Trở Lại Nha Trang

Hai Hùng SG

Trong biển nhạc mênh mông của quê hương mình , nhiều bài hát và nhiều tác giả đã đưa chúng ta sống lại cái thuở yêu đương của thời tuổi dại , những kỷ niệm của ngày xưa thân ái , cũng có tác giả dìu chúng ta đi cùng nhau suốt chiều dài cuộc chiến trên đất mẹ lầm than ,và không ít tác giả đã lột tả được nét đẹp quê hương và những tự tình của dân tộc .

Một trong những bài hát đã cho tôi nhiều cảm xúc trào dâng , khi nghe câu Hát : ” Nha Trang ngày về , mình tôi bên bãi khuya , tôi đi vào thương nhớ , tôi đi tìm cơn gió xây lại mộng mơ năm nào …” Thì lần nào cũng vậy hình ảnh Nha Trang , một người con gái mang cái tên Thật gần gũi với thành phố biển này , em mang tên Nguyễn Thị Nha Trang lại hiện về trong tâm trí tôi , ngày đó ….

* * *

Ngày ấy khi ngoài trời còn một màn đêm bao phủ thành phố , qua ánh đèn đường vàng vọt nhìn qua cửa sổ của Quân y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang , tôi thấy nhiều toán người hối hả dắt díu bồng bế nhau chạy đi chạy lại trên con đường trước mặt, nhìn chiếc đồng hồ trên tay tôi thấy mới gần bốn giờ sáng mà sao người đi trên đường nhiều như trẩy hội , tôi mặc bộ quân phục vào người , lúc này tôi cảm thấy bộ đồ này như rộng hẳn ra , rồi tôi mới chợt nhớ mình nằm điều trị sốt rét ác tính tại nơi đây cả tuần rồi còn gì , kể từ cái hôm di tản chiến thuật từ Kontum theo liên tỉnh lộ 7B , con đường đau khổ đã hằn in nhiều nỗi thống khổ của mọi người thời bấy giờ theo dòng người nối đuôi nhau dài ngoằng, thiếu thốn đủ mọi thứ , rồi chết chóc , thất lạc người thân v.v.. một bức tranh thật buồn của những ngày tháng ba trên vùng cao nguyên này.

    * * *

Bất chợt cô y tá người mà hằng ngày chăm sóc bệnh tình tôi qua từng chai nước biển, từng phần cơm , từng viên thuốc sốt rét đang vội vã đi ngang , tôi lên tiếng hỏi thăm :

– Chị ơi ! có nghe tình hình gì không ? Mà tôi thấy ngoài đường chộn rộn quá vậy? .

Cô y tá hớt hải trả lời :

– Anh lo dọn đồ đạc đi nhanh ra cầu Đá may ra còn kịp đón tàu cặp bến cho di tản , quân y viện này họ bỏ đi gần như trống trơn , mấy ổng bên kia nghe nói đến gần Nha Trang lắm rồi .

Tôi nghĩ trong lòng :

– Tình hình tồi tệ đến nữa rồi đây .

Tôi chợt nhớ mới tuần trước đây thôi , khi đoàn quân của tôi di tản còn cách cầu sông Ba chừng vài cây số , chúng tôi rải quân nằm lại chờ trời sáng mới bắt đầu đi tiếp . Trời đêm rừng núi xuống thật nhanh , cầm chiếc bi đông lắc nhẹ tôi nghe chỉ còn một ít nước , nếu không có nước thì đêm nay chưa chạm súng với địch có khi mình chết khát cũng không chừng , bổng đâu thằng Kết bạn thân thiết của tôi nó lù lù xuất hiện trước mắt khiến tôi giật mình :

– Trời , nãy giờ mày ở đâu , giờ bất chợt xuất hiện như ma vậy , bộ tính nhát cho tao chết chắc ?.

Thằng Kết cười hiền nói với tôi :

– Đêm nay mà không có nước uống thì tao với mầy thành ma chắc luôn khỏi cần ai nhát hết . Tao mới nghe mấy xếp nói phía trước cách nơi mình đang đứng non chừng cây số thôi có con sông con suối gì đó , tao với mầy đi đến đó đi .

Đứng trước tình cảnh không còn con đường nào khác để tìm ra nguồn nước tôi đành làm theo lời thằng Kết , nhưng nghĩ đoạn đường từ nơi đóng quân tạm thời đêm ấy đến con suối nọ bao nhiêu bất trắc có thể đang chờ đón chúng tôi , nhưng có chết thì đàng nào cũng chết , nên tôi lấy cây đèn pile và khẩu súng , thằng Kết thì khoác trên vai một khẩu súng tay nó cầm gần cả chục cái bi đông được cột xỏ xâu lại mang đi cho tiện .

    * * *

Dường như đất trời cũng ủng hộ chúng tôi , đêm ấy nhờ ánh trăng treo trên trời , tuy không sáng vằng vặc như đêm rằm nhưng ánh sáng lờ mờ cũng đủ soi sáng con đường nơi chúng tôi bắt đầu hành trình đi tìm sự sống , từ trong mé rừng rẽ ra ngoài mí lộ chúng tôi phải băng qua một khoảnh rừng rậm , may có la bàn hướng dẫn nên chúng tôi ra đến liên tỉnh lộ 7 B cũng không mấy khó khăn , vừa đặt chân lên con lộ chúng tôi thấy một đoàn gồm cả trăm mạng người , già trẻ trai gái trẻ con đủ hết đi đến gần chúng tôi , giật mình thằng Kết kéo cơ bẩm cây M16 chĩa vào đoàn người nó hét to :

– Đứng lại , ai đó đi đâu ?

Tiếng người nhao nhao lên :

– Dân . Dân chúng không hà chú ơi , mấy chú là ai ? Làm gì ở đây ?.

Thằng Kết nghe mọi người hốt hoảng la to như thế , nó dịu giọng nói :

– Lính , lính đây , lính Sài gòn , bà con đi đâu đây ?

– Mấy chú nói thiệt không ? Mấy chú cho coi giấy tờ đi tụi tui mới tin .

Lúc này tôi và thằng Kết nhìn nhau hội ý ,nhưng tôi cũng thấy tức cười với cái suy nghĩ :

” Ai đời Dân mà đi xét giấy tờ lính , người không có vũ khí bắt người có vũ khí trình giấy tờ “

– Nè chứng chỉ tại ngũ của tụi tui nè , chú kia chú lại đây coi đi .

Nghe thằng Kết mời xem giấy tờ , hai người đàn ông lớn tuổi đi đầu chạy nhanh đến , qua ánh đèn pile do tôi rọi , một ông đọc lướt qua thật nhanh rồi bỗng nhiên cả hai ông cùng oà vỡ mừng vui reo lên :

– Mình sống rồi bà con ơi .. Mấy chú này đúng là lính Sài Gòn thứ thiệt rồi .

Tiếng reo hò bà con cô bác đúng gần đấy reo mừng khôn xiết , đợi cho đoàn người bớt phấn khích một ông vội xua tay ra hiệu cho đám đông im lặng rồi ông trịnh trọng nói :

– Hai chú em biết không , mấy ngày nay đoàn người di tản chúng tôi phải băng rừng vượt suối , đêm đi ngày nghỉ ,trên đường phát hiện có người vũ trang là tụi tui ”Chém vè” liền sợ gặp mấy ông phía bên kia không cho bà con di tản , may gặp mấy chú ở đây bà con mừng lắm .

Hai ông hỏi chúng tôi đi đây vào giờ này vì trời đã khuya ngoại trừ đoàn người mà chúng tôi gặp ở đây có cái không khí sôi động , chứ những nơi khác trong khu rừng này chỉ còn tiếng côn trùng rả rích , hoặc tiếng những con Nai, Mễn” tác ” liên hồi trong đêm , hình như chúng đang mời gọi bạn tình tìm nhau trong một mùa trăng nơi vùng sơn lâm chướng khí hoang vu này .

Tôi nói với ông chúng tôi đi tìm nguồn nước , vì trên bản đồ không ảnh đã thể hiện một con suối ở gần đây thôi , và qua con suối này có một nhà thờ có thể bà con mình đến tá túc tại đây .

Nghe tôi nói vậy mấy người dân trong đoàn mừng rỡ ra mặt , và rồi tôi và thằng Kết làm hướng dẫn bắt đắc dĩ , dìu dắt và bảo vệ đoàn người này đi đến ngôi nhà thờ phía trước được an toàn , cứ thế đoàn người chúng tôi lầm lũi đi theo tỉnh lộ 7b mà mấy chục năm qua không một dấu chân người , có chăng là những du kích quân của phía bên kia cắt rừng đi ngang đây rồi lủi nhanh vào rừng vì đi trên đoạn đường này ban ngày dễ làm mồi cho những máy bay quan sát bay tít trên cao phát hiện .

Chừng ba mươi phút sau chúng tôi đến được con suối , nước trong veo mát rượi từ những khe đá chảy ra , mọi người ào xuống suối uống căng bụng bất chấp hậu quả xảy ra , chúng tôi cũng vậy trước mắt phải uống cho đã cơn khát , múc đầy những bi đông cho đồng đội , chuyện gì nếu có xảy ra sau này hẳn hay .

Chúng tôi tiếp tục đi thêm ba trăm thuớc nữa thì cái nhà thờ sừng sững hiện ra trên nền trời mờ sáng của ánh Trăng , sương đêm ướt lạnh cả đôi vai , gió núi quật từng cơn khiến đoàn người co ro , cây lá ven đường thì xào xạc khua vang , đến trước cổng nhà Thờ cha xứ ra tận ngõ đón đoàn người , cha lấy tay vuốt dầu các em nhỏ , ân cần thăm hỏi các cô bác lớn tuổi , và đoàn người lần lượt vào nhà thờ tá túc , bất chợt chúng tôi thấy ấm lòng vì đang trong hoàn cảnh ly loạn đầy khó khăn thế mà tôi với thằng Kết đã ” Dũng cảm ” đưa bà con đến nơi an toàn , chúng tôi định chào cha xứ và hai người đàn ông lớn tuổi trong đoàn để trở lại tiép tục công việc nơi đơn vị đang đóng quân , cha xứ lên tiếng :

– Hai con thật dũng cảm , thể hiện trách nhiệm và tình yêu thương con người , cha thay mặt đồng bào xin cảm kích tấm lòng chúng con , cầu xin chúa giúp hai con bình an , may mắn .

Tôi với thằng Kết rưng rưng xúc động , chưa kịp đáp từ lời cha xứ dạy , thì một bác lớn tuổi nắm lấy bàn tay tôi và thằng Kết , ông còn lại đặt vào lòng bàn tay hai đứa tôi những xấp tiền toàn là giấy bạc mệnh giá lớn có in hình của Đức Thánh Trần Hưng Đạo .

Bất ngờ với thái độ trên của hai ông , chưa kịp phản ứng thì một ông nói ;

– Hai chú nè , ở đời ông bà mình nói : ”Thi ân bất cầu báo” , nhưng hai chú rất có tấm lòng , bà con góp lại một ít gửi mấy chú ít tiền làm quà cho vui , mong hai chú nhận cho .

Tôi nháy mắt thằng Kết ngầm bảo nó không nên lấy tiền bạc của đồng bào , thằng Kết gom tiền lại và nhét vào túi áo một ông rồi nó nói :

– Bà con đang di tản khổ sở thế này , chúng cháu không dám nhận , xin ông trả lại cho đồng bào , không khéo chúng cháu phải ân hận suốt đời nếu lấy tiền này của đồng bào .

Dường như trong nghịch cảnh thì tâm hồn của mọi người đều có cách suy nghĩ và hành động giống nhau , tự dưng chúng tôi , Cha xứ , hai người đàn ông nọ nấc lên nghẹn ngào , rồi thì cha xứ lên tiếng với hai ông nọ :

– Hai anh lính này xử sự rất đúng mực , thôi hai bác cất tiền trả lại cho bà con đi , hai anh em trở về đơn vị kẻo muộn .

Trên đường quay lại đơn vị tôi và thằng Kết thật sự vui sướng trong lòng vì mình đã làm một việc tốt theo dúng câu dạy của người xưa :

” Nhiễu điều phủ lấy giá gương .

Người trong một nước phải thương nhau cùng “.

Mấy hôm sau kể từ hôm đơn vị chúng tôi không tìm ra phương hướng khi cứ phải lòng vòng mãi trên một đỉnh núi rộng lớn, ở đây bạt ngàn những cây gỗ to hai ba người ôm không xuể , do nơi nầy bị từ trường trái đất nhiễu loạn làm cho la bàn không còn hoạt động như ý nữa , tuyệt vọng vô cùng vì lương thực và nước uống cạn đần , thời may trực thăng quan sát phát hiện đoàn chúng tôi họ đáp xuống và bốc chúng tôi ra ngay phi trường Động Tác của Tuy Hòa , cơn sốt rét trong người tôi bộc phát ngay lúc này , tôi được trực thăng chở thẳng một lèo vào quân y viện Nguyễn Huệ cho dến hôm phải tiếp tục làm người di tản tập 2 trong bộ phim nhiều tập ” người di tản buồn ” .

* * *

Nhìn dãy giường trong phòng bệnh tôi thấy hình như mấy anh em nằm ở quanh tôi họ đã lặng lẽ rời nơi đây tự bao giờ , lúc bấy giờ tôi thật sự lúng túng , trong người thì còn rất ít tiền , lại ở một nơi lạ nước lạ cái không một người quen tôi không biết mình xoay xở ra sao , cuối cùng tôi cũng bấm bụng rời khỏi quân y Viện , tôi bước ra khỏi cổng trước khi theo đoàn người xuôi ngược kia, tôi chỉ kịp ngoái nhìn lại nơi đã dung dưỡng tôi trong tuần vừa qua , Tôi chợt nghĩ trong tình hình này ở trong quân y viện ít ra cũng có cái tâm lý được che chở an toàn trong mọi tình huống , một khi bước chân khỏi nơi ấy xem như tôi đứt liên lạc với đơn vị , với người thân ở Sài Gòn .

Tôi hòa vào dòng người đang trên đường , tôi mất phương hướng vì không biết mình sẽ đi đâu về đâu với tình hình hỗn loạn này , chợt thấy một ông cụ già đang bước đi khó nhọc , tôi đến gần và hỏi thăm :

– Dạ chào cụ ạ , cho cháu hỏi thăm đường nào ra Cầu Đá Nha Trang vậy hả cụ? .

Ông ngước mắt nhìn tôi rồi hỏi :

– Cậu theo hướng đó , cứ đi khắc sẽ đến . À mà cậu chắc mới đến đây lần đầu phải không ? Loạn lạc triền miên , người khắp nơi đổ về đây khiến thành phố thêm chật chội ngột ngạt . Thế cậu đến Cầu Đá làm gì ?.

Tôi thuật lại cho ông biết tình trạng ” Tứ cố vô thân ” ở vùng đất mình đang hiện diện , nghe xong ông chặc lưỡi và ôn tồn nói với tôi :

– Cậu theo tôi đến nhà tôi tá túc tạm thời ngày mai hoặc ngày mốt cậu hẳn đi , vì giờ này dưới cảng Cầu Đá người đông nghịt , con nước này tàu bè chưa thể vào được đâu , cậu cứ nghe tôi không việc gì phải sợ .

Như một kẻ đắm tàu đang lênh đênh ngụp lặn trong biển cả mênh mông , gặp ông cụ có tấm lòng nhân hậu này tôi như vớ được chiếc phao khi mình sắp chìm sâu trong lòng biển cả , vui mừng tôi nắm chặt tay ông rồi nói :

-Dạ con cám ơn ông , sau này khi nào đất nước hết cơn binh lửa , con sẽ nhất định tìm lại thăm ông .

Một già một trẻ , tôi và cụ dìu nhau về đến nhà cụ cách đấy không xa , nhà cụ nằm cách bãi biển bởi một con đường , hàng phi lao được trồng dọc dài theo bờ biển , những ngọn gió mát mang mùi của biển mặn thỉnh thoảng thổi nhẹ vào bờ , nơi đây nằm ở một góc khuất cuối con đường nên không gian thật yên tĩnh , tôi lấy lại tinh thần từ khi gặp cụ già này , ngồi trước sân nhà ông trên chiếc ghế đá cạnh hàng liễu rũ , một hòn non bộ nước róc rách chảy từ các khe của ngọn giả sơn , bên dưới một đàn cá đủ màu tung tăng bơi lội bên những nhánh rong xanh um, quan sát chúng bơi lội nô đùa bên nhau khiến tôi chợt thèm cái không khí gia đình của mình thuở nào , cái không khí yên bình đó đã không còn trong tôi kể từ khi bước chân vào quân ngũ cho đến tận lúc bấy giờ …

– Nè cậu em , tôi pha cho cậu ly cà phê nóng đây , còn cái này tôi nghĩ cậu ăn tạm cho qua cơn đói .

Đang thả hồn theo cuộc sống thong dong của bầy cá , thì tiếng cụ già đã đưa tôi trở về thực tại , nhìn ly cà phê bốc khói thơm tho , nhìn ổ Bánh mì thịt jambon to tướng khiến ruột gan tôi cảm nhận được cơn đói đang cồn cào trong tôi , nhìn ông cụ trên gương mặt nhăn nheo của ông đang ngời lên một niềm vui vì cụ đang dang tay cứu lấy một con người , lúc này tôi mới chợt nhớ lại cái hôm tôi với thằng Kết làm 

”Hiệp sĩ giữa rừng xanh” để đưa đoàn người đến cái nhà thờ đêm ấy , tôi nghĩ tâm trạng của ông cụ chắc hẳn là nó không khác với tâm trạng của hai đứa tôi đêm đó .

– Dạ con xin cám ơn, cụ thật chu đáo đã cho con ở nhờ còn cho con ăn uống nữa .

Không khách sáo cụ thúc giục tôi :

– Chẳng có gì ơn với nghĩa cậu ơi , mình là đồng bào với nhau thôi mà , tôi giúp cậu thì sau này tôi có hoạn nạn gì thì người khác giúp tôi thôi , ở đời mà cậu . Thôi cậu ăn đi cho đỡ đói .

Tôi ăn ngấu nghiến như chưa bao giờ được ăn , thú thật trong cơn hoạn nạn thì ổ bánh mì hôm ấy đối với tôi nó quý như vàng , nó vừa giúp tôi qua cơn đói rã rời nó vừa cho tôi nhận biết được cái tình người chân thật nơi ông cụ , cái mùi hương của ly cà phê và mùi của ổ bánh mì nọ nó vẫn còn thoang thoảng trong tôi mãi đến tận bây giờ .

– Chào chú ạ !

Vừa hớp một ngụm cà phê , chợt sau lưng tôi một giọng nói trong trẻo vang lên , tôi ngoái nhìn lại một cô bé tuổi trăng tròn đang khép nép đứng bên cụ và khoanh tay chào tôi , chưa kịp đáp lời thì cụ đã lên tiếng :

– A . Ha đây là cháu Trang , cháu ngoại của tôi đó chú , cháu học giỏi lắm nha cậu.

Tôi khẽ gật đầu chào cô bé , rồi buộc miệng hỏi :

– Em tên Trang à , mà Trang Gì mới được chứ . Chẳng hạn như Thanh Trang , Huyền Trang .

– Dạ ba mẹ đặt cho cháu Tên Nguyễn Thị Nha Trang đó chú .

Nghe cô bé giới thiệu cái tên thật đặc biệt của mình , sở dĩ tôi dùng từ đặc biệt là bởi cô bé Nha Trang này đang là cư dân của thành phố Nha Trang đẹp tuyệt trần này , sau này có dịp nhìn diện mạo tổng quát thành phố biển xanh cát trắng này từ trên phi cơ tôi phải buột miệng :

” Nha Trang ơi , sao ” em ” đẹp lạ thường , cái đẹp thật hồn nhiên của hàng dừa cao xanh biếc , quyện gió trời sóng biển nhảy tung tăng , bờ cát trắng trinh nguyên như tính tình con gái , khiến hồn tôi xao xuyến khi nhìn ” em ” đang tuổi xuân thì ” .

Tôi vội khen nịnh :

– Tôi phải công nhận ba mẹ em hay thật khi lấy tên thành phố thân yêu này đặt cho em , như muốn gửi gấm vào đấy cái tình yêu nồng nàn với quê hương của mình đất với biển nơi này .

Nha Trang e Thẹn đưa mắt hỏi dò tôi :

– Chú ơi ! Chú Tên gì vậy ? chú là lính gì vậy ? Cháu thấy nhiều chú có quân phục giống y hệt chú hồi cháu về Dục Mỹ chơi với mấy đứa bạn , thôi cháu biết rồi chú là ..là .. Lính …

Tôi cướp lời cô gái :

– Là ..lính … Biệt động quân cháu ơi . Chú Tên Hung .. Huyền đó cháu .

– Ủa chú con trai sao tên Huyền , vì tên Huyền dành cho con gái không hà chú ơi , chú hổng thấy cô ca sĩ Mai lệ Huyền hát nhạc giật gân với chú Hùng Cường đó hay sao ,chú mà tên Huyền chắc nhiều cô ghẹo chú lắm đa .

Tôi cười ngất , khiến ông ngoại của Nha Trang cũng cười theo :

– Ai nói với em là tôi tên Huyền ?

– Thì chú mới nói thất thì chứ đâu ? Chú Nói Hung .. Huyền …í chết cháu xin lỗi chú Tên Hùng chứ gì , tại cháu nghe không kỹ , mà chú cũng cắc cớ thiệt nha , còn Ngoại nữa vậy mà cũng cười .

Khi biết tôi là người lính mũ nâu đôi mắt Nha Trang vui lên nhưng rồi đôi mắt Nha Trang dường như mang một nỗi buồn xa xăm nào đó , cô bé cười rồi kể cho tôi nghe câu chuyện của cô bé ..

– Chú biết không , cách đây hai năm hè năm ấy …

* * *

– Nha Trang .. Nha Trang kìa anh Quân của mình đang ra khỏi cổng kìa , bà thấy mặt ổng bà ” mết ” liền cho coi .

– Xí , ở quân trường Dục Mỹ thiếu gì anh lính đẹp trai , chắc gì anh bà bằng họ không , nhưng để tui coi nếu ông Quân mà bô trai thì tui ok liền ..ha ha…

Nha Trang và Hạnh Nhi đôi bạn học thân thiết , giờ họ đang có những ngày hè ở Dục Mỹ quê nhà của Hanh Nhi , ngày chủ nhật nọ hai cô đến Quân Trường Dục Mỹ để thăm người anh của Hạnh Nhi , người mà nôn nao trong lòng hôm ấy không ai ngoài cô bé Hạnh Nhi , thấy anh mình cũng gần quá lứa mà chưa có mảnh tình vắt vai nên cô đã cố gán ghép Nha Trang cho Quân , hai cô trau đổi với nhau nhiều về anh chàng này , hôm nay Nha Trang mới có dịp nhìn tận mặt người mà bà ” mai ” Hạnh Nhi muốn tìm cho mình cái đầu heo do công mai mối .

– Cha ơi , dữ không hôm nay mới đến thăm anh , à đây là Nha Trang phải không, anh chào hai em . Mình vào quán nước bên đường nhé .

Nhìn nhân dáng Quân người săn chắc đen dòn bởi nắng gió của vùng rừng núi nơi này , cách ăn nói chững chạc lịch sự khiến cho Nha Trang có cảm tình ngay từ cái buổi đầu tiên ấy, cái câu của thi sĩ nào đã nói thay tâm trạng Nha Trang :

” Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy .

Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên ” .

Từ khi gặp nhau Nha Trang và Quân yêu nhau thật lòng , ba mẹ Nha Trang cũng thuận lòng khi Nha Trang ăn học thành tài thì Quân sẽ là rể Đông Sàng của nhà mình .

Chiến trường quân khu 2 bổng dưng sục sôi trở lại , hai bên chạm súng liên tục , Quân thôi không còn làm huyến luyện viên của Quân trường nữa , anh nhận sự vụ lệnh làm đại đôi trưởng của một tiểu đoàn Biên Phòng , chưa một lần về phép thăm lại người yêu . Quân đã vĩnh viễn nằm lại miền Kontum đầy nắng gió , Tin dữ bay về Nha Trang , cô Bé Nha Trang cùng Hạnh Nhi bay lên KonTum nhìn lần cuối một nấm mộ buồn của Quân nằm cạnh buôn Làng người dân tộc .

* * *

Đã qua ngày thứ hai tôi vẫn chưa rời khỏi Thành Phố này , trong lòng tôi nôn nóng , cứ dò hỏi tình hình nhưng ông Bảy , cụ già đang cưu mang mình vẫn trả lời một cách từ tốn .

– Chưa có Tàu cặp bến chú Hùng ơi , kệ nó chú ở đây với tui , có buồn thì cháu Nha Trang dẫn chú ra biển trước nhà hóng mát , tui dặn mấy đứa cháu ở Cầu Đá rồi , hể có rục rịch thì mấy đứa về đưa chú đi ngay .

Nghe ông Bảy nói tôi cũng tạm an lòng , đêm ấy ánh trăng mười sáu đẹp mê hồn , trồi lên từ dưới nước , trăng nhanh chóng trèo lên cao , thấy tôi ngồi buồn buồn Nha Trang lắc vai tôi và nói :

– Chú Hùng nè , chú thấy trăng Nha Trang đẹp không , chú cháu mình dạo mát bờ biển đi chú , ra đó cháu nghĩ chú sẽ vơi bớt nỗi buồn ngay .

– Ừ thì đi , nhưng em nhớ mang áo khoác vào kẻo lạnh .

– Không cần đâu chú , Nha Trang quen rồi , chỉ sợ chú thôi chú còn đang bệnh mà

Nếu cô bé không nhắc thì tôi cũng quên phức mình bị con ma sốt rét đang hành hạ , khoác chiếc áo do ông Bảy trao cho , tôi và Nha Trang đi nhanh về phía Biển ..

Đi dạo dọc bờ biển , gió từ ngoài khơi từng đợt thổi ùa vào , thỉnh thoảng những đợt sóng dài chạy nhanh vào bờ , tôi thấy rõ từng vỏ ốc trồi hẳn lên mặt cát sau những cơn sóng rút xa bờ , rồi những lâu đài các của bọn dã tràng cũng tan biến sau từng cơn sóng vổ . Chọn một nơi khô ráo cách mép nước không xa lắm , tôi và Nha Trang ngồi nhìn mông lung ra biển , sóng vẫn lăn tăn chạy từ ngoài khơi vào , ánh trăng sáng phản chiếu bàng bạc xuống mặt biển một cảnh đẹp mà lâu lắm rồi tôi chưa bao giờ gặp lại , nhìn xa ra ngoài khơi vài chiếc tàu chở hàng neo đậu đèn trên boong sáng trưng :

– Chú Hùng này , chú có người yêu chưa vậy ? nha Trang thấy chú Chẳng vui bao giờ , bộ chú thất tình ai hả ?

Tôi thôi thả hồn về cõi mông lung , trả lời cô gái trẻ tôi nói :

– Người yêu hả ? Có mà cũng như không , gì mà “Thất” tình , tôi có ” cửu ” hoặc

” thập ” tình rồi chứ thất thì nhằm nhò gì , mà em hỏi chi vậy ?.

Đôi tay mềm mại của Nha Trang vốc từng nắm cát trắng thật chặt nhưng nào giữ được trong tay , cát tuôn theo từng kẽ ngón tay , cát vuột khỏi tay em như em đã vuột mối tình thật đẹp với Quân , hết vốc cát nọ Nha Trang lại vốc tiếp nắm cát khác rồi cầm chặt tay lại dường như em muốn nắm bắt một điều gì , em nói với tôi :

– Nha Trang hỏi vậy thôi , nay mai trở về Sài gòn rồi chú có bao giờ nhớ đến Nha Trang không ?

Tôi hơi bất ngờ câu hỏi cô bé đặt ra cho mình , tôi công nhận cô bé Nha Trang này thông minh sắc sảo , cách đặt câu hỏi rất khéo , tôi nghĩ cô bé thừa biết tôi có câu trả lời như thế nào rồi , dĩ nhiên khi rời xa nơi đây chắc tôi chẳng thể nào quên Nha Trang , một người con gái có cái tên Nha Trang và Thành Phố Nha Trang yêu dấu này :

– Tôi nhớ cả hai .

Cô bé mỉm cười lộ chiếc răng khểnh thật duyên dáng ,rồi cố bắt bí tôi :

– Chú Hung … Huyền nói vậy là sao ?

– Thì cả Hai , thành Phố Nha Trang và cô bé Nha Trang này nè . Mà quên nữa cả ba mới phải , còn Ông Bảy Ngoại em nữa chứ

Nha Trang vui sướng reo lên :

– Chú mà quên Ngoại của Nha Trang là Nha Trang nghỉ chơi chú luôn . Hi ..hi .

Tôi và Nha Trang đang miên man suy nghỉ theo cái ý của mình , bỗng đâu từ phía đàng xa tiếng súng nổ và ánh lửa trên nòng súng lập loè , Theo phản xạ tôi nhào người đè Nha Trang nằm rạp xuống cát để tránh đạn , do lố đà Tôi vô tình đặt một nụ hôn lên gò má của Nha Trang , tôi ôm chặt em vào lòng như che chở làn đạn vô tình kia , Nha Trang thì hốt hoảng nhưng cũng nhận ra nụ hôn ngộ ngĩnh của tôi , em nói :

– Cảm ơn Anh đã che chở cho em , mình nằm đây chút nữa đi anh .

Tôi chưa kịp trả lời , thì nghe phía bên đường vang tiếng gọi của ông Bảy :

– Trang ơi ! chú Hùng ơi ! Về ngay nguy hiểm lắm .

Tôi tiếc nuối cái hơi ấm của Nha Trang chưa sưởi ấm lòng mình mà phải trở vô nhà , tôi dìu Nha Trang đứng dậy , phũi cát cho sạch người , hai đứa tôi vụt chạy nhanh vào nhà , đàng xa vẫn nhiều tiếng súng nổ …

Đang nằm mơ màng trên chiếc võng , tôi nghe ông Bảy lay nhẹ , ông nói :

– Chú Hùng , dậy đi tàu Hải quân cập cầu Đá rồi , nhanh lên chú mấy đứa đưa chú đi ngay , về trỏng rồi nhớ thư từ ra cho tui nha , gửi lời thăm cả nhà chú .

Chuẩn bị xong tôi ngó quanh vào trong nhà , như hiểu ý ông Bảy nói :

– Nha Trang nó còn ngủ , lúc nãy súng nổ cháu rất sợ , may mà có chú nếu không thì …

Ông bảy bỏ dở câu nói , tôi nghe giọng ông nghèn nghẹn , tôi hiểu ý ông Bảy không muốn Nha Trang ra tiễn biệt tôi vì ông không muốn Cháu ông lại mang thêm một nỗi buồn nữa kể từ khi Quân đi xa .

– Con cám ơn ông Bảy , nhất định con sẽ trở lại Nha Trang thăm mọi người . Ông cho con gửi lời thăm cô Nha Trang ông nhé .

Tôi ngồi sau lưng người cháu trai ông bảy , anh này lái chiếc Honda 67 chạy thật nhanh , trên đường đi anh cho tôi biết , cuộc nổ súng lúc đầu hôm do đám người xa lạ ở đâu đến cướp , họ bị bắn hạ một người khiến đám còn lại hoảng vía dông mất biệt . Chẳng mấy chốc Cảng Cầu Đá hiện ra , tôi ước chừng tập trung nơi này gần cả ngàn người đủ thành phần . Cảm ơn người cháu ông Bảy tôi bắt đầu tìm cách lên boong tàu , chen lấn rất vất vả qua bao lớp người ken dày đặc , không ít lần dưới chân tôi dẫm phải xác những em nhỏ nằm chết ngạt cứ mỗi lần dẫm phải ruột gan tôi như cồn cào , cảm giác tội lỗi giống như chính mình gây nên cái chết của các em .

Khi đến sát mép bờ đá do Tàu không thể cập sát mà phải đậu cách hơi xa , muốn lên tàu phải có người phía trên nắm tay rồi chân mình phải đạp trúng sợi dây cáp căng ngang phía dưới thì mới có cơ may lên được boong tàu , thiếu một trong hai yếy tố này thì không thể lên boong được, người từ phía sau lưng cứ đẩy tới , rất nhiều người bị lấn lọt khe giữa Tàu và bờ coi như một đi không trở lại , đến khi lên được boong tàu tôi mới tin mình còn sống …

Khoảng 4 h sáng tàu nhổ neo , chúng tôi chen chúc trên boong như những lũ cá mòi được xếp lộn xộn trong cái hộp , mặc dù tàu chạy ra ngoài khơi khá xa gió mạnh mà vẫn không xua được cái hơi của cả ngàn sinh linh trong cái không gian nhỏ bé của boong tàu …

Miền nam buông súng , mọi cái mới mẻ xa lạ áp đặt vào , rồi dần dà mọi người cũng phải làm , phải ăn phải sống . Lần nọ có dịp đi theo đoàn khảo sát tour du lịch Sài gòn Nha Trang Đà Lạt , tôi Trở lại Nha Trang vào buổi chiều nọ , khi đã làm việc với du lịch Khánh hoà xong xuôi , tôi nhờ anh Tài xế chở mình lại nơi con đường ngày xưa nơi ông Bảy đã dang tay cứu mạng , khi đến nơi tôi sững sờ căn nhà có hàng liễu rũ không còn nữa , nó biến mất tự bao giờ , tôi nghĩ mình bị lầm mà còn liên tưởng chuyện Từ Thức lên tiên , khi về trần xong Từ Thức quay lại đường cũ đễ gặp Giáng Huơng thì đường mây đã bít lối , tôi cứ ngỡ mình đang ở trong một giấc mơ , khi hỏi lại người chung quanh thì họ cho biết gia đình ông Bảy đi vùng kinh tế mới nào đó và mất liên lạc kể từ đó .

Kỷ niệm xưa ùa về hình bóng Nha Trang ngồi nơi mép biển ngày nào vẫn còn trong trí nhớ của tôi , vẫn còn đấy những vỏ ốc nằm chõng chơ nằm trên cát , vẫn nhiều chú dã tràng se cát xây lên những lâu đài để rồi sóng biển vô tình xoá đi công sức của chúng , bất giác tôi nghĩ mình cũng giống chú dã tràng kia , tôi chưa xây được lâu đài mà người ơn của tôi đã bị quét khỏi vùng biển mặn này , Nguyễn Thị Nha Trang em ơi , giờ đây chỉ còn mình anh ngồi trên biển vắng vốc cát đầy tay rồi nhìn nó tay chảy qua khe kẽ tay , như anh đã mất dấu của Nha Trang từ đây .

Viết xong. 30/3/2012

Hình ảnh minh họa sưu tầm

Trung tá Tống Viết Lạc

   ( Hai Hùng SG).

Những chiếc GMC của đơn vị đưa cả đám Tân binh tụi tui từ hậu cứ Long Bình vô phi trường Biên Hoà để  bay vô vùng hỏa tuyến, mỗi đứa mang tâm trạng khác nhau khi sắp dấn thân vào làm “Người nhập cuộc”, trong lúc  chờ đến lượt lên phi cơ, anh em tụi tui trải lòng cùng nhau trên Phi đạo, đứa thì nhớ mẹ nhớ cha, thằng thì nhớ người yêu bé bỏng, kẻ thì nhớ lại thời áo trắng với mối tình học trò ngây thơ dễ thương, còn tui tâm trạng vui buồn lẫn lộn.

                        …

    Một hợp đoàn gồm 5 chiếc Chinook, hai chiếc UH 1D đáp xuống phi đạo, Thiếu tá Thảo chỉ huy hậu cứ cùng các sỹ quan khác điều phối cho cả đám tụi tui lên mấy chiếc Chinook,  còn ông và đoàn tùy tùng ngự trên chiếc UH1D, Từ Phi trường Biên hòa trực thăng bay tới Sa Cam ( Cách An Lộc vài cây số,  thời gian bay ước chừng một giờ bay), Khi đáp xuống Phi đạo dã chiến ở Sa Cam, các anh xạ thủ phi hành thúc hối mọi người nhanh chóng di chuyển xuống đất để tránh những đợt pháo kích từ phía rừng sâu phóng vô, vì nơi đây đã là tọa độ cố định, nó được người phía bên kia sẳn sàng khai hỏa khi có tiền sát viên của họ báo có phi cơ hạ cánh nơi này. Y như rằng tụi tui vừa đặt chân xuống đất thì nghe tiếng đề pa từ xa xa, ông Thượng sỹ Còn người Hạ sỹ quan thường vụ của Liên đoàn ra đón liền hét lên :

 -Mấy anh chạy nhanh vô lô cao su và  nằm sát xuống đất , nhanh lên.

Được chào đón kiểu như vậy của đối phương nơi vùng đất mình mới đặt chân tới, cả đám tụi tui mạnh ai nấy dọt thằng vô các góc cây Cao su để tránh đạn, ai nấy cũng hồi hộl đến tột độ vì đây là lần đầu tiên tụi tui chạm mặt Tử thần, rồi trận pháo kich cũng qua đi, cả đám lại lên xe GMC chạy ngay về thị xã An Lộc.

 Xe dừng lại ở sân cờ nơi Bộ chỉ huy Liên đoàn 6 Biệt Động Quân trú đóng, nơi đây là một dãy nhà hai mặt tiền, phía trước là con đường tráng nhựa, phía sau nằm đối diện nhà lồng chợ An Lộc.

 Khi hay có Tân binh bổ sung về cho đơn vị, Thiếu tá Lịch Liên đoàn phó ra ” coi giò coi cẳng” tụi tui, trước hàng quân ông nói sơ qua tình hình của chiến trường nơi đây, rồi ông tiếp tục ” Thử phổi” mấy con gà mới ra ràng xem sao, ông nói:

– Trước khi các anh được phân phối về tiểu đoàn, trong các bạn ở đây ai có chuyên môn gì thì đứng sang bên phải của tôi.

 Sau câu nói của ông thì nhiều cánh tay giơ lên, nào là thợ đồmg , thợ hàn, thợ tiện V.v… và họ đã ra hết phân nữa quân số đang hiện diện tại sân cờ, thấy không còn ai nữa, Thiếu ta Lịch hỏi lại lần chót:

– Còn anh em nào nữa không ?

Nghe hỏi vậy và nhìn thấy  mấy đứa bạn vừa ra khỏi hàng ai cũng hớn hở, ( Họ tưởng coi như chắc chắn được sử dụng chuyên môn của mình,  khỏi ra trực tiếp chiến đấu), tự dưng tui phản xạ nhanh nhẹn, tui gió tay lên cao và nói :

– Dạ còn em.

Khẽ châu mày Thiếu tá Lịch ngó tui trân trân, lúc này tui mới để ý vì ông có đôi chân mày đen rậm, đôi mắt sâu  nhưng thần thái oai nghiêm, tui thầm nghĩ ông nói trong bụng :

 ” Thằng oắt con này sao tới giờ mới chịu lên tiếng”,

Rồi ông cất tiêng hỏi tui:

– Anh tên gì, có chuyên môn gì mà sao đến giờ mới lên tiếng.

Tui đưa tay lên chào kính ông, với cái giọng run run tui trình bày:

– Dạ tui tên Lâm Quốc Hùng , số quân 73/145361 xin kính trình Thiếu Tá, tui biết nghề Âm thoại viên, sử dụng thành thạo máy PRC 25 và các loại máy móc khác .

Không biết nhờ ơn trên sắp xếp, hay do thực tế ban truyền tin Liên đoàn thiếu nhân sự, nên khi nghe tui khai báo như trên Thiếu tá Lịch chỉ tay về phía tui, ông nói:

– Anh đứng sang bên trái chờ tôi, còn các anh em còn lại tất cả tập họp lại chờ phân phối về các tiểu đoàn trực thuộc.

 Sau đó ông truyền lệnh cho Thượng Sỹ Còn :

– Thượng sỹ Còn, ông vào gọi Trung Úy Cao văn Tranh ra nhận anh này vô làm thử cho tôi.

 Thế là tui được nhận vô ban truyền tin của Liên đoàn, còn số anh em chung khóa họ  đều về Tiểu đoàn tác chiến bên dưới, trong đám bạn bè thân thiết nhất của tui thì thằng Lập về Tiểu đoàn 35, còn thằng Kháng về Tiểu đoàn 51.

 Ngày đầu tiên tui trực máy ở Trung tâm hành quân của Liên đoàn, ca trực tui diễn ra suôn sẽ, tui làm việc thật trôi chảy không để lại khiếm khuyết gì, Trung úy Tranh thấy vậy ông nói ;

– Vậy là Hùng làm ở đây luôn nhé.

 Trung úy Tranh vừa dứt câu nói, thì  ngoài cửa hầm xuất hiện một vị Thiếu tá, ông dáng người cao to xăn chắc hơn Thiếu tá Lịch, tóc cắt húi cao, gương mặt ông có sắc đỏ hồng, giống nước da của những người dân da đỏ, tui đứng lên chào kính ông thật nghiêm, ông cất tiếng hỏi Trung úy Tranh :

– Ai đây Trung úy Tranh?

Trung úy Tranh kể rõ câu chuyện nhận tui vô làm cho Thiếu tá Lạc nghe, ông còn nói đỡ cho tui khiến tui mát ruột vô cùng:

– Anh Hùng làm công việc rất tốt, nay mai Để cho Hùng mang máy cho Thiếu tá khi đi ra ngoài đó thiếu tá, còn thằng Linh âm thoại viên cũ để nó làm ở đây, nó hơi chậm chạp để khỏi phiền lòng Thiếu tá.

Nghe Trung úy Tranh nói vậy, ông Lạc chăm chú nhìn tui từ đầu đến chân, chắc với hàm ý thằng nhóc con này  ó làm được việc đúng như lời ông Tranh nói hay không, hồi lâu ông phán một câu:

 – Chú em mầy chuẩn bị máy móc, sáng mai đi với tôi.

 Nghe ông dặn vậy tui thấy “Khớp” vô cùng, vì mới chân ước chân ráo về đây chưa rành rẽ mọi việc vậy mà sếp kêu theo ổng hỏi sao tui không ớn chè đậu.

 Tối đó tui nhờ anh em trong ban truyền tin chỉ vẽ cho đường đi nước bước khi tháp tùng với sếp Lạc đi ra bên ngoài, anh Trung Sỹ Nhất Nhường là ngưòi hướng dẫn tận tụy cho tui và  chuẩn bị máy móc, tài liệu mang theo để sử dụng khi cần, đêm đó tui không thể nào chợp mắt cho được, chỉ sợ mình lụp chụp làm không nên trò trống gì sếp la thì có nước độn thổ.

 Mới năm giờ sáng tui đã thấy anh Hổ, tài xế của sếp Lạc đã chuẩn bị xong chiếc Jeep Lùn M151 A2 sẳn sàng rồi,xe đi trong vùng hành quân mà anh Hổ lau chùi bóng lưỡng  mấy cái vỏ xe anh đánh sira đen ngòm rất nổi bật, hai cái cần anten của máy PRC46 đặt phia sau xe cong vút như hai sợi râu con cào cào  đúng sáu giờ sáng anh Hổ cho xe khởi hành trực chỉ hướng nơi Tiểu đòan 34 đang đóng quân nơi gần đồi Gió, phía bên trong rừng núi cách đó không xa, hai bên đang chạm súng với nhau thật ác liệt, vì không  có đường bộ để đến nơi mặt trận, Thiếu tá Lạc liền điều động một chiếc M113 đến để đi thị sát mặt trận, leo lên mui M113 ngồi tui thấy nó lắc lư như cưỡi ngựa vì địa hình nơi đó gồ ghề, tui liền xin ông Lạc cho tui đứng trong thùng xe cho tiện, chắc thấy lính mới nên ông ok tức thì, tui bèn phóng xuống đứng trong thùng xe với chiếc PRC trên lưng, nghĩ lại tui dại dột vô cùng, vì đi M113 mà đứng hoặc ngồi trong thùng xe thì khi xe cán phải mìn bẫy thì “Đi thăm ông bà” tức thì  vì xe cháy nổ, hoặc lật xe cũng không thế nào thoát thân cho kịp, xe chạy một đoạn, Thiếu tá Lạc giành tay lái của anh tài xế, phải công nhận Thiếu tá Lạc lái cừ không thua gì anh tài xế nọ, cũng may phước xe quần thảo khu vực đó khá lâu mà không chuyện gì xãy ra, và mọi người toàn mạng trở về đơn vị chiều hôm đó.

                                     ***

Suốt thời gian ở thị trấn An Lộc đỗ nát do đạn pháo kích, tui chứng kiến không còn nhiều căn nhà còn nguyên vẹn, có những căn nhà không sập do đạn pháo, mà bị sập một cách thật vô duyên, do đường bộ không còn sử dụng được nên thực phẩm tiếp tế cho An Lộc được thả dù từ  phi cơ C130, những kiện hàng thực phẩm & quân dụng từ trời cao rơi thẳng vô mái nhà, khi tiếp đất nó bể và văng tứ hướng, có lúc rảnh rang tui và các bạn đi lượm những đồ hộp về để dành ăn dần đỡ khỗ.

 Chiều nọ, ăn mừng sự kiện Hòa đàm Paris có hiệu lực, bên LĐ 5 BĐQ có tổ chức văn nghệ, có mời một số anh chị em ca sỹ ở Sài gòn vô giúp vui, tui với anh Hổ tài xế đưa Thiếu tá Lạc đến nơi, hai anh em tụi tui ngồi bên ngoài chơi với mấy anh em gác ngoài cổng của LĐ5, khi tiếng nhạc xập xình được chừng ba mươi phút, thì đạn pháo bay ào ào vô trúng ngay nơi các Sỹ quan đang xem văn nghệ, thương thay Thiếu tá Ngô Minh Hồng LĐ 5 bị mãnh pháo trúng ngay đôi chân của ông, sự hỗn loại xãy ra tức thì , mọi người bên trong túa ra, Thiếu tá Lạc cũng nhanh chóng ra về để tránh những đợt pháo tiếp theo, thật hú vía nếu một vài viên pháo rơi ngoài cổng thì chắc tui với anh Hổ cũng đi “Bán muối” rồi cũng nên.

                                              ***

 Rồi chiến trường An Lộc cuối năm Bảy hai, tụi tui có mặt nơi chiến trường phía Bắc Bình Định,Tam quan vùng đất bạt ngàn Dừa, vì vậy mới có câu ca dao :

   ” Công đâu công uổng công thừa, công đâu lấy nước tưới dừa Tam Quan”,

 Đoàn công voa chở tụi tui ra đến Chi khu Tam quan thì Hoàng hôn đã rơi xuống, xe chưa dừng hẳn thì cũng được đón tiếp bằng tràng pháo từ phía vùng núi An Lão phóng xuống, né qua hai bên đường tránh xa đoàn xe để phòng xe bị trúng đạn gây cháy nổ, ít phút sau tiếng pháo ngưng hẳn do bị phản pháo lại từ chi khu Tam Quan, bực mình kiểu chào đón này Thiếu lá Lạc nói sẽ trả thù trong nay mai,

 Đơn vị chúng tôi được tăng phái cho Sư đoàn 22 bộ binh do Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm chỉ huy, mọi cuộc hành quân do phòng 3 Sư đoàn đưa xuống, những trận đánh nãy lửa nơi đồi Mười thuộc quận Hoài Nhơn, Hàng ngày nghe đạn pháo nổ rì rầm nơi đây khiến dân tình ai cũng buồn vô hạn, bữa nọ khi Tiểu đoàn … ( Tui không nhớ tên) đụng trận ác liệt, hợp đoàn trực thăng Mãnh Sư của phi trường Phù Cát khi yểm trợ cho tiểu đoàn nọ, không may một chiếc UH1 bị trúng đạn phía sau phần đuôi khá nhiều, do sợ bay tiếp bằng tàu này không an toàn, Pilot đã hạ cánh xuống trảng cỏ rồi anh ta và phi hành đoàn chiếc tàu nọ lên chiếc khác để bay về Tam Quan , đang ở trung tâm hành quân của liên đoàn, Thiếu tá Lạc tức tốc  nai nịt gọn gàng ông kéo tui theo lên chiếc trực thăng khác bay đến nơi chiếc UH1 bị rơi, từ trên cao nhìn xuống tui thấy chiếc phi cơ nằm êm trên thảm cỏ, trước khi hạ cánh xuống, Thiếu tá Lạc yêu cầu xạ thủ phi hành xổ những tràng đại liên M60 quanh tàu để ngăn ngừa bị đối phương phục kích, tàu đáp xuống bên cạnh chiếc bị nạn, nhanh như sóc, một mình Thiếu tá Lạc nhảy xuống leo lên chiếc bị nạn, ông điều khiển chiếc UH1 nọ bay lên một cách rành rọt không thua gì pilot chuyên nghiệp, cả dơn vị tui, và các anh em trong phi đoàn biết tin này đều khen ông Lạc là người tài hoa vô cùng, vì có mấy  người sỹ quan tác chiến mà biết lái trực thăng kiểu vậy.

 Tui nhớ như in, lần nọ khi biết chiến trường Tam Quan Bồng Sơn lắng dịu, cuộc sống bà con nơi đây sinh hoạt nhộn nhịp hơn, chợ búa đông vui, người buôn kẻ bán tấp nập, tình quân dân cũng gắn bó hơn, vì chiến cuộc tạm thời không còn gây khỗ sở cho bà con nữa, hôm nọ SĐ 22 báo tin có Tổng thống Thiệu ra thăm viếng và ủy lạo cho anh em trong LĐ6, không khí tiếp đón được Thiéu tá Lạc chuẩn bị chu đáo, vòng  vây an  ninh từ xa được các tiểu đoàn thiết lập, gần đên giờ đáp của ” Mặt trời”, Thiếu tá Lạc kêu tui chuẩn bị một trái khói  màu đỏ để chút nữa theo ông ra bờ biển Tam  Quan đón phái đoàn từ trung ương ra thăm, tui đang bận chuẩn bị máy móc nên tui nhờ thằng Linh nó tìm trái khói đỏ cho mình, nó loay hoay tìm khói đỏ không ra. Nó trao cho tui trái khói màu xanh, nó còn nói xanh đỏ gì cũng được, miễn có khói là ok rồi, tui ỷ y không báo cáo lại cho Thiếu tá Lạc, nên khi trên đường ra bờ biển, từ phía trước xe ông Lạc quay ra phía sau kêu tui đưa trái khói đỏ cho ông, tui đưa cho ông trái khói màu xanh, ông giận dữ lên, và đây là lần đầu tiên từ lúc tui theo ông suốt đến giờ ông  mới nỗi trận lôi đình như vậy, ông lấy cái ông liên hợp của  máy PRC 25 đang cầm trên tay ông gỏ mạnh lên cái nón sắt đang đội trên đầu của tui khiến tui hoảng vía vô cùng  rồi ông gọi máy cho đại úy Bôn ( Người thay Trung Úy Cao văn Tranh) cho lính  mang gấp ra bờ biển cho ông trái khói màu đỏ, chỉ vài phút sau đích thân đại úy Bôn mang ra trao tận tay cho ông, Thiếu tá Lạc rất nóng tánh nhưng cũng mau nguội, trong khi chờ phái đoàn trung ương đáp xuống, ông nói với tui với cái giọng chân tình;

– Hùng nè, mai mốt thiếu tá dặn gì phải nhớ làm cho đúng nghe, đừng để sơ suất như hôm nay lỡ công việc hết.

 Biết ông giận quá lỡ đối xử nặng tay với tui, khi nhận ra điều này ông đã an ủi tui thì lòng dạ nào tui giận ông cho được, tui dạ rân cho ông vui lòng.

  Công việc tiếp đón hoàn tất mỹ mãn,  được trung ương thưởng cho số tiền lớn, Thiếu tá Lạc chia cho các đơn  vị cùng hưởng ơn mưa móc của trung ương, đêm đó tui uống thật nhiều mà chẳng thấy say, có lẽ tui mừng vì có người chỉ huy biết tâm lý ứng xử có tình có lý với thuộc cấp nên không say là vậy chăng ?.

                                        ***

  Sau các chiến công ở chiến trường Bắc Bình định, ông Lạc được vinh thăng Trung Tá, không vì lên lon mà ông không chú ý đời sống anh em, một hôm tui đang trực máy  bổng nghe người của Chi khu Tam Quan báo có một người lính BĐQ không rõ đơn vị nào, anh ta đang cướp tiền của người dân trên  đèo Bình Đê ( Giáp Ranh Sa huỳnh Quảng Ngãi). Tui trình gấp cho Trung Tá Lạc, ông kêu tui đi theo ông tức thì, anh Hổ vừa lắi xe đến đèo Bình Đê, thấy hai bên giằng co nên tức tốc tấp xe vô lề, Trung tá Lạc bay xuống túm lấy cổ anh lính nọ rồi dõng dạt hỏi:

– Đâu bàn tay nào mới cướp tiền dân đâu, giơ lên cao tao coi.

Người lính nọ vừa giơ tay qua khỏi đầu, ông Lạc rút ngay khẩu Rulo ra khỏi cái bao súng,  ông nổ liền một phát súng vô bàn tay anh ta, máu  chảy lay láng anh ta ôm   bàn tay mặt  mày tái méc không còn chút máu, Trung Tá Lạc nói:

– Tao bắn cho mầy  chừa cái thói cướp giật nha.

Thấy tình trạng chảy máu nhiềucura anh ta,  sợ nguy hiểm tính mạng nên Trung tá Lạc  nói:

– Hổ lấy băng cá nhân băng cho nó, Hùng gọi máy xin  trực thăng tản thương ra Quân y viện Qui Nhơn gấp.

Tui với anh Hổ thi hành răm rắp, anh lính nọ được đưa về quân y viện kịp thời nên giữ được  mạng sống, khi điều tra lại, anh ta là lính bộ binh giả danh sắc áo tụi tui để làm càng.

                                 ***

  Sau chiến dịch Hòa Bình 222 đơn vị tui được đóng quân trên đèo Phù Cũ, nơi đây đơn  vị xãy ra   nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn, ở nơi này một thời gian Trung Tá !ạc bị đổi đi đơn vị khác, Trung Tá Nguyễn Kim Tây về thay thế cho ông, sau này tui nghe râm ran lời đồn đãi , Trung tá !ạc bán một số quân dụng cho thương buôn nên  ông bị cách chức, việc  này hư thực ra sao tui chẳng rõ, luật pháp công  minh, có công thì thưởng có tội thì trừng, ông bà ta ngày xưa đã khẳng định vậy rồi.

  Nhắc lại một đoạn đời đã qua, nhớ  những lúc vui buồn bên ông tui cảm thấy chạnh lòng, giờ Trung tá Lạc đã là người thiên cổ, ông đang hưởng nhang thánh Chúa nơi cõi Vĩnh Hằng, xa rồi những ngày vùng vẫy nơi chiến địa,tui cũng cầu  mong Trung Tá của tui bình an nơi miên viễn .

                              Cuối hạ 2022.

TRUNG ÚY HUỲNH.

Tác giả : Hai Hùng SG

Anh Huỳnh có vóc dáng giống nghệ sỹ Thanh Tú nhưng anh không phải  là kép Cải lương, anh chọn ngành bình nghiệp của bình chủng Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Gia Định, anh được cấp trên bổ nhiệm làm Đại Đội Trưởng đại đội 3/665 đóng quân vùng Mỹ Thủy -Thạnh Mỹ Lợi với cấp bậc Trungúy.

   ***

  Rời trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở Bà rịa về lại trại Ngô Tùng Châu trên đường Ngô Tùng Châu, đám tân bình lính sữa tò te tụi tui nằm chờ phòng quân số Tiểu khu đưa về các đơn vị trong tỉnh, nằm chờ cả tuần lễ mà chưa thấy động tịnh gì, một số bạn tui rủ rê ” Chui lổ chó” để về thăm nhà, bạn đầu tui cũng chết nhát không dám tham gia nên tui bàn ra:

 – Chèn ơi! Tụi bây gan thiệt, trong mình không có tờ giấy lộn chứng mình là lính tráng gì ráo, ra đường lớ quớ gặp mấy cha ‘ Quét chợ” ( Xin lỗi mấy anh Quân cảnh) mấy ổng “lượm” mình liền , rồi họ đưa về Quân vụ thị trấn cho muỗi mòng làm thịt mình chịu đời sao thấu.

Nghe tui nói vậy, thằng Thể ( đã chết sau khi ra đơn vị được chừng bảy tháng) nó cự tui liền:

– Tụi mình cực khỗ ba tháng quân trường rồi, đúng ra tiểu khu phải cho anh em về phép thăm nhà vài bữa, chứ ăn dầm nằm dề kiểu này chán chết, mầy không ‘Dù” thì ở lại giữ đồ  giùm tụi tao, khi trở vô có đồ ăn ngon tụi tao cho mầy ké.

  Thằng Phích bạn thân của tui, nó đứng cửa giữa phân trần:

-Thằng Hùng nói cũng đúng, nhưng thằng Thể nói cũng có lý, thôi ai muốn thì dù, ai sợ thì ở đây ăn cá mối chiên tiếp đi nha.

 Nói dứt câu thằng Phích phá lên cười, mấy đứa bạn gần đó cũng cười rần lên, tui gượng gạo nói:

– Ừ thì dù, có gì thì “Nằm chuồng cọp” cả đám cho có anh có em..

     ***

Thế là tui tui chui hàng rào kẽm gai để về thăm nhà, vừa ló mặt tới chợ cây Quéo tui thấy bốn anh Quân Cảnh

 đang xét giấy tờ, quíu giò quíu cẳng tui chưa biết cách nào để qua cửa ải này, tự dưng tui phản xạ có điều kiện, tui ngồi bệt xuống đất  tháo đôi giày ra cầm trên tay, rồi tháo áo ra khỏi lưng quần, lè phè giống như mấy người ham vui lấy đồ lính mặc chơi chứ không phải là lính thứ thiệt, tui bậm gan đi qua mấy anh Quân Cảnh và trong bụng không quên niệm Phât cầu mong được  ngài che chở , chắc trời Phật ở xa quá chưa nghe  để cứu khổ cứu nạn cho tui, anh Quân Cảnh gần tui nhất đã lấy cái tu huýt thổi một hồi dài rồi ra hiệu cho tui đừng lại, anh ta đưa tay lên chào tui, tui cũng chào lại anh cho đúng lể nghi quân cách, anh hỏi tui:

 – Trời lính tráng đơn vị nào Vậy ông cơn, mang giày vô , bỏ áo vô quần và gom ống quần lên đàng hoàng coi.

Tui như còn thằn lằn  đứt đuôi sợ gần  chết, trong bụng thầm nghĩ chuyến này chắc thế  nào cũng bị nhốt ở Quân vụ thị trấn, tui lí nhí trả lời với anh ta:

– Thưa Trung sỹ, em tân bình mới mãn khóa về chờ ra đơn vị, nhớ nhà quá nên mới lén về thăm nhà, em ở trại Ngô Tùng Châu gần đây nè.

Viên Trung Sỹ mĩm cười và nói:

– Thì ông cứ mặc đồ bình thường,  mắc chứng gì cỡi ra hết ráo vậy, thôi lên xe về quân vụ thị trấn nghỉ mát vài bữa nha.

Tui điếng hồn  lật đật ca bài ca “con cá” liền :

– Trung sỹ thông cảm, nhớ nhà quá, về thăm chút xíu trở vô liền,  nhà em chỗ Mỳ cây gòn ngó vô chừng trăm thước thôi.

Có lẽ thấy tui mặt còn búng ra sữa nên anh ta nói:

– Nói vậy thôi, tui tha cho ông lần này đó, mai mốt không ăn mặc lôi thôi mất mặt bầu cua lắm nghe ông.

Tui rối rít cảm ơn anh Quân cảnh tốt bụng này, thầm mong nếu gặp lại lần  nữa tui sẽ trả ơn cho anh.

Tui lội bộ về tới  gần ngã  ba Võ Cây Trường ( nay là Lê Quang Định – Nguyên Hồng) thì bị cô gái chạy chiếc Honda Dame đụng từ phía sau, tui ngã xuống đường với cái cùi chỏ rướm máu, cô gái sợ hãi  đỡ tui ngồi đây rồi cô rút khăn mù soa ra làm khăn chậm vết máu cho tui, như để chuộc lỗi cô ta ân cần hỏi :

– Anh có khỏe không, em vội quá nên lỡ đụng phải anh, em thành thật xin lỗi, để em đưa anh về nhà nhé.

Mùi nước hoa thơm nhẹ của chiếc khăn bay lên  mũi khiến lòng tui lâng lâng, tui tạm quên cái đau của cô gái gây ra cho mình, tui đứng lên và tỏ ra đấng “Nam nhi chi chí”,  tui phán một câu:

– Anh là lính, làn  tên mũi đạn anh còn không ngán, vết thương này nhằm nhò gì cô bé ơi ( Tui nổ đó).

Cô bé cười duyên và cảm thấy nhẹ lòng khi nghe tui nói câu trên, cô ta liếng thoáng xin tui cái địa chỉ để hôm nào ghé lại thăm làm quen, tui ghi cho cô bé cái địa chỉ  vô cuốn sổ, cô nhận rồi hứa chắc như đính đóng cột sẽ đến thăm  tui trong thời gian sớm nhất, chia tay cô gái tui về nhà, trên đường tui hứng chí hát câu :

– Ngựa phi ngựa phi đường xá, tiến trên đường nắng chói chói lóa …

Thay vì tui ở nhà chừng hai mươi bốn tiếng  nhưng vì hy vọng cô gái nọ đến thăm mình nên nấn ná ở thêm một ngày nữa cũng chẳng thấy bóng dáng nàng ta, tui thầm nghĩ:  ” Có lẽ cô nàng sợ tui bị vết thương hành nặng hơn, hoặc xui xẻo tui chết bất tử sau khi bị cô nàng đụng, nếu đến thăm thì khác nào mang hoa vào thân, nàng dùng chiêu né là thượng sách rồi còn gì.

Tui trở lại trại Ngô Tùng Châu, vừa đến cổng gặp ngay ông Thượng sỹ Như đại đội phó tân binh của tụi tui, ông réo lên liền:

-Anh Hùng kia, cả gần dám chui hàng rào dù về nhà hả, Năm chục cái nhảy xỗm,  năm chục cái hít đất cho tui,thì hành xong cái phạm tội đó còn ăn vài hèo vô bàn tọa nữa.

                                         ***

 Tám đứa tui được đưa về Đại đội 3/665  đang đóng đồn tại cầu Mỹ Thủy ( Nằm trên đường ngã ba Cát lái đi về Thành Tuy hạ ). Chiếc GMC vừa dừng tại chân cầu, viên cán bộ Đại đội đi nhận Tân binh về, ông ta hối thúc tụi tui xuống xe vô trình diện Đại Bàng, đứng ở sân cờ ngay hàng thẳng lối thì tui thấy một viên  Trungúy trẻ măng , đẹp trại với bộ quân phục ủi hồ thẳng nếp, ông tiến lại trước hàng quân, tự giới thiệu

-Tôi TrungúyHuỳnh, Đại đội trưởng Đại đội mình ở đây.

 Ông nói sơ về tình hình tổ chức và cách phối trí lực lượng ở đơn vị, sau đó ông kêu thường vụ Đại đội chia tụi tui xuống Trung đội bên dưới.

 Tui được đưa về Trung đội 2 , đóng quân ở nhà chú thím Tám có hai cô còn gái sinh đôi rất đẹp, chắc cũng nhờ mấy bóng hồng này thủ thỉ hàng ngày nên tụi tui cũng vui trong bụng

 Ở Trung đội tui theo mấy anh em lội ruộng hành quân liên miên, tuy không đụng trận nào nhưng vất vả vô cùng, nên bữa nọ buồn quá tui lại “Dọt” về nhà chơi ba ngày, đến ngày lên đơn vị tui bị ông Thượng sỹ Hà phạt và trả về Đại đội với lời phê, “Lính ba gai”.

 Trình điện TrungúyHuỳnh ông phạt tui năm chuồng cọp tức thì, ông còn hăm tui mẻ răng, nếu tái phạm sẽ kỷ luật nặng hơn.

  Nằm trong chuồng cọp là hàng rào kẽm gai thấp lè tè, trong lòng buồn vô hạn, tuy vậy chừng ba chục phút sau, ông Huỳnh cho tui vô gặp ông, khi ngồi đói diện tui, ông lên tiếng hỏi:

– Anh thấy em nhà ở Gò Vấp hả, muốn về thăm nhà sao không xin phép rồi về, em đi như vậy là vô kỷ luật, mơi mốt đừng làm vậy nữa nghe.

Sau một hồi phân tích cho tui nghe  về lỗi lầm mình gây ra vừa quá, TrungúyHuỳnh nói với tui :

– Anh rút Hùng về Đại Đội luôn, ở đây phải làm việc cho đàng hoàng đừng bà gai nữa nhé.

Tui mừng rỡ vô cùng, vì ở Đại đội thì  chữ Thọ sẽ cao hơn ở Trung đội, vì ít khi đi hành quân và có dịp đi lòng vòng chơi trong xóm ấp Mỹ Thủy.

Rồi một bữa nọ bất chợt tui nghĩ, sao tự nhiên ông Huỳnh tốt với tui dữ thần vậy,  ông nâng đỡ tui đủ điều, thậm chí khi có khóa học chuyên môn ông cũng ưu tiên giành  cho tui, nghĩ hoài nhưng không có lời giải.

Một hôm tui đang ngồi đánh cờ tướng với anh Mỹ một người lính lão làng trong đơn vị, TrungúyHuỳnh đậu chiếc xe HonDa ss67  của ông kế bên hai tiên ông, TrungúyHuỳnh lấy trong túi xách một ổ bánh chuối nướng thật thơm cho hai đưa tui ăn, anh Huỳnh nói:

Về nhà chị bây biết có Hùng  cũng là dân Gò vấp nên chị có làm ổ bánh đãi nè, chị còn nói hôm nào lên gặp Hùng để hỏi thăm cho vui, vì vậy từ nay anh Huỳnh ở đây có người cùng quê là vui lắm rồi.

 Lại có khóa học chuyên môn gửi về đơn vị, anh Huỳnh kêu tui vô văn phòng Đại đội anh nói:

– Chuẩn bị hành trang Hùng theo học khóa này đi, sau này có tương lại hơn vì ít khi ra mặt trận.

Nhận sự vụ lệnh từ tay anh Huỳnh trao cho tui, tui ứa nước mắt, vì anh cho biết khi mãn khóa có khi tui được thuyên chuyễn đi đơn vị khác, trước khi đưa tui ra khỏi cổng đồn, anh Huỳnh móc trong bóp  đưa cho tui hai ngàn đồng làm lộ phí,

Tui lên xe từ giã Đại đội, từ giã ông anh Trungúy thân thương của tui mà lòng tui nặng trĩu,  vì ra đi lần này chưa hẹn ngày trở lại, chiếc xe chở tui đi xa dần khi cầu Mỹ Thủy chỉ còn một cái bóng mờ, tự dưng tui thấy mằn mặn ở khóa miệng, tui đã rơi lệ lúc nào chẳng hay.

                                      ***

 Xong khóa học, đúng như dự đoán của anh Huỳnh tui được thuyên chuyển qua đơn vị khâc, làm việc với ông sỹ quan mới tui không thích chút nào, ông này vừa hách dịch vừa muốn kiếm ăn ở mấy người lính khiến tui bất  mãn vô cùng, nhưng nghiệp nhà binh dù không vừa lòng cũng phải làm việc, còn nếu như không còn sức chịu đựng thì đành dứt áo ra đi tím đơn vị khác mà phục vụ

                                  ***

 Bẳng đi một thời gian, tình cờ tui gặp .ại thằng Phích bạn tui, hai đứa mừng mừng tủi tủi, tui hỏi thăm về TrungúyHuỳnh thì Phích buồn bã kể rằng, tui đi khỏi đơn vị một thời gian thì đơn vị cũ đụng trận liên miên, Anh Huỳnh của tui bị thương nặng trong một lần hành quân vùng bưng ông Thoàn, Khi tản thương anh về quân y viện cộng hòa  dó vết thương nhiễm trùng  và bị hoại tử nên bác sỹ đành cưa đôi chân của anh,  nghe đến đây tui bậc khóc, thương cho người anh tính thần hết lòng nâng đỡ mình, nếu không có anh TrungúyHuỳnh có khi giờ này tui cũng đã “Xanh cỏ” từ lâu.

                                       ***

 Dòng đời cứ tuôn chảy, tui miệt mài theo cánh quân đi quân hành, ngày tàn chính chiến tui lân la tìm đến xóm anh Huỳnh ở trên một góc đường Nguyên Du Gò vấp,  bà còn gần đó nói gia đình anh về quê khá lâu lkhi anh xuất viện làm thương bình.

 Tui thẩn thờ  nhớ lại đoạn đời mình đã đi quá, hình ảnh anh TrungúyHuỳnh hiên ngang trên chiến địa nhưng có tấm lòng nhân hậu với thuộc cấp của mình  trong đó tui là một điển hình, anh Huỳnh ơi, giờ này anh ở đâu, Hùng lúc nào cũng nhớ ơn anh, vì  anh đã cứu cuộc đời chú lính sữa   ngày xưa quá cơn bĩ cực,  xin anh nhận nơi đây lòng thành kính và biết ơn vô hạn của em nhé.

  Viết xong  14g25 ngày 15/7/2022

Thành Phố Buồn Tênh

Hai Hùng Sg

Tiếng hát trầm buồn của ca sĩ Chế Linh đang trình bày ca khúcThành Phố Buồn từ máy hát của nhà ai dội đến, ca khúc này đã khiến tôi nhớ quay quắc Thị xã Kon Tum, nơi đơn vị tôi đóng quân trong thời chinh chiến, cũng là chốn để lại cho Tôi nhiều kỷ niệm rất thân thương trong miền ký ức.

 Ở đây có một người thiếu nữ người dân tộc Ba Na sinh sống tại ngôi làng Konjơret ( Con dơ rét ), nằm cạnh bìa rừng cách sông Đakbla ( Đắp la ) xinh đẹp một con đường đất đỏ chạy xuyên suốt từ đầu đến cuối buôn làng. Cô gái có cái tên rất lạ: Djem ( Dem ), cô sở hữu một làn da trắng như những cánh hoa Cà phê được bà con trồng ven làng, mái tóc dài đen nhánh, thân hình cân đối và nhất là hàm rắng rất trắng và đều, nói chung là không chê vào đâu được..

Một ngày giữa năm 1974, do yêu cầu của chiến trường, đơn vị chúng tôi được phối trí lực lượng và đóng quân cách buôn làng nói trên chừng trăm mét, mục đích để chận đường chuyển quân của đối phương và bảo vệ buôn làng người dân tộc nơi đây. Sau một ngày vất vả ổn định nơi ăn chốn ở và nơi làm việc, khi chiều đến tôi cùng đồng đội ra con sông Đakbla để tắm giặt và lấy nước về sinh hoạt, xong đâu đấy Tôi và thằng bạn rất thân nó có tên Bùi Đức Kết người Quê Quảng Ngãi hai đứa ra ngồi cạnh bờ sông phía khu vực bên bị nước sông xâm thực tạo thành vách thẳng đứng rất đẹp nhưng hơi nguy hiểm vì có thể bị sụp đất rơi xuống sông lúc nào không hay, ngồi đong đưa hai chân, ngước nhìn bầu trời trong xanh bao la, rồi nhìn dòng sông lững lờ chảy, gió thổi hiu hiu, khung cảnh lạ lẫm nhưng hữu tình, giá mà lúc ấy biết làm thơ thì có lẽ giờ này Tôi cũng có được vài chục bài ca ngợi cảnh đẹp nơi này, đang thả hồn và đắm chìm với những suy nghĩ mông lung… bất chợt tiếng thằng Kết bạn tôi kêu lên thản thốt:

– Hùng ơi! mầy nhìn xem, có cô Tiên ở đâu đang hiện ra kìa.

Nhìn theo hướng của thằng Kết chỉ, tôi vội đáp lại:

– Thôi đi ông ơi, đó là nhà của Cô ấy chứ đâu ( Tôi đoán mò ):

   – Ủa mà sao tao thấy hình như mầy mới bị sét đánh phải không thằng quỷ, cái tật thấy con gái là mầy tươm tướp hà, coi chừng họ có chồng rồi đó đừng có mơ nghe mậy.

Chẳng thèm để ý đến lời của tôi, mắt nó cứ nhìn chầm chầm về ngôi nhà sàn nằm phía bên kia đường có cô gái đang ngồi ngoài hiên nhà chải tóc, bổng dưng hắn đổi tông hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập đâu vào đâu:

– Hồi nào tới giờ tao với mầy chơi nhau rất thân đúng không Hùng? Ngạc nhiên vô cùng tôi thầm nghĩ: 

  “Thằng này nó muốn cái gì đây, nói đại cho rồi còn bày đặt xa gần chi vậy nữa “

Trả lời nó, tôi nói:

– Còn cái gì nữa mà hỏi, bộ mầy tính nhờ tao chuyện gì phải không? muốn mượn chút đỉnh gửi về cho gia đình hả, tao còn đúng tám ngàn đồng nè, muốn thì cứ lấy đi, vậy là tháng này tao treo “mỏ” luôn.

Thằng Kết đớp chát lại tôi:

– Không phải đâu mầy ơi, tao gửi tiền về rồi, nhờ mầy chuyện khác, chờ tao một chút biết liền.

  Nó xoay người sang một bên, đúc tay vào túi quần rút gói thuốc lá Quân Tiếp Vụ nhăn nheo ra, đưa tay vuốt thẳng gói thuốc lá xong, nó xé tờ giấy bạc bên trong và lấy viết ra hý hoáy nhiều dòng chữ gì đó mà mãi đến bây giờ tôi chưa được đọc qua.

– Bây giờ tao nhờ mầy đem lá thư này đưa cho em gái bên đó giùm tao, và mầy chịu khó chờ cô ấy đọc xong và trả lời rồi mầy hãy về cho tao biết, xong việc này tao bao mầy một chầu cine ở ngoài Thị xã Kon tum, nếu không coi hát bóng thì mầy muốn gì tao cũng chìu, nhưng nửa tháng lương không kèm phụ cấp nghe mậy.

Cầm lá thư trên tay tôi thầm nghĩ:

 ” Cái thằng này sao nó bạo quá, chưa bao giờ nói chuyện với con người ta mà dám thư với từ “.

 Tuy vậy vì thương bạn nên tôi bất đắc dĩ làm cánh én chuyên chở mùa xuân Tây nguyên về cho nó, một thằng quỷ ” Háo sắc ” thấy phát ớn.

   Bước chân đến cầu thang gỗ trước hiên nhà cô gái, mắt tôi ngước nhìn, Đầu óc tôi gần như choáng váng và chợt nghĩ :

  “Cái thằng Kết ranh ma này đúng là có con mắt tinh đời”.

    Trước mắt tôi một dung nhan thánh thiện, nàng đẹp mê hồn khiến tôi cứ lóng ngóng thốt chẳng nên lời, thậm chí lúc ấy bản năng trổi dậy tôi định dấu biệt cái thư của thằng bạn thân kia, thầm mong làm quen với người đẹp riêng cho mình, nhưng rồi lý trí mách bảo Tôi phải đi lại đường ngay lẽ phải, tôi ngập ngừng nói với cô gái:

– Chào em ( Tôi Lấy hết can đảm ) Anh tên Hùng, anh mới về đóng quân sáng nay cạnh Làng mình, tình cờ gặp em nên bạn anh ( Tôi chỉ tay về phía bờ sông ) nó tên Bùi Đức Kết.Nó nhờ anh cầm thư này đưa cho em, anh không biết nó viết gì trong ở trong đó vì lịch sự anh không thể xem thư, nếu có gì không phải thì xin em vui lòng bỏ qua cho nha. 

  Cô gái nhoẽn miệng cười tươi như đoá hoa rừng vừa hé nở, lòng tôi xao động vô cùng, lúc ấy tôi cố kiềm chế chứ không thì sẽ không tròn nhiệm vụ của thằng bạn thân thiết giao phó. Djem nhận lấy lá thư vừa xem xong bổng dưng nàng cười ngất khiến tôi khó hiểu vô cùng. với giọng lơ lớ của đồng bào dân tộc nàng nói:

– Anh Hùng ơi! Anh nói với bạn anh là em có người yêu rồi. thật tiếc quá, thôi để em giới thiệu con Hơbia bạn em cho anh Kết nhé, còn người yêu của em là anh Hùng nè!

  Đất trời như sụp đổ dưới chân tôi, chân tay tôi lạnh cóng. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được một người con gái, mà là gái đẹp nữa, nói lời yêu thương mình thì hỏi làm sao tôi không khỏi bồi hồi, tôi chợt hiểu thì ra thư tỏ tình của thằng Kết. Bây giờ tôi phải ăn nói làm sao với nó đây? Không khéo nó lại cho mình là kẻ cướp tình yêu thì khốn khổ lắm thay, tôi nói với cô gái:

– Anh không ngờ nó để ý em nhanh đến thế! À mà tại sao em không thích bạn anh, còn anh đâu có gì đâu mà em lại chọn

– Em thấy anh đẹp trai hơn bạn anh.

( chắc lúc đó nàng chỉ nhìn cái tướng tá thôi vì xa quá làm sao biết thằng Kết không đẹp ), cô gái nói tiếp:

– Đã vậy anh Kết còn lùn hơn em…

Tôi bật cười với câu nói ngây thơ thật lòng của cô gái miền sơn cước, tôi đắm chìm trong hạnh phúc ” Ðê mê ” kia, cái cảm giác ” Bất chiến tự nhiên thành ” nó đến với tôi như một phép mầu, không dễ gì có được lần thứ hai… 

   Rồi dăm tháng trôi nhanh, mới đó mà NOEL lại về trên quê hương, ngôi nhà thờ trong làng Konjoret được thanh niên, thiếu nữ Ba na, già làng, cùng cha bề trên giăng đèn kết hoa làm cho không khí núi rừng tây nguyên mang một sức sống mới, tôi và thằng kết cũng góp một tay vào công việc này để tỏ cái tình “Quân dân cá nước”.

Ðêm Noel thật vui, sau khi rước đèn quanh làng, tôi và thằng Kết được mời chung vui tiệc ( Rờ vi Dông ) đến gần tận sáng, nào rượu cần, nào thịt heo, vịt, gà tất cả đều nướng lên trên đống lửa bập bùng, hương nồng của rượu, cái nóng của đống lửa hoà vào cái không khí lạnh giá đêm noel, Tôi ngồi cùng Djem, thằng Kết quấn quít với con Hơbia chúng tôi có cái cảm giác hạnh phúc đong đầy, tôi cảm thấy trên cuộc đời này không có gì tuyệt vời như đêm hôm ấy.

  Cuộc sống bà con nơi đây không xa hoa, quanh năm sống cùng cái rẫy trên ngàn, con cá dưới sông dưới suối, con nai con mễn trên rừng, cuộc sống như vậy đó mà thật là hiếu khách, bản chất hiền hoà của mọi người khiến chúng tôi muốn rơi nước mắt khi chia tay nơi này, tôi sẽ nói ở phần sau…

    Mùa mưa của Tây nguyên lại đến, những cơn mưa rừng thường thì không lớn, ít khi hung hãn như mưa vùng đồng bằng, tuy nhiên có những cơn mưa rả rích cả tháng không thấy mặt trời, mặt đất nhuộm đầy bùn đất đỏ, nhất là cái lạnh mà anh em thường nói lạnh từ trong xương lạnh ra. Một hôm đang ngồi trực máy truyền tin tại Trung tâm hành quân của đơn vị, bổng đâu từ phía ngoài thằng Kết mình ướt như chuột lột nó lao vào như tên bắn, đến chổ tôi ngồi nó thì thầm bên tai tôi như sợ các sếp biết chuyện bí mật gì vậy:

– Người yêu mầy đang bị sốt rét rừng hành hạ kìa, Ông Thượng sĩ Còn (Tên riêng ) nhờ báo cho mầy biết đó.

Giật bắn người, tôi cự nự nó:

– Sao giờ này mày mới nói hả thằng quỷ?

Bật đứng dậy tôi dùng hai tay ấn vai thằng kết xuống ghế, nhờ nó làm thay công việc tôi đang làm dang dở:

– Mầy trực dùm tao, chút nữa tao trở về.

   Nói được có bấy nhiêu, khoác vội chiếc Poncho tôi đến ngay nhà Djem, mọi người trong nhà vây quanh, Djem nằm thở mệt nhọc, vóc dáng xanh xao, bao nhiêu sinh khí hầu như mất gần hết, tôi thương cảm và đến gần bên hôn nhẹ trên trán ( Lúc này tôi hơi tự nhiên ) và hỏi nhỏ:

– Em có uống thuốc men gì chưa? ăn uống được không?

Djem cố trả lời:

– Ở đây không có uống thuốc gì hết, có nhờ thầy cúng đến làm phép bắt con ma rồi, vài hôm em sẻ khỏi thôi mà.

Tự dưng tôi nỗi nóng:

– Trời ơi! Bệnh là phải uống thuốc chứ, cúng kiến làm gì mà khỏi bệnh, sao mà vùng này còn mê tín quá vậy.

Nhiều cặp mắt người thân trong nhà nhìn về phía tôi, họ nghĩ tôi từ một hành tinh nào đến chứ không phải người đang sống nơi đây, tập tục người dân tộc khi bệnh hoạn thì nhờ thầy cúng, công bằng mà nói nhiều khi con bệnh có sức đề kháng tốt thì tự khỏi bệnh trong vài hôm thì công lao đó được coi như là nhờ thầy cúng, từ đó bà con cứ tin mà làm theo lệ. Biết mình lỡ lời thiếu kiềm chế, tôi lấy cớ thối thoát xin phép ra về. Sau đó tôi nhờ vị sĩ quan quân y ở đơn vị đến chạy chữa thuốc men thì Djem khỏi bệnh sau một tuần bạo bệnh.

  Sau lần đó tình yêu chúng tôi càng thăng hoa hơn, tuy vậy hai đứa vẩn giữ gìn cho nhau chưa bao giờ cả gan vượt vòng lễ giáo, nếu làm như vậy thì sẽ bị làng phạt nộp một con bò để tạ tội với Giàng với bà con thì… chết chắc..

  Đến mùa thu hoạch hoa màu, rẫy bắp đầy trái, chúng tôi làm việc bên nhau vui vẻ, lúc rảnh rỗi tôi phụ Djem để chia sẻ bớt nỗi nhọc nhằn bấy lâu ; lúc nghỉ trưa, bên bóng mát của cây gỗ dầu có niên đại chừng trăm tuổi xoè tán rộng che mát cho hai tâm hồn đang hướng về nhau. Djemnói với tôi:

-Em muốn cưới anh quá, anh có muốn không?

  Tôi bất ngờ nhưng không ngạc nhiên lắm, do người Bana theo chế độ mẫu hệ, nên lời đề nghị này không phải là khiếm nhã cho là ” Cột đi tìm trâu “. Thật lòng Tôi Đáp:

-Anh rất muốn, nhưng phải xin ba mẹ ở nhà mới được. Khi nào có kết quả anh cho em biết nhé, Djem giận dỗi:

– Đừng có làm bộ rồi trốn về Sài Gòn luôn nha, ở đây buồn là em sẽ chết đó.

 Tôi bụm miệng Djem lại, khẻ tát yêu vào má và trách:

   – Không tin anh thì thôi… anh sẽ…..

Cũng đến lúc tôi được hưởng 15 ngày phép thường niên, trên đường trở lại Sài Gòn tôi miên man suy nghĩ đến những gì mình phải đối mặt với gia đình, thuyết phục gia đình được không? mệt mỏi với ý nghĩ trên tôi thiếp đi trên chuyến xe đò liên tỉnh, khi giật mình thức dậy và Sài Gòn đã hiện ra trước mắt tôi bao tháng ngày xa cách.

Ngày đầu tiên ở gia đình tôi chưa dám đá động gì đến mối tình sâu kín của mình, qua hôm sau trong một buổi cơm chiều, thu hết can đảm tôi trịnh trọng thông báo:

– Bấy lâu nay con đã để lòng thương một cô gái người dân tộc, cô ấy ở gần nơi đơn vị con đóng quân, con lớn trong gia đình.. nhà hơi nghèo nhưng được cái tính giỏi giang và nhất là đẹp và khoẻ mạnh. Nay con xin ba má cho con được lấy cổ làm vợ… lâu lâu chúng con sẽ về thăm ba má một lần.

Để giành lấy chiến thắng tôi tiếp tục pha trò:

– Tụi con sẽ mang về nào là bắp, mía, thịt rừng về cho ba mẹ, và cho cả nhà thưởng thức đặc sản tây nguyên nữa đó.

Như từ Cung trăng rớt xuống trần gian sau khi nghe câu chuyện thần thoại ” Ðường rừng ” này, mẹ tôi nói:

– Nếu con muốn làm

 ” Già làng ” thì ba mẹ không cấm, nhưng liệu về lâu dài con có chịu được hay không, và nhất là dư luận xã hội nữa?.

Ngầm hiểu gia đình không chấp nhận câu chuyện hôn nhân này, tôi đánh lạc hướng cho gia đình được vui:

– Lâu quá mới về nhà, không có gì làm quà nên con tạo ra “sì căn đan” này cho vui nhà vui cửa, chứ làm gì có ” Già làng ” nọ kia.

Trấn an gia đình xong, đêm đó về phòng nghĩ, tôi trằn trọc suốt đêm, cái cảm giác tội lỗi giữa bên hiếu bên tình nó đan xen nhau mãi khiến tôi gầy rộc người sau kỳ nghỉ phép tại gia đình…

 Trên đường quay lại đơn vị, cái ba lô sau lưng tôi nó trĩu nặng hơn mọi khi, hình như nó cũng muốn níu kéo ghì chặt tôi phải ở lại cái vùng đất này, vùng đất tây nguyên màu mỡ ngàn lần yêu thương…

 Rồi định mệnh dường như đã có sự sắp đặt, Tây nguyên được lệnh di tản chiến thuật, đơn vị tôi cũng không có ngoại lệ, chuẩn bị cho việc rút quân xong, chúng tôi lên xe từ từ lăn bánh rời xa ngôi làng Konjoret, bỏ lại phía sau bụi đỏ mịt mù, với tôi bầu trời dường như tối sầm trước mắt, lòng tôi ăn năn vô hạn, tôi đã không thể tròn nguyện ước với cánh hoa cà phê mong manh của mình, cuộc ra đi buồn như thế, không gặp được người yêu bé bỏng để nói lời tạ từ, nói lời xin lỗi tình yêu rất nồng nàn em đã trọn dành hết cho anh…

Xe chạy đến cầu Đakbla thì chậm lại, do có đoàn người lố nhố phía trước, bất chợt Djem của tôi cũng có mặt trong số người đó, nàng đang gùi trên lưng những trái bắp to tròn mũm mĩm, thành quả gặt hái được bao ngày vất vả trên nương rẫy, giờ đây đem ra chợ xã Konkopat để đổi lấy vật dụng cần thiết cho gia đình.

Thấy tôi ngồi sau chiếc xe jeep mui trần có 2 cần anten cao vút như râu của chú cào cào kiêu hãnh trên rẫy bắp mà tôi thường gặp, Djem bật khóc, hai hàng nước mắt lăn dài trên đôi má hồng, tôi vội ngoái người ra khỏi xe, vẫy tay chào và nói trong vô vọng:

– Nhớ giữ gìn sức khoẻ, chăm sóc ba mẹ nhé. anh sẽ…

Gió đã cuốn đi lời nói kia, Tôi chắc rằng nó không thể nào đến tai của người tôi hằng thương mến, giọng tôi khản lại, cố cắn chặt đôi môi để tránh bật thành tiếng khóc, nhưng sao miệng tôi mằn mặn hồi nào không hay.

               ***

Thôi nhé tạm biệt Tây nguyên, tạm biệt cái thành phố Kontum nhỏ bé mà buồn tênh kia, tạm biệt cái làng Konjoret, tạm biệt dòng sông Dakbla và xin tạm biệt tình yêu bé nhỏ của tôi…

Tiếng hát của ca sĩ Chế Linh cũng đã chấm dứt tự bao giờ, ngồi đây với thực tại tôi cũng mong rằng sau mấy mươi năm dài xa cách, người con gái Bana ngày xưa sẽ yên ổn mọi điều, và tôi cũng để cho bụi thời gian ngủ yên cùng quá khứ, một quá khứ Tuyệt vời…

* Đây là truyện ngắn đầu tay sau năm 1975 của tôi, cảm ơn các bạn đã xem qua.

               6.2011

Cầu Dakbla ( Hình st)

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Lính Trận Ở Thành Phố

Cách Mạng Táo Quân

Cách Mạng Táo Quân

Hai Hùng SG

Lời TG : Đây là câu chuyện đầu tay tôi viết vào năm 1974, đã đăng trên tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, mục lính viết tếu do cô Kim Yên phụ trách. Do đã thất lạc bản chính nay tôi viết lại vẫn giữ nguyên ý câu chuyện, nhưng lời văn sẽ có khác là điều không tránh khỏi. Mong quý đọc giả đón nhận .

***

  Như thường lệ sáng nào cũng vậy khi chiếc xe GMC chở ông Thượng sĩ nghiệp trưởng ban ” Hỏa đầu quân ” của đơn vị vừa về đến, thì mấy anh em trong nhà bếp tập thể vội lao ra chiếc xe ấy để chuyển thực phẩm vô nhà kho do bác Nghiệp mua về từ chợ Bồng sơn .

Nếu Tôi không lầm thì hầu như bác Nghiệp cho chúng tôi nạp vô cái bao tử của mình quanh đi quẩn lại mấy món sở trường như cá Đối chưng tương, cá Chuồn chiên giòn hoặc kho, thịt Heo kho đậu hũ, khá hơn chút nữa thì có món Bò xào đậu que … Còn món canh thì đa phần canh rau muống nấu Tôm khô, bí đao nấu với thịt .

                  ***

Đơn vị cả trăm miệng ăn vậy mà ban Hỏa đầu vụ của bác Nghiệp lúc nào cũng lo cho chúng tôi ăn đúng giờ, ngoại trừ những hôm thời tiết làm khó làm dễ, mưa bão bất thường củi lửa tắt ngúm thì lúc này chúng tôi phải ăn tạm gạo sấy và thịt hộp cho qua ngày .

Nơi chúng tôi đồn trú một cao độ nằm cạnh quốc lộ 1, một địa danh khá lạ lẫm với dân Sài gòn đó là đèo Phù Cũ, ở đây cách thị trấn Bồng Sơn vài cây số và cách thị xã Quy Nhơn gần trăm cây số, đường lên đèo quanh co khúc khuỷu có đoạn dốc rất gắt nên mỗi lần quá giang chiếc GMC của bác Nghiệp khi lên hoặc xuống đèo thì trong bụng chúng tôi lúc nào cũng đánh lô tô liên hồi vì chỉ cần tài xế lơ đễnh trong tích tắc thì xe sẽ tuột dốc và lao xuống vực sâu ngay, cũng mừng là từ khi đơn vị chúng tôi đến “Ngự trị ” trên ngọn đèo này chắc có lẽ nhờ những người khuất mày, khuất mặt phù hộ nên chưa xảy ra tai nạn đáng tiếc nào .

Một buổi sáng nọ, sau khi được lãnh lương do ban quân lương từ Sài gòn đem ra phát, trong lòng tự dưng nổi hứng muốn ” Hạ san ” đi chợ Bồng Sơn một chuyến cho biết tình hình mua bán của dân tình nơi đây ra sao và nhân tiện sắm một số vật dụng cho cá nhân .

Biết ý định của tôi, Thằng Bùi Đức Kết bạn tôi nó cũng hăm hở không kém nó cùng tôi theo ông Thượng sĩ Nghiệp đi chợ :

– Hùng…Hùng nè ! Chờ tao xuống núi với mầy luôn, cái thằng này bạn bè kiểu gì mà lúc đi ngao du chẳng bao giờ nhớ đến ai hết .

Tôi thanh minh với nó liền một khi, vì tôi sợ nhất làm mất lòng thằng Kết, bởi khi nó làm mặt giận thì lâu lắm nó mới đồng ý làm lành, hơn nữa khi nó giận tôi rồi, thì lấy ai nhờ cậy làm thay công việc cho mình lúc gặp hữu sự, nên tôi nói vuốt ve nó :

– Tao chưa kịp rủ rê mầy thì mầy nhảy vô họng tao rồi, còn nói gì nữa ? mà nói thiệt nghe, nếu không rủ mầy đi thì tao biết đi với ai bây giờ, thôi nhanh lên đi ông, cà rà, cà rề là bác Nghiệp bỏ mình lại đó .

Khi chiếc xe GMC đậu vào khoảnh đất trống kế bên chợ Bồng Sơn, ngôi chợ này là dãy nhà lá lụp xụp như những căn nhà chòi mà thời thơ ấu con nít trong xóm tôi cất lên để chơi trò bán đồ hàng, sở dĩ vùng này dựng nhà lụp xụp để tránh gió bão từ biển khơi thổi vào dễ làm tốc mái hoặc sụp đỗ, tuy vậy cũng có vài căn nhà được xây tô bằng xi măng quét vôi cẩn thận đã vậy họ làm thêm một tầng lầu, vì thế mỗi khi thời tiết không thuận lợi hầu như dân ở phố chợ này xúm vào tá túc nơi đó, tuy chật chội, bức bối, ngột ngạt do tập trung quá đông người nhưng cũng thắm đẫm tình nghĩa đồng bào, do họ đã thực hiện đúng theo câu tục ngữ : “Lá lành đùm lá rách” .

  Không để mất thời gian khi chiếc xe GMC đã được tắt máy, mọi người bên trên leo xuống và túa vào chợ, do lần đầu tiên đến chợ này, tôi và thằng Kết chỉ biết lẽo đẽo đi theo bác Nghiệp, ông Nghiệp đi lại thoan thoát từ hàng này qua hàng nọ, mua mua bán bán, cười cười nói nói, còn chúng tôi thì lóng nga lóng ngóng vì không biết mình bắt đầu từ đâu và mua cái gì, bao toan tính lúc nãy ở đơn vị trước giờ xe chạy, giờ thì nó biến đâu mất không còn lưu lại chút gì trong đầu, chưa biết tính sao thì một bà chị bán cá, chị ta đon đả mời chào :

– Hai chú lính sữa ơi, ăn cá gì chị bán cho nè, chị cân đủ và bán đúng giá luôn, hai cưng ăn gì ?

Thằng Kết nó lẹ miệng :

– Cám ơn bà chị, tụi em như vầy mà chị kêu lính sữa hả ?, còn cá ..thì sếp tụi em mua của chị cả chục ký rồi.

 Nói xong thằng kết chỉ tay về phía ông Thượng sĩ Nghiệp đang ngả ngớn nói cười với mấy cô bé bán rau muống gần đó, thấy chúng tôi nói vậy chị bán cá vớt vác bằng câu nói vui :

– Vậy mà chị ngỡ mấy em ở đơn vị khác, ai dè … Chỗ bác Nghiệp với chị thì quen lắm, mà hai em có vợ con gì chưa. Nói thiệt đi, hôm nào chị làm mai cho, con gái Bồng Sơn này trắng da dài tóc nói chuyện ngọt ngào lắm đa nghe .

Biết chị bán cá nói giỡn  cho vui, nhưng tôi làm ra vẻ ” Ngây thơ cụ ” :

– Trời chị nghĩ sao vậy, hai đứa em mới mười chín hai mươi mà vợ con gì chị ơi, tụi em mà lấy vợ tối ngày giành ăn chắc lối xóm cười dữ lắm .

Nghe chị bán cá nói đến việc làm mai mấy cô gái cho mình, như bắt được vàng thằng Kết đâu dại gì bỏ qua cơ hội hiếm có này, chờ tôi trả lời xong cho chị ta nó liền hỏi tới :

 – Chị ơi, cho em hỏi mấy cô đó hiền không, có coi được mắt hông nữa, vì ở Sài gòn nhiều cô đẹp hết xẩy mà em còn chưa chịu để các cô ấy làm quen với mình nữa đó chị .

 Nghe thằng Kết “Nổ banh ta long” với chị bán cá, tưởng đâu chị ta nổi trận lôi đình không ngờ chị vẫn cười và trả đũa thằng bạn tôi :

– Cha ơi ! Em có giá dữ vậy sao, nhưng thôi hôm nào ở không thì đến nhà chị cuối dãy chợ này, tụi em đến căn nhà có cánh cửa sơn màu tím, rồi chị kêu mấy đứa đến chơi cho biết .

Câu chuyện vui chúng tôi phải tạm chấm dứt do có vài bà khách đến mua cá, chúng tôi đành chào từ giã chị bán cá vui tính kia và không quên hẹn có dịp sẽ trở lại tiếp tục câu chuyện ngọt ngào của buổi sáng này .

Nhìn sang hàng rau muống thì lúc này bác Nghiệp cũng không còn hiện diện nơi ấy nữa, buộc lòng hai đứa chúng tôi đành phải quay ra cổng chợ, trên đường đi chúng tôi thấy người dân ở đây họ buôn bán với nhau rất nhã nhặn không thấy cảnh cãi vã lẫn nhau, khi đến căn nhà bày bán những bao gạo được vun lên có ngọn trắng phau như núi tuyết, một cô bé có đôi mắt thật đẹp và đượm buồn ngồi gần đó, hai gò má cô nhô cao đỏ hồng thật quyến rũ, tóc nàng để dài tha thướt và phất phơ bay khi có cơn gió nhẹ thổi hôn vào . Lúc này nàng dùng năm ngón tay làm lược vuốt lại mái tóc đen nhánh, bàn tay trắng ngần như những búp măng non . Tôi và thằng Kết như bị thỏi nam châm vô hình hút mình về hướng cô gái, đang bối rối vì gặp một giai nhân tuyệt mỹ của vùng biển mặn nơi này, thì thằng Kết nói nhỏ vào tai tôi :

– Hùng .. Mầy muốn mua gạo của cô bé này phải không ???? Sao mà nhìn chầm chầm con người ta vậy ?

Rồi nó cười rú lên khiến cô gái bán gạo không hiểu chuyện gì xảy ra nhưng rồi có lẽ trực giác đã khiến cho cô gái nọ biết rằng chúng tôi đang nói về cô ta, tôi nhìn kỹ thấy cô gái bẽn lẽn thẹn thùng, mặt đỏ bừng vội chạy nhanh vào nhà bên trong, thái độ cô gái đã làm hai đứa tôi cụt hứng, tôi quay qua trách thằng Kết :

 – Mầy ghẹo con người ta lộ liễu không sợ cô bé buồn hay sao ? Tao đang ngắm cô tiên nữ mà mầy phá đám để nàng biến mất, bây giờ tao phải làm sao đây chán mầy thiệt .

Đang tần ngần chưa biết tính sao thì thời may từ phía sau nhà của tiệm bán gạo, ông Thượng sĩ già Hỏa đầu vụ xuất hiện cùng cô gái, tôi mừng thầm trong bụng :

 “Bác Nghiệp ơi ! bác là vị cứu tinh của cháu đó bác biết không”.

Tiếng bác Nghiệp hỏi cô gái :

– Đâu ? Cháu Bồng nói đứa nào đâu chỉ cho bác coi .

Tôi thấy cô gái không trả lời mà hướng đôi mắt về phía chúng tôi, bác Nghiệp dường như hiểu ý bèn hất hàm hỏi chúng tôi :

– Hai thằng nhóc này tụi bây ghẹo cháu Tui phải không ? Người ta con nhà đàng hoàng đó, đừng ghẹo quá trớn coi không được nghe bây, tui mà nghe cháu Bồng méc lại thì tui cúp cơm hai đứa bây ráng chịu nhe .

Bác Nghiệp vừa nói vừa làm mặt nghiêm nghị, nhưng không quên nháy nháy mắt cho chúng tôi như ngầm bảo :

 ” Tới luôn bác tài, đừng cho số de “.

Cô Bồng nghe bác Nghiệp nói vậy bèn thanh minh :

– Không phải mấy anh này ghẹo con, con thấy mấy ảnh cứ nhìn vô tiệm hoài nên con sợ vậy thôi, chứ bây giờ con biết rồi, mấy anh chung đơn vị với bác thì con an tâm .

Thẹn thùng nhìn hai thằng tôi, cô Bồng bằng cái giọng nói ngọt như mía lùi :

– Mời hai anh vô nhà chơi uống nước, Bồng xin lỗi vì nhận xét không tốt về hai anh, bác Nghiệp quen với mẹ em và đã mua gạo ở đây từ lâu rồi .

Được cô Bồng mời vào tiệm gạo, tôi thì sướng rân người, còn thằng Kết lúc này nó đang nghĩ gì trong đầu thì tôi chịu thua không thể đoán ra, có điều thấy thái độ ngần ngừ của nó với gương mặt không vui tôi bèn chọt léc nó bằng câu nói :

– Ê thằng Kết, em Bồng này tao xí trước rồi nha mậy, sẵn ở chợ nè mầy nhờ bác Nghiệp kiếm cho mầy em khác, có nhiều khi còn sắc nước hương trời hơn em Bồng này cũng không chừng. hi…hi..

Nó nghe xong tiếng cười của tôi, nó làm bộ nghiêm mặt và giơ nắm đấm dứ dứ vào mặt tôi như là muốn thách đấu để coi ai thắng thì sẽ là người săn đón cô Bồng .

 Quan sát thấy cử chỉ của chúng tôi, dường như cô bé này đã đọc được suy nghĩ của hai đứa tôi, cô Bồng cười hiền rồi nhỏ nhẹ nói :

 – Hai anh cũng vui tính ghê hé, thôi vô nhà uống nước rồi chút nữa theo bác nghiệp về luôn .

Tôi hưởng ứng lời mời tức thì, riêng thằng Kết thì xin phép đi mua vài ba vật dụng linh tinh khác, nó chào tạm biệt tôi và cô Bồng nó bước thật nhanh như muốn nhường lại cho tôi tận hưởng tiếng sét ái tình mà tôi mới gặp .

 – Anh Hùng đi lính lâu chưa ? sao không chịu xin ở gần nhà, ra chi vùng đất chó ăn đá gà ăn muối này cho cực thân ?.

Hớp ngụm nước trà tôi thong thả kể lại quảng đời niên thiếu, học hành rồi hoàn cảnh vào quân ngũ của mình, nghe xong tôi thấy Bồng dường như chưa thoát ra khỏi câu chuyện tôi vừa kể nếu tôi không hỏi :

– Câu chuyện anh vừa kể có buồn không, mà sao anh thấy Bồng thẫn thờ quá vậy ?

 Nàng như tỉnh một giấc mơ :

– Dạ Bồng thấy buồn thật, nếu ba anh không bị cái tai nạn đó, có thể giờ này anh vẫn tiếp tục học lên nữa thì phải .

 Tôi không đáp lời chỉ gật nhẹ đầu thay cho lời nói, rồi cô Bồng cũng muốn tôi hiểu hoàn cảnh mẹ con cô, phải bỏ nhà của vườn tược trong miệt núi An Lão chạy ra thị trấn Bồng Sơn sau khi cha cô chết giữa trận giao chiến của hai bên, mẹ cô bươn chảy làm lụng buôn bán gầy dựng lại sự nghiệp cho đến bấy giờ, thú thật tôi có cái nhận xét, Bồng có cái lối kể chuyện như hát ru à ơi trong những buổi trưa hè khiến tôi bị cuốn hút thật sự, qua buổi trò chuyện này hai đứa chúng tôi có được cái nhìn về nhau thật gần về mọi mặt, và dường như sợi dây tình cảm nó đang bắt đầu buộc dần hai tâm hồn chúng tôi lại với nhau …

* * *

Đơn vị chúng tôi cũng như các đơn vị bạn đồn trú quanh vùng bước vào chiến dịch, suốt cả tháng trời quần nhau với đối phương, khi chúng tôi rút về vị trí cũ thì phía đối phương cũng rút vào rừng sâu trên dãy Trường sơn hùng vĩ, chiến trường lắng dịu trở lại, lúc này thì tôi mới lại có dịp nhớ về cô gái tên Bồng cô gái bán những hạt ngọc của trời ở chợ Bồng Sơn nằm cạnh bờ sông Lại Giang, con sông hiền hoà chảy, nước sông Lại Giang vào mùa khô thì trong veo nhìn thấy rõ từng hạt cát dưới đáy sông đang tung tăng di chuyển theo dòng nước, nhưng vào mùa mưa bão, dòng Lại Giang nước đục ngầu và cuồng nộ hung hãn lạ thường, trái tính trái nết như cô Bồng mà tôi yêu mến sau này .

Rồi dăm ba lần đến cái tiệm gạo, ăn dầm nằm dề khi rảng rang công việc ở đơn vị, cũng đôi ba lần chúng tôi hò hẹn bên dòng Lại Giang cuồn cuộn chảy, ngồi dưới bóng mát của rừng dừa chúng tôi trao đổi niềm vui nỗi buồn, rồi bỗng một hôm nàng nói với tôi :

 – Chúa nhật tuần sau, em với con Hoàng lên Đèo Phù cũ thăm anh với anh Kết nhé.

Nghe nàng nói, tôi chưa biết trả lời ra sao, vì khi đơn vị đang hành quân các sếp không cho anh em lính tráng đem bạn gái, người yêu đến đơn vị, đây là trường hợp đặc biệt tôi phải xin phép trước thì mới cho nàng câu trả lời chính thức, tôi hẹn nàng sẽ báo cho Bồng biết khi được sự cho phép của các sếp.

 Nghe vậy Bồng làm vẻ mặt không vui, suốt thời gian còn lại bên nhau nàng chẳng thèm nói với tôi thêm một lời khiến tôi áy náy lên tiếng :

 – Em không biết đâu, vì kỷ luật là sức mạnh của quân đội, anh tự tiện để em lên núi thăm anh là các sếp sẽ “Bố” cho anh một trận liền .

Với đôi mắt buồn buồn Bồng nói như trách móc :

– Chứ không phải anh nghi ngờ điều gì phải không ? Bộ sợ em lên đó dò xét rồi báo cho mấy ông “Bên kia” hay sao vậy ?

Tôi lấy ngón tay cốc nhẹ lên tóc nàng rồi phân tích cho Bồng hiểu thêm :

 – Làm gì có ý nghĩ đó cô nương ơi, suốt ngày gieo tiếng oán cho anh không hà, anh phải xin phép đàng hoàng để tránh rắc rối nếu nó xảy ra hiểu chưa .

* * *

Thấy tôi đứng chàng ràng nơi ông ngồi cộng sổ thu chi tiền chợ búa trong tháng để báo cáo cho Sếp đơn vị trưởng, bác Nghiệp dỡ cặp kính ra khỏi sóng mũi và lên tiếng hỏi tôi :

– Gì nữa đây chú em, canh hôm nay không ngon à ? Hay cơm sống, có gì cứ nói huỵt toẹc ra cho rồi, à thôi biết rồi, muốn xin phần cơm cháy phải không ? Cơm cháy hôm nay đưa cho ban Quân y hết rồi, ngày mai tui để cho chú mầy vài miếng nhai cho đã thèm .

Tôi dự định nhờ Bác Nghiệp dùng miệng lưỡi của Tô Tần thuyết phục sếp cho tôi được phép tiếp cô bạn gái tại đơn vị nhưng nghe bác nhắc đến mấy giề cơm cháy dưới bếp, thì trong miệng tôi nước miếng tự nhiên nó tuôn trào khiến tôi phải nuốt ực liên tục, vì cơm được nấu trong chảo bằng gang, nấu nhiệt độ cao nhưng ngọn lửa chỉ cháy liu riu nên lớp cơm dưới cùng cháy vàng thật đều và giòn rụm, cơm cháy được thoa lên một lớp mỡ hành và rưới một ít nước mắm y dằm thêm lát ớt đỏ đỏ cho vào miệng nhai, khi nó được nhai nhuyễn thì các vị mặn ngọt béo cay cay nó kích thích vị giác khiến người ăn bắt thèm, nhai nhóp nhép đến lúc bụng căng đầy nhưng vẫn còn muốn ăn thêm …

Trở lại chuyện tôi định nhờ bác Nghiệp nói với sếp tôi cho phép cô bạn gái được đến thăm tôi và thằng kết tại đơn vị, khi nghe tôi nói rõ ngọn ngành thì bác Nghiệp trố mắt nhìn tôi rồi gằn giọng :

– Nè …tui hỏi thiệt chú mầy nha, chú mầy cua con Bồng cháu tui sao mà nhanh dữ vậy, mà quen với nó rồi phải đàng hoàng nha, nếu không chú em mầy biết tay tui đó nghe, tui với mẹ nó là chị em kết nghĩa đó . Rồi để tui nói với ông Đại úy Bôn giùm chú mầy, sau này phải trả ơn tui đó nghen .

 Tôi không ngờ Bác Nghiệp nhiệt tình với mình như vậy, tôi trở về căn hầm của mình chờ đợi tin vui từ bác Nghiệp .

Chiều đến khi tôi xuống nhà bếp lấy phần cơm, Thấy tôi lơn tơn đi tới bác Nghiệp ngoắc tay gọi tôi vào văn phòng của ông :

– Chúc mừng chú em, Đại úy Bôn Ok rồi đó, mà hai con nhỏ đến chơi cả ngày rồi chú mầy liệu cho ăn uống đãi đằng ra sao, không lẽ lấy cơm nhà bếp đãi coi sao được .

– Trời ! bác không nói cháu quên phức cái chuyện này, thôi được rồi cháu với thằng Kết sẽ đi chợ mua đồ ăn rồi về tự nấu .

Bác Nghiệp cười khẻ và hỏi :

 – Hai đứa liệu nấu có ra món gì hay không ? Nếu cần tui nhờ mấy đứa nhà bếp nó phụ cho .

 – Nấu món ăn dễ ẹt bác Nghiêp ơi, hồi chưa vào lính ở nhà thỉnh thoảng cháu nấu cho cả nhà ăn ai cũng khen ngon.

 Tôi cố làm ra vẻ rành rọt trong cách nấu ăn nên trả lời bác Nghiệp theo kiểu nói mạnh miệng, chứ thật ra trong bụng tôi bắt đầu lúng túng, vì từ nhỏ đến ngày vào lính tôi chưa bao giờ đụng tay vào con dao cái thớt nói chi đến các món ăn phải chế biến cầu kỳ đúng cách thì mới ngon .

* * *

Vậy là còn hai hôm nữa, hai bông hoa của miền duyên hải sẽ đến thăm tôi và thằng Kết, đêm đó tôi với thằng Kết bàn bạc với nhau nấu món gì, suy đi tính lại cuối cùng chúng tôi sẽ làm ba món ăn gồm cá biển ướp muối sả ớt, bột nghệ rồi chiên giòn, thịt kho tiêu, và canh chua thịt gà nấu với lá giang, vậy là hai đứa yên tâm với thực đơn này, từ đây chính thức Tôi và Thằng Kết sẽ làm một cuộc “Cách Mạng Táo Quân”, tự mình nấu ăn để truất phế ngôi vua bếp của bác Nghiệp, nghĩ đến đây thôi bắt đầu tưởng tượng em Bồng của của Tôi và em Hoàng của thằng Kết vừa ăn cơm với các món ăn này vừa xuýt xoa miệng khen ngợi hai đứa tôi hết lời, bay bổng với ý tưởng trên tôi và thằng Kết ngủ thiếp trên cái võng đánh một giấc tới sáng .

* * *

Sáng chúa Nhật của cái ngày quan trọng với chúng tôi đã đến, trời vừa hừng sáng, không thể chờ quá giang xe GMC đi chợ với bác Nghiệp như mọi lần, Tôi và thằng Kết nai nịt gọn gàng, chân mang giày “Bốt đờ sô” đánh “si ra” bóng loáng, nói giỡn  cho vui chớ nếu con ruồi nào vô phước mà đậu vào mũi giày chúng tôi thì coi như nó tự kết liễu số phận của mình, do mũi giày lúc bấy giờ rất trơn và láng chú ruồi bạc mệnh kia bị trợt chân té xuống đất chết không kịp ngáp .

Hai đứa tôi lật đật cuốc bộ đỗ đèo, khi xuống đến quốc lộ chúng tôi quá giang xe ” Ba lua ” loại xe chở hàng có mui bít bùng để đến chợ Bồng Sơn, mười lăm phút sau chúng tôi đã đến chợ và bắt đầu trổ tài mua bán như bác Nghiệp làm hàng ngày, chúng tôi đến hàng của bà chị bán cá dạo nọ, thấy chúng tôi đến gần chị mừng rỡ ra mặt :

– Hôm nay mua cá giúp chị nghe, có cá Dìa ngon lắm, mới từ biển đưa vô, cá Hường, cá chuồn, cá đỏ dạ nữa nè .

– Cho tuị em bốn con cá Dìa, bốn con cá Hường, bao nhiêu đó đủ ăn rồi chị ơi !

– Ủa còn bác Nghiệp đâu hôm nay chị không thấy ?

-Dạ bác Nghiệp chút nữa mới đến chị à, tính tiền em luôn .

 Chị ta gói tất cả số cá trên vào lá chuối, chị lấy sợi dây lát buộc chặt khi gút lại chị chừa lại đoạn dây cho chúng tôi cầm . Ghé qua các gian hàng khác mua thêm các loại nguyên liệu cho buổi nấu ăn xong chúng tôi hối hả trở về đơn vị chuẩn bị cho cuộc hành trình : “Cách mạng Táo quân” .

* * *

 – Tao bắc nồi cơm, làm cá, mầy lặt rau nấu nướng nghe Hùng .

 – Cái gì cũng được mầy ơi, thôi nhanh tay lên sắp đến giờ mấy em đến rồi, làm không kịp là các em cười chê mình dữ lắm mầy ạ .

Tôi và thằng Kết hì hục làm việc, bắt nồi cơm xong thằng Kết đánh vẩy cá, khứa rãnh thân cá để khi ướp gia vị mau thấm vào, nó rửa thật sạch mấy con cá rồi chất hết vào rổ để lên cao cho ráo nước, tôi lặt rau, chặt gà rửa sạch và cũng để cho ráo nước, ít phút sau chúng tôi dọn dẹp rác rưởi gọn ghẽ và bắt đầu nấu nướng .

 – Chết rồi, quên mua muối bột lấy cái gì ướp cá bây giờ .

 – Cái bếp lò xô lại hết dầu nữa .

Thế là tôi với thằng kết mỗi đứa chia nhau xuống cầu viện mấy anh Hỏa đầu vụ “Viện trợ ” những mặt hàng còn thiếu thốn để hai chúng tôi hoàn tất hành trình làm cuộc cách mạng nêu trên .

 Khi có đủ các món cần thiết cầm trên tay chúng tôi hí hửng quay lại nơi bếp núc của riêng mình thì hỡi ơi, con mèo Tam Thể của Thằng Hồng ban quân y nuôi và con chó bẹc giê của Anh Hổ tài xế đang gầm gừ cắn nhau mãnh liệt làm tung mấy con cá và cả cái dĩa thịt gà rơi xuống cát, xuống cống thoát nước, trên mình cá dấu răng hai con vật giành ăn cắn xé nát cả thân, còn cái dĩa đựng thịt gà bể tan tành dưới đất, thịt gà thì văng trọn xuống mương cống thoát nước . Lúc này chứng kiến cảnh chiến trường bất đắc dĩ này tinh thần chúng tôi sụp đổ :

 – Đúng là “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên mà”. Giờ tính sao đây Kết .

 Nghe tôi hỏi, thằng Kết nó chưa vội trả lời, nó cầm hai thanh củi khô phang cho hai con vật đáng ghét kia, bị trúng đòn đau điếng con thì kêu ẳng ẳng cụp đuôi chạy về ban Quân xa, còn chú mèo Tam Thể kêu meo meo thảm thiết và phóng vội về ban Quân y, còn hai đứa tôi phải thu dọn bãi chiến trường, những

 “Chiến lợi phẩm” còn vươn vãi dưới đất được cho vô thùng rác vì không còn hình thù lúc ban đầu thì làm sao ai mà có can đảm đưa vào cái dạ dày .

Nhìn đồng hồ 11 giờ trưa, nắng bắt đầu gay gắt, chợ thì quá xa không còn phương cách cứu vãn tình thế hiện tại, thấy thằng Kết bứt đầu bứt tay, Tôi nói một câu làm nó tỉnh người :

 – Tao xuống mượn bác Nghiệp bốn cái hột vịt đem về luộc xong vằm nước mắm vậy là có một món mặn, món canh thì lấy hai tô canh rau muống dưới bếp bác Nghiệp, chén nước mắm cay, đãi hai em bằng món  này sẵn dịp mình thử lòng các em luôn mầy chịu không ?, vậy đi mầy không nghe người ta hát ví hả :

” Giàu thì cơm tấm bún bò .

Nghèo thì xôi, bắp cũng qua một ngày”

Như vớ được chiếc phao cứu sinh giữa biển trời bao la rộng lớn, thằng Kết nó toe toét cười rồi nói :

 – Tao bái mầy sát đất luôn nghe Hùng, khổng Minh Gia Cát Luợng tái thế chắc thể nào cũng thâu nhận mầy làm đồ đệ đó, chuyện vậy mà mầy cũng nghĩ ra . Bái phục .. Bái phục ..

Khi dọn những món ăn ngoài dự tính ra trên bàn ăn, tưởng chừng mọi chuyện đã an bày, khi chuẩn bị xới cho mỗi người mỗi chén cơm tôi cười muốn bể bụng, tôi nói với thằng Kết và hai cô em gái kia tiện thể nghe luôn :

– Công nhận thằng Kết này có tài thiệt nha, nấu cơm ba tầng kiểu này xưa nay hiếm lắm, mầy đi dự thi nấu ăn hay ẩm thực thì giựt giải cái chắc .

Nồi cơm nó nấu phần trên cùng sống nhăn, chính giữa nhảo nhoét, dưới đáy nồi cháy khét đen, nói dại bây giờ ai kêu nó nấu cơm mà có kết quả y như nồi cơm “Ba,tầng” ngày hôm đó chắc thằng Kết không bao giờ thực hiện được .

 Cuối cùng tôi cũng phải xuống nhà bếp của bác Nghiệp lãnh phần cơm đem về thế chổ cho cái nồi cơm của thằng Kết nấu .

Bốn người chúng tôi ăn uống đạm bạc trong ngày hôm đó mà hầu như ai cũng luôn miệng khen ngon, sau này tôi mới hiểu được do ai cũng đói meo nên ăn cái gì vào cũng thấy ngon, sau một ngày vui chơi bên nhau chúng tôi chia tay trong lưu luyến.

Đêm ấy cũng trên hai chiếc võng nằm tòn teng, tôi với thằng Kết ôn lại một ngày sóng gió trôi qua, may là kết thúc có hậu các nàng tiên của hai đứa tôi đúng là mẫu người không tham phú phụ bần, tuy cuộc “Cách mạng Táo quân” lần này thất bại nhưng tôi cũng thấm thía câu nói của người xưa :

 ” Không thành công cũng thành nhân ” 

***

   Khi chiến trường miền duyên hải bớt căng thẳng, đơn vị chúng tôi được tái phối trí lên Tây nguyên, chúng tôi chia tay hai nàng tiên bé nhỏ dễ thương mà chưa một lần gặp lại, hình ảnh hai cô bé ở chợ Bồng Sơn đôi lúc nó vẫn còn len lén đưa chúng tôi quay về bến mộng ngày xưa .

  Rằm tháng giêng 2012

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Lính Trận Ở Thành Phố

Lính Trận Ở Thành Phố

 (Hai Hùng SG)

Vác cái ba lô trên lưng, tui nhảy xuống khỏi chiếc xe Lam rồi đi bộ lại vài mươi thước thì thấy cổng trại Lê văn Duyệt , nơi đây là, “Tổng hành dinh” của đơn vị Biệt Khu Thủ đô, nó nằm trên con đường trùng với  tên Lê văn Duyệt  của thủ đô Sài gòn .

                      ***

  Trước cổng trại có hai anh lính Quân cảnh thường xuyên  bồng súng đứng canh gác, tui lần trong túi áo lấy ra tờ Sự vụ Lệnh do Phòng Một Tiểu khu Gia định cấp để trình cho một anh quân cảnh khác đang ngồi trực ở chòi canh sát bên trong cổng.

  Viên Trung sỹ Quân cảnh nhìn vô tờ sự vụ lệnh rồi cất tiếng hỏi :

 – Anh Hùng về đây học hả, anh cho tui coi Thẻ căn cước quân nhân và chứng chỉ tại ngũ để đối chiếu.

 Sau khi trình giấy anh Quân cảnh mĩm cười rồi nói :

 – Tiểu khu trưởng Gia định tên gì vậy anh Hùng.

 Tui đoán chắc ông này muốn  

“Thử phổi’ coi tui đúng là dân thứ thiệt hay dân “Bá vơ” nào đó lợi dụng trà trộn vô để phá rối, tui trả lời rốp rẻng liền một khi:

 – Dạ trình Trung sỹ, Đại tá  Lê văn Tư là Tỉnh trường kiêm Tiểu khu trưởng đó Trung sỹ.

 Anh ta nghe xong liền xếp gọn giấy tờ trả lại cho tui, anh ta chỉ tay về hướng bên trong, anh nói:

 -Đại đội Truyền tin Biệt Khu Thủ Đô nằm phía bên phải, anh đi gần cuối con đường này, gặp ngả ba anh nhìn bên Phải là nơi anh cần đến.

 Tui đưa tay chào kính cám ơn anh ta rồi bước đi vô bên trong trại theo hướng dẫn, các con đường trong doanh trại thật sạch sẽ thoáng  mát, hàng cây Phượng vỹ được trồng hai bên vệ đường che mát  cả con đường phía dưới bởi nắng Hè oi ả, hoa Phượng nở đỏ rợp cả trời, tiếng ve sầu kêu inh ỏi khiến tui có suy nghĩ:

  “Mùa hè là mùa học trò được nghỉ ngơi, vậy mà đám “Học trò mặc áo lính” tụi tui lại phải cắp “Ba lô” đến trường, đúng là chuyện ngược đời”.

 Sở dĩ tui có mặt ở trại này là do được anh Huỳnh, trung úy đại đội trưởng đại đội 3/665 ( Ba trên sáu sáu năm) cho tui theo học một khoá chuyên môn CC1 ( Xê xê một) Thiết trí khai thác dây của ngành truyền tin, vì sau một thời gian “lội bùn dơ, băng lau lách xuyên đêm” với cái máy truyền tin PRC 25 trên vai, thấy tui lanh lợi với gương mặt lính sữa, hơn nữa ảnh thấy tui sống cũng hòa đồng và tình nghĩa với anh em trong đơn vị, hôm nọ sau khi nhảy vô Bưng ông Thoàng lần thứ nhì bằng Trực thăng vận kết thúc, tui đang lơn tơn lội bộ trên Cây cầu Mỹ Thủy để về nơi đóng quân cách đó chừng cây số, vừa bước qua khỏi cây cầu đến cổng của Bộ chỉ huy Đại đội thì tui nghe tiếng Trung úy Huỳnh gọi tui giật ngược:

 -Hùng… Hùng nè vô đây anh biểu.

 Mình mẫy đang ướt át hôi hám bùn sình với cái máy PRC 25 trên lưng, nghe sếp kêu vô trình diện ổng làm tui không hiểu chuyện gì xãy ra với mình, không biết trong khi đàm thoại trên máy  lúc quân hành tui có nói điều gì mích lòng anh Huỳnh không, ổng kêu mình vô khiển trách điều gì?.

  Gặp anh Huỳnh trong sân cờ của Đại đội , tui giơ tay chào theo lễ nghi quân cách rồi đứng nghiêm chờ lệnh, anh Huỳnh miệng cười tay thì lắc vai tui, ảnh nói:

 – Thôi mai mốt khỏi cần vầy nữa Hùng ơi, anh với tụi em là huynh đệ chi binh, sống chết có nhau đâu cần kiểu cách cứng ngắc vậy đâu, khi nào tập họp tòan thể đại đội thì mới vầy.

 Rồi anh nói tiếp:

 – Hùng về tắm rửa thay đồ rồi mang ba lô về đây liền nha.

 Tui thắc mắc:

– Có gì gấp vậy trung úy:

-Anh cho Hùng đi học chuyên môn về truyền tin, sau này đỡ phải ra trực tiếp mặt trận, ngày mốt là nhập khóa rồi.

 Một chút ngỡ ngàng pha chút buồn vui lẫn lộn, ngỡ ngàng là tui được người chỉ huy chiếu cố cho cái đặc ân này, buồn vì sắp xa những người bạn thân thiết bấy lâu nay, từng cùng nhau dầm mưa những ngày đêm quân hành vất vả, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi khi có hữu sự, còn vui là chắc chắn ít ra tui cũng có vài tháng nơi phồn hoa đô hội, tạm xa rời ánh hỏa châu leo lét soi sáng nơi tiền đồn, tạm xa nanh vuốt của tử thần lúc nào cũng chực chờ lấy đi mạng sống của người chiến binh trên chiến địa, tạm xa hình ảnh đồng đội rên rỉ với vết thương loang máu nơi cái băng ca để chờ trực thăng tản thương, còn nhiều bất trắc nữa, tui thầm cảm ơn các đấng tối cao đã cho tui được cơ hội này.

 Trả lại cái máy truyền tin và khẩu M16 cho đơn vị, tui được cấp liền hai tháng lương dằn túi để có tiền nong tiêu xài trong những ngày học hành ở thành đô, khi sắp bước chân ra cổng rào của đại đội, tui cố thu lại những hình,ảnh thân thuộc này biết đâu khi học xong tui chẳng còn cơ hội quay lại, tiễn tui ra tận  cổng anh Huỳnh căn dặn tui đủ điều, ráng thu thập những kiến thức học được để sau này áp dụng vô thực tế  chiến trường khi cần, anh móc trong túi trao cho tui cái bao thư , anh nói với giọng đầy tình cảm thân thương:

 -Anh cho Hùng chút ít tiền để chi dụng, vì cần gì thì có tiền mà mua. 

 Anh đẫy tui ra khỏi cửa đồn một cách dứt khoác rồi anh quay lưng đi vô đồn ngay, hình như anh không muốn nấn ná với thằng em cùng quê với mình cho thêm phần bi lụy.

                        ***

  Doanh trại của Đại đội truyền tin nằm trong khuôn viên khá rộng, có hội trường, có nhà bàn nơi các khóa sinh ăn uống, có những dãy (sam) thoáng mát, trong đó những chiếc giường sắt, tủ quần áo cho mỗi khóa sinh thật đầy đủ.

 Đại đội trưởng đại đội truyền tin là Đại úy Bùi Xuân Thước, ông có vóc người nhỏ bé nhưng trắng trẻo như những chàng thư sinh, Đại úy Thước người xứ Huế tính tình hiền lành nho nhả, không bao giờ tui thấy ông giận dữ và la rầy thuộc cấp, vốn là phật tử ông ăn chay trường quanh năm, quản lý đám khóa sinh tụi tui là ông Thượng sỹ Thịnh người gốc miền Bắc cũng hiền lành không kém, vậy là đám khóa sinh tụi tui có phước vô cùng, vì không giống như những huấn luyện viên nơi các quân trường những ngày mới vô lính, mấy ” ông cố” này hở ra là phạt chắc muốn rèn cho đám tân binh thành những thanh thép nên họ phải hành xữ như vậy.

 Khóa học của tui có tên 4/71 cc1 gồm nhiều binh chủng trên vùng 3 chiến thuật gửi về tham dự, tổng số khóa sinh võn vẹn ba mươi mốt “mống” , có những anh chàng như Trung sỹ  Nguyễn văn Bộ, thuộc  Sư đoàn 18 bộ binh, Hạ sỹ nhất Lê văn Theo, sư đoàn 25 bộ binh, rồi Nhảy dù, Thủy Quân lục chiến, Pháo binh . V.v… 

 Anh Theo Sư đoàn 25 được bầu làm trưởng lớp vì anh lớn tuổi nhất, hơn nữa tính tình điềm đạm nên ai cũng có cảm tình. 

 Ngày đầu vô lớp ngồi học, Đại úy Thước bắt đầu cho buổi khai giảng, sau đó các sỹ quan và cán bộ huấn luyện viên của đại đội lần lượt lên lớp dạy cho chúng tôi, nào là môn điện học, vô tuyến, hữu tuyến, các loại máy truyền tin thông dụng xài trong quân đội thời bấy giờ, tui còn nhớ như in khi Thượng sỹ Thịnh dạy về các loại nút thắt sử dụng để nối dây điện thoại sao cho cứng cát, rồi ông giới thiệu cấu tạo của sợi dây điện thoại dã chiến, nào là gồm có bốn sợi đồng và ba sợi thép được kết hợp với nhau để dẫn điện tốt và đủ sức dẻo dai tránh bị đứt khi kéo dây, nó được bao bọc bởi hai lớp nhựa .V.v…

  Được chừng hai tuần khi khóa học bắt đầu, ngày thực hành ngoài thực địa cũng tới, ngày hôm đó tụi tui được báo thức sớm hơn mọi khi, thể dục rồi vệ sinh cá nhân xong cả đám xuống nhà bàn để ăn sáng  chuẩn bị cho buổi đi thực hành, trong khi ăn anh Bộ hỏi tui :

 – Anh nghe cái “Ti dô” mình vô quân trường Quang Trung để thực tập đó, vì trong đó mới có điều kiện để mình thực hành.

 Nghe vậy tui chán nản vô cùng, tui nói với anh Bộ:

.-Chèn ơi! Trong trại này rộng thấy mồ sao không cho thực tập ở đây có hơn không, đi xa vừa mệt vừa tốn kém.

 Không ngờ sếp nhỏ ( Thượng sỹ Thịnh) đứng sau lưng nghe rõ hai thằng tui bàn bạc như vậy, ông lên tiếng:

 – Hai cái ông này, đồn tầm bậy không thôi, chúng ta hôm nay vô Thảo cầm viên bên Thị nghè thực tập đó, thôi ăn nhanh đi cho kịp giờ.

 Nghe tin chính thức được vô Sở thú để thực tập, cả khóa học ai cũng mừng ra mặt, vì có ông chưa từng biết cái sở thú Sài gòn nó tròn méo như thế nào, riêng tui tuy đã từng được vô sở thú thời còn học tiểu học, thời đó thầy cô giáo dẫn học trò vô thăm sở thú rồi chụp ảnh lưu niệm tại Đền kỷ niệm trong đó, sau gần hơn chục năm nay mới có dịp quay lại nên tui cũng mừng thầm.

 Xe GMC chở cả đám khóa sinh tới sở thú, vì là đơn vị quân đội nên tụi tui không phải xuống xe, đến nơi thực hành là khu vực gần chuồng mấy con khỉ, bọn khỉ thấy đám lính thực tập kế bên chuồng thì chúng tụ tập ra coi, con thì kêu khọt khẹt, con thì ré lên inh ỏi để gây sự chú ý, con thì nhe răng gầm gừ hăm dọa.

 Những cuộn dây điện thoại dã chiến, những chiếc thang tre, những cây sào có ngoặc được tụi tui bày binh bố trận khắp nơi, rồi các máy tổng đài điện thoại hữu tuyến được lắp ráp mau chóng thành hệ thống liên lạc nội bộ như khi đóng quân.

 Ông Hạ sỹ Theo đang treo mình trên cái thang để nối lại dây, thình lình có hai cô nữ sinh đi ngang, thấy lạ lẫm hai cô ngó coi ông lính trên kia làm điều gì, tình cờ cây kiềm cắt dây rớt xuống, anh Theo vừa tuột xuống lượm lại, thì một cô nữ sinh nhanh tay lượm và trao cho anh Theo, anh cảm ơn rối rít rồi tiếp tục công việc, đám khỉ chuồng kế bên có con cũng bắt chước điệu bộ như anh Theo khiến cả đám cười rần lên, có đứa còn nói ghẹo:

 – Cha nội Theo này đong đưa giống y chang con khỉ trong chuồng phải không tụi bây.

 Anh Theo tức cành hông nhưng không làm gì được khi còn treo mình trên cao. Rồi lần lượt mỗi đứa phải thực hành một lần như yêu cầu của Thượng sỹ Thịnh đề ra, khi thực hành xong cũng còn nhiều thời gian, ông Thịnh cho đám khóa sinh được tự do vui chơi..

 Tụi tui tập hợp lại chụp ảnh kỷ niệm nơi cái đồng hồ hoa của sở thú, bổng đâu hai cô nữ sinh ban nãy ghé vô xin chụp chung để kỷ niệm với những người lính trận, anh Theo thấy vậy vội chen vô làm cục nhân giữa hai cô gái, Binh nhất Sang thuộc tiểu đoàn 63 pháo binh thấy vậy liền ghẹo:

.Ông Theo tham quá nha , sao không chia bớt cho tui một cô chụp hình cho vui.

 Hai cô gái e thẹn ửng hồng đôi má , vì nghe lời trêu hoa ghẹo nguyệt của thằng Sang .

Những lần thực tập tiếp theo trong sở thú, anh Theo đã làm quen với cô gái bán mía ghim, lần nào cũng vậy khi gặp nhau trong sở thú anh Theo mua mão hết số mía ghim kia để đãi cho toàn bộ anh em, lần này do được ăn mía ghim miễn phí nên tụi tui nín khe, không đưa nào lên tiếng trêu ghẹo cặp đôi này, không ngờ sau này cô Mía ghim lên xe hoa với anh chàng Sư đoàn 25 có số đào hoa kia. Trong đám cũng có một vài mối tình khác nhưng rồi khi tụi tui mãn khóa vê đơn vị thì những mối tình này cũng tan như làn khói mong manh.

 Khóa học sắp xong còn hơn một tuần thì Đại úy Thước tổ chức cho tụi tui thi tốt nghiệp. Hội trường ngày đó không khí im phăng phắc, Đại úy Thước làm chánh chủ khảo, ông ngồi trên cái bàn cao phía trên để nhìn bao quát, các huấn luyên viên phụ tá thì đứng vòng ngoài góp sức theo dõi thí sinh làm bài, tội nhất là Thượng sỹ Thịnh, ổng sợ “Mấy con gà” của mình làm bài không được nên ông cứ xà quần nơi mấy thí sinh mà ông cho là học kém, riêng tui thì thấy cái đề thật dễ vì tui học bài thật kỹ và thấu hiểu vấn đề nên tui làm dư thời gian ấn định, khi lên nộp bài tui thấy ông chánh chủ khảo cầm bài tui lên coi, ông gật gù ra chiều đắc ý, tui đoán có lẽ ông thích thú vì chữ viết tui khá đẹp, trình bày sạch sẽ nên ông vừa ý chăng.

 Trước ngày bế giảng khóa học, vài anh em khóa sinh nhận được thư của bạn bè trong đơn vị báo tin, người bạn thân của Trung sỹ Bộ đã anh dũng hy sinh ở chiến trường Long Khánh.

 Trung đội trưởng của Hạ sỹ nhất Theo đền nợ nước ở vùng Củ chi, tui thấy hai anh bạn cùng khóa học với mình thẩn thờ cả ngày khi nhận hung tin kia, anh em xúm lại an ủi tinh thần cho hai anh bớt buồn chờ ngày trở về đơn vị gốc.

                          ***

 Lễ mãn khóa tưng bừng khai mạc, hội trường trang trí đơn sơ nhưng trang nghiêm ấm cúng, cấp trên của Biệt khu thủ đô cũng đến tham dự và trao chứng chỉ cho khóa sinh, ai nấy rạng ngời niềm vui vì đã hoàn thành nhiệm vụ và sắp trở về gặp lại các chiến hữu sau vài tháng ngắn ngủi .

 Đại úy Bùi xuân Thước sẽ  đọc tên Thủ khoa nên ai nấy  hồi hộp vô cùng, tui cũng có cái tham vọng mình được nằm đầu bảng trong danh sách này, nhưng khi ông xướng lên:

 – Hạ sỹ nhất Lê văn Theo.

 Tiếng vỗ tay vang cả hội trường, tui liếc nhìn thấy anh Theo hãnh diện ra mặt.

 Tiếp đến ông đọc tên tui đứng hạng hai, và thằng Sang tiểu đoàn 63 pháo binh chiếm hạng ba, ba đứa tụi tui được yêu cầu lên sân khấu để cấp trên của Biệt khu thủ đô trao chứng chỉ và số tiền tưởng thưởng. Ngập tràn hạnh phúc vì kết quả học hành thật tốt, tui đã không phụ lòng Trung úy Huỳnh người anh tinh thần đã chắp cho tui đôi cánh để được bay trong niềm vui hôm ấy, buổi tiệc chia tay khóa sinh được tổ chức ngay sau đó, trong khi đã ngà ngà say tui thấy Thượng sỹ Thịnh đến bên tui, ông cầm ly lade lên cụng ly với tui, khi nốc hết trăm phần trăm tui muốn ói tại chỗ nhưng cố kiềm lại được, do vui quá nên Thượng sỹ Thịnh cũng sắp quắc cần câu, tuy vậy ông kéo tui tới một góc nhỏ bên hội trường, ông nói:

 -Đáng lẽ Hùng mầy là thủ khoa của khóa học này, Đại úy Thước cũng nhận xét như vậy, nhưng phải cho anh Theo thủ khoa vì ảnh đã bỏ công ra nhiều cho anh em khóa này nên Đại đội quyết định như vậy đó, chú mầy cũng đừng buồn nhé.

 Từ khi nghe anh Theo là thủ khoa tui tự thắc mắc có lầm lẫn gì chăng, vì trong khi học tui giúp cho anh Theo rất nhiều bài mà anh không hiểu, vậy mà anh đậuThủ khoa khiến tui hơi buồn trong bụng, nhưng rồi tui thầm nghĩ ” Học tài thi phận” , vì ngày xưa các bậc tiền nhân của đất nước mình có nhiều người sở học uyên bác, vậy mà khi ra đến trường thi thì trượt dài dài nên cái buồn cũng thoáng qua mau với tui. Công bằng mà nói Đại úy Thước đã có quyết định đầy tình người không thể nào chê trách.

 Đã mấy mươi năm trôi qua, những bạn đồng môn của tui ngày xưa biết ai còn ai mất, Đại úy Thước và Thượng sỹ Thịnh nếu còn hiện tiền có nghe qua câu chuyện này thì xin cho tui cảm ơn thật nhiều, vì quý vị đã cho tụi tui tình cảm huynh đệ chi binh thật quý báu của ngày xưa thân ái đó.

          (Mùng 5 Tết con Mèo)

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Cách Mạng Táo Quân

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần      

Tác giả :Hai Hùng Sg

Hồi chưa học Phật thú thiệt tui sợ cái chết lắm, mà chắc trên cõi đời này không thiếu gì người sợ cái chết đến với mình, nhưng khi có tuổi rồi tui có dịp mon men đến các bài giảng của các Thầy, nếu mình có “Nghỉ thở” bất tử thì âu cũng là quy luật của tạo hóa sinh lão bệnh tử thì cái chết cũng không còn đáng sợ nữa, vì dù ai rồi cũng phải đi đến cuối hành trình cuộc đời của mình mà thôi.

                   *

 Từ thuở thiếu thời tui đã mang căn bệnh quái ác khi mới sinh ra, đến chừng ba bốn tuổi thì căn bệnh trở nặng, tui mang chứng bệnh đau màng óc, căn bệnh này theo lời má tui kể lại khi bác sỹ khám ông nói khó lòng cứu mạng của tui, vì thời bấy giờ những năm đầu thập niên năm mươi nền Tây học nước nhà chưa tiến bộ, nên căn bệnh của tui chỉ còn “May thầy phước chủ” mà thôi.

  Một hôm tui lên cơn sốt, ba má tui lýnh quýnh ẳm tui nhanh chóng vô nhà thương, lúc này màng óc tui bị sưng lên và nhiễm trùng, các bác sỹ cố gắng cứu chữa tui với sự năn nỉ của ba má, rồi cơn nguy kịch tạm qua, bệnh tình tui như giả ngộ, nó cứ tái đi tái lại nhiều năm, mặc dù ngày xưa vô nhà thương không phải tốn kém tiền bạc gì ráo, nhưng chí phí nuôi bệnh có khi vài tháng khiến ba má tui cạn dần tiền bạc, sau này khi lớn lên hiểu biết ba má mình lao tâm khổ tứ vì mình khiến tui cảm động vô cùng, vì ba má đã sinh tui ra lần thứ hai, nếu ba má không quản cực nhọc đeo đuổi triền miên chăm sóc tui ở nhà thương thì lão Thần chết đã dẫn tui về dưới hồi đời “Tám hoánh” rồi không chừng.

  Tui đến tuổi làm bổn phận công dân trong thời chiến, tui nhập ngũ và được đưa về vùng 2 chiến thuật, đơn vị tui đóng quân trên đỉnh đèo Phù Cũ, đây là ngọn đèo nằm giữa thị trấn Bồng Sơn và thị trấn Phù Mỹ của tỉnh Bình Định, những ngày đầu sống trên đèo thật yên ả, trên cao lúc nào cũng lộng gió, khí trời mát mẻ, những tưởng “không khí” yên lành này sẽ kéo dài thì cuộc đời chinh nhân đâu có gì gọi là gian khổ.

  Một sáng nọ đang ngồi uống cà phê và đấu láo với mấy thằng bạn chung đơn vị ở câu lạc bộ do Hạ sĩ Đắc quân số thuộc ban Hỏa đầu vụ, Đắc là người Hoa ở Chợ Lớn miệng mồm lanh lợi, tánh tình cũng hiền lành chất phát nên ông Thượng Sĩ Nghiệp cai quản ban hỏa vụ cho anh ta bán câu lạc bộ, nói câu lạc bộ cho oai chứ thật ra đó là một căn hầm dã chiến được cất nổi trên mặt đất, chung quanh bao cát chất đầy kể cả nóc hầm, hàng hóa chỉ có vài hủ bánh kẹo, cà phê, trà,  nước ngọt và Mỳ gói.v,v…

Tui đang nhâm nhi được vài ngụm cà phê sữa nóng, thì cha nội Đắc nhắc khéo:

 – Hùng nè, “Gô sỹ” ( Nói Láy) nhiều lắm rồi đó, tới lương tháng này là tui thâu hết nợ nha.

 Nghe chả nói vậy tui lắc đầu  và nói:

 – Gì cạn tàu ráo máng vậy ông, lấy phân nửa thôi cho tui sống nữa chứ ông.

Cha nội Đắc nghe tui than vậy anh ta cười hề hề rồi nói:

– Tui nói giỡn thôi, chứ biết chú mầy chừa tiền để ra chợ Bồng Sơn thăm em nữa chứ gì, ai nỡ để chú mầy thiếu thốn.

 Tui chưa kịp nói lời cám ơn thì nghe tiếng nổ lớn phía sau chân đèo, cả đám túa ra để coi cái gì nổ, chưa kịp xác định là gì thì nghe tiếng đề pa phía xa xa trong miệt núi An lão, có ai đó hô hoán lên:

– Pháo kích, pháo kích. Mau xuống hầm nhanh lên.

 Tụi tui lật đật xuống giao thông hào để tránh đạn pháo của đối phương, có người nhảy xuống hố cá nhân để tránh pháo, rồi thì pháo liên tục nổ nơi vị trí đóng quân của tụi tui, bổng một quả đạn pháo rớt ngay hố cá nhân của một người lính cách nơi tui trú ẩn chừng năm mét, thịt xương anh ta văng tứ tung trong thật khiếp đảm, lực lượng pháo binh phản pháo lại thì không còn bị pháo kích nữa, tui mừng thầm vì lão thần chết cố tình né tui, bằng không thì tui đã ngàn thu vĩnh biệt rồi.

Đang trực máy ở Trung tâm hành quân đơn vi, thằng Liền một người bạn làm chung rủ tui đi ăn cơm trưa, tui chần chừ chưa muốn ăn vì tình hình chiến sự đang cam go, nhờ người làm thay tui không an tâm, vì lỡ có chuyện  gì xảy ra bị xếp nạo sát da, thằng Liền bỏ đi xuống ăn cơm với mọi người, chưa đầy mười phút sau một trái đạn hỏa tiển một trăm lẻ bảy li nổ ngay nóc hầm nơi mọi người đang ăn cơm, vài ba người bị thương trong đó có thằng Liền, tui chạy xuống coi tình hình thì thấy toàn bộ anh em ngồi chung mâm ăn cơm bị thương hết ráo, cũng may phước ai cũng bị thương nhẹ không đến nỗi nguy hiểm đến tánh mạng, nhìn miểng pháo 107 li nằm rải rác khiến tui ớn da gà, vì đầu đạn thép dầy cả phân mà khi nổ nó xé toạc ra  cuốn lại như râu khô mực nướng, cạnh của miểng pháo bén như cao cạo, lỡ dại trúng phải thì chỉ có từ chết đến bị thương là cái chắc.

 Cả ngày hôm ấy thời tiết xấu nên các chuyến bay tải thương không thể thực hiện, đến chiều mây  mù và cơn mưa dần tạnh, các anh pilot của phi trường Phù Cát bắt đầu cất cánh để bay ra Hoài nhơn để đón thương binh, vì chỗ đóng quân không có bãi đáp, do vậy phải đưa thương binh xuống chi Khu Hoài nhơn thì trực thăng  mới hạ cánh được.

  Trên xe Jeep Hồng thập tự của ban Quân y chở mấy bạn tui, Hạ sĩ nhất Ngô Thành cầm lái, Trung úy Vân y sĩ trưởng ngồi kế bên Ngô Thành, tui mang theo máy truyền tin PRC 25 ngồi phía sau để liên lạc với các anh Pilot, đỗ đèo khi cơn mưa vừa dứt rất nguy hiểm, vì đường đèo trơn trượt chỉ cần một sai lầm nhỏ của Ngô Thành thôi thì cả đám tụi tui sẽ nằm yên dưới vực thẳm bên dưới, phải công nhận anh Ngô Thành là một tay lái cừ khôi nên tụi tui “Hạ san” bình an vô sự, xe chạy trên quốc lộ một khi đến cầu Bồng sơn tụi tui không thể cho xe qua cầu, do anh em nghĩa quân gác cầu đã kéo kẽm gai không cho xe cộ qua lại, nóng ruột vô cùng vì chỉ còn vài phút nữa thôi thì chiếc trực thăng mang danh hiệu Nhân ái 95 sẽ đến bãi đáp, nếu không đến điểm hẹn kịp thời thì lỡ việc tải thương tội cho những người bị thương, trong tít tắc Trung úy Vân kêu Ngô Thành chạy xuống con đường phía dưới chân cầu, và xe phải lội qua sông mới đến được chi khu Hoài Nhơn nằm bên kia cây cầu, xe đang bò chậm chạp trên bãi cát cạnh bờ sông thì bổng đâu một tràng súng nổ vang trên cầu, rồi tiếng anh lính gác cầu la lên:

  – Dừng lại! Có mìn phía trước.

 Vừa la vừa nổ súng chỉ thiên tiếp vừa lấy tay chỉ xuống ra dấu cho tụi tui ngừng lại, Ngô Thành hoảng vía vì mấy tiếng súng kia nên anh ta thắng gấp xe lại, lúc này có vài anh lính từ phía gầm cầu đi lại, đến đầu xe tụi tui một anh ngồi xuống lấy tay phủi cát, lúc này một trái mìn chống chiến xa lộ ra, mọi người trên xe há hốc mồm vừa kinh ngạc vừa khiếp vía, chỉ cần vài giây thôi, nếu Ngô Thành không thắng xe kịp thời thì cả xe sẽ tan xác, tui thầm cảm ơn anh lính kịp thời ngăn chặn Tử thần đang chuẩn bị đưa tụi tui qua bên kia thế giới….

  Miền Nam gãy súng tụi tui rã ngũ chia tay nhau rồi tiếp tục cuộc sống mới, như bao người khác tui xin việc làm một đơn vị chuyên  mua bán và xuất nhập khẩu hàng nông sản, những tưởng công việc lâu bền nhưng không ngờ đơn vị bị phá sản với lý do không ngờ, trong khi chờ thanh lý tài sản, tui với một người bạn thay nhau trực đêm ở văn phòng công ty, Tử thần lại đến thăm tui, chỉ cần vài ba tiếng đồng hồ nữa thôi là ông ta dẫn tui đi mất đất rồi,số là buổi trưa nọ, tui bị nhức đầu nhiều lắm, thông thường thì tui hay uống panadol, hôm đó nhà không còn loại thuốc này nên bí quá tui lấy đại viên thuốc Aspirin uống vô,đến chiều tối tự nhiên tui đau quặn bụng và muốn ói, tui nhào ra sân ói ra nước gì đen ngòm, tui tài lanh tự cho mình ăn nhằm cái gì nên bị ngộ độc thực phẩm, ói ra được vậy thấy khá hơn, tối đó tui vẫn mang đồ vô cơ quan trực đêm, đang nằm ngủ thì bị triệu chứng như lúc ban chiều, tui ói tại chỗ không kịp vô nhà vệ sinh, lúc này đau bụng muốn tắt thở luôn, tui ráng đi vô nhà vệ sinh phía sau, đang đứng dậy thì đầu óc xây xẩm mặt mày tui khụy xuống thở dốc lấy hơi lên, ráng hết sức tui lần mò vô nhà vệ sinh, lúc này phân thải ra cũng màu đen ngòm, xong xuôi tui cố gắng lần mò đi về chỗ nằm, mồ hôi ra như tắm, suốt đêm tui cứ bị ói và đi vệ sinh liên tục, tui nằm mê  mang đến tận sáng, khi anh bạn đến thay ca đập cửa liên hồi, một lúc thật lâu tui mới hồi tĩnh và bò ra cửa vì đứng không vũng, tui mở được ổ khóa bên trong và ngất đi, anh bạn thấy vậy hoảng vía gọi xe cứu thương cấp cứu cho tui, nằm trên chiếc băng ca dằn sốc liên hồi khiến tui đau nhức cả thân mình tưởng chừng như không thể sống thêm phút giây nào nữa hết.

  Đến bệnh viện Gò vấp tui được nhanh chóng đưa vô phòng cấp cứu, nhìn thể trạng của tui qua khám nhanh bác sĩ tức tốc chích cho tui một loại thuốc gì đó và vô liền cho tui chai nước biển, phải công nhận tui còn may mắn, vị bác sĩ này nói với tôi khi tui dần hồi sức:

 – Anh còn hên lắm nha, chỉ cần chậm chừng nửa tiếng nữa thôi mà không vô đây kịp là vô phương cứu chữa vì trụy tim mạch.

 Ông còn nói thêm đại khái tui thiếu máu trầm trọng  ông hỏi tui ăn uống gì và dùng thuốc gì, tui khai hết cho ông nghe, khi biết tui tự uống viên Aspirin ông la quá chừng, ông cho biết do tui uống thuốc này khi bụng đói nên bị xuất huyết bao tử, dịch đen tui ói lúc chiều qua là máu Kể cả phân đen cũng vậy, thấy mạch tui hãy còn yếu ông tức tốc chuyển tui ra bệnh viện nhân dân Gia Định để điều trị tiếp. Tui nằm bệnh viện Gia Định gần 10 ngày và được truyền 4 bịch máu mới khỏe lại, nhân đây tui xin đội ơn các bác sĩ đã tận tâm cứu chữa cho tui, bằng không tui chạm mặt tử thần rồi….

  Các đây hai tuần khi thức giấc nửa đêm tui bật dậy để đi vệ sinh, vừa đứng lên đầu óc tui choáng váng, chóng mặt vô cùng và tui muốn ngã quỵ, tui liền vịn vách tường và men theo để vô nhà vệ sinh giải quyết bầu tâm sự, đầu óc quay mòng mòng rồi tự dưng tui muốn ói, bụng quặn lên rồi tui ói nhưng chỉ toàn là nước miếng, mồ hôi ra như tắm,  cả thân người đau nhức chỉ muốn chết quách cho xong, bao sức lực tiêu tan, tui mềm nhũn như cọng bún thiêu, ráng bò ra khỏi nhà vệ sinh tui gục xuống sàn nhà, sợ tử thần rước mình đi tui kêu lên, thời may thằng con rể phòng kế bên hay được nó dìu tui lên giường nằm rồi thoa dầu nóng và nước uống, lúc này đầu óc tui lơ mơ gần như mê sảng, nhưng bản năng sống khiến tui cố gắng tìm hiểu tại sao mình bị vậy, thì ra tui phạm sai lầm bỏ bữa ăn ban chiều nên bị hạ đường huyết, sau khi ăn uống tui dần hồi phục với sự trợ giúp của thằng con rể, tui viết lên trường hộ này nhằm nhắc mọi người tránh bỏ bữa nguy hiểm vô cùng.

  Vài bữa sau trong lần đứng chờ xe đưa rước thằng cháu ngoại đi học về, trời chiều gần năm giờ mà nhiệt độ hơn ba mươi lăm độ, trời nóng như lửa thiêu đốt mọi vật vì không có chút gió, đứng chừng mươi phút tự nhiên tui bị chóng mặt muốn gục tại chỗ, mắt tui bắt đầu bị hoa lên, biết mình bị sốc nhiệt, tui cố gắng băng qua đường mua liền chai nước Nha đam lạnh uống vô liền, vậy đó chỉ vài phút sau tui trở lại bình thường, may là tui hiểu mình đang bị gì mà ứng xử kịp thời tránh bị đột quỵ bất tử.

  Trên đây là những lần tui chạm mặt tử thần,qua các lần này tui phải kỹ lưỡng lại trong cách sống nếu không muốn chạm mặt tử thần lần nữa, các bạn cũng vậy nha.

Sài gòn đêm 11.5.2022

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Lính Trận Ở Thành Phố

Cách Mạng Táo Quân

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

(Hai Hùng SG).

Suốt mấy năm trường trong đời quân ngũ rày đây mai đó, chưa có nơi nào đơn vị tui “Mọc rễ” bằng vùng đất Tam Quan & Bồng Sơn của xứ Nẫu Bình Định, vì nhiệm vụ là lực lượng tổng trư bị của quân đội nên khi vùng đất nào bình yên rồi thì không còn bóng dáng của tụi tui, bởi phải rày đây mai đó vì vậy tui còn giữ được giọng nói của Sài gòn, bằng không thì ít nhiều tui cũng sẽ nói chuyện với chút ít âm sắc của người Bình Định kia rồi.

  Tạm biệt sân bay Đệ Đức , một sân bay dã chiến nằm ở Quận Hoài Nhơn nơi BCH Liên đoàn tụi tui trấn giữ, đoàn quân xa đưa tụi tui lên đèo Phù cũ cách cầu Bồng sơn vài cây số về phía nam, đang ở gần phố chợ Bồng sơn đông vui người qua lại, đùng một cái phải lên đèo trấn giữ nơi khá vắng vẻ thử hỏi mấy ai không buồn.

 Ngọn đèo này trước đây do một trung đoàn của sư đoàn 22 bộ binh trấn giữ, nay giao lại cho đám Thần Hổ tụi tui canh chừng, thú thiệt trong bụng tui không khoái chút nào, trên cao độ tròm trèm ba trăm mét  nhìn xuống quốc lộ một  vòng vèo bên dưới, tui thấy những chiếc xe đò nhỏ như những món đồ chơi của trẻ em, còn những người di chuyển bằng xe gắn máy giống y như con kiến bò trên miệng ve.

 Hạ trại xong, cả đơn vị chỉnh đốn lại giao thông hào và các lô cốt, nhằm để bảo đãm sinh mạng cho mọi người khi bị pháo kích.

  Tui cũng vừa đào xong hố cá nhân của mình bên cạnh hầm truyền tin, bổng anh Võ Thành Quế cùng anh Dương văn Lập thuộc ban quân xa đến kêu tui:

 -Hùng ơi! Hố cá nhân đào vậy là ngon lành rồi, trăm lẻ bảy li có nổ sát bên cũng chẳng ăn thua gì đâu, thôi tới câu lạc bộ uống nước nghỉ tay đi.

 Nói câu lạc bộ cho oai, chứ thật ra căn hầm dã chiến làm bằng những tấm ván thông từ thùng đạn pháo binh, bên trên lót lớp vĩ sắt PSP, phía trên  nữa được dằn mấy lớp bao cát, câu lạc bộ do hạ sỹ Đắc làm chủ, món ăn VIP thời bấy giờ là Mỳ gói hiệu con tôm, anh ta còn bán thêm cà phê, nước ngọt, một ít Lave , bánh kẹo nữa. Câu lạc Bộ của anh Đắc bán rất đắc hàng, nhất là buổi sáng nhiều người đến nhâm nhi cà phê, ăn sáng để đấu láo cho vui, buôn bán vậy đó mà tui thấy anh ta chẳng thu tiền ai bao giờ, lúc đầu tui không biết nhưng về sau tui biết anh em ăn uống xong liền lòn vô quầy nơi anh Đắc ngồi thu ngân, họ lấy tay ra hiệu, anh Đắc đầu thì gật, tay thì lấy cuốn sổ dầy cộm để ” Gô sỹ” tiền ăn uống của mấy trự kia, cuối tháng khi ban quân lương từ Sài gòn ra thì Hạ sỹ Đắc đem cuốn sổ “Nam tào” ra để trừ lương tại chỗ.

 Ăn sáng uống cà phê xong, anh Quế nói nhỏ cho tui với anh Lập nghe:

 -Tui mới o bế ông Thượng sỹ Kiệm ban Tư, ổng cho cây súng M16 chiến lợi phẩm lưu kho lâu rồi, tụi mình chế lại thành khẩu M18 xài chơi.

 Anh Lập là tay thợ máy giỏi của đơn vị, nghe anh Quế bày mưu như vậy anh cũng hào hứng nói:

– Anh Quế tính vậy được đó, thôi về ban Quân xa mình tính tiếp..

 Thuở đó các đơn vị được trang bị súng M16 cho lính tác chiến , còn loại súng M18 chỉ có các đơn vị thám báo nhảy toán, hoặc các đơn vị của lực lượng đồng minh họ mới có loại súng này, tui tui mỗi khi thấy tay nào mang cây M18 là thèm lắm, chỉ có nằm mơ thôi chứ dễ gì có được khẩu súng nọ.

  Lôi từ thùng đồ nghề ra gồm đủ loại chìa khóa miệng từ nhỏ tới lớn, rồi mỏ lết , cưa sắt , khoan điện , dũa, dùi V.v…, anh Lập nói :

 -,Anh Quế đem cây súng ra đi, tụi mình ráng làm xong hôm nay đem xuống chợ Bồng sơn  lấy le chơi.

 Anh Quế tháo rời từng bộ phận cây súng ra, anh lập lấy ê tô kẹp bá súng rồi đo vẽ theo tính toán, xong xuôi anh lấy cưa sắt ra cưa, anh cũng gọt đế cao su dưới đế súng cho vừa,chỗ mới cưa, cắt bớt cái lò xo hoàn lực trong bá súng, kể cả ống dẫn lò xo, khi các cơ phận được hoàn chỉnh anh Quế ráp cái bá súng lại, 

 Anh Lập tháo cái loa che lửa nòng súng ra , cắt ngắn bớt nòng súng áng chừng bằng chiều dài cây M18, anh giao cái nòng súng mới cắt cùng cái loa che lửa cho Hạ sỹ Nghé đem xuống tiệm tiện ở Bồng sơn để zen răng lại cho khớp với răng của loa che lửa.

 Phần hốc búa nhất của việc làm phần miếng che tay nơi nòng súng. Vì hai miếng nhựa gỗ che tay của khẩu súng khi tháo ra rồi không thể cắt ngắn để ráp vô theo kích thước ngắn lại được, chợt nhớ có cái vỏ đạn đại bác 57 ly trong căn hầm ban quân xa, anh Quế lôi ra ngắm nghía, anh Lập cũng châu đầu vô để tìm cách chế tạo.

 Hai ông xúm lại cưa cái vỏ đạn ra,làm hai mảnh theo chiều dọc, rồi đi chiều dài nơi dự định gắn vào bên ngoài nòng súng, sau một thời gian mài, gò , uốn, gỏ  thì hai anh cũng hoàn thành công việc rất phức tạp này, sở dĩ xài cái vỏ đạn năm mươi bảy ly vì nó có những cái lổ nhỏ để thoát hơi nóng từ nòng súng khi bắn , nhìn cái miếng che tay bằng vỏ đạn đại bác gắn vô cây M18 “lai căng” coi bộ  rất ngầu, phải nói tụi tui mừng vô cùng khi thấy cây súng M18 lạ của hai “kỹ sư” ban Quân xa làm ra, để tự thưởng công mình hai anh mua lại Thượng sỹ Nghiệp Hỏa đầu vụ của đơn vị một con gà mái dầu để đãi cả nhóm.

 Sáng nọ, tụi tui canh me sếp lớn của đơn vị đi họp ở bộ tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh, khi  xe của ổng vừa đổ đèo do tài xế Hổ cầm lái, anh Quế vác cây M18 của mình ra đứng sát bờ giao thông hào giáp với đỉnh đồi phía sau, anh Quế trong bộ quần áo màu Hoa rừng , đang đứng dang chân tay cầm khẩu M18 để anh Lập bấm máy chụp hình, ai cũng có phần bởi những tấm hình chụp với cây M18 kia.

 Giờ phút hồi hộp bắt đầu, để xem khẩu M18 của mình hoạt động ra sao, anh Quế lắp băng đạn 20 viên vô để bắn thử.

 Khi bắn với chế độ ( Bặc cú) bắn từng viên thì súng nổ ngon lành, nhưng khi chuyển sang chế độ bắn ( Ra phan) thì lò xo hoàn lực tống văng cái đế cao su chặn dưới bá súng mất tiêu, may mà không gây ra tai nạn gì.

 Ông Thượng sỹ Còn ( Thường vụ của Liên đoàn) thấy cảnh nọ ông cười rồi chọc quê mấy thằng tui:

– M18 gì kỳ cục vậy mấy cha, tụi Mỹ thấy mấy ông chế tạo kiểu này chắc họ khóc thét luôn quá.

 Anh Lập quê cơ quá nhưng cũng ráng vớt:

 -Tại làm miếng chận lò xo hoàn lực trong bá súng  hơi ẩu thượng sỹ ơi , để tui mần khẩu khác không ngon không ăn tiền cho ông coi.

 Từ hôm thất bại với cây M18 “Cải tiến” của đám mình,  buồn quá anh Quế rủ rê cả đám đi đào củ Hà thủ ô về làm thuốc, phải công nhận trên đèo này địa chất gồm đất sét sỏi pha cát rất thích hợp cho Hà Thủ ô sinh sống, mới đi đào chừng vài giờ tụi tui gom cả đống đem về rửa sạch, phơi khô, sắc mỏng sao thủy thổ đê dành ngâm rượu uống rất tốt cho sức khỏe, lá Hà Thủ ô phơi khô sao thủy thổ làm trà uống thơm ngon không kém các loại danh trà ở vùng hành quân, có lẽ nhờ uống củ này mà tui còn mạnh giỏi đến giờ này chăng.

 Chờ hoài đến một ngày nọ, anh Quế cũng được một anh lính thiết giáp đóng quân gần bên tặng cho một khẩu M16 khác, tụi tui lại lao vô làm lại khẩu M18 tiếp theo, lần này khẩu súng chắc chắn hơn, đẹp hơn và nhất là bắn liên thanh không bị văng mất lò xo hoàn lực như khẩu trước.

 Có khẩu súng kiểng này anh Quế cưng nó lắm, ngày nào cũng lau chùi o bế cho sạch bụi.

 Bữa nọ thấy Trung sỹ nhất Bùi Tuyền lái chiếc GMC kéo theo cái rờ mọt để xuống cầu Bồng Sơn lấy nước sông Lại Giang về cho  bếp tập thể nấu ăn, cả đám tụi tui quá giang đi theo tắm giặt, cũng không quên mang theo các ống (Sạc) loại đựng thuốc bồi pháo binh xài xong bỏ ra để đựng nước sinh hoạt, Anh Quế và anh Lập lên xe vác theo cây M18 để giật le với mấy ông Lính Địa Phương Quân gác cầu.

 Mùa này nước kém nên dòng Lại Giang không còn chảy mạnh như mọi lần, những mô cát của đáy sông nhấp nhô như muốn trồi mình khỏi mặt nước, dòng nước trong veo chảy uốn lượn quanh co theo bờ cát, tất cả mọi người ùa xuống tắm giặt thỏa thích, riêng anh Quế ngồi trên bờ cứ mân mê khẩu súng, bổng dưng có vài anh lính gác cầu kéo tới xem, họ hỏi anh Quế súng này súng gì mà lạ quá từ nào tới giờ mới gặp, được dịp anh Quế tui “Vẽ rắn thêm chân” cho vui, anh nói:

 -Khẩu này M18 – A1 mới xuất hiện ở Việt Nam, hiếm lắm chỉ có cây duy nhất này thôi, vì là vũ khí sản xuất để thí nghiệm chưa có trang bị cho các nơi đâu.

 Mấy cha nội gác cầu nghe vậy tưởng thiệt ai nấy  đều tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục anh Quế vô cùng, rồi mấy đứa nhỏ chăn bò thấy súng lạ cũng bu lại coi, anh Quế được dịp nở lổ mũi bự như trái cà chua vậy đó…

 Khẩu súng M18-A1 của anh quế lần hồi tới tai ông Trưởng ban 3 liên đoàn, bữa nọ ông kêu anh Quế vô hỏi thăm.

 -Tui nghe anh có khẩu súng lạ phải không, anh đưa ra cho tui coi coi.

 Anh Quế trình khẩu súng cưng của mình ra, dường như hạp nhãn nên ông trưởng ban ba đề nghị anh Quế nhượng lại cho ông để làm vật trang trí cho vui, anh Quế tiếc lắm vì tiền bạc anh cũng đâu cần gì, nhưng với sự tha thiết của ông sỹ quan nọ anh Quế đành chia tay khẩu súng đặc biệt này, anh nghĩ rằng anh với anh Lập sẽ làm vài ba khẩu nữa là chuyện dư sức qua cầu.

                          ***

  Lại một lần nữa đơn vị phải từ giã ngọn đèo Phù Cũ  này để về quận Đồng Xuân Phú yên đóng đô , cơ hội làm thêm vài khẩu súng M18-A1 không còn đến với mấy anh nữa, do chiến cuộc ngày càng căng thẳng, ai cũng bận bịu túi bụi với công việc của mình.

 Ngày tàn chiến cuộc đã điểm, ước mơ chế tạo vài khẩu súng thật xa vời với hai ông kỹ sư thân yêu của tui, từ đó đến giờ tui không còn tin tức gì hai anh, nếu hai anh thấy được câu chuyện này chắc hai anh sẽ bừng sống lại những ngày anh em mình quân hành gian khổ mà thật thú vị phải không anh Quế anh Lập ơi ./.

  Một ngày đầu tháng 3/2023

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Lính Trận Ở Thành Phố

Cách Mạng Táo Quân

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

(Hai Hùng SG)

Về đến cảng Cát lái sau vài ngày lênh đênh trên biển, khi đặt chân nơi đất liền vùng ven đô tui mừng muốn khóc, nhìn lại những ngày đã qua kể từ hôm 15/3/75 theo đoàn quân của Quân khu 2 triệt thoái khỏi vùng cao nguyên, một đoạn đời đau buồn khó quên của những ai từng đi trên Liên tỉnh lộ 7B.

 Ra khỏi cảng Cát lái tui gặp ngay một toán Quân Cảnh chờ sẳn bên ngoài, một viên Trung sỹ giơ tay lên chào rồi anh ta cất giọng hỏi:

 -Anh vui lòng xuất trình giấy tờ, anh thuộc đơn vị nào vậy, mới xuống từ Dương vận Hạm ngoài Nha trang về phải không ?

 Tui nói với anh ta :

 – Dạ đúng vậy Trung sỹ, tui quân số thuộc Bộ chỉ huy Liên đoàn 6 BĐQ.

 Tui móc giấy tờ ra trình cho viên Trung sỹ nọ, anh ta vừa xem vừa nhìn mặt tui đối chiếu coi trùng khớp với hình ảnh trong giấy tờ hay không, chừng như anh không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta trả lại giấy tờ cho tui và đặt ra hai trường hợp, một là chịu khó chờ khi số lượng người đủ một GMC họ sẽ chở về Quân vụ thị trấn nằm đó chờ đơn vị đến lãnh đem về, hai là nếu như muốn đi tự túc về đơn vị thì anh ta cũng đồng ý và không làm khó dễ gì, sau khi ra hai điều kiện trên, anh còn hỏi tui một câu nữa :

 -Đơn vị anh ở đâu sao không đi cùng mà về đây cu ki một mình vậy, giày vớ cũng không có, lè phè quá khó coi lắm.

 Sẳn dịp tui thố lộ với anh ta luôn:

-Trung sỹ biết không, tui bị sốt rét ác tính khi di tản từ kontum về đến Tuy Hòa, đơn vị cho tui nằm điều trị ở Quân y viện Nguyễn Huệ Nha Trang, rồi đơn vị tiếp tục di tản theo quốc lộ 1 để về Hậu cứ ở Long Bình, khi Nha Trang tan hàng tui leo tàu Hải quân về đây đó Trung sỹ.

 Nói xong tui giơ tay chào anh ta rồi đi ra cổng, tui ngoắc chiếc xe lôi họ chở tui ra ngã ba Cát lái để đón xe về hậu cứ Long bình.

 Vừa về đến hậu cứ tui đoan chắc sẽ gặp lại anh em trong đơn vị hành quân, dè đâu cả Liên đoàn 6 tháp tùng Sư Đoàn 22 Bộ binh xuống vùng Long an để trấn giữ an ninh cho Thủ đô Sài gòn:

 Thiếu tá chỉ huy hậu cứ của đơn vị sau khi biết rõ tình trạng của tui, ông cấp liền cho một Sự vụ lệnh liên lạc gia đình tử sỹ của  đơn vị, ông nói cho tui biết :

 -Sở dĩ chú em mầy mang sự vụ lệnh này mới qua được trạm kiểm soát ở gần cầu Xa lộ, vì ngoai lý do này không có sự vụ lệnh nào họ cho qua hết, chú em mầy nhớ lấy cuốn tạp ghi vài tên họ ai đó để nhá ra cho họ nếu họ hỏi gì thêm.

 Tui cảm ơn Thiếu tá chỉ huy hậu cứ, tui dọt  qua ban quân lương lãnh lương, vô ban 4 tiếp liệu xin đỡ đôi giày bố mang cho đủ bộ.

 Quả đúng y lời của ông chỉ huy hậu cứ, tại trạm kiểm soát tui thấy nhiều sắc lính bị giữ lại nơi đây, mặc dù các anh này trình ra đủ thứ giấy tờ, thấy vậy trong bụng tui đánh lô tô, tui tự hỏi không biết mấy cha nội ” Quét Chợ”

 ( một cách gọi vui đặt,cho mấy ông quân cảnh ngày xưa) có ốp mình không, nhưng nghe Thiếu tá chỉ huy hậu cứ “Vẽ đường cho Hươu chạy” rồi nên tui bậm gan đến trình giấy, tay Quân Cảnh xem giấy tờ tui hồi lâu rồi mới cho tui qua trạm, trong khi chờ dợi xem xét giấy tờ, tình cờ tui thấy một chuyện đáng xấu hổ, vì “Con sâu làm rầu nồi canh” tại nơi này.

 Số là có một anh lính Thiết giáp, tui chẳng biết anh bị giữ lại vì lý do gì, nét mặt anh tỏ ra bồn chồn muốn mau rời khỏi nơi này, anh đang đứng sớ rớ một nơi nọ thì có một đứa nhỏ mang cái bình bán cà rem bằng thùng xốp đến mời anh ăn nhưng tui thấy anh lắc đầu lia lịa, một lúc sau cũng thằng nhóc  này tới chỗ anh lính nọ, hai người to nhỏ điều gì mà tui thấy gương mặt anh ta có vẻ vui lên, rồi anh móc bóp ra đưa tờ giấy bạc năm trăm đồng cho thằng nhở bán cà rem, nhận tiền xong thằng nhỏ lẹ chân đi đến một viên quân Cảnh rồi to nhỏ trao đổi nhau điều gì đó, thằng nhỏ nhét tờ năm trăm vô túi quần anh Quân cảnh, viên quân Cảnh đưa cho thằng bán cà rem xấp giấy tờ, nó rão bước đến anh chàng lính Kị Binh kia giao xấp giấy tờ nọ, anh lính Thiết giáp hiên ngang nhảy lên xe đò vừa tấp vô trạm để trực chỉ về Sài gòn, tui ngao ngán lắc đầu vì Sài Gòn đang “Hấp hối”,ai cũng đang buồn vì cơn binh lửa tràn về hậu phương yên bình, những người từ tuyền tuyến bất đắc dĩ qua trạm này vậy mà có người “Trấn lột” những đồng tiền ít ỏi của người lính kia, hành động này thật đáng lên án.

 Tui ghé về nhà bất tử cả nhà ai cũng vui mừng, nhất là má tui, bả khóc như mưa, má tui nói trong nghẹn ngào:

 -Chèn ơi! Mấy ngày nay nghe ngoài trung di tản ầm ầm, không biết tin tức gì của bây, tao với tía bây buồn muốn chết, thôi mừng rồi, giờ dìa ở luôn hay đi nữa nếu ở luôn nói tía bây xin vô làm ở Tín nghĩa ngân hàng, ông Nguyễn Tấn Đời cũng là người cùng quê với tía bây nên chắc ông nhận thôi.

 Nghe má lo lắng cho tui, sợ tui dấn thân nữa có mệnh hệ nào thì buồn lắm, vì hai ông anh lớn của tui đã đền nợ nước rồi.

 Tui ứa nước mắt nói với má:

 – Con chỉ ở nhà một ngày thôi, mai con đón xe đò xuống Long an cùng đơn vị, bạn bè con tụi nó hay tin con xuống nó mừng lắm, anh em sống chết có nhau hai năm rồi, giờ trốn tránh bổn công dân thời chiến kỳ khôi lắm, mà con ở Bộ chỉ huy nên cũng khó chết lắm má đừng lo.

 Biết có cản thằng con mình cũng không xong, má tui làm mâm cơm đơn sơ cho cả nhà quây quần bên nhau, tối đó ba tui mang ra hai cái áo ” sơ mi” , một cái màu vàng, một màu tím ( Màu của nhân viên Tín Nghĩa ngân hàng mặc đi làm hàng ngày, ba tui nói:

 – Con đem theo hờ bộ đồ “si vin” , để có bề gì thay ra cho tiện, thấy tình hình chiến sự coi mòi ngày càng bất lợi, tui bèn chọn cái áo màu vàng và cái quần tây màu đen tui nhét vô ba lô để sáng sớm mai lên đường, trước khi đi tui đưa cho má tiền lương vừa lãnh hôm qua nơi hậu cứ, tui chừa một ít đủ tiền xe và chút ít dằn túi mà thôi.

 Ba tui chở ra đến bến xe, tui lật đật từ giã, sợ quyến luyến hồi lâu thêm buồn…

 Đến Thị xã Tân an tui đón xe lôi vô phi trường Cần Đốt ( Tới bây giờ tui cũng còn thắc mắc, ai đặt tên cho cái phi trường này thật mắc cười), vừa đến nơi tui vô hầm truyền tin thì gặp thằng Bùi Đức Kết thằng bạn thân thiết nhất của tui từ lúc gia nhập vô gia đình “Mũ nâu” thân yêu này, thằng Kết mừng rỡ kêu lên như bắt được vàng, nó nói :

 -,Thằng quỷ, tao tưởng mầy xí lắc léo rồi chứ, ai dè ….

 Tui chọc quê thằng Kết liền:

-,Còn khuya mới xí lắc léo nghe em, mầy thấy tao có lỗ tai Phật không, ông bà mình nói những người như tao sống lâu lắm mầy đừng lo.

 Về đơn vị được hai ngày, tui bị cơn sốt rét rừng tái phát, đang lạnh run bổng dưng nó đổi tông nóng như lò nướng bánh mỳ, vậy là tui phải xuống Ban quân y của liên đoàn vô nước biển, rồi thì cứ thuốc ” Lô rô kin” trị sốt rét uống vô liên tục thì cơn sốt rét tạm lui binh, sở dĩ,tui dính cơn bệnh chết người này là do ..

  Đoàn quân di tản của đơn vị tui đến được khu vực Thung Lũng Hồng, địa danh nầy được một nhạc sỹ phổ nhạc thật nên thơ, khung cảnh thật yên bình, nếu như không phải đang trên đường triệt thoái thì tui sẽ cố tận hưởng cái không khí nơi này, thậm chí biết đâu tui sẽ sáng tác được bài thơ tình ướt át trên Thung Lũng Hồng.

 Qua một đoạn tiếp theo trên Liên tỉnh lộ 7B, trời nắng thật gắt, ngồi trên chiến xa M41tui thấy mệt nhoài và khô rát cổ họng, thời may đơn vị có lệnh tạm dừng để nghỉ ngơi, chiến xa lũi vô bụi rậm để ngụy trang, tụi tui phóng xuống đi tìm nguồn nước uống, trời thương những người lính đã qua nhiều gian lao nên có một hố bom sát nơi tui dừng chân, như bât được vàng khi múc đầy các bi đông nước, tui tui cuối xuống lấy tay vốc uống đến căng bụng, chưa hết cả đám cỡi đồ nhảy ùm xuống bơi lội thỏa thích, nước hố bom mát lạnh trong veo như mắt mèo, tui lặn xuống,nhìn dưới đáy thấy những xương lá cây mục nằm xếp lốp dưới đáy, tui lấy vài lá lên dự định phơi khô ép vô cuốn nhật ký thì còn kỹ niệm nào hơn. Không ngờ chưa đầy bốn mươi tám tiếng sau, tui và vài người bị con ma sốt rét rừng hành hạ tơi tả như cái mền rách…

 Vừa lânh lương tháng Tư xong, sáng ngày 29.4.75 tui với thằng Kết ngồi xe lôi ra chợ Long an để ăn uống và mua sắm ít đồ dùng, ngồi ăn uống mà nghe những người bàn kế bên cứ bàn tán xôn xao, nào là quân giải phóng vô gần  tới phòng tuyến các đơn vị phía bên trong, có bà còn quả quyết lính quốc gia “Quánh” không lại , vì có bộ đội chính quy từ miền bâc vô, họ kết hợp với các đơn vị du kích tỉnh nhà, rồi họ trang bị “Hiện đại” hơn mấy ông quốc gia nhiều, tui với thằng Kết nghe cũng nóng máu lắm, nhưng xét về tương quan lực lượng và yếu tố tâm lý thì mình đang thua họ, một là quân khí mình cạn kiệt do không còn  quân viện từ đồng minh, tâm lí ảnh hưởng từ việc bỏ các vùng đất ngoài vùng 1 vùng 2 còn chưa hết bàng hoàng, vừa ăn hết hai tô hủ tíu thằng kết kêu thêm hai tô nữa, rồi mua hai tô xí quách, kèm theo mấy chai Larue con cọp uống cho đã thèm, trong lúc lâng lâng đầu óc, thằng Kết phán một câu xanh rờn:

– Tao với mầy xài hết tiền hôm nay đi ít bữa mấy cha Việt cộng vô là tiền hết  xài lúc đó coi như giấy lộn.

 Nghe dân chúng bàn tán lúc nãy, giờ lại nghe thằng quỷ Kết nói với cái giọng chắc mẽm như trên khiến tui cũng dao động, vậy là hai thằng tui xài láng te không còn cắc nào trong túi.

  Đêm 29.4 thật là một đêm bận rộn, ở Trung tâm hành quân của đơn vị tui nghe các đơn vị xin yểm trợ pháo binh cho các tọa độ đang đụng độ, nào là hỏa châu, đạn pháo của hai phía, rồi vài phi tuần bay yểm trợ trên không cho đến tận sáng.

 Vẫn còn cơn ngái ngủ hoành hành, đầu óc tui nó lơ lững vì thiếu ngủ, phần tại cái hơi men sáng qua ngoài chợ Long An với thằng Kết, bổng tiếng máy vang lên của một tiểu đoàn trực thuộc.

 – 639 đây 90 gọi.

 Tui trao ông liên hợp cho Trung tá Trương Khánh, ông Tiểu đoàn trưởng nọ báo cáo địch quân đi hiên ngang qua phòng tuyến của đơn vị ông. 

 Hai ông chỉ huy đang trao đổi tình hình, thì chiếc radio của Thượng sỹ Tuấn cất tiếng nói của Tổng Thống Dương văn Minh kêu gọi chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia họ vô tiếp nhận, vì Trung ương đã thỏa thuận ngưng bắn với phía bên kia rồi.

 Tui thấy gương mặt Trung tá Trương Khánh hơi biến sắc, tuy nhiên ông cũng rất điềm tĩnh , ông cho gọi các sỹ quan trưởng các ban của Liên đoàn lại, ông nói rõ mục đích buổi họp, ông không quên chào và bẳt tay thuộc cấp của mình lần cuối, đang phân vân với chiếc máy PRC 25 mới tinh mình đang giữ, tui hỏi Trung Tá Khánh:

 – Vậy máy này giờ sao Trung tá.

 Ông nói nhỏ nhẹ :

 – Hủy bỏ đi chứ còn luyến tiếc gì nữa.

 Bên vòng ngoài nơi Bộ chỉ huy liên đoàn tui đồn trú, từng đoàn người bộ đội Bắc Việt họ hiên ngang kéo nhau đi thành hàng dài, có tay ngó vô đồn thốt lên câu :

 – Các anh buông súng ra về đi, hòa bình rồi còn nấn ná làm chi.

 Tui lục trong ba lô lấy bộ đồ si vin ra thay cho bộ đồ áo hoa rừng, tui xếp bộ đồ quân phục lại thẳng nếp để trên đầu nơi tui nằm ngủ hàng ngày, tui đeo cái máy truyền tin rồi quơ cây M16 đi ra ngoài sân cờ, thằng Kết thì hớt ha hớt hải lo sợ, vì nó không có thủ bộ đồ dân sự như tui, hai đứa tui ra khỏi nơi đóng quân khi đến cái lò gạch bỏ hoang, tui bỏ cái máy truyền tin xuống đất, lấy cục gạch thẻ đập núm chuyên tần số gãy ngang, tháo pin ra tui liệng cái máy xuống cái ao sâu kế lò gạch, vài bong bóng nước trồi lên nơi cái máy yên nghỉ dưới đáy ao, những bong bóng nước kia như cái vẫy tay chào từ biệt giữa tui với cái máy thân thương này, rồi cây súng M16 cũng yên nghỉ cạnh bên “Thằng PRC25” của tui.

 Thằng kết cỡi bộ đồ trận quăng xuống ao cùng cây súng của nó, chỉ với cái quần xà lõn trên người thằng Kết e dè theo tui ra quốc lộ 4, thời may cho nó khi đi ngang ngôi nhà nọ , bà cô nọ biết là lính Sài gòn  rã ngũ, bà ngoắc thằng Kết vô cho nó một bộ Pijama cũ, chắc bộ đồ của chồng bà để dành làm kỷ niệm thì phải, thấy nó khoác bộ Pijama rộng thùng thình tui cười muốn lộn ruột, tuy nhiên nhờ bộ đồ này nó mới về được nhà chú nó ở mũi tàu Phú Lâm, bằng không với đồ trận thì chắc chắn nó sẽ không yên thân với mấy ” Chú bộ đội” nhà ta đâu nhé.

 Ra quốc lộ 4, từng hàng người kéo nhau đi chật ních, dân có  lính có, bộ đội có, du kích xã ấp có. Tui và thằng Kết  hòa vào dòng người trên để  tìm phương kế về lại Sài gòn.

 Đang lơn tơn đi ngang dãy xe Quân sự của bộ đội , bổng tiếng nói của một cán binh ngồi trong lề nhắc một bộ đội trẻ măng đang cầm súng gác phía ngoài lộ:

– Đồng chí , đồng chí bắt thằng áo vàng đi, ngụy đấy 

 Nghe tiếng nói như vậy tui dáo dát ngó chung quanh coi có ai mặc áo vàng không, tui thất vọng và lo sợ với suy nghĩ:

 ” Vậy là tụi nó nói bắt mình rồi còn gì”

 Tui giả Nai lũi thũi đi không thèm để ý, bổng họng súng AK 47 chĩa thẳng vô người tui với giọng đanh thép:

 – Anh đứng lại yêu cầu cho tôi xem giấy chứng minh.

 Tui tiếp tục giả Nai:

-Chèn ơi! Nhà tui ở gần phi trường Cần đốt, bị cháy cháy luôn giấy tờ rồi, giờ tui về nhà má tui gần đây nè.

 Bị tui “phang” nhanh quá nên hắn chưa kịp phản ứng, rồi dòng người phía sau đổ dồn lên khá đông, lợi dụng cơ hội này tui lẽn đi mất, thằng Kết thì không có ma nào hỏi giấy tờ nó, sau này tui nghiệm lại là do bị sốt rét da tui vàng khè, rồi thêm cái áo vàng làm cộng hưởng màu sắc nên giống “Ngụy” một ngàn phần ngàn.

 Tui bắt kịp thằng Kết cũng là lúc bụng đói cồn cào, trong túi hai thằng không còn một cắc, phải chi hôm qua dằn lại một ít thì nay mướn xe về Sài gòn ngon ơ. 

Tui với nó lội bộ gần rã cặp giò, sách có câu ” Ở hiền gặp lành”, mệt quá, tui rủ thằng Kết chui vô đám chuối trồng bên đường nghỉ chân, bổng có chiếc xe chở hàng tấp vô quắc hai đứa tui ý họ cho quá giang, nhanh như sóc hai đứa bay lên nắm cánh cửa rồi trèo lên thùng xe phía sau, thằng Kết lẹ miệng:

– Tụi tui lính Sài gòn chú làm ơn cho  hai đứa về mũi tàu Phú Lâm nghe chú .

 Phố đã lên đèn  rốt cuộc hai đứa cũng về được nhà bà con thằng Kết ở Phú Lâm , đêm đó cũng là đêm cuối cùng Tui với thằng Kết chưa lần gặp lại.

  Những ngày gần tháng 3.2023

  Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Lính Trận Ở Thành Phố

Cách Mạng Táo Quân

Chiến binh Mỹ và tấm ảnh người con gái Việt

Nguyễn Vạn Lý

Posted by GLN

Ðây chỉ là một tấm ảnh nhỏ, sờn cũ từ nhiều thập kỷ rồi. Nhưng tấm ảnh nhỏ bé ấy kể lại một câu chuyện ly kỳ và cảm động, và ám ảnh một chiến binh Mỹ tại Việt Nam trên 30 năm – cái hình ảnh một cô gái nhỏ chưa hề quen biết đã dẫn người cựu chiến binh Mỹ làm một cuộc hành trình trở lại Việt Nam, để hàn gắn đau thương quá khứ và tìm sự bình yên cho tâm hồn mình.

Ðối với Rich Luttrell, người cựu chiến binh Mỹ, thì đi tìm một người con gái trong ảnh là một việc làm khó khăn nhất trong đời ông. Ông ngồi nhìn rừng già bên dưới chiếc Boeing 747, thần kinh căng thẳng với những xúc cảm đè nén. Nhưng tất cả những gì Rich có thể trông thấy là tấm ảnh ấy. Hình ảnh người con gái nhỏ ấy có gì mạnh mẽ đến nỗi Rich phải trở lại Việt Nam?

Cô gái nhỏ ấy là ai? Tại sao Rich không thể chịu đựng được nỗi buồn bã của đôi mắt cô gái trong tấm ảnh? Rich thú nhận, “Mỗi khi tôi nhìn lại tấm ảnh, tôi dường như bị mê hoặc. Tôi cảm thấy đúng như thế kể từ ngày ấy, trong một cánh rừng già cách nước Mỹ nửa vòng trái đất.” Ðó là cái giây phút mà một hành động thời chiến đã tạo cho Rich một gánh nặng trong suốt 33 năm.

Năm 1967, Rich Luttrell gia nhập quân đội, khi là một thiếu niên 17 tuổi. Ðây là một cơ hội cho Rich thoát cảnh nghèo trong một khu gia cư rẻ tiền tại Illinois. Ông bỗng thấy mình trưởng thành, có được hai đôi giầy ống, một đôi giầy mới, và những quân phục mới. Trong đời ông, chưa bao giờ ông có nhiều quần áo như thế trong một lần. Ông nghèo, nhưng có lòng ái quốc. Ông quyết định ra đi và gia nhập Chiến đoàn dù 101. Giống như nhiều thanh niên khác, Rich được huấn luyện cho cuộc chiến tại Việt Nam.

Ngày Rich tới đơn vị, chiếc trực thăng hạ cánh xuống một khu rừng già tại Việt Nam, và ông trông thấy những người thuộc trung đội ông đứng đó – cũng trạc tuổi ông. Có những người trông rất ngầu – nhất là mắt họ. Ông hoảng sợ kêu lên, “Lạy Chúa, con sẽ phải đương đầu với những gì ở đây?”

Rich đã được huấn luyện như mọi người, để chiến đấu trong điều kiện của địch quân, nghĩa là phải chiến đấu du kích – đêm đi nằm phục kích, lùng và diệt địch. Lúc ấy Rich chỉ vừa mới 18 tuổi. Chàng thiếu niên bé bỏng từ khu gia cư rẻ tiền tại Illinois bỗng thấy mình ở trong một hoàn cảnh mà không một sự huấn luyện nào đủ sửa soạn cho rừng già Việt Nam. Tại đây trời nóng hoặc mưa, hoặc cả mưa và nóng. Không có nhà cửa, không giường chiếu, không nghỉ ngơi, và không ngừng sợ hãi. Rich chỉ là một thiếu niên gầy gò, vai đeo chiếc ba lô to hơn lưng, và phải học điều luật căn bản đầu tiên: phải tiếp tục tiến bước, tiến bước và tiến bước mãi.

Có những lúc Rich phải trèo núi, và muốn chảy nước mắt và kêu lên, “Lạy Chúa, xin dừng lại. Con không thể đi được nữa. Và chúng tôi vẫn cứ phải tiểp tục như thế, từ sáng sớm tới đêm tối. Tôi nghĩ tôi sẽ phải làm gì khi đụng trận? Tôi không thể di chuyển được nữa. Tôi quá mệt. Tôi sẽ làm sao nếu gặp địch quân? Tôi chưa sẵn sàng cho một trận đánh.”

Và một ngày đặc biệt đã làm thay đổi tất cả. Hôm ấy nóng như thường lệ, giống như mặc áo choàng đứng trong một phòng bốc hơi nóng vậy. Rich không biết địch quân chỉ cách ông vài thước trong rừng già.

Rich kể lại, “Từ khóe mắt tôi trông thấy một động đậy. Tôi có thể trông thấy một binh sĩ Việt Cộng ngồi tựa vào khẩu AK 47. Ðây là lần đầu tiên tôi trông thấy một lính Việt Cộng. Suốt đời tôi tôi chưa bao giờ trông thấy họ.”

Rich mới 18 tuổi, và bỗng nhiên vô cùng sợ hãi, người như đóng băng lại. Ông biết không thể không làm gì, và ông phải có phản ứng, phải làm một cái gì. Ðấy là quyết định của Rich. Ông ở trong tầm đạn của địch quân. Cái chết chỉ cách một nhịp tim đập. Rich quay lại và nhìn thẳng mặt người lính Việt Cộng. Ông kể lại, “Dường như chúng tôi chăm chú nhìn nhau một lúc lâu. Và rồi giống như một chuyển động chậm, tôi bóp cò súng tự động của tôi. Tên địch ngã gục xuống. Ngay sau đó là một trận đụng độ dữ dằn. Tôi chưa đủ kinh nghiệm để nhào xuống đất. Và có một người nào đó giúp tôi, đẩy tôi nằm xuống.”

Rich có thể nhận thức rằng người lính Việt Cộng ấy đã có thể giết chết ông trước khi ông trông thấy hắn. Rich công nhận, “Chắc chắn như vậy. Và cho tới bây giờ tôi vẫn lấy làm lạ, và tự hỏi tại sao hắn không bắn tôi?”

Nhưng đó không phải là điều ám ảnh Rich nhiều năm sau đó. Không phải là súng nổ, và cũng không phải việc giết người. Ngoài chiến trường thì lúc nào cũng có quá nhiều súng nổ và người chết.

° ° °

Chàng thanh niên 18 tuổi Rich Luttrell cuối cùng đã đụng địch quân và thoát chết. Người lính Việt Cộng ấy đáng lẽ ra đã giết Rich rồi. Nhưng kết quả ngược lại. Rich toát mồ hôi, chất adrenalin tỏa ra khắp người và cảm thấy như không đứng vững nữa, vì hành động vừa giết người.

Thiếu kinh nghiệm, Rich tỏ ra rất xúc động sau vụ giết người lần đầu tiên, và kinh hoàng thấy các bạn đồng đội đi tìm kỷ vật trên xác địch quân. Có người cúi xuống rút ví của tên địch vừa mới bị Rich bắn chết. Một mẩu giấy rơi ra; Rich cúi xuống nhặt lên: đó là một tấm ảnh nhỏ nhô ra một nửa, trông giống khuôn mặt một cô gái nhỏ có mái tóc dài. Rich rút tấm ảnh ra, chỉ to bằng một con tem. Ðó là ảnh một người lính và một cô gái nhỏ. Họ là ai? Phải chăng đó là người lính Việt Cộng đã chết? Có phải người lính là bố cô gái không?

Rich quyết định giữ tấm ảnh ấy. Ðúng ra, ông ngồi xuống, cúi nhìn người lính chết và nhìn tấm ảnh, rồi lại nhìn mặt anh ta. Hai người trong tấm ảnh quá trang nghiêm, quá buồn. Phải chăng họ chụp tấm ảnh này ngay trước khi họ từ giã nhau – trước khi người lính bỏ con gái ở lại, để ra đi và để bị Rich bắn chết. Rich cảm thấy đau đớn lắm. Nhưng chỉ trong vài phút, trung đội của Rich phải di chuyển. Rich nhét tấm ảnh vào ví.

Cái gì đã khiến Rich phải giữ tấm ảnh? Rich trả lời, “Tôi không biết. Tôi đã suy nghĩ cả triệu lần rồi. Cái phần đầu tiên tôi trông thấy trong tấm ảnh là cô gái, và cô ta có một cái gì buồn bã lắm.”

Nhưng Rich không phải là một người lính bất đắc dĩ, không muốn giao chiến với địch quân. Nếu Rich muốn sống thoát khỏi cuộc chiến, ông phải học cách giết người mà không hối tiếc, và Rich đã trở thành một chiến binh như thế.

Tại cái nơi ghê gớm ấy, Rich mau lẹ trở nên cứng cỏi. Cuối cùng Rich là người được giao nhiệm vụ giải tỏa những đường hầm của địch quân. Ông trở nên thiện nghệ cận chiến. Rich đã nhìn thấy các bạn đồng đội tử trận. Ông quen giết địch quân, và cầu nguyện được thoát chết. Một lần trong đêm tối trên một ngọn đồi, đạn pháo kích nổ quanh mình và nghe thấy bạn đồng đội la hét và bị tan xác, Rich đưa ba lô lên che đầu và cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin cho con đừng trúng đạn.” Rich không nghĩ ông có thể tiếp tục được như thế trong sáu tháng nữa.

Khi Rich chỉ còn 20 ngày nữa là được trở về Mỹ thì ông gặp nạn. Ðơn vị ông bị phục kích; ông được giao nhiệm vụ xông ra cứu một đồng đội bị bắn hạ. Trong lúc cứu bạn đồng đội, Rich bị trúng đạn vào lưng, và chính vết thương này giúp Rich được hồi hương sớm. Trong lúc ông được đưa lên trực thăng tải thương, Rich cảm thấy có lỗi, và bị dằn vặt vì những câu hỏi, Ta bỏ đi đâu? Ta sẽ làm gì? Ta bỏ dồng đội lại hay sao?

Rich hồi hương với một hộp đầy huân chương, và kết hôn với Carole, một người bạn gái tại quê nhà. Thập niên 60 nhường chỗ cho thập niên 70; ông không bao giờ nói về cuộc chiến ấy. Thời đại đã thay đổi. Rich có đời sống riêng – hai người con gái, một việc làm tốt tại Sở Cựu Chiến Binh Illinois. Ông cố gắng quên cuộc chiến Việt Nam, và tập trung vào tương lai với Carole.

Carole nói, “Chồng tôi thực sự không nói về chiến tranh Việt Nam trong nhiều năm. Ðó là một cái gì chồng tôi muốn giữ rất riêng tư và giấu kín.”

Rich có thể trốn tránh cuộc chiến, nhưng không không thể trốn tránh được cô gái nhỏ mà ông mang trong ví. Thực sự đã có một ràng buộc đặc biệt giữa Rich và cô gái trong tấm ảnh. Ðây là một điều lạ lùng. Rich đã chứng kiến và đã quên nhiều kinh hoàng trong cuộc chiến, nhưng khuôn mặt của cô gái trong tấm ảnh cứ tiếp tục ám ảnh tâm trí ông. Tấm ảnh nặng không tới một gam mà đè nặng tâm trí ông một cách khủng khiếp.

Vào mùa Giáng Sinh, các con gái ông thường hỏi mẹ mua quà gì cho Rich, và quà tặng ông thường nhận lại là ví da. Hàng ngày người ta thường rút ví ra để trả tiền bằng tiền mặt hoặc bằng credit card, và mỗi lần như thế, Rich lại có dịp kéo tấm ảnh nhỏ ra. Ðối với Rich thì đó là một cô gái tội nghiệp, đã không còn bố chỉ vì ông.

Rich biết nếu ông không giữ tấm ảnh thì ông đã không có những ý nghĩ tội lỗi này. Rich xác nhận, “Tôi hoàn toàn đồng ý. Sau nhiều năm tôi thành thực nói là đã có nhiều lần tôi hối tiếc đã giữ tấm ảnh ấy.”

Carole rất thông cảm và ủng hộ chồng, nhưng bà thấy chồng muốn thoát khỏi ám ảnh ấy thì phải vất tấm ảnh ấy đi. Một lần bà hỏi chồng, “Tại sao anh không vất bỏ tấm ảnh? Hãy liệng bỏ nó đi, loại nó khỏi cuộc đời anh, để anh có thể quên và tiếp tục sống.”

Nhưng Rich không thể liệng bỏ hoặc hủy hoại tấm ảnh được. Ông biết ông phải làm một cách đặc biệt nào đó, phải làm một cách trong kính trọng và danh dự, bởi vì ông nghĩ người lính ấy là một người can đảm.

Năm 1989, hơn hai mươi năm sau khi từ Việt Nam trở về, việc giải quyết tấm ảnh đã rõ ràng và cấp bách. Rich và Carole nghỉ phép hàng năm. Hai người quyết định đi thăm Bức Tường Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Tại đó Rich biết mình phải làm gì với tấm ảnh nhỏ cũ kỹ này. Rich nghĩ rằng cách tốt nhất là bỏ tấm ảnh tại Bức Tường.

Ngồi trong khách sạn, Rich quyết định phải làm cho đúng. Ông ngồi trên giường với một tập giấy trong tay. Ông suy nghĩ tìm cách nói chuyện với người lính trong tấm ảnh. Trong vài phút, Rich viết xong một lá thư ngắn, gồm có một vài điều ông vẫn từng muốn nói. Ông viết:

“Thưa ông, trong suốt 22 năm nay, tôi giữ ảnh ông trong ví. Hôm ấy tôi mới có 18 tuổi, khi chúng ta trông thấy nhau trên con đường mòn gần Chu Lai, Việt Nam. Xin tha thứ cho tôi đã giết ông. Ðã nhiều lần trong những năm qua, tôi nhìn ảnh ông và người con gái tôi đoán là con ông. Mỗi lần tim tôi bừng cháy với nỗi đau tội lỗi. Xin ông tha thứ cho tôi.”

Mỗi khi Rich đọc lại những hàng chữ trên đây, và ngay cả bây giờ, ông lại cảm thấy một cái gì. Ngày hôm sau, Rich đặt tấm ảnh và lá thư ngắn ấy tại chân Bức Tường, bên dưới tên của 58,000 binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam. Rich nói, “Hành động ấy giống như sự đứng nghiêm chào lần cuối cùng. Người lính ấy chết vì chiến đấu cho niềm tin của ông ta. Và đây là một cách vinh danh và tôn kính ông ta.”

Vào lúc ấy hai người không còn là kẻ thù nữa. Rich nói, “Ông ta không còn là kẻ thù nữa, mà là một người bạn. Giống như chào vĩnh biệt một người bạn. Vào lúc đó, giống như tôi vừa chấm dứt một trận đánh, buông ba lô xuống để nghi ngơi. Cái gánh nặng tôi mang nay không còn nữa.” Phải, tất cả đã mất rồi, và Rich bây giờ cảm thấy nhẹ nhõm, tự do và thoải mái.

Làm thế nào Rich biết được sức mạnh thực sự của tấm ảnh nhỏ bé ấy, của cô gái nhỏ có đuôi tóc, mà bây giờ không còn nhỏ nữa?

° ° °

Một người lính BV nằm chết bên cạnh đồ cá nhân trong một trận đánh năm 1968. (DonMacCullin/tate.org.uk) (thân tri sưu tầm)

Tấm ảnh của Rich đã mất rồi. Mặc cảm tội lỗi cũng mất luôn. Cái gánh nặng đã được vất bỏ tại Bức Tường hùng vĩ ấy. Và trở lại Illinois, Rich và Carole bắt đầu cuộc đời mới, sau khi nghe lời khuyên của vợ loại bỏ tấm ảnh để tránh cái tâm trạng ngã lòng mỗi khi trông thấy tấm ảnh. Rich vất bỏ tấm ảnh năm 1989.

Hoặc Rich tưởng đã có thể vất bỏ được. Hàng ngày, hàng trăm người bỏ lại nhiều kỷ vật tại Bức Tường này. Và mọi vật kỷ niệm, dù tầm thường hay thiêng liêng, đều được nhân viên của công viên thu thập lại – kể cả tấm ảnh nhỏ và lá thư xin lỗi của Rich. Tấm ảnh ấy tình cờ nằm trên cùng của một cái hộp, và nằm ngửa lên. Và cũng tình cờ Duery Felton, một cựu chiến binh Mỹ khác, trông thấy. Durey hiểu ngay đây là một cái gì khác thường.

Duery là quản lý phòng sưu tập tại đài Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam. Ông tự hỏi tấm ảnh này là gì, và cầm lên xem. Ông đã từng trông thấy đủ thứ tại Bức Tường, nhưng chưa bao giờ thấy ảnh một binh sĩ địch quân. Ông vui sướng trông thấy bộ quân phục màu xanh lá cây ấy.

Trong hơn 30 năm Duery chưa bao giờ trông thấy bộ quân phục màu xanh ấy. Một câu hỏi hiện lên trong tâm trí ông “Người con gái này là ai? Có phải là con gái hay cháu gái của người linh Việt Cộng này?”

Rồi Duery đọc lá thư xin lỗi của Rich. Ông nhớ lại khi còn chiến đấu tại Việt Nam, ông đã từng giúp khiêng xác đồng đội, những bao đựng xác và những ponchos. Ông đọc lá thư về việc giết người ấy. Thực là khó khăn khi phải làm quyết định ấy, một duyết định chỉ làm trong vài giây đồng hồ, nhưng người ta sẽ phải ân hận suốt đời. Durey cảm thấy có một cái gì an ủi, khi được biết có người cũng trải qua kinh nghiệm ấy, và viết lại lên giấy.

Duery dùng lá thư xin lỗi và tấm ảnh của Rich trong các cuộc trưng bầy về Bức Tường, dậy cho thế hệ mới về chiến tranh, và chiến đấu trong chiến tranh có hậu quả gì cho con người. Tấm ảnh ám ảnh Rich bao nhiêu năm, bây giờ lại mê hoặc một cựu chiến binh Việt Nam khác.

Cái gì trong tấm ảnh ấy mạnh mẽ đến nỗi bây giờ đến lượt Duery phải ôm giữ nó và không bỏ đi được? Có thể tấm ảnh đã vang vọng lên trong tâm thần của Duery, và gây một hậu quả sâu xa cho ông.

Dĩ nhiên tại Rochester Illinois, Rich không biết gì về Duery. Rich tiếp tục cuộc đời của ông. Ông chứng kiến hai con gái trưởng thành và sinh con đẻ cái. Bây giờ ông cưng chiều hai cô cháu ngoại của ông. Ông tìm cách đưa người con gái trong tấm ảnh ra khỏi tâm trí ông.

Nhưng người con gái ấy bây giờ lại ám ảnh Duery Felton. Khi một nhà xuất bản yêu cầu Duery giúp in ra một ấn bản về Bức Tường, ông biết rằng ông phải đưa tấm ảnh của cô gái và lá thư xin lỗi vào ấn bản ấy. Duery nói, “Tấm ảnh này ám ảnh tôi nhiều năm, và tôi không biết cô ta là ai.”

Cuốn sách có tựa là “Của Dâng Hiến Tại Bức Tường” và in tấm ảnh và lá thư xin lỗi của Rich. Ðây là một cuốn sách đơn giản, trình bày những hình ảnh, những ám ảnh, những kỷ niệm và lòng kính trọng của những người có liên hệ với Bức Tường. Một hôm cuốn sách này xuất hiện trên bàn giấy của dân biểu tiểu bang Ron Stephens. Stephens lật từng trang cuốn sách, và tới một trang đặc biệt có một tấm ảnh mà ông chưa từng trông thấy, và bỗng nhiên ông bị xúc động mạnh. Ông chợt nhận thức ông biết người lính ấy, ông biết tấm ảnh ấy.

Làm thế nào ông Stephens biết được tấm ảnh ấy? Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy tấm ảnh, nhưng ông đã nghe người bạn thân là Rich kể nhiều lần. Stephens nói, “Tôi thực sự tuột xuống khỏi Bức Tường, và ngồi phiá sau Bức Tường cầm tấm ảnh này và biết nó là tấm ảnh của Rich. Tôi biết câu chuyện Rich bỏ tấm ảnh tại chân Bức Tường. Chúng tôi nói về chuyện này nhiều lần rồi.”

Năm 1996, bảy năm sau khi Rich nghĩ có thể chào vĩnh biệt tấm ảnh lần cuối cùng, thì ông Stephens vội vã lái xe lại ngay văn phòng của Rich. Rich đang họp với một người nào đó, nhưng Stepehns xen vào và nói, “Tôi cần nói chuyện với anh,” và đặt cuốn sách lên bàn của Rich, và yêu cầu Rich mở trang 53.

Rich mở trang 53 của cuốn sách, và trước mắt ông là tấm ảnh và lá thư xin lỗi gửi người lính Việt Cộng ông bỏ lại bên Bức Tường. Rich lập tức xúc động và bật khóc. Vẫn tấm ảnh người con gái ấy, và đôi mắt buồn bã chăm chú nhìn ông, không chịu quay đi chỗ khác. Rich có cảm tưởng như người con gái muốn buộc tội ông. Lúc ấy Rich như ở trong một cơn ác mộng, và muốn hỏi cô gái muốn gì ở ông.

Nỗi ám ảnh cũ bây giờ trở lại với Rich, mạnh mẽ hơn bao giờ. Rich biết ông phải lấy lại tấm ảnh. Thế là Rich liên lạc với Durey, người cũng đang bị tấm ảnh ám ảnh. Durey bay từ Hoa Thịnh Ðốn tới Illinois, và tận tay trao trả Rich tấm ảnh. Thực là một truyện kỳ lạ. Hai người đàn ông không quen biết nhau, chưa từng gặp nhau, nay ôm nhau khóc vì một cô gái nhỏ mà cả hai đều không biết.

Rich cầm lấy tấm ảnh, và tâm hồn ông là một vết thương tái phát. Ông biết ông phải tìm cách hàn gắn vết thương này. Một buổi tối ông cho vợ biết đây có thể là một sự huyền bí hoặc là định mệnh. Nhưng dù là gì, ông cảm thấy ông phải trả lại tấm ảnh này, có nghĩa là ông sẽ đi tìm người con gái trong tấm ảnh và gia đình người lính Việt Cộng đã bị ông giết.

Nếu như ông biết người con gái ở đâu thì công việc dễ dàng quá, chỉ việc bỏ tấm ảnh vào phong bì và gửi tấm ảnh này ra khỏi cuộc đời của ông. Nhưng ông không làm thế được. Ông không biết tên và địa chỉ người con gái. Ông không có một ý niệm bây giờ người con gái trông như thế nào.

Carole cố gắng khuyên nhủ ông đây là một việc không đơn giản và không thể thực hiện được. Ông không thể đi Việt Nam tìm người con gái được, vì ông không biết tiếng Việt, không quen một ai tại Việt Nam. Ngay tìm một người tại Hoa Kỳ cũng đã khó khăn lắm rồi, huống chi tìm một người hoàn toàn xa lạ cách đây hơn 30 năm, già hơn 30 tuổi trong một quốc gia hoàn toàn khác lạ, nhất là quốc gia ấy từng có thái độ thù nghịch với Hoa Kỳ.

Ðây là những lý do đúng và hợp lý để loại bỏ ý định của Rich. Bà vợ nhấn mạnh, “Nếu chồng tôi quyết định thực hiện ý định thì ông ấy cứ việc tự đi mà làm. Tôi không cản trở chồng tôi. Nhưng tôi nói với chồng tôi việc này không thể làm được, hãy bỏ cuộc và quên đi, không đáng làm đâu. Tôi thực sự đã chán ngấy chuyện này rồi.”

Carole công nhận bà đã chán nghe chuyện về tấm ảnh này rồi. Ðây chỉ là một sự ám ảnh. Carole cũng bị đau đớn như Rich vậy, mặc dù lý do khác nhau. Cái mà Carole ao uớc là Rich có thể quên được nỗi ám ảnh và tìm được sự bằng an của tâm hồn.

° ° °

Tấm ảnh của hai bố con người lính Việt Cộng đã âm thầm làm nhiệm vụ trong nhiều năm. Nhưng bây giờ nó gây hứng khởi cho một việc làm được coi là không thể thực hiện được. Rich chỉ muốn được cô gái ấy buông tha, và Rich sẽ cố gắng tìm cô ta, nếu đó là điều cô gái ấy muốn.

Rich không biết tên và địa chỉ cô gái, và bây giờ hình dáng cô ta trông thế nào, bao nhiêu tuổi, và nhất là cô ta còn sống không? Nhưng Rich biết ông phải tìm ra người con gái. Rich nghĩ nếu ông công khai cho mọi người biết ông đang tìm cô gái thì có lợi hơn. Vì thế Rich trả lời một cuộc phỏng vấn cho tờ báo St. Louis Post Dispatch, và câu chuyện được đăng lên trang nhất của tờ Post Dispatch.

Rich cứ tiến hành dự định. Ông gấp bài báo ấy, nhét vào một phong bì cùng với một lá thư gửi cho Ðại sứ Hà Nội tại Hoa Thinh Ðốn. Rich giải thích với ông Ðại sứ rằng ông muốn một sự giúp đỡ để tìm ra người con gái, và gia đình người lính trong tấm ảnh. Ông đại sứ hứa chuyển tài liệu về Hà Nội và cho biết phải có phép lạ mới có kết quả.

Giống như tìm kiếm một cây kim trong đống rơm. Ðây là một quốc gia có 80 triệu dân. Chính Rich cũng không tin tưởng lắm. Rich thực tình không hy vọng sẽ có kết quả. Từ đáy lòng ông đã không tin tưởng, nhưng ông biết đây là một việc phải làm. Ít nhất ông phải thử cho biết.

Và thế là một bản sao của tấm ảnh được gửi tới Hà Nội, tại đấy chủ bút một tờ báo nhận thấy đây là một truyện hấp dẫn. Ông ta cho đăng tấm ảnh với lời kêu gọi “Có ai biết những người này không?”

Nếu bài báo ở Hà Nội không đạt mục tiêu ngay thì nó cũng âm thầm tạo ra kết quả. Báo chí có hai công dụng: công dụng thứ nhất là thông tin, và công dụng thứ hai là trở thành báo cũ để gói hàng. Chính công dụng thứ hai này đã đưa tới kết quả.

Một người ở Hà Nội gửi một món quà về quê biếu mẹ. Ông ta dùng cái tờ báo đăng tấm ảnh của Rich để gói món quà, và gửi về cho bà mẹ ở một miền quê xa. Tuy thế câu chuyện cũng có thể chấm dứt ở đây – nếu không vì một tình cờ, bài báo đó đã về đúng chỗ.

Mảnh giấy báo gói đồ ấy về tới một làng quê xa Hà Nội, tại đó bà mẹ mở gói đồ của con, và trên tờ giấy báo nhàu nát, hình ảnh người lính Việt Cộng đập vào mắt bà gìà. Bà ta biết người trong tấm ảnh. Thế là bà ta cầm tờ báo đi tới một thôn xóm nhỏ bé, và bảo cho chị em một nhà kia biết tấm ảnh là bố của họ.

Thật là một điều không tưởng, giống như tấm ảnh nhất định không chấp nhận bị từ chối. Trái với mọi khó khăn tưởng như không qua được, tấm ảnh như một mũi tên trúng đích.

Từ Mỹ quốc cách xa ba ngàn dặm, Rich sẵn sàng chờ đợi lâu dài hơn nữa. Nhưng chỉ vài tuần sau, một lá thư của Ðại sứ Hà Nội tới hộp thư của ông. Lá thư đó viết:

“Có một người tên là Nguyễn Văn Huệ viết thư cho biết ông ta tin rằng tấm ảnh của ông chính là ảnh của thân phụ ông ta, và người con gái nhỏ ấy là chị ông ta.”

Ba mươi năm sau khi trông thấy tấm ảnh lần đầu, cuối cùng Rich biết người con gái ấy còn sống. Trong suốt cuộc đời, người con gái ấy ở cùng một chỗ. Như vậy Rich đã tìm thấy người con gái ấy, tên là Lan, và đã có con cái.

Thực là không ngờ đối với Rich. Thoạt đầu ông không thể tin kết quả mau lẹ như vậy. Rich rất xúc động và tự hỏi không biết những người con này có thù ghét ông vì đã giết cha họ không. Ông bắt đầu lo lắng hai người con có thể hiểu lầm về việc ông tham chiến tại Việt Nam. Rich rất cởi mở và thành thực. Vì trong thư của người con có nói tới tội lỗi và lòng hối tiếc của ông. Ông thấy cần phải bày tỏ cho họ biết có sự khác biệt giữa tội lỗi và hối tiếc. Rich mang trong lòng một mặc cảm tội lỗi nào đó vì cái hành động giết cha của họ, nhưng ông không hề có một hối tiếc nào với tư cách của một quân nhân, cũng không hối tiếc đã tham chiến tại Việt Nam. Và ông nghĩ rằng điều quan trọng là họ phải hiểu như thế.

Rich mong đợi gì ở hai người con này? Dẫu sao ông cũng đã giết cha họ. Ông không mong đợi gì, không biết họ thù ghét và tức giận ông hay không. Người con gái mất bố ấy cảm thấy thế nào? Nàng có coi ông như một con quái vật trong những năm ấy không? Con gái của ông sẽ nghĩ thế nào về một người đã giết ông?

Rich không có nhiều thời giờ suy nghĩ về phản ứng của hai người con này vì một lá thư thứ hai đến với ông. Lần này chính cô gái trong tấm ảnh viết cho ông. Ông vội chạy đi tìm người thông dịch. Lá thư viết:

“Kính gửi ông Richard, đứa nhỏ mà ông đã chăm sóc qua tấm ảnh trong hơn 30 năm bây giờ đã trưởng thành rồi. Đứa nhỏ ấy đã trải qua nhiều đau khổ trong tuổi thơ ấu vì đã mất bố và nhớ thương bố. Tôi hy vọng ông sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình tôi.”

Niềm vui và hạnh phúc? Rich vô cùng kinh ngạc. Như vậy cô gái đã tha thứ cho Rich? Nhưng tin vui vừa nhận được thì tất cả dường như rơi vào tuyệt vọng. Sau một cuộc điều tra nội bộ, chính phủ Hà Nội kết luận thân phụ của Nguyễn Thị Lan không thể là người trong tấm ảnh, bởi vì hồ sơ quân đội chứng minh thân phụ cô ta không tử trận tại nơi Rich nhớ đã bắn chết ông ta.

Rồi ba gia đình khác cho Rich biết tấm ảnh ấy là của họ. Người trong ảnh là bố họ, chứ không phải là bố của Nguyễn Thị Lan.

Làm sao Rich có thể biết chắc tin nào đúng. Người Việt Nam không giữ được hồ sơ thật chính xác. Có khoảng 3 triệu người Việt chết trong cuộc chiến mà tới nay vẫn còn 300,000 lính Việt Cộng được coi là mất tích.

Nhưng rồi có một lá thư nữa xác định niềm tin của Rich đã đạt tới kết cục. Ðó là thư của một đồng đội của người lính trong ảnh, một người quen biết thân phụ của Nguyễn Thị Lan kể từ khi hai người còn nhỏ, và đã chiến đấu bên nhau. Người ấy đoan chắc người trong tấm ảnh là cha của Nguyễn Thị Lan.

Bây giờ Rich rất tin vào kết quả cuối cùng. Khi sự việc đã sáng tỏ, Rich trao đổi nhiều thư từ với gia đình, và đi đến quyết định trao trả lại tấm ảnh cho gia đình người chết. Thoạt dầu Rich định gửi trả lại bằng thư, nhưng rồi cuối cùng Rich hiểu. Chính ông phải bay sang Việt Nam, mang theo tấm ảnh ấy. Ông nghĩ đây là điều ông cần làm và phải làm.

Nhưng làm thế nào Rich có thể đương đầu với Việt Nam, với cô gái và gia đình cô ta? Chính Rich có thể nào nhìn tận mặt kẻ đã giết cha mình trong chiến tranh không? Rich không biết câu trả lời. Ông nhận rằng có một sự nguy hiểm, không biết gia đình người tử sĩ sẽ phản ứng thế nào.

° ° °

Việc gặp gia đình người lính Việt Cộng không dễ dàng đối với Rich. Nhưng chính tại đây vào mùa xuân năm 2000, Rich sửa soạn đương đầu với quá khứ. Ông cảm thấy bị cuốn trôi theo sự việc, như thể ông bị chi phối bởi câu chuyện mà chính ông khởi đầu. Ðôi khi Rich thấy khó hiểu, nhưng vẫn nghĩ rằng đây là việc chính đáng mà ông phải làm.

Nhiều năm trước ông đã thề không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Ông đã chứng kiến quá nhiều cảnh bắn giết, quá nhiều kinh hoàng. Tất cả những đau khổ ấy phản chiếu trong tấm ảnh nhỏ ấy.

Tấm ảnh ấy có lẽ chụp tại một tiệm ảnh địa phương nào đó, tại đó người lính cùng chụp với người con gái để làm kỷ niệm cho cha nhớ con và con nhớ cha, khi ông ta ra đi chiến đấu. Giống như một vật có đời sống, tấm ảnh ấy đi từ một binh sĩ tử trận trên một con đường mòn, tới một người lính Mỹ, đài kỷ niệm chiến tranh, một cuốn sách, một chiếc ví, và tới một gói trên đuờng hồi hương.

Rich và Carole lên máy bay. Không còn đường rút lui nữa. Ðối với Rich, cuộc hành trình này sẽ đánh dấu sự khởi đầu của một chấm dứt. Sự chấm dứt một nỗi ám ảnh trên 30 năm của một tấm ảnh người lính Việt Cộng và cô con gái.

Không có gì ám ảnh hơn là khuôn mặt cô gái, mà Rich biết bây giờ không còn giống như thế nữa. Nhưng chính Rich cũng đã thay đổi và ngay cả Việt Nam nữa. Ðối với Rich, Việt Nam vừa xa lạ vừa gần gũi. Trên tất cả, nó là cái gì làm căng thẳng trí óc. Ngày hôm trước khi gặp nhau, Rich rất căng thẳng. Ông nói, “Tôi thà phải ra trận còn hơn phải gặp cô gái này.”

Ðó là một ngày thứ Tư u ám tại Hà Nội. Trời có vẻ sắp mưa trong lúc Rich bước lên một chiếc xe van để làm một chuyến đi hai giờ rưỡi tới làng của Lan. Chiếc xe chạy qua một vùng rất xa lạ, qua những chợ đầy những khuôn mặt ngạc nhiên trông thấy một đám du khách và người Mỹ tóc bạc này.

Càng gần tới làng, trên xe van Rich càng bồn chồn cựa quậy. Rồi bỗng nhiên, Rich và Carole tới nơi. Ðây chính là nơi người lính ảm đạm nghiêm trang ấy từng sống và có con cái. Ðây là nơi người lính ấy không bao giờ trở lại.

Rich hoang mang, Và sau đó bước qua một bức tường đá, Rich trông thấy người đàn bà. Rich tin chắc đã trông thấy người đàn bà này rồi. Rich phải mất vài phút để lấy lại bình tĩnh, rồi tiến lại phía người đàn bà. Và bây giờ hai người đối diện nhau. Hai người chưa từng thấy nhau bao giờ. Trong vài giây, hai người không biết nói gì. Họ là hai người thân mật nhưng xa lạ. Ông lập lại câu nói tiếng Việt mà ông đã học thuộc lòng:

“Hôm nay tôi trả lại tấm ảnh của cô và cha cô mà tôi đã giữ 33 năm. Xin tha thứ cho tôi.”

Cuối cùng tất cả tuôn ra – như một sự giải thoát đau đớn kinh hoàng. Dường như ngay lúc này người con gái cuối cùng đã có thể chịu được sự đau khổ, khóc gọi người cha mà cô không thực sự biết rõ.

Cô ôm lấy Rich và khóc. Cô ôm chặt lấy Rich như thể Rich chính là cha cô, cuối cùng đã trở về từ cuộc chiến. Người em cô cho biết cả hai chị em dị đoan tin rằng linh hồn người cha sống qua Rich. Ðối với họ, ngày hôm nay linh hồn cha của họ đã trở về với họ.

Cả làng tuôn ra xem tấm ảnh trả lại. Thực ra đó là một đại gia đình, tất cả làng thương tiếc người tử sĩ. Họ biết điều ấy có ý nghĩa như thế nào đối với Lan, và tấm ảnh đã gây xúc động cho mọi người.

Người ta có thể trả lại thế nào một cái gì mạnh mẽ như tấm ảnh ấy? Một lần Rich đã nghĩ tới một nghi thức trang trọng, nhưng cuối cùng chỉ là một câu nói đơn giản của Rich, “Nói cho cô ấy biết đây là tấm ảnh tôi lấy từ ví của cha cô ấy cái ngày tôi bắn chết ông ta, và hôm nay tôi mang trả lại.”

Người con gái nhỏ ấy nay đã 40 tuổi, và đây là lần đầu cô ta cầm được hình mình và hình cha trong tay. Cô ta vùi mặt vào hình ảnh người bố. Ðây là lúc cô ta có thể nhìn bố gần nhất kể từ khi cô lên 6 tuổi và người bố ra đi. Như thể tất cả gánh nặng đã hoán chuyển trong khi tấm ảnh nhỏ này truyền tay. Bây giờ chính Rich là người an ủi Lan.

Ðây là tấm ảnh duy nhất và đầu tiên của người lính Nguyễn Trọng Ngoạn mà con cái có được. Lan và người em tên Huệ đặt tấm ảnh lên bàn thờ cha mẹ. Rich cũng tham dự nghi lễ cầu nguyện trước bàn thờ.

Rich nói, “Thân phụ của họ là một cguời can đảm, và ông chết là một chiến sĩ can trường. Ông ta không bị đau đớn. Tôi rất tiếc.”

Lan và Rich ôm nhau khóc. Hiển nhiên bây giờ Lan đã tha thứ cho Rich. Và trong những giờ sau đó, Rich trở nên gần như một người trong gia đình. Rich có dịp gặp lại bạn đồng đội của người lính đã chết, và những kẻ thù cũ trao đổi những kỷ niệm chiến tranh, như thể họ là đồng đội cùng chiến đấu bên nhau, trong cái góc nhỏ bé này của thế giới, nơi có những mộ bia ghi tên những chiến binh Bắc Việt không trở về.

Nhưng có lẽ còn có một cái gì đáng kể hơn nữa. Một cái gì trong Rich, bây giờ đã thay đổi 33 năm sau khi Rich bóp cò súng trong khu rừng già nóng nực ấy, trong cái ngày khó hiểu ấy. Bây giờ Rich đã tự tha thứ cho mình.

Rich bước đi, tự nhủ việc này “quá khó.” Rất khó cho Rich trở lại được đây, và cũng quá khó cho Rich từ giã nơi đây. Rich và Lan ôm nhau từ biệt. Trở lại xe van, Rich bật lên khóc.

Ba mươi ba năm trước đây, Rich tới quốc gia này để tham chiến. Hôm nay ông trở lại để tìm hoà bình. Ông bỏ lại tấm ảnh và cả một hồn ma nữa. Cái ám ảnh của cô gái cuối cùng đã mất đi, thay thế bằng hình ảnh một người đàn bà vẫn còn sống sau cái chết của thân phụ, và cũng đã tha thứ cái người đã giết cha mình.

Tấm ảnh đem Rich và Lan lại gần nhau và có thể giúp họ liên kết với nhau nữa. Rich cho biết ông sẽ liên lạc với Lan và gia đình. Ông cũng hy vọng câu chuyện ông đã đương dầu với quá khứ có thể giúp những cựu chiến binh khác đương đầu được với hoàn cảnh của họ. Nhiều cựu chiến binh đã trở lại Việt Nam 25 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt.

Ðối với Rich trở lại Việt Nam với tấm ảnh ấy giống như trở lại dự trận đánh cuối cùng. Và bây giờ chuyến trở lại Việt Nam đem lại cho Rich nhiều an ủi. Ông bây giờ đã trút được gánh nặng.

Gần một năm sau Rich vẫn còn mang trong lòng cái giây phút cuối cùng ấy, giống như một lá bùa may mắn, cái giây phút thay đổi của đời ông. Ông nói, “Khi tôi cầm tay và ôm cô ta, tôi cảm thấy như bỏ ba lô xuống và nghỉ ngơi, mọi thứ đều xong cả rồi.”

Rich vẫn chưa hiểu được – làm thế nào ông đã giết một người, mà lại chiếm được cảm tình gia đình của người ông đã giết? Làm thế nào những đau khổ trong những năm ấy, bỗng nhiên biến mất một cách giản dị như thế.

Trước khi trở lại Việt Nam, Rich không thể che giấu những mối lo lắng ông cảm thấy về Việt Nam – những nỗi đau buồn về tấm ảnh tội lỗi – những cảm xúc như thế thật là rõ ràng tại Việt Nam. Bây giờ những cảm giác ấy đâu? Rich nghĩ rằng ngay khi ông trông thấy người con gái ấy, các cảm giác ấy biến mất. Chính cô gái là người giải tỏa những cảm giác tội lỗi của ông.

Hai bên vẫn trao đổi thư tín, Rich và chị em Lan và Huệ. Huệ, người con trai viết cho Rich, “Trong thời gian ông viếng thăm gia đình tôi, mọi người trong làng nhận thấy ông là người rất tốt và tử tế. Khi ông rời Việt Nam, tôi cảm thấy như cha tôi đã trở về.”

Trong một thời gian lâu dài, một góc tim của Rich buồn bã lạnh lẽo. Bây giờ trái tim ấy hân hoan ấm áp trở lại. Ông nói, “Bây giờ chỉ là niềm vui, không còn đau buồn nữa.”

Hành động đầy thiện tâm của Rich không những giúp Rich thoát khỏi nỗi ám ảnh khôn nguôi trong suốt 33 năm, mà còn đem lại an ủi lớn lao cho hai người con của người lính Việt Cộng đã bị Rich bắn chết, vào một ngày mùa hạ trong khu rừng già ấy. Những tâm hồn một thời phong ba bão táp, nay đã có thể yên nghỉ.

(Viết theo tài liệu truyền hình Mỹ)