HÌNH ẢNH NGÀY XƯA…của Nam Ròm

Hình xưa VNCH : Mục lục mới vào ngày 04-01-2015

Nhìn hình ảnh xưa để nhớ lại miền Nam VNCH

Những hình ảnh Ròm đã chôm được trên mạng  ,đem về đây để làm tài liệu, tư liệu và chia sẽ cho các bạn .

 

TỔ CHÚC MỘT ĐẠI LỄ CỦA QLVNCH

II. Các Chức vụ và các đơn vị của một đại lễ:

Chủ tọa buổi lễ   – Chủ Tọa – là một quan chức chính quyền, hoặc một Sĩ quan QLVNCH.

Xướng ngôn viên   – XNV – có thể là một dân sự hoặc một Sĩ quan QLVNCH.

Sĩ quan Chỉ huy buổi lễ   – SQCH – là một Sĩ Quan, với một tiểu đội danh dự  TĐDD.

Toán Quốc Quân Kỳ   – TQQK – gồm có Quốc Kỳ và Quân Kỳ  – QQK – và Toán Hầu kỳ  – Hầu Kỳ. QQK gồm có Quốc Kỳ VN, Quốc Kỳ Đồng minh, Quân kỳ QLVN – Quốc Kỳ luôn luôn ở vị thế thẳng đứng, Quân Kỳ và các lá cờ khác phải theo lệnh SQCH. Toán Hầu Kỳ gồm có it nhất 2 chiến sĩ quân phục đại lễ với súng trên vai trong suốt buổi lễ.

Ban Quân Nhạc   – QNc – Vì hoàn cảnh khó khăn, ta dùng 1 CD Quân Nhạc thay thế ban Quân Nhạc. Nhưng phải có một chuyên viên xử dụng 1 hoặc 2 CD players thành thạo.  

II – Các bài Kèn và Nhạc dùng trong đại lễ:

Kèn Nghiêm   Kèn Thượng Nghinh  –  Kèn Thượng Kỳ

Kèn Khai Quân Hiệu và Bế Quân Hiệu  –  Kèn Truy Điệu

Nhạc Hồn Tử Sĩ  –  Nhạc Quân Hành 1  –  Nhạc Quân Hành 2  –  Nhạc Quân Hành 3  Việt Nam Việt Nam

Quốc Ca (có tiếng hát):   VNCH

Quốc Thiều (nhạc hòa tấu):   Hoa Kỳ  –  Australia    Canada  –  Pháp  –  Hòa Lan

III – Diễn tiến các chi tiết của đại lễ:

Một Đại lễ luôn luôn có nhiều nghi lễ. Mỗi nghi lễ được bắt đầu bằng: XNV tuyên bố lễ nghi, SQCH hô Nghiêm và QNc tấu Kèn Nghiêm…cuối cùng là SQCH hô Thao diễn nghỉ.

Sau đây là thứ tự những nghi lễ trong một đại lễ, và các chi tiết của nghi lễ, đã được đơn giản để dễ thực hiện và phù hợp với hoàn cảnh của dân quân ta, đang sống tạm dung, xa Tổ Quốc VN.

1-Lễ rước Quốc và Quân kỳ

XNV tuyên bố: Lễ rước Quốc và Quân kỳ VNCH.

SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – Hầu Kỳ súng lên vai – Cờ thẳng đứng.

d  QNc tấu  Nhạc Quân Hành  

QQK: di chuyển tới vị trí hành lễ – Khi TQQK tới địa điểm ấn định, QNc ngừng nhạc.

SQCH hô: đem súng…xuống – TĐDD hạ súng – Hầu Kỳ giữ súng trên vai – Cờ thẳng đứng.

SQCH hô: thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ, Hầu Kỳ luôn luôn ở vị thế nghiêm.

2-Lễ đón vị Chủ tọa

a  XNV tuyên bố: (chức vị + tên họ) chủ tọa buổi lễ “….” đến…

SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu:  Kèn Nghiêm

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – Hầu Kỳ súng trên vai – Cờ thẳng đứng.

d  QNc tấu  Nhạc Quân Hành     

Chủ Tọa đi về hướng Quốc Quân kỳ, trong lúc QNc đang tấu nhạc quân hành.

Chủ Tọa đứng trước TQQK – Hầu Kỳ: bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

Chủ Tọa đưa tay chào Quốc Quân kỳ – QNc tấu  Kèn Thượng Nghinh

QNc dứt kèn: Chủ Tọa hạ tay xuống. QNc tấu  Nhạc Quân Hành 

 SQCH tiến tới, đưa tay mời Chủ Tọa đi duyệt hàng quân. Chủ Tọa đi doc theo TĐDD, SQCH đi theo.

k  SQCH đưa vị Chủ Tọa tới ghế danh dư nơi khán đài rồi trở về đứng trước TĐDD.

 SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng, Hầu Kỳ đem súng về vai – Cờ thẳng đứng.

m SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ, Hầu Kỳ đứng thế nghiêm.

3a-Lễ Thượng Quốc kỳ VNCH (và Quốc gia Đồng Minh nếu có)

a  XNV tuyên bố: Lễ Thượng kỳ VNCH (và…..).

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu Kèn Nghiêm 

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

d  XNV tuyên bố: Lễ Thượng Kỳ bắt đầu:

e  QNc tấu  Kèn Thượng Kỳ – Trong khi kéo các lá cờ từ từ lên hết cột cờ.

f  XNV tuyên bố: Lễ Thượng Kỳ chấm dứt.

g  SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng – Hầu Kỳ đem súng về vai – Cờ thẳng đứng.

h  SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ – Hầu Kỳ đứng thế nghiêm.

3b-Lễ Chào Quốc kỳ VNCH, và Quốc gia Đồng Minh

a  XNV tuyên bố: Lễ chào Quốc kỳ “Đồng Minh” và Quốc kỳ VNCH.

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu Kèn Nghiêm 

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

d  XNV tuyên bố: Quốc thiều, hoặc Quốc ca “tên quốc gia” bắt đầu – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ trở về vị trí thẳng đứng.

e  QNc tấu Quốc thiều, hoặc  Quốc Ca Quốc Gia Đồng Minh

f  XNV tuyên bố: Quốc ca VNCH bắt đầu – QNc tấu  Quốc Ca VNCH

g  XNV tuyên bố: Lễ chào Quốc kỳ chấm dứt.

h  SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng, Hầu Kỳ đem súng về vai – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳxuống 90 độ.  

i  XNV tuyên bố: Lễ Mặc Niệm các chiến sĩ và đồng bào…..đã hy sinh ….bắt đầu.

k SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu Kèn Nghiêm 

l  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống  xuống 45 độ.

m XNV đọc lời tưởng niệm, và tuyên bố: Phút Mặc Niệm bắt đầu – QNc tấu  Nhạc Hồn Tử Sĩ

n  XNV tuyên bố: Phút Mặc Niệm chấm dứt.

o SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng – Hầu Kỳ đem súng về vai – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

p SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ – Hầu Kỳ đứng thế nghiêm.

4-Lễ Tiễn Quốc và Quân Kỳ

a  XNV tuyên bố: Lễ tiễn Quốc và Quân kỳ VNCH.

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – Hầu kỳ vẫn súng trên vai – Quốc Kỳ vẫn thẳng đứng, Quân Kỳ xuống 45 độ.

d  QNc tấu  Nhạc Quân Hành   

e  TQQK: di chuyển rời vị trí hành lễ – Khi TQQK rời khỏi khuôn viên buổi lễ, QNc ngừng nhạc.

f   SQCH hô: đem súng…xuống – TĐDD: hạ súng.

g  SQCH hô: thao diễn…nghỉ.

5-Lễ Truy Điệu các vị Anh Hùng Có thể tổ chức lễ truy điệu này cho một chiến sĩ VNCH.

a  XNV tuyên bố: Lễ truy điệu các vị anh hùng…cấp bậc, tên họ, đơn vị, và các chiến công…

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  XNV mời Chủ Tọa tiến đến vị trí cử hành lễ Truy Điệu – Chủ Tọa đoàn tiến đến đứng trước bàn thờ.

d  SQCH hô: Khai Quân Hiệu – QNc tấu  Kèn Khai Quân Hiệu

e  XNV đọc những lời truy điệu, Chủ Tọa và các thượng khách thắp nhang…xong, đứng nghiêm.

f   SQCH hô: Súng chào…bắt – TĐDD bắt súng chào – QNc tấu  Kèn Truy Điệu    

g  SQCH hô: Bế Quân Hiệu – QNc tấu  Kèn Bế Quân Hiệu     

h  XNV tuyên bố: Lễ Truy Điệu chấm dứt, mời Chủ Tọa và quan khách an tọa.

i   SQCH hô: Đem súng…xuống – TĐDD hạ súng xuống.

k  SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ.

6-Lễ Trao Huy Chương cho các chiến sĩ xuất sắc

a  XNV tuyên bố: Lễ trao Huy chương cho các chiến sĩ…(cấp bậc và tên họ….)

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  XNV mời các …..tên họ….tiến lên vị trí hành lễ.

d  XNV mời Chủ Tọa tiến đến vị trí hành lễ – Chủ Tọa tiến đến và đứng trước các chiến sĩ xuất sắc.

e  SQCH hô: Khai Quân Hiệu: QNc tấu  Kèn Khai Quân Hiệu  

f  XNV đọc những lời khen, vị Chủ Tọa gắn huy chương….xong.

g  SQCH hô: Bế Quân Hiệu – QNc tấu  Kèn Bế Quân Hiệu  

k  XNV tuyên bố: Lễ gắn huy chương chấm dứt.

l  SQCH hô: Thao diễn…nghỉ – TĐDD nghỉ.

7-Lễ Diễn Binh

a  XNV tuyên bố: Lễ Diễn Binh của các đơn vị….

b  SQCH hô: Nghiêm – QNc tấu  Kèn Nghiêm  

c  SQCH hô: Súng lên vai…bắt – QNc tấu  Nhạc Quân Hành   

d  XNV giới thiệu từng đơn vị đi diễn hành ..v..v..v..

Biên soạn:

Nhạc Trưởng Vũ Tắc Toản –  www.quoctoan.com

…………………………………………………………………………….

Video: ‘Ôn lại một chút về Lễ Nghi Quân Cách’

 

 

.

 

NGHI THỨC PHỦ CỜ 

NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM THEO NGHI THỨC HOA KỲ

<center>

NHỮNG HỒI KÝ/TÀI LIỆU HAY

HỒI KÝ SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT  CỦA DUYÊN ANH
 
1      2      3      4      KỲ CUỐI
 
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
(Xin Qúy Vị Bấm vào từng số bên dưới để đọc)
 
1      2      3      4           6      7      8      Kỳ Cuối
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

Những người Hàn, họ Lý, gốc Việt

Nguyên Lương

Không phải đến năm 1975 chúng ta mới có tên gọi Thuyền Nhân (Boat People), danh từ dùng chỉ những người bỏ quê hương ra đi tị nạn nước ngoài bằng thuyền khi trong nước có nạn hay những biến cố như thay đổi chính quyền cai trị. Bên Trung Hoa, thời nhà Thanh đánh bại nhà Minh năm 1644, hàng vạn con cháu nhà Minh bỏ chạy ra khỏi nước bằng thuyền đến các nước Đông Nam Á lánh nạn. Tại Việt Nam, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, rất nhiều quan quân Đàng Ngoài không thuận với Chúa Trịnh dong thuyền vào Nam thuần phục và chịu làm tôi cho Chúa Nguyễn. Cũng trong thời này, đám người Hoa tị nạn được gọi là người Minh Hương (người trung thành với nhà Minh), cũng đến xin cự ngụ Đàng Trong với Chúa Nguyễn, trong số đó có những người nổi tiếng đã xin làm tôi thần, giúp chúa Nguyễn an định vùng đất lục tỉnh như Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu. Sau đó đến thế hệ thứ hai, cha Hoa, mẹ Việt, như Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu), và Trần Đại Định (con Trần Thượng Xuyên), cả hai đã giúp sức đắc lực cho nhà Nguyễn Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn. Cả hai đều qua đời trước khi Nguyễn Ánh làm chủ Đại Việt năm 1802.

Câu Chuyện Lý Long Tường

   Cuối đời Nhà Lý, năm 1225, một biến cố lịch sử xảy ra trên nước Đại Việt ta nên cũng có những thuyền nhân bỏ nước ra đi vì họa diệt vong. Khi vua Lý Anh Tông mất năm 1175, ông không có con trai nối dõi, truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ lúc đó đang nắm chức Thái Sư, với quyền hành tuyệt đối trong tay, ông thông dâm với bà Hoàng Hậu Trần Thị Dung, cướp ngôi  nhà Lý bằng cách thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, cháu trai của mình. Trần Thủ Độ nắm được triều chính liền ra tay tàn sát và tận diệt con cháu nhà Lý bằng khẩu hiệu “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Muốn được sống yên, người họ Lý đổi hết sang họ Nguyễn và một số sợ bị giết phải bỏ nước ra đi. Năm 1226, Hoàng Thân Lý Long Tường (cháu 6 đời của vua Lý Thái Tổ) cùng với 6000 quan quân thân thuộc nhà Lý bỏ trốn khỏi đất Đại Việt bằng thuyền từ Thanh Hóa ra biển Nam Hải. Sau hơn một tháng long đong trên biển, đoàn thuyền của họ Lý tấp vào đảo Đài Loan tránh bão. Tại đây chừng 200 người xin ở lại tị nạn, số còn lại hướng thẳng về phương Bắc. Chừng một tháng sau đoàn người họ Lý đến được cảng Hae-ju của Hàn Quốc (hải cảng này nằm trong tỉnh Hwanghae, sau chiến tranh Triều Tiên 1950, chia đôi lãnh thổ Nam-Bắc, tỉnh Hwanghae cũng bị chia đôi). Tương truyền nhà vua Hàn Quốc là Kojong của triều đại Goryeo (1192-1259) lúc bấy giờ, đêm nằm mộng thấy có một con chim Phượng Hoàng (Phoenix) từ phương Nam bay đến đậu ở vùng núi phía Tây nước Hàn. Nghe tin có một đoàn thuyền chở người tị nạn từ Đại Việt cập bến, vua Kojong ra lệnh cho các quan địa phương trong tỉnh Hae-ju trải thảm đỏ đón tiếp những người tị nạn thật trọng thể. Đoàn người Việt tị nạn dưới sự chỉ đạo của Lý Long Tường được giúp an cư, lập thành làng, sống bằng nghề đánh cá và chăn nuôi. Họ mở trường dạy văn, võ cho con cháu và dân địa phương.

 Năm 1232, quân Nguyên Mông, sau khi chiếm được toàn bộ Trung Nguyên, đem thủy lục quân tấn công Hàn Quốc. Tướng quân Lý Long Tường (Yi Yong Sang) anh dũng chỉ huy quân Hàn chống lại và thắng lớn, đánh tan đại quân Mông Cổ xâm lược. Khi ra trận, ông luôn đi đầu, cỡi con ngựa trắng, mình mặc áo giáp trắng, nên vua Hàn gọi ông là tướng Lý Bạch Mã. Năm 1253, dù tuổi đã ngoài 70, danh tướng gốc Việt Lý Bạch Mã lại một lần nữa oanh liệt đánh bại quân Mông Cổ xâm lược lần thứ hai và cũng là lần chót vào đất Hàn. Khi ông mất, Vua Hàn thương tiếc cho chôn cất trọng thể dưới chân núi Di A gần Bàn Môn Điếm ngày nay. Để tưởng nhớ công lao ông, trên đỉnh núi nơi họ Lý thường quỳ gối hướng mặt nhìn về phương Nam nơi nước Việt tổ tiên ông, vua Hàn cho dựng đền thờ và đặt tên là Đồi Vọng Quốc (Peak of Nostalgia) với một tượng đồng cao hướng mặt về phương Nam. Ngày nay dân Hàn vẫn quen gọi đây là Đồi Bạch Mã .

Câu Chuyện Lý Xương Căn

   Tính đến năm 1995, hậu duệ của Lý Long Tường ở Bắc Hàn có khoảng 1500 hộ gia đình và 600 hộ ở Nam Hàn. Trong họ tộc có rất nhiều người thành công trong quan trường cũng như thương trường. Trong số đó có những người rất nổi tiếng như Tổng Thống Nam Hàn Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee), vị Tổng Thống đầu tiên của Nam Hàn sau chiến tranh Triều Tiên và nước Hàn chia đôi. Vào những năm 1960, TT họ Lý có liên lạc với TT Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa nhờ giúp đỡ tìm lại tông tích của tổ tiên ông. Tổng Thống Diệm nhận lời, đặc cách một vị Bộ Trưởng dưới thời giúp TT Nam Hàn tìm lại cội nguồn. Rủi thay đó là thời chiến tranh Việt Nam, mộ phần vua quan nhà Lý nằm ở miền Bắc, cho mãi đến sau khi chiến tranh kết thúc họ Lý mới có cơ hội tìm về nguồn cội.

   Năm 1994, hậu duệ của nhà Lý ở Nam Hàn là Lý Xương Căn (Lee Chang Kun) và Lý Tùng Tuấn (Lee Sang Joon)  về Việt Nam đến viếng mộ tổ tiên nhà Lý tại làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và làm lễ cúng bái tổ tiên ở đền Lý Bát Đế. Họ cũng bỏ tiền ra tu sửa lăng mộ, đền thờ tám vị vua nhà Lý. Hai ông họ Lý đã ghi vào sổ lưu niệm tại đền Lý Bát Đế :”Cháu chắt xin thề nguyện không làm gì tổn thương đến vong linh tổ tiên bằng cả tinh thần và sứ mệnh trách nhiệm”. Lý Xương Căn sinh năm 1958 tại Hán Thành (Seoul) là hậu duệ đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ và là thứ 26 của Hoàng Thúc Lý Long Tường. Năm 2010 ông Căn quyết định đem cả gia đình mình hơn 50 người về Bắc Ninh sinh sống, lập cơ sở kinh doanh sản xuất và xin gia nhập quốc tịch Việt Nam. Ông Căn có một người con trai sinh năm 1997 được đặt tên là Lý Việt Quốc. Ông cho biết: “Tôi luôn tự hào là người con của quê hương Việt Nam, tìm lại đất mẹ với tâm nguyện sẽ góp hết sức mình cho sự nghiệp phát triển của quê hương và cho sự hợp tác hữu nghị giữa hai nước Việt Nam-Hàn Quốc”. Ông cũng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm bằng cách xin tình nguyện làm đại sứ du lịch của Việt Nam tại Hàn Quốc để quảng bá, giới thiệu đất nước, con người Việt Nam đến với người Nam Hàn. Năm 1967 nhà báo nổi tiếng Nam Hàn Kang Moo Hak có viết một cuốn sách tiểu thuyết lịch sử có tựa Due Yi Yong Sang ( Hoàng Thúc Lý Long Tường), cuốn sách  này được dịch ta tiếng Việt năm 1996 và cho ra mắt tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.

   Năm 1995, công ty Việt Lý miền Trung do ông Căn làm giám đốc đã đầu tư lớn vào khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc (huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam) trong lãnh vực tái chế nhựa. Sau đó công ty mở rộng ra địa bàn TP Đà Nẵng với các lãnh vực thương mãi, du lịch, sân Golf và ông  đưa một số gia đình từ Bắc Ninh vào Đà Nẵng sinh sống. Nay ông Căn nói tiếng Việt thông thạo, cả nhà ông lấy tên Việt và học ngôn ngữ Việt. Khi một phóng viên hỏi ông: “Điều gì để ông chọn Đà Nẵng làm nơi sinh sống và làm việc?”, ông không ngần ngại trả lời: “Cuộc chiến VN trước đây do Nam Hàn đứng về phía của đồng minh Mỹ dẫn đến một số người Nam Hàn bị cuốn vào cuộc chiến đó. Giờ đây người Hàn quốc phải chịu một phần trách nhiệm với mảnh đất miền Trung là giúp tái thiết, xây dựng lại, và hàn gắn vết thương…”

Câu chuyện của tôi và một người Hàn họ Lý

  Khi nghe ông Lý Xương Căn nhắc đến câu “…một số người Nam Hàn bị cuốn vào cuộc chiến đó…” là tôi biết ông muốn nói về điều gì. Không phải chỉ là một số người như ông nói mà có đến 50 ngàn thanh niên tuổi còn rất trẻ đã được đưa đến nơi này. Mới đây, ngày 6 tháng 6 năm 2017, đương kim TT Nam Hàn, ông Văn Tại Dần (Moon Jae-in) có bài phát biểu vinh danh những người lính Hàn Quốc đã tham gia chiến tranh Việt Nam bên cạnh lực lượng Mỹ và lính Việt Nam Cộng Hòa, đã làm cho Hà Nội tức giận. Cũng như Tổng Thống Obama trong bài diễn văn nhậm chức năm 2008 có nhắc đến những người lính Mỹ đã hy sinh tại Khe Sanh, miền Trung Việt Nam. Trong số những người lính Nam Hàn được vinh danh này có người bạn của tôi tên Teak Young  Lee ( Lý Hòang Tất) mà tôi hay gọi thân mật là T Y Lee. T Y được đưa đến Nam Việt Nam tham chiến từ những năm 1968-1972. T Y làm lính tình báo trong sư đòan lục quân Mãnh Hổ đóng quân tại vùng núi Vân Sơn, xã Phước Thành, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định quê tôi. Ngoài sư đoàn Mãnh Hổ, Nam Hàn còn gởi sang Miền Nam một sư đoàn bộ binh Bạch Mã (White Horse, lấy tên vị tướng Lý Bạch Mã), và một lữ đoàn thủy quân lục chiến Thanh Long (Rồng Xanh-Blue Dragon). Các lực lượng này đóng quân dọc duyên hải miền Trung từ Quảng Nam đến Nha Trang.

   Năm 1992, ông Lý Nguyên Căn đưa gia đình về Bắc Ninh nhận tổ tiên họ hàng thì tại Hán Thành tôi gặp lại T Y.   Nói là gặp lại cũng không đúng vì thời T Y đến VN tôi còn qúa nhỏ, mới 15 tuổi, chỉ biết T Y và một số bạn lính của anh thường hay đến nhà tôi thăm Bố và họ bút đàm với nhau hàng giờ. Sau đêm định mệnh 1/11/63, TT Diệm bị lật đổ và sát hại, quê tôi bị quân đội Cộng Sản chiếm đóng trong mấy năm liền. Cả nhà tôi bị kẹt trong vùng tạm chiếm, sống dưới quyền kiểm soát của Việt Cộng sau một thời gian dài rồi chúng tôi cũng thoát ra được đến vùng quốc gia, nhờ có quân đội đồng minh phản công chiếm lại. Tôi về sống vùng tự do và được tiếp tục đi học lại Tiểu Học tại Diêu Trì. Trong một bài thơ viết về tuổi thơ giai đoạn này, tôi tâm sự:

Con lớn lên giũa phố đông người thiếu bạn

Sống trong hẻm nghèo thương nhớ xóm làng xưa

Đồng lúa xanh, giếng nước ngọt, cau, dừa

Nhớ chiều trời mưa bong bóng nở đầy sân nhỏ

Khi tôi thi đậu và theo học trường Trung Học Cường Để Qui Nhơn thì T Y là những người lính đầu tiên có mặt trong sư đoàn Mãnh Hổ, được đưa đến quê tôi, chiếm lại vùng quê nghèo khổ, sát chân núi, từ tay quân đội Cộng Sản và họ đã lập ở đó một hậu cứ to lớn cho sư đoàn gần 20 ngàn lính viễn chinh đóng quân. Từ nhà tôi đến hàng rào kẽm gai quân đội không dài hơn 1 cây số. Những người lính Hàn thường ra khỏi trại, đến nhà dân thăm hỏi, cho qùa, làm quen và tìm hiểu dân tình. Họ không biết ngôn ngữ của nhau nên T Y thường trò chuyên với bố tôi qua cách viết chữ Hán qua lại. Vô tình, Bố tôi nhờ biết chữ Hán mà trở thành một thông dịch viên bất đắc dĩ, và tôi cũng học được dăm ba câu chào hỏi tiếng Hàn, học cách đếm số, học hát bài ca Arirang và học võ Thái Cực Đạo. Vị Thiếu Tướng chỉ huy quân đội Đại Hàn tại Việt Nam tên Trần Đồng Hoán  (Chun Doo-hwan) sau khi về nước liền tham gia chính trị. Năm 1980 ông được đưa lên làm Tổng Thống Nam Hàn trong hai nhiệm kỳ. Thời ở Việt Nam ông cũng thường ghé Qui Nhơn thăm trường nơi tôi học và giúp đỡ trường xây một hội trường lớn theo lối kiến trúc cổ rất đẹp.

   Năm 90 công ty đề cử tôi về Á Châu làm việc, lãnh đạo các dịch vụ thương mãi trong vùng. Văn phòng chính tại Singapore và mỗi quốc gia trong số 14 nước tôi chịu trách nhiệm đều có một người địa phương cầm đầu (country manager) và một nhóm nhân viên lo công việc nhập khẩu các loại hóa chất của công ty tôi sản xuất, dùng trong lãnh vực kỹ nghệ và nông nghiệp. Lần đầu tôi đến thăm văn phòng đại diện thương mại ở Nam Hàn, tại Hán Thành, T Y đã là xếp lớn ở đây hơn 10 năm. Sau khi nghe tôi tự giới thiệu tên, biết là người Việt nên T Y hỏi thăm quê quán ở đâu. Khi biết tôi người gốc Bình Định, nhà ở gần nơi hậu cứ sư đoàn Mãnh Hổ, anh ta liền lấy trong ví ra một tấm hình trắng đen đã mờ qua năm tháng và hỏi tôi có biết người đàn ông chụp chung với anh trong tấm hình này là ai không? Tôi sững sờ, nước mắt rơi nhanh và tay run, ôm chầm lấy T Y, nói người đó đúng là Cha tôi và chúng tôi cùng khóc vui mừng sau hơn 20 năm gặp lại. T Y chỉ vào tôi và nói lớn trong nước mắt ràn rụa vì cảm động với những đồng nghiệp: “đây là người con trai của ông cụ mà tôi thường nói với các bạn tôi đã quen từ 20 năm trước ở Việt Nam, và chàng bé học trò ngày xưa này bây giờ là xếp của tất cả chúng ta đấy”. Tôi nhìn kỹ người đang đứng trước mặt, sau 20 năm, bây giờ là một trung niên chững chạc, tóc điểm bạc, dáng bệ vệ hơn, khác rất nhiều so với người trong hình thời tuổi còn thanh niên 20 thanh mảnh. Còn tôi không khỏi xúc động đựơc nhìn thấy hình người Cha đã qúa cố năm 87, lúc không về được để chịu tang. Gần 20 năm trước T Y đã thường đến nhà tôi bút đàm với Bố, chắc một phần là để điều tra tìm hiểu về dân tình. Tôi trọ học ở xa, mỗi tuần đạp xe hơn 20 km về thăm nhà một lần rồi vội vã trở lại thành phố. Từ năm 65 trở đi, quê nhà tôi bình yên, người dân tản cư đi xa đã quay trở lại. Ruộng lúa, ruộng mía lại đơm bông trong cảnh làng xóm vui sống thanh bình như những 10 năm đầu đời (1953-1963) tuổi thơ tôi đã sống qua. Nhờ có quân đội Nam Hàn giữ an ninh, người dân làng không còn sợ bất an, tôi viết:

Quê nhà bình yên mẹ con trở về nơi vài năm trước

Vài năm sau còn lại đám rừng hoang

Con dựng nhà, mẹ gầy lại mảnh vườn

Mùa Tết quê hương vàng hàng hoa điệp nở

 Sau năm 72, sau trận chiến khốc liệt mùa hè đỏ lửa, chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh bắt đầu áp dụng và từ từ quân đội đồng minh như Nam Hàn, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân… theo chân quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, bỏ lại một miền Trung đã tan hoang vì bom đạn, và để lại trách nhiệm giữ đất, chống giặc cho những người lính Cộng Hòa. Năm 72, tôi rời Qui nhơn lên Dalat theo học Đại Học. Năm 75 theo tàu hải quân ra khỏi nước, đến Mỹ. Tôi không ngờ có một ngày được đưa về lại Á Châu làm việc và gặp lại một người quen của gia đình trên quê hương anh.

   Nhờ có kinh nghiệm sống và làm việc ở Việt Nam trong thời chiến, trước khi về hưu năm 2010, T Y được công ty Samsung mướn về Bắc Ninh làm giám đốc địa phương một thời gian. Từ thời Việt Nam có chính sách đổi mới, mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài năm 1986, Hàn Quốc là nước đầu tư nhiều nhất vào một đất nước với hơn 94 triệu dân, một lực lượng nhân công đông, trẻ và rẻ. Riêng công ty Samsung, với 3 nơi sản xuất điện thoại di động tại Bắc Ninh, Tuyên Quang và Saigon, đã đóng góp 36 tỉ đô la, bằng 22.7% trong tổng số hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2016. Có ai ngờ hai nước đã từng là thù địch trong thời chiến lại có ngày sát cánh bên nhau trong lãnh vực kinh tế thời bình. Trong thời gian làm việc tại Bắc Ninh, qua tìm hiểu kỹ về gia phả,  T Y cũng biết ông tổ của mình đến từ vùng đất này. Anh vui mừng gọi điện thăm tôi năm 2013, kể cho tôi biết tin này. Anh nói trong xúc động: “Thảo nào mình rất mến người Việt, vì trong máu của mình cũng có giòng máu của Việt Tộc”. Tôi cười nói đùa với anh ta: “Biết đâu hai ta chẳng là người từ một giòng họ. Họ Lý qua được Hàn quốc vẫn giữ gốc họ Lý, còn tổ tiên tôi không thoát được phải đổi thành  họ Nguyễn…”

Năm 1975 Miền Bắc xua quân xâm chiếm Miền Nam, hàng trăm ngàn người Việt lại liều chết bỏ nước ra đi vì sợ bị tắm máu, tù tội. Danh từ Thuyền Nhân Việt Nam được thế giới nhắc đến nhiều. Họ đâu biết trước đó 750 năm cũng đã có những thuyền nhân ra đi tị nạn vì thù oán chính trị sau khi triều đình đổi ngôi. 765 năm sau, con cháu những thuyền nhân người Việt đầu tiên đó đã quay về đất tổ. Kẻ thù ra tay giết hại giòng họ Lý năm xưa giờ cũng chỉ còn tên trên những bia danh và cổ sử. Nhưng nay, 43 năm sau, những người của chế độ mới ra tay đàn áp, tù đày, cướp bóc và bạc đãi người miền Nam năm 1975 thì vẫn còn ngồi đó nắm quyền sanh sát. Chẳng lẽ phải chờ hàng trăm năm sau, con cháu chúng ta, những thuyền nhân ra đi tị nạn, mới thấy yên tâm trở về quê nhà?

   Nhớ lại năm 1963, năm quê nhà tôi bị Việt Cộng chiếm đóng, nhà thơ đất Quảng Nam mệnh yểu Nguyễn Nho Sa Mạc, mất năm 20 tuổi, đã viết những lời thơ như tiên tri:

Tôi khôn lớn nhìn nỗi buồn đất nước

Một giòng sông biên giới hai loài người

Nỗi đau đớn chất chồng cao bằng núi

Ôi Sài Gòn, ôi Hà Nội  cháy trong tôi

Đó là thời chiến tranh đất nước còn chia đôi, Hà Nội còn quá xa lạ với Sai Gòn. Nay hòa bình đã qua gần 43 năm mà sao những câu thơ trên nghe như thi sĩ mới viết hôm qua. Tôi đã nhiều lần về thăm  nhà, dạo phố Sài Gòn, du lịch Hà Nội, nhưng trong tôi hình như giòng sông biên giới của nhà thơ NNSM vẫn còn chảy mãi. Nhớ lại một ngày đầu tháng 3 năm 75, chào từ giã gia đình đi vào Nam lánh nạn, Bố tôi ôm tôi vào lòng dặn dò con trai dù đi xa, sống xa nhà tôi phải ráng sống làm người lương thiện. Hôm nay, viết bài này, tôi chợt nhớ những câu thơ cũ, cũng của nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc, anh viết như lời dặn của Cha tôi lúc chia ly:

Xã hội vẫn chồng cao từng đống rác

Đất nước mình khói lửa ngót nhiều năm

Cần những bàn tay giữ giống da vàng

Cần những tâm hồn biết thương và biết khóc

Nụ hôn nào ngày xưa vừa chớm mọc

Lần đầu tiên Ba đã hôn tôi

Đất nước tôi đang thiếu những con người

Con phải sống nhưng không vì cơm áo

   Vâng thưa Cha, cho dù sống ở nơi nào, dù không là quê cha đất tổ, con cũng ráng sống như lời Cha dặn. Và những thế hệ con cháu của những người tị nạn về sau, trên xứ người sẽ đạt được những  thành công lớn và làm rạng danh dân tộc Việt. Nhưng điểm chính là phải sống làm người lương thiện, sống không vì cơm áo, sống để giữ giống da vàng, sống biết thương biết khóc để chờ một ngày thuận lợi quay về, như Lý Xương Căn, Lý Tùng Tuấn và bạn tôi Lý Hoàng Tất đã quay về với quê Cha đất Tổ. Ngày đó sao thấy còn xa quá!

Bài Nói Chuyện Của Một H.O. – Lê Hoàng Ân

Monday, January 8, 2018

Lê Hoàng Ân, cựu Đại Uý QLVNCH, khoá 25 SVSQ Thủ Đức, từ 1968, là giảng viên Anh Văn Trường Sinh Ngữ Quân Đội.; Từ 1971 tới 75, là Sĩ Quan Liên Lạc Văn Phòng Phủ Tổng Thống. Đi tù VC gần 6 năm rưỡi (2296 ngày). Qua Mỹ theo chương trinh HO 12 ngày 06 tháng 07 năm 1992, hiện là cư dân Austin, TX và làm việc cho Motorola.
Ngày 28 tháng Năm, 2008 tác giả có dịp nói chuyện bằng tiếng Anh tại Viet-Nam Center and Archives thuộc Trường Đại-Học Kỹ-Thuật Lubbock, TX (Texas Tech. University), nhân dịp khai mạc cuộc triển lãm và lưu trữ hồ sơ của Hội Gia Đình những cựu Tù Nhân Chính Trị do bà Khúc Minh Thơ làm Chủ Tịch. Bài viết sau đây là bản dịch từ nguyên bản Anh ngữ do tác giả thực hiện.

*****

Ngay từ khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi đã luôn luôn dạy cho tôi ý nghĩa của hai chữ “Tự Do”. Năm 1954, khi tôi được 12 tuổi rưởi, gia đình tôi rời Hà Nội thuộc miền Bắc Việt Nam để di cư vào Sài Gòn thuộc miền Nam Việt Nam trong công cuộc đi tìm cái nền tảng của hai chữ “Tự Do” đó. Thêm một lần nữa, vào tháng Bảy năm 1992, gia đình tôi và tôi lại rời bỏ Sài Gòn để đến định cư tại Austin, thuộc tiểu bang Texas cũng trong công cuộc đi tìm cái nền tảng của hai chữ “Tự Do” này. Chúng tôi đang sống và thụ hưởng cái khái niệm của hai chữ “Tự Do” ở đây, ngay tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ này. Tôi cầu mong gia đình tôi không bao giờ phải tái định cư thêm một lần nữa để mong được thụ hưởng hai chữ “Tự Do” này.

Tôi đã và vẫn là con trai duy nhất của cha mẹ tôi. Điều này làm cho tôi đương nhiên được hưởng quy chế miễn dịch, nhưng tôi không thể nào ngồi im nhìn đất nước tôi bị các lực lượng Cộng Sản xâm chiếm. Tôi quyết định gia nhập hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà để bảo vệ Tổ Quốc của tôi và gia đình tôi chống lại sự thống trị của quân cộng sản. Sau hơn 9 năm phục vụ, tôi đã mang cấp bậc Đại Uý. Từ 1970 đến 1975, tôi phục vụ Tổ Quốc với tư cách là Sĩ Quan Liên Lạc cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà.

Tôi đang làm việc trong văn phòng của tôi tại Phủ Tổng Thống thì Sài Gòn thất thủ. Quý vị có thể đã được coi những đoạn phim thời sự chiếu cảnh những chiếc xe thiết giáp cộng sản vượt qua những cánh cổng của dinh. Tôi nhìn thấy những chiếc xe đó đến gần từ phía bên trong của dinh. Tôi rời bỏ dinh vào lúc đó bằng cách nhẩy qua bức tường phía sau dinh. Tôi trở về nhà và gặp hai người anh vợ của tôi. Chúng tôi bàn tính, với tư cách là quân nhân, là làm thế nào để vào bưng và tiếp tục chiến đấu chống cộng sản cùng với các anh em đồng đội khác.

Qua nhiều ngày tìm tòi, chúng tôi không gặp bất kỳ một ai cả, chúng tôi ra cả ngoài biển để tìm cách ra đi, nhưng cũng không xong, do đó chúng tôi tìm cách lẩn về nhà. Chúng tôi nghĩ là chúng tôi đã tìm không đúng chỗ, do đó đã không gặp được các đồng đội khác.

Sau khi chúng tôi về nhà được vài tuần lễ, tụi cộng sản đến tận nhà và bắt chúng tôi đi với vấn đề là trong khi chúng tôi “phục vụ đất nước” lại là cái mà chúng gọi chúng tôi là “những kẻ phản bội”. Chúng tôi đã không đầu hàng và chúng tôi đã không tự nguyện đi trình diện tụi cộng sản để chấp nhận có chỗ đứng trong cái mà chúng gọi là “trại cải tạo”.
Chúng nhốt tôi qua 7 trại lao động khổ sai khác nhau. Tôi đã trải qua trên 6 năm (chính xác là 2296 ngày và 12 tiếng đồng hồ) trong những trại khủng khiếp đó, nơi mà chúng muốn tẩy não chúng tôi. Tôi chưa hề đầu hàng.

Tôi bị chúng biệt giam một năm trời vì bằng lời nói tôi đã chống đối những chủ thuyết của chúng. Những tên cai tù nói là tôi sẽ được tha nếu tôi chấp nhận chế độ cộng sản để trở thành một công dân tốt thuộc chế độ này. Tôi từ chối, do đó, ngoài một năm biệt giam, tôi còn bị chúng đưa ra một trại trừng giới tại miền Trung Phần Việt Nam trong gần 3 năm.

Trại đó mang tên là Trại Trừng Giới A.20 Xuân Phước, mang một biệt danh khiếp đảm là Thung Lũng Tử Thần A.20. Trại này thật khủng khiếp và tôi đã mất 7 người anh em khi họ trốn trại và bị phát hiện và 6 bạn bị bắn chết, còn lại 1 anh thì vì bị đau cuối cùng không đi nhưng cũng có tên nên chúng kêt án tù chung thân. Hiện nay anh ta đang ở Hoa Kỳ nhưng bị bệnh hoạn là hậu quả của nhiều năm tù đầy của nguỵ quyền cộng sản.

Một trong hai người anh vợ tôi (Đại Uý Đỗ Văn Ưng, Trưởng Khối Tù Binh Phiến Cộng – Bộ Chỉ Huy Quân Cảnh) đã bỏ mạng trong một trại tù giống như những trại đã nhốt tôi. Người anh kia (Trung Tá Phạm Đăng Long, Trưởng Khối Chiến tranh Chính Trị Sư Đoàn 7 BB) đã sống sót sau trên 13 năm trải qua những “trại cải tạo” ở miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi bị di chuyển trại hằng mỗi 6 tháng cho đến 1 năm, ngoại trừ trại trừng giới A.20 Xuân Phước, bởi vì chúng sợ là nếu nhốt lâu tại một chỗ chúng tôi có thể trở thành bạn thân với nhau và sẽ cùng nhau cố nổi loạn chống chúng hoặc trốn trại để đánh lại chúng. Còn A.20 Xuân Phước thì là một lòng chảo, chỉ có một đường ra vào mà chúng nó chiếm đóng nên không có cách nào trốn trại được.

Tôi được thả từ một trong những “trại cải tạo” đó là trại Trừng Giới A.20 Xuân Phước vào tháng 11 năm 1981. Sau nhiều năm chờ đợi, vào năm 1984 tôi đã nộp tất cả những giấy tờ cần thiết để xin sang Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ với tư cách là một tù nhân chính trị. Thủ tục rườm rà và kéo dài đã giữ tôi tại Việt Nam cho đến tháng 7 năm 1992. Nhờ những sự vận động tích cực của những nhà đấu tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ như Bà Khúc Minh Thơ, hôm nay cũng có mặt tại đây, những năm bị cầm tù đã cho phép gia đình tôi và tôi nhập cư vào Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Nhà tôi và cậu con trai thứ của tôi cùng tôi đến Austin, TX vào tháng Bẩy năm 1992. Tại cuộc họp mặt những cựu quân nhân thuộc Hội Cựu Chiến Sĩ tại Austin, tôi lại được nhìn thấy lá Cờ vàng ba sọc đỏ lần đầu tiên sau hơn 17 năm. Tôi không cầm được nước mắt. Lẽ tất nhiên đó là những giọt lệ vui mừng, bởi vì tôi đã có cơ hội lại nhìn thấy lá Cờ đó, và tiếp tục vinh danh lá Cờ này. Nhưng cũng là những giọt lệ xót thương, bởi vì lá Cờ này không còn được bay trên bầu trời, đất liền và biển cả tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngày hôm nay, lá Cờ này vẫn tiếp tục bay trên toàn thế giới tự do. Lá Cờ thân thương nền vàng với ba sọc đỏ tượng trưng cho sự can đảm, sự trung thành và sức mạnh của những người nam cũng như nữ của Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hoà. Lá Cờ này thuộc về một Quốc Gia đã từng có Tự Do. Ngày hôm nay, lá Cờ này đã liên kết với tôi trong đất nước này, một đất nước đã từng sáng tạo ra quan điểm của nền Tự Do thực sự và nền Dân Chủ thực sự cho những công dân của nó.

Tôi muốn bầy tỏ lòng biết ơn của tôi đối với dân chúng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã chấp nhận đón tôi và gia đình tôi, cũng như hàng triệu những đồng bào, nam cũng như nữ, của tôi. Đất nước đẹp đẽ và vĩ đại này đã cho chúng tôi một cơ hội thứ hai để sống trong Tự Do và Dân Chủ.

Ngày hôm nay, đứa cháu nội đích tôn của tôi đã tròn tám tháng tuổi. Nó là một công dân Hoa Kỳ gốc Việt. Tôi muốn dậy cho các con và các cháu của tôi hiểu rõ những giá trị của cuộc sống. Tôi muốn chúng biết đương đầu với những khó khăn, có được một nền giáo dục tốt, và trên hết, biết sống với các giá trị đạo đức. Tôi tin tưởng vào tương lai của cháu nội tôi, cũng giống như tương lai của hàng triệu những trẻ em Hoa Kỳ gốc Việt. Tương lai của chúng tràn trề cơ hội và hy vọng. Tôi nhìn đứa cháu nội của tôi và tôi nhận thức được lý do tại sao tôi sẵn sàng hy sinh tính mạng của tôi để tranh đấu cho sự tự do của cháu.

Những ngày đấu tranh với cộng sản bằng súng đạn đã qua rồi. Ngày hôm nay tôi chống cộng sản với ngòi bút của tôi. Một câu ngạn ngữ Hoa Kỳ nổi tiếng nói rằng “ngòi bút mạnh hơn lưỡi kiếm”. Và với ngòi bút của tôi, tôi sẽ chia sẻ với các con, các cháu tôi về lịch sử dồi dào và kiêu hùng của cha ông chúng, những người đã từng mang danh nghĩa là công dân của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà. Tôi sẽ chia sẻ với chúng cái ngôn ngữ đẹp đẽ, cái nền văn hoá phong phú và những phong tục cổ kính của một dân tộc vĩ đại.

Các bạn của tôi và chính tôi thuộc hội “Bảo tồn văn hoá người Mỹ gốc Việt (the Vietnamese American Heritage Foundation – VAHF)” cùng chia sẻ trách nhiệm này. Tôi là giám đốc chương trình S.H.A.R.E., một chương trình hướng dẫn các sinh viên Hoa Kỳ về lịch sử thực sự và rõ ràng của Việt Nam, chứ không phải cái thứ lịch sử quái thai mà bọn cộng sản Việt Nam đẻ ra.

Mỗi ngày 30 tháng Tư, tôi cảm thấy có một sự buồn bã nào đó. Ngày đó tôi đã mất đất nước của tôi. Tôi đã mất người anh vợ của tôi và bao nhiêu thân nhân và bạn bè vào ngày đó và những ngày kế tiếp. Tôi không thể quên được ngày 30 tháng Tư. Tôi không thể quên được sự hy sinh mạng sống thật cao cả và vô bờ bến của 58,195 quân nhân Hoa Kỳ và trên 270,000 quân nhân Việt Nam, cộng thêm trên 600,000 thương phế binh. Họ đã chết hoặc họ đã hy sinh một phần thân thể của họ để cho chúng ta được sống còn trong chế độ tự do. Tôi có thể tha thứ nhưng tôi không thể quên được.

Gia đình tôi đã trở thành công dân Hoa Kỳ vào năm 1998, và chúng tôi hãnh diện là người Hoa Kỳ.

Với những người Hoa Kỳ gốc Việt đã tới đất nước này từ năm 1975, tôi xin cám ơn quý vị đã lót đường cho chúng tôi đi tìm Tự Do và Dân Chủ, cũng như quý vị vẫn không quên những người như chúng tôi đã từng bị bỏ rơi tại quê nhà.

Với những người Hoa Kỳ gốc Việt đã liều mình để vượt biên, vượt biển, từ năm 1976 đến năm 1990, để đi tìm Tự Do, quý vị là nhóm người đông đảo nhất, thành công nhất và được ngưỡng mộ nhiều nhất.

Với những người bạn của tôi, sang được đây qua chương trình “Chiến Dịch Nhân Đạo”, những năm tháng chúng ta phục vụ Tổ Quốc và những năm tháng dài tù đầy trong những trại giam cộng sản là cái giá chúng ta phải trả để đem lại Tự Do cho gia đình chúng ta. Tôi không hối hận đã đánh mất những năm tháng đó, bởi vì tôi là nhân chứng sống để nói lên cộng sản thực sự là gì.

Với những người bạn Hoa Kỳ đã tiếp đón chúng tôi trong đất nước này suốt 33 năm qua, xin chân thành cám ơn.

Với tất cả 58,195 quân nhân Hoa Kỳ đã tử trận tại Việt Nam, và với trên 270,000 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh cho chính nghĩa quốc gia, tôi xin dâng lời cầu nguyện của tôi đến quý vị.

Với những cựu quân nhân Hoa Kỳ cũng như Việt Nam, xin cám ơn quý vị đã cùng tôi tranh đấu trong công cuộc bảo vệ Tự Do.

Và với các bạn người Texas, tôi không được vinh dự sinh ra tại Texas, nhưng tôi đã chạy như bay đến đây.

Lê Hoàng Ân

THAM DỰ DIỄN HÀNH NGÀY VETERANS DAY 11/11/2017

Nguồn Việt Báo Online

Tôi nhận được điện thơ của anh Nam (đại diện cộng đồng đối với tổ chức VET Parade)  mời đi diễn hành Ngày Cựu Chiến Binh. Như thông lệ hàng năm, cộng đồng người Việt Oregon và Nam Washington vẫn tham dự diễn hành ngày Veterans Day. Năm nay, Veterans Day Parade cũng được tổ chức vào thứ Bảy, ngày 11 tháng 11. Anh Nam hy vọng sẽ có rất đông chiến hữu tham dự.

Tôi lái xe trên đường 39th ave, băng ngang đường Sandy, tìm chỗ đậu. Khu phố diễn hành gần đường Sandy đã bị chận, cấm xe cộ lưu thông, chỉ dành cho khách bộ hành, khán giả đi xem diễn hành và người tham dự. Từ chỗ đậu xe, tôi len lỏi qua 4 “blocks” đường và nhiều toán diễn hành, đảo mắt tìm lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu. Các toán tham dự diễn hành đã có mặt đầy trên đường phố. Cờ xí, đồng phục, quân phục, xe cộ, kèn trống đều sẵn sàng. Vài ban nhạc trổi nhạc dạo, tập dợt đâu đó nghe vui nhộn. Người xem diễn hành đứng, ngồi chật hai bên đường. Họ đi lại, chuyện trò vui vẻ. Vui nhất là các em nhỏ được cha mẹ hoặc người thân dẫn đi xem “veteran’s parade”. Màu cờ, sắc áo tươi sáng, âm thanh vui tai, quang cảnh nhộn nhịp. Thấy nhớ lại cái không khí và quang cảnh những ngày diễn hành Quốc Khánh và ngày diễn hành Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa thân yêu những năm nào…

Trời đầy mây xám và gió nhẹ. Tôi vẫn an tâm vì đã theo dõi kỹ tin tức thời tiết mấy ngày trước, nghe nhiều nhà tiên đoán khí tượng các đài truyền hình Portland quả quyết không có mưa! Từ phía xa tôi đã thấy 3 chiếc “quân xa VNCH” (xe của anh Kiệt và anh Bảng) và 3 ngọn cờ to Việt Nam Cộng Hòa, Quân Lực VNCH, và cờ Hoa Kỳ bay cao trong gió. Đến vị trí điểm hẹn, toàn diễn hành số 28, tôi vui mừng gặp các khuôn mặt thân thương quen thuộc. Các anh quân nhân mọi binh chủng QLVNCH trong quân phục và thường phục. Binh chủng dù, TQLC, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Bộ binh, Không Quân, Hải Quân,v.v… Còn nữa, các khuôn mật thân yêu, khả ái của cộng đồng: chị Mary, ca sĩ Lệ Hải, cô Elisabeth, anh Tháo, chủ tịch VNCO; anh Bảng, Quân Cán Chính; anh Nam, Hội Hải Quân; anh Thơm, Hội Không Quân; anh Kiệt, Thành, Nhân, Huy, hội TQLC; anh Minh, Hội Ái Hữu Thủ Đức; anh Phú, Người Việt Cao Niên; anh Thăng, Chiến tranh Chính Trị; anh chị Nguyệt, anh Nghiêm từ Vancouver, Washington…Kể không hết. Có người trong đám đông nói: “Năm nay đi đông, vui lắm.”

Thân mật chuyện trò với các quân nhân VNCH có hai quân nhân Hoa Kỳ, những cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam. Hàng năm, hai “Vietnam Vets” này vẫn vui mừng và hân hoan tham dự diễn hành trong toán cựu quân nhân VNCH, dưới bóng cờ vàng Việt Nam Cộng Hòa.  Ông Jerald M “Jerry” Powell, người cao gầy trong chiếc áo vest màu xanh, đứng cạnh anh Nam và anh Hội của Hải Quân, là Hội trưởng (Chapter President) của hội Green Beret D.5752L. Ông là chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam những năm 1963, 1964. Còn ông Joseph Columbus Smith, một cựu quân nhân Lực Lượng Đâc Biệt khác từng tham chiến tại Việt nam những năm 1968 và 1969. Ông Smith chia xẻ với tôi lòng phẫn nộ và sự bất bình của mình khi ông nói chuyện về loạt phim The Vietnam War trình chiếu trên TV gần đây trên đài truyền hình PBS. Những đạo diễn Hoa Kỳ của loạt phim này [ông Ken Burns và bà Lynn Novick], theo ông, đã “turned things ‘upside down’”, “got it wrong”. Theo quan điểm của ông, Cộng sản Việt Nam chính là kẻ xâm lăng, và Hoa Kỳ đã tham chiến tại Việt Nam để giúp bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam…

Giờ diễn hành bắt đầu. Các toán diễn hành tuần tự nhập vào đoàn diễn hành trên lộ 40th avenue, tiến vào đại lộ Sandy. Toán quốc và quân kỳ VNCH và Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Cộng đồng Việt Nam với biểu ngữ trắng giăng ngang với hàng chữ “Republic of Vietnam Armed Forces Veterans of Oregon”. Khán giả hai bên đường phố vẫy tay và vẫy cờ chào. Họ cười vui vẻ với chúng tôi, miệng nói: ”Thank you for your service”. Lác đác trong đám khán giả hai bên đường, một vài cựu chiến binh Hoa kỳ đưa tay chào kính khi toán quốc, quân kỳ đi ngang. Các em bé Hoa Kỳ mừng rỡ khi nhận các món quà nhỏ có hình cái nơ bắt chéo với hình cờ vàng VNCH và Hoa Kỳ và hàng chữ “Thanks our troops” do anh Vĩnh của đoàn diễn hành trao tặng. Thấy thật ấm lòng. Thật là một cảm giác trái ngược khi xem ít đoạn phim The Vietnam War. Trên đường phố, người dân đang biểu lộ tình cảm mến phục, lòng biết ơn, và ca ngợi các cựu chiến binh đã vào sinh ra tử để chiến đấu cho lý tưởng tự do và sự trường tồn của quốc gia, dân tộc. Trong tiếng nhạc quốc thiều Hoa Kỳ, tiếng nói của xướng ngôn viên giới thiệu đoàn diễn hành cựu chiến binh Viêt Nam Cộng Hòa khi chúng tôi đi ngang qua khán đài:

“They are veterans of the Armed Forces of Republic of Vietnam who fought side-by-side with the United States Armed Forces against a common enemy to protect the freedom for South Vietnam in the Vietnam War.”

[“Họ là những cựu chiến binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã từng sát cánh với quân đội Hoa Kỳ chiến đấu chống một kẻ thù chung để bảo vệ Tự Do cho miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam.”]

Sau buổi diễn hành, một số tập họp và lên xe hội Quân Cán Chính. Tài xế Bảng cố gắng lái xe luồn lách trên các đường phố chật hẹp, đông xe và người đi bộ để đưa một xe chật ních người tham dự diễn hành về lại khu phố Hollywood Senior Center lấy xe. Anh Tháo mời các người tham dự diễn hành đến ăn trưa tại nhà hàng Phở Hùng. Ngon miệng vì tô phở ngon. Ấm lòng vì được chuyện trò vui vẻ với bạn bè thân thích.

Lái xe trên đường về, ngẫm nước người lại nghĩ đến đến nước ta. Lòng những xót xa thương về các cựu quân nhân và thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang còn bị Cộng Sản ngược đãi tại Việt Nam. Hãy cho tôi gởi đến các anh, và cho chính tôi lời nhắn nhủ của bản nhạc Gởi Người Giới Tuyến:

Tôi không quên anh đem nhiệt tình vì yêu đất nước

Tôi không quên anh khi xuân về không mơ dừng bước

Tôi không quên anh lạnh chiều đông gió mưa bay

Bạn cùng cây súng đôi vai

Nhủ lòng quên nỗi đắng cay…

(Nhật Lệ)

Tôi thầm cầu nguyện có một ngày Cựu Chiến Binh trên một quê hương Việt Nam Tự Do. Để lịch sử và dân tộc biết đến sự hy sinh, và vinh danh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong công cuộc chiến đấu bảo vệ tự do cho quốc gia và dân tộc Việt Nam.

Không biết từ lúc nào, tôi thấy mắt mình cay cay…
.

Ngày diễn hành Cựu Quân Nhân (Veterans Day Parade) 11 tháng 11 năm 2017

Thành phố Hoa Hồng Portland, Oregon, USA.

Phan Anh Thi

More Photos by Mary Nguyen

Ảnh: Phan Anh Thi
.