11.000 lính thiệt mạng nhưng không có thành tựu lớn nào, khi nhìn lại, 1967 thật ra là một năm chẳng mấy tốt đẹp cho người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Nhưng vào lúc ấy, người ta vẫn còn rất lạc quan. Các chiến dịch tấn công của Mỹ trong suốt năm 1966 đã ngăn chặn bước tiến của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam (mà phía Mỹ gọi là Việt Cộng). Những bước tiến đó, kết hợp với những nỗ lực “bình định” thường dân, dường như là con đường dẫn đến chiến thắng – nếu không phải vào năm 1967, thì cũng là ngay sau đó.
Nỗ lực bình định của Mỹ bao gồm một loạt các chiến lược khác nhau để loại bỏ ảnh hưởng của Cộng sản khỏi nông thôn Nam Việt Nam. Và trên một phuong diện nào đó, đây chính là trung tâm thực sự trong những nỗ lực của Mỹ ở nơi này: Dù cái mà chúng ta nhớ nhất về cuộc chiến này là các trận đánh, nhưng những trận đánh ấy thường là để mở đường cho các đội bình định thực hiện công việc của họ.
“Chiến tranh đơn vị lớn” (big unit war) của Tướng William C. Westmoreland cũng tập trung đáng kể vào bình định. “Tìm và diệt” (search and destroy) – phương pháp mà các đơn vị Quân đội Hoa Kỳ sử dụng để giao chiến với kẻ địch – được xem như một hình thức bình định. Thật vậy, bình định đòi hỏi phải cải thiện an ninh – một nhiệm vụ mà tìm và diệt có thể làm được.
Một báo cáo từ các cố vấn của Quân đội và Cơ quan Phát triển Quốc tế (Agency for International Development) đóng tại tỉnh Phú Yên, dọc bờ biển Việt Nam, vào năm 1966, cho biết: “Sức mạnh quân sự được tăng cường và khu vực hoạt động được mở rộng đang tạo điều kiện cho phép mở rộng [các chương trình kiểu này] vào những khu vực trước đây không được coi là đủ an toàn để đạt được tiến bộ thỏa đáng.” Và chí ít là trên giấy tờ, các chiến dịch quân sự ở Phú Yên – với mật danh như Van Buren, Fillmore và John Paul Jones – đã tạo ra một khu vực có an ninh tốt hơn rõ rệt so với tình hình ở Sài Gòn trước khi người Mỹ cho triển khai lực lượng tác chiến.
Trong một cuộc họp năm 1966 giữa các quan chức Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tại Honolulu, bình định tiếp tục nhận được nhiều chú ý hơn, và đã giúp cải thiện việc hợp tác giữa các cố vấn dân sự và quân sự. Sau khi cân nhắc trong khoảng giữa tháng hai và tháng ba, Mỹ cuối cùng đã công bố thành lập một tổ chức tư vấn quân sự-dân sự mới: Hoạt động Dân sự và Hỗ trợ Phát triển Cách mạng (Civil Operations and Revolutionary Development Support, thường được gọi tắt là Cords).
Dù các nhóm cố vấn trước đây cũng đã giúp miền Nam Việt Nam cải thiện quản trị và kiểm soát vùng nông thôn, phải đến khi có Cords thì các nhân viên dân sự và quân sự với được tập hợp lại với nhau trong một tổ chức. Đến năm 1967, Cords đã xây dựng và điều hành các đội cố vấn ở mỗi tỉnh của Việt Nam Cộng hòa. Được giao nhiệm vụ giúp đỡ các đối tác miền Nam cải thiện khả năng quản trị của tỉnh, sự xuất hiện của các nhóm cố vấn đã gây ấn tượng sai lầm rằng cuộc chiến giờ đây đã bước vào giai đoạn hòa bình hơn, ít tàn phá hơn.
Năm 1965, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng đã có những bước tiến đáng kể ở Phú Yên, cô lập thành công thủ phủ của tỉnh là thành phố Tuy Hòa và kiểm soát phần lớn vụ thu hoạch lúa quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động của các đơn vị Mỹ, Hàn Quốc và Việt Nam Cộng hòa trong năm 1966 đã đẩy Cộng sản lùi sâu vào vùng nội địa miền núi.
Trong khi lùng lục tìm kiếm quân Bắc Việt và Việt Cộng, người Mỹ cũng nhận ra vai trò mấu chốt của việc kiểm soát vụ thu hoạch lúa đối với khả năng kiểm soát toàn tỉnh của chính quyền Sài Gòn. Qua các hoạt động quân sự thông thường, Mỹ tiếp tục chương trình bình định vào năm 1966 bằng cách giữ các cánh đồng lúa khỏi tay Cộng sản.
Các hoạt động bảo vệ thu hoạch lúa đã được tiếp tục vào năm 1967 qua Chiến dịch Adams, diễn ra từ tháng 10/1966 đến tháng 04/1967. Các đơn vị từ Sư đoàn 4 Bộ binh Hoa Kỳ đã tìm cách đánh bẫy và tiêu diệt lực lượng Cộng sản khi những người này cố gắng thoát khỏi thung lũng Tuy Hòa màu mỡ. Điều đó tạo điều kiện cho chính phủ Nam Việt Nam khẳng định quyền kiểm soát sản xuất lúa gạo – và do đó củng cố lòng trung thành của nông dân khu vực – đồng thời có thêm lợi ích là không để những người lính được huấn luyện tốt nhất của địch có gạo ăn.
Chiến dịch Adams đã thành công, chí ít là ở giai đoạn đầu. Nhiều đơn vị Cộng sản rút lui về các khu vực căn cứ ở vùng sâu vùng xa của Phú Yên. Nhưng ngay cả khi như thế thì cũng không có nghĩa là phe Cộng sản đã bỏ rơi thung lũng Tuy Hòa. Ngày 09/03/1967, một lực lượng Cộng sản khá lớn đã đánh bại một trung đội Mỹ. Đáp lại, một tuần sau, người Mỹ phát động một cuộc tấn công bằng trực thăng vào khu vực bị nghi ngờ là căn cứ Cộng sản, và đánh lại họ ba ngày sau đó. Trong con mắt của Sư đoàn 4 Bộ binh, hai trận đánh này đã giúp bảo vệ thung lũng Tuy Hòa. Thật vậy, “khu vực này là một trong những nơi bị kẻ thù tàn phá tồi tệ nhất và bây giờ nó là khu an toàn nhất,” bản báo cáo tóm tắt Chiến dịch Adams đã viết như vậy. Tuy nhiên, những tiến bộ kiểu này chỉ tồn tại chừng nào chiến dịch quân sự còn tiếp tục.
Ngày 17/09/1967, các thành viên Lữ đoàn Không vận 173 đã bắt đầu một nỗ lực khác, Chiến dịch Bolling, để bảo vệ vụ thu hoạch lúa mùa thu. Giống như Adams, Bolling tập trung vào việc bảo vệ an toàn cho vụ thu hoạch lúa và ngăn chặn Trung đoàn 95 của Bắc Việt tiến vào thung lũng Tuy Hòa. Chiến dịch lần này sử dụng ít quân hơn, nhưng vẫn tập trung vào việc bảo vệ nông dân trong suốt vụ thu hoạch, cũng như sử dụng phương pháp tìm và diệt. Tuy nhiên, khác với bất kỳ nỗ lực nào trước đây ở Phú Yên, Bolling đã cho thấy giới hạn của chiến tranh thông thường chính là việc bình định.
Trong khi các tiểu đoàn của Lữ đoàn Không vận 173 càn quét thung lũng Tuy Hòa, lực lượng Cộng sản chỉ đơn giản tìm cách tránh đối đầu. Thay vào đó, họ âm thầm chiếm các ấp, và tiến hành một chiến dịch tuyên truyền hiệu quả trong đó nói rằng đối thủ của Sài Gòn (tức lực lượng Cộng sản) đã “sống sót” sau nhiều nỗ lực của người Mỹ nhằm loại bỏ họ khỏi Phú Yên. Các hầm trú ẩn, đường hầm cũng như kho thực phẩm và vũ khí được tìm thấy bởi Sư đoàn Thiết giáp 16 trong thung lũng Tuy Hòa là minh chứng rõ ràng rằng chiến tranh còn lâu mới đi tới hồi kết.
Tuy nhiên, sự thành công rõ ràng của các lực lượng tác chiến thông thường khi giao chiến với Cộng sản khiến người ta tin rằng bình định đang phát huy hiệu quả. Sang mùa thu, quân Mỹ tiến vào thung lũng Kỳ Lộ xa xôi và giao chiến với Trung đoàn 95 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhưng mỗi bước tiến lại như thể dẫn tới một bước lùi: Ngày 27/12, các đơn vị quân đội Mỹ và quân chính quy Bắc Việt đã có một trận đánh dữ dội ở cách thành phố Tuy Hòa vỏn vẹn 35 dặm, ngay thung lũng Kỳ Lộ. Lính Bắc Việt cuối cùng đã rút lui – nhưng sau đó nhanh chóng quay trở lại để xây dựng lại lực lượng ngay khi người Mỹ rời đi.
Bình định dựa trên chiến tranh thông thường làm cho cuộc chiến ở Việt Nam trông có vẻ đơn giản và dễ chiến thắng. Thông qua tìm và diệt, các đơn vị quân đội đã đảm bảo việc thu hoạch lúa ở thung lũng Tuy Hòa và từ đó tiến tới mục tiêu bình định – ngay cả khi nó làm lu mờ những phần cứng rắn, phi quân sự trong chiến lược.
Nó cũng làm lu mờ một điều khác. Chiến tranh thông thường khiến Phú Yên có vẻ an toàn hơn so với năm 1965. Nhìn lại, các dấu hiệu hoạt động của Bắc Việt tiếp tục chứng minh rằng họ chưa hề bị đánh bại – đồng thời cũng tiết lộ kế hoạch của Cộng sản nhằm lật đổ quyền kiểm soát của Sài Gòn đối với Phú Yên. Thật vậy, Tổng Tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 sẽ làm đảo ngược phần lớn thành quả từ chính sách bình định của các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả tỉnh Phú Yên.
Robert J. Thompson là Tiến sĩ Lịch sử Hoa Kỳ tại Đại học Nam Mississippi.
Ngày 29/11/1967, Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố rằng Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng, sẽ rời vị trí của mình để trở thành người điều hành Ngân hàng Thế giới. “Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không biết mình đã nghỉ việc hay bị sa thải nữa,” McNamara chia sẻ nhiều thập niên sau đó. “Có lẽ là cả hai.”
Thật ra mọi chuyện khá rõ ràng: Ông đã bị sa thải. Nhưng ông không phải người duy nhất bối rối. Bối cảnh mà McNamara rời khỏi Lầu Năm Góc quả thật mơ hồ – và sự mù mờ ấy nói lên nhiều điều về McNamara, về Johnson và chính trị trong nước trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Trong những tháng trước đó, Johnson đã rất thất vọng với sự bất mãn dâng cao của McNamara với cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam: mối ngờ vực dâng cao rằng chiến dịch không kích Bắc Việt đang không hiệu quả và sẽ không hiệu quả, rằng ổn định chính trị ở Sài Gòn vẫn khó đạt được và do đó chính quyền nên tìm kiếm một lối thoát bằng thương lượng. Johnson, nổi giận khi McNamara trở nên mềm yếu, đồng thời nghi ngờ rằng vị bộ trưởng đang bí mật lên kế hoạch ủng hộ Robert Kennedy, lúc ấy vẫn còn là thượng nghị sĩ Dân chủ của New York, ra thách thức Johnson để tranh đề cử ứng viên tổng thống Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm sau trên cương lĩnh hòa bình.
Tuy nhiên, Johnson không thể loại bỏ McNamara hoàn toàn; làm như vậy có nguy cơ khiến McNamara công khai ủng hộ Kennedy và lên án chiến tranh. Cách tốt hơn theo Johnson là đi tìm một vị trí mới cho McNamara, nơi ông có thể tin tưởng rằng vị cựu bộ trưởng sẽ duy trì sự im lặng kín đáo – một nơi, đại khái là, giống như Ngân hàng Thế giới.
Việc McNamara không cân nhắc tự ý rời bỏ chính quyền trong năm 1967 nghiệt ngã ấy đã nói lên nhiều điều về người đàn ông này, và sự đòi hỏi lòng trung thành từ các vị tổng thống Mỹ. McNamara đặt chân đến Lầu Năm Góc vào tháng 01/1961 với tư cách là một người mới trên chính trường, được John F. Kennedy tuyển chọn từ Tập đoàn Ford Motor, nơi ông đã lên chức chủ tịch. Ông nổi tiếng trong giới kinh doanh nhờ sự nhạy bén trong khâu tổ chức và tài định lượng, ông cũng sở hữu ngoại hình nổi bật mỗi khi sải bước trong hội trường quyền lực, mái tóc vuốt ngược và gương mặt quả quyết khiến ông trông “như thể một viên đạn mũi hếch,” theo lời miêu tả khéo léo của nhà báo A. J. Langguth. Ngay lập tức, McNamara có mặt ở khắp mọi nơi: tổ chức lại bộ máy quan liêu của Lầu Năm Góc, xây dựng kho vũ khí hạt nhân, và phát động nỗ lực chấm dứt phân biệt chủng tộc trong các khu nhà ở ngoài căn cứ quân sự.
Ở Việt Nam cũng vậy, McNamara cực kỳ xông xáo. Trong chuyến thăm đầu tiên tới Sài Gòn vào năm 1962, trong bối cảnh các cố vấn Mỹ nhanh chóng hiện diện ngày một nhiều, McNamara nói, “mọi yếu tố đo lường định lượng chúng ta có đều cho thấy chúng ta đang chiến thắng trong cuộc chiến này.” Sau vụ ám sát Kennedy vào tháng 11/1963, ông giữ vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc hoạch định chính sách, khiến Thượng nghị sĩ Wayne Morse, đại diện Đảng Dân chủ từ bang Oregon, vào tháng 04/1964 phải gọi Việt Nam là “Cuộc chiến của McNamara.” Vị bộ trưởng không phản đối.
Ở đây có sự tự tin, và nhiều hơn một chút kiêu ngạo. Tôi tự hỏi liệu McNamara có phải đã trở thành cột thu lôi đối với các nhà phê bình, bởi tên ông xuất hiện trên khắp mọi băng rôn trong các cuộc tuần hành phản chiến. Trong một lần xuất hiện tại Harvard vào tháng 11/1966, vị bộ trưởng đã khiến các sinh viên phẫn nộ khi vô tư thừa nhận rằng mình không biết quân đội Mỹ đã gây ra bao nhiêu thương vong cho dân thường. Khi ông cố gắng rời đi sau cuộc nói chuyện, hàng trăm sinh viên chặn xe của ông lại mà hét lên, “Quân giết người!” McNamara trèo lên nóc chiếc xe, vẫy vẫy tay áo và tuyên bố: “Tôi đã trải qua bốn năm hạnh phúc nhất trong đời tại khuôn viên trường Berkeley, làm một số việc mà các bạn làm hôm nay. Nhưng tôi đã cứng rắn hơn các bạn, và giờ tôi vẫn cứng rắn hơn các bạn. Khi ấy tôi đã lịch sự, và tôi hy vọng hôm nay mình cũng sẽ lịch sự.”
“Một trong những người đàn ông nhẫn tâm, kiêu ngạo nhất mà tôi từng thấy,” một trong các sinh viên sau đó đã nhận xét.
Những người biểu tình tức giận ngày hôm đó đã không biết rằng tính kiêu ngạo công khai của McNamara là để che giấu sự vỡ mộng riêng đang ngày một lớn của ông về cuộc chiến . Nó đã dồn nén suốt một thời gian dài; có lẽ ở một mức độ nào đó tình cảm này đã luôn ở đấy, gây nên một trận chiến trong tâm trí ông, chống lại những gì “các phép đo định lượng” chắc chắn đang thể hiện – rằng công nghệ của nước Mỹ cuối cùng sẽ thắng thế.
Ngay từ tháng 10/1963, trên băng ghi âm của Nhà Trắng thời Kennedy, người ta đã có thể nghe McNamara nói rằng, “chúng ta cần một cách để thoát khỏi Việt Nam.” Đầu năm sau, ông bày tỏ mối quan ngại với một Lyndon Johnson thiếu kiên nhẫn về tình hình chiến trường và các triển vọng tương lai; trong những cuộc trò chuyện được ghi âm này, chính Johnson dường như mới là người muốn duy trì chiến tranh (bất chấp nỗi sợ hãi và thất vọng của chính mình về cuộc xung đột), thậm chí thông qua việc leo thang nếu cần thiết. Thực tế, càng đào sâu vào hồ sơ nội bộ khổng lồ về việc ra quyết định của Mỹ, ta càng bắt gặp một McNamara hoàn toàn khác: một bộ trưởng quốc phòng mà từ cuối năm 1963 đã không còn – nếu ông đã từng – là một người tin tưởng thực sự vào cuộc chiến ở Việt Nam.
Đúng là McNamara đã ủng hộ đưa bộ binh sang Việt Nam vào đầu năm 1965 và là kiến trúc sư chính của chiến dịch leo thang trên không được thiết kế nhằm làm suy sụp tinh thần của Hà Nội (và củng cố tinh thần của Sài Gòn) bắt đầu vào tháng 3 năm đó. Nhưng chiến lược lại dần chuyển sang hướng để mở các lựa chọn – leo thang hoặc xuống thang, tăng tốc hoặc chậm lại – tùy thuộc vào phản ứng của kẻ thù.
Chuyến thăm mùa thu năm 1965 đến miền Nam Việt Nam đã khiến McNamara tuyệt vọng. Ông nói với Johnson rằng Bắc Việt dường như “tin rằng chiến tranh sẽ kéo dài, rằng thời gian là đồng minh của họ và sức mạnh sân nhà của họ vượt trội so với chúng ta,” và nói thêm rằng ông chỉ nhìn thấy cơ hội ở mức một phần ba – hoặc tối đa là một phần hai – để nước Mỹ có thể giành chiến thắng về mặt quân sự. Do đó, ông báo cáo cần nỗ lực nhiều hơn để đi đến con đường đàm phán.
Khi chiến tranh rơi vào bế tắc, vẻ ảm đạm của bộ trưởng càng thêm rõ. Bị ảnh hưởng bởi các viên chức Lầu Năm Góc như Paul Warnke, Adam Yarmolinsky và John McNaughton, những người mà khao khát chiến tranh cũng đang suy yếu dần, McNamara lo sợ rằng cuộc chiến đã làm tổn hại uy tín toàn cầu của Mỹ, khi các đồng minh và đối thủ nghi ngờ khả năng ra quyết định của chính quyền. Sự hủy diệt của chiến tranh đã khiến ông bận tâm rất nhiều, đặc biệt là về thương vong dân sự. Đến đầu năm 1967, McNamara kết luận rằng tinh thần của kẻ thù đã không bị phá vỡ và bối cảnh chính trị miền Nam Việt Nam hoàn toàn không ổn định. Cuộc chiến trên không đã thất bại – một xã hội nông thôn sẽ không thể bị tàn phá để ép khuất phục, McNamara xác định – và đã khiến chính quyền phải trả giá đắt trước dư luận trong nước và quốc tế.
“Hình ảnh siêu cường lớn nhất thế giới tàn sát hay làm bị thương nghiêm trọng 1.000 thường dân mỗi tuần, đồng thời cố gắng dồn một quốc gia nhỏ bé, lạc hậu phải đầu hàng về một vấn đề mà bản thân cũng đang gây tranh cãi gay gắt là một hình ảnh chẳng đẹp đẽ gì,” ông viết cho Johnson vào tháng 05/1967.
Khi về già, McNamara sẽ hối hận vì bản thân mình, cũng như những người khác, đã lặp đi lặp lại thất bại trong việc nghi ngờ những giả định đằng sau cuộc chiến. “Tôi vô cùng hối hận vì mình đã không tạo ra một cuộc tranh luận nhằm thăm dò liệu có thể tạo ra nỗ lực chiến thắng quân sự từ một nền tảng chính trị lỏng lẻo hay không,” ông viết. “Sau đó, mọi thứ dần trở nên rõ ràng, và hôm nay, tôi tin mọi chuyện đã rõ ràng, rằng lực lượng quân sự – đặc biệt là khi được sử dụng bởi một thế lực bên ngoài – sẽ chẳng thể mang lại trật tự ở một quốc gia không có khả năng tự trị.”
Vậy tại sao ông không cố gắng tạo ra cuộc tranh luận đó? Thêm vào đó, tại sao ông không chịu từ chức để phản đối?
Lòng trung thành với tổng thống là một lý do. McNamara phục vụ một tổng tư lệnh, người đã thề từ những ngày đầu cầm quyền rằng ông sẽ không trở thành vị tổng thống đánh mất Việt Nam; McNamara đã cống hiến hết mình để giúp thực hiện cam kết đó. Đối với vô số nhà phê bình, đây là lòng trung thành đặt không đúng chỗ: Thế còn sự trung thành với các nguyên tắc, với quốc gia, đối với mạng sống của người dân thì sao?
Ngoài lòng trung thành, McNamara đã thuyết phục chính mình – cũng như những người hoài nghi khác trong nội bộ như Hạ nghị sĩ George Ball – rằng ông có thể đem lại tác động tốt hơn cho chính sách bằng cách ở lại. Hơn nữa, ông không hoàn toàn chắc chắn về dự đoán ảm đạm của mình. Có thể, chỉ là có thể thôi, tình hình rồi sẽ trở nên tốt đẹp, hoặc ít nhất là đủ ổn định để bàn giao lại cho chính quyền tiếp theo, bảo vệ không chỉ uy tín lịch sử của Johnson mà còn của chính ông. Như lời Leslie H. Gelb, một cựu binh của Lầu Năm Góc thời McNamara (và sau này là thành viên của ban biên tập tờ Times), “Gần như là đòi hỏi quá mức khi chúng ta mong đợi một người chịu trách nhiệm phát động cuộc chiến” sẽ suy nghĩ lại về nền tảng cuộc chiến và sau đó hành động trên cơ sở của việc suy nghĩ lại này. “Bởi vậy, nghi ngờ chỉ đơn giản lửng lơ giữa không trung chứ không bao giờ được đưa vào chính sách.”
Những năm sau đó, McNamara đã tìm ra một lời giải thích khác cho chính sách và vai trò của chính ông trong đó: sự thiếu hiểu biết. “Giá mà chúng ta biết,” trở thành câu thần chú của ông – về quyết tâm của kẻ thù, về các vấn đề chính trị mang tính hệ thống ở miền Nam, về truyền thống chống ngoại bang lâu đời của Việt Nam, đặc biệt là chống lại người Trung Quốc. “Chúng ta đã không có chuyên gia về Việt Nam,” ông tự đưa ra khẳng định. Một khẳng định sai lầm. McNamara và Johnson thực sự có rất nhiều chuyên gia, những người họ có thể dễ dàng liên lạc chỉ bằng cách nhấc điện thoại lên. Hơn nữa, bản thân những chuyên gia này còn lâu mới “không biết gì” về tình trạng của Việt Nam. Họ chẳng cần một ai nói với mình về những vấn đề ngày càng sâu sắc và tồi tệ trong nỗ lực chiến tranh và tình hình chính trị ở Sài Gòn, và về triển vọng mờ nhạt trong việc đạt được một bước tiến thực sự ý nghĩa. Bằng chứng chỉ ra rất rõ ràng, và chính McNamara đã tự mình nhìn thấy nó trong nhiều chuyến thăm đến miền Nam Việt Nam.
Phán quyết cuối cùng về vai trò của McNamara trong Chiến tranh Việt Nam cần phải khắc nghiệt, một phần bởi vì ông chủ trì những giai đoạn đầu khi quân Mỹ ngày càng tham gia nhiều hơn trên chiến trường, nhưng quan trọng hơn, là vì ông không hành động mạnh mẽ hơn với những e ngại sau này của mình. Người ta có thể vinh danh ông, như Daniel Ellsberg đã làm, vì đã làm việc từ bên trong để hạn chế phạm vi các vụ không kích và khuyến khích các cuộc đàm phán, nhưng vẫn tiếp tục đặt ra tranh luận, như chính Ellsberg, rằng bộ trưởng đáng lẽ nên công khai những nghi ngờ của mình – không phải trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1995, hoặc trong một bộ phim tài liệu xuất sắc (“The Fog of War” của Errol Morris) công chiếu vào năm 2003, mà là ngay từ năm 1965, hoặc sau khi rời chính quyền vào năm 1968. Thay vào đó, McNamara lại là kẻ hai mặt, công khai rao giảng về sự lạc quan và kiên định (thậm chí, đôi khi còn làm thế trong các cuộc thảo luận chính sách nội bộ) ngay cả khi ông vẫn bày tỏ nghi ngờ về cuộc chiến một cách riêng tư.
Tuy nhiên, dường như quá dễ dàng nếu ta coi các phân tích và giải thích sau này của McNamara đơn giản chỉ là những nỗ lực buồn (hoặc, đối với một số người, là tức giận) nhằm rửa sạch một hồ sơ cá nhân đầy máu và xoa dịu một lương tâm tội lỗi. Chúng còn có nhiều ý nghĩa hơn thế. Thất vọng trong tuổi già vì những gì đã xảy ra ở Đông Nam Á dưới sự giám sát của ông, vì tất cả những cái chết trên nhiều cánh đồng lúa và bãi cỏ dài; đối với tôi, ông thực sự chân thành tự vấn để đúc rút kinh nghiệm và thừa nhận vai trò của chính mình trong toàn bộ vụ việc.
Liệu có bao nhiêu nhân vật của công chúng từng nỗ lực như vậy để chuộc lỗi cho những sai lầm và tội ác của mình, trong thời đại này hay bất kỳ thời đại nào khác? Quả rất ít. Henry Kissinger vẫn được hoan nghênh ở nhiều nơi như một nhà hiền triết vĩ đại của ngoại giao Mỹ, chưa bao giờ nói thật về Việt Nam, rằng “Chúng ta đã sai, sai lầm khủng khiếp.” (Ở Austin, Texas, năm 2016, khi được hỏi liệu ông có hối hận về cuộc chiến không, Kissinger từ chối trả lời, chỉ chịu thừa nhận những “sai lầm chiến thuật.”) Robert McNamara cuối cùng đã dám công khai nói lên điều đó, và ông xứng đáng nhận được nếu không phải lời khen thì chí ít cũng là sự ngầm thừa nhận thái độ đó của ông từ tất cả chúng ta.
Fredrik Logevall, giáo sư về các vấn đề quốc tế và lịch sử tại Harvard, là tác giả của nhiều cuốn sách, gần đây nhất là “Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam.”
Tôi đã học được bài học cay đắng trong Chiến tranh Việt Nam, rằng khi tình báo bị bỏ qua, sẽ có người phải thiệt mạng. Tôi dành phần lớn thời gian cuộc chiến trong hàng ngũ Cục An ninh Quốc gia (NSA), thường là bí mật. Hết lần này đến lần khác, tôi và các đồng nghiệp của mình cảm thấy chúng tôi chính là Cassandra, công chúa thành Troy có năng lực tiên tri nhưng lại bị nguyền rủa để không một ai tin lời nàng. Một ví dụ là Trận Đắk Tô.
Đến thời điểm năm 1967, phần lớn giao tranh ở miền Nam Việt Nam đều tập trung ở Tây Nguyên, khu vực miền núi dọc biên giới Lào – Campuchia bao gồm các tỉnh Kon Tum, Pleiku và Đắk Lắk. Lực lượng quân sự Mỹ đã bị lôi kéo đến khu vực này vì hai lý do.
Thứ nhất, nó là nơi mà kẻ thù ẩn náu: Bắc Việt đã sử dụng vùng đất này làm nơi cố thủ. Địa hình gồ ghề và cằn cỗi với dân cư thưa thớt, hầu hết là các bộ lạc người Thượng sinh sống từ nhiều thế kỷ trước, bởi người Kinh đã chiếm các vùng đất thấp hơn. Thứ hai, nó là nơi chứa một phần quan trọng của mạng lưới xâm nhập bí mật được Bắc Việt sử dụng để đưa hàng ngàn quân vào miền Nam, mà người Mỹ gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh.
Mùa hè và mùa thu năm đó tôi cũng lên Tây Nguyên, cộng tác bí mật với lính tác chiến Mỹ. Tôi là một chuyên gia về thông tin liên lạc của Bắc Việt, sử dụng thành thạo tiếng Việt, tiếng Trung và tiếng Pháp, ba loại ngôn ngữ phổ biến tại Việt Nam. Không giống như nhiều chuyên gia tình báo tín hiệu (signals-intelligence) khác của NSA, tôi sẵn sàng tham chiến cùng các đơn vị mà mình cộng tác.
Tôi được chỉ định huấn luyện và hỗ trợ đội tình báo tín hiệu của Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn Không vận 173, có trụ sở đặt tại Pleiku. Điểm đánh chặn tín hiệu của chúng tôi là một nơi được gọi là Đồi Kỹ sư (Engineer Hill), đủ cao để có thể phát hiện các tín hiệu truyền tin từ xa của kẻ thù; chúng tôi cũng xử lý thông tin được chặn bởi các đội tình báo khác, làm việc cùng các đơn vị Lực lượng Đặc nhiệm hoạt động sâu trong cao nguyên.
Suốt tháng 9 và tháng 10 năm 1967, tôi và các đồng sự đã theo dõi chặt chẽ mọi thông tin liên lạc của Mặt trận B3, trụ sở cấp cao của Bắc Việt ở Tây Nguyên, cũng như Phân khu 1 trực thuộc; và hai trung đoàn độc lập, số 24 và số 33. Trong những tháng đó, chúng tôi theo sát Mặt trận B3 khi họ thành lập một bộ chỉ huy tiền phương thiết lập liên lạc với Hà Nội – luôn là dấu hiệu của một trận chiến sắp xảy ra. Chẳng mấy chốc, họ đã trao đổi một lượng lớn thông điệp với Bắc Việt, chủ yếu được gửi đi vào ban đêm khi các máy phát tín hiệu của Cộng sản thường ngưng hoạt động. Bộ chỉ huy của lực lượng Bắc Việt và Trung đoàn 24 nhanh chóng di chuyển đến tỉnh Kontum. Trung đoàn 33, đóng tại hai tỉnh ở phía nam Đắk Lắk, đã bắt đầu liên lạc chiến đấu. Một đơn vị mới, chưa được xác định, xuất hiện ở tỉnh Pleiku, gần vị trí của chúng tôi.
Nói cách khác, có vẻ như kẻ thù đang chuẩn bị một cuộc tấn công trên toàn vùng cao nguyên.
Một đêm không trăng hồi cuối tháng 10, chúng tôi tìm thấy một đơn vị Bắc Việt mới, cách nơi chúng tôi đang ngồi khoảng 20 km. Và như thể để nhấn mạnh rằng kẻ thù đang ở rất gần, trong khi đang báo cáo về sự xuất hiện của đơn vị mới, chúng tôi đã bất ngờ trúng đạn súng cối. Thương vong duy nhất là một căn nhà di động. Dù vậy, chúng tôi thực sự lo sợ.
Trước khi kết thúc tháng 10, Sư đoàn 1 Bắc Việt và ba trung đoàn trực thuộc đã chuyển đến Đăk Tô thuộc tỉnh Kon Tum – một vùng có đồi dốc và thung lũng rừng rậm sâu hun hút. Lực lượng Đặc nhiệm có một căn cứ đóng tại Đăk Tô, xem chừng là một mục tiêu hấp dẫn, nhưng rõ ràng không phải là mục tiêu duy nhất. Thông tin liên lạc trinh sát cấp thấp xuất hiện, một dấu hiệu chắc chắn rằng đối đầu sắp xảy ra. Sau đó, chỉ huy sư đoàn phái một bộ chỉ huy tiền phương đến kiểm soát các trung đoàn. Họ đã sẵn sàng.
Chúng tôi đã thông báo cho Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn Không vận 173 rằng một cuộc tấn công vào khu vực Đăk Tô rất có thể sẽ bắt đầu trong khoảng từ ngày 30/10 đến ngày 04/11, thời gian mà chúng tôi thu được từ các điện tín của đơn vị trinh sát. Nhưng chúng tôi cũng cảnh báo rằng các đơn vị Bắc Việt trên khắp Tây Nguyên đang chuẩn bị chiến đấu. Và đó sẽ là một trận đánh rất lớn.
Ở thời điểm đó, chúng tôi gặp một trở ngại bất ngờ: sự tín nhiệm. Một vài trong số chúng tôi đã đến báo cáo trực tiếp cho chỉ huy của Sư đoàn 4, Thiếu tướng William Peers. Tôi cảnh báo ông: một cuộc tấn công gồm nhiều sư đoàn của Bắc Việt nhắm vào Đăk Tô sẽ diễn ra bất cứ lúc nào, cùng lúc với các cuộc tấn công trên khắp Tây Nguyên. Ông lắc đầu và chỉ vào trại của chúng tôi trên Đồi Kỹ sư. “Thế nên tôi phải tin vào cái thứ ma thuật khiến một lũ G.I. vớ vẩn sử dụng mớ ăng ten và mấy mẩu chuyện hài để bịa ra kế hoạch chiến đấu của kẻ thù à?” Ông xua tay đuổi chúng tôi đi. Buổi họp cũng theo đó kết thúc.
Nhưng chúng tôi đã đúng. Vào ngày 01/11, một chiếc B-57 đã thả bom xuống đâu đó gần Đăk Tô. Nó đánh trúng một bãi tiếp tế của Bắc Việt gây ra vụ nổ dây chuyền, bằng chứng rõ ràng rằng một số lượng đáng kể quân Bắc Việt đang ở ngoài đó. Tướng Peers đã phái một đơn vị từ Lữ đoàn Không vận 1 đi điều tra và liên lạc với Lực lượng Đặc nhiệm tại Đăk Tô. Hai ngày sau, một trong những tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 đã đổ bộ bằng trực thăng lên Đồi 979, gần Đăk Tô, hy vọng sẽ không gặp phải kháng cự. Thay vào đó, họ đối đầu hàng ngàn lính Bắc Việt trong các chiến hào và tất thảy sẵn sàng. Tiểu đoàn đã bị tàn sát. Cùng ngày hôm ấy, một tiểu đoàn Mỹ khác cũng rơi vào tình thế tương tự trên Đồi 882 gần đó. Tướng Peers và các tướng lĩnh khác đã sớm nhận ra mức độ nghiêm trọng từ những cảnh bảo của chúng tôi: rằng Bắc Việt đã đến tận khu vực này và sẵn sàng chiến đấu.
Một loạt các cuộc giao tranh kéo dài hàng tuần sau đó, gọi chung là Trận Đăk Tô, là một trong những trận đánh lớn nhất và dữ dội nhất của cuộc chiến. Bắc Việt đã thiết lập các vị trí phòng thủ trên một số ngọn đồi, buộc lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phải tiến đánh lên đó, đỉnh điểm là cuộc giao chiến đẫm máu kinh hoàng trên Đồi 875, từ ngày 19/11 đến ngày 23/11. Đến cuối Trận Đăk Tô, chín tiểu đoàn Mỹ từ Sư đoàn 4 và Lữ đoàn 173 – khoảng 16.000 người – đã tham chiến. Máy bay ném bom của Mỹ phải bay hơn 2.000 lượt. Người Mỹ cuối cùng đã giành chiến thắng, nhưng cả hai bên đều phải trả cái giá vô cùng đắt: Hơn 2.100 lính Bắc Việt đã thiệt mạng, cùng với 376 lính Mỹ và 61 lính miền Nam.
Tôi rời Tây Nguyên vào tháng 12 khi cuộc tấn công đã kết thúc, chuyển về phía nam để hỗ trợ một đội tình báo khác tại Biên Hòa, ngay phía bắc Sài Gòn. Khi đến đây, tôi lại tìm thấy tất cả các loại tín hiệu liên lạc tương tự với những gì chúng tôi tìm được ở vùng cao Đăk Tô trước đó. Lần này, chúng tôi không chỉ có một mình; các đơn vị tình báo khác của Mỹ ở vùng cực bắc của miền Nam Việt Nam cũng đánh chặn được những tín hiệu tương tự. Chúng tôi sớm hiểu rằng một đợt tấn công sẽ xảy ra trên khắp đất nước bắt đầu từ cuối tháng 01.
NSA tập hợp tất cả các bằng chứng, và một lần nữa chúng tôi trình bày chúng cho lãnh đạo quân đội. Và một lần nữa, các vị tướng từ chối tin vào chúng tôi. Vào thời điểm đó, Thủy quân Lục chiến ở phía Bắc đang bị bao vây tại Khe Sanh, và các tướng lĩnh hàng đầu ở Sài Gòn đã bị thuyết phục rằng bất kỳ hoạt động nào khác của Bắc Việt cũng chỉ là một trò đánh lạc hướng, một nỗ lực để kéo lính Mỹ khỏi những gì họ và Washington tin là kế hoạch của Hà Nội nhằm tái hiện chiến thắng trước quân Pháp trong cuộc bao vây Điện Biên Phủ 13 năm trước đó. Bất chấp các bằng chứng chỉ ra điều ngược lại, họ đã không chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện, và vào cuối tháng 01, họ gục ngã trước trận Tết Mậu Thân.
Nói cách khác, không hoàn toàn chính xác khi nói rằng trận Mậu Thân khiến người Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bị bất ngờ. Thông tin tình báo đã được thu thập, và kinh nghiệm ở Đắk Tô đáng lẽ phải đủ để thuyết phục Tướng William Westmoreland nghiêm túc cân nhắc tình hình. Thay vào đó, ông chọn không tin điều đó.
Vấn đề còn lớn hơn cả chuyện của Peers và Westmoreland; tám năm sau, sai lầm tương tự đã xảy ra với sự sụp đổ của Sài Gòn. Đến lúc đó, tôi đã là trưởng văn phòng tình báo trong thành phố. Tôi đã cảnh báo Graham Martin, Đại sứ Mỹ, về lượng bằng chứng áp đảo cho thấy Sài Gòn sắp bị tấn công. Ông ta chẳng buồn tin tôi, và cũng chẳng hề kêu gọi một cuộc di tản hàng ngàn thường dân Mỹ vẫn còn trong thành phố, cùng với các đồng minh Việt Nam Cộng hòa. Khi Bắc Việt tấn công vài ngày sau đó, cả thành phố rơi vào hoảng loạn. Tôi trốn thoát dưới làn đạn. Nhưng các đồng sự người miền Nam, những người tôi làm việc cùng, đã không may mắn như thế. Khoảng 2.700 người trong số họ đã bị giết chết, hoặc bị bắt giam và đưa đi “cải tạo.”
Nàng Cassandra được ban phước hay bị nguyền rủa? Những người trong số chúng tôi hoạt động tình báo ở Việt Nam có lẽ đều biết câu trả lời.
Tom Glenn là cựu nhân viên Cục An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA) và tác giả cuốn tiểu thuyết “Last of the Annamese” (Người An Nam cuối cùng).
Hình: Tác giả và các chỉ huy Fulro tại Phnom Penh, tháng 4/1973. Nguồn: NYT.
Mùa xuân năm 1967, khi ấy tôi đang là cậu trung úy 22 tuổi của Lực lượng Đặc nhiệm đóng tại một căn cứ nằm trên một đỉnh đồi ở Việt Nam, gần biên giới với Campuchia. Những người lính bên cạnh tôi là người Thượng, một tộc người sống ở vùng cao, khác với người Kinh ở miền xuôi. Hầu như ai trong số này cũng là thành viên của một tổ chức phiến quân tên gọi Fulro, viết tắt tiếng Pháp của Front unifié de lutte des races opprimée hay Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức, với mục tiêu đuổi người Kinh ra khỏi vùng cao nguyên. Căn cứ của tổ chức là một nơi nào đó bên kia biên giới.
Chúng tôi là một đơn vị trinh sát đặc biệt, không có chỉ huy nào người Việt Nam, đó chính là điều đã khiến quân du kích Fulro chịu hợp tác với chúng tôi, trở thành lính tuần tra và lính phản ứng nhanh của tiểu đoàn. Tôi là chỉ huy nhóm phản ứng nhanh. Chỉ thị nghiêm ngặt đã được tướng William Westmoreland đưa ra: cấm lính Mỹ hỗ trợ Fulro vì “chúng ta không ở Việt Nam để hỗ trợ cuộc nổi dậy chống lại chính quyền miền Nam.”
Điều này cũng dễ hiểu, dù vậy, nhiều người lính như tôi đã không tuân lời. Người Thượng không chỉ bảo vệ và an ủi chúng tôi giữa ghê rợn của rừng rậm, mà nguyên nhân khiến họ chiến đấu cũng giống như phong trào dân quyền ở quê nhà. Thế nhưng, khi vũ khí và đạn dược của tiểu đoàn bắt đầu biến mất, tôi dần có suy nghĩ khác.
Đến năm 1956, người Thượng đã cùng nhau hợp tác về chính trị, tạo thành một phong trào chống lại việc định cư của người Kinh ở các cao nguyên. Năm 1964, Fulro chính thức hình thành và bắt đầu các vụ tấn công chống lại chính quyền Nam Việt Nam. Đến năm 1967, sự ủng hộ của người Thượng cho phong trào này lên đến đỉnh điểm. Ngay cả bọn trẻ 4 tuổi trần truồng ở những thôn xóm xa xôi cũng suốt ngày ríu rít: “Tôi là Fulro.”
Nhà lãnh đạo của phong trào, Y-Bham Enuol, được tin là có khả năng trò chuyện với các linh hồn, cũng như với Charles de Gaulle. Người ta còn bảo rằng mãng xà nằm cuộn bên dưới giường ông ta. Hàng ngàn người đã theo ông đến Campuchia, rất nhiều gia đình cùng nhau cắm trại trong rừng.
Nhưng sự ra đời của Fulro vào năm 1964 lại là sự khởi đầu cho kết thúc của phong trào người Thượng. Vì quá chú trọng cách mạng, vốn đòi hỏi phải có một căn cứ bên ngoài biên giới Việt Nam, Fulro đã chấp nhận trợ giúp có tính toán từ Campuchia. Quốc vương Sihanouk của Campuchia, giống như Charles de Gaulle của Pháp, vẫn hy vọng thuyết phục được Mỹ rút khỏi Đông Dương. Sihanouk hẳn đã cho rằng hỗ trợ Fulro sẽ gây rắc rối cho miền Nam Việt Nam, từ đó cũng làm khó cho người Mỹ.
Nhân vật được Sihanouk chọn là một đại tá quân đội Campuchia, một người Chăm theo Hồi giáo tên là Les Kosem. Ngay từ khi còn nhỏ, Kosem đã quyết tâm khôi phục lại vinh quang của người Chăm bằng cách giành lại phần lãnh thổ đã mất trong những thế kỷ trước. Nghe như ảo tưởng, nhưng không phải là không thể, nhất là khi chiến tranh gần kề. Dùng một số biện minh lịch sử và ngôn ngữ, ông gọi người Thượng là “người Chăm ở vùng cao”, và toàn bộ Tây Nguyên là một phần của nước Champa cổ đại. Ông ta xem lý tưởng của người Thượng là của mình và đồng ý hỗ trợ. Nghiêm trang và thận trọng, nhưng vẫn có chút cuồng loạn, ông ta có phần giống Đại úy Ahab [nhân vật trong tiểu thuyết Moby Dick].
Năm 1964, cuộc nổi dậy đầu tiên của Fulro chống lại Việt Nam Cộng hòa đã có sự nhúng tay của Kosem, và có lẽ cả người Pháp. Việc cố tình sử dụng bạo lực đã đặt Fulro vào một con đường không thể quay đầu. Nhưng đến năm 1966, Sihanouk đã bắt đầu lo sợ Fulro vì tiềm năng tiến hành đảo chính của tổ chức này. Ông điều Kosem đi nơi khác và để Fulro suy yếu.
Thất bại của cuộc nổi dậy thứ hai đã làm sâu sắc thêm sự chia rẽ giữa nhóm ôn hòa, những người chủ trương đàm phán với Sài Gòn, và nhóm hiếu chiến vẫn hy vọng giành được quyền tự chủ thông qua chiến đấu. Nhận thấy rằng nhà lãnh đạo của họ, Y-Bham Enuol, đang nghiêng về phía đàm phán, các phiến quân trẻ đã thực hiện một cuộc “đảo chính” vào năm 1968, đưa nhà lãnh đạo lớn tuổi về quản thúc tại Phnom Penh và giải giáp những người theo ông. Hàng ngàn người ôn hòa đã đi bộ về Việt Nam và tái hòa nhập dần với xã hội, chỉ còn lại các phiến quân vũ trang – khoảng 200 người Thượng và trí thức trẻ người Chăm – ở lại căn cứ trong rừng của Fulro, phía đông Campuchia.
Tháng 03/1970, Sihanouk bị phế truất, thay thế bằng một vị tướng thân Mỹ. Sang tháng 05, các phiến quân Fulro còn lại, một số người sống cùng vợ, đã bị tấn công bởi lính Bắc Việt.
Trong hai đêm, họ đã chiến đấu chống lại những đợt tấn công dữ dội, nhưng khi nhận ra đêm thứ ba sẽ là đêm cuối cùng của mình, họ bèn tìm cách rút lui theo các nhóm nhỏ trước lúc bình minh. Vượt 100 dặm rừng ngay trong đêm, họ lẩn trốn lực lượng Bắc Việt trong hai tuần với rất ít thức ăn và nước uống. Bằng cách đi theo âm thanh của chiến trường, cuối cùng họ đã gặp lực lượng Mỹ đang xâm nhập Campuchia. Người Chăm, những cư dân miền xuôi mới lần đầu làm quen chiến trận, đã mất gần một nửa quân số, còn người Thượng không mất ai.
Các phiến quân sống sót đã được đưa vào Quân đội Campuchia. Nhóm người Thượng đóng quân trên một con sông để bảo vệ Phnom Penh, vốn cũng đang bị bao vây. Dần dần lực lượng Bắc Việt rút lui, bị đẩy lùi bởi không quân Mỹ (trong khi lực lượng Cộng sản Campuchia, Khmer Đỏ, vẫn đang tập hợp lực lượng ở các tỉnh). Thế nên, trong khoảng ba – bốn năm tiếp theo, cuộc sống tương đối bình thường ở Phnom Penh. Các lãnh đạo người Thượng chuyển đến sống ở thành phố, chia sẻ hai biệt thự và gửi con cái họ đến trường, một vài đứa là lần đầu tiên trong đời. Y-Bham Enuol cũng xin các phóng viên giúp ông ta đến Mỹ.
Năm 1973, tôi là một trong những phóng viên đó. Tôi đã rời Quân đội Hoa Kỳ để hoàn thành chương trình đại học, và sau đó theo đuổi các lớp tiền y sĩ, nhưng bí ẩn Fulro vẫn cứ mãi ám ảnh. Cuối cùng, tôi đã dùng đến tấm thẻ báo chí: cộng tác viên của tờ Harpers. Phát ngôn viên của Fulro, ba phiến quân trẻ, đã thẳng thắn nói về chuyện cuộc cách mạng của họ đang bị đình trệ. Campuchia, khi ấy đã là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, không còn có thể được sử dụng như một căn cứ chống Việt Nam.
Hai năm sau, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ. Một lần nữa, những lính người Thượng đóng ven sông phải rút lui vào ban đêm, lần này là qua vùng đầm lầy nước ngập tận cổ, để trở lại thành phố. Đủ điều kiện để tị nạn ngoại giao, họ tập hợp vợ con đến tị nạn tại Đại sứ quán Pháp. Nhưng, như những người đã chứng kiến “Cánh đồng Chết” vẫn nhớ, Khmer Đỏ chẳng màng gì khái niệm tị nạn và yêu cầu trục xuất mọi cá nhân không sở hữu hộ chiếu nước ngoài.
Ngày 21/04/1975, khoảng 150 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em người Thượng đã ra khỏi cổng sứ quán để bước vào địa ngục. Nhiều nhà quan sát ghi nhận sự bình tĩnh và trang nghiêm của họ, một điều khó thấy vào khoảng thời gian ấy. Người ta không biết rõ thực sự điều gì đã xảy ra sau đó. Nhiều khả năng là hầu hết những người này đã bị sát hại.
Hai người đã may mắn trốn thoát trước khi Campuchia lao xuống vực thẳm. Một người là Les Kosem, được phái đi làm nhiệm vụ ngoại giao một tuần trước đó, nhưng cũng qua đời trong năm tiếp theo. Người kia là một trong ba phát ngôn viên của phiến quân mà tôi đã gặp, Y-Bhan Kpor, người đang trải qua khóa huấn luyện quân sự ở Mỹ. Tôi đã trở thành một trong những người bảo trợ cho anh ta, và buộc phải cho anh biết rằng người Thượng đã bị trục xuất khỏi Đại Sứ quán.
Sau vài năm, anh ta lên đường tìm vợ con, rồi chúng tôi mất liên lạc. Khoảng 30 năm sau, tôi nhận được một email từ một nhà nhân học ở Campuchia. Y-Bhan đang tìm tôi. Tôi đến Campuchia và gặp lại anh ta đang làm nông dân trên vùng đất đỏ, cô độc một mình.
Anh ta mất 18 năm mới trở lại được Campuchia. Trong quãng thời gian đó, anh làm công nhân đóng chai cho nhà máy Coca-Cola ở Atlanta, làm quản đốc ban đêm ở Tulsa, Oklahoma, rồi làm ở xưởng sản xuất lốp xe, tìm kiếm nhân chứng ở Paris, những người đã ở trong Đại Sứ quán ngày ấy, và chờ đợi mòn mỏi trong một trại tị nạn ở Malaysia. Về lại Campuchia, anh ta gia nhập đoàn quân tìm kiếm người mất tích.
Anh ta tìm được một cựu tướng Khmer Đỏ, người đã đánh chiếm Phnom Penh và dành nhiều đêm uống rượu liên tục với ông ta đến tận sáng, nhưng chẳng thu được thông tin gì. Bất kỳ thông tin nào anh ta thu được cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng (như “một người lính Khmer Đỏ đã bắt vợ anh hát trước khi sát hại cô ấy), và điều đó còn đau đớn hơn cả sự im lặng. Sau ba năm, anh ta bỏ cuộc.
Gần đây, Y-Bhan đã gắng tìm gia đình mình thêm một lần nữa, với sự giúp đỡ của Ủy ban Sự thật Campuchia, nơi công bố danh sách người tị nạn ở Đại Sứ quán, với 78 cái tên, chủ yếu là trẻ em, xác định mỗi cá nhân sẽ khoảng bao nhiêu tuổi ngày nay. Danh sách đã được công bố hai lần, trên toàn quốc, nhưng anh ta không nhận được phản hồi nào.
William H. Chickering là bác sĩ cấp cứu, hiện đang hoàn thành một cuốn sách về Fulro.
Diễn ra từ 50 năm trước và ngày nay được nhớ đến như một bước ngoặt trong Chiến tranh Việt Nam, sự kiện Tết Mậu Thân thực sự đã khiến người Mỹ bất ngờ. Một trong số ít người dự báo được điều sắp xảy ra là Edward Lansdale, nhân vật tình báo huyền thoại và vị tướng Không quân hồi hưu, người đã giúp kiến tạo nhà nước Nam Việt Nam sau khi Pháp rút lui. Ông trở lại Sài Gòn vào năm 1965 với tư cách là một quan chức làm việc tại Đại sứ quán Mỹ, cố gắng sử dụng mối quan hệ của mình để cứu vãn nỗ lực chiến tranh đang rơi vào thất bại.
Vào thời điểm mà nhiều nhà lãnh đạo Mỹ đang lạc quan một cách thận trọng về chiến tranh, chí ít là trên phương diện công khai, Lansdale đã nhiều lần đưa ra các lời cảnh báo. Cuối tháng 10/1967, ông báo cáo cho Ellsworth Bunker, Đại sứ tại Sài Gòn, “Tôi tin là Hà Nội đang đánh cược vào đỉnh điểm cuộc chiến trong năm 1968.” Ông đã dự đoán rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt sẽ cố gắng lặp lại thành công của họ trước người Pháp: “Các nhà hoạch định chính sách và sử gia ở Hà Nội nhận thấy rằng thất bại của lực lượng Pháp đạt tới điểm quyết định là nhờ vào tình cảm chống chiến tranh ở thủ đô nước Pháp, chứ không phải nhờ tình hình trên chiến trường Việt Nam; Việt Minh ra sức chiến đấu ở Điện Biên Phủ chủ yếu là nhằm định hình dư luận ở Paris, cậy dựa vào sự kịch tính hơn là chiến lược quân sự hợp lý. Điều đó đã phát huy hiệu quả.” Ông cảnh báo, Hà Nội sẽ thực hiện một kế hoạch tương tự để “khiến người Mỹ đổ máu” và “khiến công chúng Mỹ buộc chính phủ phải rút quân,” bởi “họ tin rằng công chúng Mỹ dễ bị thao túng tâm lý vào năm 1968.”
Đó là một dự đoán chính xác đến lạ kỳ, nhưng giống như hầu hết những gì Lansdale nói, nó cũng bị nhà chức trách ngó lơ. Ông từng cảnh báo vào năm 1963 rằng việc lật đổ người bạn và người được ông bảo hộ, Tổng thống Ngô Đình Diệm, là một sai lầm. Ông đã bị phớt lờ, và sau cái chết của Diệm trong một cuộc đảo chính quân sự, Nam Việt Nam nhanh chóng tuột dốc không phanh, buộc Lyndon Johnson phải đưa lính tác chiến của Mỹ đến để ngăn chặn một chiến thắng của Cộng sản. Khi ấy Lansdale đã lên tiếng rằng chẳng ích gì khi tìm cách thoát khỏi vũng lầy chỉ bằng hành động quân sự; nước Mỹ, ông nói, cần phải nuôi dưỡng một chính phủ hợp pháp ở Sài Gòn để có thể giành được sự ủng hộ của người dân. Một lần nữa, ông lại bị phớt lờ khi Mỹ mở chiếc hộp Pandora – lập các vùng bắn phá tự do (free-fire zones) cũng như thực hiện các nhiệm vụ tìm-và-diệt (search-and-destroy missions). Tướng William Westmoreland đã bị thuyết phục rằng ông có thể giết Việt Cộng nhanh hơn tốc độ họ có thể thay người.
Chiến dịch Tết Mậu Thân diễn ra vào ngày 30 và 31/01/1968, đã đập tan ảo tưởng của Westmoreland. Đến tận cuối mùa thu năm 1967, vị tướng người Mỹ vẫn nói rằng ông “nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm” – nhưng đó chỉ là suy nghĩ viển vông. Tám mươi nghìn quân Việt Cộng đã tấn công 36 trong số 44 thủ phủ tỉnh, 64 trong số 242 huyện, 5 trong số 6 thành phố tự trị và nhiều thôn làng khác. Trận chiến giành quyền kiểm soát cố đô Huế đã diễn ra suốt hơn một tháng. Ngay cả khuôn viên Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cũng bị một nhóm lính Việt Cộng xâm nhập.
Lansdale đến Đại sứ quán ngay sau khi những người lính Việt Cộng xâm nhập bị giết hoặc bị bắt. Ông lái xe dọc theo những con đường vắng vẻ, lướt qua những chiếc xe đầy vết đạn– “một trong số chúng, chiếc sedan với cửa mở hé, có một cái xác trượt dài từ ghế ngồi xuống vỉa hè,” ông kể lại. “Một người Mỹ mặc quần áo thường dân, đã chết. Tại tòa đại sứ, ông chứng kiến “những mảnh kính vỡ và gạch vụn dưới chân, cùng với nhiều lỗ hổng trong tòa nhà mới xây và trên các bức tường do tên lửa và thuốc nổ của Việt Cộng,” những chiếc xe hơi bên ngoài thì “cửa sổ vỡ tan, lốp xe xẹp lép, và thật nhiều lỗ đạn.”
Giao tranh vẫn tiếp diễn, còn trong căn biệt thự của Lansdale ở số 194 đường Công Lý, “bầu khí cứ như dân du mục” (gypsy air) – như chính lời vị tướng. Hầu hết các nhân viên người Việt đều vắng mặt vì đang nghỉ Tết, vì vậy Lansdale và hai phụ tá người Mỹ của mình phải tự tìm kiếm thức ăn và tự nấu nướng. Một trong những cấp dưới đã tìm được chỗ cung cấp bánh mì – Khách sạn Brinks, nơi đang được sử dụng như “cứ điểm” của những lính Mỹ độc thân. Lansdale và phụ tá đã đến thăm những người bạn Việt Nam của họ, đang bị mắc kẹt trong nhà, để mang cho họ bánh mì “lậu”.
Đại sứ Bunker, được người Việt Nam đặt biệt danh là “Ông già Tủ lạnh” (Old Man Refrigerator) vì vẻ ngoài lạnh lùng, đã đến qua đêm cùng lính gác tại nhà của Lansdale, sau khi nơi ở của ông được đánh giá là không an toàn. Lansdale ghi nhận rằng vị đại sứ, sau khi chợp mắt, “đã dần quen với cognac F.O.V. từ Hồng Kông sau lần đầu nếm thử.” Lansdale cũng cho một số người Việt đến tị nạn sau khi họ trở thành người vô gia cư bởi cuộc chiến – một cựu đầu bếp cùng với cô con gái nhỏ và cháu gái của bà. Để chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Lansdale vào ngày 06/02, bạn bè và gia đình ông đã gửi đồ ăn làm quà tặng, từ salami đến bia San Miguel. “Vậy nên,” ông viết, “một vài buổi tụ họp tại đường Công Lý thiếu vắng tinh thần bi kịch lớn thường thấy của người Việt, thay vào đó lại trông như thể mấy buổi dã ngoại kiểu cũ.”
Cuối cùng thì Tết Mậu Thân đã không thành công trong việc châm ngòi cho một cuộc tổng tiến công như các nhà lãnh đạo Cộng sản hy vọng. Thống kê chính thức của Mỹ cho thấy 58.373 lính cộng sản đã chết trong khoảng thời gian từ 29/01 đến 01/03/1968, so với con số 3.895 lính Mỹ, 4.954 lính Việt Nam Cộng hòa và 14.300 thường dân miền Nam. Các tướng Mỹ tuyên bố đây là một thất bại tuyệt đối của Việt Cộng. Còn Lansdale thì nghĩ khác.
Ông thừa nhận rằng kẻ thù “đã bị nghiền nát về mặt quân sự,” nhưng vẫn cảnh báo vào ngày 27/03/1968 rằng chiến dịch vẫn có khả năng đạt được các mục tiêu của Hà Nội: Nó có thể “gieo rắc nỗi sợ cho người dân thành thị bằng cách chứng minh sự bất lực của chính phủ trong việc bảo đảm an toàn,” và có thể “gia tăng áp lực buộc Mỹ rút quân, cả trong và ngoài nước, bằng cách chứng minh rằng chiến thắng là vô vọng và nguyên do để chiến đấu là vô đạo đức (ví dụ, qua việc sử dụng hình ảnh hỏa lực của Mỹ phá hủy các thành phố thân thiện ở Việt Nam). “Yếu tố cảm xúc trong chiến tranh Việt Nam lại càng lớn hơn kể từ sau cú sốc Tết Mậu Thân,” Lansdale cảnh báo. Trong những tháng tới, “nó hứa hẹn sẽ trở thành yếu tố xoay chuyển tình thế thực sự.”
Một lần nữa, Lansdale đã tiên lượng được nhiều hơn hầu hết các đối thủ của mình ở Sài Gòn, cũng như ở Washington, những người đã loại bỏ ông vì cho rằng ông là kẻ mơ mộng, là người của quá khứ. Cú sốc Mậu Thân đã thuyết phục Tổng thống Johnson từ chối đề xuất xin thêm 200.000 quân của Westmoreland, và đưa ông này về nước để trở thành Tham mưu trưởng Quân đội Mỹ. Sau đó, trong một bài phát biểu đầy kịch tính trên truyền hình vào ngày 31/03, Johnson tuyên bố rằng thay vì tìm kiếm cơ hội tái đắc cử, ông sẽ dùng tất cả năng lượng của mình để kết thúc cuộc chiến.
Hành trình tìm kiếm chiến thắng của người Mỹ ở Việt Nam đã kết thúc; câu hỏi duy nhất còn lại là tốc độ rút lui. Nhưng vẫn còn rất nhiều trận chiến theo sau – nhiều người Mỹ chết sau Mậu Thân hơn là trước đó – và Lansdale đã chứng kiến điều ấy trong những tháng cuối cùng trong nhiệm kỳ của ông.
Vào ngày 04/05/1968, Việt Cộng lại tấn công khắp miền Nam trong cái gọi là Tết-mini. “Trong khi Mậu Thân diễn ra,” Lansdale viết, “cây cối vẫn nở hoa. Bằng cách nào đó, vẻ đẹp của chúng chỉ khiến khung cảnh xung quanh trở nên xấu xí hơn bao giờ hết.” Tết-mini cũng bị đẩy lùi với tổn thất nặng nề. Nhưng bản thân Lansdale đã phải kinh hoàng trước mức độ hủy diệt gây ra bởi cuộc phản công của Mỹ.
Phụ tá của ông, Charlie Sweet, đã đến thăm một khu dân cư thuộc tầng lớp lao động ở Sài Gòn, được gọi là Quận 8 và đã giật mình bởi “sự giận dữ sâu sắc đối với tất cả người Mỹ” vì hỏa lực tàn bạo mà Mỹ sử dụng để chống lại 200 du kích Việt Cộng xâm nhập khu phố của họ. “Hai trăm ngôi nhà đã bị phá hủy cho mỗi lính Việt Cộng bị giết,” một người đàn ông phẫn nộ. Giao tranh ở Quận 8 đã phá hủy hơn 5.000 ngôi nhà, giết chết hơn 200 thường dân, làm bị thương thêm 2.000 người và tạo ra 40.000 người tị nạn khác. “Tôi hy vọng chúng ta không bao giờ sử dụng những chiến thuật này trong các cuộc bạo loạn ở Mỹ,” Lansdale viết, “nếu không chúng ta sẽ mất tất cả các thành phố của mình.”
Các báo cáo của Sweet về Quận 8 đã “có ảnh hưởng”, theo lời Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford, và khiến người kế vị Westmoreland, Tướng Creighton Abrams, ngăn Mỹ sử dụng các cuộc không kích và pháo binh. Đây là một phần trong nỗ lực của Abrams nhằm theo đuổi những gì mà một nhà sử học gọi là “một cuộc chiến tốt hơn” (a better war), nhưng lúc đó đã quá muộn: Công chúng Mỹ đã quay lưng lại với cuộc chiến.
Đến giữa tháng 06/1968, khi Lansdale chuẩn bị rời Việt Nam, Sài Gòn vẫn là một thành phố bị bao vây. Ông viết: “Hàng loạt dây thép gai, hiện đang rỉ sét dưới những cơn mưa từ tháng Năm, đường phố bị chặn chỗ này chỗ nọ. Rác thải chất đống trên vỉa hè bởi dịch vụ công cộng đã bị trì trệ.” Tên lửa Việt Cộng đã đâm xuống thủ đô, giết chết và làm bị thương hàng trăm người. “Xạ thủ địch thường tấn công bất ngờ,” ông nói thêm, “khiến cư dân sợ rằng mình có thể là mục tiêu tiếp theo.”
Khi rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 16/06/1968, Lansdale đã cố gắng thể hiện một bộ mặt dũng cảm, nhưng ông biết rằng mình đã thua trong cuộc chiến. Nhiều năm sau, ông bày tỏ “cảm giác đau buồn sâu sắc về việc tôi không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong giai đoạn 1965-1968 ở Việt Nam, để giúp người dân ở đó ngăn chặn thảm kịch mà cuối cùng đã nhấn chìm họ.”
Lansdale qua đời năm 1987, và đến tận ngày cuối cùng, ông hẳn vẫn tin rằng nếu lời khuyên của mình – tập trung nhiều hơn vào các vấn đề chính trị và giảm bớt hỏa lực – đã được nghe theo, Mỹ có thể đã tránh được một vũng lầy. Chẳng có cách nào để biết liệu ông có nói đúng hay không, và chắc chắn rằng Bắc Việt vẫn sẽ là một kẻ thù đáng gờm trong bất kỳ trường hợp nào, với khát khao chiến thắng lớn hơn nhiều so với Mỹ. Nhưng thật khó để tin rằng con đường mà Mỹ đã chọn – một thất bại khiến 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Việt Nam đã chết – lại là một lựa chọn tốt hơn.
Max Boot là thành viên cấp cao của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Bài viết này được trích và chuyển thể từ cuốn sách mới của ông, “The Road Not Taken: Edward Lansdale and the American Tragedy in Vietnam.”
Hình: Edward G. Lansdale (bên trái) đến Sài Gòn vào tháng 8/1965. Nguồn: AP.
Lý thuyết ‘Khoảng cách Coi được’ (Decent Interval)
Phóng Viên Frank Snepp (người ngồi)
rong phần tiếp phỏng vấn với cựu phân tích gia chiến lược của CIA ở Nam Việt Nam, BBC hỏi ông Frank Snepp về câu chuyện Hoa Kỳ đã ‘bỏ rơi’ VNCH như thế nào từ sau Hoà đàm Paris 1973.
Mỹ có phản bội hay bỏ rơi VNCH không, theo Frank Snepp, năm nay 78 tuổi, hiện sống tại California là một câu hỏi phức tạp đòi hỏi một câu trả lời cặn kẽ.
Ông nhận định rằng việc bỏ rơi này khởi đầu với Henry Kissinger, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Richard Nixon, và sau đó Gerald Ford.
Frank Snepp: Kissinger đã bỏ rơi VNCH vì lý do chính trị. Tôi đặt tựa cho cuốn sách mình viết là ‘Decent Interval’ (Khoảng cách Coi được). Tựa đó nhắc đến sự kiện năm 1972, khi Kissinger đàm phán hòa bình, dẫn đến việc ngừng bắn, điều duy nhất ông quan tâm là đưa Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến, thoát khỏi vũng lầy xấu hổ. Kissinger muốn phải có một khoảng thời gian coi được giữa việc rút quân của Hoa Kỳ ra khỏi VN, và chiến thắng tất yếu sẽ đến của Cộng sản, để Hoa Kỳ không bị đổ lỗi cho việc thất trận.
Khi Kissinger gặp Chu Ân Lai năm 1971 để sắp xếp cho chuyến công du bí mật của Nixon đến Trung Quốc, ông nói với Bắc Kinh rằng nếu có ngừng bắn ở Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ không tái can thiệp quân sự. Và chỉ cần có một khoảng thời gian hợp lý giữa cuộc ngừng bắn đến lúc Hoa Kỳ rút quân, và sự tiếp tục xâm lược của cộng sản, chúng tôi sẽ không quan tâm nếu đồng minh Bắc Việt của quý vị tấn công Nam VN, miễn là họ không tấn công ngay sau khi chúng tôi rút đi. Đó là khởi đầu của lý thuyết ‘Khoảng cách Coi được’ (Decent Interval) mà ngày nay nhiều người nhận định là sự phản bội VNCH của Hoa Kỳ.
Kissinger đến Paris vào mùa hè năm 1972 để đàm phán với Lê Đức Thọ về những gì sau đó trở thành Hiệp định Hòa bình. Lúc đó Kissinger bàn với Nixon rằng nếu mọi thứ chỉ cần kéo dài đến tháng 10 tới, tức vài tháng nữa, hay nói cách khác, qua cuộc bầu cử tổng thống kế tiếp, thì sẽ không ai thèm quan tâm đến điều gì xảy ra cho VN một năm sau đó, tức 1974. Sẽ không ai còn quan tâm và Mỹ thì đã rút khỏi cuộc chiến từ lâu.
BBC: Henry Kissinger đã thực sự đã bàn với Nixon như vậy? Làm sao ông biết được điều đó?
Frank Snepp: Bởi vì Nixon đã ghi âm lại tất cả những cuộc trò chuyện này, và trong những năm gần đây, rất lâu sau khi tôi viết Decent Interval, băng ghi âm những cuộc trò chuyện đó được bạch hóa, nên bây giờ chúng ta có thể xác minh bằng chính lời của Kissinger và của Nixon, rằng quả thực họ đã chuẩn bị bỏ rơi VN vào năm 1972.
Thật ra Kissinger đã đề cập điều này với Trung Quốc từ năm 1971, một năm trước khi Hoa Kỳ mở rộng quan hệ với nước này. Khi Kissinger đến Bắc Kinh, ông nói rằng chúng tôi sẽ giúp các bạn một tay, hãy cùng chúng tôi thu xếp để Nixon đến thăm Trung Quốc, hãy cùng nhau mở mang quan hệ.
Điều này cũng dễ hiểu. Chiến tranh VN lúc ấy đang là một vấn đề lớn, Bắc Kinh là đồng minh của Hà Nội, vậy Nixon có thể cống hiến cho Bắc Kinh điều gì để khiến họ cởi mở hơn và trở thành bạn của Hoa Kỳ? Nixon có thể cho họ VN. Và nếu ai muốn có bằng chứng là Hoa Kỳ dưới thời Nixon và Kissinger đã bỏ rơi VNCH, thì đó là điều này, một bằng chứng rõ ràng.
BBC: Vào thời điểm đó có ai khác biết về cuộc thảo luận này giữa Kissinger và Nixon không, thưa ông?
Frank Snepp: Những gì Kissinger và Nixon thảo luận về VN vào thời điểm đó chỉ họ và những phụ tá biết, vì tất cả những điều này đều được Nixon cho ghi lại trên các cuốn băng bí mật của Nhà Trắng, nhưng nhiều năm sau mới được công bố rộng rãi. Việc thu băng bắt đầu bị lộ trong vụ bê bối Watergate. Và những cuốn băng này đã khiến ông và Kissinger, đặc biệt là Kissinger, bị lên án, vì Kissinger rất thẳng thắn trong các cuộc nói chuyện với Nixon vào mùa hè năm 1972, trước Hiệp định Paris. Kissinger nói với Nixon là chúng ta đang đàm phán cho một tình huống mà về cơ bản, chúng ta chỉ tìm cách thoát khỏi nơi này và không quan tâm đến những gì Bắc Việt làm, miễn là có một khoảng thời gian coi được giữa lúc chúng ta rút quân, thời điểm có cuộc ngừng bắn và Sài Gòn sụp đổ.
Sau đó thì Sài Gòn có sụp đổ cũng chẳng sao.
Không ai biết gì về những điều này, cho đến khi có một đột phá lớn vào tháng 10 năm 1972. Hoa Kỳ đồng ý với Lê Đức Thọ là sẽ không yêu cầu lực lượng Bắc Việt rời khỏi miền Nam. Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống của đất nước bị ảnh hưởng bởi tất cả những điều này cũng không được biết. Ông Thiệu chỉ biết chuyện này vì Võ Văn Ba, gián điệp CIA bên trong bộ chỉ huy cộng sản đã phát hiện ra, qua các kênh riêng của ông, rồi báo cáo cho CIA và cho cảnh sát của VNCH. Vào tháng 10, ông Thiệu phát hiện ra là mình đã bị Kissinger bán đứng, và Hoa Kỳ hoàn toàn bằng lòng có Hiệp định Hòa bình mà không yêu cầu Bắc Việt rút quân khỏi miền Nam.
BBC: Chắc chắn Kissinger không thể tự mình quyết định làm như thế, ông ấy phải làm theo lệnh của ai chứ, đúng không?
Frank Snepp: Đúng thế. Kissinger và Nixon cùng nghĩ ra chiến lược bỏ rơi Việt Nam mà trên thực tế họ đã thực hiện. Năm 1969, Kissinger và Nixon đến nhậm chức tại Nhà Trắng. Họ là một cặp đôi, trong đó Nixon là tổng thống. Họ hứa đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, đó là lời hứa với người dân Hoa Kỳ khi tranh cử. Tại một thời điểm nào đó Nixon nói rằng ông sẽ chấp nhận điều kiện ”ngừng bắn tại chỗ” để làm cơ sở cho các cuộc đàm phán.
Ý của Nixon là gì? Dường như khi ông đề cập đến việc đó lần đầu, không ai nhận ra rằng ngừng bắn tại chỗ có nghĩa là bạn đứng yên, và kẻ thù cũng vậy. Điều đó có nghĩa là tất cả quân Bắc Việt ở miền Nam VN không phải rời đi, mà sẽ ở lại. Vì vậy, ngay từ năm 1969, bất cứ khi nào ý tưởng về một hiệp định hòa bình được thảo luận, Nixon đều tính đến một lệnh ngừng bắn tại chỗ. Điều đó có nghĩa là cho phép lực lược của phe địch hiện diện ở miền Nam, và đó là một công thức dẫn đến thảm họa.
Công bằng mà nói, Nixon không có lựa chọn nào khác vì Hoa Kỳ và VNCH đã không đánh bại được Bắc Việt, đã không buộc được họ ra khỏi miền Nam. Chúng ta không thể ném bom, chúng ta không thể ngăn chặn cuộc xâm nhập bởi Bắc Việt mỗi mùa khô lại gửi thêm từ 60.000 đến 100.000 quân tiếp viện vào miền Nam, thay thế những quân lính đã tử trận. Chừng nào điều đó còn xảy ra, trừ khi bạn dội bom lên miền Bắc, chiến tranh vẫn tiếp tục và bất cứ hiệp định hòa bình nào cũng phản ánh sự thật rằng chúng ta đã không đánh bại được kẻ địch.
Sau chiến tranh, tôi trở lại Việt Nam năm 1991 với tư cách là khách mời của BBC. Trong chuyến đi đó, tôi cùng một nhóm làm phim BBC đến Bộ chỉ huy cũ của lực lượng cộng sản thời chiến ở tỉnh Tây Ninh. Một số cán bộ mặc đồ đen, đeo huy chương kéo đến gặp anh chàng CIA đã trở lại VN này, ở ngay trong cái hang mà chúng tôi đã tìm cách làm cho nổ tung trong suốt cuộc chiến. Trong bữa ăn trưa gần Củ Chi, chúng tôi thảo luận, và đây là những gì một người cộng sản nói với tôi: ‘Các bạn Mỹ, chúng tôi không thể nào hiểu phản ứng của các bạn vào năm 1969, khi chúng tôi đang bị thương vong nặng nề sau Tết Mậu Thân 1968 và những trận tiếp theo.’
Người này nói thêm: “Chúng tôi đã tổn thất quá nặng và không thể tiếp tục cuộc chiến với cường độ cao trong vòng hai năm. Tại sao các bạn không dội bom xuống các con đê ở Hà Nội?’ Nghe câu hỏi đó tôi đã phải nói với ông ta là ‘chúng tôi đã dự tính làm điều đó, nhưng Lầu Năm Góc quyết định rằng nếu làm thế chúng tôi sẽ giết chết rất nhiều thường dân Bắc Việt, và chúng tôi không thể thực hiện giải pháp đó vì lý do nhân bản và đạo đức.”
Hoa Kỳ, tức chính quyền của Nixon, thường bị chỉ trích là vô đạo đức, đã không nhẫn tâm làm điều mà Bắc Việt chắc chắn sẽ làm nếu họ có lựa chọn đó. Nếu họ có thể dội bom xuống miền Nam, bạn có nghĩ là họ sẽ làm không? Hoa Kỳ thì không.
Trong cuộc thảo luận đó, tôi nhớ đã không thể tin được là họ đã phân tích đúng vấn đề của Hoa Kỳ: Chúng tôi không tàn nhẫn đủ. Nếu năm 1969 chúng tôi dội bom lên đê điều ở Hà Nội thì có thể cũng không thắng, nhưng chắc chắn sẽ làm chậm lại cuộc chiến. Những người Cộng sản mà tôi tiếp xúc sau chiến tranh xác nhận điều này, rằng Hoa Kỳ đã có thể đẩy cuộc chiến vào thế bế tắc. Nhưng chúng tôi không làm thế, và bỏ lỡ cơ hội.
Thay vào đó, Nixon rút lực lượng Mỹ ra khỏi VN theo nguyện vọng của người dân Mỹ và đưa quân VNCH ra tiền tuyến, thay cho những người Mỹ đang rút đi. Chính sách ‘Việt Nam hóa’ chiến tranh đó không hữu hiệu, vì quân đội VNCH lúc ấy không thể làm được những gì Hoa Kỳ đã làm khi không còn sức mạnh của không quân Mỹ và viện trợ của Mỹ. Quân đội VNCH chưa sẵn sàng để chiến đấu một mình.
Tôi luôn cảm thấy rằng một trong những sai lầm lớn nhất của Hoa Kỳ là chờ đến năm 1969 mới Việt Nam hóa chiến tranh. Việt Nam hóa lẽ ra phải được bắt đầu ngay từ lúc quân đội Mỹ vào Việt Nam. Bởi vì quân đội VNCH cho đến năm 1963, 64 được huấn luyện rất kỹ về chiến thuật của Pháp, từ những cố vấn Pháp. Và họ học cách đánh các trận đánh quy mô cấp tiểu đoàn, trong đó đơn vị của họ là tiểu đoàn chiến đấu với các tiểu đoàn khác, đó là cách người Pháp đánh trận.
Cộng sản, trong khi đó, áp dụng chiến thuật du kích. Khi bắt đầu chính sách Việt Nam hóa năm 1969, Kissinger nghĩ đó là một chính sách tốt, nhưng đã quá trễ. Và cuối cùng thì Kissinger chỉ muốn mua một khoảng thời gian cho quân đội Mỹ rút ra khỏi VN, để sau đó khi Sài Gòn thất thủ thì không ai đổ lỗi cho Hoa Kỳ, khiến Kissinger và chính quyền Nixon không bị xấu hổ.
BBC: Nhưng tại sao Hoa Kỳ, là đồng minh của VNCH, không đợi cho quân đội VNCH sẵn sàng chiến đấu rồi mới rút quân?
Frank Snepp: Trong một cái nhìn toàn cảnh hơn, bạn có thể đổ lỗi cho người Mỹ về điều đó. Bạn có thể đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã rút lực lượng của họ ra khỏi VN ở thời điểm mà họ đã làm, trước khi VNCH sẵn sàng. Nhưng các động lực chính trị ở Hoa Kỳ thời đó không cho phép những quân lính Mỹ ở lại Việt Nam, điều đó đơn giản là không thể xảy ra.
Những người cho rằng Hoa Kỳ bỏ rơi Nam Việt Nam vì đã không viện trợ đủ cho VNCH trong thời gian ngừng bắn, đã nói đúng. Vì lý do chính trị, viện trợ Hoa Kỳ đã không được cấp. Nhưng thực tế là, thứ nhất, viện trợ không thể đến kịp thời để cứu miền Nam Việt Nam. Thứ hai, hệ thống hậu cần của VNCH đã bị tham nhũng lũng đoạn, khó có thể tiếp thu và triển khai thêm vật liệu một cách hiệu quả. Lính VNCH, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, thường là ở tiền tuyến, không có đủ đạn dược. Nhưng lý do không phải vì không có mà là vì đạn dược được đưa đến, hoặc đã bị hút vào thị trường chợ đen, hoặc đã bị thất lạc, mà không ai biết nó đi đâu, vì miền Nam Việt Nam vào thời điểm đó không có một hệ thống hậu cần hữu hiệu.
Và, cuối cùng, các cấp tư lệnh Nam Việt Nam vì lo xa không muốn để vũ khí thặng dư gần tiền tuyến, phòng khi Cộng sản tràn vào, mà cất chúng ở xa. Vì vậy, khi cộng sản tấn công vào Quân khu 1, họ cạn kiệt đạn dược và không có một kho dự trữ đủ gần để có thể đến lấy, trước khi bị Cộng sản tiến chiếm.
Với tất cả nhiều nguyên do đan xen vào nhau này, tham nhũng và kém hiệu quả là những yếu tố thấy rõ. Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ, vì sự việc phức tạp hơn nhiều.
Một lần nữa, Hoa Kỳ có bỏ rơi VNCH không là một câu hỏi phức tạp, nhưng nói chung là có, Kissinger và Nixon đã bỏ rơi Nam Việt Nam Nhưng việc thất trận của VNCH đến từ những lý do gần nhà hơn.
Hình: Frank Snepp trên nóc Toà Đại sứ Hoa Kỳ (cũ) tại Sài Gòn trước ống kính phóng viên BBC của Anh.
Có cuốn mới tinh, có cuốn rách bìa, đa số thì ố vàng và đã nhạt màu mực. Mỗi cuốn sách một số phận, trôi nổi qua biết bao biến cố, bỗng một hôm trở về với người sưu tầm, người đọc như những báu vật của thời gian… Gọi đó là “sách Sài Gòn trước Bảy Lăm.” Trên đường sách Sài Gòn giữa Quận Một ngày nay, có mấy kiosk bán sách cũ Sài Gòn xuất bản trước 1975. Ngoài sách, các ấn phẩm của thời kỳ này như báo chí, bản đồ, postcard và tờ nhạc cũng xuất hiện trở lại một cách công khai.
Quán Sách Mùa Thu là nơi có hàng ngàn đầu sách đầy bất ngờ tụ về từ những thư viện gia đình khóa kín gần nửa thế kỷ. Nếu các ông Duyên Anh, Phạm Công Thiện mà sống lại, dạo bước qua mấy chỗ này hẳn sẽ bất ngờ vì tác phẩm của mình còn được đám hậu duệ sưu tầm đủ. Các sách văn học, triết học, chính trị… đình đám của một thời kỳ xuất bản tự do đã trở lại với độc giả hôm nay, bằng chính nguyên bản như mới, được người bán trau chuốt giữ gìn, đóng bìa, may lại gáy. Màu giấy vàng, lối làm bìa sách thanh nhã của một thời… khoác lên những giá sách quý một màu thời gian sâu thẳm. Trong một cuộc triển lãm sách cũ do các bạn sưu tập tổ chức, tôi đã gặp một độc giả năm xưa đứng khóc ròng như trẻ thơ khi cầm trên tay cuốn sách “Quốc Sử” của Lớp Nhất, vì cuốn sách gợi nhớ đến một người bạn chung lớp đã bỏ xác trên biển hồi sau 1975. Sách chạm vào ký ức của từng người theo một cách thế riêng, âm thầm. Tôi cũng từng dẫn những bạn bè lớn tuổi đến đây sau nhiều năm xa nước, họ mân mê những bản sách cũ đã trôi dạt qua những biến cố lịch sử như chính cuộc đời họ, mà quên cả thời gian trở về với thực tại. Gặp lại sách là gặp lại những người bạn thân thiết đã trải qua biết bao thăng trầm dâu bể. Những cuốn sách cũ khơi gợi lại kỷ niệm và gợi nhắc những ký ức đẹp đẽ hay đau buồn. Những quyển sách cũ lặng lẽ nối chuyện thời cuộc và ký ức cá nhân đã trở nên là một. Vào khoảng thời gian sau 1975, nhiều người kể lại rằng, nhiều tủ sách, kho sách Sài Gòn đã bị đẩy ra vỉa hè để đốt. Một kiến trúc sư nói với tôi trong nước mắt rằng, cha anh đã phát điên bởi vì thương sách. Ông ta nhìn cái cảnh những cuốn sách mình nâng niu trân quý trở thành mồi cho ngọn lửa trong suốt vài ngày trời mới hết, và nghĩ mình chỉ còn một con đường hoặc ra đi hoặc tự sát. Nhưng ở vào thời kỳ đó, đâu chỉ ba của bạn tôi, nhiều người đã phải lựa chọn. Họ phải chôn xuống đất những gì chế độ mới coi là “tàn dư” để bảo toàn mạng sống và tránh những liên lụy cho người thân. Sau cùng người ta đã chọn những cách thế tồn tại trong một hoàn cảnh đầy ngặt nghèo và khốc liệt. Người nâng niu sách như những hiện thân của giá trị văn hóa, của đời sống thanh tao làm sao không đau đớn phát điên cho được khi phải lựa chọn thiệu sách để tự cứu lấy mình. Ấy vậy mà bằng những phương cách nào đó thật lạ lùng, những cuốn sách cũ của một thời đã lách qua những cơn bão lửa của thời cuộc để neo giữ một tinh thần, tái hiện một vàng son. Những pho sách qua thời gian đã làm toát lên một phong vị văn hóa khó lẫn, một sự quyến rũ như người giàu có trải nghiệm đang kể câu chuyện cuộc đời mình, đầy mê hoặc. Đã có lúc, đâu chừng mươi mười năm trước, dân sưu tầm những sách “trước Bảy Lăm” còn rón rén rụt rè. Tôi còn nhớ thời đó, một tập thơ của Thanh Tâm Tuyền còn được đem ra đấu giá trong giới chơi sách, trong tình trạng lén lút vì sợ bị an ninh theo dõi tịch thu. Sau đó, một tờ báo đã bị nhắc nhở vì đăng bản tin bán đấu giá sách có nhắc đến tên một nhà thơ Sài Gòn cũ. Nhưng nhu cầu quy hồi những giá trị thuộc về văn hóa một thời đã dẫn dắt thị trường sách cũ theo một chiều hướng lạ lùng. Nó buộc những gọng kìm bấy lâu khóa chặt phải mở ra để văn hóa được liền lạc.
Về Sài Gòn bây giờ đi tìm sách cũ, sẽ không lạ gì chuyện các nhà sưu tầm, giới chơi sách cho đến buôn bán sách cũ đa phần là trẻ. Nhiều người sinh ra sau 1975, nhưng họ có một thao thức, bằng cách này cách khác, làm cho những di sản của một thời kỳ xuất bản được xuất hiện lại một cách tự nhiên, công khai, không rón rén. Họ nói về lịch sử xuất bản, tiểu sử các tác giả… một cách thông thạo như thể những người đã đắm mình trong sinh khí văn hóa một thời Sài Gòn. Cùng với các nhà sách offline, các diễn đàn sách xưa trên mạng cũng nhộn nhịp. Thông tin về từng đầu sách được giới thiệu trở lại một cách chi tiết. Như vậy, những ai chuyên tìm kiếm sách cũ có thể hình dung đến một không gian riêng mà đám an ninh không muốn dây vào cấm đoán nhưng cũng không công khai thừa nhận. Từ nguồn sách này, sẽ phát lộ nhiều chất liệu quý để thấy rõ những giá trị tinh hoa của trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời kỳ đã qua. Chúng như những chứng tích này sẽ giúp người đọc hôm nay có một cái nhìn thấu suốt, khách quan về một giai đoạn văn hóa. Nhiều cuốn sách cũ đã được giới xuất bản tìm cách tái bản. Trường hợp tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bà Tùng Long, Du Tử Lê, Võ Phiến, Lê Tất Điều hay Dương Nghiễm Mậu… được giới làm xuất bản sinh sau đẻ muộn tìm kiếm ấn bản gốc từ những kho sách cũ như vậy để nhập liệu, làm văn bản và tìm cách tái bản. Dù việc này cũng chưa thật sự suôn sẻ trong bối cảnh kiểm duyệt xuất bản, nhưng những nỗ lực khai thông các trở lực để đặt một gạch nối hôm nay với hôm qua trong văn hóa Sài Gòn, ở giai đoạn này, đáng được nhìn với ánh mắt hoan hỉ hơn xét nét nghiệt ngã bởi những định kiến. Quá khứ không còn biến thành những thêu dệt huyền hoặc, những cuốn sách cũ nói với hôm nay về thực tại của văn hóa hôm qua một cách chi tiết. Cho dù, chúng trở thành những báu vật (và được định giá rất cao so với sách mới xuất bản) nhưng những người cần vẫn không ngại ngần để đón về một di chỉ của ký ức. Đi qua thời gian và những thăng trầm, những cuốn sách cũ “Sài Gòn trước Bảy Lăm” đang quay trở lại trong đời sống hôm nay thật lộng lẫy, huy hoàng, điều mà có lẽ nhiều người viết ra chúng, người ấn hành chúng, người bảo vệ chúng trong những kho tàng ẩn mật khó hình dung được. Nói mỗi cuốn sách có một số phận, là đúng. Như người Sài Gòn, mỗi người một cách thế phiêu dạt cùng thành phố, cùng thời cuộc. Tiếng nói, ngôn từ của người một thời đã được ghi trên giấy, kinh qua những biến cố, đã không hư nát và chìm vào thăm thẳm thời gian, mà còn vang vọng, bằng cách này, cách khác. Dù trong lặng lẽ, thì vẫn là những chứng tích của một khoảnh khắc bừng sáng trong thời gian.
Đó chẳng phải là điều đáng để vui, dù là vui trong nước mắt?!
Lâm sàng Hôm nay, nhân bàn đến từ ngữ “lâm sàng” chúng ta sẽ bàn về dạy y khoa bằng tiếng Việt ở Việt nam, và một khía cạnh quan trọng nữa của y khoa hiện đại là vấn đề thực nghiệm và y khoa lâm sàng. Trong chữ “lâm sàng” có lâm nghĩa là đến gần, vào một hoàn cảnh nào đó: như lâm nguy, lâm bồn (thai phụ sắp sinh), lâm bệnh, lâm chung (chung = đoạn cuối, sắp đến đoạn cuối cuộc đời, chết). “Sàng” có nghĩa là cái giường, ở đây chỉ giường của người bệnh.
. Lâm sàng là từ chúng ta dùng để dịch từ tiếng Pháp “clinique” trước đây, lúc các trường y khoa còn dạy bằng tiếng Pháp. Đến khoảng thập niên 1960’s , dưới thời Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ ở miền Nam, trường y khoa Sài gòn mới bắt đầu chuyển một phần dạy bằng tiếng Việt. Trường Y khoa Đại học Huế dạy bằng tiếng Việt ngay từ lúc mới mở cửa (1957) với khoa trường là bác sĩ Lê Khắc Quyến, một người có khuynh hướng cấp tiến và hoạt động chính trị phe tả hơn là các vị giáo sư của trường y khoa Sài gòn. Lúc trường y chuyển qua dạy bằng tiếng Việt, một trong những từ chúng tôi học đầu tiên là “lâm sàng”. Đa số các từ điển tiếng Việt hay Anh Việt hiện nay đều định nghĩa “lâm sàng ” không chính xác lắm đối với cách dùng của từ “clinical” trong y khoa/y tế hiện nay. Trong những tự điển trước 1970 không thấy từ này, và các từ điển dịch “clinic’ cũng không đầy đủ hay sái nghĩa. Có lẽ những nhà làm tự điển không hiểu lắm về cách tổ chức của các nhành y tế. Tiếng Pháp, “clinique”, tiếng Anh “clinical” chỉ những gì xảy ra bên giường người bệnh, nói giản dị là lúc khám bệnh. Do từ Hy lạp cổ “kline” là cái giường. Hippocrates (460-377 TTC), sinh ra ở đảo Kos, gần 100 năm sau khi Khổng tử ra đời, ông tổ ngành Tây Y tiên phong trong ngành chữa bệnh căn cứ trên quan sát người bệnh trực tiếp và lý luận trên cơ sở của những “triệu chứng” mà mình thấy, nghe, sờ và ngữi được. Hippocrate bị ảnh hưởng bời triết lý của Pythagore (nhà toán học Hy Lạp) theo đó “Thiên nhiên” gồm 5 yếu tố (elements) : nước, đất, gió và lửa; do đó học thuyết thời đó cho rằng cơ thể chúng ta gồm năm chất lỏng (fluids) hay dịch (humors) khác nhau tạo nên: mật đen, mật vàng, đàm (nhớt) và máu. Người chữa bệnh có nhiệm vụ tái lập sự quân bình giữa các chất lỏng đó. Có lẽ cũng tương tự nhưng chắc không chi tiết như bên Đông phương, muốn giữa sự quân bình giữa âm và dương, lục phủ (Tiểu Trường, Ðại Trường, Ðởm, Vỵ, Bàng Quang, Tam Tiêu), ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận). Tuy nhiên, điểm quan trọng ở đây là lý luận căn cứ trên những điều quan sát trên người bệnh, khác với cách chữa bệnh căn cứ trên niềm tin tôn giáo, hay ma thuật. Y học cũng như khoa học thời cổ đại (antiquity) của Hippocrate bị thất truyền sau khi văn minh Hy lạp và La Mã suy tàn. Qua thời trung cổ, cách chữa bệnh có tính cách tôn giáo và tín điều là chính. Y khoa lâm sàng chỉ phát triển trở lại sau thời kỳ Phục Hưng Renaissance), với sự khám phá lại các kiến thức “cổ điển” của thời cổ đại, loại bỏ quan niệm về các dịch (“humors”) và các ngành cơ thể học, hoá học, phẫu thuật được phát triển. Qua thế kỷ thứ 17, kiến thức về sinh lý (cách cơ thể được điều hành như thế nào) mở rộng, và người ta chú trọng nhiều hơn đến phần thục hành y khoa, bên giường bệnh (bedside clinical practice), nghĩa là quan sát các biểu hiện của cơn bệnh, dùng những kiến thức về cơ thể học, sinh lý học để suy xét nguồn gốc bệnh. Chúng ta có thể bàn thêm một chút về cách làm việc “lâm sàng” của các thầy thuốc đông y ở Đàng Trong (của Chúa Nguyễn) vào thế kỷ thứ 17 được linh mục Alexandre de Rhodes, người tiên phong tạo ra chữ viết quốc ngữ, kể lại. Phương pháp “lâm sàng” của họ khác phương pháp của tây phương: thầy thuốc “bắt mạch” rồi chẩn đoán trước, không để bệnh nhân khai bệnh trước như trong tây y. Người thầy thuốc được học theo kiểu cha truyền con nối và có nhiều sách bí truyền. Thầy thuốc bắt mạch bằng 3 ngón tay (cho 3 phần cơ thể: đầu, dạ dày và bụng), mất chừng 15 phút đắn đo suy tính, rồi tiết lộ cho bệnh nhân biết anh ta bị những triệu chứng gì, bệnh ra sao. Nếu thầy thuốc nói không đúng thì bị đuổi đi, không trả tiền vì bệnh nhân hết tin tưởng, nếu nói đúng thì bệnh nhân tin tưởng để cho chữa bệnh mình, nhưng chữa hết xong mới trả tiền. Theo kinh nghiệm bản thân của Alexandre de Rhodes thì các bác sĩ Viêt thời đó không thua gì các bác sĩ ở châu Âu. Sau mấy ngàn năm, y khoa của Hippocrate chuyển biến và phát triển thành Tây Y hiện nay, trên nền tảng của quan sát, suy luận và thực nghiệm, và vai trò quan trọng của các khoa sinh-y học (biomedical sciences). Hiện nay những gì liên hệ trực tiếp đến người bệnh thì gọi là lâm sàng (clinical). Ví dụ bác sĩ hỏi câu chuyện về bệnh tình (bệnh sử, history), ghi nhận những triệu chứng (symptoms) như bệnh nhân khai mệt, đau đầu, buồn nôn, có tính cách chủ quan; và khám trên người bệnh nhân để phát hiện những dấu hiệu (signs) khách quan như da có mụn, tim đập loạn nhịp, khối u trong bụng, là những biểu hiện ghi nhận khách quan do người không phải người bệnh quan sát mà ghi nhận. Những dấu hiệu đó được gọi là dấu hiệu lâm sàng (clinical signs). Chẩn đoán bệnh căn cứ vào quá trình khám này được gọi là chẩn đoán lâm sàng (clinical diagnosis). Tuy nhiên, bác sĩ còn có thể có những phương tiện để tìm hiểu thêm về bệnh nhân. Cách đây mấy chục năm, phòng mạch bác sĩ có thể có những phương tiện đơn giản như: máy ly tâm để quan sát cặn nước tiểu qua kính hiển vi, lấy đàm, nhớt để nhuộm màu và tìm trong đó có vi trùng hay không, hoặc có máy soi quang tuyến (X Ray), ví dụ để xem bệnh nhân có nám phổi hay không, vv và thường những xét nghiệm đó bác sĩ hay y tá tự làm lấy, gần chỗ người bệnh nằm, cho nên tiếng Pháp gọi những kết quả thử nghiệm đó là “paraclinique” (do: para=bên cạnh, clinique=giường bệnh). Chúng ta dịch là “cận lâm sàng”. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, ít khi dùng từ ngữ “paraclinical”. Ở Mỹ, thông thường người ta ít dùng từ paraclinical. Bác sĩ thế hệ trẻ có huynh hướng giảm bớt phần hỏi, khám trực tiếp người bệnh vá chú trọng hơn (the một số người thì là quá nhiều) quá nhiều vào kết quả “cận lâm sàng”, tốn kém hơn trước nhiều. Bác sĩ thường nói đến những ngành “cận lâm sàng” như: “lab work”= thử máu, thử vi trùng (ví dụ cấy máu [blood culture] xem có vi khuẩn mọc không), thử di truyền [genetic testing], biopsy (sinh thiết). “Pathology” (ngành bệnh học, tìm các thay đổi của bệnh gây ra trên các mô, tế bào quan sát bằng kính hiển vi, ngày xưa ở Sài gòn gọi tắt là “ana-path, do tiếng Pháp anatomie pathologique=cơ thể bệnh lý. Các hoạt động như chụp quang tuyến, làm CT, MRI, siêu âm (ultrasounds), được gộp trong khoa “hình ảnh y khoa” (medical imaging). Bác sĩ quang tuyến, phần lớn đọc các phim, hình ảnh, không “đụng” tới bệnh nhân, cũng có thể có những hoạt động lâm sàng; ví dụ bác sĩ quang tuyến can thiệp (interventional radiologist) có thể nhờ CT, siêu âm hướng dẫn chọc vào ngực, bụng bệnh nhân để hút mủ, lấy mẫu sinh thiết để thử nghiệm. Một trong những phương pháp giảng dạy y khoa là các “hội nghị đối chiếu lâm sàng và bệnh học” (tiếng Pháp: confrontation clinico pathologique). Các bác sĩ, nội trú trình bày các nhận xét về lâm sàng và đề nghị một định bệnh (diagnosis) suy luận từ các quan sát đó. Sau đó, bác sĩ về bệnh học (pathologist, cơ thể bệnh lý) trình bày kết quả của phòng thí nghiệm như sinh thiết (biopsy) hay kết quả giải phẫu tử thi (autopsy), nghĩa là giải đáp của câu hỏi ban đầu là người bệnh mắc bệnh gì, nguyên nhân gì gây ra các triệu chứng lâm sàng. Một số từ ngữ hay dùng:
. 1. Chết lâm sàng (clinical death), tim bệnh nhân ngưng đập (cardiac arrest), bệnh nhân ngưng thở. Tuy nhiên, với các phương pháp hồi sức hiện nay, có thể đảo ngược “chết lâm sàng” trong một số trường hợp (CPR: cardiopulmonary resuscitation).
. 2. Clinic: phòng khám bệnh tư, phòng ngoại chẩn của một bệnh viện. Đôi khi một clinic là một cơ quan lớn gồm cả nhiều bệnh viện, phòng khám, phòng thí nghiệm, ví dụ Mayo Clinic do bác sĩ William Mayo và các người con mở ra ở Rochester, Minnesota cuối thế kỷ thứ 19, và hiện nay là một trong những hệ thống chữa bệnh và khảo cứu y khoa lớn nhất thế giới, nhân viên gồm trên 50,000 người và gần 4000 bác sĩ mọi ngành. Cleveland Clinic ở Cleveland, tiểu bang Ohio cũng là một bệnh viện giáo dục y khoa vĩ đại, lợi tức gần 10 tỷ đô la/ năm, và chi nhánh ở nhiều tiểu bang Mỹ, Canada và Trung Đông. Lúc đầu, chỉ là một phòng mạch tư của một bác sĩ giải phẫu vào cuối thề kỷ thứ 19.
. 3. Theo nghĩa rộng, clinic cũng được dùng trong một số lãnh vực ngoài y tế: như “legal clinic”chỉ những văn phòng giải quyết, tư vấn về các vấn đề luật pháp.
. 4. Ở Mỹ, người khám và chữa bệnh không phải luôn luôn là bác sĩ y khoa: có những người chuyên về tâm lý trị liệu (psychologist), nurse practitioner; nhân viên điều dưỡng được huấn luyện khám bệnh và điều trị, thường dưới sự giám sát của bác sĩ y khoa, phụ tá bác sĩ “physician assistant” (PA). Từ “clinician” có lúc được dùng để bao gồm hết các nhóm người có nhiệm vụ “lâm sàng” khám và chữa bệnh ở trình độ, lãnh vực khác nhau.
. 5. Trong bệnh viện Mỹ, sinh viên y khoa được thực hành khám bệnh nhân trong 2 năm cuối gọi là 2 năm lâm sàng (clinical years, clinical rotations) sau khi đã hoàn tất 2 năm đầu về khoa học căn bản, gọi là 2 năm tiền lâm sàng (preclinical years).Các bác sĩ tình nguyện dạy không thù lao cho sinh viên y khoa và bác sĩ đang thực tập (interns, residents, fellows/ hay doctors in training) được trường y khoa phong tước vị giáo sư phụ tá giáo sư (clinical assistant professors), phó giáo sư (clinical associate professors), giáo sư lâm sàng (clinical professor). Clinical = “lâm sàng” để phân biệt với ban giảng huấn cơ hữu toàn thời gian, chính quy (tenure track faculty) ăn lương của trường, nặng về khảo cứu hơn là dạy học. Tóm lại, chúng ta có thể dùng định nghĩa của Tự điển Merriam Webster:
. Clinical: 1) relating to or based on work done with real patients 2) of or relating to the medical treatment that is given to patients in hospitals, clinics, etc.3) requiring treatment as a medical problem4) of or relating to a place where medical treatment is given 5) of or relating to a clinic
. Lâm sàng: 1) liên hệ đến hoặc căn cứ trên nghiên cứu trên người bệnh thật.2) thuộc về hoặc liên hệ đến chữa trị y khoa được cung cấp cho bệnh nhân trong bệnh viện, phòng khám, vv3) cần được chữa trị như là một vấn đề y khoa.4) thuộc về hoặc liên hệ đến một nơi ở đó người ta chữa bệnh (trị liệu)
Khi nhận được học bổng Fullbright và đến sống tại Việt Nam, một nữ giáo sư lịch sử người Mỹ đã nhận ra ngay sự vắng bóng của “một phía quan trọng” trong cuộc chiến từng diễn ra trên chính mảnh đất của họ. Bà quyết định bắt tay nghiên cứu và cho ra đời thêm một tác phẩm về cuộc chiến Việt Nam dưới lăng kính mới – lăng kính của “người miền Nam” – những người mà bà cho là đã bị “bỏ sót” trong nghiên cứu lịch sử của cả “bên thắng cuộc” lẫn phía đồng minh Mỹ.
“Tôi đến sống ở Việt Nam một năm và giảng dạy tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, thuộc Đại học Quốc gia. Tôi đã đi khắp đất nước, xem nhiều đài tưởng niệm và tượng đài chiến tranh khác nhau, mà có lẽ tôi nên gọi là theo ‘lăng kính của miền Bắc’ hay ‘lăng kính của Hà Nội’ trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, nhưng hoàn toàn không thấy đề cập gì đến một thực tế là có một phe Việt Nam khác mà họ cũng đã chiến đấu chống lại”, Giáo sư – Tiến sĩ Heather Marie Stur của trường đại học Southern Mississippi, Hoa Kỳ, nói với VOA về lý do khởi đầu khiến bà dành ra 6 năm để nghiên cứu và viết cuốn “Saigon at War: South Vietnam and the Global Sixties” (tạm dịch “Sài Gòn thời chiến: miền Nam Việt Nam và thập niên sáu mươi toàn cầu”), vừa được nhà xuất bản Đại học Cambridge phát hành.
“Có câu nói rằng ‘Lịch sử được viết bởi những kẻ chiến thắng’. Tôi hoàn toàn hiểu quan điểm đang thống trị của miền Bắc hay của Hà Nội, bởi vì họ là bên thắng cuộc. Do đó, tôi muốn đưa phía bên kia vào câu chuyện cho minh bạch hơn”, GS-TS. Stur nói thêm.
Để bổ sung cho “sự vắng mặt” của một phía quan trọng này, nữ giáo sư Mỹ bắt đầu tìm hiểu câu chuyện của những nhân chứng sống tại Việt Nam, từ những gia đình có người thân từng là cựu chiến binh của Việt Nam Cộng Hoà, đến những gia đình bị chia rẽ vì có người thân chiến đấu cho cả hai bên chiến tuyến.
“Tôi cố gắng để có được nhiều tiếng nói và quan điểm hơn trong cuốn sách. Vì vậy, tôi không tập trung vào chỉ một vài người lãnh đạo, nhưng tôi tìm hiểu một nhóm rộng hơn như tầng lớp sinh viên, những người Công giáo, các nhà hoạt động chính trị, các trí thức thành thị sống chủ yếu ở Sài Gòn… để có được cái nhìn bao quát hơn, thay vì chỉ nhìn từ quan điểm của một lãnh đạo hay chính phủ”, TS. Stur cho biết thêm.
Ngoài việc tiếp xúc với người dân, TS. Stur bắt đầu nghiên cứu tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II và Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM (trước đây là Thư viện Quốc gia của Việt Nam Cộng Hoà). Tại đây, bà phân tích các tài liệu của quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng Hoà trước đây, từ các báo cáo tình báo, cáp ngoại giao, báo cáo của cảnh sát và toà án đến các bản tin chính trị, nhật báo, tạp chí hay thư từ của người dân gửi đến các văn phòng chính phủ vào thập niên 1960 và 1970.
Trở về Mỹ, nữ giáo sư chuyên viết về chiến tranh tiếp tục công việc nghiên cứu tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia ở thủ đô Hoa Kỳ và tại các trường đại học của Mỹ, với mong muốn tìm hiểu cuộc chiến trong bối cảnh toàn cầu ở thập niên 1960 – vốn được xem là thập niên khởi đầu của khái niệm “toàn cầu hoá”, thời điểm đan xen giữa ý tưởng được xem là không tưởng về một “tân thế giới sắp đến” và thực tế khắc nghiệt của các cuộc chiến tranh, đàn áp chính trị và khả năng xung đột hạt nhân.
“Người Mỹ chúng tôi có xu hướng nghĩ về Chiến tranh Việt Nam như là một trải nghiệm của người Mỹ và nó ảnh hưởng đến chúng tôi, ảnh hưởng đến người dân Mỹ. Nhưng những gì đã xảy ra ở Việt Nam trong những năm 1960 và đầu những năm 1970 là một phần của câu chuyện toàn cầu lớn hơn nhiều về hoạt động chính trị và sự độc lập”, Giáo sư Stur nói, đồng thời cho biết bà thực sự “thích thú” khi nhìn thấy những kết nối quốc tế trong các hoạt động này.
“Các quốc gia và mọi người đều chú ý đến những gì đang diễn ra ở Việt Nam và bàn về nó, xem mình đang đứng ở phe nào. Trong khắp khu vực Đông Nam Á, có những phong trào chống Cộng khác nhau và các chính trị gia rất chú ý đến những gì đang diễn ra ở miền Nam Việt Nam để rút ra bài học cho đất nước mình trong bối cảnh đụng độ giữa các phe nhóm Cộng sản và chống Cộng. Chính vì những xung đột diễn ra ở Việt Nam đã rất thu hút sự chú ý trên toàn thế giới, nên tôi cố gắng đưa bối cảnh quốc tế này vào trong cuốn sách”.
Với việc phác hoạ lại cuộc chiến trong bối cảnh toàn cầu những năm 1960, nhà sử học người Mỹ còn muốn cho độc giả nhìn thấy có đến ba cuộc chiến lồng ghép vào nhau trong chiến tranh Việt Nam, đó là cuộc chiến chính trị ở Sài Gòn, cuộc chiến quân sự và cuộc chiến về mặt công luận thế giới.
Theo GS-TS. Stur, nền dân chủ của miền Nam Việt Nam trước đây sở dĩ gặp thất bại là vì các áp lực chính trị lên chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, chứ không phải là kết quả của việc người dân ngả theo Cộng sản.
“Hoa Kỳ, trong chừng mực nào đó, đã cố gắng phát triển mối quan hệ tốt đẹp hơn với Trung Quốc và Liên Xô. Và ý tưởng để cho chủ nghĩa cộng sản nắm giữ Việt Nam và thống nhất đất nước dưới một chính quyền Cộng sản vào thời điểm giữa thập niên 1950 đến cuối thập niên 1960 có vẻ như không đến nỗi là một mối nguy an ninh quốc gia”, GS-TS. Stur nhận định.
“Đó là lối tư duy địa chính trị của Hoa Kỳ đối với các đối thủ, đặc biệt là Trung Quốc”, Giáo sư Stur nói thêm, cộng với những nghi ngờ từ phía công chúng Mỹ về thành công của Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời điểm đó đã góp phần gây sụt giảm rất lớn đến sự ủng hộ tiếp tục tham chiến.
Tiếp xúc với nhiều người miền Nam thời hậu chiến, TS. Stur nói bà “hoàn toàn thấu hiểu” tâm trạng của nhiều người cho rằng Hoa Kỳ đã đến Việt Nam và “làm lớn thêm đống hổ lốn tại đây, leo thang chiến tranh và rồi bỏ đi mà không hoàn thành cam kết”.
“Tôi nghĩ rất khó để hàn gắn vết thương đó. Đối với những người đã phải rời bỏ Việt Nam, trở thành người tị nạn ở Mỹ và không bao giờ có thể trở về, nghĩa là họ đã mất nước”, Giáo sư Stur nói. “Nước Mỹ sẽ phải mất một thời gian rất dài để chữa lành vết thương cho những người đã chiến đấu cùng với người Mỹ và tin rằng Hoa Kỳ sẽ làm gì đó để giúp họ nhưng rồi lại bỏ đi”.
Trước tác phẩm “Saigon at War: South Vietnam and the Global Sixties”, nữ học giả Mỹ từng được biết tiếng qua tác phẩm viết về thân phận phụ nữ thời chiến trong cuốn “Beyond Combat: Women and Gender in the Vietnam War Era” và nhiều bài viết khác về chiến tranh Việt Nam.
“Đó là một đất nước xinh đẹp và hấp dẫn, và tôi muốn hiểu biết thêm về lịch sử của đất nước này trong mối quan hệ với cuộc chiến của người Mỹ tại đây”, TS. Stur giải thích về lý do bà tập trung nghiên cứu và cho ra đời nhiều tác phẩm về chiến tranh Việt Nam.
Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y: Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân
Kỷ Niệm của tôi ở trường Quân Y là được tham dự hai buổi chào cờ, vào sáng thứ Hai mỗi tuần. Nhìn hình ảnh Đại Tá Hoàng Cơ Lân: Quân phục thẳng tắp, beret đỏ, người to cao đẹp, rõ nét oai hung, đi duyệt đoàn quân là tôi thích, khoái chí, và say mê!
Vì tình nguyện nhập ngũ, nên chưa có khóa học quân sự. Trưởng Khối Học Vụ Trường Quân Y năm 1973, khi tôi vào lính là Thiếu Tá Tín (Lê Trọng Tín thì phải, sau 75 ông ta ở Liberty, Kansas City- Missouri) chỉ định tôi dạy mấy lớp CC2 (Hạ Sĩ Quan Quân Y).
Hình tác giả bài viết khi mới đến trường Quân Y
Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt Sau 2 tuần ở Trường Quân Y, tôi được tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa Không Quân – Tân Sơn Nhứt. (TTYKKQ-TSN). Ở Tân Sơn Nhứt, Ngành Quân Y có 3 đơn vị (Tôi chỉ biết đại khái, vì tôi là lính tăng phái nên không biết nhiều và cũng không muốn tìm hiểu thêm nhiều vì rất phức tạp, và cũng để giới hạn trong chuyện tôi kể về những kỷ niệm của tôi ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân-Tân Sơn Nhứt).
Hành Chánh Quân Y Không Quân: 1973. Y Sĩ Đại Tá Đỗ Xuân Giụ: Phụ Tá Quân Y Không Quân
Bệnh Xá Sư Đoàn V Không Quân:
Chỉ Huy Trưởng Y Sĩ Thiếu Tá Cường (tôi quên họ)
Trung Tâm Y Khoa Không Quân (gần trại Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám)
Chỉ Huy Trưởng: Y Sĩ Trung Tá Vũ Hữu Bao
Chỉ Huy Phó: Y Sĩ Trung Tá Vũ Xuân Bôi Trung Tâm Y Khoa Không Quân gồm 4 khối:
Khối Giám Định để khám bệnh cho mấy ông Pilots, tiếp viên hàng không… Thiếu Tá Phạm Gia Lữ chuyên về nhãn khoa (Ophthalmologist). Người cao dong dãi, đẹp, nói oang oang. Sau khi di tản 1975 ông định cư ở California. Trong thời gian này tôi ở Kansas City-Kansas nên chưa bao giờ gặp lại, có lẽ ông đã mất. Những quân nhân muốn được tuyển chọn vào Không Quân sợ BS Lữ đánh rớt về mắt.
Khối Tiếp Liệu
Khối Hành Chánh
Khối Chuyên Khoa- Bệnh Viện để chửa bệnh: Phòng Cấp Cứu, Khu Nha Khoa, Phòng Tiểu Giải Phẩu: tôi hay lợi dụng nơi này để cắt da quy đầu (circumcision), cột ống dẫn tinh (vasectomy), removed sebaceous cyst, ganglion, và làm đẹp cho các y tá, các quân nhân tôi quen biết. Những công việc này tuy có vẻ đơn giản, tiểu giải phẩu, nhưng cần nhiều kinh nghiệm. Nếu không, những cyst, những ganglion đã được removed sẽ mọc trở lại sau một thời gian ngắn, và có thể bị hematoma, atrophy of testicle sau khi làm vasectomy.
Circumcision Tuy là một minor surgery, nhưng đây là một nghệ thuật cắt da quy đầu cho người lớn. Khi còn nhỏ (khoảng 12 tuổi) tôi thấy ở bệnh viện Huế có nhiều người không biết là y tá hay bác sĩ cắt da quy đầu bằng cách dùng 2 straight forceps kẹp 2 bên prepuce (foreskin) kéo lên khỏi glans rồi cắt ngang khâu lại. Cắt như vậy không có cái gì gọi là nghệ thuật giải phẫu cả. Có học mới biết, không học làm sao biết. Khi tôi là một quân y sĩ, làm circumcision, vasectomy tôi được bạn bè đải bia, rượu: cổ xanh, cổ đỏ nhậu nhẹt liên miên!
Vasectomy: Để giới hạn dân số ở Bombay-Ấn Độ (4 triệu người) Dr. Datta Pai tìm cách cột ống dẫn tinh (vasectomy) năm 1960: Không có cá (sperm) nhưng nước (seminal fluid) vẫn chảy. Nhưng nếu làm vasectomy không tinh tế, khéo tay có thể đưa đến hematoma ở scrotum, teo luôn hòn dái (testicle atrophy). Vì vậy phải luôn luôn nhớ 1 trong 3 đức tính của người làm phẩu thuật (surgeon): lady’s hands! Một chút kinh nghiệm về Ganglion và Sebaceous Cyst. Tôi muốn ghi lại đây chút kinh nghiệm của một người chuyên về giải phẩu chỉnh hình. Ganglion Cyst mọc từ tendon sheet, nên khi remove ganglion cyst phải cắt (excise) một phần của tendon sheet, và nhớ chích glucocorticoids vào tendon sheet, trước khi khâu da. Nếu không, ganglion cyst sẽ mọc trở lại sau vài tháng. Khi remove sebaceous cyst nhớ phải remove totally capsule của nó. Có những người “tấp tểnh người đi, tớ cũng đi…”, nhiều khi vụng về làm rách capsule của nó, chất sebaceous substance có màu đen nhuyễn như bùn (sebum) chảy ra, có mùi hôi thối… họ, bóp sebaceous cyst cho chất này chảy ra, tưởng hết, rồi khâu da lại. 100%, cyst sẽ mọc lại sau vài tuần-hay vài tháng. Nếu capsule của cyst bị vỡ, dùng mosquito bên tay trái kẹp đầu capsule của nó, tay phải dùng curved mosquito từ từ tách nó ra, lấy cho hết (những người thuận tay trái cầm mosquito ngược lại). “Nhổ cỏ, nhổ tận góc!” Một gợi ý khác nên dùng instrument “Stainless Germany” Chút kinh nghiệm: ví dụ một cyst có đường kính 1.5 – 2 cm, không cần làm 2 incisions >2 cm xung quanh cyst mà chỉ làm 1 incision ngay trên, hay một bên của cyst (one incision only) vào khoảng 1cm, dùng curved or straight mosquito forceps, skin kooks, curved scissors… từ từ tách hoàn toàn caspule của nó và kéo toàn bộ ra ngoài, khâu da và subcutaneous tissue kín lại. Sebaceous Cyst không bao giờ trở lại! Phòng Giải Phẩu: Y Sĩ Thiếu Tá Vũ Tiến Thông – Trưởng Phòng.
Phòng Gây Mê: Y Sĩ Đại Úy Đặng Đông Mỹ – Trưởng Phòng. Trại Ngoại khoa: Y Sĩ Thiếu Tá Vũ Tiến Thông trưởng trại, Y Sĩ Đại Úy Bùi Xuân Mẫn (người to cao như Từ Hải, vai 5 tấc rộng, lưng 10 thước cao), có dáng đi hơi nghiêng nghiêng phụ tá. Tôi là Y Sĩ Giải Phẩu tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa Không Quân, nên rất gần gũi với Thiếu Tá Vũ Tiến Thông, Đại Úy Bùi Xuân Mẫn, Đại Úy Đặng Đông Mỹ. Trại Nội Khoa: Y Sĩ Đại Úy Đoàn Lân (anh ruột của BS Đoàn Yến, YK-Huế khóa 1) trưởng trại, Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Dương phụ tá. Phòng Quang Tuyến: Y Sĩ Đại Úy Đào Hữu Lân, trưởng phòng. Ông ta có phòng mạch ở đường Huỳnh Quang Tiên, gần nhà tôi, nên thỉnh thoảng tôi có ghé thăm, chuyện trò. Phòng Cấp Cứu: là nơi tôi hay ghé vui chơi với toán y tá cấp cứu, toán y tá xe cứu thương, khi rảnh rỗi, lúc chiều về. Phòng Dược Liệu, v.v…
Xin kể một vài câu chuyện… khi tôi làm việc ở Trung Tâm Y Khoa Tân Sơn Nhứt, năm 1973: Ngày đầu làm việc ở trại ngọai khoa, bệnh nhân khá đông…, tôi gặp Đại Úy Ngô Ngọc Châu (NNC), có lẽ ông là bệnh nhân có cấp bậc cao nhất trong giai đọan này. Ông bị sưng khớp xương đầu gối vì tai nạn xe Vespa. Ông đi nắn gân xoa bóp, ở Chợ Lớn với ông thầy Cường. Đầu gối càng sưng, càng đau thêm. Tôi chửa cho ông lành bệnh, từ đó ông ta và tôi quen thân nhau. Đại Úy NNC là pilot C 130, khi tôi có phép về Huế thăm gia đình, tôi điện thoại cho ông, trên đường đi vào Tân Sơn Nhứt, ông lái xe Vespa ghé đón tôi ở Nhà Thờ Ba Chuông, góc Huỳnh Quang Tiên. Giấy tờ liên quan đến chuyến bay, ông lo hết, cả chuyến đi, chuyến về (ông gọi điện thoại lòng vòng là mọi chuyện xong xuôi), ông đưa tôi lên phi cơ. Khi trở lại Sài Gòn, tôi mua ít nem, chả, tré, mè xững Huế tặng ông….
(…Sáng 28 tháng 4, 1975 Tôi vào tá túc ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân (chuyện lòng vòng, quý vị đọc hồi sau sẽ rõ…) Chiều 28 tháng 4, 75 Trung Úy Nguyễn Thành Trung dội bom, Tân Sơn Nhứt (TSN)… Ở Trung Tâm Y khoa TSN, lúc này chỉ mình tôi, tôi lo cấp cứu những bệnh nhân nhẹ như gãy xương, rách da (laceration), trật khớp (dislocation) và tải thương những quân nhân bị thương nặng (lòi ruột…, phỏng cháy nặng) đi Bệnh Viện Cộng Hòa. Sáng 29 tháng 4, 1975 Không Quân, Quân Lực VNCH, được lệnh di tản lúc 9.30 sáng. Đại Úy NN Châu giúp đưa tôi đi Utapao-Thái Lan, trên chuyến C130 thứ hai của KQ rời khỏi VN. Đến Utapao, tôi có lập một trạm y tế nhỏ để phát thuốc ho hen cảm cúm, tiêu chảy, nước uống, thuốc hút v.v…Vài giờ sau, tôi gặp Y Sĩ Trung Tá Vũ Tiến Thông (lúc này ông đã thăng cấp rồi), và phu nhân BS Vân. Còn những Y Sĩ của Trung Tâm Y Khoa Tân Sơn Nhứt khác hình như họ không đi Utapao, Thái Lan. Nhưng đa số bây giờ, họ đang hành nghề Y Khoa tại Dallas, TX
***
Người bệnh thứ hai tôi gặp ở Y Khoa Không Quân TSN là một binh nhì, trật khớp xương cùi chỏ, bên mặt (right elbow) do té xe Honda. Cậu này khoảng 18, 20 tuổi, nằm ở trại ngoại khoa hơn 2 tuần, đầu xương quay (radial head) lòi ra phía sau (posterior dislocation of the right elbow). Cậu mang cái long arm sling vòng qua vai, cổ. Cùi chỏ gấp 90 mươi độ. Máu huyết ở bàn tay, cổ tay lưu thông tốt. Các ngón tay, cổ tay (wrist) di chuyển bình thường (range of motion (ROM): normal). Bệnh nhân không còn đau đớn gì. Tôi muốn giải phẫu sửa lại khớp xương cùi chỏ. Tôi trình bày cách thức tôi sẽ làm, cho hội đồng Y Khoa nghe. Nhưng theo thủ tục, các BS ở đây phải gởi đi Bệnh Viện Cộng Hòa xin ý kiến (second opinion). Trong khi chờ đợi khóa học quân sự, tôi nghe tin đồn Trung Tá Y Sĩ Trưởng Giải Phẩu Chỉnh Hình của Bệnh Viện Cộng Hòa (BVCH) là VC (xin lỗi không phải như tên ai đó cũng viết tắt VC). Vì ở BVCH có quá nhiều thương bệnh nhân bị cắt bỏ cánh tay, cẳng chân như cố tình làm giảm bớt tiềm năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.
Thật ra nhiểm trùng xương (Osteomyelitis) rất khó chửa vì xương ít được blood supply như ở ruột, tử cung, vú v.v…nên nếu chỉ chữa bằng Trụ sinh: uống, chích bắp thịt (IM), hay qua IV không mấy hiệu quả. Vết thương nhiều khi có cả rác rến, bùn lầy, phân trâu bò, dẻ rách của áo quần mục nát trong đó… Nhiều khi gặp trời mưa, sương mù, chiến trận kéo dài, tải thương không kịp làm nhiểm trùng nặng thêm, nên cách dể nhất là cắt bỏ (amputation). Còn muốn chữa thì rất khó khăn, vì phải lấy hết phần hoại tử xương (remove necrotic bone and tissue), phải biết cách làm irrigation với trụ sinh nhỏ giọt trên khúc xương bị nhiểm trùng, và IV antibiotic perfusion cho toàn cơ thể…Nhiêu khê và
mất công, tốn nhiều thì giờ, tiền bạc chỉ để săn sóc cho một bệnh nhân. Giường bệnh lại hạn chế. Nên chuyện thiên hạ đồn có lẽ không đúng, hay chỉ đúng một phần vì họ không chuyên về reconstructive orthopaedic (orthopedic). Họ chỉ chuyên về traumato orthopaedic trên toàn quốc VNCH (dân y và quân y), chứ không phải chỉ Quân Y viện mà thôi. Khi bệnh nhân được chở đi BVCH xin ý kiến trở về, tôi nhận được chỉ thị của Trung Tá…., Trưởng Khối Chỉn Hình: “cắt bỏ đầu xương quay (excision of radial head), đăng bột”. Tôi không bằng lòng với đề nghị này. Lại một lần nữa, tôi xin mổ để sửa lại annular ligament đã bị đứt rách hơn 2 tuần. (Khi bị trật khớp xương nên làm emergency closed reduction trong 8—> 12 hrs, tốt nhất < 6 hrs. Nếu không, những ligament bị căng quá lâu, sẽ đứt rách, và khớp xương sẽ dính lại ở một vị trí không đúng chổ của nó; để lâu hơn, đầu xương có thể bị necrotic (xương chết). Tái tạo lại annular ligament: Nghe có vẻ mới lạ và mơ hồ! Vì xưa nay, người ta chỉ biết BS Giải Phẩu Chỉnh hình (orthopaedic surgeon) chỉ để đóng đinh, bắt vít, kéo xương, đăng bột mà thôi! (Traumato Orthopaedic), cũng như mấy ông thợ mộc (carpenter): cũng cưa, cũng khoan, cũng đóng đinh, bắt vít….Chỉ khác một điều là gỗ không chảy máu. “an orthopaedic surgeon is a carpenter but wood does not bleed” Vả lại, tôi là người lính mới tọ tè, tăng phái cho Tung Tâm Y Khoa Không Quân, mang lon Trung Úy hơn 2 tuần, nhưng chưa thụ huấn quân sự ngày nào! Nhưng với một ý chí và giọng điệu đầy thuyết phục của tôi, hội đồng y khoa cũng bằng lòng cho tôi lên ca mổ. Y Sĩ gây mê là Đại Úy Đặng Đông Mỹ (Nghe tin BS Đ. Đ. Mỹ qua Hoa Kỳ sau 1980). Tôi mổ bệnh nhân với 2 y tá phụ giúp: một phụ tôi lo banh (separation), lo kéo (traction), thấm máu (hemostasis)…, một y tá khác lo khay dụng cụ y khoa: cưa (saw), búa (mallet), đục (chisels), dao kéo (blades), kim chỉ (chromic, nylon)… Y Sĩ Đại Úy Bùi Xuân Mẫn đứng quan sát, sẽ phải tham dự nếu có trục trặc gì trong ca mổ. Tôi mổ ca này dựa vào sách Campell’s Reconstructive Orthopaedic Surgery. Bệnh nhân được chuyền nước biển với trụ sinh nhỏ giọt. Bắp đùi bên mặt (right thigh), right arm and right forearm được cạo lông, rửa sạch với phisohex, betadine solution, alcohol và được bọc lại với steri-drape lớn. Tôi mổ ở bắp đùi bên mặt trước (right thigh) để lấy một dải fascia lata 1/2 x 5 inches (1.2cm rộng, 13cm dài), rồi bỏ vào trong một metal cup đựng normal saline (NS). Vết thương ở bắp đùi bên phải được cầm máu, khâu vá, băng bó cẩn thận, và dùng drape vô trùng bọc lại. Sau đó, tôi mổ ở cùi chỏ phía bên mặt (Right elbow). Làm lateral incision từ R arm đến R forearm khoảng 5 inches (13 cm). R radial head lộ ra (exposed), annular ligament bị đứt rách được cắt bỏ sạch sẽ. Vết thương được rửa sạch (irrigation) với NS. Đưa radial head về vị trí cũ của nó tiếp giáp với cubital process. Tôi khoan một lổ ngang (drill a hole transversely)
đường kính khoảng 1 cm ở cubital process. Rồi đưa dải fascia lata lấy ở trên xuyên qua lổ ở cubital process vừa mới khoan, làm lại annular ligament mới, xung quanh đầu xương quay, không căng quá, rồi khâu 2 đầu fascia lại với nhau.
Vết thương được cầm máu, rửa sạch (irrigation), khâu lại, và băng bó. Sau đó đăng bột, long arm cast applied, cùi chỏ gấp (flexion) # 90 độ, forearm in neutral rotation (không supination, không pronation). Antibiotics vẫn tiếp tục nhỏ giọt 24 hours postoperatively. Bệnh nhân được chuyển về phòng hồi sinh: Bệnh nhân hồi phục nhanh, mấy ngón tay cử động bình thường, máu huyết lưu thông tốt. Không nóng sốt, bệnh nhân được chỉ dẩn cách co duổi mấy ngón tay, tập xoa bóp trái banh tennis ngày hôm sau và tiếp tục khi về nhà. Bệnh nhân xuất viện với một long arm sling như thường lệ, hẹn một tuần tái khám, cắt chỉ, thay băng… Khi trở lại thay băng, bệnh nhân kể chuyện: bà chị nghe nó nói “đi mổ”, tưởng là mổ ở cùi chỏ (elbow), vì thường ngày thấy nó mang sling nơi tay vì nó bị trật khớp xương cùi chỏ thì quen mắt, biết rồi. Nay thấy băng ở chân, một đường băng dài nên bà quá ngạc nhiên hỏi: “bộ ông bác sĩ của mày khùng hả? mày đau trên tay sao ông ta lại mổ dưới chân?”
***
Thỉnh thoảng tôi được xe Hồng Thập Tự chở đi khám bệnh ngoại chẩn ở SĐ 5 KQ Tân Sơn Nhứt và SĐ 3 KQ, Biên Hòa. Ở SĐ 3 KQ, tôi gặp Y Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Bửu, em ruột GS Nguyễn Hữu người làm rạng danh YK Việt Nam ở Paris. Bác Sĩ Bửu người tầm thước đẹp, không mập và bệ phệ như GS Nguyễn Hữu, ông thường mặc đồ bay, trông đẹp, có râu mép, có nét tài tử. Tôi thích những hình ảnh này ở Không Quân!
***
Một hôm bà Trung Tá Hạnh Nhơn Chỉ Huy Trưởng Nữ Quân Nhân Không Quân đưa cậu con trai khoảng 12 tuổi vào vì bị gảy xương cánh tay (Forearm Fx) Tôi đóng đinh bắt plate cho cậu ta. Trung Tá Hạnh Nhơn là người Huế, tôi cũng nói trọ trẹ nên dể quen thân với bà như người nhà. Bà còn trẻ, ngày xưa là huynh trưởng Hướng Đạo, đúng ra tôi gọi bà bằng chị như một hướng đạo sinh. Nhưng tôi cũng quen thân với cháu bà, một Đ/U không Quân, không phi hành, nên tôi gọi bà bằng Cô như em của ba tôi, ba tôi cũng là lính, như một gia đình quân nhân.
***
Một bệnh nhân khác, một Thượng Sĩ thuộc Sư Đoàn IV không Quân, khoảng 30 tuổi…chuyển đến Trung Tâm Y Khoa Tân Sơn Nhứt từ bệnh xá SĐ 4 Không Quân, Bình Thủy-Cần Thơ. Ông này thấp, đi đứng nói chuyện vui vẻ, bình thường. Nhưng trên đầu mất một một miếng xương sọ và tóc 5x 8 cm phía bên trái, vùng parietal. Nhìn thấy não (dura mater) bên trong. Ông ta kể chuyện do một tai nạn máy bay: Ông ta ngồi trên chiếc L19 đi về Cần Thơ. Mấy ông pilot trên L19 chuyện trò vui vẻ với mấy ông bạn pilot trên chiếc Trực Thăng cũng cùng bay về Cần Thơ. Ông L19 nói với Ông Trực Thăng: mày bay như rùa bò. Ông Trực Thăng nói lại, tau bay như rùa bò, nhưng tau đang rửa chân trên dòng sông, mày làm được như tau không? Ông L19 trả lời: chuyện nhỏ, mày coi đây….. Rồi ông ta hạ xuống, bay sát mặt sông. Không may, chiếc L 19 đâm sâu xuống nước. Ông bệnh nhân của tôi bất tỉnh, mất miếng xương đầu, máu chảy xối xả. Bệnh nhân được chở về Bệnh Viện Cộng Hòa (BVCH) cấp cứu. Sau những ngày dài ở BVCH, ông được xuất viện về Trung Tâm YK Tân Sơn Nhứt để follow up, rồi chuyển về bệnh xá SĐ 4 KQ Bình Thủy, Cần Thơ. Thỉnh thoảng được gởi lên Trung Tâm Y Khoa KQ-Tân Sơn Nhứt tái khám. Ông này bị mất da đầu và xương sọ của một phần parietal bone.
Xương đầu (skull) gồm 3 phần: External table Diploe Internal table Dưới xương đầu là Meninges, gồm 3 màng:
Dura mater (màng cứng) Arachnoid mater (màng nhện) Subarachnoid space, trong phần này có động mạch và tỉnh mạch Pia mater (màng nuôi) Tôi cũng xin giải phẩu để tái tạo lại xương đầu, để khỏi nhìn thấy màng não (dura mater) bên trong. Bệnh nhân cũng được gởi đi xin 2 nd opinon…Cuối cùng, tôi mổ ca này. Y Sĩ gây mê, Đại Úy Đặng Đông Mỹ. Bệnh nhân được cạo tóc và scrubed như thường lệ quá nữa phần đầu bên trái. IV antibiotic nhỏ giọt. Glucocorticoids chích thịt (IM) để ngăn ngừa màng não bị sưng trong khi giải phẩu. Tôi dùng electric drill khoan 4 lổ qua xương đầu, rồi dùng dây cưa (Gigli saw wire) để cưa, lấy phần ngoài cùng của xương đầu (external table) vùng parietal 5 x 8 cm. Quay phần xương đầu vừa lấy ra để che kín phần xương đầu vùng parietal đã bị mất, làm như kiểu rotation flap graft. Tôi dùng electric drill khoan thêm 2 lổ nữa ở parietal bone. Kiểm soát chảy máu, dùng chromic # 1 khâu kín lại những mảnh xương với nhau. Bôi antibiotic ointment xung quanh xương vừa ghép, vết thương được băng bó cẩn thận. Bệnh nhân được chuyển về phòng hồi sinh… Bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, tỉnh táo X 3, nói cười vui vẻ, không nóng sốt. Chỉ khác một điều là phần dura mater được che kín, không còn thấy phần não bộ bên trong. Thay băng hằng ngày, làm irritation chổ xương được ghép để granulation tissue của xương mọc nhanh hơn.
***
Cắt ruột thừa (appendectomy) Khi tôi học Y Khoa Huế năm thứ hai, nghe mấy vị khóa đàn anh nói “Mỗ ruột thừa dể nhất, mà cũng khó nhất”.
Thật sự khi nào cũng dể, nếu mình đã quen mỗ bụng (laparotomy) cho bệnh nhân để: cắt bao tử (gastrectomy), cắt tử cung (hysterectomy), lấy con vì mẹ sinh khó (cesarean section), v.v…
khó là khi BS Tê Mê chưa làm cho ruột non (small intestine) xẹp lại mà vẫn còn phềnh lên (bloated, bulgy). Mình đè chổ này, ruột non (phần Ilium dài 3.5 mét) lại phềnh lên ở chổ khác qua vết mỗ nhỏ khoảng 5- 7cm ở vùng McBurney; vì vậy không thể tìm ruột thừa (appendix) được. Nếu mình nói BS Tê Mê cho thuốc để ruột non xẹp lại, thì tìm ruột thừa không khó, cho dù là retrocecal. Nên nhớ ruột già cố định, ruột non bềnh bồng gồm Duodenum dài 25 cm, Jejunum dài 2.5 mét và Ileum dài 3.5 mét. Tổng cộng ruột non dài khoảng 6m và 25 cm. Cách nhớ Don’t Jump In (Duodenum, Jejunum và Ileum). Tôi cũng đã gặp một lần ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân TSN.
Cái gì cắt vất đi cũng dể, Ví dụ khi ruột thừa bị sưng (appendicitis) cắt ruột thừa vất đi. Tử cung bị ung thư, cắt tử cung vất đi (hysterectomy)…v.v… như cành cây hoa đào bị khô héo vì bị sùng (sâu ăn), chặt vất đi, đã là người từng cầm dao, kéo, ai làm cũng được. Nhưng nếu chịu thức khuya dậy sớm, chịu bắt sâu, ghép cành, vun xới cho cành hoa đào nở trăm hoa ngàn cánh, mà đừng vất nó đi thì rất khó khăn vất vả, và đòi hỏi nhiều tinh tế về chuyên môn và thời gian. Đó là Reconstructive Orthopaedic Surgery. Nói tóm lại: Một BS chuyên về Mổ Xẻ (General surgeon) cần luyện tập nhiều, và biết về cơ thể học (anatomy) nhiều để cắt bỏ vất đi những phần cơ thể bị hư hỏng…; nhưng không khó và công phu bằng một BS chuyên về tái tạo lại một phần cơ thể không bình thường, để trở nên gần như bình thường, hay bình thường trở lại. Ví dụ: Như một bịnh nhân bị cerebral palsy (CP) đi 2 chân chéo nhau như cái kéo (scissors gait) thì không thể cắt 2 chân bịnh nhân vất đi mà phải tái tạo lại dáng đi bình thường cho bịnh nhân, đòi hỏi nhiều công phu và hiểu biết nhiều hơn và chi tiết hơn về anatomy. Phải biết và tìm cho ra obturactor nerve nằm ở đâu rồi làm neurectomy of anterior branch of the obturator nerve …, làm physical therapy sau khi mổ …nhiêu khê và phức tạp…! Ở Mỹ đến thế kỷ 21 này, vẫn còn nhiều trẻ em bị CP với dáng đi scissors gait! Một ví dụ đơn sơ khác như khi release Carpal Tunnel Syndrome nếu không thuộc anatomy nhiều, đôi bàn tay của người giải phẩu không nhẹ nhàng (lady’s hands), họ có thể làm đứt nhánh recurrent branch của median nerve, đưa đến mất chức năng của ngón tay cái (loss function of the thumb).
Một bệnh nhân khác: Ông này là Đại Úy Trưởng phòng Tiếp Liệu Không Quân-Biên Hòa, cùng Họ Nguyễn Đăng với tôi, nhưng ông này người Bắc, tôi quên tên, chỉ nhớ họ. Tôi mổ trĩ (nội- ngoại) cho ông ta. Kết quả tốt đẹp, lần tái khám cuối cùng Ông tặng tôi 2 bình chữa lửa màu đỏ, nhỏ nhắn dể thương, và mấy trái sáng flaires. Tôi không có xe hơi, tôi tặng lại cho ông bác của tôi ở Sài Gòn.
Nhân một buổi tiệc, tôi không nhớ vì lý do gì. Chỉ nhớ là được dự một buổi tiệc rất trọng thể tại Câu Lạc Bộ Huỳnh Hửu Bạc, Tân Sơn Nhứt, có Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân VNCH chủ tọa, có Đại Tá Giụ, Phụ Tá Quân Y Không Quân và tất cả Y Nha Dược Sĩ Không Quân ở Tân Sơn Nhứt, cũng có thể có Đại Tá Nghiêm Xuân Húc và Tham Mưu Trưởng Không Quân, Chuẩn Tướng Võ Dinh tham dự, nhưng hồi đó tôi chưa nghe và biết mặt những vị này… Thiệp Mời đại khái ghi: mời toàn thể quý Y Nha Dược Sĩ Không Quân Tân Sơn Nhứt và phu nhân. Trong thiệp mời có ghi rõ: Quý vị phải ghi rõ tên Quý Vị và tên phu nhân, nếu phu nhân quý vị không tham dự cho biết lý do…Tôi đi dự lễ một mình, vợ tôi đang ở Huế. Trung Tá Vũ Hữu Bao, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Y Khoa Không Quân (TTYKHQ), thỉnh thoảng gọi tôi đến văn phòng ông, chuyện trò, thân mật (kiểu đàn anh, đàn em). Ông muốn tôi sau khi học quân sự được ở lại làm việc ở TTYKHQ. Trước khi ông đi nghỉ phép, ông nói cho tôi biết như một lời báo hiệu: Những chuyện đã xảy ra cho những Y Sĩ Phi Hành (Fly Surgeon) do ông Giụ gởi đi Mỹ Học, ngày sắp về mà không nghe tin tức quà cáp của mấy phu nhân ở nhà cho Ông Giụ là Ông thuyên chuyển về các Sư Đoàn, không cho ở TTYKKQ nữa. Tôi nghe và biết vậy, tôi còn trẻ, bạch diện thư sinh, chỉ có tấm lòng hăng say làm việc…! Không mơ ước, nhưng tôi được một điều vui mừng cá nhân khác, đó là tôi nhận được bản sao văn thư của Tham Mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Không Quân VNCH, Chuẩn Tướng Võ Dinh, yêu cầu Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y, Đỗ Xuân Giụ, giử tôi lại ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân. Chuyện này có lẽ do TTYKHQ gởi văn thư cho Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng Không Quân đề nghị. Cá nhân tôi, lần đầu tiên nghe tên ông. Tôi hoàn toàn không quen biết Chuẩn Tướng Võ Dinh, chỉ biết sau này, ông ta ở gần Trường Đoàn Thị Điểm, trong Thành Nội-Huế. Tôi tăng phái cho Trung Tâm Y Khoa KQ Tân Sơn Nhứt cũng một thời gian khá lâu, vì chưa có khóa học quân sự. Thời gian ở Không Quân, quý vị niên trưởng như Trung Tá Vũ Hữu Bao Chỉ Huy Trưởng, Trung Tá Vũ Xuân Bôi, Chỉ Huy Phó, Thiếu Tá Vũ Tiến Thông, Đại Úy Bùi Xuân Mẫn (Phòng Giải Phẩu,
Ngoại Khoa), Đại Úy Đoàn Lân (Nội Khoa), Đại Úy Đào Hữu Lân (Quang Tuyến), tất cả đều…coi tôi như người em út của gia đình YK-KQ, đầy tình thân ái, mến thương. Đại Tá Nghiêm Xuân Húc được thăng Phụ Tá Quân Y Không Quân- Tân Sơn Nhứt, thay thế Đại Tá Đỗ Xuân Giụ được thăng Cục Phó Cục Quân Y. Thiếu Tá Trần Bá Cơ, chánh văn phòng Quân Y Không Quân, sau này được thăng Trung Tá. Một hôm, Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y, Đỗ Xuân Giụ, trở về thăm lại Trung Tâm Y Khoa Không Quân. Một hàng Y Nha Dược Sĩ Không Quân từ cấp Trung Úy (tôi), Đại Úy đến Trung Tá, Đại Tá và khoảng 10 y tá, tất cả độ 40 người, đứng nghiêm chào mừng 2 bên. Khi Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y đi giữa đoàn quân, người nói lớn tiếng nhất là Đại Úy Bùi Xuân Mẫn, cùng một số BS khác của TTYK Không Quân: “Yêu cầu Đại Tá Cục Phó giử BS Nguyễn Đăng Tri lại cho Trung Tâm Y Khoa Không Quân”. Mọi người vỗ tay hoan hô, tôi âm thầm vui mừng, hãnh diện! Vì đó “như một lời khen ngợi giữa đoàn quân!” Đây không phải là chuyện gởi gắm bình thường qua ly rượu, hay canh bài Mạt Chược (mahjong) giữa bạn bè. Không phải là chuyện úp mở, thương lượng dưới mặt bàn (negotiate under the table). Cũng không đơn thuần khen ngợi một cá nhân, một tập thể nào dưới hình thức giao tế. Mà là chuyện quang minh chính đại có văn thư của Tham Mưu Trưởng Không Quân, Chuẩn Tướng Võ Dinh, và sự hiện diện của toàn thể Y Nha Dược Sĩ Không Quân Tân Sơn Nhứt. Đời một quân nhân Quân Y, có niềm hảnh diện nào hơn?
Phút huy hoàng bình yên chợt tắt, Tôi Thật Sự Vào Lính…
Tôi, tuổi Quý Mùi, một đời sôi động, một đời lang thang như mấy con Dê quanh năm lủi thủi gặm cỏ một mình: Bỏ Phước Tuy-Bà Rịa, bỏ Đại Học Y Khoa Huế, bỏ Bệnh viện Quảng Trị đặt tại Đà Nẳng (Mùa Hè Đỏ Lửa). Bỏ giấy hoản dịch gia cảnh, tôi tình nguyện vào lính, tôi có mộng ước cao xa…, mong một ngày dõng dạc, hãnh diện tôi sẽ gọi thanh sinh viên VN đi lính như tôi hôm nay…
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho bạn, mà bạn nên tự hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc?” J F Kenndy. (Chuyện lính tráng của mấy ông Tổng Thống Mỹ đến thế kỷ 21 này vẫn còn chê bai, nói xấu nhau)
Tôi không nhớ rõ ngày, chỉ nhớ vào tháng 8, 1973 tôi đi học 9 tuần quân sự ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (TTHLQT). Trong giai đoạn này Chỉ Huy Trưởng, TTHLQT là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, sau khi ông nghỉ bệnh một thời gian ở viện Bài Lao Ngô Quyền.
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau đó được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, Vùng II chiến Thuật………. Thời gian nhàn hạ đã làm mất đi cái tinh nhuệ của một Tướng Lãnh ngoài chiến trường. (Giống như một tay cờ tướng, xì phé lâu ngày không đánh, nay đánh lại có chút ngập ngừng…!)
Sau khóa học quân sự 9 tuần ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tôi đi dự lễ chọn chổ. Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y chủ tọa buổi lễ. Một Sự Chọn lựa: Đại Tá Đỗ Xuân Giụ, Cục Phó Cục Quân Y, gọi 2 người đầu bảng danh sách: BS Nguyễn Hữu Hạnh và tôi lên trình diện chọn chổ. Đại Tá Giụ nói có 2 chổ BĐQ vùng 1 và vùng 2 Chiến Thuật… BS Nguyễn Hữu Hạnh chọn vùng 1 Đà Nẳng, tôi chọn vùng 2 Pleiku. Sau khi chúng tôi chọn chổ, Đại Tá Giụ hân hoan ra về. Danh sách còn lại do một Đại Úy Hành Chánh Quân Y đọc, tất cả đều đi Bệnh Viện Dã Chiến.
Đành dấu con “dao mổ” trong túi quần, trong Sack Marine (Duffel Bag-Air Force). Tôi theo Liên Đoàn 24 BĐQ , đóng quân khắp vùng II chiến Thuật: Khi Pleime-Pleiku, khi Tân Điền, Đồi 3 Chấm- Kontum, Khi Ban Mê Thuột, khi Cheo Reo-Phú Bổn, khi Quảng Đức tiếp giáp với vùng III chiến Thuật. Cũng may mắn suốt thời gian ngoài chiến trường, tôi không bị thương, nhưng được Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc với dây Biểu Chương Màu Bảo Quốc Huân Chương của Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh tặng, và Ngôi sao Đồng của Trung Tá Từ Vấn Liên Đoàn Trưởng LĐ 24 BĐQ trao tặng cho sự hăng say đời binh nghiệp của tôi.
Trong hơn một năm làm lính Biên Phòng Vùng 2 Chiến Thuật, đêm ngày canh giặc, Việt Cộng xâm chiếm Miền Nam…Đôi khi, tôi cũng làm closed reduction, khâu vá da thịt, ghép da (skin graft), không cần dermatome, cho vài quân nhân bị thương ngoài chiến trường, không có cơ hội được tải thương… Những lúc này, tôi nghĩ đến GS Nguyễn Mạnh Hùng, một Giáo Sư về Pharmacology nổi tiếng của VN, sau cách Mạng 1-11-63, bị đày đi A sao (A shau), A lưới để thử máu cho muỗi…, may mắn được Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I, Vùng I Chiến Thuật thỉnh về làm Giáo Sư Pharmacology cho Trường Đại Học Y Khoa Huế. (Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng có người em ruột, Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Tuấn Anh, y sĩ trưởng của Lữ Đòan Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông chửa bệnh gastritis và đổ mồ hôi tay cho tôi năm 1963 bằng Genatropine nhỏ giọt, (uống), hiệu quả vô cùng. Uống hôm nay, ngày mai tay khô ráo; nhưng nước mắt, nước miếng cũng khô, nên phải nhỏ mắt với artificial tears (eyedrops) và uống nước lai rai suốt ngày. Không cần mổ xẻ lôi thôi, không cần Châm Cứu (chẳng có hiệu quả gì).Tôi vẫn luôn luôn nhớ và kính trọng ông.
Trước Tết năm 1975, vào khoảng tháng 2 tây, tôi được phép về Sài Gòn, ghé thăm LS Lê Tọng Quát-Quốc Vụ Khanh VNCH…, và Trung Tâm Y Khoa Không Quân TSN, được mấy y tá phòng cấp cứu cho hay: mấy BS đàn anh được thăng cấp như Trung Tá Vũ Tiến Thông, Thiếu Tá Đặng Đông Mỹ, Thiếu Tá Bùi Xuân Mẫn, Thiếu Tá Đoàn Lân, Thiếu Tá Đào Hữu Lân… v.v.
Và cũng cho hay: một số Nữ Y Tá KQ khi đi Mỹ họ có bằng Tú Tài II, học 4 năm về Điều Dưỡng. Khi trở về, họ có bằng Bachelor of Nursing (như RN 4 năm của Mỹ), mang cấp bậc Trung Úy. Họ có đọc hồ sơ bệnh nhân ở TTYKKQ, họ có lời khen cho tôi…, họ nghĩ BS Tri chắc cũng du học ở Mỹ về, vì họ đọc những ca mổ lạ, và vì tôi viết operative procedure bằng tiếng Anh, nên cũng quen thuộc với họ, còn những BS khác của TTYKKQ đều viết bằng tiếng Pháp (protocole operatoire) như thường lệ, họ không quen và hiểu mấy. Hết mấy ngày phép, tôi đi Quảng Đức tiếp tục làm lính Biên Phòng Vùng II Chiến Thuật, khoảng 3 tuần sau, tôi đi công tác ở Nha Trang. Cầu 42 Từ Ban Mê Thuột đi Nha Trang bị VC dựt sập, tôi quay về khách sạn Anh Đào-Ban Mê Thuột nghĩ đêm… Ngày mồng 10 tháng 3, 1975 khoảng 2.30 sáng, VC pháo kích vào Ban Mê Thuột, 7 giờ sáng VC tấn công khách Sạn Anh Đào, tôi bị VC bắt. Nhưng số trời đã định, tôi may mắn vượt thoát, tôi băng rừng lội suối, vượt Trường Sơn với 2 quân nhân cùng đơn vị, chúng tôi về Sài Gòn bình yên…(Nếu không mất nước, chắc tôi cũng được thêm một Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh khác…!)
***
Sáng 28 tháng Tư 75, tôi nhờ Bà Trung Tá Hạnh Nhơn đưa tôi vào TTYKHQ… Cuối cùng, Pilot C 130-Đại Úy Ngô Ngọc Châu cũng đưa tôi đến vùng trời bình yên, tự do (Mỹ) như Thượng Đế đã an bài! (Như chuyện tôi kể về Trung Tâm Y Khoa Không Quân, giữa Đại Úy Ngô Ngọc Châu, Trung Tá Hạnh Nhơn và tôi) Khi gặp lại nhau ở Fort Chaffee, Akansas tháng 5-1975, BS Bùi Xuân Mẫn có ý định rủ tôi đi Canada. Nhưng sau đó ông đổi ý, chúng tôi ở lại Mỹ, BS Mẫn đi Dallas, TX. Tôi đi Kansas City-KS. Đại Úy Ngô Ngọc Châu cũng rủ tôi đi Washington D.C…, khu Harlem NY , nhưng tôi cũng từ chối, vì tôi muốn ở lại với bạn bè Y Khoa Huế (BS Đồng Sĩ Nam, Bùi Cao Đệ, Patrick Trần Lương Hoa…) Khi học luyện thi bằng hành nghề ở Oklahoma City, Oklahoma. Tôi gặp lại hầu hết các BS của Không Quân VNCH. Trong đó có Đại Tá Cục Phó Cục Quân Y Đỗ Xuân Giụ, Đại Tá Nghiêm Xuân Húc (Phụ Tá Quân Y Không Quân). Trung Tá Vũ Xuân Bôi, Thiếu Tá Bùi Xuân Mẫn…Ngoài ra có BS Nguyễn Lưu Viên (Phó Thủ Tướng VNCH), BS Tôn Thất Niệm (Nghị Sĩ VNCH), BS Trần Ngươn Phiêu (Phụ Tá Quân Y Hải Quân) … Thi đậu, các BS TTYKHQ đi Dallas, TX hành nghề y khoa. BS Bùi Xuân Mẫn bị nhồi máu cơ tim, sau mấy năm hành nghề ở Dallas, ông đã ra đi vĩnh viễn để lại trong tôi nhiều luyến thương. Nhắc lại lòng xốn xao buồn! Rồi ngày tháng trôi qua, tôi cũng hăng say làm lại cuộc đời:”tấp tỉnh người đi tớ cũng đi, cũng lều, cũng chõng, cũng đi thi… (Trần Tế Xương).