còn qúa nhỏ, mới 15 tuổi, chỉ biết T Y và một số bạn lính của anh thường hay đến nhà tôi thăm Bố và họ bút đàm với nhau hàng giờ. Sau đêm định mệnh 1/11/63, TT Diệm bị lật đổ và sát hại, quê tôi bị quân đội Cộng Sản chiếm đóng trong mấy năm liền. Cả nhà tôi bị kẹt trong vùng tạm chiếm, sống dưới quyền kiểm soát của Việt Cộng sau một thời gian dài rồi chúng tôi cũng thoát ra được đến vùng quốc gia, nhờ có quân đội đồng minh phản công chiếm lại. Tôi về sống vùng tự do và được tiếp tục đi học lại Tiểu Học tại Diêu Trì. Trong một bài thơ viết về tuổi thơ giai đoạn này, tôi tâm sự:

Con lớn lên giũa phố đông người thiếu bạn

Sống trong hẻm nghèo thương nhớ xóm làng xưa

Đồng lúa xanh, giếng nước ngọt, cau, dừa

Nhớ chiều trời mưa bong bóng nở đầy sân nhỏ

Khi tôi thi đậu và theo học trường Trung Học Cường Để Qui Nhơn thì T Y là những người lính đầu tiên có mặt trong sư đoàn Mãnh Hổ, được đưa đến quê tôi, chiếm lại vùng quê nghèo khổ, sát chân núi, từ tay quân đội Cộng Sản và họ đã lập ở đó một hậu cứ to lớn cho sư đoàn gần 20 ngàn lính viễn chinh đóng quân. Từ nhà tôi đến hàng rào kẽm gai quân đội không dài hơn 1 cây số. Những người lính Hàn thường ra khỏi trại, đến nhà dân thăm hỏi, cho qùa, làm quen và tìm hiểu dân tình. Họ không biết ngôn ngữ của nhau nên T Y thường trò chuyên với bố tôi qua cách viết chữ Hán qua lại. Vô tình, Bố tôi nhờ biết chữ Hán mà trở thành một thông dịch viên bất đắc dĩ, và tôi cũng học được dăm ba câu chào hỏi tiếng Hàn, học cách đếm số, học hát bài ca Arirang và học võ Thái Cực Đạo. Vị Thiếu Tướng chỉ huy quân đội Đại Hàn tại Việt Nam tên Trần Đồng Hoán  (Chun Doo-hwan) sau khi về nước liền tham gia chính trị. Năm 1980 ông được đưa lên làm Tổng Thống Nam Hàn trong hai nhiệm kỳ. Thời ở Việt Nam ông cũng thường ghé Qui Nhơn thăm trường nơi tôi học và giúp đỡ trường xây một hội trường lớn theo lối kiến trúc cổ rất đẹp.

   Năm 90 công ty đề cử tôi về Á Châu làm việc, lãnh đạo các dịch vụ thương mãi trong vùng. Văn phòng chính tại Singapore và mỗi quốc gia trong số 14 nước tôi chịu trách nhiệm đều có một người địa phương cầm đầu (country manager) và một nhóm nhân viên lo công việc nhập khẩu các loại hóa chất của công ty tôi sản xuất, dùng trong lãnh vực kỹ nghệ và nông nghiệp. Lần đầu tôi đến thăm văn phòng đại diện thương mại ở Nam Hàn, tại Hán Thành, T Y đã là xếp lớn ở đây hơn 10 năm. Sau khi nghe tôi tự giới thiệu tên, biết là người Việt nên T Y hỏi thăm quê quán ở đâu. Khi biết tôi người gốc Bình Định, nhà ở gần nơi hậu cứ sư đoàn Mãnh Hổ, anh ta liền lấy trong ví ra một tấm hình trắng đen đã mờ qua năm tháng và hỏi tôi có biết người đàn ông chụp chung với anh trong tấm hình này là ai không? Tôi sững sờ, nước mắt rơi nhanh và tay run, ôm chầm lấy T Y, nói người đó đúng là Cha tôi và chúng tôi cùng khóc vui mừng sau hơn 20 năm gặp lại. T Y chỉ vào tôi và nói lớn trong nước mắt ràn rụa vì cảm động với những đồng nghiệp: “đây là người con trai của ông cụ mà tôi thường nói với các bạn tôi đã quen từ 20 năm trước ở Việt Nam, và chàng bé học trò ngày xưa này bây giờ là xếp của tất cả chúng ta đấy”. Tôi nhìn kỹ người đang đứng trước mặt, sau 20 năm, bây giờ là một trung niên chững chạc, tóc điểm bạc, dáng bệ vệ hơn, khác rất nhiều so với người trong hình thời tuổi còn thanh niên 20 thanh mảnh. Còn tôi không khỏi xúc động đựơc nhìn thấy hình người Cha đã qúa cố năm 87, lúc không về được để chịu tang. Gần 20 năm trước T Y đã thường đến nhà tôi bút đàm với Bố, chắc một phần là để điều tra tìm hiểu về dân tình. Tôi trọ học ở xa, mỗi tuần đạp xe hơn 20 km về thăm nhà một lần rồi vội vã trở lại thành phố. Từ năm 65 trở đi, quê nhà tôi bình yên, người dân tản cư đi xa đã quay trở lại. Ruộng lúa, ruộng mía lại đơm bông trong cảnh làng xóm vui sống thanh bình như những 10 năm đầu đời (1953-1963) tuổi thơ tôi đã sống qua. Nhờ có quân đội Nam Hàn giữ an ninh, người dân làng không còn sợ bất an, tôi viết:

Quê nhà bình yên mẹ con trở về nơi vài năm trước

Vài năm sau còn lại đám rừng hoang

Con dựng nhà, mẹ gầy lại mảnh vườn

Mùa Tết quê hương vàng hàng hoa điệp nở

 Sau năm 72, sau trận chiến khốc liệt mùa hè đỏ lửa, chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh bắt đầu áp dụng và từ từ quân đội đồng minh như Nam Hàn, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân… theo chân quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, bỏ lại một miền Trung đã tan hoang vì bom đạn, và để lại trách nhiệm giữ đất, chống giặc cho những người lính Cộng Hòa. Năm 72, tôi rời Qui nhơn lên Dalat theo học Đại Học. Năm 75 theo tàu hải quân ra khỏi nước, đến Mỹ. Tôi không ngờ có một ngày được đưa về lại Á Châu làm việc và gặp lại một người quen của gia đình trên quê hương anh.

   Nhờ có kinh nghiệm sống và làm việc ở Việt Nam trong thời chiến, trước khi về hưu năm 2010, T Y được công ty Samsung mướn về Bắc Ninh làm giám đốc địa phương một thời gian. Từ thời Việt Nam có chính sách đổi mới, mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài năm 1986, Hàn Quốc là nước đầu tư nhiều nhất vào một đất nước với hơn 94 triệu dân, một lực lượng nhân công đông, trẻ và rẻ. Riêng công ty Samsung, với 3 nơi sản xuất điện thoại di động tại Bắc Ninh, Tuyên Quang và Saigon, đã đóng góp 36 tỉ đô la, bằng 22.7% trong tổng số hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2016. Có ai ngờ hai nước đã từng là thù địch trong thời chiến lại có ngày sát cánh bên nhau trong lãnh vực kinh tế thời bình. Trong thời gian làm việc tại Bắc Ninh, qua tìm hiểu kỹ về gia phả,  T Y cũng biết ông tổ của mình đến từ vùng đất này. Anh vui mừng gọi điện thăm tôi năm 2013, kể cho tôi biết tin này. Anh nói trong xúc động: “Thảo nào mình rất mến người Việt, vì trong máu của mình cũng có giòng máu của Việt Tộc”. Tôi cười nói đùa với anh ta: “Biết đâu hai ta chẳng là người từ một giòng họ. Họ Lý qua được Hàn quốc vẫn giữ gốc họ Lý, còn tổ tiên tôi không thoát được phải đổi thành  họ Nguyễn…”

Năm 1975 Miền Bắc xua quân xâm chiếm Miền Nam, hàng trăm ngàn người Việt lại liều chết bỏ nước ra đi vì sợ bị tắm máu, tù tội. Danh từ Thuyền Nhân Việt Nam được thế giới nhắc đến nhiều. Họ đâu biết trước đó 750 năm cũng đã có những thuyền nhân ra đi tị nạn vì thù oán chính trị sau khi triều đình đổi ngôi. 765 năm sau, con cháu những thuyền nhân người Việt đầu tiên đó đã quay về đất tổ. Kẻ thù ra tay giết hại giòng họ Lý năm xưa giờ cũng chỉ còn tên trên những bia danh và cổ sử. Nhưng nay, 43 năm sau, những người của chế độ mới ra tay đàn áp, tù đày, cướp bóc và bạc đãi người miền Nam năm 1975 thì vẫn còn ngồi đó nắm quyền sanh sát. Chẳng lẽ phải chờ hàng trăm năm sau, con cháu chúng ta, những thuyền nhân ra đi tị nạn, mới thấy yên tâm trở về quê nhà?

   Nhớ lại năm 1963, năm quê nhà tôi bị Việt Cộng chiếm đóng, nhà thơ đất Quảng Nam mệnh yểu Nguyễn Nho Sa Mạc, mất năm 20 tuổi, đã viết những lời thơ như tiên tri:

Tôi khôn lớn nhìn nỗi buồn đất nước

Một giòng sông biên giới hai loài người

Nỗi đau đớn chất chồng cao bằng núi

Ôi Sài Gòn, ôi Hà Nội  cháy trong tôi

Đó là thời chiến tranh đất nước còn chia đôi, Hà Nội còn quá xa lạ với Sai Gòn. Nay hòa bình đã qua gần 43 năm mà sao những câu thơ trên nghe như thi sĩ mới viết hôm qua. Tôi đã nhiều lần về thăm  nhà, dạo phố Sài Gòn, du lịch Hà Nội, nhưng trong tôi hình như giòng sông biên giới của nhà thơ NNSM vẫn còn chảy mãi. Nhớ lại một ngày đầu tháng 3 năm 75, chào từ giã gia đình đi vào Nam lánh nạn, Bố tôi ôm tôi vào lòng dặn dò con trai dù đi xa, sống xa nhà tôi phải ráng sống làm người lương thiện. Hôm nay, viết bài này, tôi chợt nhớ những câu thơ cũ, cũng của nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc, anh viết như lời dặn của Cha tôi lúc chia ly:

Xã hội vẫn chồng cao từng đống rác

Đất nước mình khói lửa ngót nhiều năm

Cần những bàn tay giữ giống da vàng

Cần những tâm hồn biết thương và biết khóc

Nụ hôn nào ngày xưa vừa chớm mọc

Lần đầu tiên Ba đã hôn tôi

Đất nước tôi đang thiếu những con người

Con phải sống nhưng không vì cơm áo

   Vâng thưa Cha, cho dù sống ở nơi nào, dù không là quê cha đất tổ, con cũng ráng sống như lời Cha dặn. Và những thế hệ con cháu của những người tị nạn về sau, trên xứ người sẽ đạt được những  thành công lớn và làm rạng danh dân tộc Việt. Nhưng điểm chính là phải sống làm người lương thiện, sống không vì cơm áo, sống để giữ giống da vàng, sống biết thương biết khóc để chờ một ngày thuận lợi quay về, như Lý Xương Căn, Lý Tùng Tuấn và bạn tôi Lý Hoàng Tất đã quay về với quê Cha đất Tổ. Ngày đó sao thấy còn xa quá!