Hình ảnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong mắt lính Mỹ

Nguồn: Carie Uyen Nguyen, “Whose War Was It?”, The New York Times, 18/08/2017

Có lẽ chẳng ai bước ra khỏi Chiến tranh Việt Nam với danh tiếng bị hủy hoại nhiều như Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Từ rất lâu trước khi chiến tranh kết thúc, các binh sĩ QLVNCH đã trở thành vật tế thần dễ dàng và luôn sẵn sàng cho những thất bại của Mỹ, một hình mẫu điển hình trong các nghiên cứu học thuật và văn hóa đại chúng. Chúng ta được nghe kể rằng họ là bọn hèn nhát bất tài, hay trốn tránh nhiệm vụ, để lại mọi việc khó khăn cho người Mỹ.

Là một người nghiên cứu Việt Nam tại một trường đại học Mỹ với kho tài liệu lớn lưu trữ lịch sử qua lời kể (oral history) về thời kỳ Việt Nam, cả bằng văn bản và băng ghi âm, tôi may mắn có cơ hội đặc biệt để đào sâu hơn và để minh chứng rằng câu chuyện kể trên là mơ hồ và bất công. Đây là cơ hội đặc biệt bởi vì tôi không muốn nói rằng lính Mỹ đã sai – thay vào đó, tôi đã tình cờ tìm được những câu chuyện từ các cựu binh Mỹ nói về sự can đảm và hiệu quả công việc của những chiến hữu đồng minh của họ, những người lính Nam Việt Nam.

Tất nhiên, tôi cũng đã gặp nhiều người Mỹ có thái độ tiêu cực về QLVNCH. Nhưng nhiều người trong số họ là nhân viên hậu tuyến, những người chưa một lần chiến đấu bên cạnh QLVNCH ở tiền tuyến và, tôi cho rằng, họ đã rút ra kết luận không chính xác từ những câu chuyện của người khác mà họ được nghe. Những câu chuyện tiêu cực còn lại thì tập trung chủ yếu vào khác biệt văn hóa hơn là bất cứ điều gì khác. Có nhiều hơn một trường hợp người được phỏng vấn đã nói về thói quen của lính QLVNCH khi cầm tay nhau ra chiến trường. Một chuyên gia phát thanh người Mỹ từng phục vụ tại Bình Dương hồi năm 1967 đã chẳng thể hiểu được điều ấy, thậm chí là nhiều năm sau đó: “Việc này đại loại là kỳ lạ đối với chúng tôi. Tôi chẳng thể nghĩ được gì hơn ngoài việc cho rằng họ là những người bạn thân, và đó là những gì họ đã làm tại đó, nhưng nó trông cứ thật kỳ lạ.”

Các cựu binh Mỹ khác thì thấy kỳ lạ khi gia đình của những người lính VNCH thường theo họ đến trại. Như lời một lính G.I.: “Những binh sĩ này phần lớn là lính nghĩa vụ. Họ bước ra chiến trường cùng với vợ con trên đường mòn. Khi chốt dựng vị trí phòng thủ ban đêm, giống như là cả đại gia đình đều ở đó vậy. Trong nhiều trường hợp, họ chẳng muốn ra ngoài chiến đấu. Họ chỉ muốn sống sót mà chăm sóc gia đình mình.”

Nhưng trong nghiên cứu của tôi, bên cạnh các đánh giá tiêu cực của người Mỹ cũng có thể dễ dàng tìm thấy những câu chuyện tích cực, và có phần cảm thông, về QLVNCH. Chẳng hạn, nhiều cựu binh thực sự thích có các gia đình QLVNCH ở bên cạnh và ca ngợi việc các bà vợ sẵn sàng mạo hiểm mạng sống của họ để tìm thực phẩm tươi sống từ các khu làng gần đó, nấu thành bữa ăn thịnh soạn cho chồng và lính Mỹ. Số khác nhận ra rằng việc sống cùng các thành viên gia đình có thể là nguồn hỗ trợ tinh thần vững chắc cho các binh sĩ QLVNCH, như một lời nhắc nhở về mục tiêu chiến đấu của họ.

Nhìn chung, tôi thấy rằng thái độ tích cực và sự hiểu biết sâu sắc hơn của người Mỹ đối với các đồng minh QLVNCH của họ thường xuất hiện sau một thời gian sống chung, cùng làm việc và cùng chiến đấu với nhau, như trong “kỷ nguyên của những trận đánh lớn” (era of big battles) vào năm 1967, khi các đơn vị lính Mỹ và lính Nam Việt Nam chiến đấu sát cánh bên nhau. Sau một ngày chiến đấu khó khăn, nhiều chàng lính G.I. sẽ ngồi xuống với các đồng nghiệp Việt Nam để kể về gia đình, lấy từ túi áo những bức hình chụp người thân yêu của mình. Rồi cũng những người lính G.I. ấy nhận ra rằng: không giống như chuyến đi chỉ kéo dài 1 năm hoặc 18 tháng của họ, hầu hết các binh sĩ Nam Việt Nam phải phục vụ một thời gian dài không xác định. Những người đàn ông địa phương này buộc phải chiến đấu cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà chẳng hề biết rằng ngày chiến tranh kết thúc cũng là ngày họ phải xa cách gia đình một lần nữa.

Hai bên cũng gắn kết trong cuộc chiến đơn vị nhỏ tiêu biểu cho phần lớn Chiến tranh Việt Nam. Cứ mỗi câu chuyện về việc lính trinh sát VNCH vội vàng rút lui sau loạt súng đầu tiên, để người Mỹ lại một mình trong rừng, thì cũng có một câu chuyện khác, tích cực hơn, nói về một người lính VNCH cõng theo một cố vấn người Mỹ bị thương trên cơ thể nhỏ bé của mình đến nơi trú ẩn an toàn. Và cũng có cả những câu chuyện ở bên còn lại, như khi một cố vấn người Mỹ quyết định phá vỡ mọi quy tắc để gọi trực thăng Mỹ đến di tản một binh sĩ QLVNCH bị thương nặng. (Nếu ông chờ trực thăng Nam Việt Nam như đáng ra ông phải làm, thì mọi chuyện có lẽ sẽ quá muộn.) Hoặc câu chuyện khác về một trung sĩ lính thủy đánh bộ người Mỹ hồi tưởng lại việc suýt chút nữa phải ra tòa quân sự vì dám ăn chung với lính VNCH. Với giọng nói run lên vì xúc động, người này nhớ lại khi ông thách thức cấp trên của mình, “Nếu chúng ta không bẻ bánh ăn chung với họ, làm sao chúng ta có thể chiến đấu bên cạnh họ?”

Nếu tình bạn quả thật tồn tại trong chiến đấu, vậy thì những hình ảnh tiêu cực đến từ đâu? Gác lại định kiến chủng tộc, chúng ta có thể xác định một nguyên nhân nằm trong mối quan hệ chiến đấu giữa lực lượng Mỹ và QLVNCH. Người Mỹ giúp nâng cao tinh thần chiến đấu của QLVNCH nhưng đồng thời đã tạo ra sự phụ thuộc quá mức vào hỗ trợ quân sự của họ. Các cố vấn Mỹ được giao về các đơn vị QLVNCH là những người duy nhất có thẩm quyền yêu cầu hỗ trợ chiến thuật trên không khi bị tấn công nặng nề. Vì vậy, theo thời gian, một số sĩ quan QLVNCH dần trở nên quá phụ thuộc vào sự vượt trội về công nghệ của các đối tác Mỹ, và một số người Mỹ có thể đi đến kết luận rằng các sĩ quan của QLVNCH thiếu sức chịu đựng và tính kiên cường.

Tất nhiên, nhiều đội quân tác chiến của Mỹ chưa bao giờ gặp lính QLVNCH trên chiến trường, bởi hai bên thường thực hiện các vai trò chiến lược rất khác nhau: Người Mỹ chỉ huy các hoạt động chiến đấu, trong khi QLVNCH chịu trách nhiệm về bình định và an ninh lãnh thổ. Dù các nhà lãnh đạo Mỹ ở Sài Gòn đã cho thành lập các đội huấn luyện cơ động để hướng dẫn các đơn vị QLVNCH kể từ năm 1967, thời gian họ sống cùng các đơn vị Nam Việt Nam vẫn rất hạn chế.

Có lẽ nguyên nhân gây chia rẽ và hiểu lầm lớn nhất là chính cuộc chiến. Binh sĩ cả hai bên đều phải chiến đấu giữa những rối loạn xã hội, bất ổn chính trị và áp lực quân sự lớn. Cả hai phía đều tự hỏi rằng, đây là cuộc chiến của ai? Chúng ta đang chiến đấu vì điều gì? Và điều này thực sự khó cho lính Mỹ, những người luôn bối rối và thường trong tình trạng mất tinh thần, khiến họ không phân biệt được giữa những người cộng sản ủng hộ Bắc Việt và những người địa phương đang là ‘đồng minh’ của họ.

Đối với một số người Mỹ, câu trả lời đến một cách dễ dàng và đầy cảm thông. Họ tin rằng lính VNCH là những người lính tốt, đã chiến đấu hết sức có thể để bảo vệ mảnh đất của mình. Họ là những đồng minh trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. “Tôi sẽ làm điều tương tự cho đồng bào tôi trên đất Mỹ,” một cựu binh Mỹ nói. Nhưng những người Mỹ khác lại phẫn nộ với những gì họ cho là một gánh nặng bất công. H. Norman Schwarzkopf, cựu binh từng chiến đấu ở Việt Nam và sau đó lãnh đạo liên quân Mỹ và các đồng minh trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc, nói: “Đây là đất nước của họ, là trận chiến của họ. Sau cùng thì họ sẽ phải gánh vác lấy. Tôi nghĩ ta chỉ nên cung cấp cho họ các kỹ năng, sự tự tin cùng các thiết bị họ cần và khuyến khích họ chiến đấu. Tuy nhiên, ngay cả khi lập trường chính thức là chúng ta gửi các lực lượng đến hỗ trợ Nam Việt Nam chiến đấu, sự thật là ngày càng có nhiều trận chiến được tiến hành bởi chỉ riêng người Mỹ, thay vì bởi các đơn vị Mỹ và VNCH cùng chiến đấu cạnh nhau.”

Chúng ta biết rất ít về các cựu binh của chính mình (Mỹ), và lại càng biết ít hơn về các cựu binh Nam Việt Nam đã chiến đấu bên cạnh họ.

Chúng ta không biết những trải nghiệm hàng ngày của họ là như thế nào, khi chỉ được trang bị rất ít vũ khí và thường phải chiến đấu ở rìa ngoài của tuyến phòng thủ, đôi khi vai trò chỉ nhỉnh hơn một chút so với bia đỡ đạn. Khoảng 254.250 lính miền Nam đã chết trong chiến trận từ năm 1960 đến 1975, gần gấp năm lần số người Mỹ, ở một đất nước chỉ có 15 triệu dân. Chúng ta đã không nghe thấy những gì họ nghe, không cảm nhận những gì họ cảm nhận, cũng không thấy những gì họ thấy nơi chiến trường tuyệt vọng. Ta là ai mà dám phán xét các cựu binh Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam và các đồng minh địa phương của họ, những người họ xem là bạn bè, là anh em, dù là để lãng mạn hóa hay nạn nhân hóa, ca ngợi hay phỉ báng họ? Và rồi khi họ nói về những trải nghiệm của mình, liệu chúng ta có thực sự lắng nghe?

Ngày nay, lòng dũng cảm và sự hy sinh của những người lính VNCH đã hoàn toàn rơi vào quên lãng – ở Việt Nam, mọi chuyện đã bị xóa sạch bởi bên thắng cuộc; ở Mỹ, đơn giản là do lịch sử bỏ bê. Một trong số ít nơi họ được vinh danh là Công viên Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam tại Angel Fire, New Mexico, mà tôi đã đến thăm trong Ngày Tưởng niệm. Bên cạnh những viên gạch ghi tên một số cựu binh Úc và Đại Hàn, xuất hiện một vài cái tên người Việt, không phải ai trong số họ cũng có thể đến nơi an toàn và biến đất Mỹ thành ngôi nhà thứ hai của mình.

Một trong những cái tên đó thuộc về cha tôi. Ông là một lính VNCH, qua đời khi tôi vừa 14 tuổi. Ngay cả sau cuộc chiến, tôi chưa từng nghe ông một lần nói xấu người Mỹ, hay phía Cộng sản. Đứng bên cạnh viên gạch mang tên cha mình, tôi đã khóc, tôi trân trọng nơi duy nhất trên trái đất này ghi nhận những đóng góp của cha tôi – không phải trong sỉ nhục và ghét bỏ, mà là trong danh dự và tình yêu. Nơi linh thiêng này không chỉ ghi nhớ và tôn vinh sự hy sinh của những người phục vụ cho đất nước của họ dù thuộc phe nào, mà còn kêu gọi hòa giải thực sự và hòa bình lâu dài.

Nghiên cứu góc nhìn của những người lính Mỹ về lính VNCH, mà một trong số họ là cha tôi, và lắng nghe những câu chuyện của cựu binh Mỹ đã giúp tôi thêm mở mang, cũng như hỗ trợ hành trình học tập của tôi. Mối quan hệ Mỹ – QLVNCH rất phức tạp và là một ví dụ cảm động về trải nghiệm của con người trong một tình huống cực đoan. Câu chuyện của họ đã bị lãng quên, bị hiểu lầm, bị đơn giản hóa và chính trị hóa quá lâu. Chúng ta có thể nghĩ rằng mình hiểu câu chuyện đó, nhưng thật ra ta biết rất ít về các cựu binh của mình. Chúng ta nên và cần tìm hiểu thêm. Nếu các cựu binh ấy lên tiếng, chúng ta phải lắng nghe.

Carie Uyen Nguyen là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành lịch sử quân sự tại Đại học Texas Tech.

Johnson, Westmoreland và Chiến tranh Việt Nam

Nguồn: Gregory Daddis, “Johnson, Westmoreland and the ‘Selling’ of Vietnam”, The New York Times, 09/05/2017.

Biên dịch: Trương Thái Tiểu Long | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Tính đến đầu năm 1967, quân đội Mỹ và đồng minh vẫn kẹt trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan tại Việt Nam.  Trước công luận, các tướng lĩnh tuyên bố cuộc chiến đang tiến triển tích cực; nhưng các quan chức Quân đội lại rỉ tai các phóng viên rằng cuộc chiến “còn lâu mới đi đến hồi kết”. Hơn nữa, truyền thông còn tăng cường nhấn mạnh vào sự bối rối của chính Lyndon B. Johnson. Một nhà báo thậm chí còn cho rằng ngài tổng thống đang cảm thấy “dằn vặt do sự trì trệ” trong việc huy động nguồn lực cho cuộc chiến.

Luôn chú ý đến các xu hướng chính trị trong nước, vào mùa xuân năm đó ngài tổng thống đã phản ứng bằng chiến dịch kéo dài một năm không chỉ nhằm “vận động” cho chính sách Đông Nam Á của mình, mà còn bác bỏ các cáo buộc rằng cuộc chiến đang bế tắc ở Việt Nam. Johnson bắt đầu chuyến đi tranh cử vào tháng Tư bằng việc đưa Tư lệnh Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự tại Việt Nam, Tướng William Westmoreland, đi cùng để báo cáo về tiến triển của cuộc chiến. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ một vị tổng thống phải triệu hồi một chỉ huy trên chiến trường trong thời chiến để thay mặt chính quyền giải trình.

Vào thời điểm đó, Westmoreland có vẻ là biểu tượng cho sức mạnh quân sự của nước Mỹ thời hậu Thế chiến II. Bằng việc xướng tên Westmoreland là “Người đàn ông của năm” trong năm 1965, tạp chí Time đã gọi vị tướng bốn sao là “người đàn ông cao một thước tám có chiếc cằm nhô” (jut-jawed six-footer) và cũng là một “người thẳng thắn và kiên định”. Westmoreland, cựu binh từng tham gia hai cuộc chiến trước khi đến Việt Nam, từng chỉ huy Sư đoàn Không vận 101 trứ danh và Giám đốc Học viện Quân sự West Point. Bằng việc kế nhiệm nhiều vai trò của một bộ chỉ huy mang tính nhạy cảm chính trị như ở Việt Nam, tạp chí Time châm biếm rằng Westmoreland còn đội “nhiều mũ hơn cả Hedda Hopper” (nữ diễn viên nổi tiếng với nhiều kiểu mũ khác nhau – NBT).

Tuy nhiên trong năm 1965, Westmoreland chỉ có duy nhất một mục tiêu chiến lược – cứu vãn xu thế thất bại của Mỹ. Theo nhiều nguồn phân tích, chính quyền Nam Việt Nam đang bấp bênh bên bờ sụp đổ. Hà Nội đang gửi các trung đoàn bộ binh vào miền Nam Việt Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Các quan chức địa phương là mục tiêu của những hành động khủng bố. Quân đội Nam Việt Nam (được biết đến với tên gọi chính thức là Quân đội Việt Nam Cộng hoà, hay gọi tắt là A.R.V.N.) cho thấy sự bất lực trước tình trạng bạo lực leo thang.

Tuy nhiên, Westmoreland nhận ra rằng, việc giành lại thế chủ động chiến lược quan trọng hơn là chỉ giết chóc kẻ thù. Thay vào đó, các chiến dịch quân sự là phương tiện nhắm tới mục đích cuối cùng lớn hơn. Tóm gọn lại, các thắng lợi trên chiến trường đều có mục đích chính trị.

Vì vậy, từ năm 1966 đến đầu năm 1967, các lực lượng quân đội Mỹ đảm trách nhiệm vụ mở rộng phạm vi kiểm soát của chính quyền Sài Gòn lên người dân. Họ sát cánh chiến đấu cùng A.R.V.N. và các lực lượng dân quân địa phương nhằm chống lại các lực lượng chính của kẻ thù và các đơn vị nổi dậy. Họ tiến hành các kế hoạch hành động dân sự phi quân sự, chẳng hạn chăm sóc y tế ở vùng sâu, vùng xa và đào tạo quản lí hành chính cho các quan chức cấp quận huyện. Và họ tiến hành các chương trình với mục đích “thu phục lòng dân”.

Trái ngược với những gì được mô tả sau này trên truyền thông và sách lịch sử, cuộc chiến của Westmoreland cho thấy mục tiêu rộng lớn hơn chứ không chỉ đơn thuần là làm kẻ thù tiêu hao và đếm số lượng tử thi chỉ vì một “cảm giác tự hào quân sự sai lầm”.

Dĩ nhiên có hàng tá những khó khăn trong việc tiến hành một chiến dịch trên quy mô rộng khắp như vậy, cân bằng một cuộc chiến mà bản chất chính trị và quân sự của nó ngang ngửa nhau. Westmoreland phải vật lộn với tình hình chính trị đảng phái bất hoà tại Sài Gòn, đối mặt với một thông điệp dân tộc chủ nghĩa kết hợp với cộng sản chủ nghĩa vang khắp các miền quê Nam Việt Nam, và một kẻ địch đáng gờm luôn mong muốn thống nhất và giải phóng Việt Nam khỏi ảnh hưởng của phương Tây.

Nhưng điều phiền toái nhất có lẽ là đến năm 1967, các chỉ huy quân sự Mỹ phải đối mặt các chất vấn từ quê nhà về việc những hi sinh cho cuộc chiến chỉ mang lại những kết quả mơ hồ. Thời gian càng trôi qua thì những từ như “bế tắc” và “sa lầy” dần trở nên phổ biến khi đánh giá về chiến lược và cơ hội chiến thắng của Mỹ tại Đông Nam Á.

Việc bổ nhiệm Westmoreland vào vị trí tổng đại diện cho tổng thống vào mùa xuân năm 1967 dù vậy lại cho thấy chính bản thân Johnson và cả nước Mỹ tiếp tục duy trì cuộc chiến. Johnson dự định “chiến lược thuyết phục” của mình sẽ biện hộ cho nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam, đẩy lùi các chất vấn về tính khả thi trong các chính sách của ông. Vị tướng chỉ huy chiến trường cao cấp nhất sẽ bác bỏ những lời chỉ trích bằng việc thông báo những tiến triển tích cực.

Tại điểm dừng chân đầu tiên của Westmoreland – bữa tiệc trưa thường niên dành cho các biên tập viên của hãng A.P. vào ngày 25/04 – vị tướng khẳng định rằng số phận của Việt Nam sẽ ảnh hưởng tới tương lai của tất cả “các quốc gia mới nổi”. Ông ca ngợi binh lính của mình khi đã giải cứu chính quyền Sài Gòn “khỏi bờ vực thất bại”, trong khi nhấn mạnh tính phức tạp của loại hình chiến tranh này – “một cuộc chiến vừa mang tính lật đổ vừa mang tính xâm lược, một cuộc chiến mà các nhân tố chính trị lẫn tâm lí đều có vai trò quan trọng”. Và trong khi Westmoreland tự tin phác hoạ một thế cục quân sự thuận lợi, ông hai lần nhấn mạnh quan điểm có lẽ khiến Johnson phải xấu hổ. “Tôi không nhìn thấy kết cục nào cho cuộc chiến.”

Ba ngày sau Westmoreland lại có một bài phát biểu còn quan trọng hơn bài phát biểu tại A.P. Trong một phiên họp chung của lưỡng viện Quốc hội, vị tướng, theo một báo cáo, khiến các nhà lập pháp “hò reo vui mừng” khi cam đoan rằng sự chỉ huy của ông sẽ “thắng thế trước những kẻ cộng sản xâm lăng tại Việt Nam”. (Loại ngôn từ này nhắc tới nguy cơ bên ngoài nhiều hơn bên trong.) Tuy nhiên, Westmoreland lưu ý rằng chỉ thắng lợi quân sự thôi sẽ không đủ để dẫn đến “một kết thúc nhanh chóng và quyết định cho cuộc xung đột”. Kẻ thù vẫn đang phát động một “cuộc chiến tranh toàn diện cả ngày – mọi ngày – và ở mọi nơi.” Westmoreland vẫn cho rằng chỉ có một chiến lược “tạo sức ép không khoan nhượng nhưng sáng suốt về cả  quân sự, chính trị lẫn tâm lý” lên kẻ thù mới dẫn đến thắng lợi.

Westmoreland chưa hề nhắc đến vấn đề bế tắc. Dù kẻ thù “còn lâu mới từ bỏ”, lực lượng Mỹ nếu được quê nhà hỗ trợ “một cách quyết tâm, tự tin, kiên nhẫn, kiên định và liên tục” thì vẫn sẽ đi đến thắng lợi.

Các nhà phê bình dù ấn tượng với phát biểu của vị tướng, vẫn cho rằng Westmoreland không thể lay chuyển được niềm tin của ai. Tom Wicker của tờ Thời báo New York nhận thấy luận điệu này không khác gì đề nghị của Johnson nhằm “sử dụng danh tiếng quân sự của vị tướng để giúp chính quyền giải quyết vấn đề duy trì hỗ trợ chính trị tại quê nhà”. Bất chấp những lời tán dương, Westmoreland đã quay lại Việt Nam mà chỉ thuyết phục được một số ít ỏi đáng giá ở Washington.

Chiến dịch thuyết phục của Johnson thất bại ở hai cấp độ. Westmoreland đã không thuyết phục được các đối thủ của tổng thống rằng chính sách của Mỹ tại Việt Nam đang tiến triển tích cực một cách thực chất. Và quan trọng hơn, những bài phát biểu đó cũng không khiến công luận Mỹ hiểu được thực trạng phức tạp của cuộc chiến đang diễn ra ở Nam Việt Nam.

Sự thật là Westmoreland không thể làm rõ được bản chất rối rắm của một cuộc xung đột về bản sắc dân tộc của Việt Nam mà không chủ thể nước ngoài nào có thể giải quyết được. Cuộc chiến vẫn tiếp tục “không thể định nghĩa được” như xưa nay.

Năm 1967 khép lại sau khi Westmoreland quay lại tổng hành dinh của Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), ngày càng có nhiều bắng chứng phô bày tình trạng có vẻ thật sự bế tắc của cuộc chiến. Các nhà phê bình chỉ trích chất lượng của các lực lượng chiến đấu của Nam Việt Nam. Chương trình bình định hoá đang “lung lay trên bờ sụp đổ”. Cuộc cải tổ chính trị ở Sài Gòn – đến năm 1967, một diễn biến bình thường làm các quan chức Mỹ kiệt sức – có vẻ phản ánh những bất ổn an ninh tại vùng nông thôn. Khi năm 1967 kết thúc, cuộc chiến xoay quanh việc đo lường mức độ “tiến triển” song hành với sự khốc liệt của chính bản thân cuộc chiến.

Đặt các cuộc tranh luận qua một bên, các tuyên bố công khai của Westmoreland vào tháng 04/1967 cho thấy một góc nhìn hữu ích về cách người Mỹ nói về chiến tranh, cụ thể là các chiến lược dùng để thắng trận. Trong suốt nhiệm kỳ tại Việt Nam, Westmoreland phải vật lộn để tìm ra cách tốt nhất để truyền đạt cho một số lượng thính giả đông đảo và đa dạng về những phức tạp của cuộc chiến vốn không giống như những chiến trường truyền thống của Thế Chiến II. Như một quan chức của Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn từng thừa nhận, “Tôi không thể đưa ra được bất kỳ tuyên bố tích cực nào về Việt Nam mà lại thật sự không mâu thuẫn với các tuyên bố khác.”

Nhưng nếu cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam thật sự “là một trải nghiệm hoàn toàn khác biệt của đất nước chúng ta”, 50 năm sau, nó vẫn có thể nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải chấp nhận các sắc thái của chiến tranh.

Chiến tranh là hỗn loạn và rối loạn. Không có giải thích nào là dễ dàng. Thế nhưng chúng ta cứ sử dụng các ngôn ngữ sáo mòn một cách thường xuyên. Trên thực tế, với Việt Nam, những khái niệm lâu đời như “đếm số lượng tử thi” và “chiến tranh tiêu hao”, một xu hướng cơ bản trong các diễn giải lịch sử, chẳng giúp được bao nhiêu trong việc thúc đẩy sự hiểu biết sâu sắc hơn về một vấn đề quân sự-chính trị vốn vẫn luôn phức tạp.

Cách mà chúng ta – dù là các chính trị gia, nhà báo, nhà sử học, hay quần chúng – nói về chiến tranh, thời đó và thời nay, rất quan trọng. Giảm thiểu sự phức tạp của chiến tranh chỉ còn một cụm từ – chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến “tiêu hao” hay giả dụ thắng lợi tại Iraq là kết quả của một sự “trỗi dậy” – là đơn giản hoá một cách nguy hiểm. Ngôn ngữ thô sơ làm mất đi sự hỗn loạn sẵn có vốn là trọng tâm của một trong nỗ lực chết chóc nhất của loài người này. Những giải thích dễ dàng cho chiến thắng và thất bại càng khiến chúng ta khó mà hiểu được những gì đã thật sự xảy ra và càng khiến ta ít sẵn sàng để hiểu về cuộc xung đột tiếp theo hơn.

Và cuối cùng, đơn giản hoá chiến tranh lại khiến chúng ta trở nên dễ dàng gây chiến hơn.

Gregory Daddis là phó giáo sư sử học tại Đại học Chapman và là tác giả cuốn “Westmoreland’s War: Reassessing American Strategy in Vietnam.”