Huấn luyện tại trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ, OCS Fort Benning

CHU TẤT TIẾN

Đầu tháng 4 năm 1967, tôi tình nguyện gia nhập quân đội, khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, vào lúc tình hình chiến sự bắt đầu leo thang trên cả hai phương diện, Trận Địa Chiến và Du Kích Chiến. Lúc đó, cuộc chiến đã hình thành rõ rệt giữa hai phe,

1) Phe Thế Giới Tự Do gồm Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc, Nam Hàn, Brazil, và Thái Lan.

2) Phe Cộng Sản, Bắc Việt Nam, Trung Cộng, Liên Sô, Tiệp Khắc, Bắc Hàn, Cuba, và một số quốc gia Cộng Sản Đông Âu. Số quân Mỹ, chưa kể đồng minh, năm đó lên đến gần 500,000 người.

Thời gian đó, tôi được miễn dịch vĩnh viễn, nghĩa là không bao giờ phải đi lính như những người trai thời loạn khác với lý do gia cảnh, Gia đình có 3 anh em trai, thì 2 anh đã nhập ngũ. Anh lớn nhất thụ huấn khóa 4 Thủ Đức (phụ) tại Đà Lạt, anh thứ hai phục vụ ngành An Ninh Quân đội (sau này được gửi đi thụ huấn tại Úc, và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hoàng Gia Úc).

Tuy nhiên, vì luôn theo dõi tin tức chiến tranh, tôi cảm thấy căng thẳng, thừa thãi, không biết làm gì để tiếp tay với mọi người chống lại bọn Việt Cộng dã man, cứ pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư vô tội, hoặc đắp mô, đặt mìn giết hại dân lành trên các con đường liên tỉnh.

Ngay tại thủ đô Saigon cũng không có an ninh vì bọn đặc công Việt Cộng cứ gài chất nổ, nay phá khách sạn này, mai nổ chỗ khác, hoặc ném lựu đạn vào đám đông, gây ra bao thảm cảnh, thây thiếu nữ, thanh niên, trẻ em nằm rải rác khắp nơi. Nhìn thấy những cảnh máu me tràn lan, tay chân vương vãi trên mặt đường, tôi nghẹn ngào muốn khóc, và rồi, một buổi sáng sớm, không nói với bất cứ ai trong gia đình, chỉ lẳng lặng cầm cái túi sách nhỏ đựng mấy thứ cần thiết, tôi đi xe buýt đến Quân Vụ Thị Trấn, vào hỏi chi tiết nhập ngũ, rồi ghi tên và leo lên xe GMC trực chỉ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

Tôi được thả xuống đúng trại nhập ngũ nơi anh lớn tôi là Chỉ Huy Phó trại, nhưng anh không hề hay biết, vì tôi không gọi. Nếu thấy bóng anh thấp thoáng đâu đó, là tôi trốn. Mãi đến khi tôi qua Quân Trường Thủ Đức 3 tuần rồi, tôi mới viết thư cho anh và Mẹ tôi hay. Mẹ tôi theo anh tôi lên trường, gặp tôi, bà khóc nghẹn ngào. Còn anh tôi mắng tôi ầm ĩ, “Sao mày ngu thế? Có khùng điên không? Thời buổi này, chiến tranh chết chóc như rạ!”

Sau đó, anh buộc tôi phải theo anh lên gặp ông Liên Đoàn Trưởng Sinh Viên Sĩ Quan, là bạn anh, để mong chút ân huệ nào đó cho tương lai của tôi, nhưng tôi cự lại, “Em tình nguyện đi lính để đánh giặc, chứ không phải để chạy chọt vào chỗ tốt. Nếu muốn nhờ cậy, thì em cứ ở nhà, khỏe re, cần gì đi lính!”

Và thế là tôi đã trở thành một người lính Việt Nam Cộng Hòa, hạnh phúc vì được phục vụ cho đất nước. Cũng vì tinh thần xung phong đó mà khi được bổ vào Đại Đội 9 của Trung Úy Sự, người Sĩ Quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt, lúc nào cũng phong độ uy nghi, tôi tình nguyện giơ tay làm Thư Ký Đại Đội luôn.

Qua 6 tháng huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Thủ Đức, nghe thông báo là Trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ muốn tuyển người đi thụ huấn bên Mỹ, tôi lại giơ tay tình nguyện nữa. Ngày đầu tiên, cùng với gần 400 người lên giảng đường thi Anh Ngữ, tôi “pass” cùng với vài chục bạn nữa, để lên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, thi thêm 2 lần. Qua khỏi 3 cửa ải Anh Ngữ này, tôi cùng với khoảng 30 bạn nhập vào một Trung đội Đặc Biệt (Special Platoon) cùng với khoảng 10 Thông Dịch Viên từ các đơn vị gửi về thành 40 người để được một Cố Vấn Mỹ, Đại Úy Isler, rèn luyện về thể lực trong 1 tháng, cũng ngay tại trường Thủ Đức, 24 giờ một ngày, nghĩa là bất cứ khi nào cũng có thể bị hành xác.

Từ sáng sớm đến nửa đêm, đôi khi đang ngủ cũng bị dựng cổ dậy, hít đất, trồng chuối ngược, móc chân vào thanh giường trên, tay chống xuống đất, rồi dí ngón tay trỏ vào nón sắt, chạy vòng vòng quanh nón đến khi nằm gục xuống thì nghỉ, để lại đứng lên ngồi xuống 20 lần, nghe quát tháo và chửi bới nặng lời. Chạy sáng sớm, chạy buổi tối, chạy đến lớp học, chạy đến nhà cơm, chạy từ nhà cơm về, chạy đi “toilet.”

Nếu ngưng chạy thì hít đất, nhẹ nhất là 20 cái, trung bình 50 cái…Nghĩa là chạy “đoạn đường chiến binh” liên tục trong 1 tháng. Nhiều sinh viên chịu không nổi, rớt đài từ từ, cuối cùng còn lại 10 Sinh Viên Sĩ Quan thuần túy cộng với 8 Trung Sĩ Thông dịch Viên của các Sĩ quan Cao cấp Hoa Kỳ là 18 người lên đường sang Mỹ vào đầu tháng 10 năm 1967.

1. Chuẩn bị

Nơi học đầu tiên là Viện Sinh Ngữ Quốc Phòng (Defense Language Institute) tại Căn Cứ Không Quân, Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas. Ở đây, ngày 2 buổi, chỉ học các danh từ chuyên môn quân sự cùng với các quân nhân đồng minh khác, Iran, Iraq, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan.

Chiều, tối, Thứ Bẩy, Chủ Nhật đi chơi. Đời sống thanh thản như một sinh viên thuần túy. Nhưng tại đây, xẩy ra một vụ đánh lộn ly kỳ. Một buổi sáng đi xe buýt ra phố chơi cùng với nhóm Iran, Iraq… Một tay Đại Úy Iran có cái mồm oang oang, nói vang cả xe, gây khó chịu cho một vị Thiếu Tá Nhẩy Dù Việt Nam. Ông nhỏ nhẹ nói,

“Làm ơn nói nhỏ chút!”

Tên này khinh thường người Việt, cứ tiếp tục nói liên tục. Vị Thiếu Tá nhắc đến lần thứ 3 mà hắn cứ tỏ ra khinh khỉnh làm ông nổi giận, chửi liền,

“Fuck you, Iran! Mày coi thường dân Việt tao hả?”

Rồi xông đến giáng cho hắn 2 quả đấm, tên này gục xuống, máu miệng phun ra. Xe buýt dừng. Cảnh sát đến. Vị Thiếu Tá bị cảnh sát điệu đi đến chiều thì được thả về, nhưng rồi ông bị gọi lên gặp Sĩ Quan Liên Lạc và nhận lệnh phải trở về Việt Nam gấp. Nghe tin này, dân Việt giận quá. Đêm hôm ấy, đúng 12 giờ, nhóm Việt chúng tôi im lặng tiến đến khu phòng ngủ của bọn Iraq đang ngủ say, thình lình đập cửa xông vào, đấm đá bọn Iraq mất dậy kia một trận tưng bừng rồi lặng lẽ rút lui, để chúng không kịp bật đèn nhìn thủ phạm. Hôm sau cả Viện nháo nhào vì tin đánh lộn, nhưng vì không ai khai, không ai làm chứng, nên mọi chuyện ồn ào một hồi rồi cũng qua.

Ba tháng học ở đây như lên thiên đường, riêng tôi, lại có 2 mối tình, Một chuyện tình với cô Giáo sư người Mỹ lai Tây Ban Nha, đẹp rụng rời; và một anh chàng Mễ là chuyên viên phòng Lab, bệnh Gay, mê tôi như điếu đổ, chưa kể hai chị em 17,18 con một bà bạn, từng chơi đùa, ôm nhau lăn lộn ngoài bãi biển (chuyện này kể sau.). Ngày tôi rời San Antonio, Cô giáo khóc nức nở trước mặt các giáo sư khác, rồi ký tên trên mảnh bằng tốt nghiệp của tôi là “You are the most wonderful man I ever meet in my life. Love you forever.” Còn anh chàng Mễ, khi biết tôi ra đi không trở lại, thì mấy ngày trước, lăn ra ốm gần chết. Hắn gửi lời nhắn cho tôi đến nhà hắn, nhưng tôi lờ đi. Thôi, bye!

Tháng 3, năm 1968, lên máy bay, đến Fort Benning, Georgia, để bắt đầu học Quân Sự tại Quân Trường Infantry Officer Candidate School, gọi tắt là O.C.S. (Trường Sinh Viên Sĩ Quan Lục Quân). Trong thời điểm có cuộc chiến Mậu Thân 1968, nên chương trình huấn luyện cực kỳ căng thẳng. Sinh viên Sĩ Quan phải trải qua 6 tháng kinh hoàng để có thể có sức khỏe mà chiến đấu trong một xứ nóng, đầy dẫy bom mìn, cạm bẫy, thương vong.

2. Thủ tục

Ngay ngày đầu tiên, lúc còn xách 2 vali nặng chĩu, ông Thượng Sĩ nhất cũa Đại Đội Sinh Viên đã gào thét bắt chúng tôi phải xách vali chạy lên, chạy xuống 3 tầng lầu. Vừa xuống đến đất lại phải chạy lên lại, mấy lần như thế…Vali rồi tung tóe, người ngã nghiêng, hơi thở đứt đoạn.

Sau khi thấy chúng tôi sắp xỉu, thì ông Thượng Sĩ gào lên, “Các anh vào đây, muốn sống sót thì phải quên mình là “con người” mà chỉ là những con vật, đui, què, là ổ cứt thối, là đồ đầu lừa đít bò, cứt chó (you’re animal, you’re shit, you dumb, deaf, donkey head, cow ass, dog shit)…

Nếu ai mà nghĩ mình là người thì chỉ có cách tự tử mà chết thôi!” Ông dậy chúng tôi làm quen với cách mở miệng nói. Bất cứ lúc nào muốn nói với cấp trên (ông Thượng Sĩ đó, Huynh Trưởng, hay Sĩ Quan Cán Bộ) thì phải gào lên, “Sir, Candidate Tien requests permission to speak!” (Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho được nói!), mặc dù chỉ là để trả lời câu hỏi của ổng. Đi bất cứ đâu, qua phòng ăn, phòng học, đi toilet, vừa nhìn thấy cấp trên, là phải vội vàng đập lưng cái “bốp” vào tường, mắt nhìn thẳng ra phía trước, và gào thật to, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho đi qua!”

Nếu ông cho qua, thì đi thẳng người qua, nếu ông không cho qua, thì phải đứng im, không nhúc nhích. Nếu ông bảo bò giữa hai chân ông, là phải bò như chó cún. Vào phòng ăn, sau khi lấy đồ trên khay, đứng thẳng người trước bàn ăn, tay vẫn cầm khay, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ngồi.”

Nếu có cấp trên, thì ổng sẽ nói, “Ngồi đi!” thì mới được ngồi. Ngồi xuống, đặt khay cho thẳng hàng với cạnh bàn, sắp dao, nĩa chéo góc 45 độ với cạnh khay, để hai tay xuống đùi, ngồi thẳng người, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ăn.”

Có một cấp trên nào đó, ra lệnh, “ăn đi”, thì mới được ăn, Tay trái để trên bàn, cùi chỏ thẳng góc với mặt bàn, tay phải cầm nĩa, chọc vào thức ăn, đưa thẳng lên, ngang miệng, há miệng, đút thẳng đồ ăn vào, trong khi đó lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, nhai không được mở mồm, không được liếc qua bên cạnh (eye ball!). Hễ nhai mà để người khác thấy răng là bị chửi, “Ê! Thằng chó chết kia! Mày ăn như heo vậy hả! Làm cho tao 50 cái coi!”

Nếu liếc qua bên cạnh, là lập tức phải bỏ ăn, hít đất 50 cái. Một anh SVSQ Mỹ kia vô phúc, đang ăn lại liếc, bị ông sĩ quan phạt chạy một vòng vũ trường, dài đúng 1 mile, chạy nửa chừng giữa nắng, lăn ra chết luôn! (Một anh khác bị phạt hít đất giữa trời nắng hơn 100 độ cũng chết ngắc! Tại một đại đội khác, một sinh viên Mỹ tự tử bằng súng M.14. vì nhục quá!)

Điều bực nhất là có một hôm, vợ của một sĩ quan đến ăn, thì ông kia nổi hứng, chỉ tay vào tôi, hất hàm bảo, “Thằng con lừa kia! Mày leo lên bàn, làm xiếc khỉ cho vợ tao coi. Vợ tao không cười là mày chết ngắc!” thế là phải bỏ ăn, leo lên bàn, nhẩy múa, làm con khỉ nhăn răng, cho vợ hắn coi, mong cho bà ấy cười, mặc dù trong bụng chửi thề, “Bitch! God damn you!”

Thật ra, vì cần sức khỏe phải ăn, chứ đôi khi mệt lả, miệng đắng nuốt không vào, vì trước khi đến cửa phòng ăn (Mess Hall), là bị cây hít “pull-up bar” chặn đường. Hai tay huynh trưởng đứng hai bên cột sắt, bắt nhẩy lên, bám lấy cây ngang, hít lên, hạ xuống 20 lần rồi mới cho vào phòng ăn. Khi nào rã rời, kéo lên không nổi thì hít 50 cái thay thế…

Trở lại ngày đầu tiên nhận phòng ngủ, cứ 2 người một phòng, 2 giường sắt, 2 tủ quần áo gỗ có 4 ngăn mà 3 ngăn dưới rộng ngang để quần áo gấp, 2 ngăn nhỏ trên cùng để trưng mu-xoa, insignia (huy hiệu…) 2 cái hòm gỗ đựng đồ, 2 cái bàn làm việc giao nhau và 2 tủ sắt đứng treo quần áo tập luyện vuông vức, mỗi chiều khoảng 4 feet, cao 6 feet. Tất cả kích thước trưng đồ đều được tính sẵn, không sai 1 ly, thí dụ, quần và áo trận thẳng nếp được gấp vuông 30” là phải đúng 30”, cách mép trong ngoài 5” là đúng 5”, chỉ cần lệch ½” là 50 hít đất. Ngăn kéo dưới kéo ra ngoài 20”, ngăn trên 15”, ngăn trên nữa 10”, ngăn trên cùng 5.” Sĩ quan Cán Bộ hay Huynh Trưởng cầm thước đi đo, nếu lệch chút xíu là 50 hít đất. Chăn phủ giường phải thẳng băng, một vết nhăn là 50 hít đất… Thật sự, hít đất tôi không ngán, vì có thể hít 70, 80 cái như chơi, nhưng tôi ớn nhất là cái bàn, trên đó để 1 miếng bìa 60” x 60” bằng giấy thật, vì một tay huynh trưởng đến chỉ vào tấm bìa giấy đó, ra lệnh, “Ê! Mày đánh bóng cái tấm bìa này sao cho giống như cái gương để tao soi mặt!”

Mới nghe lệnh, tôi tưởng hắn giỡn, và nghĩ thầm, “Mẹ kiếp! Chỉ hù! Làm thế quái nào mà cho tấm bìa trở thành cái gương được?”

Nhưng vì là lệnh, nên tôi cũng kỳ cọ, dùng Wax (xira) đánh, đánh mãi vẫn cứ thấy nó bì bì ra.. Khoảng tiếng đồng hồ sau, tay kia trở lại, thấy tấm bìa vẫn lì lợm, phạt tôi nhẩy xổm 20 cái, hít đất đúng thế 20 cái. (Hít đúng thế nghĩa là người thẳng băng, tay huynh trưởng kia cúi xuống dùng tay móc lấy cái thắt lưng của tôi kéo lên, ấn xuống theo từng nhịp đếm!) Làm không đẹp là bỏ, đếm lại… Mỗi khi nhúng người xuống thì gào to, “One, Sir!” rồi “2, Sir”, 3, Sir..” Gào không to, thì bỏ, làm lại từ đầu.

Vì thế, khi nói 20 cái là sẽ thành 50, 60 cái… Mỗi ngày, tên huynh trưởng ác ôn kia đều tới kiểm tra miếng bìa. Đến chừng 4,5 ngày sau, bìa vẫn hoàn bìa, tôi bị hắn lôi tôi ra ngoài vườn, bắt trồng chuối ngược, chân dựng lên cửa sổ, tay chống xuống.. đá răm! Hễ rớt chân xuống, là cái đầu gối dập vào đá, phun máu! Đau quá, tôi phải năn nỉ tên cùng phòng chỉ cho tôi cách đánh bóng rồi tôi phải “lén” bỏ ngủ mấy đêm liền để đánh xira tấm bìa cho đến 1 tuần lễ sau, thì quả thật, miếng bìa đã thành tấm gương sáng choang, cho tay huynh trưởng kia soi thấy mặt mũi mình, hết phạt! (nói là “lén” bỏ ngủ, vì đúng 10 giờ đêm là có tiếng hô, “Sleep!” thì tất cả đều phải nằm ngay như tượng, nhắm mắt. Chờ cho tay gác đi qua, thì nhổm dậy, bật đèn pin, rồi chà bóng mọi thứ, từ cái bàn đến sàn phòng.)

Nguyên tắc đánh Wax phải theo đúng, không sai một ly, một cái nắp hộp Wax đựng nước thật sạch, một miếng vài trắng tinh. Cuộn vải vào 2 ngón tay trỏ và giữa, nhúng vào nước, rồi nhúng vào Wax mà chà xoay một vòng tròn bằng đầu ngón tay cho đến khi nào cái vòng tròng bằng ngón tay ấy sáng lên, thì lan ra dần đần cũng theo kiểu vòng tròn. Nếu chà kiểu xẹt qua, xẹt lại thì đến Tết mọi cũng không sáng, mà không sáng thì cứ bị phạt liên tu bất tận. Việc đánh bóng sàn phòng cũng giống như thế. Vì lệnh đưa ra là sàn nhà phải bóng để cán bộ hay huynh trưởng vừa vào đến cửa phòng là cúi xuống nhìn sàn nhà, nếu thấy mặt của họ in trên sàn thì OK, và nếu chưa thấy thì chỉ có .. tắt thở! Để cho sàn nhà được bóng, thì hai thằng thay nhau chà Wax từ 8 giờ tối đến 10 giờ đêm, rồi leo lên giường, giả bộ ngủ, chờ kiểm soát đi qua, là chồm dậy, soi đèn pin đánh đến nửa đêm về sáng, cả tuần như vậy, thì sàn nhà sẽ bóng như gương.

Đau khổ nhất là sau khi sàn nhà sáng rồi, thì chính mình không dám bước lên sàn, mà mỗi khi đi học hay tập về, là phải bám tay vào thành trên của cửa chính để đu vào cái tủ gỗ, nhẹ nhàng như rắn, rồi từ từ đặt chân vào thành sắt của giường, từ từ đặt mình xuống bàn, hoặc đặt mình lên giường, vậy mà chiều hôm sau, đi về, thấy các dấu chân của cán bộ, huynh trưởng ác ôn, dùng mũi giầy chà qua chà lại làm cái sàn lại dơ, tim như nghẹt lại, nước mắt chẩy ra chan hòa! Lại phải thức khuya làm vài ngày nữa. Trong khi ấy thì bị phạt… Hoặc vác súng M.14 chạy 1 vòng 1 dặm, hoặc đi thao diễn cơ bản 10 vòng quanh sân, hoặc trồng chuối ngược trên sân đá răm, hễ rớt chân xuống là cái đầu gối đập vào mỏm đá, thì chẩy máu be bét…Nhẹ nhất là hít đất từ 50 cái lên đến 100 cái…

Nói chuyện chà bóng sàn nhà, bàn giấy mà không nói đến đánh bóng giầy và búp nịt thì thiếu sót lớn. Giầy bốt đờ sô của Mỹ là loại da bò dầy cui, lồm xồm, vậy mà phải đánh bóng thế nào cho đến khi cấp trên đến đứng trước mặt mình, cúi nhìn xuống, thấy cặp mắt của hắn nhìn lên! Nếu nhìn thấy mắt mà không rõ nét, thì bị tay kia lấy đế giầy của hắn đè lên chân mình mà day day…rồi ra lệnh đánh lại! Búp nịt cũng thế! Phải sáng choang hơn lư đồng ngày Tết, phải phản chiếu cái búp nịt của cấp trên như hai cái gương đối nhau. Áo trận có cái nẹp gài nút, phải thẳng tuốt từ trên xuống dưới, chạy đúng qua đường thẳng của cái búp nịt, xuống cửa quần… là một đường thẳng băng. Lỡ quay qua quay lại làm lệch cái đường áo với đường cửa quần là.. toi mất một buổi tối không được nghỉ ngơi mà chịu phạt.

Tôi nhớ một buổi sáng, tên SVSQ Đại Đội Trưởng (cũng là do huynh trưởng chỉ định), đứng giữa sân, đọc nhật lệnh. Bốn trung đội chúng tôi đứng thành hình vuông. Tay SVSQ/ĐĐT kia đang cầm hồ sơ đọc cái gì đó, thì bị một tên huynh trưởng đến đứng trước mặt, tò mò nhìn xuống mũi giầy của tên đang đọc, không nhìn thấy mắt hắn, liền ra lệnh cho tên SVSQ/ĐĐT kia cúi xuống tháo giầy ra để bên cạnh, rồi bắt cởi áo, bỏ xuống, đến cởi quần ngoài, rồi áo thung, rồi quần xịp….đứng trần truồng giữa sân!

Chưa hết, tên huynh trưởng bắt tên truồng này cầm bản nhật lệnh lên tiếp tục đọc. Bọn tôi nghiến răng lại, cắn môi đến bật cả máu ra, không dám cười, không dám liếc vì nếu nhúc nhích một chút mà bị bắt thì cũng lại phải cởi quần áo ra, đứng phơi giữa trời…thay thế cho tên kia. Hình ảnh tếu lâm này, tôi nhớ mãi không bao giờ quên.

………………………………………….

3. Lên huynh trưởng và hành xác

Sau 12 tuần huấn nhục, tôi đã được lên huynh trưởng, hãnh diện đeo lên cổ áo và cầu vai dấu hiệu (insignia) có 3 chữ tắt “O.C.S.” bằng đồng vàng trên nền nhung xanh da trời, khác với dấu hiệu của đàn em là nền nhung đen. Từ giai đoạn này, chúng tôi không còn bị hành hạ nữa, và được tôn trọng như một Sĩ Quan. Ngày đánh dấu lên huynh trưởng rất quan trọng bằng một cuộc Party lớn.

Một phong tục lạ với chúng tôi là để chuẩn bị cho cuộc party này, các SVSQ được mời các em độc thân ở ngoài phố vào chơi và “blind dating” (cặp bồ không biết mặt!) Một SVSQ đại diện đi hỏi hết 240 SVSQ về hình dáng, cơ thể của từng người, tóc đen hay đỏ, và hỏi xem muốn cặp với thiếu nữ loại nào, cao bao nhiêu, tóc vàng hay tóc đen….rồi gửi danh sách ra ngoài thành phố, để tuyển người tình nguyện cặp bồ trong một đêm thôi, vì sau Party chấm dứt, các SVSQ có quyền dẫn bồ ra khách sạn hoặc đi đâu đó tùy ý, sáng mai trở lại trường, phờ phạc!

Khi được ngỏ ý, chúng tôi từ chối liền vì nghĩ rằng “chắc toàn là gái gọi, lây bệnh chết ngắc!” Biết được nhóm An-nam-mít này từ chối, Ông Đại Úy Đại Đội Trưởng mời chúng tôi lên và hỏi ý xem có thích “cặp bồ” với người Mỹ không? Nếu không, thì ông sẽ gửi thư mời các nữ quân nhân, trợ tá.. Việt Nam đang thụ huấn tại các quân trường khác đến chơi…Trong khi anh em còn đang phân vân, tôi nói lời cám ơn với ông, và từ chối vì phong tục Việt Nam chúng tôi không cho phép làm như vậy.. (Bây giờ, nhớ lại thấy.. tiếc hùi hụi! Được đi chơi đêm với một thiếu nữ cùng quê hương là một giấc mơ tuyệt vời, vậy mà từ chối! Trời ạ!)

Sự thật chứng tỏ chúng tôi đúng là con “cù lần” mà là “cù lần lửa”! Buổi tối đó, các xe nhà binh rần rần chở các em đẹp ngây ngất bước xuống, mỗi người mang một bảng tên của SVSQ chọn mình lên áo. Các em 18, đôi mươi, già nhất chưa tới 30, thân thể no tròn, mắt long lanh, môi tươi hơn hoa hồng, và đều là sinh viên, công chức, tư chức….nhưng là dân chịu chơi, mê sĩ quan.

Các cô nháo nhác tìm tên của người chọn mình, rồi tiến lại ôm nhau như đã từng quen từ kiếp trước. Trong khi các SVSQ Mỹ tán hươu tán vượn, nhẩy đầm tưng bừng, thì nhóm Việt chúng tôi đứng nhìn, thèm chẩy nước miếng. nhất là sau khi party tàn, “chúng nó” kéo nhau ra khách sạn đã đặt phòng sẵn, 18 thằng chúng tôi nằm dài trên giường, nhắm mắt, tưởng tượng, buồn và giận mình ngu cho đến hết đêm…

Sau đêm đó, cứ cuối tuần, chúng tôi oai phong đi dạo phố. Theo luật, hễ đàn em mà gặp đàn anh ngoài phố thì không phải xin phép để đi qua như trong trường, nhưng phải nép mình sang một bên đường, và giơ tay chào. Nếu đàn em đi với gia đình, hay với đào, thì phải bảo người đi theo xếp hàng một sau lưng tên đàn em, khi đi ngang đàn anh, đàn em phải giơ tay chào và nói, “Good Morning, Sir!” Hôm đó, tôi đang đi lơn tơn, thấy một tên đàn em Mỹ trắng bóc, to kềnh, đi với bố mẹ và em gái. Hắn nhìn thấy tôi rồi tảng lờ quay đi. Tôi hùng hổ tiến lại, quát to,

“Ê, Sinh Viên kia! Đứng lại. Cấm cử động!” (Hey! Candidate! Stop right there! Don’t move!.” Tên kia lúng búng quay lại. Tôi tiến sát hắn, mặt tôi gần mặt hắn đến chỉ còn 1 inch nữa là đầu mũi tôi chạm vào đầu mũi nhọn hoắt của hắn, và gầm lên,

“Mày coi thường tao phải không? Mày thấy tao là dân Á Châu, mày kỳ thị hả? Sao mày không chào tao?”

Tên kia sợ quá, lắp bắp, “Không! thưa Ngài! Không! thưa Ngài! Tôi.. tôi…” (No, Sir! Sir! I.. I… don’t.. I.. .I…)

“Bây giờ mày có muốn bơm 50 cái hít đất trước mặt bố mẹ mày không? Thằng ngu kia?”

Tên đàn em vội trả lời, “Thưa Ngài, chào, chào!” rồi quay lại với gia đình, ra hiệu cho 3 người kia đang trố mắt ra nhìn thằng con bị hành, đứng thành hàng một sau lưng hắn, rồi nghiêm phắt lại, giơ tay chào tôi, và nói lớn,

“Good morning, Sir!”

Tôi gật gù, nói nhỏ giọng,

“Hôm này mày may mắn đó, tao tha tào, không bắt mày làm 50 cái bơm trước mặt bố mẹ mày đó! Mày có cám ơn tao không?”

Hắn vội vã, nói to, “Dạ, thưa Ngài, xin cám ơn Ngài. Chúc ngài mọi chuyện tốt đẹp!” (Yes, Sir! Thank you, Sir. Wish you the best!) rồi đi ngay, người thẳng băng, không dám quay lại. Tôi khoái chí, cười tủm một mình.

Với chính sách “đàn anh đì đàn em” thả giàn, làm cho những hình phạt hành hạ nhục nhã mất nhân phẩm như vậy mỗi ngày mỗi tăng, vì lớp này bị đì 9 phần, thì khi làm Huynh trưởng, lại tìm cách trả thù thêm thành 10 phần. Như cá nhân tôi, sau 12 tuần làm đàn em, thì đến tuần thứ 13 làm đàn anh, và kiếm cách hành thằng mới tới.

Hôm đó, ngày thứ Hai, theo tục lệ, mà tất cả những SVSQ vào trường đều phải gọi là “Blue Monday”, nghĩa là “Ngày Thứ Hai Buồn”, chúng tôi là đại đội đàn anh, hẹn nhau đúng 3 giờ sáng, lặng lẽ thức dậy, mặc quân phục chỉnh tề, lặng lẽ bước sang đại đội đàn em đang say ngủ, cứ một huynh trưởng đứng trước một phòng. Đúng 4 giờ sáng, đột nhiên chúng tôi lấy cả bàn tay đập cửa rầm rầm, hò hét vang trời,

“Dậy! Dậy! Đồ đầu lừa! Dậy mau!”

Đàn em đang ngủ say, giật mình dậy để thấy Thiên lôi, Hà bá đứng trợn mắt nhìn, thì hoảng hốt vùng lên. Tôi quát lớn,

“Thằng khốn này! Mày cởi quần áo ra mau! Tao không muốn thấy mày mặc quần áo!”

Tên kia lập cập tụt quần đùi, cởi may ô đứng tồng ngồng nhìn tôi, sợ hãi. Tôi quát,

‘Mày lấy kem đánh răng ra đây! Bóp hết hộp kem này lên người mày! Bôi vào.. chỗ kín kia thật nhiều! Mau! Mau!”

Đàn em cuống quít làm theo. Thấy người hắn đầy bọt trắng xóa, tôi đuổi ra ngoài,

“Mày dơ dáy quá! Đi tắm!”

Rồi tôi bắt hắn bò giữa hai chân tôi đến phòng tắm. Tới nơi, tôi mở vòi nước lạnh xịt lên người hắn. Tên kia rú lên,

‘Thưa Ngài, lạnh quá! Lạnh quá!”

Tôi gằn giọng,

“Lạnh hả! để tao đổi nước nóng!”

Tôi bắt hắn nằm chống tay xuống sàn tồng ngồng như con heo bị cạo lông, rồi xả ngay vòi nước nóng vào lưng. Tên kia gào lên,

“Ngài ơi! Nóng quá! Cháy! Cháy !”

Tôi lại tắt nước nóng, mở nước lạnh, làm mấy lần thì tên kia vật ra, thở hổn hển. Tôi ra lệnh cho hắn về phòng. Đứng trước giường, tôi quát,

“Mày leo lên đây nằm, mà tao không muốn nhìn thấy mặt mày trên giường, mày làm sao thì làm!”

Tên kia suy nghĩ, rồi vội vàng lật tấm nệm lên, chui vào nằm trên.. mớ lò xo, rồi đậy nệm lên, che người đi. Đứng từ xa, tôi hô lệnh, “Đằng sau, quay!” Tên đàn em lập cập xoay người dưới tấm nệm, bị lò xo nghiến thịt, đau quá, khóc òa lên. Thấy mình quá trớn, tôi cho hắn đứng dậy, ra ngoài hành lang, rồi bắt thêm 5 tên nữa, là 6 tên, ra lệnh cho cả 6 đàn em trần truồng hết, lôi cái hòm gỗ ra, xếp hai bên hành lang, mỗi bên 3 cái, cho 2 tên đàn em leo lên đứng, làm bộ đám cưới, bắt 2 cô dâu chú rể mặc đồ Adam, Eva kia cặp tay nhau đi đi lại lại, còn 4 mạng kia thì hát bài Wedding, “You by my side….” Tôi hành đàn em cho đến gần sáng thì mới tha Tào.

Thật ra những trò chơi ác này vô hại, trong khi bạn tôi, hồi mới vào, bị ngày “Blue Monday” này hành hạ đến bệnh nặng. Mấy tay huynh trưởng bắt cả nhóm SVSQ đàn em, trong đó có bạn tôi, trang bị đầy đủ, ba lô, mũ sắt, chạy ra sông cạn gần đó, bắt nhẩy xuống, lúc mặt sông lạnh gần đóng băng vào giờ 30 sáng, ngoài trời lạnh khoảng 40 độ. Cả toán nhẩy ùm xuống sông, lóp ngóp như rái cá một lúc mới được cho lên, tên nào tên nấy mặt cắt không còn hột máu, trở về trại là bệnh cả đám.

Ở quân trường này mà khai bệnh lại còn khốn hơn. Cá nhân tôi, có một lần cảm lạnh, khai ốm để ở nhà, rồi cạch luôn đến khi ra trường, không dám ốm lại. Buổi sáng ấy, chờ đại đội chạy đi học rồi, thì ông Thượng Sĩ đưa cho tôi một cuốn sổ bệnh, bảo tôi chạy lên bệnh xá ở trên đỉnh đồi, cách đấy hơn 1 dặm! “Chạy! Không được đi, nghe chưa!” và tôi chạy lên đồi cao, tới nơi thì gần tắt thở, ngồi chờ cả nửa tiếng mới gặp Bác Sĩ, nghe tim chớp nháng, rồi đuổi tôi về với mấy viên thuốc cảm. Chạy trở về, tim đập như trống làng, trình lại cuốn sổ bệnh, ông Thượng Sĩ hất hàm bảo,

“Mày xuống dưới hầm, thấy một cái thùng rác to, mày khiêng lên đây cho tao!”

Tôi đi xuống hầm, gần 20 bậc thang, nhìn thấy một cái thùng rác xanh đầy ắp, to cao y như thùng rác hiện tại của mỗi gia đình Mỹ, đột nhiên lạnh cả người. Nhưng biết làm sao, phải ôm lấy nó rồi vần dần dần từng bậc lên, hết 20 bậc thì lăn ra nằm thẳng cẳng. Một lúc mới tỉnh dậy, ráng ngồi lên, vần cái thùng rác đó ra chỗ chờ xe đổ rác (thùng rác không có bánh xe).

Không thấy xe rác đâu, tôi để thùng rác đó, lết tới văn phòng ông Thượng sĩ, ông ta nói, “Không có xe rác à! Không được để đó, sĩ quan đi tuần thấy, phạt. Mày phải vần nó trở lại dưới hầm!” Tôi chết lặng người, chân nhũn ra, nhưng vì không có lựa chọn, đành lê lết lại cái thùng rác khốn nạn kia, vừa ôm nó lăn đi, vừa chửi thề, “F. you! F. you!” vừa khóc lặng lẽ.

Lăn cái thùng rác vào chỗ cũ xong, thì chính mình cũng lăn quay. Tôi nằm thở hồng hộc một khoảng thời gian, thì thấy nhẹ người, mồ hôi toát ra đầy mình, ướt hết cả quần trong, quần ngoài. Đứng dậy về phòng, thay quần áo xong, chẳng cần uống thuốc mà hết cảm! Lúc đó mới biết đó là phương pháp giải cảm tuyệt vời của quân trường. Nhưng chỉ tốt với ai không bị bệnh tim mà thôi. Tên nào yếu tim mà theo học ở đây, thì chỉ có chết!

4. Tập thể lực

Chúng tôi nhỏ con hơn mấy tên Mỹ, có một bạn tôi, cao chỉ đến nách một tên Mỹ thôi, nhưng cũng ráng theo cho kịp, kẻo bị làm nhục. Ngoài việc hít đất từ 50 cái trở lên đên100 cái, tập đu và hít trên xà ngang 20 cái trở lên, việc tập thể lực trước hết là chạy, chạy lên thang gác, chạy xuống lầu, chạy đi cầu, chạy đi học, chạy đi ăn…không bao giờ đi bộ, chạy riết rồi hai cái đầu gối muốn long ra. Sáng, trời Fort Benning lạnh cắt ruột, mà phải ở trần, vác những cây gỗ dầu dài khoảng 5, 6 mét, đường kính cả 30 cm, vác lên vai, để xuống đất cả chục lần.

Leo thang dây theo tiếng còi, nhẩy qua các thanh gỗ ngang cao hơn một mét (lần đầu tôi nhẩy không qua,  cái chỗ “ấy” bị đập vào thanh gỗ, đau thấu trời xanh, té xuống, nằm thẳng cẳng. Tên nào lùn, nhẩy không qua thì phải chui theo tiếng chửi!), tập leo tường, đu dây tử thần từ đỉnh núi nọ qua đỉnh núi kia, dây kinh dị, tập leo núi, tuột núi, chạy qua đống vỏ xe (mỗi chân thọc vào một cái lỗ vỏ xe cồng kềnh). Tập cận chiến, tập đánh nhau bằng gậy.

Lần đánh nhau bằng gậy này cho tôi nhiều kỷ niệm. Không hiểu sao, một tên người Puerto Rico, (tên chạy nhanh kỷ lục, chỉ có 6 phút một dặm, trong khi tôi cần 10 phút, các bạn Mỹ khác từ 9 đến 12 phút.) lại gây với tôi. Hắn nói, “Tao chán cái dân tộc Việt Nam của mày. Tao không muốn chết ở Việt Nam!” thế là tôi nổi điên, lôi nó vào chỗ tập, thách nó đấu gậy với tôi, vì nghĩ rằng thằng này dám khinh dân tộc mình. Ai dè, hắn nhanh như sóc. Tôi vừa mới thủ gậy, chưa kịp vung lên, là hắn đã quất tôi một cái nháng lửa vào đầu. Tôi xiểng liểng, nhưng cố phóng tới chọc gậy vào bụng hắn. Lần này hắn dọng tôi một cú vào mồm, làm dập miệng và lợi, máu miệng bắt đầu phun ra. Tôi hung lên, quất túi bụi, trái phải, trên dưới như thằng điên, mà quên rằng nếu hắn đã là vô địch chạy nhanh, thì cái gì cũng nhanh. Hắn chỉ trúng đòn vài chỗ không quan trọng, còn tôi thì máu me tung tóe, máu mắt, máu tai, máu mồm chẩy đầy ngực. Thấy tôi chẩy máu quá nhiều, tên này đâm sợ, nó ngưng gậy và nói, “thôi, tao không đấu với mày nữa!” nhưng lúc ấy, tự ái dân tộc nổi lên, tôi cứ gào lên và xông vào,

“F. you! Tao đánh mày đến chết thôi, ai bảo mày dám khinh dân Việt tao!”

Nhưng mỗi lần nhào vô, là người tôi lại bị hắn quất bung lên như trái banh trong Baseball vậy! Trái  banh hơn 100 lbs tôi bắn ra cả thước! Người tôi nhễu nhão, máu me nhưng cứ cố gượng đứng dậy, xông vào nữa, miệng lảm nhảm, “F. you! I ….kill… you…” Thấy tôi lì quá, tên Puerto Rico kia đâm sợ, hắn quỳ xuống, chắp tay lạy tôi mấy vái, “Tao lạy mày rồi! Mày dữ như cọp ấy!”

Lúc đó, tôi mới buông gậy ra và ngồi phịch xuống cho bạn bè kéo lê đi tắm… Sau trận này, mấy tay Mỹ kia đặt tên tôi là “Tiến Cọp!” và bảo nhau, “Đừng đụng đến thằng Tiến Cọp. Nó điên rồi!” (Don’t touch Tien Tiger! He’s crazy!)

Thú thật, vì là du đãng, dù là du đãng vặt, tôi rất lì. Một buổi sáng, đang sắp hàng chuẩn bị đi học, không hiểu sao, tay Thiếu Úy Trung Đội Trưởng Trung đội 6, (tôi thuộc Trung Đội 5) đi ngang qua tôi và bật lên câu nói, “Tao chán mấy cái thằng Việt Nam chúng mày!” (I’m tired of your Vietnamese!)

Rồi quát lớn, “Nằm xuống, chống tay vào thế, bơm 50 cái!” Tôi hận quá, nằm xuống vừa hít đất vừà chửi thề nho nhỏ,

“One, Sir! Fuck you, sir! Two, Sir, Fuck you, Sir….”

Cứ thế mà tôi làm cả 100 cái rồi hết pin, nhưng vẫn chống tay vào thế. Lúc đó, đại đội bắt đầu đi học, Tay Thiếu Úy kia kêu tôi “đứng dậy! đi học!”, tôi tỉnh bơ, cứ chống tay, thỉnh thoảng hít một cái, “One hun…dred… and… five… sir!” Tên kia gọi mấy lần, tôi cũng không đứng dậy, mặc cho cả đại đội kéo đi rồi. Ông Đại Đội Trưởng nghe báo cáo, vội chạy ra, ngồi xổm xuống, hỏi tôi,

“Sao anh không đi học!”

Tôi gầm gừ,

“Thưa Ngài, ông Thiếu Uy kia nhục mạ dân tôi, tôi sẽ hít đất đến khi nào chết thì thôi.”

Ông ĐĐT nghe nói đến chữ “chết” thì lo quá, hỏi,

“Thế… thế .. anh muốn gì thì mới đứng dậy, đi học?”

“Tôi.. tôi.. muốn ổng xin lỗi dân tộc tôi…”

Ông ĐĐT đứng dậy, quát anh Thiếu Úy kia,

“Nghe rõ chưa? Làm được không?”

Tay Thiếu Úy bị Đại Úy la, đành phải ngồi xổm xuống, cạnh tôi, nói thật to,

“Tao xin lỗi mày, thằng Việt Nam kia!” (I’m sorry, Vietnam!) xong rồi bỏ giọng, chửi tôi thật nhỏ, “Fuck you!”

Tôi thấy chơi tới đây cũng đã đủ rồi, bèn run rẩy đứng dậy, chào ông ĐĐT rồi liểng xiếng lê thân đi học, nhưng không chạy. Ông ĐĐT thấy tôi đi bộ, cũng chẳng nói gì, mà bỏ vào trong. Tên Thiếu Úy chạy ngang tôi, quay lại chửi thêm lần nữa, “Fuck you!”

Tôi nhe răng cười.

Cùng với các môn cận chiến, chúng tôi tập bò trên bùn, dưới đạn đại liên, đạn thật, bắn xéo xéo trên đầu, tên nào ngóc đầu lên một chút là vỡ sọ ngay, nhưng không cái nào ghê bằng bò trong ống cống bằng thép! Cái ống cống để giữa trời, dài hàng mấy trăm mét, đứng ở đầu này nhìn đầu kia nhỏ như hòn bi, chỉ vừa đủ một người chui vào với súng, đạn, ba lô. Vừa chui vào, nhìn thấy lỗ ra hun hút bên kia, đã thấy sợ, nhưng không ớn bằng những tiếng hò la bên ngoài, và những cục gạch, đá ném tới tấp vào ống cống.

Trong khoảng không gian nhỏ xíu đó, tiếng đá, gạch đập vào thành sắt còn to hơn tiếng bom, người bò sợ hãi ráng bò thật nhanh, nhưng không thể được vì vướng cây súng ngang tay, lại không thể bò lùi, chỉ biết nhắm mắt mà lê lết cho đến khi chui ra khỏi cống thì như người chết rồi, lỗ tai lùng bùng, tim đập mạnh, đầu óc hoảng hốt gần như phát điên, bạn bè chờ sẵn lôi xềnh xệch ra vòi nước lạnh…

Thật ra, những cái tập thể lực này chả thấm gì với đòn tâm lý. Hôm đó, sau khi ăn cơm chiều, đột nhiên có lệnh là tối nay không được ngủ, chỉ đứng và chỉ đứng bằng 2 chân bằng nhau, cấm đứng 1 chân (1 chân thẳng, 1 chân cong), không được dựa vào bất cứ điểm tựa nào, nghĩa là lưng không dựa tường, bụng không tựa vào bàn, ghế, cầu tiêu… Trường thông cảm cho các SVSQ là được uống 1 ly cà phê đen, không đường, và chỉ 1 ly thôi. Đêm hôm đó là đêm kinh hoàng nhất trong đời, ban ngày tập như điên, cơ thể rã rời mà tối không được ngủ và không được nói chuyện! Đến nửa đêm, nhìn trong mắt nhau, đều thấy chung một điều, Chết, sướng hơn!

Mặt trời lên, tưởng bở là được nghỉ, ai dè lại nghe tiếng còi tập họp, không ăn sáng, chạy ra bãi, vác gỗ lên xuống như tập tạ! One, Sir! Two, Sir! Three, Sir!… Lúc đó, chỉ là cái xác không hồn! Mãi cho đến 11 giờ, nghe lệnh chạy đi ăn cơm, thì ôi thôi, y như lên Thiên Đàng, xơi luôn 2 hộp sữa tươi, 2 quả chuối, 2 trái táo, và một miếng thịt to đùng!

Tuần thứ 11 là tuần lễ ghê nhất, chạy 12 dặm (18 cây số) với đầy đủ súng đạn, balô, xẻng, mùng, lều bạt, cân nặng đúng 30 lbs. Chạy dặm đầu tiên thì còn đếm nhịp, One, two, three, four.. nhưng đến dặm thứ hai thì câm hết. Dặm thứ 3 là hổn hển. Thứ Tư thì phì phò như trâu thở. Thứ 5, thứ 6 thì vừa chạy vừa đi.. đến dặm thứ 10 thì ngã dúi dụi trên đường, súng một nơi, người một nẻo, 2 dặm cuối thì bò như chó bị thương…bò một lúc lại nghỉ, thở, rồi bò tiếp để khỏi bị chửi. Mấy sĩ quan ngồi xe díp đi theo sát bên,  hò hét, “Thằng ngu kia! Chạy đi! Đồ đầu trâu, đít chó! Mày có là người không? là người thì phải chạy… Đồ con lừa!”

Có mấy mạng chạy không nổi, giơ tay xin đầu hàng, thì được đứng dậy, và treo vào cổ cái tấm biển đề chữ, “Tôi là thằng hèn nhát!” (I am a coward!) rồi được thất thểu đi bộ, nhục nhã… Còn tôi, nghiến răng bò bằng hai bàn tay, và hai đầu gối, mãi đến chiều thì cũng tới địa điểm tập họp là một khu rừng hoang. Tại trung tâm, các sĩ quan cán bộ ngồi quanh một cái bàn gỗ dài, chia nhiệm vụ cho từng trung đội, kéo dài theo hình ngôi sao 6 cánh. Mỗi trung đội kéo dài thành một đường từ trung tâm tỏa ra. Trung Đội Trưởng chia vị trí cắm lều, mỗi lều 2 người và phải đào 2 cái hố cá nhân và có rãnh thoát nước mưa.

Tại đây, tôi lại phạm một lỗi lầm quan trọng có thể bị đưa ra tòa án quân sự, cố tình giết người! Tôi được chia ra cắm lều ở điểm cuối cùng của cánh sao, nghĩa là từ chỗ tôi tới trung tâm là phải qua 19 cái lều khác, và lều của tôi lại chỉ có một người, thằng bạn được chỉ định cùng lều với tôi, khi chạy đã gẫy xương ống quyển, phải chở vào bệnh viện, nên chỉ mình tôi dựng lều, đào rãnh, đào hố!

Chuyện bắt đầu từ tên SVSQ Trung đội Trưởng, thằng to con nhất trung đội. Nó kỳ thị tôi, nên đứng ngay tại trung tâm điểm, gào to, “Tiến! Mày đi chặt cây làm củi đốt lửa cho trại!” Tôi đang đào hố, chống cuốc lại và gào đáp, “Lều tao chỉ có một người. Thằng bạn lều tao đi bệnh viện rồi. Mày kêu thằng khác đi!” Nó không nghe, ngoắc ngoắc ngón tay, “Tao ra lệnh, mày phải nghe!” Tôi gào lớn, (cũng vì gào to mà tôi thoát tội!), “Mày kêu thằng nào ở gần đó đi, lều nào có 2 người đó. Tao chỉ có một mình, mà phải dựng lều theo lệnh Sĩ Quan, không theo lệnh mày được!”

Tên khốn kia không thèm nghe lý luận của tôi, cứ ngoắc ngoắc, “Mày phải lại đây! Ngay bây giờ! Tao không cần biết mày 2 người hay một người. Tao bảo mày phải tuân theo! Mày phải lại đây ngay! ” (Come here! Now! I don’t care two or one man! I told you do something, you do that! Come here!) Bất ngờ, tôi lại nổi cơn điên, gào lại, “O.K! I come!” rồi cầm cái xẻng hầm hầm tiến lại. Vừa tới chỗ hắn đứng, tôi vung xẻng lên chém vào cổ hắn liền, nghe cái “bụp!”

Mấy tay Quân Cảnh đang đứng theo dõi cuộc cãi lộn, vội nhẩy vào, đè tôi bẹp xuống đất, rồi lấy còng số 8 ra còng tay tôi liền. Nhưng mấy ông Sĩ Quan đã theo dõi từ đầu, biết là thằng kia quá trớn, nên ra lệnh cho Quân Cảnh thả tôi ra, cũng vì tên kỳ thị kia không việc gì, Hắn mặc áo lạnh quân đội, cổ áo có bông dầy cui, nên chiếc xẻng của tôi không làm hắn rớt đầu chỉ làm hắn ngã ngửa! Từ sự việc này, toàn thể đại đội nhìn tôi như thằng điên, không ai dám kỳ thị tôi nữa.

…………………………………

Tranh Chu Tất Tiến vẽ trên tường, ngay trước cửa phòng SVSQ. 

5. Học tập

Trường O.C.S là quân trường lớn thứ hai trên toàn nước Mỹ, sau West Point nhưng lại là quân trường đổ mồ hôi nhiều hơn West Point. So sánh một cách đơn giản, West Point là trường dành cho giai cấp quý phái, còn O.C.S Fort Benning là trường dành cho giới bình dân, nông dân. Tuy SVSQ tại 2 quân trường đều tốt nghiệp Thiếu Úy, nhưng tại West Point, SVSQ được học những môn sang trọng, xã giao cao cấp, lãnh đạo chỉ huy và các chuyên viên trong mọi ngành quân sự của Mỹ trong 4 năm, trong khi O.C.S chỉ học gấp rút trong 6 tháng để rồi quăng vào Việt Nam, đánh nhau chết bỏ.

Điều khác nhau nữa là trường West Point là trường gồm các thanh niên tình nguyện, trong khi O.C.S. gồm các thanh niên bị gọi động viên và một số tình nguyện, vì thế mà trình độ học lực của các SVSQ O.C.S khác nhau xa, có thể chưa qua Trung Học, và cũng có thể là Cử Nhân, Kỹ Sư, Giáo Sư.

Tại Fort Benning, SVSQ được học đủ thứ vũ khí, trang cụ hạng nặng nhưng học gấp rút. Tôi được học lái xe tăng, lái xe lội nước, tập đeo ba lô súng đạn rồi nhẩy không dù từ trực thăng xuống đất, học bắn đủ loại đại bác, từ 105 ly đến 155 ly, được xem biểu diễn bắn 175 ly mà một viên đạn cần đến 6 người khiêng, cùng các loại vũ khí tối tân.

Chúng tôi bắn đại liên M.60 như cao bồi, nghĩa là đứng thẳng, tỳ báng súng trên đùi, rồi bóp cò. Sức giật của đại liên làm mấy thằng nhỏ con Việt Nam té bật ngửa, đạn bay lên trời.. Với súng đại liên 50 thì phải đứng dưới hố mới bắn được, vì sức giật của nó làm cho người khỏe đến đâu cũng té ngửa.

Sau này, khi cuộc chiến Việt Nam tàn, suy nghĩ lại về vũ khí và cách huấn luyện, tôi mới thấy rằng NGƯỜI MỸ KHÔNG BAO GIỜ MUỐN THẮNG TẠI VIẾT NAM, mặc dù bề ngoài thì muốn thắng ở Việt Nam, vì trên bức tường nào cũng có hàng chữ khổng lồ “WIN IN VIETNAM”, và trên cặp sách đi học cũng có hàng chữ ấy. Trên đường chạy đến lớp học, chúng tôi hát những bài quân hành đều nói về chiến tranh Việt Nam, “Vietnam á a à a. Vietnam á a à à. Anh đi đâu thế? Tôi đến Việt Nam! Đến Việt Nam hả! coi chừng du kích. Khi anh ngủ, chúng nó bò vào, cắt cái đầu anh!” (Where are you going? I come to Vietnam. Be careful, when you sleep, VC come and chop your head… á a à a…)

Các bài khác nói về muỗi, mòng và cạm bẫy của du kích. Những bài hát ấy làm cho SVSQ Mỹ ớn lạnh. Bên cạnh đó, có những bài học về Du Kích Chiến (Guerilla Warfare) được giảng rất cẩn thận. Về thực tập, Quân trường đã làm sẵn những làng y hệt ở Việt Nam, cũng mái tranh, cũng tre vây quanh, cho Mỹ đóng giả du kích mặc áo nâu, đội nón lá. SVSQ Mỹ phải hành quân y như thật, kẻo bị VC (giả) bắt được thì nhừ đòn. Một anh bị VC bắt, bị đè xuống đất, tay chân bị cột vào cọc, mấy thằng VC tiểu vào mồm! Một anh bị trói úp vào cây, cho kiến cắn. Anh bạn Việt Nam của tôi, ngủ gật khi đang gác, bị chúng lôi đi xa, rồi cột hai tay vào thành trên của xe cam nhông, phóng đi trong rừng, tung lên tung xuống, người rã ra.

Sau đó, chúng thả anh về, nhưng lấy mất giây giầy, và nước uống, buộc anh phải lê lết trong rừng gai cả nửa ngày mới về. Còn tôi, một lần nhận nhiệm vụ làm liên lạc viên, theo địa bàn, đi xuyên rừng tre chằng chịt, mới đầu thì còn thưa, càng về sau càng kẹt, vì tre dầy đến nỗi tôi bị kẹp cứng giữa ba, bốn thân tre, không xoay sở được, hết hồn hết vía! Phen này chết đói, chết lạnh và chết vì kiến càng cắn! Kiến ở đây khổng lồ, chích một phát là nhẩy dựng lên, la trời. Đứng một lúc lâu cho hết sợ, rồi mới từ từ rút cây mã tấu đeo bên hông ra, cưa chầm chậm cả tiếng đồng hồ cho một thân tre gẫy xuống rồi mới cử động được cánh tay, rồi vung mã tấu chặt bừa, kiếm được lối mòn ra đường cái.

Trở lại về vấn đề vũ khí chứng tỏ là người Mỹ không muốn thắng ở Việt Nam mà chỉ muốn xài lính Cộng Hòa như những vật thí nghiệm. Năm 1968, chúng tôi đã bắn M.16 muốn gẫy cả tay. Một ngày tập trận phải mang theo trong ba lô 600 viên đạn mã tử, và phải bắn cho hết. Vì ba lô chứa rất nhiều thứ, nặng hơn 20 ký lô, nên tôi chỉ bắn một phần còn lại thì lén đào lỗ, chôn bớt! Vậy mà ở trận Mậu Thân, lính Việt Nam vẫn phải bắn Garant M.1, bắn phát một, đến sau khi nhiều thành phố bị Việt Cộng chiếm bằng AK 47, liên thanh của Nga, có khả năng bắn vài chục viên một phút, Mỹ mới chở sang M.16 mà chỉ cho các đơn vị trừ bị như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến thôi. Mãi sau mới hoàn toàn trang bị cho miền Nam súng M.16. Phải chi những năm 1960-1965, Việt Nam được trang bị súng trường M.14 như SVSQ Mỹ thì cuộc diện cũng có thể thay đổi. Hồi đó, vũ khí cá nhân mà tôi mang theo suốt thời gian quân trường là súng trường M.14, lúc súng không đạn thì nặng 4.1 ký lô, có lắp đạn là 10 kí lô, bắn liên thanh 20 viên, khi đặt xuống đất, kéo càng ra, là thành trung liên, lợi hại hơn AK 47 vì tầm sát hại mạnh hơn, bắn xa hơn, và chính xác hơn. M.14 cũng có thể dùng làm súng bắn xẻ vì tầm bắn xa trên 800 mét, tối đa là 1,200 mét.

Về súng cối, mỗi ngày một anh SVSQ Mỹ phải bắn 6 quả 4.2 inch khổng lồ. Loại súng cối này có thể bắn qua nóc nhà, rừng cây qua bên kia rất chính xác, và có thể để trên xe M.113 di chuyển, nhưng ở quê nhà, vẫn chỉ có súng cối 81, nhiều đơn vị vẫn phải dùng súng 60 ly là loại súng mà chúng tôi bắn chơi như cao bồi, tỳ đế lên đùi, một tay cầm nòng súng, một tay thả quả đạn vào và bóp cò.

Khi Việt Cộng tấn công các đồn bót miền Nam bằng B.40 hoặc B.41, thì đa số các đơn vị miền Nam vẫn còn dùng Bazoka, các SVSQ Thủ Đức vẫn học cách bắn Bazoka từ thế chiến thứ nhất! Sau này, Quân Đội Cộng Hòa mới có M.72 để chống lại B40, B 41. Riêng M.72 cũng có tác dụng bắn hạ các xe tăng loại nhẹ của Liên Xô, nhưng đến khi miền Bắc được tăng cường T-54 thì miền Nam khựng lại vì M.72 không xuyên thủng được lớp thép dầy của T-54, 80 mm hai bên thành xe, 30 mm trên nóc và 20 mm ở đáy.

Do đó trong các trận chiến sau này, đặc biệt là ở An Lộc, khi T-54 lùi lũi tiến vào thì các chiến sĩ miền Nam phải thay đổi cách đánh, bắn đứt xích T-54 bằng M-72 rồi xông ra, cận chiến. Các chiến sĩ anh hùng miền Nam đã phải dùng chính thân mình làm vũ khí để chống lại xe tăng hạng nặng của phe Cộng Sản quốc tế. Trong khi đó, cùng năm 1968, tôi đã được bắn hỏa tiễn XM-202 là khắc tinh của T-54! Loại hỏa tiễn để trên vai này, có 4 nòng, mỗi quả đạn 66mm, có thể xuyên thủng lớp thép 80 mm của Nga, rồi phóng thêm một quả đạn lửa vào bên trong. XM-202 cũng có thể bắn đạn chống biển người, cả hàng ngàn mũi tên thép bay ra một loạt thì một đại đội địch chỉ phút chốc là biến mất.

Nếu XM-202 mà được sử dụng ở An Lộc, Bình Long, thì không có những trân Xuân Lộc sau này. Đau lòng thay là mãi đến năm 1973, sau khi Việt Cộng đã lấn đất, giành dân nhiều nơi rồi, các SVSQ Thủ Đức mới được học loại hỏa tiễn này, và cũng không biết có bao nhiêu đơn vị miền Nam nhìn thấy loại vũ khí này trước khi thất trận!

Nhiều thứ vũ khí lợi hại vô cùng, cũng có thể dẹp tan các đợt tổng tiến công cấp Sư đoàn của Việt cộng trong vài phút, nhưng không hề được trang bị cho quân miền Nam. Trong một lần biểu diễn hỏa lực cho SVSQ coi, có nhiều loại xe tăng lạ lùng, khủng khiếp như xe tăng phun lửa, xe tăng có 4 nòng đại bác, xe tăng có 1 nòng cụt ngủn, nhưng chạy nhanh như xe hơi, xe tăng lội nước, và xe tăng bắn lựu đạn! Trong các loại xe tăng này, xe tăng bắn lựu đạn là khắc tinh kinh hoàng nhất cho các cuộc phục kích của Việt Cộng núp trong rừng cao su vì có thể phun ra 400 quả lựu đạn M.79 trong một phút như “bò đái”!

Nếu bắn đại bác, thì đạn có thể vướng cây to và nổ trên cao, không tác hại bao nhiêu, trong khi đó, chỉ cần một chiếc xe tăng này, phóng 400 quả M.79 từ trái sang phải là cả tiểu đoàn địch tiêu vong, vì lựu đạn nhỏ có thể xuyên qua rừng cây, mà tầm sát thương của một quả lựu đạn là 10 mét đường kính, thì cho dù núp dưới hố cũng bị banh xác. Vì Mỹ không muốn miền Nam thắng trận, nên không viện trợ cho loại xe tăng này.

Về đại bác, Quân Miền Nam được trang bị đại bác bắn đạn 105 ly đên155 ly là những loại đại bác hạng nặng và có tầm bắn tối đa là 14 cây số, trong khi đó, Việt cộng có những loại súng nặng bắn xa tới 22 cây số! Không cần nói đến khả năng sát thương, mà chỉ nói đến tầm bắn xa hay gần, đã thấy quân đội Cộng Hòa thua từ đầu, 8 cây số chênh lệch! Việt Cộng có thể đứng xa hơn mà nã trúng đồn của mình, trong khi mình chịu trận vì bắn không tới địch!

Sau này, để yểm trợ chiến thuật, Mỹ đã tăng cường cho vài cây đại bác khổng lồ 174 ly, bắn xa 40 cây số, nhưng điều kiện di chuyển thì không dễ vì sức nặng của chiếc xe tăng khổng lồ này sẽ làm sập tất cả các cây cầu ở các tỉnh nhỏ, cầy nát mặt đường đi chuyển của quân ta, do đó, chàng khổng lồ này chỉ đứng tại chỗ, ngó quanh mà thôi. Năm 1968, tại quân trường Mỹ có biểu diễn những chiếc xe díp chở đại bác 105 ly không giật, tuy tầm bắn ngắn, nhưng lại chạy vèo vèo trong rừng. Loại này nếu mà được cung cấp cho Việt Nam thì cả sư đoàn xe tăng Cộng Sản phải tan xác.

Đó là nói sơ về vũ khí, còn về chiến thuật cũng là một điểm báo trước ngày tử nạn của Việt Nam Cộng Hòa. Các Sĩ Quan Mỹ không được học về tình hình xã hội, lịch sử, văn hóa và dân tộc Việt Nam, nhất định sẽ gây ra những va chạm bất lợi cho người Mỹ cũng như Việt Nam. Thực tế đã xẩy ra như vậy. Khi nổ ra vụ Mỹ Lai, tôi đọc báo Times và thấy hình ảnh đàn bà, con trẻ nằm la liệt chồng chất lên nhau, hình ảnh những người lính Mỹ thản nhiên quăng mẹt lửa lên mái nhà, hình ảnh một đứa trẻ lúc trước còn chạy, lúc sau thì gục bên hào, tình đồng bào trong tôi làm tôi phẫn nộ, tôi ngồi khóc lặng lẽ cả buổi tối.

Để giải độc dư luận, giúp cho các SVSQ Mỹ dịu bớt căng thẳng, một buổi sinh hoạt đặc biệt được tổ chức gấp tại đại giảng đường với cả ngàn SVSQ tham dự. Khoảng 3 vị Tướng, Tá trên ngực đầy huy chương nói chuyện linh tinh, trên trời dưới đất. Nghe họ nói những diễn tiến có lợi cho viên Thiếu Úy Calley, người ra lệnh tàn sát làng Mỹ Lai, tôi nổi nóng giơ tay, xin phát biểu,

“Thưa quý ngài, tôi là SVSQ Tien xin có một câu hỏi.”

Một ông Tướng gật đầu, “Muốn hỏi gì, nói đi!”

Tôi nói, “Thưa quý Ngài, tôi có thắc mắc. Khi quý Ngài hành quân đến một khu làng mới, để tránh cho trường hợp Mỹ Lai tái diễn, các Ngài có phương pháp nào để phân biệt ai là Việt cộng, ai là dân thường không?”

Một ông Tướng trả lời, “Dễ lắm! Tôi chỉ việc kêu một người nào trong làng đó, đánh trống, và kêu gọi tất cả ra trình diện. Ai không chịu ra, người đó là VC”.

Tôi phản bác ngay, “Thưa Ngài, phương pháp này hoàn toàn bất lợi. Người già làng Việt Nam rất cổ hủ và rất tự ái, khi nghe một người lính Mỹ vào buộc ra mít tinh, thì họ nhất định không ra. Nếu Ngài ra lệnh bắt hoặc bắn mấy người không ra họp này, Ngài đã tạo cơ hội cho Việt Cộng lấy thêm lính.

Một ông Tướng thứ hai nói, “Theo tôi, thì tôi cho người đi xét thẻ căn cước. Ai không có căn cước thì là du kích.”

“Điều này càng sai hơn. Tại các làng xã xa thành phố, nhiều người không thích làm căn cước, hoặc lẩm cẩm cất đâu đó rồi quên, hoặc đánh mất mà không chịu đi khai. Trong khi bọn VC lại có thể đút lót để mua một căn cước giả rất dễ dàng.”

Một vị khác góp ý, “Ta có thể mua chuộc, gạ gẫm, hứa cho tiền thưởng một người nào đó để họ chỉ cho những kẻ nằm vùng?”

Tôi càng phản đối mạnh hơn, “Việc này càng nguy hiểm, vì kẻ bị mua chuộc có thể có tư thù cá nhân với ai đó, mà tố cáo bậy, thì chết người vô tội. Ngoài ra, cũng ít có kẻ dám làm vậy, vì nếu tố cáo VC ban ngày, là ban đêm sẽ bị VC vào cắt cổ cắm vào cọc đầu làng. Như vậy, thưa quý Ngài, việc thảm sát Mỹ Lai xẩy ra là vì quý Ngài không ai biết phong tục, văn hóa của người Việt.”

Nói xong, tôi ngồi xuống, người toát mồ hôi vì giận Mỹ mà thương người Việt mà không ngờ tôi bị ghi sổ đen. Cùng với các hành động chống đối khi trước của tôi, ông Thiếu Úy Cán bộ Trung đội Trưởng, gốc Ý, gọi tôi lên văn phòng và cho tôi biết là hồ sơ tôi đã bị ghi là “chống Mỹ” (Anti-American), nhưng ông chỉ nói cho tôi biết vậy thôi, và khuyên tôi nên cẩn thận, kẻo bị bắt hay bị tống về nước với cái lon Trung Sỹ. Ông nói nhỏ nhẹ vì ông đã mắc nợ tôi.

Trong lần Party lên huynh trưởng, tôi có chụp hình ông đứng với vợ, tấm hình nhỏ xíu thôi, và khuôn mặt của bà trong tấm hình chỉ chừng đầu ngón tay trỏ, nhưng tôi ngẫu hứng vẽ phóng ra, bằng Arcrylic, thành môt bức tranh khổ 15 x 30”, rồi lẳng lặng đem treo vào phòng làm việc của ông, một buổi tối. Sáng hôm sau, ông vào phòng làm việc, thấy bức tranh vợ, ngạc nhiên quá, đi hỏi mãi, biết tôi là tác giả, ông mời lên, cám ơn tôi rối rít.

Thật ra, tôi phát triển nghề vẽ của tôi trong khi học là vì.. tôi mệt quá với các công việc tạp dịch, lau cầu tiêu, chùi hành lang, lau phòng Cán bộ, làm vệ sinh chung quanh trại…nên nghĩ ra cách trao đổi công tác. Một hôm, tôi lên trình bầy với ông Đại Úy Đại Đội Trưởng là tôi muốn trang trí các bức tường trong Câu Lạc bộ SVSQ còn trống trải quá. Ông kia khoái quá, rút ngay tiền ra đưa cho tôi để mua đồ, nhưng tôi từ chối, vì .. sợ ! Sợ làm ông tốn kém mà vẽ không được thì bị đì chết tươi. Tôi bỏ tiền túi ra đi mua sơn dầu, Arcrylic, cọ vẽ.. rồi cứ ăn cơm chiều xong, là vác cái thang ra, gác vào bức tường ngay cửa ra vào và phác thảo môt bức tranh anh hùng David Crocket của Mỹ, anh chàng đứng tì tay lên mũi súng để dựng ngang chân, trông bất cần đời.

Mấy ngày đầu, tôi lo lắng vô cùng, vì đó là lần đầu tôi vẽ bằng cọ sơn! Tôi từng học vẽ nhiều năm khi còn trẻ, nhưng toàn là bằng Phấn Pastel, chưa bao giờ học pha mầu sơn, hay vẽ bằng cọ và lại vẽ thẳng trên tường! Liều mạng vẽ mấy ngày, chỉ một cái đầu thôi, mà không ra con giáp nào, mầu nọ chửi cha mầu kia, bị chúng chê bai, chửi quá chừng! Tôi sợ quá, nên đành bỏ ngủ, thức cả đêm để vẽ, mắt nhòe ra, nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ nhân ảnh.

Nhưng Trời thương, chỉ 5 đêm sau, là tôi biết cách pha mầu và cứ thế là phóng tay vẽ như điên. Bức tranh cao 3 thước, rộng 1 thước trấn ngay cửa ra vào, được hoan hô nhiệt liệt. Tới luôn đi, bác tài! Tôi cao hứng vẽ thêm môt bức tranh nữa trên bức tường đối diện, cũng ở trên cao, cách mặt đất 3 mét, một bức tranh đám cưới cổ Việt Nam, ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau. Lính khiêng heo, lính khiêng trầu, cau, lính che lọng, bề ngang 3 mét, bề cao 1 mét rưỡi (1). Ông Đại Đội Trưởng khoái quá, miễn tạp dịch cho tôi đến hết khóa.

Chưa hết, tôi đề nghị với ổng là tôi sẽ vẽ hình đầu cọp, báo, sư tử trên gỗ và cho treo trên khắp các tầng lầu, thể hiện tinh thần của từng trung đội, Trung đội 1 là đầu cọp, trung đội 2 mang đầu báo, trung đội 3 là đầu gấu, 4,5,6… mỗi trung đội một hình tượng. Ổng Ok liền và ra lệnh cho bên hành chánh đi ra phố, tìm tiệm gỗ, cưa gỗ theo đúng hình vẽ của tôi, rồi về cho tôi vẽ và treo lên trước cửa từng trung đội. Riêng trước cửa phòng tôi, tôi vẽ một con cọp khổng lồ đang đi xuống thang gác (2, hình đính kèm).

Rồi cũng ổng, năn nỉ tôi vẽ một bức tranh cho buổi Party khác, tôi vẽ một bức tranh cao hơn 3 mét, hình một chàng Cao bồi đang cưỡi trên một con ngựa đứng 2 chân, nhe răng. Tiếng đồn lên tới Tiểu Đoàn. Ông Tiểu đoàn Trưởng mời tôi lên, nhờ thảo cho một bức tượng người lính bộ binh để dựng trước văn phòng Tiểu đoàn.

Thế là tôi được nghỉ học, ung dung cầm bản vẽ, bút chì đi ngắm nghía và vẽ luôn một tượng đài vuông vức, trên là một anh lính đang giơ tay phải lên, xung phong. Chưa hết, trước ngày lễ mãn khóa, tôi vẽ một bức tranh Chùa Một Cột đem tặng cho Chỉ Huy Trưởng Trường, để kỷ niệm một anh SVSQ Việt Nam được thụ huấn ở đây… Thật là liều mạng vì như đã nói ở trên, tôi chưa từng học vẽ sơn dầu, chưa từng học kiến trúc, mà dám chơi luôn một cái tượng đài! Bức tượng này được hoàn thành gấp rút, chỉ trong vòng 2 tháng là đã đúc xong. Ngày mãn khóa, tôi đi qua, ngắm nghĩa và hãnh diện một mình. Dân Việt Nam chơi liều không thua ai.

Nhiều chục năm trôi qua, nhìn kỹ lại từng vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam, tôi nghĩ rằng, người Mỹ, nói chung, là một dân tộc trọng tinh thần Dân Chủ, Pháp Luật, và Quyền Tự Do cá nhân tối đa,. Nguòi Mỹ, trên phương diện hình thức, tôn kính Chúa Trời, cho nên trên đồng tiền cũng có Chúa, các lời thề nhậm chức hay ra trước pháp luật, đều có Chúa chứng giám. Do đó, họ có nhiều đức tính tốt vượt bực, có sự quan tâm đối với các dân tộc nhược tiểu, nhưng ngược lại, các chính phủ Mỹ, dù Cộng Hòa hay Dân Chủ, lại là một tập thể chính trị biệt lập. Chính phủ Mỹ, dù ngành nào, Tư Pháp, Lập Pháp, hay Hành Pháp, luôn dành hết khả năng của mình vì quyền lợi của nước Mỹ, làm cho nước Mỹ mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn.

Do đó, nếu có sự gì cản trở bước tiến của nước Mỹ, hoặc không làm cho nước Mỹ vĩ đại hơn, thì các chính trị gia lãnh đạo sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, có thể bất chấp đạo đức, dẹp bỏ mọi lời hứa với đồng minh, và tỉnh bơ trước mọi lời phê bình, chê trách. Như việc giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hứa yểm trợ đồng minh rồi lại bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho Trung Cộng và khối cộng sản, cho biệt kích sang Panama, tóm cổ Tổng Thống nước này đem về Mỹ, giam tù…

Hiện tại, lúc thì bắt tay khen ngợi Trung Cộng, lúc lại hăm dọa chiến tranh. Với Bắc Hàn cũng thế, hân hoan chào đón hay chuẩn bị phóng hỏa tiễn cũng là tùy theo tình hình và lời khuyên của các “Think Tank” đặc biệt (Không phải nhóm cố vấn trong Bạch Cung). Vì thế, mới có câu, “Làm kẻ thù của nước Mỹ thì tốt hơn là làm bạn với Mỹ” và “Với nước Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn cũng như không có bạn thân mãi mãi.”

Trên hết, Cám Ơn Nước Mỹ đã cho chúng tôi được Tự Do.

(Mùa Covid 2020)

HÒA THƯỢNG GIẢ

Admin <huynhhoang……….@gmail.com:

Kính gửi Diễn đàn Chiến Hữu Việt Nam CH. Nhân ngày Quốc hận 30/4/2020. Tôi là Đào Đức Thông, một trong những cộng tác viên nhiều trang báo Hải ngoại xin gửi đến Diễn đàn bài viết về 1 vị Hòa thượng quốc doanh-là tác nhân làm tan vỡ chế độ VNCH Đệ Nhị. Bài viết là nội dung nguyên lá đơn của 1 cô Phật tử gửi đến Ban Kiểm tra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Tôi đề nghị Ban BT Diễn đàn cho đăng bài viết này lên các trang báo mạng. Để những người còn u mê biết rõ bộ mặt của vị hòa thượng “giả” này.

Admin <huynhhoang……….@gmail.com>

Một số sai phạm của Hoà thượng “giả” Thích Đạt Niệm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Tp.HCM, ngày tháng năm 2017

ĐƠN TRÌNH BÁO

(V/v Trình báo những việc làm sai phạm, thiếu đạo đức của Ô. Thích Đạt Niệm –

Viện chủ chùa Pháp Trí, chùa Phước Thạnh và chùa Thới Linh Q.9, Tp.HCM)

Kính gửi: CHƯ TÔN ĐỨC BAN TRỊ SỰ PHẬT GIÁO TP.HCM

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN TÁNH – PHÓ TRƯỞNG BAN TRỊ SỰ PHẬT GIÁO TP.HCM

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Chư Tôn Đức!

Kính bạch Hòa thượng anh minh!

Con đứng đơn dưới đây là HOÀNG LÊ PHƯƠNG THẢO, sinh năm 1988, số CMND 201562576, nguyên quán Thừa Thiên Huế, cư trú tại 25 Cống Quỳnh, P. Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh là thành viên của Lực Lượng Phật Tử Hộ Pháp (Bảo vệ Chánh pháp của Đức Phật trên mạng Xã Hội).

Đầu tiên chúng con kính chúc Hòa thượng và Chư Tôn Đức Tăng Ban Trị Sự Phật Tp.HCM những lời chúc tốt lành nhất.

Kính bạch chư Tôn Đức!

Con viết đơn này thay mặt cho Lực Lượng Phật Tử Hộ Pháp trình báo những hành vi sai phạm, thiếu đạo đức của ông Thích Đạt Niệm – Viện chủ chùa Pháp Trí (Quận Thủ Đức), viện chủ Phước Thạnh và chùa Thới Linh Q.9, Tp.HCM. Kính mong Hòa thượng. Thích Thiện Tánh và Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM anh minh cho xác minh xử lý các sai phạm của vị Hòa Thượng “giả” Thích Đạt Niệm, trả lại sự trong sạch cho đạo pháp.

Ô. Thích Đạt Niệm có tên cha mẹ khai sinh là Nguyễn Văn Tèo tự Đợt nhưng ông ấy tự khai sinh cho mình bằng nhiều tên mỹ nhiều khác: Nguyễn Đạt Niệm, Nguyễn Đức Dũng, Nguyễn Kim Thạnh, v.v nhằm mục đích đánh lừa Phật tử.

Sinh năm 1949 tại Bình Sơn, Long Thành, Đồng Nai, theo trong hồ sơ thì Ô. Nguyễn Văn Đợt xuất gia năm 10 tuổi. Chính bản thân ông Niệm cũng tự giới thiệu với Phật tử rằng xuất gia ở độ tuổi 10-11, như vậy mọi người có thể hiểu ông Đạt Niệm phát tâm Bồ Đề từ lúc niên thiếu.

Vậy nhưng theo tìm hiểu của chúng con cho thấy thời gian Miền Nam Việt Nam chiến tranh ác liệt, Ô. Thích Đạt Niệm đang còn trong ngoại hình Sư Tăng chưa hoàn tục (còn mang giới) đã tham gia lực lượng biệt động quân Sài Gòn. Đây là một trong những trùm Biệt động SG có tội ác với nhân dân miền Nam. Là Biệt động SG, ông Thích Đạt Niệm đã nhiều lần đặt mìn ám sát địch nhưng lại sát hại luôn cả thường dân khi mìn nổ, phạm giới Sát của Đức Phật.

Điều này rất nhiều bạn bè thân thiết của Ô. Đạt Niệm xác nhận và từng đăng lên mạng Xã hội để quảng bá công lao với Cách Mạng để PR cho ông Đạt Niệm vì ông Niệm góp phần tích cực để tan vỡ chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Chiến tranh chấm dứt, ông Thích Đạt Niệm nhờ vào công trạng đã lập nên được nhà Chính quyền địa phương ưu ái giao nhiệm vụ Trưởng Ban Trị Sự Phật giáo Việt Nam huyện Thủ Đức liên tiếp mấy nhiệm kỳ. 1 mình làm viện chủ 3 ngôi chùa (Pháp Trí, Thới Linh, Phước Thạnh). Ông Đạt Niệm thường khoe với Phật tử và quan khách là bản thân mang hàm Đại tá Biệt Động Sài Gòn (Điều này cần xác minh làm rõ xem thật hay giả mạo) và thích kết giao với những cựu chiến binh.

Tính tình ngạo mạng, thường khen mình chê người, thưa kiện nhiều vị Tôn đức Giáo phẩm lỡ phật lòng ông Đạt Niệm.

Khi Hòa thượng Thích Thiện Nhơn lên làm Chủ tịch Hội đồng Trị Sự Phật giáo Việt Nam, trong 1 lần thuyết pháp, Ô. Thích Đạt Niệm đã tuyên bố với chư Phật tử là Hòa thượng Thiện Nhơn không có tài đức, không có trình độ, là bê đê… Nghe nói chuyện này hình như đến tai Ban Trị sự Phật Giáo Tp.HCM, ông Thích Đạt Niệm đã bị Hội đồng Trị Sự Phật giáo Việt Nam bãi tất cả các chức danh trong Giáo Hội, cách chức Ủy viên Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM, không công nhận chức danh viện chủ chùa Thới Linh, Phước Thạnh.

Chỉ duy nhất chức danh Viện chủ (chủ chùa)ngôi chùa Pháp Trí ở P. Linh Xuân, Q.Thủ Đức mang tính thừa kế (do mẹ nuôi của ông Niệm truyền lại) thì Giáo Hội Phật giáo Việt Nam không quyết định được. Ông ấy chỉ là Chủ chùa chứ không phải Trụ trì (không đại diện cho Giáo Hội Phật giáo Việt Nam). Chức danh Chứng minh Ban Trị Sự Phật giáo Việt Nam Q.Thủ Đức là do chúng đệ tử của ông Niệm phong cho ông Niệm, Hội đồng Trị Sự Phật giáo Việt Nam không công nhận chức danh này.

Những điều Sai phạm đáng lên án là:

1. Vi phạm giới luật Phật:

– Thời chiến tranh, Ô. Thích Đạt Niệm đang còn trong ngoại hình Sư Tăng chưa hoàn tục (còn mang giới) đã tham gia lực lượng biệt động quân Sài Gòn gài miền sát hại người. Đây là một trong những trùm Biệt động SG có tội ác với nhân dân miền Nam.

– Ông Thích Đạt Niệm là người xuất gia tu từ lúc 11 tuổi nhưng lại có 1 con ruột là Nguyễn Đình Mỹ, pháp danh: Thích Niệm Thuận là tu sĩ của Chùa Pháp Trí, sinh năm 1983 ở thời gian Ô.Niệm đang đứng đỉnh cao của quyền lực trong Giáo Hội Phật giáo Việt Nam.

Thích Niệm Thuận từ nhỏ sống với mẹ ruột tại miền Trung, khi lớn được Thích Đạt Niệm đưa về chùa Pháp Trí cho xuất gia tu học, hiện tại đang được ông Niệm cho đi du học tại Sri Lanka để sau này về làm trụ trì chùa Pháp Trí sau khi ông Đạt Niệm chết.

Gã trọc Thích Niệm Thuận lợi dụng là con ruột của Chủ chùa nên thường gây sự đánh các vị sư trong chùa Pháp Trí sứt đầu, mẻ trán. Tuyệt nhiên Thích Đạt Niệm không xử lý hành động này mà còn dùng quyền lực chính trị tác động đến Công an Phường sở tại để làm ngơ, đồng thời đe dọa đuổi những ai phản ứng việc làm của tên Thuận ra khỏi chùa Pháp Trí.

Cậy thế cha nên mặc dù trong ngoại hình Đại đức nhưng Thích Niệm Thuận lại có bạn gái, công nhiên đưa về chùa Pháp Trí quan hệ tình dục trong phòng riêng.

Điều nực cười qua theo dõi cho thấy Ô. Thích Đạt Niệm vận động Phật tử bá tánh tiền xây lăng mộ cho ông ấy nhưng lại che mắt bằng Danh từ: Tháp Tam Bảo, để Phật tử, mạnh thường quân nhầm tưởng đây là xây tháp thờ 3 ngôi Tam Bảo mà ủng hộ tiền nhiều.

2. Giả mạo cấp bậc chức vụ

– Ô. Đạt Niệm thường tự xưng trên mạng Xã hội và các cuộc hội thảo là Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học của Trung tâm UNESCO Nghiên cứu – Ứng dụng Phật học Việt Nam, là nhà khoa học đại trí tuệ thông minh, sáng suốt. Khi có người hỏi thì ông ấy thường trưng ra 1 văn bản Quyết định của UNESCO. Nhưng theo tụi con xác minh từ một số người bên UNESCO cho biết: Hòa thượng Thích Đạt Niệm đã không tham gia các hoạt động từ UNESCO rất lâu, UNESCO cũng chưa từng quyết định gì cho Hòa thượng, chủ tịch Hội đồng Khoa học hiện tại của Trung Tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam không phải mang tên Thích Đạt Niệm hay Nguyễn Văn Đợt…như vậy có khả năng Ô. Đạt Niệm giả mạo giấy tờ, giả mạo cấp bậc chức vụ để lừa đảo chư Phật tử.

Chư Tôn đức có thể xác minh qua các số ĐT:

TW Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam: (024) 3.7616880 – 3.7616879

Văn phòng đại diện phía nam của UNESCO Việt Nam: (028) 38409689 ĐTDĐ: 093 296 2779 (Trưởng VP- TS. Lê Văn Tuấn)

3. Gây mất đoàn kết Tôn giáo

– Ô. Thích Đạt Niệm chống Công giáo quyết liệt, thời chiến tranh Thích Đạt Niệm từng lên kế hoạch ám sát Tổng Giám mục Sài Gòn. Hòa bình vị Hòa thượng này thường xuyên viết bài chống Công giáo gửi lên mạng Xã hội và rao giảng trong khi thuyết pháp gây mất đoàn kết trong cộng đồng tôn giáo.

4. Kích động khiếu kiện bất hợp pháp

– Mượn danh gia đình Chính sách, Thích Đạt Niệm thường viết bài đăng lên mạng Xã hội kêu gọi Phật tử, Đệ tử khắp nơi chống quan tham; chống, chỉ trích những lãnh đạo Phật giáo lạm quyền, nhưng thật là mượn sức dư luận đấu tranh gây áp lực nhằm buộc Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM đưa ông Niệm quay về lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Ô. Thích Đạt Niệm thường làm thơ, kêu gọi Phật tử Việt Nam chống Trung Quốc, chống Tổng BT Đảng CS, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, cầm đầu xúi giục Phật tử tham gia khiếu kiện đất đai các nơi, viết bài đăng lên mạng xã hội bênh vực cho các tên khủng bố bị Nhà nước Việt Nam truy nã.

5. Không giữ oai nghi người xuất gia

– Là người xuất gia tu hành nhưng Ô. Thích Đạt Niệm rất thích ca múa, quy tụ các nhà thơ, văn nghệ sĩ (chủ yếu là nữ) thành lập nhiều CLB Đất Việt ca múa thường xuyên tại chùa Pháp Trí. Những nghệ sĩ nữ xinh đẹp sẽ được ưu tiên gần gủi phục vụ Hòa thượng. Đây là việc làm đáng lên án vì công khai vi phạm giới luật của Đức Phật. Giới luật nhà Phật đã có quy định rất rõ: cấm Tăng gần gũi phụ nữ, cấm nghe xem hát múa đờn kèn, thì sao một người xuất gia mang giáo phẩm Hòa Thượng có thể tổ chức thi múa hát, ngâm thơ ngay tại chùa Pháp Trí? Đúng ra là bậc Hòa thượng Ô. Đạt Niệm phải giữ gìn oai nghi tế hạnh để làm gương cho tứ chúng đệ tử Tăng Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, không làm ảnh hưởng đến đạo Phật.

Ca hát trước công chúng, là công việc của ca sĩ… việc này là của người ngoài đời, người xuất gia không được làm. Vì hát là còn tham đắm mà người tu thì cần lìa xa việc tham, sân, si. Vậy sao còn làm? Hãy để việc ca hát cho người đời họ làm. Chúng con đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam không thể đồng tình với những hành vi này của ông Đạt Niệm.

Mang giới phẩm Hòa thượng nhưng ông Đạt Niệm thiếu gương mẫu, nói chuyện với Phật tử hay đề cập đến tiền bạc, kêu gọi cúng dường. Hòa thượng mà không thọ Bồ Tát Giới nên đối với người nghèo khổ đến chùa xin không thương xót, tuy bố thí nhưng trong tâm như tiếc từng khúc ruột. Nói chuyện với tứ chúng đệ tử thường hay chống nạnh, quát nạt, mất oai nghi tế hạnh của người tu.

6. Vi phạm Nội quy Ban Tăng Sự Trung Ương

– Ông Thích Đạt Niệm nhận rất nhiều đệ tử xuất gia, tại gia, dẫn đến việc không làm tròn có trách nhiệm của Bổn Sư là giáo dục, hóa độ, dìu dắt cho đệ tử tu đúng, vi phạm Nội Quy Ban Tăng Sự Trung Ương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Vì bản thân Ô. Đạt Niệm không gương mẫu nên một số ít đệ tử xuất gia của ông Niệm không hiểu hết ý nghĩa của việc xuất gia. Tăng sĩ chùa Pháp Trí thường ngồi chung uống trà, nói chuyện với phụ nữ ở chỗ khuất, tiếp khách là phụ nữ ở phòng riêng, vi phạm giới luật Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa; hoặc Ba-dạ-đề.

7. Phát ngôn xem thường Chư tôn đức Lãnh đạo Giáo Hội

– Trên Facebook cá nhân của Hòa thượng Thích Đạt Niệm là Nguyễn Đạt Niệm thường xuyên viết bài chỉ trích chư tôn giáo phẩm Phật Giáo Việt Nam là vô ơn, bạc nghĩa khi loại ông ấy ra khỏi Ban Trị sự Phật giáo Tp.HCM, chỉ trích Hòa thượng Thích Huệ Cảnh, Thích Thiện Tánh là kẻ cướp chùa Phước Thạnh và Lộc Uyển của ông Niệm.

8. Phương pháp tu hành thuộc Tà giáo

– Ông Thích Đạt Niệm thường xưng với Phật tử là tu Mật Tông Tây Tạng và Tịnh Độ, nhận đệ tử truyền dạy Mật Tông Tây Tạng với phương pháp tu hành Tà Giáo:

Trước tượng Phật Chuẩn Đề hoặc Kính Đàn tự thủ dâm hoặc giao hợp với người cùng giới đạt cực khoái tình dục để tinh dịch (nam) hoặc dâm thủy (nữ) cùng xuất ra, rồi đem trộn với Bột nhang, Nước lã bắt đệ tử uống, ăn thứ hỗn hợp đó của ông Đạt Niệm để khai quang, điểm đạo làm đệ tử của Mật Tông Tây Tạng. Đây thật là phương pháp tu hành bậy bạ, hoang đường không thể tả.

9. Đố kỵ với người có tài

– Những người ngoài đến chùa Pháp Trí đều bị ông Đạt Niệm sử dụng theo phương pháp “Vắt chanh bỏ vỏ”, khi hết giá trị lợi dụng là bị ông Đạt Niệm đuổi đi.

– Người có tài bị kềm hãm không cho cơ hội phát triển. Buộc phải phục vụ cho ông Đạt Niệm. Ai phản đối là bị đuổi đi, bất kể sự đóng góp của họ cho chùa Pháp Trí nhiều như thế nào.

Tất cả các việc làm sai phạm của Thích Đạt Niệm được hợp thức hóa và che dấu bằng Tiền bạc của bá tánh.

Kính bạch Chư Tôn Đức!

Qua bài viết này chúng con muốn làm rõ những việc làm mờ ám của vị “Hòa thượng” Thích Đạt Niệm Viện chủ Thới Linh và chùa Phước Thạnh Q.9.

Kính đề nghị Hòa thượng. Thích Thiện Tánh và Chư Tôn Đức Ban Trị Sự Phật Giáo Tp.HCM làm rõ để mọi người nhất là các Phật tử đang u mê được hiểu rõ bộ mặt thật của “Hòa thượng” Thích Đạt Niệm và buộc ông Niệm phải có trách nhiệm những việc bản thân đã làm, nếu có cơ sở xác định ông Niệm phạm giới Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa; hoặc Ba-dạ-đề, chúng con kính đề nghị Chư Tôn Đức tước Tăng tịch của ông Đạt Niệm.

Kính gửi đến Hòa thượng. Thích Thiện Tánh và Chư tôn đức Ban Trị sự Phật giáo Tp.HCM lời chúc pháp thể khinh an, đạo tâm tăng trưởng.

Tp.HCM, ngày 12 tháng 2 năm 2017

Cư sĩ HOÀNG LÊ PHƯƠNG THẢO

Pháp danh. TỊNH CHIẾU

Kèm theo bài viết này là hình ảnh của ông Thích Đạt Niệm và con ruột của ông Niệm: Thích Niệm ThuậnTheo Hội Phật Bút Tự Do Việt Nam

Quân Phục, Cấp Hiệu, Huy Hiệu, Huy Chương từ Quân Đội Quốc Gia Đến Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà

Giới thiệu quí chiến hưủ.

Chủ tịch hội đồng đai diện Cộng Đồng Người Mỷ Gốc Việt, ông  Michael Đổ đã bỏ rất nhiều công sức vừa xuất bản quyễn “Remembering the ARVN” có tất cả cáp hiệu, phù hiệu và huy hiệu QLVNCH.

Sách bán trên Amazon, rất hửu  ích nếu ai cần tham khảo khi ăn mặc hoặc chỉ đễ biết. Các hội đoàn nên có một bản.

Sau đây một bài viết của một dân sự bình luận về quân phục của quân nhân VNCH khá vui:

Lời Giới Thiệu: Nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận , ông Nguyễn Ðình Phúc tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Ban Ðốc Sự Khóa 11, nguyên Phó Tỉnh Trưởng Phước Tuy, hiện cư ngụ tại Vancouver BC, Canada, đã có nhã ý sưu tập gửi đến độc giả tài liệu đặc biệt về huy chương, cấp hiệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xin cảm tạ ông Nguyễn Ðình Phúc và xin giới thiệu cùng quý độc giả.

Sau 30.4.1975, chủ quyền đất nước mất vào tay cộng sản (việt cộng và cộng sản Nga,  Hoa). Chánh Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Ngày nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi khác nhưng lý tưởng, chánh nghĩa người Chiến Sĩ một đời theo đuổi vẫn còn đó, Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm vẫn còn đó, Quê Hương-Dân Tộc vẫn còn đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù mang một hình thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đấu cho nền Ðộc Lập Dân Chủ Tự Do thực sự cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn dân. Một điều khẳng định, chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc, Ðồng Bào vì khi vừa nghe tin những Quần Ðảo Hoàng Sa, Trường Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản Giốc…vừa bị ‘’bạo quyền cắt đất cầu phong’’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp đoạt, dâng hiến… tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng vùng lên…Ðiều này chứng tỏ chúng ta vẫn mãi mãi là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày mai, khi công cuộc tranh đấu dành lại được chủ quyền từ tay cộng sản  cho toàn dân, nền Ðệ Tam Cộng Hòa được thiết lập, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tái tổ chức thì câu chuyện về quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…hôm nay chẳng là câu chuyện phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài liệu cần đến.

Từ hơn 2000 năm trước, Ðức Khổng Tử đã nói đến tầm quan trọng của nhung phục, đại ý Ngài dạy: ‘’Người tráng sĩ tự mình chưa đủ oai dũng khi lên yên chiến mã nếu như thiếu nhung y giáp trụ, thiếu cờ hiệu, cờ lệnh…’’ Bài viết xin được các Chiến Hữu, Ðộc Giả bổ sung, tha thứ vì hầu như hoàn toàn dựa  vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện ‘’lính kể lính nghe’’ trong những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị cháy.

Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5.6.1948 được ký kết giữa Ðại Diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc Trưởng Bảo Ðại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Ðộc Lập, Thống Nhất nhưng vẫn còn nằm trong Liên Hiệp Pháp. Quân Ðội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế mới chỉ là một lực lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu chống Việt Minh (cộng sản) bên cạnh quân đội liên hiệp Pháp. Cho đến những năm đầu thập niên 50. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia vẫn còn nhiều sĩ quan Pháp làm việc, nhiền đơn vị do sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp chỉ huy, quyền chỉ huy tối cao còn thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur (Tiểu Khu, Chi Khu Chiến) của Pháp tại địa phương. Sau đó một số Khu Vực mỗi lần được trao trách nhiệm lại cho Quân Ðội Quốc Gia như những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn thư, danh xưng còn dùng Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S. P (Secteur Postal) thay vì Bộ Tổng Tham Mưu  hay K.B.C Trong hoàn cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…tương tự như quân đội Pháp.

Trên toàn lãnh thổ có 4 Quân Khu: Ðệ Nhất Quân Khu (miền Nam). Ðệ Nhị (miền Trung). Ðệ Tam (miền Bắc). Ðệ Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/Sơn Cước). Lực lượng chính yếu gồm các Tiểu Ðoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien), Tiểu Ðoàn Nhảy Dù…Bên cạnh, chánh quyền địa phương cấp Phần, đứng đầu bởi Vị Thủ Hiến có tư cách pháp nhân riêng, ngạnh sách riêng, quân đội riêng như Bảo Chính Ðoàn (Bắc). Việt Binh Ðoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam), Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân và những lực lượng giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo,  Bình Xuyên…

QUÂN PHỤC

Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu, quân phục chưa quy củ, luộm thuộm vì ngay cả quân phục quân đội Pháp cũng không hơn. Nhiều Quân Nhân mặc chenise vàng, quần trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Ðến khi Quân Ðội Quốc Gia chính thức thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc Phòng Phan Huy Quát), quân phục mới được quy định tề chỉnh hơn.

Lễ phục Sĩ Quan ngoài màu trắng, có màu xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục màu nào thì phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh không kể màu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các Phòng, Sở, ra khỏi Doanh Trại (số 2) ‘’gabardine’’ hay ka-ki. ‘’béreto’’ cùng màu vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) màu xanh ‘’olive’’ riêng Nhẩy Dù thêm áo sô (saut) trông rất oai hùng.

Tới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa Ðại Lễ Phục Sĩ Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao cúc (nút) vàng, thắt lưng đen ‘’casquett’’ trắng, quần sậm, có sọc như các Quân Trường, có cả dạ phục. Còn Tiểu Lễ Quân Phục số 2 màu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa.

Nhớ lại sau Hiệp định đình chiến 1954, Quân Nhân ra Phố mặc đồ tác chiến sẽ bị Tuần Cảnh bắt giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại, quân phục vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên hay Khóa Sinh Quân Trường.

Chuyện trang phục của chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất là từ cấp Tướng Lãnh. Một Ðại Tướng vì gốc Dù nên mặc Ðại Lễ thay vì đội casquette, ông vẫn ‘’sính’’ đội beret đỏ. Một Vị Lãnh Ðạo Quốc Gia, vì gốc Phi Công ‘’anh dũng muôn đời’’ nên cứ diện phi bào với 2 sao để cho Tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một Tướng biệt phái sang Hành Chánh thường mặc đồng phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp Tổng Thống hay Thủ Tướng lại móc ngay 3 sao trong túi đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một Ðô Ðốc, quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong Quân Chủng…Vẽ lại vài ba hình ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi vì thời phong kiến đã có câu ‘’luật không áp dụng với người trên’’ nên nhằm nhò gì chuyện nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu.

Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở Quân Ðội Hoa Kỳ ‘’ngoài quy định từ Thống Tướng tới Binh Sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một quy định gì so với đồng ngũ đồng cấp’’. Sự đồng nhất triệt để tới cả mức gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau. Chắc các Chiến Hữu còn nhớ chuyện một Vị Tướng Hoa Kỳ, ông đã đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người chê sai, người bên vực đúng nhưng ông vẫn tự sát vì sự kiện này.

Tất nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động vì mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy trang, nhưng trong dịp Quốc Khánh, kỷ niệm Quân Lực…các Ðơn Vị mặc chiến phục diễn hành vẫn theo đầy đủ cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương thòng…để thêm oai dũng khác ngày thường.

Khi mới thành lập, chúng ta còn đi giầy đinh (có đinh ở dưới) gọi giầy ‘’săng đá’’ (do chữ Pháp Soldat-Quân Nhân), bước đi gây tiếng cồm cộp. Những toán hầu kỳ, chào kính còn mang ghệt (guêtre) trắng bằng da hay vải bố để túm ông quần lại cho gọn, đẹp. Hành quân dùng giầy bố. Sau này dùng giấy sô (botte de saut) cột dây, có nhiều loại khác nhau. Những Quân Nhân nào diện còn cắt ống giầy gắn fermeture, nhưng khi đổi giầy có thể bị phạt vì làm hư quân trang. Giống như một Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng vì nhu cầu an ninh đã sơn xe jeep mầu dân sự, khi đổi xe đã phải phạt và đền tiền sơn lại như màu nguyên thủy.

Những năm sau này, thêm nhiều Quân Binh Chủng được thành lập nên ngoài chiến phục của Bộ Binh có nhiều kiểu và màu sắc đặc thù riêng rất oai hùng như phi bào (Không Quân) quân phục trắng (Hải Quân) Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân…Ðây cũng là một trong những nét khác biệt của từng màu cờ sắc áo. Sau 1975 trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn rất rét, bị ám ảnh khi thấy hình bóng các thiên thần mũ đỏ, cọp biển…chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh ‘’nhiều cán binh sống sót về lại miền Bắc không dám đứng dưới quạt trần vì còn ngỡ cánh quạt trực thăng săn đuổi’’.

Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều. Xưa kia mũ ‘’béret’’ ka ki vải rất rộng (miền Bắc gọi là mũ bánh đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ ‘’calot’’ xám, đen trên đỉnh xẻ đôi có hai màu xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng đội  chapeau de brousse mũ vải cứng rộng vành (hơi giống Quân Nhân Úc) một bên vành mũ bấm gọn lên để khỏi vướng khi vác súng. Sang thời Cộng Hòa ‘’béret’’ xám đội theo quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tròn khác màu tùy mỗi hàng Binh Sĩ, Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 1963,  thường mặc ‘’tréllis’’ nên mũ vải lúc đầu cứng (như képi) sau như ‘’casquette’’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘’làm dáng’’ tay mũ cũng gắn nhành dương liễu như casquette đại lễ. Mũ sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như Biệt Ðộng Quân cũng tiện.

Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2 không kể cấp hiệu, phù hiệu được mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cấp phần sau. Chỉ riêng việc này đã làm mất tính bí mật quân sự. Ðịch dễ dàng nhận diện hay trên xác Tử Sĩ để lại chiến trường đủ tình trạng quân vụ (Ðơn Vị, cấp bậc…) ngoài những cáo phó, chia buồn góp vui đầy trên báo chí. Ngoài cổng Doanh Trại ghi đầy đủ hệ thống thuộc, Ðơn Vị đồn trú. Trong khi việt cộng đến khi chiếm trọn miền Nam trước cổng chỉ có tấm bảng ‘’doanh trại quân đội nhân dân’’. Như vậy, bài học vỡ lòng che dấu, ẩn nấp để ‘’ta thấy địch, địch không thấy ta’’ trở thành hài hước.

CẤP HIỆU

Cấp hiệu là quy ước có hình thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp ‘’Huynh đệ chi binh’’ là mối tương quan trong đời Quân Ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ khác một vạch, màu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.

Từ khi thành lập Quân Ðội Quốc Gia, cấp hiệu được gọi bằng lono (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như quân đội Pháp cho tới thời Cộng Hòa được thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện sách báo khiêu dâm…Ðây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp.

Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘’lon’’ Sĩ Quan, ngoại trừ Thiết Giáp Binh (Kỵ Binh) dùng vạch trắng. Từ ‘’adjudant’’ (ông Ách) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy dọc, ‘’aspirant’’ (Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt lúc đó chúng ta thường gọi Quan Một, Quan Hai…tới Quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan cao cấp (Officier Supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan cấp thấp (Officier Subalterne). Trên Quan Tư có khoanh trắng (Lieutenant Colonel) với 5 vạch (3 vàng 2 trắng) và Quan Năm khoanh vàng (Colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở lên). Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ mang vạch hình chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh tay.

Người viết không rõ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ Quốc Phòng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng Sĩ xuất xứ từ Lực Lượng Bảo Chính Ðoàn (Bắc Việt) đặt ra trước cùng lúc với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Ðoàn trong khi Sĩ Quan Chính Quy vẫn còn đeo ‘’lon’’ hoàn toàn như sĩ quan Pháp. Xin được mở dấu ngoặc nói thêm về cấp hiệu của Bảo Chính Ðoàn.

Bảo Chính Ðoàn là lực lượng quân sự cấp Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ huy hoàn toàn Việt Nam, không có một hạ sĩ quan hay sĩ quan Pháp nào. Tư Lệnh Phó Bảo Chính Ðoàn (có lúc gọi là Phó Giám Ðốc) là Ðốc Quân Ðoàn Chí Khoan (sau này là Ðại Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc). Ông Ðoàn Chí Khoan có thể coi như người soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo Chính Ðoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức Quân Ðội Trung Hoa Quốc Dân Ðảng và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân cho Sĩ Quan cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có 3 hạng: Phó Ðốc Quân hạng ba, hạng hai và hạng nhất (tương đương Thiếu, Trung, Ðại Úy) và Ðốc Quân cũng có ba hạng. Trên hết là Chánh Ðốc Quân (như cấp Tướng, nhưng chưa có ai được phong). Tư Lệnh Biệt Chính Ðoàn đầu tiên là Ðốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là một trong 6 Ðại Tá đầu tiên của Quân Ðội Quốc Gia). Tư Lệnh Phó là Ðốc Quân hạng 3 Ðoàn Chí Khoan. Giám Ðốc Trường Sĩ Quan Biệt Chính Ðoàn là Ðốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa).

Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân đều đeo hoa mai bạc (hạng 3 một bông…hạng 1 ba bông) nằm ở vạch ngân tuyến. Cấp Ðốc Quân thêm hai sợi ngân tuyến chạy kèm song song hai bên.  Kể cả hàng Binh (Bảo Chính Viên) trở lên đều đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo hình chữ V. Ðiểm đặc biệt là danh xưng Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ được đặt ngay thời đó và sau này vẫn còn được dùng. Riêng danh xưng Ðốc Quân, Phó Ðốc Quân không được duy trì vì không thuận tiện (nếu chỉ gọi Ðốc Quân sẽ không rõ cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu kê).

Nhân đây, xin nói về truyền thống, ý nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3 Quân Binh Chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống quốc tế vì thường có tầm hoạt động ngoài lãnh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng không gồm Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp Binh và Lực Lượng Cảnh Sát. Không hiểu lý do nào, khi quy định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ chỉ riêng Hải Quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo như Quân Ðội. Trước đây Ngành Cảnh Sát đã có tổ chức quy củ với những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên…đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều Sĩ Quan và có lẽ tiện việc sắp đặt chức vụ, đã dùng theo cấp bậc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bỏ quy chế, cấp hiệu cũ,  không quan tâm đến thời gian huấn luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng trình độ văn hóa và thời gian thụ huấn như một Chuẩn Úy Bộ Binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Ðại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc như Quân Ðội. Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có thẩm quyền gì với Quân Nhân lại tạo cho dư luận, cộng sản dễ chỉ trích quân phiện, cảnh sát trị trong khi chính bộ máy kìm kẹp, phá hoại của việt cộng có tới cấp bộ công an.

Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng quân sự địa phương chính quy hóa. Bảo An Ðoàn mang cấp hiệu riêng như Bảo Chính Ðoàn trước kia. Vì thiếu thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trong vừa giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhành lúa ôm hai bên  trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát Sĩ Quan Ðồng Minh kể cả cấp Tá cũng như Huấn Luyện Viên, một điều Yes Sir hai điều cũng yes, General với Thiếu Úy và còn chào kính túi bụi vì nghĩ thầm ít gì cũng Chuẩn…Tướng.

Trở lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mang mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) vì muốn cho Hội Ðồng Tướng Lãnh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘’Tướng trẻ’’ dễ dàng khống chế lớp ‘’Tướng không trẻ’’ hoặc để áp lực cho đi ‘’Ðại Sứ’’. Ðó là thời ‘’Loạn Tướng’’. Ðề cập đến loạn Tướng thiết nghĩ phải nói đến quy chế Tướng Lãnh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đã bước lên hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đã bỏ binh quyền, đời quân ngũ. Vì vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu Thiếu Tướng…mà là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa… Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ, dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lãnh, chỉ thêm chữ hồi hưu như General Westmoreland (Ret). Quân Ðội vẫn phải đãi ngộ Tướng Lãnh với đầy đủ quy chế,  nghi lễ, lương bổng, quân phục, cấp hiệu, Tướng Kỳ, Tùy Viên, Hộ Tống, chào kính…ngoại trừ binh quyền.

Ngoài ra tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp hiệu, phù hiệu của các Lực Lượng Ðồng Minh tham chiến tại Việt Nam trước kia. Ngoài những gì theo truyền thống quốc tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay Không Quân, chữ thập Quân Y…có những đặc thù riêng như Khối Liên Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan…) với Vương miện (Crown). Tháiland trọng bảo tháp (Phật) dành cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.

Nhiều người khen quân phục Hoa Kỳ đẹp, quy củ nhưng cấp hiệu không ý nghĩa. Thật ra Hoa Kỳ lấy biểu hiệu từ thấp lên cao, cấp Thiếu và Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và Ðại Úy 2 vạch trắng là kim loại còn nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với lá vàng, trắng.  Ðại Tá đeo hình chim đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn…(thường dùng danh hiệu đại bàng) Ngôi sao sáng hàng Tướng Lãnh mang biểu hiệu cao tột đỉnh, dẫn đạo chỉ huy.

Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hình chữ V ngược nơi tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cao cấp), còn hàng Hạ Sĩ Quan cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như sau này, trái lại quân đội Pháp còn quy định những Tướng lãnh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu Binh Nhất, Hạ Sĩ, Trung Sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như Ðại Tướng De Latter, được đeo thêm cấp Hạ Sĩ Nhất danh dự. Trung Tướng Cogny thêm cấp Hạ Sĩ. Ðây là quy định chính thức như chức Huyện, Phủ Hàm thời trước, không như cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là Hạ Sĩ danh dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các Ðại Ðơn Vị (commandant en chef/commander in chief) thay vì Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘’Tư Lệnh’’ nói lên sự toàn quyền ban phát lệnh thay vì chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp Chỉ Huy Trưởng.

HUY HIỆU HUY CHƯƠNG

Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rõ Ðơn Vị trực thuộc. Nhiều khi còn dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo, hoặc các ‘’nơ’’ màu để dễ nhận bạn.

Thời phôi thai, Quân Ðội mới có đến cấp Tiểu Ðoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra còn được làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp thuốc…). Các Quân Trường Võ Khoa Thủ Ðức, Liên Quân Ðà Lạt…cũng có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các Ðại Ðơn Vị, Binh Chủng…phù hiệu vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu Ðơn Vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta còn đeo thêm các bằng chuyên môn…như bằng Rừng Núi Sình Lầy, bằng Dù, cánh Bay…

Quân Ðội có nhiều hình thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn Ðơn Vị, cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de guerre, Médaille d’honneur…của Pháp, nhiều loại được lãnh phụ cấp hàng tam cá nguyệt. Sang thời chính thể Quốc Gia, Quốc Trưởng ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với 5 hạng, trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp thưởng rất khó khăn đòi hỏi những chiến công hiển hách, thành tích lớn lao đối với Tổ Quốc, Dân Tộc.  Nghi thức trao gắn rất long trọng, Quân Nhạc cử điệp khúc Quốc Thiều, người được ân thưởng tay nâng Huân Chương để Nguyên Thủ Quốc Gia chào kính. Nếu phạm trọng tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Ðối với hạng nhất, nếu tôi nhớ không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh Danh Dự Ngự Lâm Quân. Kế là Ðại Tướng De Latter, Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp tại Ðông Dương, nhờ chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng Ðệ Nhị Ðẳng. Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Ðại Tướng và truy tặng Ðệ Nhất Ðẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với Nhành Dương Liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ về chiến công và phạm vi tuyên dương trước Quân Ðội hay chỉ trước cấp Lữ Ðoàn, Sư Ðoàn.

Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của Quân Ðội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương thuộc các Quân Binh Chủng được ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương…chưa kể huy chương của nhiều Quốc Gia, Quân Lực Ðồng Minh cũng trao tặng.

Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang tên màu:Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương màu tam hợp đòi hỏi toàn thể Ðại Ðơn Vị phải lập chiến công và ít nhất phải được tuyên dương công trạng cấp Quân Ðội từ ba lần trở lên.

Huy chương khi được ban thưởng, ngoài văn thư có một bằng treo, không kể huy chương (thòng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải tuân theo các cách thức quy định. Huy chương cao hơn phải đeo từ trong phía ngực trái ra ngoài, hàng trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc Huân Chương Ðệ Ngũ và Ðệ Tứ Ðẳng dù thấp nhất trong Bảo Quốc nhưng cũng phải xếp trên cùng. Ðệ Tam đeo dây vòng qua cổ, Ðệ Nhị một bên cạnh sườn và Ðệ Nhất vắt ngang vai. Trong Tiểu Lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ có phần cuống).

Với dạ phục mang huy chương thòng nhưng thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một huy chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các Quân Binh Chủng, Ðại Ðơn Vị, cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đã được ban thưởng.

Với huy chương của các Quốc Gia Ðồng Minh, phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức, Quân Nhân đương sự mới được mang.

Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu…vì không được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn kém cho Quân Nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành.

NGHI THỨC CHÀO KÍNH

Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều cách thức chào kính như: Chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian.

Theo một số tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa ở Tây Phương. Khi gặp Vua Chúa,  Quan quyền, thần dân thuộc hạ phải dơ tay phải lên che mắt để không được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không võ khí. Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở Ðông Phương.

Ðến giữa thập niên 50, số Sĩ Quan cũng còn rất ít. Ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, một Thiếu Úy ra vào cổng chính, Lính gác đã phải đứng nghiêm, Từ Trung Úy phải chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc Binh Sĩ không đủ thời gian đem súng xuống. Tại các Ðơn Vị, từ cấp Ðại Ðội Trưởng (Thiếu hoặc Trung Úy) mỗi khi ra vào cổng, Toán Binh Sĩ trực đã phải dàn chào dưới sự chỉ huy của Ðốc Canh.

Thời trước, Binh Sĩ chào súng theo kiểu Pháp, súng dọc thân mình phía phải, tay phải đỡ đế súng, bàn tay trái khép để trước súng, lòng bàn tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, nòng súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Ðoàn, súng vác vai, tay trái đặt ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước, giữa thân mình. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng. M16 loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai tay trái giữ dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác thì bộ máy cò sát vai (ngược lại kiểu xưa ngửa lên trời), mặt ngước về Thượng cấp. Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai tay mang xách hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào kính bằng cách ‘’hất mặt’’ về cấp chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ, nhà ăn, chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù trình diện cấp trên cũng chỉ đứng nghiêm (không chào nữa).

Khi Sĩ Quan vào phòng, Quân Nhân cao cấp nhất thấy trước sẽ hô ‘’phắc’’ hay ‘’vào hàng phắc’’ đối với  từ cấp Trung Tá (Ðơn Vị Trưởng) trở lên. Khi Thượng cấp rời khỏi phòng chỉ hô ‘’nghiêm’’. Khi hô ‘’vào hàng phắc’’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy (xạ thủ về trước súng,  âm thoại về trước máy…).

Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào kiếm trong Lễ mãn khóa của Sinh Viên Thủ Ðức dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong, đàng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bải chỉ đúng có vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp dưới mắt Cụ, Nhà Lãnh Ðạo gốc dân sự, chưa quen Lễ Nghi Quân Cách nên bước ngay xuống, dơ tay bắt tay Sinh Viên Thủ Khoa. Phần này không dự liệu nên anh Thủ Khoa hốt hoảng vã mồ hôi, nhất là nhìn tay Quốc Trưởng đã đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp, chuyển kiếm sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong khi tay trái cầm kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ anh được lãnh ngay lệnh phạt gia tăng từ  Ðại Ðội Trưởng lên tới Tướng Chỉ Huy Trưởng với lý do ‘’chào kính Nguyên Thủ sai quy cách’’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được bắt tay).

Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy Tỉnh, Quận vào những dịp cúng tế tại Ðình Miếu đã rất lúng túng hoặc hành xử sai quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương…có ông tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường được hỏi về thái độ thích nghi và đã cố giải thích: ‘’Với Quân Nhân cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu tượng Quốc Kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo Quân Cách. Quân Ðội không dự trù có trường hợp Quân Nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh, Quận Trưởng, cho dù với tư cách Thượng Khách, khi được mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay vì các động tác này không hề có theo Quân Cách). Việc cử hành lễ là hoàn toàn là quyền hạn và trách nhiệm của Ban Hương Chức. Nếu muốn bày tỏ cung cách nào khác hơn, hãy mặc thường hay quốc phục’’. Không biết các ý kiến Niên Trưởng ra sao? (Đúng!)

Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu…rất dài, phức tạp. Ðủ thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu hay toàn thể Chiến Hữu chứ đâu phải do một anh Lính ‘’tốt đen’’. Tuy vậy, đã là Lính từng biết hô lớn câu ‘’tan hàng, cố gắng’’ nên cuộc đời ‘’cố gắng’’ đã quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy.

Nhìn lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Ðiều này sao tránh vì chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của Ðồng Minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.

Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh thì mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do mình chọn từ chiến công, hình ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Ðằng, mũi khoan Yết Kiêu (Hải Quân, Người Nhái), ngựa sắt Phù Ðổng (Thiết Kỵ), lò đúc Cao Thắng (Quân Cụ), nỏ thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa Thành (Công Binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trãi (Tâm Lý Chiến)…kể sao cho hết.

Người viết, một Khinh Binh Việt Nam Cộng Hòa, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào Quốc Kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc, chào Quân Kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Ðội. Kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Anh Hùng Liệt Sĩ, Chiến Hữu đã hy sinh. Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến Chiến Hữu, Ðộc Giả. 

Nguyễn Đình Phúc

***

Xin kính gửi vài trang trong sách để quý vị xem. Michael Đỗ

Michael Do (Do Van Phuc)
Chairman of the Board of Directorss.
The Vietnamese American Community of the USA

Ai là người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ

Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên sang Hoa Kỳ kết mối bang giao hòa hiếu đồng minh, thì có một người đã sang Hoa Kỳ trước đó 20 năm để trở thành cao bồi. Ông là Trần Trọng Khiêm quê Phú Thọ. Tuy không phải là một sứ giả, nhưng cuộc đời ông Trần Trọng Khiêm

Tìm Vàng nơi đất khách
Theo như nghiên cứu của học giả Nguyễn Hiến Lê, ông Trần Trọng Khiêm sinh năm 1821 quê làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, nay là xã Xuân Lũng (Lâm Thao, Phú Thọ).
Năm ông 21 tuổi, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Trần Trọng Khiêm trong cơn uất hận đã ra tay giết chánh tổng báo thù cho vợ. Sau đó, ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc.
Suốt 12 năm ròng, từ 1842 – 1854, Trần Trọng Khiêm đi qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến TP New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường cho bốn năm phiêu bạt ở đất Hoa Kỳ.
Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi đến Hoa Kỳ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về TP San Francisco và làm ký giả cho tờ Daily News trong vòng 2 năm.
Trong một cuốn sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1937, có tác giả đã kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch vào giữa thế kỷ XIX. Họ đến từ nhiều nước rồi hợp thành đoàn đi sang miền Tây tìm vàng.
Miền Tây – đó bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm để mua lương thực và vũ khí. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng.
Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu. Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

Trở thành nhà báo


Theo tìm hiểu của học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ XIX, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp nhưng Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Hoa Kỳ.
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên là Lê Kim. Vì vẫn bị truy nã nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.

Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.

Khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Gần 10 năm sau, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội. Trong gia phả nhà họ Lê gìn giữ ghi lại lời trăng trối thì trước khi chết, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con; đồng thời căn dặn các con giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi.
Nghĩa quân chôn Lê Kim ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó ông vừa tròn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Hoa Kỳ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước. Dù cuộc khởi nghĩa của ông không thành công nhưng cũng thành nhân” như lời của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học đã nói.

Không Bỏ Bạn Lại

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa

Tháng Tám năm 1985.  Thành phố Los Angeles với nhà cửa san sát và xe cộ đông như kiến hiện rõ dần dưới ánh nắng chiều, tiếng cô tiếp viên hàng không loan báo phi cơ chuẩn bị hạ cánh khiến tôi háo hức.  Nhân đi công tác ở Palo Alto ở bắc California, tôi bay xuống Los Angeles chơi cuối tuần với vợ chồng Canh; Canh là bạn đồng nghiệp dạy ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Minh Đức.  Cuối tháng Sáu năm 1975, tôi đã gặp Canh trong trại tỵ nạn Trại Pendleton, nhưng từ đó đến nay mặc dù thư từ và điện thoại thường xuyên, chúng tôi chưa gặp lại nhau.  Canh mừng rỡ khoát tay lia lịa khi thấy tôi ở cuối jetway (hành lang dẫn từ phi cơ vào phòng đợi phi trạm).  Hai đứa ôm chầm lấy nhau; tôi nhìn bạn từ đầu đến chân và cố dấu vẻ xúc động,
            “Mày không chịu bơ sữa đế quốc hay sao mà người ngợm tang thương thế kia?”
            “Còn mày trông như thằng cha thiếu thuốc, có khác gì tao?  Chúng mình già rồi Ba Hoa ạ,” Canh đỡ lấy chiếc cặp da trên tay tôi.
            “Cô Lòng Heo. . . à Long Huê có khỏe không?  Chiều nay cô ấy đi làm hả?”
Ngày còn là sinh viên ban Điện tử của Đại học Khoa học Sài gòn, Canh bị bạn bè gọi đùa là “Tiết Canh.”  Khi Canh cặp bồ với cô sinh viên lớp Lý Hóa Nhiên (hay “chứng chỉ” SPCN) Long Huê người Việt gốc Hoa quê ở Rạch Giá, lũ bạn bèn tức cảnh sinh tình phang ngay cho nàng cái tên “Lòng Heo” để đi đôi với Tiết Canh cho . . . hợp duyên.  Canh mỉm cười trách nhẹ,
            “Mày chứng nào vẫn tật ấy!  Hôm nay bà ấy nghỉ làm ở nhà nấu nướng đãi mày.”
            “Tụi mày nhiễu sự, bày vẽ làm chi cho mất công.”
            “Mười năm mới có dịp đón tiếp gã nhà quê từ nơi đồng nội North Dakota đến thăm viếng chốn thị thành ấy mà!  Hôm nay có thằng Tiễn và vài người bạn ở quanh đây.”
Dễ đến mười tám, mười chín năm nay tôi mới gặp lại Tiễn.  Ngày đó, lớp đệ nhất niên ban kỹ sư của ba trường Công chánh, Công nghệ, và Điện học chung và học các môn khoa học cơ bản; Tiễn thuộc ngành Công chánh và tôi là dân Điện.  Mặt rỗ chằng rỗ chịt, người bé loắt choắt, giọng nói oang oang, và tính ưa nghịch phá, Tiễn lân la làm quen rồi chơi thân với tôi.  Tôi nghe từ vườn sau Tiễn cười vang kể chuyện xưa,
            “Trong giảng đường gần tám chục mạng mà chỉ có hai thằng đứng thẳng lưng là tao và thằng Chích Chòe.  Bọn cù lần kia sợ thầy như đĩ thấy cha, tối ngày đứng khom lưng một điều ‘Thưa giáo sư,’ hai điều ‘Dạ vâng, giáo sư.’”
            “Còn mày, phét lác cho lắm mà sao bị xoọc-ti lát thành dở ông dở thằng?” có tiếng hỏi vặn lại; “xoọc-ti lát” là “sortie latérale” tiếng Pháp nghĩa là ra trường ngang hay bị đuổi học.
            “Hà hà, ‘anh mày’ là dân chơisố dzách!  Tình cờ thấy ông Thế Trưởng ban Khoa học Cơ bản vào cầu tiêu sau giảng đường có ổ khóa treo lủng lẳng bên ngoài, tao bèn tiện tay lật bản lề, móc khóa vào bấm lại, và bỏ chạy một nước.  Sau đó ông ta biết tao là thủ phạm và ra tay trù tới nơi tới chốn.  Làm sao tao thọ sang năm thứ hai?”
Tiễn bắt tay tôi với nụ cười mở rộng đến mang tai; tôi hỏi,
            “Hai mươi năm rồi mà sao bạn ta không lớn thêm được tí ti nào?  Đã vợ con gì chưa hay vẫn phòng không chiếc bóng?”
            “Thứ nửa người nửa ngợm nửa đười ươi như nó, con Chín dưới đò cũng chê, đàn bà con gái ai mà thèm?” Canh cười khà khà khiêu chiến; “chín dưới đò” nói lái thành “chó dưới đình.”
            “Hôm nay có thằng Chích Chòe phương xa lại, tao tạm tha cho thằng Tiết Canh.  Vả lại, cô Lòng Heo hứa cho ăn ngon nên ‘anh nó’ nhường nhịn một tí cho phải đạo,” Tiễn vênh váo trả lời và giới thiệu người bạn đứng bên cạnh với tôi, “Thằng Hoàn ở chung nhà với tao.  Xưa kia nó có vợ đình huỳnh, nhưng khi dzọt khỏi Sài gòn, gặp ‘hên’ vợ ngủm củ lèo nên thành ra độc thân vui tính như tao.”
Hoàn trông tương phản với Tiễn một trời một vực:  thân hình cao lớn, hùng tráng khôi ngôi, nhưng vẻ mặt u sầu với đôi mắt buồn thăm thẳm.  Hoàn bước lại gần tôi nói nhỏ nhẹ,
            “Tôi là dân trung học Võ Tánh Nha Trang, hồi đi thi tú tài đã nghe danh ‘ông.’  Trong lúc ‘ông’ làm bá chủ hội đồng Võ Tánh cả hai năm, tôi chật vật lắm mới qua được cửa ải Tú tài I, nhưng năm sau trượt vỏ chuối trong hai kỳ thi Tú tài II.”
            “Sau đó ‘ông’ làm gì?”
            “Tôi tình nguyện đi sĩ quan Không quân.  Sau thời gian thụ huấn tại trường Sĩ quan Không quân Nha Trang, tôi đi Mỹ học lái phi cơ vận tải.  Đầu năm 1975, tôi là đại úy lái C-130 ở Không đoàn Chiến thuật XX trong căn cứ Tân Sơn Nhứt.”

C-130 Hercules (Dũng sĩ Hercules) là máy bay vận tải có bốn động cơ tua-bin cánh quạt có thể cất cánh và hạ cánh trên phi đạo ngắn không dự bị trước.  Gần cuối bữa tiệc thịnh soạn do Long Huê khổ công nấu nướng, và khi màn đấu láo của đám bạn dịu lại, tôi gợi chuyện với Hoàn,
            “Năm 1975, ‘ông’ ra đi bằng gì?  Chắc hẳn không phải là tàu Hải quân như tôi rồi.”
            “Tôi lái C-130 chở gia đình quân nhân Không quân trốn thoát qua căn cứ U-Tapao bên Thái Lan.”  Căn cứ Không quân U-Tapao được Hoa kỳ dùng làm căn cứ cho phi cơ oanh tạc B-52 đi giội bom thời chiến tranh Việt nam.
            “’Bà’ ấy mất vào lúc nào?” tôi ái ngại hỏi.
            “Quế Hương cũng là dân Nha Trang; nàng ra đi trong chuyến bay định mệnh đó.  Ở Sài gòn chỉ có hai đứa tôi, gia đình hai bên ở hết và kẹt lại ngoài Nha Trang,” với giọng nói buồn tênh, Hoàn chậm rãi thuật lại quãng đời đau thương mười năm trước.
* * *
Trong mấy tuần lễ cuối cùng của Việt nam Cộng hòa (“VNCH”), quân nhân Không quân, nhất là các phi công như Hoàn, công khai thảo luận và chuẩn bị di tản gia đình bằng máy bay của mình.  Ba giờ rưỡi sáng ngày 29 tháng Tư, đợt pháo kích đầu tiên của Việt Cộng vào căn cứ Tân Sơn Nhứt khiến Hoàn và Quế Hương thức dậy và sửa soạn ra đi.  Khoảng chín giờ, Hoàn trông thấy ông Phó Kiền lên trực thăng bay theo hướng đông về phía Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ ngoài hải phận quốc tế.  Chín giờ 45 phút, ban Tình báo căn cứ loan báo đợt pháo kích sắp tới sẽ gây thiệt hại rất nặng nề; đó là hiệu lệnh giờ G đã điểm.  Giờ thì mạnh ai nấy bay.
Hoàn và Quế Hương chạy như bay và leo lên chiếc C-130 chàng bay thường ngày, phi cơ đã đầy ắp người.  Chàng vội kiếm chỗ cho Quế Hương ngồi rồi bước ngay vào phòng lái mở máy cho phi cơ chạy từ từ ra phi đạo; nhiều người loi nhoi chạy theo và cố nhảy lên cửa trước còn để mở.  Ra tới phi đạo, chàng ra lệnh đóng cửa, gia tăng tốc độ, và cất cánh bay về hướng tây giữa lằn đạn pháo kích.  Đáp phi cơ xuống U-Tapao an toàn, chàng thở phào một tiếng nhẹ nhõm và đợi hành khách xuống hết mới ra khỏi phi cơ.  Trong khi mọi người được đưa tới khu tạm trú trong các nhà để máy bay, ba-rắc lính, và lều vải nhà binh, chàng kinh hoảng nhảy bổ đi tìm Quế Hương; không ai thấy nàng đâu cả.  Cuối cùng, chàng gặp anh hạ sĩ quan cơ khí quen, anh ta mếu máo,
            “Đại úy ơi, ở Tân Sơn Nhứt, khi cửa còn mở, bà đứng nghiêng mình ra ngoài giúp kéo những người đất lên.  Họ níu kéo chen lấn và đẩy bà rớt xuống, bà bị máy bay cán lên người.”
Trời đất sụp đổ trước mắt Hoàn.  Người vợ yêu quý chết tức tưởi.  Đi ra ngoại quốc làm gì khi lẽ sống duy nhất trong đời không còn nữa?  Chàng phải trở về Việt nam tìm xác nàng mai táng cho trọn tình trọn nghĩa.  Dù chết cũng về, nhất định thế.
Căn cứ U-Tapao trở thành trại tiếp cư cho 3,900 người di tản.  Vị chỉ huy trưởng là Đại tá Harold R. Dallas, một sĩ quan có ba mươi năm quân vụ, phải chạy đôn chạy đáo lo ăn ở cho đám người này.  Nhưng khẩn thiết hơn là ông phải di chuyển họ ra khỏi Thái Lan ngay lập tức.  Chính phủ Thái sợ Việt Cộng kiếm cớ gây hấn và xâm chiếm, nhất định đòi trục xuất họ ra khỏi nước, và đe dọa sẽ tống giam và hành hình nếu họ không tuân lệnh.  Bộ chỉ huy Không quân Hoa kỳ vùng Thái bình dương đóng tại Hạ Uy Di cấp tốc gửi 21 phi cơ vận tải hạng nặng C-141 sang để chở tất cả qua đảo Guam.
Khi những chiếc C-141 đầu tiên đáp xuống U-Tapao, Đại tá Dallas lại đương đầu với khó khăn mới:  Kể cả người phi công vừa mất vợ, có 65 quân nhân VNCH trẻ nói đã ra đi lầm và muốn trở về Việt nam.  Tất cả đều đi trên chiếc C-130 do Hoàn lái sang và do một thiếu úy tên Lý cầm đầu; Lý cùng tuổi với Hoàn và phục vụ ở phòng Kỹ thuật Không quân.  Đại tá Dallas cậy một đại tá Không quân là vị sĩ quan VNCH cấp bậc cao nhất thuyết phục 65 người đó đi sang Guam tỵ nạn; ông này vạch rõ ra rằng nếu họ trở về, Việt Cộng sẽ không dung tha và đem ra xử bắn như không.  Rốt cuộc, 52 người đồng ý đi Guam, nhưng 13 người còn lại (gồm cả Hoàn) kiên quyết, “Về hay chết tại đây!”
Mười ba người cực kỳ bướng bỉnh đó đặt Đại tá Dallas vào một hoàn cảnh vô cùng khó xử, giao họ cho chính phủ Thái là điều sau chót một chiến binh yêu thương đồng đội như ông muốn làm.  Giữa lúc đó, y sĩ của căn cứ đưa ra đề nghị:  Truyền thống của quân đội Hoa kỳ là không bỏ bạn lại (“no one left behind”), và nếu vì một lý do nào đó quân nhân bị thương thà chết chứ không chịu rời chiến trường, quân luật Hoa kỳ cho phép toán quân y dùng thuốc an thần để cưỡng bách tản thương.  Trong khi chiếc C-141 cuối cùng để máy nổ nằm chờ trên đường ra phi đạo, vị chỉ huy trưởng buộc lòng chấp thuận giải pháp này.
Người đầu tiên bị tiêm thuốc an thần là Lý, Lý vùng vẫy kịch liệt khi bị khiêng vào trạm quân y.  Mười hai người kia ngập ngừng, nhưng không kháng cự.  Theo đúng thủ tục, đại tá Dallas phái bốn quân cảnh và một y tá đi theo hộ tống họ.  Đến Guam, 13 người phản đối dữ dội, biểu tình tố cáo lính Mỹ “dùng thuốc mê để bắt cóc” họ, và khiếu nại với văn phòng đặc trách thỉnh nguyện hồi hương của Hoa kỳ.  Báo chí đăng tin và làm lớn chuyện khiến Đại tá Dallas bị cách chức và bắt buộc phải giải ngũ.
Kể đến đây, Hoàn mím môi cố nén nỗi bực tức,
            “Phải công nhận thằng Lý có tài xúi giục và huy động đám đông.  Ở Guam, nó cầm đầu những vụ biểu tình, cạo đầu, tuyệt thực, và có lần bạo động đốt doanh trại và đánh lính Mỹ bị thương.  Nhưng khi chính phủ Hoa kỳ đồng ý cho đi về bằng tàu Việt nam Thương tín thì trước ngày lên tàu nó xin ở lại.”
            “Mẹ nó, đúng là thằng Việt Cộng nằm vùng!  Xong công tác đó, nó ở lại Mỹ để tiếp tục đánh phá cộng đồng tỵ nạn,” tôi buột miệng la lớn.
            “Ai cũng thấy vậy; tôi còn nghi nó là thủ phạm gây ra cái chết của Quế Hương.  Tôi bèn đổi ý xin ở lại, đó là quyết định sáng suốt duy nhất của tôi trong gần sáu tháng trời.”
Thấy tên “Lý” nghe quen quen, tôi hỏi,
            “Bây giờ thằng Lý đó ở đâu, ‘ông’ biết không?”
            “Nó lấy vợ, và hai vợ chồng sống ở San Francisco và kết nạp bọn thân Cộng, gây quỹ, và ra báo tuyên truyền cho Cộng sản trên đất Mỹ tự do.  ‘Ông’ biết trong giới người Việt tỵ nạn mình có một nhóm võ trang bí mật tên là Việt nam Diệt Cộng Hưng quốc chứ?  Khoảng ba năm trước, họ gửi thư ngỏ cảnh cáo vợ chồng nó, nhưng cặp Cộng con không những không ngưng hoạt động mà còn lên mặt thách đố.  Nhóm Hưng quốc ra tay, vợ chồng nó bị bắn chết trước nhà, và cảnh sát địa phương và FBI (Văn phòng Điều tra Liên bang) điều tra mà không tìm ra manh mối.”
            “Đáng đời hai đứa gian ác!  Tôi có đọc vụ này trên cả hai tờ Time và Newsweek,” tôi gật đầu; Time và Newsweek là hai tuần san nổi tiếng phát hành tại Hoa kỳ và lưu hành khắp thế giới.
            “Mười năm qua, tôi rất ân hận về việc mình làm:  Với tư cách một quân nhân đồng minh, Đại tá Dallas đã áp dụng nguyên tắc ‘không bỏ bạn lại’ để cứu giúp 13 quân nhân Việt nam Cộng hòa.  Vậy mà tôi nghe theo lời kẻ gian và góp phần vào việc chấm đời binh nghiệp của một sĩ quan đáng kính.”
Tôi thấy có đến hai người đáng kính:  Một người là Đại tá Dallas – đã đành, người kia chính là Hoàn.  Dù trải qua bao nhiêu khổ đau mất mát, chàng can đảm nhận lỗi lầm của mình.  Tôi đâm ra phục người bạn mới quen.
Nguyễn Ngọc Hoa
 Ngày 9 tháng Mười, 2019

Quân Nhân Mỹ Gốc Việt

Tiệc Gây Qũy của VAUSA

Sĩ quan Hải quân Mỹ gốc Việt: Lý do, tiêu chuẩn, quyền lợi, nghĩa vụ người lính

Đại hội 10 Quân Nhân Mỹ Gốc Việt Niềm Hãnh Diện Người Việt QG

Gặp gỡ Thiếu Tá Hải Quân Hoa Kỳ người Mỹ gốc Việt – Diana Trần-Yu

Phỏng Vấn Quân Nhân Mỹ Gốc Việt Nhân Lễ Đặt Vòng Hoa Tưởng Niệm Tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ 2017

4 sĩ quan người Mỹ gốc Việt tốt nghiệp tại trường Võ Bị Quốc Gia West Point

Vì sao tôi chọn binh nghiệp?

Những mũi giáo đâm sau lưng

Vào những ngày tháng này, hầu như khắp miền Trung Việt Nam đều biến thành những “Đại Lộ Kinh Hoàng” với những cuộc chạy giặc đẫm máu. Người dân đã bỏ tất cả ruộng vườn, nhà cửa, băng rừng vượt suối mong thoát nạn cộng sản và tìm về nơi chốn bình yên. Sau cuộc chơi “thấu cấy” sai lầm từ Dinh Độc Lập nhắm vào Ban Mê Thuột, lòng dân ly tán và tinh thần binh sĩ suy sụp trầm trọng, nhất là từ lúc một số cấp chỉ huy đào ngũ ra đi. Tình trạng bi đát này đã dẫn tới biến cố 30 tháng tư với cuộc sụp đổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc. 
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản. 
Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:
Trên đời có bốn cái nguLàm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầuThứ năm ngu nhưng lại đứng đầuĐó là cuồng tín theo hầu cộng nô
Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như: Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH. 
Vào ngày 20/12/1960, con bài Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có: Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…
Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như: Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…
Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976. 
Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.
Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…
Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…)… Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.
Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.
Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)… 
Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần…
Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng. 
Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam. 
Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài. 
Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng. 
Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…
Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng.
Trong khi đó, đồng bào quốc nội hãy nhớ kỹ mặt những tên bán nước hại dân để chờ một ngày lôi chúng ra đền tội trước dân tộc.
Và ngày đó sẽ không còn xa nữa!
31/3/2018

Đỗ Hồng

https://www.dohongngoc.com/web/

06/09/1915: Xe tăng đầu tiên được sản xuất

Vào ngày này năm 1915, mẫu xe tăng nguyên bản có biệt danh là Little Willie đã được hoàn tất tại dây chuyền lắp ráp ở Anh. Little Willie hoàn toàn không phải là một thành công sau một đêm. Nặng 14 tấn, chiếc xe đã bị mắc kẹt giữa các chiến hào và chỉ có thể trườn qua địa hình gồ ghề với vận tốc hai dặm một giờ. Tuy nhiên, người ta đã có nhiều cải tiến so với nguyên mẫu ban đầu và xe tăng cuối cùng đã làm thay đổi tình hình tại các chiến trường.

Người Anh phát triển xe tăng nhằm đối phó với chiến tranh chiến hào (trench warfare) của Thế chiến I. Năm 1914, một đại tá của quân đội Anh tên là Ernest Swinton đã cùng với William Hankey, Thư ký Ủy ban Quốc phòng Hoàng gia, cố gắng thuyết phục mọi người ý tưởng về một chiếc xe bọc thép có bánh xe dạng băng chuyền có thể đâm xuyên qua phòng tuyến kẻ thù và vượt qua các địa hình khó khăn.

Hai người đã kêu gọi Bộ trưởng Hải quân Anh Winston Churchill, người luôn tin tưởng vào khái niệm “con tàu trên mặt đất” (land-boat) và từng tổ chức một Ủy ban Tàu Mặt đất (Landships Committee) để bắt tay phát triển một nguyên mẫu.

Để giữ bí mật cho dự án trước kẻ thù, các công nhân sản xuất đã liên tục được nhắc nhở rằng những chiếc xe mà họ đang chế tạo sẽ được sử dụng để vận chuyển nước trên chiến trường (nhiều câu chuyện khác thì nói rằng vỏ của những chiếc xe mới giống như thùng chứa nước). Dù có thế nào thì loại xe mới này cũng được vận chuyển trong các thùng có nhãn tank (vừa có nghĩa là bồn chứa, vừa có nghĩa là xe tăng) và cái tên ra đời từ đó.

Mẫu xe tăng đầu tiên, Little Willie (Willie Nhỏ), ra mắt vào tháng 09/1915. Sau màn thể hiện kém cỏi của nó – tốc độ quá chậm, dễ trở nên quá nóng và không thể vượt qua các chiến hào – nguyên mẫu thứ hai, được gọi là Big Willie (Willie Lớn) ra đời. Đến thời điểm năm 1916, chiếc xe bọc thép này được đánh giá là đã sẵn sàng chiến đấu và được sử dụng lần đầu tiên trong Trận Somme gần Courcelette, Pháp, vào ngày 15/09 năm đó. Được gọi là Mark I, những chiếc xe tăng quân sự đầu tiên này khá nóng, ồn ào và khó sử dụng, cũng như hay bị trục trặc cơ học trên chiến trường; tuy nhiên, mọi người vẫn nhận ra tiềm năng của xe tăng. Những cải tiến về thiết kế đã được thực hiện và trong Trận Cambrai vào tháng 11 năm 1917, 400 chiếc Mark IV đã chứng minh chúng thành công hơn nhiều so với Mark I khi bắt giữ được 8.000 quân địch và thu về 100 khẩu súng.

Xe tăng nhanh chóng trở thành vũ khí quân sự quan trọng. Trong Thế chiến II, chúng đã đóng một vai trò nổi bật trên nhiều chiến trường. Gần đây hơn, các xe tăng trở thành vũ khí cần thiết khi tham gia chiến tranh sa mạc (desert combat) trong xung đột ở Vịnh Ba Tư.

Tại sao Liên Xô giúp đỡ Bắc Việt?

Nguồn: Sergey Radchenko, “Why Were the Russians in Vietnam?”, The New York Times, 27/03/2018.

Ngày nay chúng ta đã biết được tại sao người Mỹ lại mất quá nhiều thời gian như vậy trước khi rút khỏi Việt Nam.

Nhưng nếu sự tham gia của Mỹ được hiểu rõ, người ta lại chẳng thể nói điều tương tự về siêu cường đối thủ của họ, Liên Xô. Người Liên Xô nhận được gì từ việc ủng hộ một cuộc chiến nơi rừng rậm xa xôi, gửi các cố vấn, vật tư và tiền của đến giúp đỡ Bắc Việt – chấp nhận thực hiện một hành động không chỉ làm đóng băng quan hệ Xô-Mỹ, mà còn có nguy cơ châm ngòi xung đột toàn cầu?

Có phải là bởi tầm quan trọng địa chính trị của Việt Nam? Hay là do mối bận tâm của Moskva về truyền bá tư tưởng cách mạng? Chúng ta thường có thói quen gán cho phía bên kia những tầm nhìn và mục đích mà ta không muốn làm cho bản thân mình. Thực ra, có nét tương đồng đáng kể giữa sự hiện diện của Mỹ và Liên Xô tại Việt Nam. Giống như người Mỹ, điều mà Moskva quan tâm nhất là uy tín của mình trên cương vị một đồng minh và một siêu cường, cũng như tính chính danh trong nước và quốc tế mà uy tín ấy mang lại.

Nikita Khrushchev, người tiên phong xoay trục Liên Xô sang thế giới thứ ba vào thập niên 1950, có rất ít sự quan tâm và kiên nhẫn dành cho Bắc Việt, những người mà ông tỏ ý nghi ngờ, đặc biệt là sau khi Hà Nội bắt đầu nghiêng về phía Trung Quốc trong chia rẽ Xô – Trung.

Việc Bắc Việt Nam đứng về phía Trung Quốc được xem là một động thái chiến thuật khi không có lựa chọn tốt hơn. Chính Khrushchev đã góp phần dẫn đến hành động đổi chiều khi từ chối cung cấp viện trợ, nhưng ông lại đổ lỗi rằng việc đánh mất Bắc Việt là do những mưu mô tưởng tượng của “con cháu gốc Hoa” (Chinese half-breeds) trong hàng ngũ lãnh đạo đảng của Việt Nam. Đối với Khrushchev, vấn đề Việt Nam chỉ là một khía cạnh trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn với Trung Quốc, và cụ thể hơn, chỉ là một khía cạnh khá bên lề.

Tất cả thay đổi khi Khrushchev bị lật đổ trong một cuộc “đảo chính” vào tháng 10/1964. Người kế vị ông, Leonid Brezhnev và Alexei Kosygin, muốn chứng minh rằng họ thực sự trung thành với cam kết khi đồng minh cần cung cấp viện trợ quân sự. Lý do cơ bản là lãnh đạo mới của Liên Xô đang phải đối mặt với sự thiếu hụt tính chính danh. Giúp đỡ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại “chủ nghĩa đế quốc” sẽ giúp họ được công nhận – bởi nhân dân, anh em và đồng minh của họ, cũng như bởi thế giới nói chung – về tư cách là người thừa kế hợp pháp vai trò lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa. Cũng vì lý do tương tự, Moskva đã cố gắng cải thiện quan hệ với Trung Quốc.

Tuy nhiên, Mao Trạch Đông lại chẳng mảy may đáp lại. Điều này càng trở nên rõ ràng trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kosygin hồi tháng 02/1965. Vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã nói về sự cần thiết của một “hành động thống nhất” nhằm giúp đỡ nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Mao đáp lại lời đề nghị ấy bằng sự mỉa mai thù địch, tuyên bố trước Kosygin rằng đối đầu Trung – Xô sẽ kéo dài cả một vạn năm. “Mỹ và Liên Xô giờ đây đang quyết định vận mệnh thế giới,” Mao nói một cách chua chát. “Thế thì cứ đi mà tự quyết định.” Ông tỏ ra không chút bận tâm đến chiến sự leo thang ở Việt Nam: “Vậy thì sao? Có gì là khủng khiếp khi một số người phải chết?” – và phản đối lo lắng của Kosygin về xung đột ngày càng sâu sắc bằng lời kêu gọi lạc quan tiến hành một cuộc “chiến tranh cách mạng.”

Khi quan hệ của Moskva với Trung Quốc tiếp tục xấu đi, Hà Nội cũng chuyển dần từ lập trường thân Trung Quốc sang vị thế trung lập hơn. Đó là bởi vì Bắc Việt cần vũ khí của Liên Xô, đặc biệt là các tên lửa phòng không tiên tiến, để tự bảo vệ mình trước các đợt ném bom của Mỹ. Nhưng Cách mạng Văn hóa Trung Quốc cũng là một phần nguyên nhân. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã phẫn nộ trước việc Bắc Kinh khuấy động chủ nghĩa cực đoan trong cộng đồng người Hoa khá lớn đang sinh sống ở miền Bắc Việt Nam. Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Vinh, vào năm 1967, thời điểm đỉnh cao của sự tham chiến của người Mỹ, nói rằng “Nghe thì có vẻ nghịch lý nhưng người Việt Nam không sợ người Mỹ mà sợ các đồng chí Trung Quốc.”

Căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hà Nội trở nên rõ rệt hơn vào năm 1971, sau chuyến đi bí mật của Henry Kissinger đến Trung Quốc và các thông báo về chuyến thăm sau đó của Nixon. Bắc Việt đã không được hỏi ý kiến và đương nhiên cảm thấy bị phản bội. Nhưng có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn: Người Trung Quốc và người Việt Nam có những quan điểm rất khác nhau về tầm quan trọng tương đối của họ. Các lãnh đạo Trung Quốc coi Bắc Việt là thuộc hạ. Họ đã giúp Bắc Việt. Họ chỉ dẫn cho Bắc Việt. Và cái họ mong chờ là sự thần phục. Nhưng người Việt lại không chịu thần phục. Sau nhiều năm chiến đấu chống lại Mỹ, họ cảm thấy mình có quyền tuyên bố là lãnh đạo cách mạng, ít nhất là ở Đông Nam Á.

Đây là thông điệp mà tướng Võ Nguyên Giáp mang đến Moskva vào tháng 12/1971, khi Bắc Việt đang chuẩn bị cho cuộc tổng  tiến công mùa xuân để giáng đòn cuối cùng vào Nam Việt Nam. Ông Giáp hứa hẹn rằng chiến thắng chung của liên quân Xô – Việt tại Việt Nam sẽ đưa Hà Nội vươn lên hàng ngũ lãnh đạo, đồng thời trở thành đầu cầu của chủ nghĩa xã hội ở thế giới thứ ba. “Chúng tôi muốn thực hiện nhiệm vụ này cùng với Liên Xô, bởi vì không ai có thể làm điều đó mà không có Liên Xô,” ông nói. Các nhà lãnh đạo Liên Xô ủng hộ thông điệp này, đặc biệt là sau khi ông Giáp hứa sẽ cho Liên Xô quyền đóng lực lượng hải quân tại Vịnh Cam Ranh mà khi ấy vẫn do Mỹ kiểm soát.

Có những nguy hiểm trong việc ủng hộ thái độ quân sự cứng rắn của Hà Nội. Sự khởi động lại các trận đánh lớn vào tháng 03/1972 đã đe dọa bước tiến trong hòa hoãn Mỹ – Xô. Sau khi người Mỹ đáp trả các chiến dịch phản công của Hà Nội bằng các đợt tấn công ném bom trên diện rộng, một số người trong giới lãnh đạo Liên Xô, bao gồm Kosygin, đã đề xuất hủy bỏ hội nghị thượng đỉnh sắp tới ở Moskva. “Anh đang đùa à?,” Brezhnev hỏi. “Tại sao không chứ!,” Kosygin đáp. “Đây có thể là thứ bom chúng ta cần.” “Đây là một quả bom, đúng vậy,” Brezhnev nhận xét, “nhưng ai sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn?”

Brezhnev coi hòa hoãn là một thành tựu cá nhân và không sẵn sàng hy sinh nó vì lợi ích của Việt Nam. Tuy nhiên, ông cũng không sẵn lòng gây áp lực với Việt Nam chỉ vì mối quan hệ tốt hơn với Mỹ, ý tưởng mà Kissinger và Nixon gọi là “mối liên hệ” (linkage). Điều mà bộ đôi người Mỹ chưa hiểu rõ là Việt Nam là một yếu tố quan trọng trong nỗ lực trở thành lãnh đạo toàn cầu của Brezhnev. Sự ủng hộ của Liên Xô dành cho Hà Nội là điều khiến Liên Xô trở thành một siêu cường thực sự và ngang hàng với Mỹ.

Nixon cũng từng nhớ lại việc bị bất ngờ trong Thượng đỉnh Moskva tháng 05/1972, khi Brezhnev, “người mà phút trước còn cười nói vỗ vai tôi, bỗng bất chợt la hét giận dữ,” ông cáo buộc Mỹ đã phạm những tội ác khủng khiếp ở Việt Nam. Brezhnev làm thế bởi ông phải bảo vệ uy tín của mình trước các đồng nghiệp và trước Bắc Việt. “Tôi cho rằng tôi hay các đồng chí của tôi chưa từng phải nói chuyện với bất kỳ ai một cách mạnh mẽ và gay gắt như khi chúng tôi nói chuyện với Nixon về Việt Nam,” Brezhnev sau này kể lại cho Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng như vậy.

Quan hệ Trung-Việt thời điểm đó đã xuống một mức thấp mới. Tính đến mùa hè năm 1973, khi Mỹ đang hoàn thành việc rút quân, Lê Duẩn bắt đầu lo lắng về Trung Quốc, nói với Brezhnev rằng ông nghĩ Mao đã lên kế hoạch “xâm chiếm toàn bộ Đông Dương và Đông Nam Á khi thời cơ đến.” Brezhnev tiếp tục hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam – lần này là chống lại người hàng xóm phía bắc của họ.

Chi phí tái thiết sau chiến tranh là rất lớn. Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đã thẳng thắn với Brezhnev về những kỳ vọng của Hà Nội: Sẽ phải có một nguồn viện trợ rất lớn từ Liên Xô để giúp “công nghiệp hóa” Việt Nam, từ đó cho toàn bộ Đông Nam Á thấy lợi ích thiết thực của định hướng xã hội chủ nghĩa. “Chúng tôi chẳng có gì cả,” Lê Duẩn nói với Brezhnev, hàm ý rằng mọi thứ sẽ phải đến từ khối Xô Viết trong vòng 10 đến 15 năm tiếp theo.

Brezhnev đồng ý xóa tất cả các khoản nợ của Hà Nội. Đồng thời, họ vẫn tiếp tục cho vay thêm, và đến năm 1990, Việt Nam đã nhận được hơn 11 tỷ đô la viện trợ, hầu hết trong số đó không bao giờ được hoàn trả. Trợ cấp cho Việt Nam trở thành gánh nặng quá lớn đối với nền kinh tế Liên Xô trong thập niên 1980, góp phần khiến cho Moskva kiệt quệ.

Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc với chiến thắng của phía Liên Xô và Việt Nam, nhưng chí ít là với Moskva, đó là một chiến thắng với cái giá quá lớn. Duy trì các đồng minh phụ thuộc là điều tốt cho uy tín của một siêu cường và cho tính chính danh của các nhà lãnh đạo, nhưng nó không tốt cho ngân sách nhà nước. Chính sách của Nga trong những năm gần đây, đặc biệt là trong các hoạt động tại Syria, gợi nhớ đến những hành động vì tính chính danh trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh ở Việt Nam. Và hậu quả lâu dài của hành động này cũng sẽ không kém phần thảm khốc.

Serge Radigan là Giáo sư Quan hệ Quốc tế tại Đại học Cardiff, Wales.