Chuyến Đi Định Mệnh

Thương Tiếc Những Anh Hùng Biệt Hải Đi Không Về

– (Tưởng nhớ cố Trung Sĩ I Nguyễn Văn Tiến mắc nạn trên đường rút lui và cố Trưởng Toán Nimbus Nguyễn Văn Ấn)Toán Nimbus chúng tôi vừa học xong lý thuyết những loại vũ khí thường được sử dụng mỗi lần đi công tác. Tan giờ, mọi người ra ngồi đứng đợi sẵn sàng chờ xe chạy tới chở ra xạ trường thực hành tác xạ. Bất chợt thấy chiếc xe Jeep do một cố vấn Hoa Kỳ phụ trách liên lạc của toán từ Bộ Chỉ Huy lái xuống dừng lại tắt máy, đậu ngay trước cửa phòng ngủ của toán.Sau đó, ông ta hối hả đi vào gọi riêng trưởng toán đi họp. Trước khi cùng viên cố vấn bước ra khỏi cửa, người trưởng toán ngồi lại dặn dò chúng tôi: “Các anh ở đây chờ tôi đi họp về”. Rồi ông tất tả lên xe cùng viên cố vấn đi khuất.Nhận thấy sự việc sáng nay chương trình được biến đổi một cách đột ngột, thay vì chở ra bãi tập thì nay phải ngồi tại phòng chờ đợi. Thấy thế, có anh vội vã lên tiếng: “Theo tình hình này, thế nào bọn mình cũng có công tác và chắc chắn thuộc loại công tác CADO xâm nhập”. Vì công tác LOKI là khám thuyền bắt người nên ít khi cấp trên gọi trưởng toán đi họp một cách khẩn cấp như vậy.**************Khoảng hai giờ sau, đúng như dự đoán của mọi người, trưởng toán đi họp về. Ông vào phòng vội vàng ra lệnh tập họp anh em và cho biết toán Nimbus được lệnh cấp trên kể từ hôm nay, tất cả mọi người đặt trong tình trạng cấm trại hành quân chuẩn bị cho chuyến công tác xâm nhập sắp tới.Theo ông, nhiệm vụ chuyến này có phần phức tạp và đầy khó khăn. Bằng phương cách nào đó, toán phải tìm bắt cho được một cán bộ cao cấp của Bắc Việt trong làng. Còn những chi tiết khác chẳng hạn như địa điểm công tác hoặc tình hình nơi chốn sắp sửa thi hành thì chúng tôi không được trưởng toán cho biết. Đồng thời, ông tự mình tuyển chọn chín nhân viên trong số nhiều anh em hiện diện.Đặc biệt, chuyến này trưởng toán còn chỉ định hai tiền sát viên có thổ âm gốc người miền Bắc Trung phần (Nghệ-Tĩnh-Bình). Không khí buổi họp sáng nay diễn ra hết sức nghiêm trọng. Những tiếng đùa giỡn hằng ngày của các tay quậy phá bây giờ biến mất, nhường chỗ cho sự căng thẳng suy tư của số anh em được chọn đi công tác. Vài ý kiến được nêu lên về nhân sự tham dự lần này quá ít, nhưng được ông trả lời vắn tắt: “Càng ít chúng ta càng dễ dàng xoay xở”.Vấn đề điều hành công tác hiện vượt ngoài khả năng và thẩm quyền của mỗi nhân viên. Từ vùng xa xôi miền Nam gửi toán ra hoạt động tận ngoài làng xã miền Bắc đâu phải là chuyện dễ dàng! Tất cả phong cảnh địa thế hoàn toàn khác lạ. Đặc biệt công tác được thi hành vào lúc ban đêm, chẳng khác chi như đám “người mù sờ voi”. Chưa nói đến vấn đề phòng thủ hết sức nghiêm ngặt mà chính quyền Cộng Sản Bắc Việt đang áp đặt lên dân chúng miền Bắc bằng phương pháp kiểm soát hộ khẩu từng thôn ấp, từng địa phương hết sức tinh vi khắc nghiệt.Ngay trong các ghe đánh cá ngoài khơi cũng có các cán bộ của hợp tác xã ngư nghiệp hoặc công an đi theo kiểm soát. Bằng chứng là một số tù binh cán bộ Bắc Việt khi bị bắt đưa về giải giao căn cứ Phượng Hoàng thuộc Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc họ đều khai báo mọi mặt, đủ cho biết đời sống dân chúng miền Bắc thời đó rất khác xa với đời sống trong miền Nam tự do.Vào thời điểm này hệ thống phòng thủ nhân dân miền Bắc đã được kiện toàn hết sức chặt chẽ, khiến mọi toán viên chúng tôi thật rất lo lắng nhất là khi nghe trưởng toán đề cập tới nhiệm vụ vào làng tìm bắt cán bộ, tức là đã tự “tìm vào cái bẫy của chúng”. Tuy rằng ngoài mặt ai nấy vẫn tỏ thái độ hết sức trầm tĩnh, cốt không để lộ tình cảm dao động, nhưng ai nấy cũng dư hiểu và ý thức cao độ chuyến đi lần này được thành công an toàn trở về đều do ở tinh thần liên đới của đồng đội. Bằng ngược lại thì hậu quả thật khó đo lường.Bắt đầu từ chiều hôm đó, cứ mỗi buổi tối khi mặt trời đã tắt bóng và màn đêm phủ xuống, chín nhân viên kể cả trưởng toán là mười và số cố vấn SEAL huấn luyện, tất cả âm thầm đi ra bờ biển cách cổng trước của trại 9 lực lượng Biệt Hải khoảng 500 thước thực tập. Có đôi lúc toán được học tập phía cổng sau sát gần chân núi. Trong giờ huấn luyện, tuy không ai nhắc nhở cho ai nhưng tất cả đều ý thức và chăm chú học tập. Lúc thì ở ngồi khơi dùng thuyền cao su bơi vào bờ, khi thì tập di hành rất xa trên nhiều địa hình khác biệt.Có nhiều đêm, cả toán bất ngờ tìm cách đột kích chớp nhoáng vào các phòng ngủ của trại Dân Sự Chiến Đấu, là đơn vị phòng thủ của doanh trại Biệt Hải hay phòng ốc của các cố vấn Hoa Kỳ, tìm bắt những ai hiện diện trong đó giả như tù binh và dẫn tất cả ra ngoài bờ biển, hầu giúp cho nhân viên toán làm quen với phần vụ trách nhiệm y như lúc thi hành thật sự.Vài ngày cuối cùng trước khi chính thức thật sự ra đi, toán Nimbus chúng tôi được các chiến đỉnh PTF chở đến thực hành công tác tại những vùng dân cư xôi đậu nằm phía trong bờ biển Cửa Đại, Hội An-Quảng Nam, hoặc dọc bờ biển Quảng Ngãi đi vô. Những vùng này ban đêm hoàn toàn do bọn du kích thổ phỉ cộng sản kiểm soát. Mục đích là cấp trên muốn đo lường khả năng ứng phó của toán, và đồng thời giúp nhân viên trong toán quen với tình huống của mục tiêu miền Bắc sau này. Đa số những toán thực tập vào vùng xôi đậu đều đã chạm địch và thỉnh thoảng cũng xảy ra thương vong. Thời gian huấn luyện trôi qua thật nhanh và ngày giờ công tác thật sự đã điểm!Giữa tháng Sáu năm 1967 vào buổi chiều, trước giờ khởi hành tất cả nhân viên công tác đều có mặt tham dự một buổi thuyết trình ngắn gọn. Toán gồm mười anh em, chia nhau ngồi vòng tròn trong văn phòng của toán Nimbus. Các lần thuyết trình công tác như thế này hoàn toàn không có cố vấn Mỹ tham dự mà do nhân viên Việt Nam phụ trách. Thỉnh thoảng mới có các cán bộ cao cấp của sở xuống dự thính.Trước mặt mọi người đặt một sa bàn do phòng hành quân thiết kế hết sức tỉ mỉ. Trong đó hiện lên những con đường quanh co dẫn tới bìa làng, địa thế sông rạch, cây cối, nhà cửa tất cả đều được dẫn giải hết sức đầy đủ. Phía trên tường treo hơn chục tấm không ảnh U2 trắng đen, tất cả đều lờ mờ không mấy rõ ràng do máy bay thám thính trên cao chụp được và ghi theo số thứ tự. Bên cạnh một tấm bảng đen có ghi ngày, tháng đề rõ mục tiêu thuộc tỉnh… Bắc Việt.Theo thuyết trình viên trưởng toán, đêm nay chúng ta nhận nhiệm vụ đi vào Quảng Bình tìm bắt một cán bộ cao cấp từ Hà Nội mới tới theo nguồn tin tình báo cho biết.Thoạt nghe, tất cả đều tưởng tượng như truyện trinh thám nhưng khác ở chỗ đây là lệnh công tác thật sự mà mọi người bắt buộc phải thi hành. Tất cả anh em có mặt trong phòng thảy đều hồi hộp im lặng và cố lắng nghe, ghi tâm những lời trình bày hết sức mạch lạc của người trưởng toán qua lời lẽ đầy vẻ cương quyết khiến không khí căn phòng bây giờ trở nên yên tĩnh khác thường. Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ông nhìn không chớp. Thỉnh thoảng, vài câu hỏi được nêu ra từ những thắc mắc của các toán viên nhưng không kém phần nghiêm túc.Cuối cùng, mọi người đều thấu hiểu về tầm quan trọng của chuyến công tác đêm nay. Trước khi chấm dứt ông tiếp, tất cả cấp trên họ đều mong muốn chúng ta hoàn tất nhiệm vụ, mọi người có mặt đồng loạt đáp lại “cố gắng”.Toán rời trại đúng bốn giờ chiều cùng ngày gồm mười toán viên với hai xuồng cao su được đặt trên một trong hai chiếc GMC đều mang số xe ẩn tế màu xanh lá cây, có chữ T ở đầu. Đến phiên mọi người lặng lẽ nối gót leo lên ngồi đối diện hai bên thành ghế. Trần xe sau đó được người tài xế Mỹ kéo xuống bao phủ kín mít. Lần này cũng do hai người tài xế cố vấn của toán chở thẳng xuống cầu tàu ở bên kia đường, cách trại Trần Hưng Đạo của lực lượng Hải Tuần khoảng vài trăm mét.Đoạn đường này chúng tôi từng đi qua nhiều lần nên đã quá quen thuộc. Thời gian hơn nửa tiếng đồng hồ ngồi trên xe ai nấy bất động. Thỉnh thoảng chỉ nhìn nhau một cách trầm ngâm như ngầm chia sẻ nỗi khó khăn bất trắc trong những giờ sắp đến. Quả thật tình đồng đội chưa lúc nào cảm thấy trân quí như lúc bấy giờ và nó đã tự vượt ra ngoài khuôn khổ tình cảm của gia đình vợ con.Trong thời gian vỏn vẹn vài giờ nữa thôi, con tàu định mệnh sẽ chuyên chở mọi người âm thầm chạy qua khỏi vĩ tuyến 17 để thi hành một phần vụ hết sức táo bạo và nguy hiểm. Trong lòng tôi chợt nghĩ dại, biết đâu trong số anh em và cả chính tôi sẽ không có may mắn để gặp lại người thân sáng sớm hôm sau!Nhận xét chung của anh em chúng tôi là mỗi lần có tên đi thi hành công tác thì ai nấy đều tâm trạng xôn xao, hồi hộp. Nhưng có một điều thật lạ lùng và khó hiểu là khi đã đặt chân trên phần đất địch thì sự lo sợ ban đầu bỗng nhiên tiêu tan. Bấy giờ chỉ biết hoàn tất nhiệm vụ nhanh chóng để kịp thời gian trở ra điểm hẹn.Mải suy nghĩ vẩn vơ, hai chiếc GMC chạy tới bến tàu lúc nào không hay và hiện dừng lại trên một khoảng đất trống, gần cầu tàu bên cạnh văn phòng hành quân của Sở. Người trưởng toán ngồi trước cạnh viên tài xế Mỹ vội vàng nhanh nhẹn mở cửa xe, đi thẳng vào phòng Bộ Chỉ Huy hành quân họp bàn lần cuối cùng với những sĩ quan cao cấp Việt-Mỹ và các hạm trưởng PTF tham dự. Mục đích là để mọi phía phối hợp chặt chẽ cho chuyến công tác xâm nhập của toán tối nay. Phía ngoài, nhân viên chúng tôi cặm cụi chuyền mang hành lý cá nhân, phụ khiêng xuồng cao su, máy, bình xăng v.v…, tất cả dụng cụ được mang xuống đặt trên boong tầu của chiếc PTF phụ trách chở toán.Đúng năm giờ chiều, một hồi còi trên đài chỉ huy tàu PTF hú vang báo hiệu đoàn tàu sắp sửa rời bến. Thời tiết Tháng Sáu bắt đầu chuyển sang Mùa Hè nên bầu trời trở nên trong xanh và quang đãng, không một gợn mây. Quanh vùng vịnh của Tiên Sa đều sóng êm gió lặng khiến tất cả anh em đều muốn ngồi lại trên boong phía sau phòng lái cố nhìn ngắm cảnh sắc lần cuối.Xa gần, một số ghe thuyền dân chúng hành nghề đang chạy xuôi ngược nom thật vui mắt. Mọi người đang được hít thở không khí trong lành của gió biển thổi tới, khác hẳn với những lần mưa to gió lớn khi mọi người đành phải chui xuống hầm tàu chật chội, ngửi toàn mùi dầu máy bốc ra rất khó chịu, cộng thêm với tiếng máy chạy đinh tai nhức óc làm mọi người dễ bị say sóng.Trong lúc đó, ba chiếc chiến đỉnh PTF nhờ thời tiết thuận lợi vẫn lầm lũi thả hết tốc độ phăng phăng tiến lên phía Bắc. Nhiều đợt sóng lớn nhỏ ầm ầm ập tới nhưng không đủ sức mạnh để ngăn cản đoàn kình ngư từ phương Nam đang chở mười chiến sĩ Biệt Hải tiến vào mục tiêu. Lợi dụng thời gian tầu đang hải hành, mọi người cố tìm cho mình một chỗ khuất gió nằm tĩnh dưỡng dỗ dành giấc ngủ, hầu tăng thêm tinh thần và niềm tin trong những giờ sắp đến.Khoảng chín giờ đêm, một hồi còi ngắn từ phòng lái vang lên báo cho nhân viên biết giờ sẵn sàng đổ bộ. Hiện con tàu sắp sửa tiến vào điểm mục tiêu của công tác. Sau khi hồi còi chấm dứt, trong phòng bây giờ chẳng ai gọi ai, từ trưởng toán đến nhân viên, mọi người nhất loạt ngồi dậy kiểm soát lại cho mình lần cuối, tất cả dụng cụ mang theo như súng đạn, áo phao, đèn pin, súng hỏa châu đeo vào cổ để bắn báo hiệu cấp cứu khi cần thiết. Trong khoảng khắc, mọi thứ xong xuôi chỉ đợi hạm trưởng ra lệnh.Đang loay hoay đứng trông vào bờ tìm kiếm vị trí, bỗng ai đó bên cạnh (trời tối nên tôi không nhớ rõ) vỗ vai trao tôi điếu thuốc đang cháy dở dang, bảo hít vài hơi trước khi xuống thuyền cho đỡ thấm lạnh. Nhận điếu thuốc đúng trong lúc lòng đang thèm khói, tôi vội vàng rít liên tục mấy hơi liền, lòng thầm cám ơn lòng tốt của người bạn nhưng trong đầu vụt lên ý nghĩ, tí nữa đây vào bờ nếu chẳng may gặp nạn liệu ta còn có cơ hội để hưởng giây phút thần tiên này nữa hay không?Vừa lúc đó, tiếng hạm trưởng từ phòng lái dùng loa phóng thanh ra lệnh thả toán đã vội kéo tôi về với thực tại. Hai thuyền cao su được mọi người phụ giúp thòng dây cho thả nhẹ nhàng xuống nước. Tiếp đến, nhân viên phụ trách lái thuyền nổ máy. Vài tiếng ơi ới của anh phụ trách lái thuyền từ dưới vọng lên nhờ các bạn Hải Tuần trên tàu mở dây. Trưởng toán Ấn với hải bàn trên tay chỉ hướng cho thuyền cao su trực chỉ chạy ngay vào bờ biển Quảng Bình. Một lúc sau ngoảnh đầu nhìn lại thấy các PTF xa dần rồi thoáng chốc biến mất hẳn trên mặt biển tối đen.Hiện giờ trong đất liền thấp thoáng nhiều đám cháy đang lập lòe mỗi lúc một lớn dần theo hướng tiến của hai chiếc thuyền cao su đang đà chạy vào. Tất cả đám cháy này đều phát xuất do các phi vụ do không lực Hoa kỳ từ hạm đội bay vào oanh tạc. Phía dưới đất, nhiều đường đạn lửa phòng không của bộ đội Bắc Việt bắn lên cùng lúc.Tiếp theo là ánh sáng hỏa châu từ các phản lực cơ lần lượt bung ra để ngăn cản hỏa tiễn tầm nhiệt trong đêm khiến cho vùng trời Quảng Bình rực sáng đã giúp chúng tôi ở ngoài thuyền trông thấy một cách dễ dàng. Mọi người trên thuyền đều nghĩ không ngờ chiến trường miền Bắc cũng sôi nổi tang thương, đâu thua kém gì chiến trường trong miền Nam hiện thời.Trưởng toán Ấn ngồi cạnh cầm máy liên lạc báo thẩm quyền ngồi PTF biết hiện hai thuyền cao su đã tiến gần sát mục tiêu. Bất chợt, ông bảo người lái thuyền tắt máy rồi ra dấu cho mọi người lấy dầm chèo tay chèo nhè nhẹ cho thuyền tiến vào bờ vì sợ tiếng máy trên xuồng cao su gây nên tiếng động tạo sự chú ý cho những toán dân quân bộ đội đang tuần tiễu trên bờ.Khi thuyền cao su cách bờ khoảng 1,000 mét ông bèn cắt hai người ở lại giữ thuyền và dặn dò họ phải bảo vệ cẩn thận. Còn lại tám người, chân nhái súng đạn nhẹ nhàng lao mình xuống nước, bám nhau bơi thẳng vào bờ. Khi chân chấm đất, hai tiền sát vội chia hướng chạy lên phía trước quan sát địa thế. Hồi lâu, một trong hai người đứng trên ra dấu an toàn bằng đèn hiệu. Nhận đúng ám hiệu, trưởng toán Ấn cho lệnh tất cả chạy nhanh về hướng tiền sát đang đợi.Theo sự hoạch định ở phòng thuyết trình thì toán có bổn phận len lỏi tìm kiếm đến nhà cán bộ, nhưng khổ nỗi trước mắt hiện thời quang cảnh hoàn toàn khác hẳn những gì đã được mô tả trong phòng thuyết trình. Từ thời tiết đến cảnh vật, tất cả đều lạ lẫm thì làm sao tìm đến được nhà cán bộ trú ngụ lúc này! Giờ thì “một phút lỗi lầm, ngàn năm di hận”.Sau mấy phút suy nghĩ, trưởng toán Ấn nhanh chóng quyết định, gọi hai tiền sát đến bảo nhỏ, hai anh cố bám theo đường mòn đi lần tới bìa làng rồi tìm vào căn nhà đầu tiên ráng bắt cho được một người, bất luận đàn ông hay đàn bà rồi khôn khéo dụ hỏi may có thể tìm ra manh mối.Hai người tiền sát y lời cùng sáu anh em âm thầm mò mẫm lần tới. May thay họ đã gặp được một căn nhà lá xiêu vẹo nằm trơ trọi đầu xóm, sát bên lề đường. Theo lời căn dặn của trưởng toán, Thi và Tiến len lỏi vào đứng trước cửa nhà gõ cửa. Ở trong có tiếng vọng ra hỏi lớn: “Ai đó?” ù ù. Với giọng phát âm rất đúng địa phương Quảng Bình, Thi lên tiếng: “Tụi tui là công an của huyện, yêu cầu đồng chí mở cửa”.Cánh cửa phên từ từ hé mở. Một người đàn ông lớn tuổi đứng trong ló đầu ra ngoài, trên tay đang cầm một ngọn đèn dầu đốt bằng tim bấc. Khi ông này nhìn thấy hai người tiền sát tất cả đều mặc áo quần bà ba đen, quần xắn ống cao ống thấp lộ hẳn đôi dép râu Bình Trị, trên vai cả hai đều mang AK-47 như thể các công an của huyện xã thứ thiệt làm cho người đàn ông tưởng thật không tỏ vẻ nghi ngờ. Sẵn đó, hai anh liền yêu cầu ông ra trước sân nhà nói chuyện cho tiện.Lúc đó tổ bắt tù binh ai nấy bố trí sẵn sàng trong các lùm cây bên hông nhà. Vừa trông thấy người đàn ông lững thững đi ra, nhanh như cắt tất cả nhảy ra cùng một lượt mạnh tay đè người đàn ông này xuống, lấy còng khía vào hai cổ tay và đồng thời dí súng vào bên hông dẫn người thường dân kia vừa đi vừa chạy, thoát nhanh khỏi căn nhà một quãng khá xa.Lúc ấy cả thân người ông run lên bần bật, miệng thốt không thành tiếng. Từ trong bóng đêm, trưởng toán đi lại ghé sát tai người thường dân và hỏi: “Đồng chí có biết chỗ ở của người cán bộ mà hiện chúng tôi muốn gặp hay không? Hãy suy nghĩ và nên thành khẩn khai báo sự thật, nếu cứng đầu la lên e rằng khó toàn tánh mạng”.Theo kinh nghiệm các chuyến trước đây, lúc này nhất cử nhất động của người đàn ông đều được anh em trước sau để mắt theo dõi. Chúng tôi được ông chấp nhận hướng dẫn toán băng qua nhiều căn nhà trong xóm. Từ nãy đến giờ tính ra khá lâu, có lẽ vì sự nôn nóng của chúng tôi, phần nữa vì không thấy ông dừng lại nghỉ đã làm mọi người lắm lúc đâm ra hồi hộp. Cũng may chưa nghe được tiếng chó sủa trong xóm. Thình lình mọi người thấy ông đứng lại trước mặt một căn nhà cuối xóm rồi lấy tay chỉ vào và nói: “Nè nhà của eng (ông) cán bộ các eng muốn hỏi ở chỗ nớ tề”.Giờ phút này chúng tôi mới thật sự an tâm vì đã đến được mục tiêu nhưng rồi âu lo chuyện khác vì không biết kết quả sắp tới thế nào? Từng tổ tự động chia ra nằm ngồi chờ đợi khoảng ba phút, cốt để theo dõi tình hình chung quanh rồi mới quyết định.Phía trong căn nhà hiện vẫn hoàn toàn vắng lặng. Ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu leo lét trong nhà tỏa không đủ sáng. Ở chỗ chúng tôi đang nằm, ôi thôi từng đàn muỗi đói chúng đánh được mùi đã rủ nhau nhanh nhẹn bay tới vo ve bên tai mỗi lúc càng đông, liên tục sà xuống đâm vào da thịt mọi người hết sức lì lợm. Tất cả anh em bắt buộc phải cắn răng chịu đựng vì sợ gây ra tiếng động lúc này thì hỏng mọi chuyện.Khi thật sự đã nắm vững tình hình chu vi trong ngồi căn nhà, trưởng toán ra dấu cho từng tổ tìm cách đi sát vào gần nhà rồi chia nhau nằm án ngữ các lối ra vào. Lúc này, bổn phận hai anh Thi và Tiến là đi sát vào gần rồi lấy tay gõ nhẹ trên vách thành cửa và đồng thời lên tiếng: “Tụi tui thuộc bộ đội công an huyện, được lệnh về đây để hợp tác làm việc với đồng chí”.Tức thời trong nhà có người đi ra mở cửa. Lợi dụng lúc bất ngờ sơ hở, tổ bắt tù binh đồng loạt đạp cửa xông vào nhà nhưng chỉ trông thấy một mình người cán bộ. Phần vì bất ngờ, phần vì tổ bắt tù binh ra tay quá nhanh và mạnh khiến tên cán bộ không kịp phản ứng. Mọi người hè nhau xáp lại dùng thế kẹp cổ, còng tay bịt miệng lôi y dẫn chạy ra ngoài. Anh em còn lại trông thấy tất cả hiểu ý vội rời mục tiêu.Sau khi rời khỏi căn nhà của tên cán bộ chưa đầy mười phút, chúng tôi chợt nghe thấy tiếng mõ, tiếng phèng la gõ báo động liên tục khắp nơi. Tiếp đến, nhiều loạt đạn của toán dân quân bắn đuổi theo về phía chúng tôi đang di chuyển.Biết toán đã bị bại lộ, mọi người càng ra sức thúc hối vừa đi vừa chạy, cố tìm hướng thẳng ra bờ biển thoát thân. Trong phút giây hiểm nguy gần kề anh em không thể dẫn theo hai người tù binh cùng một lúc. Vì sợ không kịp thời gian nên trưởng toán Ấn quyết định thả người thường dân cho về và chỉ dẫn tên cán bộ chạy theo toán trên đường rút lui. Riêng tổ hậu vệ đi sau thỉnh thoảng phải đứng lại bắn trả nhiều loạt AK truy cản cho toán phía trước.Đang lúc cấp bách thập phần nguy hiểm ấy, một cơn mưa giông đột nhiên xuất hiện rồi ào ạt trút nước xuống như thác khiến bầu trời đang tối lại càng tối thêm, vô tình đã gây ra không biết bao nhiêu trở ngại cho toán trên đường rút lui.Phía trước, hai tiền sát vẫn lầm lũi xông xáo tìm đường đi ra. Tuy nhiên, bây giờ đường lối trở nên trầy trụa và trơn ướt vì bị cơn giông vừa rồi làm tiền sát viên Nguyễn Văn Tiến trong lúc bất ngờ trợt chân té ngã cả người xuống một hố sâu, ước chừng 15 đến 20 thước. Không rõ hố này có phải là hố bom do phi cơ oanh tạc hay là hố của dân chúng đào để ẩn tránh máy bay bỏ lại.Ngay lúc đó trên miệng hầm, một số anh em nghe được phía dưới báo lên cho biết hiện anh Tiến đã gãy một chân không còn đứng vững được nữa. Cùng lúc đó, tiếng súng lẫn tiếng mõ, tiếng dân quân biên phòng la hét chạy đến tìm cách bao vây chúng tôi mỗi lúc một gần thêm. Trưởng toán Ấn ra lệnh phân nửa toán vòng ngoài bắn chận hậu, cốt kéo dài thời gian. Số anh em còn lại cố tìm phương cách giúp kéo anh Tiến lên khỏi miệng hầm nhưng cuối cùng vẫn không đạt được kết qủa.Thông thường, tổ phụ trách tù binh chỉ mang theo tối đa là 7 hoặc 10 thước dây, vừa đủ trói và dẫn dắt tù binh. Sợi dây này còn được dùng để kéo tù binh từ bờ ra thuyền cao su. Nhưng hiện giờ, sợi dây đang được dùng để cột người tù binh cán bộ và chiều dài đoạn dây cũng không đủ để thòng xuống phía dưới cứu anh Tiến lên. Mọi người đành đứng trên miệng hố thúc thủ!Trước nghịch cảnh hiện tại không phương kế cứu cấp, còn người bạn ở dưới thì đang ngước lên chờ đợi từng phút từng giây. Trong lúc đó, dân quân bộ đội của chúng đang huy động từ từ siết chặt vòng vây. Vài anh em động lòng thương cảm lấy đèn pin rọi xuống hố thấy hình bóng của anh Tiến dưới đó lờ mờ ngước trông lên mà lòng càng thêm tê tái! Hoàn cảnh sao xảy ra trớ trêu đến thế, không đầy một tiếng đồng hồ nữa thôi, anh Tiến và chúng tôi tất cả sẽ xuống thuyền trở ra tàu về Nam, được gặp lại vợ con và những người thân thuộc.Trong khi tất cả ở trên lính quýnh suy tính tìm cách, bỗng nghe anh Tiến từ dưới vọng lên: “Giờ phút này các bạn không còn cách gì cứu tôi được nữa! Vì an toàn và trách nhiệm các anh cứ về đi”. Mới cách vài tiếng đồng hồ trước đây, anh cùng chúng tôi san sẻ hiểm nguy với nhau, thế mà bây giờ định mệnh lại cố tình ngăn cách làm kẻ dưới người trên bờ âm thầm tuyệt vọng. Làm sao có thể đành tâm bỏ anh một mình trong hoàn cảnh bức thiết thế này?Trên mặt kim đồng hồ hiện điểm gần 5 giờ sáng, giờ báo hiệu hối thúc anh em hãy mau tìm đến gặp nhau tại điểm hẹn. Trước tình thế lưỡng nan đó, trưởng toán đành miễn cưỡng đi lại miệng hầm, cúi xuống thay mặt anh em nghẹn ngào nói lời từ biệt, rồi ra lệnh dẫn tên tù binh tiếp tục mở đường tháo chạy.Khi tất cả đã lội ra được ngoài thuyền cao su đầy đủ, trưởng toán Ấn gọi báo cáo tình hình cho thẩm quyền ở ngoài chiến đỉnh PTF và trình bày sự việc. Các hạm trưởng khuyên toán hãy gắng đậu lại chờ thêm thời gian, biết đâu sẽ thấy được dấu hiệu anh Tiến. Nhưng giây phút trôi qua càng lúc càng nhanh mà tin tức về Biệt Hải Nguyễn Văn Tiến thì mỗi lúc càng thêm biền biệt.Ngước nhìn hướng Đông, vầng thái dương sắp ló dạng lên cao nên toán chúng tôi không thể nán đợi thêm nữa. Ở phía trong bờ, bộ đội dân quân biên phòng Bắc Việt vẫn đang đi tìm kiếm lùng bắt. Cuối cùng, tất cả đành hướng vào bờ như một lời vĩnh biệt âm thầm tiễn anh Tiến lần cuối. Cả hai thuyền cao su đều trực chỉ chạy ra hướng PTF.Sáng hôm sau, về đến trại 9, theo đúng thủ tục, Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải đã phái nhân viên qua tận địa chỉ nhà vợ của Trung Sĩ I Nguyễn Văn Tiến báo cho thân nhân gia đình biết anh đã bị mất tích trong khi thi hành công tác. Sau đó vài hôm, tất cả toán Nimbus chúng tôi đã tới giáo xứ Tam Tòa, Đà Nẵng tham dự lễ cầu bình an cho anh. Chúng tôi luôn tin tưởng và hy vọng anh vẫn còn sống.Nhưng sau năm 1975 và mãi đến bây giờ, vài anh em đôi lần có dịp ghé đến nhà chơi hỏi thăm tin tức về anh nhưng được gia đình cho biết từ đó đến nay không còn nghe thấy tin tức gì về anh cả! Thật sự Biệt Hải Nguyễn Văn Tiến đã ra đi không bao giờ trở lại, như chính anh đã từng chấp nhận trước khi gia nhập đơn vị, thề xin chọn cái chết trên phần đất quê hương Quảng Bình, nơi đã sinh ra và cưu mang anh lớn khôn như lời trăn trối trước khi giã từ bạn bè.Trong thân thương âm thầm của mỗi nhân viên Biệt Hải cho dù bất cứ ở đâu, chúng tôi vẫn một lòng một dạ nhớ thương và quí trọng anh. Đặc biệt đối với tất cả các Chiến Sĩ Vô Danh đã Vị Quốc Vong Thân như anh thì…Còn hay mất vẫn một đời oanh liệtMộng kình ngư chưa thỏa chí anh hùng.Sau thời gian đó không lâu, toán Nimbus chúng tôi lại được Sở Tâm Lý Chiến chỉ định và giao phó một phần vụ công tác để chuyển đưa một số đồ chơi ra vùng Thanh Hóa, Bắc Việt vào dịp Tết Trung Thu năm 1967.Đối với lực lượng Biệt Hải, bất kỳ chuyến công tác nào cũng thuộc vào loại quan trọng. Nhưng đặc biệt chuyến này có thêm vài điểm hết sức khác lạ hơn những chuyến khác rất nhiều. Bởi vì trong một lúc, toán phải thi hành cả hai nhiệm vụ: Đó là bắt cóc cán bộ tại các địa phương miền Bắc đưa về Nam để giao lại cho Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc khai thác tin tức.Ngoài ra, toán Nimbus còn được Sở Tâm Lý Chiến trao thêm trách nhiệm “chiến tranh tâm lý” nữa. Vì lúc đó đúng vào dịp Tết Trung Thu nên toán phải mang những gói quà biếu tặng của PTGTAQ, gồm các thứ kẹo bánh, đồ chơi v.v…, tất cả được đem ra theo chuyến công tác để trao lại cho những gia đình có con em tại một số vùng thuộc miền duyên hải Thanh Hóa.Tất cả những thứ này đã được Sở Tâm Lý Chiến gói sẵn trong các bọc nylon nhiều lớp hết sức kín đáo vì sợ bị thấm nước. Sáu anh em toán Nimbus chúng tôi chỉ biết thi hành để hoàn tất nhiệm vụ. Vì thế nên chuyến này toán được thực tập hết sức kỹ càng và chu đáo. Ngoài bản đồ và sa bàn, mọi người còn được cấp trên cho xem nhiều tấm không ảnh U2 chụp trong một vùng rất nhiều xóm nhà sát biển nghèo nàn.Cũng như những chuyến trước, vấn đề phương tiện chuyên chở các toán Biệt Hải để thi hành công tác lần này cũng thế, dĩ nhiên đều do các chiến đỉnh PTF của Lực Lượng Hải Tuần đảm trách chở từ Đà Nẵng ra đến vùng biển Thanh Hóa, rồi từ đó các toán mới dùng loại xuồng nhỏ cao su chạy vào các địa điểm công tác.Đúng hai giờ sáng, chúng tôi đến mục tiêu mà cấp trên đã chỉ định. Đó là một xóm nhà lá chài lưới trông rất nghèo nàn thuộc vùng duyên hải Thanh Hóa. Khi đến nơi, trước tiên chúng tôi dọ hỏi tìm đến nhà trú ngụ của viên cán bộ nhưng không thấy hắn ở nhà. Anh em chỉ gặp toàn là ông già bà lão và một số em nhỏ.Tiện đó, chúng tôi đem ra phân phát những gói quà Trung Thu cho một số gia đình. Tiếp đến, vài anh em trong toán tìm cách cắm cờ Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc trong khu xóm rồi ngầm ra hiệu cấp tốc rút lui trở ra bờ biển, đề phòng trong nhà sẽ có người đi báo cáo bọn công an.Trong giây phút gặp gỡ chuyện trò ngắn ngủi đó, anh em đã nghe một số dân chúng nói lời cám ơn rối rít sau khi nhận quà và luôn gọi sáu anh em chúng tôi là cán bộ Mặt Trận. Cùng lúc có vài người trẻ bạo miệng xin được đi theo chúng tôi. Nhưng chuyến này anh em toán không có lệnh bắt thường dân đưa về Nam khai thác tin tức như mọi lần trước đây nên vội từ chối nói khéo “Mặt Trận”, tức chúng tôi sẽ đến gặp lại họ trong những lần tới.Theo cảm nghĩ của anh em trong chuyến, với cuộc sống cơ cực đầy khó khăn thế này không biết số quà mà mọi người vừa nhận có được cất giữ để dùng hay lại bị bọn công an của phường, xã tịch thu?Cho đến bây giờ, ít có người biết được một cách đầy đủ về hoạt động của các toán Biệt Hải chúng tôi trong những chuyến công tác đặc biệt tại những vùng duyên hải miền Bắc Việt Nam. Ngay trong nội bộ Sở Phòng Vệ Duyên Hải, mọi tin tức cũng đều được giữ kín. Các nhân viên Biệt Hải vẫn chưa bao giờ được chia sẻ những giây phút hiểm nguy bậc nhất trong cuộc đời của mình mà vẫn phải giữ kín cho đến ngày hôm nay. Hy vọng bài viết này đã nói lên được một vài điều bí mật về cuộc chiến Việt Nam.

(Sài Gòn trong tôi/ BV/ Biệt Hải Hồng Phúc (Thành viên Toán Nimbus 1965-1968)

Nhìn Lại Lịch Sử ‘Bác sĩ Tín, chuyện về người làm ra chai dầu xứ Việt’

Những ai đã sống qua thời miền Nam tự do, ắt cũng phải nhớ đến chai dầu khuynh diệp. Sản phẩm nội hoá của người Việt được tin dùng trong toàn dân, đã vậy lại là một phần lịch sử đáng nhớ của người Sài Gòn nói riêng, và miền Nam Việt Nam nói chung.

Chai dầu của các thế hệ người Việt tự do

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín bắt đầu phổ biến vào những năm 1950 của thế kỷ trước trên toàn miền Nam. Vào những năm ấy, trong túi các bà nội trợ, nhưng người buôn bán và các học sinh lúc nào cũng có chai dầu gió khuynh diệp Bác sĩ Tín.

Ngoài công dụng trị tứ thời cảm mạo, dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín luôn gắn với các sản phụ và trẻ sơ sinh. Trong một gia đình có người ở cữ, mùi dầu khuynh diệp luôn thoang thoảng quanh nhà. Một nồi nước xông cũng cho vô vài giọt. Sản phụ sau khi xông xong, mùi khuynh diệp bao trùm cả người.

Đứa bé cũng thế, tắm rửa xong được xoa dầu ở lòng bàn tay, chân, ở thái dương. Người lớn, đau bụng cũng xoa. Đau răng, có người dùng cây tăm quấn bông gòn nhúng dầu chấm vào lỗ răng sâu. Người già nhức lưng đau tay chân cũng được xoa bóp bằng dầu khuynh diệp.

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín là một loại dầu màu xanh – sau này một số họa sĩ thường gọi là màu xanh khuynh diệp – đựng trong những chai nhỏ từ 5cc đến 100cc như trong một trích đoạn truyện ngắn: “Trước giờ chuyến xe đò Phi Long chuyển bánh đưa cậu con trai lên Sài Gòn trọ học, một bà má miền Nam, móc túi lấy ra một chai dầu tròn tròn, màu xanh lá cây đậm đang xài còn khoảng 2/3 đưa cho thằng con nói: “Con cất chai dầu khuynh diệp, phòng khi trái gió trở trời…”.

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín ra đời khoảng cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, sau khi Bác sĩ Bùi Kiến Tín chuyển nhà thuốc Đông Dược vào Sài Gòn thành lập nhà thuốc Bác sĩ Tín, bào chế ra loại dầu gió có thương hiệu cùng tên.

Ông sinh ra tại làng Bảo An, Điện Bàn (Quảng Nam) nhờ vậy lúc nhỏ ông biết được người dân quê ông hay dùng dầu tràm nấu từ lá chổi (chuổi). Sau khi tốt nghiệp y khoa tại Đại học Paris (1942), ông về nước và bắt đầu sản xuất loại dầu này và mua bản quyền dầu khuynh diệp của ông Viễn Đệ ở Huế. Ngoài dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín còn có thuốc ho Bác sĩ Tín, thuốc bổ Bác sĩ Tín. Các sản phẩm của Bác sĩ Tín đều được ưa chuộng.

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín có công thức đặc biệt riêng của nó. Đây là một loại dầu gồm hỗn hợp các loại tinh dầu như dầu tràm, dầu bạc hà, dầu hương nhu. Nhưng chủ yếu vẫn là tinh dầu khuynh diệp. Tràm, bạc hà, hay hương nhu… thì thời đó Việt Nam có thể trồng và chưng cất được, nhưng tinh dầu khuynh diệp với tinh chất Eucalyptol (lấy từ cây hồng tràm, tên khoa học là Eucalyptus) phải nhập từ Bồ Đào Nha.

Nhưng Bác sĩ Tín là ai?

Bác sĩ Bùi Kiến Tín sinh ngày 25 Tháng Chín năm 1912 (15-8 Nhâm Tý) tại quê ngoại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nguyên quán làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông còn có tên là Bùi Thứ. Ông là trưởng nam của ông Bùi Biên (ông Cửu Thứ) và bà Phan Thị Yến.

Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học và hào phú, gia đình ông là người khai hoang lập ấp ở vùng Trung Phước, huyện Quế Sơn và trở nên một gia đình giàu có vào hạng nhất nhì huyện ở tỉnh Quảng Nam trước Thế chiến thứ hai.

Năm 1930, đúng 18 tuổi, ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Hòa con gái lớn của ông bà Nguyễn Liệu, tục gọi ông Nghè Liệu, ở làng Quảng Hóa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông bà sanh hạ bảy người con gồm bốn trai, ba gái.

Ông Bùi Thứ thuở nhỏ học chữ Nho với một ông thầy đồ. Năm 1918 ông được gởi về bên ngoại đi học chữ Quốc ngữ tại trường làng Bảo An. Năm 1919, ông được gởi đi theo ông Giáo Hồ (anh cả của bà Cửu Thứ) làm hương sư ở làng Văn Cù tỉnh Thừa Thiên, ông bắt đầu học chữ Pháp. Năm 1925 học Đệ nhất niên trường Quốc Học Huế, nhưng sau đó một năm 1926 ông bị đuổi khỏi trường Quốc Học vì có tên trong sổ đen của sở Mật thám Pháp với lý do Hai Thứ thường hay lui tới chùa Từ Đàm nơi thực dân Pháp đang giam lỏng nhà Đại cách mạng Phan Bội Châu và tham gia vào phong trào bãi khóa tại trường Quốc Học cùng lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Cùng năm đó, Hai Thứ ra Hà Nội theo học tại trường Albert Saraut và đổi tên là Bùi Kiến Tín.

Tháng Tám năm 1932, Bùi Kiến Tín đậu Tú tài Tây. Cả làng, tổng, phủ, huyện, họ hàng bên nội, bên ngoại, bên vợ, đều tổ chức đón rước “Vinh quy Bái tổ” rất là trọng thể. Cờ trống võng lọng với một đoàn người cưỡi ngựa đi rước cậu Tú như rước một Trạng nguyên thuở xưa. Đám rước đi theo đường bộ từ đền thờ Khổng Tử ở Hội An (Faifo) về đến Vĩnh Trinh (bên nội), qua Bảo An (bên ngoại), đến Quảng Hóa (bên vợ), rồi đến Trung Phước. Đến đâu cũng “đóng quân” lại, mổ bò trâu, cúng bái, tiệc tùng mấy ngày đêm. Hồi đó cho đến 1935, cả tỉnh Quảng Nam trên 900,000 dân mà chỉ có hai người đậu Tú tài Tây, Lê Nhiếp đậu bên Pháp và Bùi Kiến Tín đậu ở Hà Nội.

Tháng Hai năm 1935, sau một thời gian học luật tại Đại học Luật khoa Hà Nội, ông được học bổng du học ở Pháp theo học ngành y khoa bác sĩ. Năm 1937 được tin thân mẫu từ trần, ông về nước thọ tang, xong trở qua Pháp học tiếp. Trong những năm tại Pháp ông đã cố công xem xét các phương pháp điều chế thuốc của Âu Mỹ, lại có cơ hội thí nghiệm những thảo mộc ở nước nhà gửi sang, lọc những nguyên chất dùng vào việc chế thuốc, thâu nạp cái hay của người đặng nâng cao giá trị những dược phẩm dồi dào của xứ mình.

Năm 1940 ông tốt nghiệp y khoa bác sĩ. Năm 1942 Bác sĩ Tín cùng với Bác sĩ Trương Đình Ngô và Dược sĩ Trương Xuân Nam lập một cơ sở sản xuất Âu Dược tại Qui Nhơn, tỉnh Bình Định, về sau vì thời cuộc, cơ sở nầy được dời vào Sài Gòn, Bác sĩ Tín chuyển sang nghiên cứu Đông Y. Năm 1944, ông đưa cả gia đình từ Quảng Nam vào lập nghiệp tại Sài Gòn và lập ra viện bào chế Đông dược miền Nam gọi là Nhà thuốc Bác sĩ Tín tại Phú Lâm Sài Gòn, Nhà thuốc Bác sĩ Tín được thành lập từ đó và phát triển không ngừng cho đến ngày 30 Tháng Tư 1975 và tạo nên thương hiệu “Dầu Khuynh Diệp Bác sĩ Tín”.

Bác sĩ Tín là vị bác sĩ Tây y người Việt Nam đầu tiên đem kiến thức Tây y để nghiên cứu các vị thuốc Nam (Việt Nam) vốn có rất nhiều tại nước ta và thuốc Bắc (Trung Hoa) kết hơp với nhau để bào chế ra những loại thuốc bình dân, rẻ tiền và công hiệu như VITOPORCE BST; ĐẠI Bổ BST; SIRO NHAU BST… và nổi tiếng nhất là “Dầu Khuynh Diệp Bác sĩ Tín” là một nhãn hiệu thương mại đã được cầu chứng tại Việt Nam trước 1975, ông sử dụng tiếng Việt trên các toa nhãn nhằm quảng bá rộng rãi đến công chúng, nhất là bà con nghèo ở thôn quê biết đến loại dầu gió do người Việt sản xuất. Khoảng năm 1959-1960 ông đã tiến hành quảng cáo tiêu dùng sản phẩm với giải thưởng trúng một chiếc xe sản xuất tại Anh Quốc hiệu AUSTIN… nên cũng có thể coi ông là người đầu tiên khai sinh ra môn Marketing ở Việt Nam.

Bác sĩ Tín được nhiều người biết đến không chỉ riêng trong lãnh vực Đông y dược mà ông còn là một nhà kinh doanh ở nhiều lãnh vực khác như về kỹ nghệ và tài chánh: Ông và trưởng nam Bùi Kiến Thành là đồng sáng lập viên công ty Bình Điện VABCO ở Biên Hòa (nay là nhà máy ACCU Đồng Nai), ông thành lập Đông Phương Ngân Hàng và Việt Nam Công Thương Ngân Hàng tại Sài Gòn. Trong ngành Địa ốc, ông thành lập công ty Địa ốc Tân Ba. Về Âu dược ông và các con lập ra các viện bào chế Tiandi tại Chợ Lớn và viện bào chế Hana tại đường Trương Minh Ký, Phú Nhuận. Ngoài ra Bác sĩ Tín còn có ý định thành lập một khu giải trí theo kiểu Disneyland tại khu đất đối diện Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Dự án đang tiến hành thì miền Nam bị cưỡng chiếm vào 30 Tháng Tư 1975 nên hoài bão của ông đành dang dở.

Về lãnh vực văn hóa xã hội, Bác sĩ Tín cũng đã đóng góp rất nhiều công của cho các tôn giáo, hội đoàn, xây dựng nhiều công trình hữu ích cho hậu thế như Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu; Viện Đại học Vạn Hạnh; trường Trung Học Bồ Đề tại Sài Gòn. Bác sĩ Tín cũng sáng lập và gia nhập nhiều tổ chức ái hữu, từ thiện và chuyên môn như Hội Khoa học và Kỹ thuật; Hội Ái hữu Quảng Đà; Hội Bùi Gia Vĩnh Thế; Phù Luân Hội (Rotary Club) khu vực Á châu và toàn thế giới. Khi di tản ra ngoại quốc, có lần Bác sĩ Tín đã cùng với cụ Phan Quảng Nam, ông Phan Bá Phụng, nhà thơ Phùng Minh Tiếng… vận động tái lập lại Hội Đồng hương Quảng Nam lại Nam Cali, nhưng công việc còn đang dang dở thì cụ Phan Quảng Nam bị thảm sát tại San Diego và Bác sĩ Tín phải về Pháp với gia đình nên công việc này đành xếp lại.

Về chính trị, Bác sĩ Tín đã tham gia vào nội các của Thủ tướng Ngô Đình Diệm với chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông Tin (1954). Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa được thiết lập, ông không tham chính và được trưng tập phục vụ trong quân đội với cấp bậc y sĩ Trung tá làm việc tại Huế và Cà Mau một thời gian, sau đó ông được cử giữ chức Y sĩ Trưởng Phủ Tổng thống và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống (1960).

Năm 1969 ông ra tranh cử dân biểu Quốc Hội tại Sài Gòn nhưng thua phiếu Luật sư Trần Văn Tuyên. Kể từ đó ông chú tâm vào việc kinh doanh, công tác xã hội và tôn giáo cho đến ngày rời khỏi nước vào giờ phút chót của Tháng Tư năm 1975.

Đối với Bùi Tộc Vĩnh Trinh ông đóng góp rất nhiều công sức và tâm huyết cho tộc ta, giúp đỡ tạo điều kiện công ăn việc làm cho nhiều bà con còn khó khăn, lập Bùi Gia Vĩnh Thế Tương Tế Hội, lập Xá Lợi Phật Đài ở đồi Bác sĩ Tín (Biên Hòa), làm nơi cho bà con tộc Bùi giỗ tổ hằng năm xem như từ đường của Bùi Tộc trước 1975.

Với một tinh thần hiếu học và có tính cộng đồng xã hội cao, những năm 60-70 của thế kỷ 20 ông đã lập một quỹ học bổng cho những thanh niên ưu tú nhất của Quảng Nam có điều kiện được ra nước ngoài du học, góp phần canh tân đất nước bằng con đường giáo dục…

Ông mất ngày 23 Tháng Tám 1994 nhằm ngày 17-7 năm Giáp Tuất, thượng thọ 83 tuổi. Ông ra đi để lại bao tiếc thương cho con cháu, bà con dòng tộc và những người chịu ơn ông lúc sinh thời. Năm 1994 tại Sài Gòn có làm lễ truy điệu tưởng nhớ ông với rất nhiều người tham dự. Ông được an táng tại nghĩa trang thành phố Carqueiranne, Var, Pháp.

Sau năm 1975, chính quyền Bắc Việt chiếm hữu rất nhiều thứ ở miền Nam, bao gồm luôn cả công thức sản xuất dầu khuynh diệp. Hiện nay một số xí nghiệp dược phẩm Việt Nam đã dùng công thức của Bác sĩ Tín để tái sản xuất dầu khuynh diệp mang tên ông – nhưng lạ thay, một chai dầu đã đi theo cùng nhiều thế hệ, được yêu mến, nhưng rồi khi được sản xuất ra từ chế độ mới, nó cũng như phai nhạt dần và gần như bị quên lãng.

(Tài liệu trích từ văn bản do Thế thứ 18 cung soạn, Ban tu chính phổ hệ Bùi Kiến Tiến – Bùi Kiến Quang)

Đà Nẵng những ngày cuối tháng Ba 1975

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ trên lề đường.<!>

 Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân 20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe dân sự xếp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suôn sẻ. Song Việt cộng bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. 

Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quỳ xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”. Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh. Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người bể đầu, gãy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm chầm lấy năn nỉ:

“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi, chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng ba, 1975(đài BBC có loan tin).

Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá trưởng gỏ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hỡi ôi, thế là cộng sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau nầy tôi bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành phố.

Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau nầy hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thứ trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTTK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mổ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ có Bác sĩ cấp bậc Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn. (Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái chân. Cuối ca mổ, đáng lý nói: ca nầy khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói theo thói quen: ca nầy khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói gì. Các y tá quanh tôi đều sửng sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không. Song sau nầy không thấy ai nhắc đến chuyện đó.

Trong suốt hơn một năm làm việc với CS, tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướng phải mìn hay đạn ca- nông chôn dưới đất. Giải phẫu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cãi lý thuyết v.v..

Bất hạnh thường không đến một mình. Đã buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trương để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về, hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi chết êm thấm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi, cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngừng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng, tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh cữu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi, xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.

Lúc say sưa làm việc những năm chiến tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương với đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trữ trong một căn phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rỗi sẽ viết bài, dựa trên nhận xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào, thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun, nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.

Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh tế và nhân bản” ( économie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê chia sẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỷ sư nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã, tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu, nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an ninh. 

Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nỗ lực tối đa để trong sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp, phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu giành hậu thuẫn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được, vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.

Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”

Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lở nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán dưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.

Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái phi cơ trực thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin về xưởng sửa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sửa chữa thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm 27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo. Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia đình và ra ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần phi đạo chúng tôi hoảng hốt dắt díu nhau chạy. Sau nầy gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.

Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực từ chối. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế thì bi thảm vô kể.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Đằng sau lời mời Nixon thăm Trung Quốc của Mao Trạch Đông

Tác giả: Jung Chang & Jon Halliday | Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành

Khi mới lên cầm quyền, Mao không lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Mao làm thế là để Stalin có thể yên tâm giúp Trung Quốc xây dựng một cường quốc quân sự. Sau khi Stalin qua đời, Mao muốn lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, nhưng vì lúc đó đang có chiến tranh Triều Tiên nên Mỹ không quan tâm đến Trung Quốc. Tuy hai nước đã bắt đầu đàm phán cấp đại sứ nhưng toàn bộ mối quan hệ Trung – Mỹ vẫn đóng băng. Mao chọn tư thế chống Mỹ cực kỳ căng thẳng, coi tư thế đó là tiêu chí của chủ nghĩa Mao.

Năm 1969, nhằm để chống Liên Xô, tân Tổng thống Mỹ Nixon quyết định chấm dứt chiến tranh Việt Nam và công khai ngỏ ý muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Mao phớt lờ đề nghị ấy, vì sợ việc hòa giải với Mỹ sẽ làm tổn hại hình ảnh “Lãnh tụ phản đế” của mình. Sau khi bản tuyên bố chống Mỹ ngày 20/5/1970 của Mao không gây ra ảnh hưởng gì, Mao mới quyết định chủ động mời Nixon thăm Trung Quốc. Mao không nhằm mục đích hòa hảo với Mỹ mà muốn để cho thế giới biết rằng Nixon cần đến Mao, tìm đường đến Trung Quốc, Mao thay mặt lực lượng chống đế quốc của thế giới để đàm phán đối đầu với Mỹ.

Tháng 11/1970, Chu Ân Lai tung tin qua Rumania, một nước có quan hệ tốt với cả Trung Quốc và Mỹ, rằng Trung Quốc hoan nghênh Nixon đến thăm Bắc Kinh. Ngày 11/1/1971, giấy mời đến Nhà Trắng. Nixon bút phê: “Chúng ta không thể tỏ ra quá vồ vập”. Về sau Kissinger kể: Trong thư trả lời Bắc Kinh hôm 29/1/1971, phía Mỹ “không nói tới chuyện Tổng thống Nixon thăm Trung Quốc”, “hiện nay còn chưa nói tới bước ấy, nói ra có thể gây rắc rối”.

Mao tiếp tục chờ dịp may.

Ngày 21/3/1971, đội bóng bàn Trung Quốc đến Nhật dự thi đấu Cúp Bóng bàn thế giới. Đây là một trong số các đoàn thể thao đầu tiên của Trung Quốc ra nước ngoài kể từ cuộc Cách mạng Văn hóa, do đích thân Mao phê chuẩn. Để tránh mang tiếng ly kỳ, các cầu thủ được đặc biệt cho phép không mang theo Sách Đỏ [sách Trích lời Chủ tịch Mao]. Nhưng họ nhận được quy định nghiêm khắc: không được bắt tay cầu thủ Mỹ, không được chủ động bắt chuyện với người Mỹ.

Ngày 4/4 cầu thủ Mỹ Glenn Cowan tình cờ lên chiếc xe ca của đội tuyển bóng bàn Trung Quốc. Nhà vô địch bóng bàn thế giới Trang Tác Đông quan sát thấy các cầu thủ đội nhà ai nấy đều nhìn người Mỹ kia bằng ánh mắt lo lắng, nghi ngờ, lạnh nhạt. Không một người Trung Quốc nào trên xe bắt chuyện với anh ta. Thấy thế Trang Tác Đông bèn bước tới nói chuyện vài câu với Cowan. Bức ảnh hai cầu thủ Trung Quốc và Mỹ bắt tay nhau sau khi được đăng báo đã trở thành tin tức trang nhất của các báo Nhật.

Khi cô hộ lý kiêm giúp việc của Mao Trạch Đông là Ngô Húc Quân đọc cho ông nghe mẩu tin ấy đăng trên tờ “Tin tham khảo”, mắt Mao bỗng sáng lên, mỉm cười khen: “Cái cậu Trang Tác Đông này chẳng những đánh bóng bàn giỏi mà lại còn biết làm ngoại giao nữa.”

Đội bóng bàn Mỹ tỏ ý muốn đến thăm Trung Quốc, Bộ Ngoại giao Trung Quốc căn cứ theo chính sách, quyết định không gửi lời mời. Mao duyệt bản báo cáo ấy của Bộ Ngoại giao.

Nhưng sau đó ông không bằng lòng với quyết định của mình, suốt ngày băn khoăn suy nghĩ. Hơn 11 giờ đêm hôm ấy Mao uống thuốc ngủ xong ngồi ăn cơm với Ngô Húc Quân. Ông có thói quen ăn cùng một hoặc hai nhân viên hầu cận. Uống thuốc rồi mới ăn, ăn xong đi nằm. Loại thuốc ngủ của Mao rất nặng, có hôm đang ăn cơm thì thuốc đã tác dụng, khiến ông gục đầu xuống bàn. Mấy người phục vụ phải móc hết cơm và thức ăn chưa nuốt trong miệng ông ra. Vì thế các bữa tối của Mao đều không có món cá, sợ xương cá gây hóc.

Ngô Húc Quân nhớ lại: Bữa tối hôm ấy do tác dụng của thuốc an thần, Chủ tịch đã buồn ngủ lắm, tay cứ bíu lấy bàn ăn muốn ngủ. Nhưng bỗng nhiên Chủ tịch nói lắp bắp, tôi nghe mãi mới nghe rõ ông bảo tôi gọi điện cho Vương Hải Dung[1] ở Bộ Ngoại giao. Giọng Chủ tịch trầm trầm mà lời lẽ không rõ ràng: “Mời đội Mỹ đến thăm Trung Quốc.”….

Tôi sững sờ và nghĩ: Làm như thế chẳng phải là ngược với lời bút phê mà Chủ tịch vừa viết sáng nay đấy sao!….. Bình thường Chủ tịch đã dặn là “Những lời Chủ tịch nói sau khi uống thuốc an thần thì không coi là thật”. Bây giờ có nên coi lời Chủ tịch nói là thật hay không đây? Lúc ấy tôi rất khó xử…….

Lát sau Chủ tịch ngẩng đầu lên, cố gắng mở mắt và bảo tôi: “Tiểu Ngô, cháu còn ngồi đấy ăn cơm à, việc bác bảo cháu làm sao cháu không đi làm hả?”.

Bình thường Chủ tịch đều gọi tôi là “Hộ lý trưởng”, chỉ khi nói chuyện công tác hoặc khi rất nghiêm túc mới gọi là “Tiểu Ngô”.

Thế rồi Chủ tịch cứ câu được câu chăng, ngắt quãng, dề dà ấp úng nhắc lại một lượt câu nói lúc nãy….

Tôi vội hỏi: “Bác đã uống thuốc an thần rồi mà. Lời bác nói bây giờ có coi là thật hay không đấy ạ?”

Chủ tịch phẩy tay về phía tôi: “Là thật đấy! Mau đi làm đi, kẻo không kịp đâu.”

Mao cố gượng thức chờ Ngô Húc Quân làm xong việc ấy rồi mới yên tâm đi ngủ.

Quyết sách này của Mao đã gây ra tác động bùng nổ ở phương Tây. Bao năm qua Trung Quốc và Mỹ đối địch với nhau, nay bỗng dưng Trung Quốc mời một đoàn thể của Mỹ sang thăm, hơn nữa đây lại là một đoàn thể thể thao, mọi người đều quan tâm.

Sau khi người Mỹ đến Trung Quốc, Chu Ân Lai, con người đầy sức quyến rũ ấy trổ hết tài năng tổ chức nghênh tiếp, làm cho người Mỹ cảm thấy “sự đón tiếp lóa mắt” (lời Kissinger). Báo Mỹ hàng ngày tràn đầy những tin tức phấn khởi kích động. Một nhà bình luận viết: “Nixon ngẩn người nhìn những tin tức ấy nhảy từ trang thể thao lên trang nhất các báo”. Mao đã tạo ra một môi trường mê li quyến rũ Nixon thăm Trung Quốc. Đối với Nixon, đến Trung Quốc trong bầu không khí ấy về chính trị chỉ có trăm điều lợi mà không một điều bất lợi, nhất là năm tới sẽ có bầu cử Tổng thống.

Không bỏ lỡ thời cơ, ngày 21/4/1971 Chu Ân Lai lại một lần nữa mời Nixon thăm Trung Quốc. Ngày 29, Nixon lập tức nhận lời. Kissinger nói: “ Nixon quả thực phấn khởi tới mức không thể kiềm chế, thậm chí còn định không cử đoàn tiền trạm đi Bắc Kinh trước, e rằng như thế sẽ làm cho chuyến thăm của mình bị giảm bớt mất ánh hào quang.”

Mao không những “câu” được Nixon đến Trung Quốc mà còn câu được một món quà gặp mặt vượt quá sức mong đợi. Tháng 7, khi đi tiền trạm đến Trung Quốc, Kissinger có chủ động đề xuất: Nếu năm 1972 Nixon tái đắc cử Tổng thống thì trước tháng 1/1975 Mỹ sẽ thừa nhận Trung Quốc, tiếp thu toàn diện các yêu cầu của Bắc Kinh, hất cẳng Đài Loan. Cho dù Mỹ và Đài Loan có hiệp định phòng thủ chung, Chu Ân Lai khi nói với Kissinger về vấn đề Đài Loan dường như đã coi hòn đảo này đang nằm trong túi Bắc Kinh. Kissinger đành làm một cử chỉ yếu ớt: “Chúng tôi mong vấn đề Đài Loan sẽ được giải quyết một cách hòa bình.” Ông không yêu cầu Chu bảo đảm không sử dụng vũ lực.

Hồ sơ mật về chuyến đi tiền trạm của Kissinger mãi đến năm 2002 mới được giải mật. Trước đó trong hồi ký Kissinger viết về vấn đề này có một dòng “Chỉ sơ sơ nói tới vấn đề Đài Loan”. Sau khi hồ sơ được giải mật, khi được hỏi về vấn đề này, Kissinger thừa nhận “Tôi nói như thế là rất không hay, tôi rất ân hận.”

Nixon còn nhắc tới vấn đề giúp Trung Quốc vào Liên Hợp Quốc ngay. Kissinger nói: “Bây giờ các ngài đã có thể chiếm chiếc ghế Trung Quốc. Tổng thống yêu cầu tôi trước tiên bàn với các ngài vấn đề này, sau đó chúng tôi sẽ quyết định chính sách công khai.”

Chiếc hộp đựng quà gặp mặt của Kissinger không chỉ có những món ấy. Ông nêu lên vấn đề sẽ báo cho Trung Quốc biết những nội dung Mỹ đã bàn với Liên Xô. Kissinger nói: “Các ngài muốn biết chúng tôi đã bàn vấn đề nào với Liên Xô thì chúng tôi sẽ cho các ngài biết, đặc biệt là đàm phán hạn chế vũ khí chiến lược.” Mấy tháng sau, Kissinger nói với các sứ giả Trung Quốc: “Chúng tôi cho các ngài biết chúng tôi đã bàn những vấn đề gì với Liên Xô nhưng chúng tôi không cho Liên Xô biết chúng tôi đã bàn với các ngài những vấn đề gì.” Khi nghe nói Mỹ đã cho Trung Quốc biết những tình báo nào, Phó Tổng thống Nelson Rockefeller thực sự “ngạc nhiên đớ người ra”. Một trong những tin tình báo đó là tình hình quân đội Liên Xô tập kết ở biên giới Trung Quốc.

Trên vấn đề Đông Dương, Kissinger có cam kết hai vấn đề lớn. Thứ nhất là trong vòng 12 tháng rút hết quân đội Mỹ. Thứ hai là từ bỏ chính quyền miền Nam Việt Nam. Kissinger nói: “Khi hòa bình lập lại, chúng tôi sẽ ở cách Đông Dương ngoài 10 nghìn dặm. Hà Nội vẫn ở Việt Nam.” Ý nói Việt Nam sẽ là của Việt Cộng.

Thậm chí Kissinger còn chủ động cam kết trong nhiệm kỳ tới của Nixon sẽ “rút phần lớn cho tới toàn bộ quân đội Mỹ” ra khỏi Nam Triều Tiên. Nhưng ông không nói một chữ nào về vấn đề quân đội các nước cộng sản sẽ tái xâm lược Nam Triều Tiên hay không.

Những món quà gặp mặt ấy không đòi hỏi lại quả. Kissinger nhấn mạnh ông không yêu cầu Trung Quốc ngừng viện trợ Việt Nam, thậm chí chẳng nói gì tới việc mong muốn chính quyền Mao bớt chửi Mỹ một chút. Từ biên bản hội đàm có thể thấy, Chu Ân Lai luôn dùng khẩu khí đối địch như “Ngài phải trả lời vấn đề này”, “Ngài phải giải đáp vấn đề kia”, “Sự áp bức của các ngài, sự lật đổ của các ngài, sự can thiệp của các ngài”. Kissinger chẳng những không bào chữa cho Mỹ mà còn tiếp thu cái logic nực cười của Chu Ân Lai khi Chu nói vì Trung Quốc là nước cộng sản nên sẽ không xâm lược nước khác.

Trong đàm phán với cộng sản Việt Nam, mỗi khi đối phương nói chút gì động đến sự sai trái của chính phủ Mỹ thì Kissinger đốp lại ngay: “Ngài có tư cách gì nói tôi. Chính quyền mà ngài đại diện là một trong những chính quyền hung hãn nhất trên hành tinh này.”

Thế nhưng khi Chu Ân Lai nói Mỹ “tàn bạo” ở Việt Nam thì Kissinger chẳng hỏi lại: “Thế các ngài đối xử với nhân dân mình ra sao?”. Trước lời lẽ lên án của Chu Ân Lai, sau đấy Kissinger lại nói những lời ấy “vô cùng xúc động lòng người”.

Ngày đàm phán đầu tiên kết thúc, Mao nghe báo cáo, tâm lý tự cao tự đại của ông ta lập tức căng phồng lên. Mao huyên thuyên nói với các cán bộ ngoại giao rằng Mỹ là “Đồ khỉ biến thành người mà chưa biến được, lại còn giữ cái đuôi của mình”, “Nó không còn là khỉ nữa, mà là vượn, đuôi không dài”, “Đó là tiến hóa mà!” Còn Chu Ân Lai thì diễn tả Nixon “trang điểm phấn son đến nhà người ta”. Mao thấy mình có thể giành được từ Nixon những thứ mình muốn mà không cần trả giá, vừa chẳng phải giảm mức độ chuyên chế bạo tàn mà cũng không phải hạ thấp giọng điệu chống Mỹ.

Sau chuyến Kissinger bí mật đi Bắc Kinh, tin Nixon sẽ thăm Trung Quốc được công khai trước toàn thế giới. Tháng 10/1971, Kissinger đến Bắc Kinh lần nữa để thu xếp cho chuyến đi của Tổng thống. Đó chính là lúc Liên Hợp Quốc mỗi năm một lần thảo luận vấn đề chiếc ghế ở Liên Hợp Quốc của Trung Quốc. Mỹ là nước chủ yếu bảo vệ Đài Loan; bây giờ Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ Kissinger đang ở Bắc Kinh, điều đó chẳng khác gì bật đèn xanh cho Trung Quốc. Ngày 25/10, Trung Quốc gia nhập Liên Hợp Quốc, thay Đài Loan tiếp quản quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Lúc đó vụ Lâm Bưu đào thoát vừa xảy ra được một tháng,[2] Mao Trạch Đông còn đang chìm ngập trong nỗi chán nản thất vọng. Hai sự việc lớn – Trung Quốc vào Liên Hợp Quốc và Nixon đến Bắc kinh – đã xua tan đám mây mù, làm cho tâm trạng của Mao phấn khởi hẳn. Ông cười cười nói nói với các cán bộ ngoại giao xúm xít xung quanh mình, hứng chí nói liền một mạch gần ba tiếng đồng hồ. Ông cầm lấy bảng kết quả biểu quyết đề án của Liên Hợp Quốc, vừa chỉ tay vào bảng vừa nói: “Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Canada, Ý, tất cả đều làm Hồng vệ binh….”

Mao lập tức chỉ thị cho phái đoàn đi Liên Hợp Quốc phải tiếp tục lên án Mỹ, coi Mỹ là kẻ thù số một: “Phải thể hiện quan điểm lập trường rõ ràng”, “Phải chỉ tên vạch mặt chúng, không làm thế không được”. Đã đến ngày [Mao] bước lên diễn đàn thế giới với tư thế lãnh tụ chống Mỹ rồi đây.

Chín ngày trước hôm Nixon đến, Mao bỗng nhiên bị đột quỵ, suýt nữa thì chết. Nixon sắp tới rồi, tin này đem lại sự kích động tinh thần giúp Mao phục hồi nhanh chóng. Hồi ấy ông đang bị phù nề, phải may quần áo mới và sắm giày mới. Chỗ ngủ của ông có rất nhiều thiết bị y tế phục vụ nhu cầu chữa bệnh. Mao nằm trong phòng khách lớn của hội trường ở phía trên bể bơi. Phải tiếp Nixon ở chỗ này. Các thiết bị y tế được dọn vào một góc đại sảnh, dùng bình phong che khuất cả thiết bị lẫn giường nằm. Bốn phía đại sảnh được vây bởi các giá sách, trên xếp đầy sách cổ, khiến người Mỹ không ngớt trầm trồ về học thức của Mao.

Buổi sáng hôm Nixon đến đây, Mao rất sốt ruột luôn hỏi xem bây giờ Tổng thống Mỹ đã đi tới chỗ nào rồi. Nghe nói Nixon trọ ở nhà khách Điếu Ngư Đài, Mao lập tức đòi gặp khách, không muốn chờ đợi. Lúc ấy Nixon đang chuẩn bị đi tắm. Kissinger kể là Chu Ân Lai “có chút nóng ruột” giục ông ta đi ngay.

Trong buổi hội kiến kéo dài 65 phút ấy, Nixon cố bàn bạc với Mao các chuyện thế giới đại sự nhưng Mao lại lái đề tài nói sang chuyện khác. Ông không muốn để người Mỹ nắm dao đằng chuôi.

Vì để kiểm soát chặt chẽ biên bản ghi chép cuộc hội đàm này, phía Trung Quốc từ chối sự có mặt của phiên dịch viên phía Mỹ. Nixon đã chấp nhận yêu cầu trái với thông lệ ngoại giao ấy mà không có ý kiến gì. Khi Tổng thống Mỹ đề nghị bàn về những chuyện lớn hiện nay như “Đài Loan, Việt Nam, Triều Tiên” , Mao chẳng thèm quan tâm nói: “Các vấn đề ấy không phải là vấn đề bàn ở chỗ tôi, mà nên bàn với Thủ tướng Chu Ân Lai. Tôi không muốn quản những chuyện rắc rối ấy.”

Khi Nixon tiếp tục bàn bạc theo mạch suy nghĩ của mình “Phải chăng tôi có thể kiến nghị ngài bớt nghe báo cáo?”, “(Chúng ta) hãy tìm lấy một điểm chung để xây dựng một cơ cấu thế giới”… Mao chẳng trả lời mà ngoái đầu hỏi Chu Ân Lai: “Mấy giờ rồi?”, tiếp đó nói: “(Chúng ta) bốc phét đến đây có lẽ cũng tàm tạm đủ rồi đấy nhỉ?”

Mao đặc biệt chú ý không nói những lời khen ngợi Nixon. Hai vị khách Mỹ thì hăng hái phỉnh nịnh ông ta, chẳng hạn Nixon nói: “Các trước tác của Chủ tịch đã thúc đẩy cả một dân tộc, đã làm thay đổi thế giới.” Chỉ có một lần Mao lấy tư thế kẻ cả nói một câu tốt về Nixon: “Cuốn Sáu cuộc khủng hoảng (Six Crises) của ngài viết khá đấy.”

Nixon lại nói: “Tôi có đọc thi từ và các bài viết của Chủ tịch, tôi biết Chủ tịch là một nhà triết học.” Mao phớt lờ, chuyển đề tài sang Kissinger.

Mao: Ông ấy [ý nói Kissinger] chẳng phải là tiến sĩ triết học đấy ư?

Nixon: Ông ấy là tiến sĩ đại não.

Mao: Thế nào? Hôm nay bảo ông ấy làm diễn giả chính có được không?

Khi Nixon nói, Mao ngắt lời: “Hai chúng ta chẳng thể độc diễn toàn bộ vở kịch này được đâu, không cho tiến sĩ Kissinger phát biểu thì không ổn.”

Đến khi Kissinger tham gia bàn bạc thì Mao lại tỏ ra không thực sự muốn nghe ý kiến của ông ta, mà nói những câu vớ vẩn với Kissinger, đại để như bảo “dùng các cô gái xinh đẹp để bao che mình”.

Nguyễn Hải Hoành lược dịch và ghi chú từ “Chuyện chưa biết về Mao” (毛澤東:鮮為人知的故事) của Jung Chang và Jon Halliday.

——————-

[1] Vương Hải Dung (Wang Hai-rong), nữ, s. 1938, có họ xa với Mao Trạch Đông. Học tiếng Nga và Anh. Làm việc ở Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Vụ phó Lễ tân (1971-72), Trợ lý Bộ trưởng (1972-74), Thứ trưởng (1974-79). Về sau bị mất chức vì nghi có liên quan Lũ 4 Tên. Từ 1984 là Phó Chủ nhiệm Phòng Tham sự Quốc vụ viện (một cơ quan tư vấn).

[2] Phó CT Đảng CSTQ Nguyên soái Lâm Bưu định đảo chính lật Mao nhưng bất thành, ngày 13/9/1971 cùng vợ con lên máy bay trốn ra nước ngoài, chết vì máy bay rơi trên đất Mông Cổ.FacebookLinkedInEmailMessenger

Cái mặt

Con người có cái Mặt là quan trọng nhất. Thật vậy, nếu lấy cái Mặt bỏ
đi, tất cả những gì còn lại trên thân thể sẽ không dùng vào đâu được
hết và cũng không còn tồn tại được nữa. Không có mũi để thở, không có
miệng để ăn…, con người không có cái Mặt là kể như “tiêu tùng”!
Trước khi “đào sâu” cái Mặt, xin mở dấu ngoặc ở đây để “vinh danh”
tiếng Việt: phần lớn những gì nằm trên cái mặt đều bắt đầu bằng chữ
“m”, trên thế giới chưa có thứ tiếng nào như vậy hết !
Ðây, nhìn coi: trên mặt có mắt, mũi, miệng- mồm, má.
Ở “mắt” có mày, có mi, có mí mắt, rồi mắt mụp, mắt mọng nước, mắt mơ
màng, mắt mơ mộng, mắt mờ, mắt mù…
Qua tới “mũi,” ngoài “mùi” ra không thấy chữ “m” nào khác dính vào. Có
lẽ tại vì cái mũi nó… cứng khư, không… linh hoạt. Ấy vậy mà nó – cái
mũi – và “chân mày”cũng kém linh hoạt như cái mũi lại được đi kèm với
cái mặt để… hỗ trợ cho tiếng “Mặt”, trong từ ngữ thông thường: “mặt
mũi”, “mặt mày”, làm như nếu nói “Mặt” không, phát âm nghe… trơn lùi,
nhẹ hểu không lọt lỗ tai !
Cho nên người ta nói “mặt mũi bơ phờ”, “mặt mày hốc hác”, chớ ít nghe
“mặt bơ phờ, mặt hốc hác”.
Bây giờ tới “Miệng” thì có môi, có mép rồi mồm mép, môi miếng, miệng
méo, miệng móm, mím môi, mếu máo, mấp máy…
Ðến “Má” thì ngoài “mụt mụn” chỉ có “mi một cái” là còn thấy chữ “m”
nhè nhẹ phất phơ…
Tiếng Việt hay quá !
Trở về với cái Mặt. Ông Trời, khi tạo ra con người, ban cho cái Mặt là
một ân huệ lớn. Nhờ có cái Mặt mà con người nhận ra nhau, chồng nhận
ra vợ, con nhận ra cha, biết ai là bạn ai là thù v.v…
Thử tưởng tượng một ngày nào đó bỗng nhiên không ai còn cái mặt nữa.
Nếu có sống được nhờ một sự nhiệm màu nào đó, thử hỏi con người lấy gì
để nhận diện nhau?
Chồng vợ, cha con, bạn thù gì đều…xà ngầu. Vậy là loạn đứt !
Cho nên xưa nay, người ta coi trọng cái Mặt lắm.
Có người còn nói:

  • Thà chịu mất mạng chớ không bao giờ để cho mất mặt !
    Vì vậy, rủi có ai lỡ lời chạm tự ái một người nào thì người đó thấy
    bị…mất Mặt, liền đưa một nắm tay lên hăm he:
  • Thằng đó, bộ nó giỡn Mặt tao hả? Tao phải dằn mặt nó một lần cho nó
    biết Mặt tao !
    Rồi, bởi vì cái Mặt nó… nặng ký như vậy, cho nên khi nói về một người
    nào, người ta chỉ nhắm ngay vào cái Mặt của người đó để mà nói.
    Nếu ghét thì gọi “cái bảng mặt” . Cái mặt mà như tấm bảng thì thiệt
    tình thấy chán quá!
    Thường nghe nói:
  • Cái bảng Mặt thằng đó tao coi hổng vô !
    Nếu hơi khinh miệt thì gọi “cái bộ Mặt”
  • Thằng này có bộ mặt ăn cướp !
    Còn khi thương thì cái mặt trở thành “cái gương mặt” .
  • Em có gương mặt đẹp như trăng rằm !
    Chưa hết ! Khi nổi giận muốn… hộc máu, người ta cũng chỉ nhắm vào cái
    Mặt của đối thủ chớ không chỗ nào khác để “dộng một đạp”!
    Bởi vậy, xưa nay những người có “nợ máu” lúc nào cũng sợ bị “nhìn Mặt
    trả thù” và hồi thời chống Pháp, những điềm chỉ viên đi nhìn mặt “quân
    phản loạn” đều lấy bao bố trùm đầu để giấu Mặt !
    Con người, khi nhìn người khác, lúc nào cũng bắt đầu ở cái Mặt . Chỉ
    có người không… bình thường mới nhìn người khác bắt đầu ở cái chân hay
    cái bụng hay cái lưng !
    Ở đó – ở cái Mặt – ngoài cái đẹp cái xấu ra, còn hiện lên “cái Mặt bên
    trong” của con người. Các nhà văn gọi là “nét Mặt,” nghe… trừu tượng
    nhưng suy cho kỹ nó rất đúng.
    Bởi vì chỉ có cái Mặt là… vẽ được cái nội tâm của con người thật đầy đủ.
    Cho nên mới có câu “Xem mặt mà bắt hình dong” . Hình dong ở đây là cái
    hình dong giấu kín bên trong con người. Cho nên, trên sòng bài, các
    con bạc thường “bắt gân Mặt” nhau để đoán nước bài của đối thủ.
    Cho nên mấy “Giáo sư Chiêm tinh gia” lúc nào cũng liếc sơ cái Mặt của
    thân chủ trước khi nâng bàn tay lên xem chỉ tay, để… định mức coi
    “thằng cha này nó sẽ tin mấy phần trăm những gì mình nói”! Thì ra, đời
    người không nằm trong lòng bàn tay như mấy “thầy” đó nói, mà nó nằm
    ngay trên nét Mặt !
    Cũng bởi vì cái Mặt nó… phản động như vậy, cho nên các “đỉnh cao trí
    tuệ của ta” đã nâng cao cảnh giác, ẩn mặt một cách… an toàn suốt giai
    đoạn đấu tranh “chìm”và chỉ “xuất đầu lộ diện” khi toàn dân đã vùng
    lên nổi dậy. Và các “đồng chấy vĩ đại của ta” thay tên đổi Mặt lia Họ
    ôm khư khư cái Mặt để… “quản lý” nó từng giây từng phút, chỉ sợ nó để
    lòi ra cái Mặt thật nhét giấu ở bên trong, riết rồi nó xơ cứng như mặt
    bằng đất. Ðến nỗi vào bàn hội nghị quốc tế, các đối tượng không làm
    sao “bắt gân Mặt” để “đi” một nước bài cho ngoạn mục !
    Ở đây, phải nói thêm cho rõ là cho dù trong nội bộ với nhau – nghĩa là
    giữa “ta” và “ta” – cái Mặt vẫn bị quản lý y chang như vậy, bởi vì
    hành động đó đã biến thành “bản năng” từ khuya !
    Vì vậy, đừng ngạc nhiên khi thấy sau Hội nghị, mới ôm “hôn nhau thắm
    thiết tình đồng chấy” mà trên đường về lại khu bộ có cán bộ đã bị
    “bùm” hay bị “cho xe rơi xuống hố” một cách rất… bài bản, để lại niềm
    “vô cùng thương tiếc” nằm trên vòng hoa phúng điếu của người đã ra
    lệnh hạ thủ !
    Có khi chính “đồng chấy” này là người thay Mặt tập thể, đứng ra… rớt
    nước mắt đọc điếu văn ! Ở đây, ông bà mình nói:
  • Phải muối mặt mới làm được như vậy.
    Thật là chí lý !
    Cái Mặt đã muối rồi thì đâu còn sợ… bị thúi hay bị sình !
    Ta cứ tỉnh bơ thôi !
    Bởi cái Mặt nó phản ảnh con người nên hát bội mới “dặm Mặt“ sao cho
    đúng với cái “vai“, để khi bước ra sân khấu, khán giả nhận ra ngay
    “thằng trung, thằng nịnh, thằng hiền, thằng dữ” v…v… Ngoài đời,
    không có ai dặm Mặt, nhưng vẫn được người khác “nhận diện” là:
  • Thằng mặt gà mái, thằng mặt có cô hồn, thằng mặt… mẹt, mặt mâm,
    mặt thớt, mặt hãm tài, mặt đưa đám, mặt trù cha hại mẹ, mặt… mo,
    v…v….
    Sau tháng tư 1975, người dân miền Nam đã được Nhà Nước “vẽ lọ bôi hề”
    thành những khuôn Mặt… không giống ai, để đóng vai “nhân dân làm chủ”
    trên sân khấu cách mạng, trong vở trường kịch “Ðảng lãnh đạo, Nhà nước
    quản lý, Nhân dân làm chủ”!
    Trên sân khấu chánh trị Việt Nam bây giờ, trong cũng như ngoài nước,
    “đào kép” tuy không dặm Mặt như Nghệ sĩ hát bội, nhưng mỗi người đều
    có “lận lưng” vài cái Mặt nạ để tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng mà đeo
    lên cho người ta “thấy mình là ai” . Dĩ nhiên không phải là cái Mặt
    thật của mình. Rồi cũng “phùng mang trợn mắt hát hò inh ỏi” một cách
    rất… tròn vai, làm “bà con đồng bào, đồng chấy, đồng hương” cứ thấy
    như thiệt !
    Ðiểm đặc biệt là ông nào bà nào cũng muốn thiên hạ chỉ nhìn thấy có
    “cái Mặt của mình” trong đám bộ Mặt đang múa may quay cuồng trên sân
    khấu.
    Vì vậy, họ phải ráng bơm cho cái Mặt của mình to bằng cái mâm – Mặt
    mâm, cái nia, để thấy họ mới đúng là… “Đại diện”! Chẳng qua là họ muốn
    tạo thời cơ để kiếm cho cái… đít của họ một cái … ghế !
    Ðến đây thì vở tuồng trên sân khấu đang chuyển sang lớp “gà nhà bôi
    Mặt đá nhau”… Cái Mặt đã trở thành “một vấn đề”!
    Ðể chấm dứt bài này và cũng để được yên thân, xin phép độc giả cho tôi
    “vác cái Mặt của tôi đi chỗ khác”!

Tiểu Tử

NHỮNG NGÀY THÁNG TÙ ĐẦY KHÔNG THỂ QUÊN

Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước đó “đánh”tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú ngnguyười Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai. Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là người trong giới Văn nghệ đầu tiên, mới nhập trại đã bị tống ngay vào “biệt giam” (cachot) khu B1, phòng 11 trại Phan Đăng Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân vật quan trọng, là tay sai của CIA được dựng lên làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam hoạt động trong báo giới. Vì ngoài Bắc chức vụ này “to” lắm, do đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang bộ trưởng. Trong cùng dẫy biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Linh mục Đỗ Bác Ái, Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu Khoa trưởng Khoa Luật đại học Huế), Luật sư Nguyễn Hữu Doãn, Luật sư Nguyễn Khắc Chính, Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ, Nhà báo Hồ Văn Đồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, Nhà Văn Nhà báo (nguyên dân biểu) Hồ Hữu Tường. Những người này lần lượt vào biệt giam sau tôi 1, 2 tuần. Đầu dẫy khu biệt giam buồng số 1 là “tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết nhiều về nhân vật này. Ông là người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn trong nhà thờ Vinh Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài vũ khí thô sơ, khi CS vào Saigon mấy tháng. Sau đó ông bị CS xử bắn. Vụ “vùng lên”khởi đầu chống đối CS này đã gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận khắp nước khi đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hãm quanh khu vực Nhà Thờ mấy ngày liền mới trấn áp được. Tôi nghĩ chúng ta thật vô tình khi ở ngoài này, trải qua mấy chục năm, không thấy một ai nhắc nhở tới ông (người được gọi là tướng Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đãi là biệt danh của Tướng NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lãnh đạo cuộc chiến đấu với rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”). Theo tôi đây là người chiến sĩ quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay từ ngày đầu, chúng ta nên tỏ bầy lòng ngưỡng mộ và khâm phục.

Phía sau dẫy biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc Thông, ông chủ nhiệm nhật báo Lẽ Sống Mới Ngô Công Minh (vào đầu năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông Tin), ông Tống Đình Bắc,Trưởng ty Công an nổi tiếng sát cộng Miền Tây, ông chủ Nhà sách Khai Trí và một vài người nữa từng giữ chức vụ cao chế độ cũ. Riêng ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao động Gia Trung với chúng tôi hơn tháng thì CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không ai biết tin tức về ông. Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu vì mấy tay tổ văn nghệ, báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi nhà lớn của ông ở Saigon và vàng bạc của cải. Theo tôi, ông không phải nhà hoạt động chánh trị, chỉ là nhà báo thuần tuý nên không thể bị sát hại vì lý do chánh trị. Khi tù về tôi có dò hỏi tin tức ông nhưng không ai biết một cách chính xác.

Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài việc để nhớ xin kể ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc. Bọn “thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu, kể cả vị Linh mục, nhưng với hai vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì cai tù lại bắt để tóc. Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên: “Đó là chính sách Nhà nước!”. Việc thứ hai là vì biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi ngày chúng tôi chỉ được từ hai tới ba phút vòi nước ở ngoài thọc vào để làm vệ sinh. Tôi không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu (bằng xà bông giặt). Đang làm nửa chừng vòi nước rút ra mặc cho tôi nài nỉ. Báo hại đêm đó đầu tôi bị xà bông làm ngứa ngáy khó chịu không tài nào nhắm mắt ngủ yên được. Cũng vì “nước” tôi phải tự “tranh đấu” với mình mãi mới nuốt xong phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái tô nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh. Vì phải chứa nước làm vệ sinh (khi đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái tô lớn mầu xanh. Trong khi đi “làm việc” (hỏi cung) tôi viết mấy chữ bằng bút chì dặn anh tù hành sự để cơm vào nửa tờ giấy báo cũ, còn canh để vào tô nhựa mầu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước trữ đi, để cơm canh vào 2 cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội nước còn nồng nặc mùi phân của mình. Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nhìn hai tô cơm canh muốn ứa nước mắt tự “tranh đấu” với mình. Ăn hay nhịn? Nếu ăn, khó nuốt trôi miếng cơm vì tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị đói tới trưa hôm sau. Tôi lại mắc chứng đau dạ dầy từ ngày CS chiếm Saigon nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối cùng tôi đành nhắm mắt nuốt vội chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.

Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng trời âm u, được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi liếc nhìn thấy nhà văn Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt phòng giam tập thể hướng về phía tôi nói khá lớn: “Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao…”. Tôi chỉ nghe được tới đây thì bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Thì ra Duyên Anh tưởng tôi được tha về nhờ tôi tới nhà nhắn tin vợ.

Khi đi đến trước sân “nhà khách” trại giam tôi thấy vài người quen ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh. Chúng tôi chỉ đưa mắt chào nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong còng tay lại đưa lên chiếc xe hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công an thành phố Saigon cũ đường Trần Hưng Đạo). Cùng trên chuyến xe có tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Đình Bắc và một vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài sân cơ quan chờ làm thủ tục gì đó, các bạn tù của tôi bàn cãi sôi nổi về dự đoán chúng tôi được đưa lên đây làm giấy tờ tha. Có vị còn “cá” một chầu ăn uống linh đình ở Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi tên đem hành lý đi vào phòng…biệt giam! Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi vì biệt giam hết chỗ(?) – viên công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A (làm từ thời Pháp). Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư sản, chính trị gia, Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Đại đức, trộm cắp, buôn lậu, nhốt chung trong một phòng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ hẹp, u tối, ẩm ướt, thiếu ánh sáng và khí trời. Phòng có 2 “sàn”, sàn trên cao khoảng một mét. Mỗi người được cấp manh chiếu rách cáu bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích tụ lâu năm đã kết thành “cao”. Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt giam vì mấy tháng sau anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào phòng tôi kể cho nghe thảm cảnh trong buồng biệt giam anh đã “chết trong cõi sống” mấy tháng qua. Buồng biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ thời Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy chục năm.Tường bẩn thỉu lam nham dầy cáu bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh năm. Mùi mồ hôi, mùi phân nước tiểu người tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi hôi hám khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe ngay. Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu đã nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu dâng lên tràn lan khắp buồng với những cục phân chưa tiêu hủy. Nếu mưa lâu khoảng một giờ nước cầu tiêu dâng ngập buồng giam hơn gang tay, tù chỉ còn biết đứng dựa vào tường chờ cho nước rút hoặc ngủ đứng. Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng còn ẩm ướt, tù mới ngả lưng nằm thì một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm ghẻ lở khắp mình trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên gặm bàn chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu nó sống bằng xương thịt tù bị chết chưa kịp mang đi. Anh Mai Văn Lễ kết luận: “Đúng là tầng chót địa ngục trần gian, có một không hai trên thế giới!”. Tôi được biết Linh mục Hoàng Quỳnh, người lãnh đạo giáo dân khu Bùi Chu Phát Diệm nổi tiếng chống CS bằng vũ lực hồi còn ngoài miền Bắc. Linh mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5. 1975, bị giam và chết trong “tầng chót địa ngục trần gian” này. Khi họ đem xác Linh mục đi trên cái băng ca, thân thể teo tóp gầy đét bé nhỏ như đưá trẻ lên 10.

Sau hai ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn, trước đây dùng chở heo, chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúch nhích cánh tay cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài mệt lả người, chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo Gia Trung (thuộc tỉnh Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu. Nghe nói nơi này khi trước là mật khu của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi tới đã có 3 trại giam, mỗi trại cách nhau khoảng cây số. Trại nào cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000. Tù đa số là các viên chức cấp nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn là tù hành sự từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10 tuổi, đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị bắt.

Những nỗi đói khổ nhục nhã, sống cuộc đời trung cổ, sách báo đã nói nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhã chúng tôi còn có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối với chúng tôi là sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đình, với đời sống ngoài xã hội. Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách Nhà nước là đem vợ con lên vùng đất tù đầy này cuốc đất trồng khoai sinh sống (như ngoài Bắc đã thực hiện). Tất nhiên chúng tôi không thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời mình chứ không thể để vợ con đã khốn khổ ngoài đời lại phải gánh thêm cảnh tù đầy.

Trong những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế kỷ sống như cây cỏ như súc vật, chúng tôi hết cả hy vọng hết cả chờ mong thì có những tin tức như những làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn về chương trình HO, người Mỹ sẽ cứu chúng tôi đem sang Mỹ. Trong thời gian này các con tôi gửi thư cho tôi nói bóng nói gió là hai hội Văn Bút Quốc Tế và Việt Nam đang ráo riết can thiệp vận động cho anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi cũng báo tin có nhận được “quà” của hai hội gửi. Thời gian này bọn tù chúng tôi “hồ hởi phấn khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương trình HO (mỗi người tán một kiểu toàn có lợi cho mình) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi cũng hết lời ca ngợi Tổng Thống Carter – vị ân nhân vĩ đại – sẽ lập cầu Không vận đưa chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do tươi sáng. Tôi cũng nghe nói tới tên một bà lúc ấy còn rất xa lạ với chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết bao giai thoại đồn đại thêu dệt về bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời bình luận của anh em tù, tôi có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm cây đũa thần giúp chúng tôi từ vực thẳm lên. Rồi ngày tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua, tất cả mọi việc vẫn như cũ không có biến chuyển gì xẩy ra, chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất vọng lê cái thân tù đầy mòn mỏi héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng không đợi không chờ” như câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi nghe.

Sau gần 10 năm thân thể rã rời hư hao chỉ cỏn bộ da bọc xương, tinh thần suy sụp chán nản chẳng còn gì để mong để chờ và cũng hết cả “cú” tha bất ngờ thì anh Doãn Quốc Sỹ được gọi tên tha, năm sau anh Hồ Văn Đồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư Vũ Quốc Thông. Những người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong chúng tôi lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.

Có lẽ do nguồn từ gia đình ký giả Cao Sơn lên thăm nuôi nói đài VOA vừa loan tin tôi và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở trại Gia Trung, Pleiku. Thế là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội tôi cũng tò mò hỏi anh tù nấu nước có biết tôi không và hiện ở đội nào (vì đài VOA chỉ loan bút hiệu của tôi nên anh ta không biết). Báo hại tôi từ khi có tin này không được tự động đi gánh phân người từ trại ra ngoài đồng nữa. phải về đội cuốc đất chặt cây đào mương như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn thỉu hôi hám mất vệ sinh thật nhưng chỉ nửa buổi là “thanh toán” xong các hố xí. Thời gian còn lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh” kiếm củ khoai mì hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng thường trực rỗng. Nếu tôi nói đã hơn một lần “tự động” ăn…phân người, có lẽ nhiều người không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân phận tù đầy dưới chế độ cộng sản. Lần thứ nhất quãng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ chòi đun nước uống của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước, nguyên đại úy cảnh sát quốc gia, vốn quý mến tôi, thấy tôi đến, anh mắt nhìn chỗ khác nhưng miệng nói nhỏ: “bác đi tới phía bụi cây bên trái”. Tôi biết là “có gì” rồi. Tới nơi nhìn vào trong bụi cây tôi thấy nửa trái dưa chuột nhỏ. Tôi cầm lên bỏ vào miệng nhai liền. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ ăn miếng dưa chuột ngon đến thế (tôi vốn không thích ăn dưa chuột). Vừa nuốt xong nửa phần dưa chuột tôi chợt nhớ ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước, nói: “Này ông ơi, có phải trái dưa này “tẩm” phân người?”. Anh bạn gắt nhẹ: “Đã bảo, bác cứ ăn đi, không chết đâu mà sợ!”. Nghe anh bạn nói, tôi biết mình đã lỡ ăn rồi (hơn nữa cũng tại đói) nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa chuột còn lại. Nguyên do thế này. Trong vườn ươm giống của đội trồng rau có một dàn dưa chuột. Khi dưa mới kết trái to hơn ngón tay đã bị tù (và cả cai tù) hái trộm ăn hết nên ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân tươi của người hòa với nước rồi hàng ngày quết vào những trái dưa chuột cho hết bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi rửa sơ qua. Thế là lần thứ nhất tôi ăn phân người. Lần thứ hai thì chính do tôi (và mấy ông bạn) chủ động ăn phân người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn phân cầu tiêu các phòng giam. Một số anh em tù hình sự ra ngoài đồng làm việc đã hái và ăn tươi nuốt sống các trái bắp. Vì ăn trộm nên không kịp nhai (sợ cai tù thấy) các bạn tù hình sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ dầy không tiêu nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc đầu còn sợ bẩn sợ hôi và bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”, chúng tôi đi tới việc lấy những hạt bắp này đem ra suối rửa, luộc hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon lành thoải mái! Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké. Tôi được “ấm bụng” ít ngày thì bị “ngưng công tác” (vì tin đài Voa loan?). Đó là hai dấu ấn khủng khiếp trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn không khỏi rùng mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể “ghê gớm” đến thế!.

Còn một chuyện nhỏ nữa mà tôi cũng khó quên. Tôi vốn bị quy kết “học tập cải tạo” xấu, tư tưởng không ổn định và trây lười lao động nên thường xuyên bị ăn 13 ký một tháng (5 ký gạo, 8 ký khoai mì – nhưng bọn cai tù và bọn nhà bếp đồng lõa ăn chặn mất 2 ký gạo nên chỉ còn 3 ký). Trong 7 năm sống ở trại Gia Trung tôi được gia đình “thăm nuôi” có 3 lần. Đáng nhớ nhất là lần 2 con tôi (còn vị thành niên: một trai 15 tuổi và một gái 13 tuổi) đi xe đò hơn ngàn cây số lên thăm Bố với gói quà khoảng 10 ký. Khi đến cây số 25 (quốc lộ 18) thì xuống xe, lúc đó là 2 giờ đêm. Trời rất lạnh lại ở chốn rừng thưa hoang vắng không biết đường vào trại, hai anh em phải ngồi dựa lưng vào nhau chờ sáng trong lòng vừa sợ vừa lo mọi thứ, nhất là với thú dữ và kẻ cướp.

Sáng hôm sau tôi được gọi thăm nuôi. Tôi cố làm nét mặt lạnh lùng vô cảm để tránh trận nước mắt của hai con tôi khi nhìn thấy thân thể tiều tụy mòn mỏi hết sinh lực của bố chúng. Như đã viết ở trên vì tôi học tập cải tạo xấu lao động kém nên chỉ được nhận 2 ký đồ thăm nuôi. Tôi nhìn thấy một gói bột trắng khoảng 1 ký, tôi tưởng là bột gạo hoặc bột sữa nên lấy gói này và 1 gói xả xào mắm ruốc vừa đủ 2 ký. Hai con tôi đứng trước cửa nhà thăm nuôi nhìn theo, tôi biết chúng đang khóc nhưng không đủ can đảm quay lại nhìn: tôi sợ không cầm được nước mắt và òa khóc. Tôi nghe tiếng con gái tôi nói trong nước mắt: “Bố ráng giừ gìn sức khỏe để còn sống trở về với các con”. Vào tới buồng tôi mở ngay gói bột ra pha nước vào cái tô nhựa và ngoắng cho tan bột. Bột bị ngoắng sủi bọt lên trắng xoá. Đang đói đang khát tôi đưa lên miệng uống liền một ngụm lớn. Nhưng chất bột vừa trôi vào cổ họng, thấm vào lưỡi đắng chát và nóng rát, không có mùi vị gì có thể gọi là sữa cả, dù là sữa quá “đát”, tôi muốn nôn ọe vội nhổ ra ngay. Thì ra đó là sà bông bột (mà tôi cứ đinh ninh là bột gạo hay bột sữa). Kể lại cho anh em trong trại nghe ai cũng ôm bụng cười. Hai con tôi thật ngây thơ đem sà bông bột cho tù giặt quần áo! Sau này tù về tôi mới biết hai con tôi cũng vô cùng khốn khổ trong chuyến về này. Vì xe đò hết chỗ chật cứng, chủ xe bảo hai con tôi muốn đi thì lên mui xe mà “nằm”. Bát đắc dĩ chúng phải làm theo. Mấy lần suýt chết khi xe chạy qua nhưng cái “cầu” thấp nhỏ bắc ngang đường, chỉ sơ sẩy một chút là bị vướng gạt ngã xuống đường chỉ có chết, nếu không thì cũng vỡ đầu gẫy chân tay.

Đầu năm 1985 tôi bất thần được gọi tên tha về cùng một số anh em quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các anh mừng cho tôi thì ít, lo lắng chán nản thất vọng cho mình thì nhiều. Viên quản giáo trở nên tử tế với tôi, gã chạy vào phòng nói: “Mừng cho anh nhé. Có thuốc men gì cho tớ xin”. Tôi cho gã mấy viên thuốc cảm, gã đòi lấy hết nhưng tôi không cho để cho anh em tù nghèo không thăm nuôi.

Trại tù phát cho chúng tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi giá xe về Saigon 150 đồng. Đi bộ từ trại tù ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số. Chúng tôi phải nài nỉ mãi bà chủ xe đò mới “thông cảm” lấy 50 đồng. Xe đày nhóc người ì ạch chạy như rùa bò trên con đường vòng vèo dốc núi cheo leo đầy bất trắc, nguy hiểm. Tôi và ba anh tù đi cùng chuyến xe không một đồng bạc dính túi, phải nhịn đói nhịn khát hai ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Saigon. Một anh có “sáng kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi tha, gạ bán cho mấy người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối vì ai cũng sợ xui khi mặc đồ tù.

Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm thì “phong trào HO” nở rộ và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca ngợi công đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi vì nghèo, tiền ăn không có lấy đâu ra vàng đút lót hối lộ để được đi HO. Nhưng nghe theo lời các bạn đồng nghiệp cũ may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về khuyên tôi cứ đến đường Nguyễn Du nộp đơn kèm theo những giấy tờ can thiệp (từ trước tới nay) của các tổ chức như Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Đoàn Ký Giả Quốc Tế, Hội Nhân Quyền…v…v…Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê hương đất nước mình. Nhưng tới cuối năm 1998 tôi được anh bạn nhà văn Hoàng Hải Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi và Nhà văn Uyên Thao được bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã tận tình can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để chúng tôi được sang Mỹ định cư. Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới thiệu hai chúng tôi với bà Khúc Minh Thơ và cộng tác mật thiết với bà trong công việc vận động. Con đường hy vọng, con đường sống, lại mở rộng trước mắt tôi.

Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giã biệt quê hương tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống lại dưới bầu trời tự do dân chủ như tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều đêm vẫn giật mình thức giấc vì những ám ảnh não nề thê thảm khốn cùng của những năm tháng tù đầy. 

Thanh Thương Hoàng

NHỮNG NGƯỜI LÍNH

Thân chuyển,

Để câu truyện thêm rõ ràng, tưởng cũng cần nói thêm là mấy lúc sau nầy, trong mục đích cạnh tranh giảm tiền vé tối đa, các hảng hàng không không còn serve thức ăn trên máy bay cho hành khách economy class ( trừ business class hay first class và những chuyến oversea long haul) mà thay vào đó chỉ bán sandwich, snack dưới hình thức BOB (buy on board) những bao đồ ăn trưa.

NHỮNG NGƯỜI LÍNH

Nguyên Trần

Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu  rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ tôi cũng cần chợp mắt một chút.
Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần  nhất:

– Các cậu đi tới đâu vậy?

– Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.

Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.

Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.

– Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$.

Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.      

Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.

Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:

– Xin  bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.      

Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:

– Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy.  Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu. Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:


– Thưa ông dùng gì ạ?  Bò, gà rất hảo hạng.-  Xin cho tôi gà

Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB  thôi mà.

Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:

– Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với  ông

Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:

– Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.

Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.

Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:

– Tôi muốn được bắt tay ông

Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.

Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:

– Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.

Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?

Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.
Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi áo tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.

Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ..

Đúng là khi ta làm phải thì không bao giờ lỗ lã cả.

Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi  tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:

–  Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.

Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.

Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một.  

Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.

Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.

Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.

Riêng tôi thì đã làm xong.

Toronto Sept 4,2009

Nguyên Trần

‘Liên lạc Pennsylvania’: Cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ ở Việt Nam

Nguồn: Robert K. Brigham, “A Lost Chance for Peace in Vietnam,” The New York Times, 16/06/2017.

Biên dịch: Hiếu Minh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Có lẽ không có câu hỏi nào ám ảnh một cách đáng ngại trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam trong năm 1967 hơn câu: Nếu Mỹ và các đối thủ ở Việt Nam có thể đạt được một thoả thuận hoà bình chấp nhận được trước cuộc leo thang lớn Tết Mậu Thân 1968 thì có thể mạng sống của hàng trăm nghìn người đã được cứu. Liệu một hòa ước như vậy có khả thi hay không?

Trong nhiều năm, các học giả và các nhà hoạch định chính sách đã nghiên cứu khả năng này. Nhiều người cho rằng chiến tranh leo thang là không thể đảo ngược, rằng số phận chung của các đối thủ của Mỹ ở Việt Nam là định mệnh, như thực tế đã cho thấy. Nhưng những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một hướng mới. Viễn cảnh hoà bình có thể đã sáng sủa hơn những gì người ta nghĩ. Như trêu ngươi, một cách tiếp cận đã suýt thành công: đó là các cuộc hội đàm bí mật giữa Washington và Hà Nội bắt đầu từ tháng 6 năm 1967, dưới mật danh “Pennsylvania.”

Kế hoạch Pennsylvania bắt đầu khi hai nhà khoa học người Pháp, Herbert Marcovitch và Raymond Aubrac, tiếp cận Henry Kissinger, khi đó là giáo sư ở Harvard, để đề nghị làm trung gian thúc đẩy đàm phán giữa Mỹ và Bắc Việt. Kissinger là cố vấn chiến tranh cho chính quyền Johnson và háo hức làm mọi chuyện có thể để lấy lòng tổng thống. Aubrac là bạn lâu năm của Hồ Chí Minh và hứa sẽ chuyển tin đến nhà lãnh đạo lớn tuổi này nếu Lyndon Johnson có thông điệp mới. Kissinger chuyển đề xuất này tới Ngoại trưởng Dean Rusk, cùng một bản sao gửi Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara.

McNamara dẫn đầu các động thái ngoại giao trong kế hoạch Pennsylvania. Vốn cam kết tìm một con đường đàm phán để rút khỏi Việt Nam, ông đẩy mạnh kế hoạch này trong một bữa trưa thứ Ba cùng với Tổng thống Johnson và các cố vấn chủ chốt. Tuy nhiên Johnson lại hoài nghi về mọi cuộc đàm phán với phía Cộng sản, bác bỏ đề xuất của Pháp “lại là một con đường mù mịt không dẫn đến đâu.” Nhưng McNamara vẫn kiên trì, và cuối cùng Tổng thống đã nhượng bộ, cho phép Bộ trưởng Quốc phòng McNamara thiết lập liên lạc thông qua Marcovitch và Aubrac, hướng đến mục tiêu đàm phán hoà bình – miễn là ông không làm gì để Mỹ phải xấu hổ.

Đầu tháng 7, Marcovitch và Aubrac đến Hà Nội và trình cái gọi là đề xuất Pha A/Pha B của chính quyền Johnson đến giới lãnh đạo Hà Nội. Mỹ sẽ ngừng ném bom, đổi lại Hà Nội phải đảm bảo ngừng thâm nhập vào các vùng chủ chốt ở Nam Việt. Khi Bắc Việt đã hành động, Mỹ sẽ cho đóng băng lực lượng chiến đấu ở mức hiện có và đàm phán hoà bình có thể bắt đầu. Đây là một bước tiến đáng kể so với việc trước đây Johnson nhất định muốn hai bên cùng xuống thang. Tổng thống đã chấp nhận đánh cược, hy vọng sẽ xoa dịu được phe tự do trong Quốc hội và những người biểu tình chống chiến tranh, vốn đã lập kế hoạch tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở Washington vào tháng 10. Johnson luôn có thể tiếp tục ném bom nếu không có gì trong mối liên lạc này được thực chất hóa.

Những kết quả ban đầu của kế hoạch Pennsylvania có vẻ hứa hẹn. Aubrac và Marcovitch đến Hà Nội ngày 24 tháng 7 năm 1967, sau đó gặp Hồ Chí Minh và thủ tướng Phạm Văn Đồng. Cuộc gặp với Hồ Chí Minh nhìn chung chỉ mang tính thủ tục, nhưng cuộc gặp với Phạm Văn Đồng thì thực chất và hiệu quả. Ông Đồng nhấn mạnh rằng Bắc Việt sẽ không thể đàm phán trong khi còn bị ném bom, nhưng bất ngờ tỏ ý Hà Nội sẽ không yêu cầu Mỹ phải thông báo công khai việc ngừng ném bom, cứu vớt Johnson khỏi một vấn đề chính trị tiềm tàng. Nếu Mỹ ngừng ném bom, ông Đồng đảm bảo với các vị khách của mình, đàm phán có thể bắt đầu ngay lập tức.

Johnson, mặc dù thận trọng, đã quyết định tiến hành ngừng ném bom mà không tham vấn các đồng minh Nam Việt hay chỉ huy quân đội của mình để bắt đầu đàm phán. Johnson uỷ quyền cho Kissinger đề nghị Aubrac và Marcovitch thông báo với lãnh đạo Bắc Việt rằng Mỹ sẽ ngừng ném bom quanh Hà Nội thêm 10 ngày bắt đầu từ ngày 24 tháng 8, đúng dịp chuyến thăm dự định tiếp theo của hai nhà khoa học Pháp. Hà Nội đồng ý rằng đây là một thay đổi hiệu quả trong lập trường của Mỹ và là kết quả tích cực của kênh liên lạc Pennsylvania.

Lần đầu tiên trong nhiều năm, có vẻ như hai bên đều nghiêm túc về việc đàm phán. Chet Cooper, trợ lý cho W. Averell Harriman, “đại sứ hoà bình” của Johnson, đã gọi Pennsylvania là cơ hội cuối tốt nhất cho hoà bình, biết rằng nếu không thì chiến tranh sẽ rất có thể leo thang.

Ngày Aubrac và Marcovitch chuẩn bị rời Paris đến Hà Nội, máy bay Mỹ đã tấn công hơn 200 lần vào Bắc Việt, nhiều hơn mọi ngày trước đó. Lý giải chính thức cho thời điểm tệ hại này là các cuộc tấn công đã được lên kế hoạch từ đầu tháng nhưng bị hoãn lại do thời tiết xấu. Khi trời trở đẹp hôm 20 tháng 8, các cuộc ném bom được tiếp tục theo quy trình và kéo dài bốn ngày.

Hà Nội đã công khai các cuộc tấn công mới, cáo buộc Johnson dùng đề xuất ngừng ném bom để đánh lạc hướng trong khi đẩy chiến tranh leo thang. Johnson phủ nhận cáo buộc này nhưng không thể che giấu sự thật là ông đã phê duyệt leo thang cuộc ném bom chỉ hai ngày trước khi nó bắt đầu, hôm 18 tháng 8, và dùng thời tiết làm vỏ bọc tiện lợi cho hành động của mình.

Có lẽ ông tin rằng Mỹ phải tấn công mọi mục tiêu có thể trước khi ngừng ném bom phòng khi Mỹ không có cơ hội khác. Johnson thậm chí còn phê duyệt một mục tiêu với lý do là nếu đàm phán với Hà Nội có kết quả thì ông sẽ không thể phê duyệt mục tiêu đó sau này. Ngay từ đầu, Johnson đã luôn hoài nghi về mối liên lạc Pennsylvania. Sau này ông nói rằng Mỹ không bao giờ nên ngừng ném bom chỉ vì “hai vị giáo sư đang gặp gỡ.” Johnson tuyệt đối tin chắc rằng cuộc ném bom đang gây thiệt hại cho Bắc Việt và muốn tiếp tục “đổ thêm dầu vào lửa.”

Nhưng Johnson chưa bao giờ xem xét các cuộc ném bom tăng cường sẽ có vai trò như thế nào ở Hà Nội, và điều đó nói lên nhiều điều về việc các nhà lãnh đạo Mỹ đã đâm đầu vào chiến tranh ở Việt Nam như thế nào. Thậm chí sau hàng chục cuộc liên lạc hoà bình bí mật thất bại trước Pennsylvania, chính quyền Johnson cũng không thể thấy rằng công khai leo thang ném bom ngay trước một sứ mệnh hoà bình khả dĩ sẽ không thể mang lại thành công ngoại giao.

Các cuộc ném bom không chỉ giết chết các cuộc hoà đàm bí mật mà còn trực tiếp đem lại cái cớ cho phe cứng rắn trong Quân ủy Trung ương ở Hà Nội, những người luôn chống lại đàm phán dưới bất kỳ dạng thức nào. Bác bỏ ý kiến của một vài người trong Bộ Ngoại giao, phe chủ chiến ở Hà Nội nay có mọi bằng chứng họ cần rằng Mỹ không nghiêm túc về việc đàm phán. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam kết luận rằng Bắc Việt không còn lựa chọn nào khác ngoài chịu đựng các cuộc ném bom trong lúc đồng thời làm xói mòn khả năng Mỹ ở lại Nam Việt.

Bắc Việt đã tăng cường thâm nhập vào Nam Việt để chuẩn bị cho một cuộc leo thang chiến tranh lớn vào đầu năm 1968. Tướng William Westmoreland đã cảm nhận được sự chuẩn bị này và đề nghị Johnson tăng cường lực lượng quân đội Mỹ ở Việt Nam. Số lượng lính Mỹ chiến đấu ở Việt Nam tăng lên hơn 500.000 người chỉ trong vài tháng sau khi Pennsylvania thất bại.

Các cuộc đàm phán đã thất bại bởi các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự ở Washington và Hà Nội đã không dám nắm lấy một cơ hội hoà bình. Phe cứng rắn trong giới lãnh đạo Việt Nam đã thắng thế vào cái ngày liên lạc Pennsylvania sụp đổ. Họ đã thúc đẩy leo thang quân sự nhanh chóng ở miền Nam Việt Nam, tin tưởng một cách sai lầm rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân dự kiến sẽ dẫn đến một cuộc tổng nổi dậy, từ đó lật đổ chính phủ Sài Gòn và buộc Mỹ phải rút quân hoàn toàn. Ngược lại, Johnson đã tuyệt vọng cố gắng để ngỏ các lựa chọn của mình bằng cách đẩy mạnh ném bom ngay trước khi ngừng ném, nhưng cuối cùng lại thu hẹp chính các lựa chọn của mình.

Cố gắng xoa dịu cả các thành viên phản chiến của Quốc hội lẫn các tướng lĩnh muốn một cuộc chiến sâu rộng hơn, Johnson cố gắng tìm kiếm một giải pháp trung dung khi không có giải pháp nào như vậy. Ông chưa bao giờ hoàn toàn hứng thú với các cuộc đàm phán, và tin rằng chiến tranh phải diễn ra bất chấp chi phí và rủi ro, do đó không thể cân bằng các lợi ích và ý tưởng đối lập nhau. Tất nhiên, Johnson cũng chưa bao giờ tham vấn các đồng minh ở Sài Gòn về các cuộc hoà đàm bí mật, điều có thể đã đem lại thêm một khía cạnh rắc rối cho bất cứ thoả thuận nào.

Trớ trêu là trong vòng chín tháng sau khi Pennsylvania thất bại, Mỹ lại tham gia đàm phán với Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng Dân tộc (Việt Cộng), cuối cùng dẫn đến việc Mỹ phải đơn phương rút quân và một lệnh ngừng bắn năm 1973, cho phép 10 đơn vị bộ binh Bắc Việt ở lại miền Nam. Thất bại của cơ hội cuối cùng tốt nhất cho hoà bình đã định hình cuộc chiến những năm sau đó.

Robert K. Brigham là giáo sư lịch sử và quan hệ quốc tế tại Vassar College.

Tại sao Johnson đưa Mỹ lún sâu vào Chiến tranh Việt Nam?

Nguồn: Mark K. Updegrove, “Lyndon Johnson’s Vietnam,” The New York Times, 24/02/2017.

Biên dịch: Dương Thị Thùy Trang | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Tại sao một vị tổng thống dù hiểu rõ những rủi ro nhưng vẫn lao vào một cuộc chiến không thể thắng?

Sáng ngày 27 tháng 5 năm 1964, chỉ hơn hai tháng trước khi Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ được Quốc hội thông qua, cho phép Nhà Trắng nắm quyền chỉ huy quân đội để làm những việc cần thiết ở Đông Nam Á, Tổng thống Lyndon B. Johnson đã gọi hai cuộc điện thoại.

Cuộc đầu tiên, được nhật ký điện thoại ghi nhận lúc 10:55, là với thượng nghị sĩ Richard B. Russell thuộc Đảng Dân chủ của tiểu bang Georgia, chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện. “Ông nghĩ sao về vấn đề Việt Nam?” Johnson hỏi thượng nghị sĩ, một người bạn và cũng là người cố vấn lâu năm. “Tôi muốn nghe ông nói chuyện một chút.”

“Thành thật mà nói, thưa Tổng thống,” Russell trả lời, “nếu ngài định nói với tôi rằng tôi được giao thẩm quyền xử lý việc này theo cách mà tôi thấy thích hợp, thì tôi xin kính cẩn mà khước từ. Nó là mớ hỗn độn kinh khủng nhất mà tôi từng thấy.”

Chưa đầy nửa tiếng sau, lúc 11:24, Johnson gọi cho McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia của ông. “Tôi nói ông nghe, càng.. – tôi đã thức cả đêm qua để suy nghĩ về chuyện này – càng suy nghĩ về nó… tôi càng thấy nó giống như chúng ta đang đi vào một Triều Tiên khác,” ông nói với giọng tiên tri. “Tôi không nghĩ nó đáng để chúng ta chiến đấu và tôi không nghĩ chúng ta có thể rút lui. Nó đúng là mớ hỗn độn lớn nhất.”

Tổng thống nói tiếp, “Việt Nam đáng cái quái gì với tôi?… Nó đáng gì với đất nước này?… Tham chiến thì quá dễ, nhưng đã vào rồi thì vô cùng khó mà rút chân ra được.”

Hai cuộc gọi cách nhau chưa đến nửa tiếng đồng hồ này đã nói lên tất cả những gì cần nói về cuộc khủng khoảng sẽ sớm chôn vùi nhiệm kỳ tổng thống của Johnson. Câu hỏi là, vì sao một vị tổng thống dù hiểu hết những chuyện này – và có những người khác xung quanh để nhắc ông khỏi quên – nhưng vẫn đưa đất nước vào một cuộc chiến tàn khốc?

Công bằng mà nói, Johnson đã thừa hưởng một mớ hỗn độn. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam năm 1954 và đất nước bị chia cắt, Dwight D. Eisenhower và sau đó là John F. Kennedy đã đưa hàng tỷ đô la viện trợ và cố vấn đến hỗ trợ chính quyền miền Nam Việt Nam của Ngô Đình Diệm. Chế độ yếu kém của Diệm cần tiền để đối đầu với cuộc nổi dậy của Việt Cộng, một lực lượng du kích được viện trợ bởi Hồ Chí Minh của miền Bắc, người nung nấu ý định thống nhất Việt Nam. Đó là một kết cục mà người Mỹ không thể chấp nhận. Theo cái gọi là thuyết domino, chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam chắc chắn sẽ lan rộng khắp khu vực.

Vậy mà Việt Nam vẫn là một vấn đề tiếp tục mưng mủ. Với sự ủng hộ ngầm của chính quyền Kennedy, một cuộc đảo chính quân sự đã nổ ra vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, dẫn đến vụ ám sát Diệm.

Đó là một động thái khiến Johnson có những mối nghi ngại sâu sắc. “Tôi không tin vụ ám sát là chính đáng,” sau này ông nói. “Họ là những người tàn nhẫn. Hồ Chí Minh cũng thế. Nhưng tôi muốn nói là trong khi chúng ta luôn khoác lác về các quyền tự do, thì chính phủ Mỹ lại tàn nhẫn dung thứ cho vụ ám sát bởi vì anh [chính quyền Kennedy] không chấp nhận một triết lý chính trị.” Dù vậy, sau vụ ám sát Kennedy, Johnson lại lập tức đâm đầu vào Việt Nam. “Trong những ngày đầu ấy,” ông nhớ lại, “Việt Nam đứng đầu trong chương trình nghị sự, trước cả khi các nguyên thủ nhà nước đến viếng đám tang [Kennedy] về tới nhà.”

Sự nhiệt tình ấy có thể được lý giải một phần bởi con người ông, và một phần bởi thời đại mà ông sống. Không như những người tiền nhiệm Đảng Dân chủ trong Chiến tranh Lạnh, Harry S. Truman và Kennedy, Johnson không thiên về nghiên cứu lịch sử mà thiên về bản tính con người. Ở đó ông chú ý và nắm bắt những điểm yếu và những sự nhu nhược của những người xung quanh mình trong hành lang quyền lực, giống như cách loài chó cảm nhận được sự sợ hãi, thường là khai thác chúng để giành lấy lợi ích chính trị.

Từ khi đến Washington vào năm 1934, Johnson đã rút ra bài học từ những sai lầm làm thay đổi thế giới của các nguyên thủ quốc gia, đặc biệt là những sai lầm mà ông tin là xuất phát từ sự yếu đuối. Trong nhiệm kỳ hạ nghị sĩ đầu tiên của Johnson, vào năm 1938, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đã nhượng bộ Hitler với niềm tin rằng mình đang đem lại “hòa bình cho thời đại của chúng ta” cho người dân, trong khi thực ra lại đang cho phép Đức chiếm đóng Tiệp Khắc và xâm lược Ba Lan mà không bị cản trở, để rồi Thế chiến II bùng nổ.

Khi chiến tranh tàn lụi, Franklin D. Roosevelt, bằng cách không rắn tay hơn với Stalin trong Hội nghị Yalta – nơi các nhà lãnh đạo phe Đồng Minh nhóm họp để thảo luận về số phận của thế giới hậu chiến – đã mở cánh cửa cho sự thống trị của Liên Xô tại Đông Âu và những nỗ lực của Liên Xô nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng của họ trên toàn cầu.

Truman, người kế nhiệm Roosevelt, trong khi vẽ ra những đường ranh táo bạo trong Chiến tranh Lạnh thông qua một chính sách ngăn chặn nghiêm ngặt, đã đưa quân đội vào Triều Tiên mà không chuẩn bị đầy đủ cho những gì đang chờ trước mắt khi sự ủng hộ của người dân Mỹ suy giảm. Lần đầu tiên một cuộc chiến tranh của Mỹ kết thúc với một kết quả hòa. Đồng thời, Đảng Cộng hòa đã chỉ trích Truman một cách gay gắt khi các nhà cách mạng cộng sản do Mao dẫn đầu giành được Trung Quốc trong khi Hoa Kỳ nhắm mắt làm ngơ. Cuộc tranh luận “Ai đánh mất Trung Quốc?” quét qua Washington sau đó không hẳn là một câu hỏi mà là một bản cáo trạng của Đảng Cộng hòa đối với Truman và Đảng Dân chủ.

Trong suốt tám năm Eisenhower ở Nhà Trắng, trong khi Johnson là lãnh đạo phe thiểu số và sau này là lãnh đạo phe đa số của Thượng viện, nước Mỹ được xác định bởi vị thế địa chính trị của nó so với Liên Xô. Bất kỳ thắng lợi nào của Liên Xô – một quốc gia nào đó rơi vào tay chế độ cộng sản, một công dân Mỹ đi theo những tình cảm cộng sản – đều là bằng chứng cho thấy Hồng quân đang gõ cửa Hoa Kỳ, sinh ra thuyết domino ở nước ngoài và chủ nghĩa McCarthy ở trong nước. Nỗi sợ đúng là động lực tuyệt vời.

Năm 1957, khi Liên Xô cho cả thế giới thấy khả năng vượt trội của họ trong ngành khám phá vũ trụ với Sputnik, một vệ tinh không lớn hơn quả bóng chuyền bãi biển, Johnson là chất xúc tác để cải thiện những nỗ lực vũ trụ kém cỏi của Mỹ. Như ông hỏi một cách cường điệu: “Người Mỹ muốn gì, ngủ dưới ánh trăng cộng sản hay sao?”

Năm 1959, khi nhà độc tài quân sự được Mỹ chống lưng của Cuba, Fulgencio Batista, bị quân du kích của Fidel Castro lật đổ, đưa chủ nghĩa cộng sản đến bán cầu Tây, Johnson tin rằng chính quyền Eisenhower đã không hành động đủ để ngăn chặn cuộc nổi dậy. “Ike [tức Eisenhower – NHĐ] chỉ ngồi đó và để bọn họ cướp lấy nó bằng vũ lực,” ông nói sau này.

Kennedy cũng tham gia với vai trò ứng cử viên tổng thống vào năm 1960, khai thác nỗi sợ của người Mỹ về khoảng cách tên lửa hạt nhân với Liên Xô, không hẳn là một thực tế mà là một chiến thuật tranh cử đủ hiệu quả để đưa ông vào Nhà Trắng với khoảng cách phiếu ít ỏi nhất. Diễn văn nhậm chức của Kennedy – “Chúng ta sẽ trả bất kỳ giá nào, chịu đựng bất kỳ gánh nặng nào, đối đầu bất kỳ khó khăn nào, ủng hộ bất cứ bạn bè nào, chống lại bất kỳ kẻ thù nào, để đảm bảo sự sống còn và thành công của tự do” – là lời cổ vũ cho Chiến tranh Lạnh. Nhưng ông đã sớm vấp ngã với việc ủng hộ một cuộc tấn công quân sự vụng về nhằm vào Cuba ở Vịnh Con Lợn. Lấy nỗi ô nhục của Kennedy làm động lực, một năm rưỡi sau Liên Xô đã đưa Mỹ tới bờ vực chiến tranh hạt nhân khi tàu Mỹ chặn tàu Liên Xô đưa đầu đạn hạt nhân vào Cuba.

Johnson đã thấy trong ba thập niên ở Washington rằng sự yếu đuối không bao giờ được đền đáp. Khi ông nói về Việt Nam, “Chúng ta sẽ không có bất cứ người nào mang ô nữa,” một lời ám chỉ Chamberlain bất hạnh, thông điệp của ông rất rõ ràng: Mỹ sẽ chiến đấu với Hồ Chí Minh và Việt Cộng theo cách mà Chamberlain đã không chiến đấu với Hitler và chế độ Quốc xã. Đối với vị tổng thống thứ 36, Việt Nam đã bắt đầu không còn là một cuộc xung đột mà ông quyết tâm giành chiến thắng nữa mà là một cuộc chiến mà ông không thể để thất bại.

Lyndon Johnson không phải là vị tổng thống đầu tiên để thua một cuộc chiến – càng không phải là với cộng sản. Nhưng những gì bắt đầu như một phản xạ để hỗ trợ chính sách của Kennedy trong khu vực, được Quốc hội, nội các, và quốc gia ủng hộ áp đảo, theo thời gian lại trở thành cuộc khủng hoảng trung tâm của nhiệm kỳ tổng thống Johnson.

Cuối cùng, bất chấp sự lo ngại mà ông thể hiện trước đó vào mùa xuân năm 1964, Việt Nam quả thật đã có ý nghĩa gì đó với Johnson. Điều đó trở nên rõ ràng với việc quân đội Mỹ leo thang can thiệp vào cuộc chiến, bắt đầu từ năm 1965. Nếu Johnson đã đánh cược hầu hết nhiệm kỳ tổng thống của mình vào chương trình Great Society – dân quyền, trợ cấp liên bang cho giáo dục, Medicare, Medicaid, cải cách nhập cư – thì ông đã chồng tất cả những đồng tiền cược đó lên nhau một cách tai hại đằng sau cuộc chiến ở Việt Nam. Và, đúng như ông đã tiên đoán, ông nhận ra mình gần như không thể “rút chân” được nữa một khi đã lún quá sâu.

Mark K. Updegrove, giám đốc Thư viện và Bảo tàng Lyndon Baines Johnson ở Austin, Texas, là tác giả cuốn Indomitable Will: LBJ in the Presidency.

Hàng rào điện tử McNamara

Nguồn: Sharon Weinberger, “Five Decades Ago in Vietnam, a Different Great, Great Wall,” The New York Times, 25/04/2017.

Khi trở về từ Nam Việt Nam năm 1961, Tướng Maxwell Taylor đề xuất một kế hoạch có vẻ đơn giản để ngăn chặn cuộc nổi dậy của Cộng sản: một hàng rào không thể xuyên thủng sẽ cắt đứt nguồn cung nhân lực và khí tài từ miền Bắc.

Khi đó Taylor cũng khuyên Tổng thống John F. Kennedy gửi thêm quân đội chính quy tới Việt Nam, một lời kiến nghị còn ám ảnh nước Mỹ trong nhiều thập niên sau này. Taylor lý luận rằng hàng rào sẽ làm suy yếu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (Việt Cộng), giúp các lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đánh bại Cộng sản

Ai cũng biết câu chuyện Mỹ can dự quân sự vào Việt Nam và thất bại. Nhưng câu chuyện gốc rễ về nỗ lực thất bại của Mỹ trong việc xây dựng một bức tường trên đất nước Việt Nam gần như đã rơi vào quên lãng. Hàng rào Việt Nam bắt đầu từ một Taylor với nhận thức sai lầm, người mà theo phóng viên Thomas E. Ricks có lẽ là “vị tướng phá hoại nhất trong lịch sử nước Mỹ.” Taylor đã chỉ dẫn cho chuyên gia chống nổi dậy nổi tiếng Edward Lansdale “đưa mọi thiên tài Mỹ vào làm việc để có một đường dây điện hay cái gì đó giăng ngang ranh giới [Bắc Nam], và sau đó dọc xuống phía Lào và Campuchia.”

Lansdale không mấy hứng thú với rào chắn này, bởi vậy ông chuyển nhiệm vụ cho Cơ quan quản lý các dự án nghiên cứu cao cấp (ARPA), một đơn vị ít được biết đến thuộc Lầu Năm Góc, gồm các nhà khoa học và kỹ sư, được thành lập năm 1958 để giúp Hoa Kỳ chiến thắng cuộc chạy đua không gian với Liên Xô. ARPA (sau này thêm từ “Quốc phòng” vào tên gọi và được biết với cái tên Darpa) đã nghiêm túc tập hợp một số người giỏi nhất để nghiên cứu vấn đề. Họ kết luận rằng nếu thực sự muốn ngăn những người quyết tâm vượt biên thì cần phải tàn nhẫn.

Các báo cáo bí mật của ARPA thời gian đó mô tả những chi tiết mà “các thiên tài Mỹ” cho là cần làm để rào kín một quãng đường dài 2.000 dặm (3.200 km) – tương đương với chiều dài biên giới Mỹ-Mexico, mặc dù trong trường hợp Việt Nam, nó bị chia cắt thành năm khu vực riêng biệt. Bên cạnh việc triển khai một hạm đội gồm máy bay cánh cố định và tàu tuần tra, dự án “niêm phong biên giới” đề xuất sử dụng thuốc diệt cỏ để phá trụi một đoạn đường cốt yếu dài 180 dặm (290 km) thuộc Đường mòn Hồ Chí Minh, một tuyến đường mà Bắc Việt sử dụng để tiếp tế cho Việt Cộng; đặt mìn dọc vĩ tuyến 17, ranh giới giữa miền Bắc và miền Nam; và dùng hóa chất có màu để theo dõi tàu thuyền trên các tuyến đường thủy.

Dự án này cũng kêu gọi phát triển các công nghệ “mới.” Đính kèm với bản đề xuất năm 1964 của ARPA là một danh sách yêu cầu được viết tay, bao gồm hai triệu quả mìn được ngụy trang giống như đá, 20.000 quả bom bi chứa chất làm rụng lá và một lượng không xác định “chất thu hút côn trùng.” Có lẽ đáng lo ngại nhất là yêu cầu cấp 25.000 “vũ khí hóa học” không xác định rõ tên gọi.

Các chuyên gia tại Lầu Năm Góc đã do dự trước bản đề xuất của ARPA. Khi xem xét kế hoạch này, Seymour Deitchman, một trợ lý đặc biệt về chống nổi dậy, nhận xét rằng để rào chắn hoạt động được, chi phí cho số máy bay cánh cố định và trực thăng cần có là vô cùng lớn. Bất kỳ loại rào chắn nào, dù là hàng rào vật lý hay hàng rào điện, đều đòi hỏi phải bảo dưỡng liên tục và đắt đỏ. “Các thiết bị giám sát biên giới không cần người điều khiển cũng cần chi phí đáng kể để bảo trì và thay thế những chi tiết hỏng hóc, bên cạnh một hệ thống chỉ huy và kiểm soát khổng lồ để nhận diện các điểm xâm nhập,” Deitchman viết.

Đề xuất làm rào chắn của ARPA bị Lầu Năm Góc bác bỏ bởi chi phí quá đắt đỏ và đòi hỏi một cam kết quân sự của Mỹ ở Việt Nam mà Nhà Trắng chưa sẵn sàng đưa ra. Nhưng giống như nhiều ý tưởng tệ hại, bản đề xuất này lại được tái sử dụng chỉ vài năm sau đó khi cuộc chiến vũ trang ở Việt Nam leo thang. Một cựu quan chức ARPA viết rằng bức rào chắn đã sống lại nhờ sự “tuyệt vọng” của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara. Lần này, nhiệm vụ được giao cho một nhóm có tên Jasons được ARPA tài trợ, gồm các nhà khoa học mà các tài liệu Lầu Năm Góc mô tả là “nhóm tinh túy nhất của cộng đồng học thuật trong các lĩnh vực kỹ thuật.”

Thay vì xây dựng một bức tường hay rào chắn thực sự, nhóm Jasons tư vấn xây dựng một cái gì đó giống như một bức tường ảo làm từ cảm biến âm thanh và địa chấn, kết nối với một trung tâm máy tính chỉ huy và kiểm soát có thể ra lệnh cho máy bay quân sự tấn công. Cảm biến sẽ xác định có người hoặc xe đi qua lằn ranh vô hình này; các thuật toán sẽ tính toán vị trí; sau đó các tọa độ này sẽ được chuyển đến cho phi công để ném bom vào địa điểm ước định.

Đến năm 1967, Không quân Hoa Kỳ đã thả nhiều chuỗi cảm biến âm thanh dọc Đường mòn Hồ Chí Minh. Chúng giúp phát hiện các đoàn người đi qua và chuyển dữ liệu đến một cặp máy tính IBM lớn ở Thái Lan, cặp máy tính này sẽ điều khiển máy bay trực thăng và máy bay chiến đấu tới tọa độ dự tính. Thay vì ném bom mục tiêu mà họ nhìn thấy, lần đầu tiên phi công thực hiện tấn công dựa trên mục tiêu nhận từ máy tính, mở ra thời kỳ “chiến tranh nhấn nút”.

Dự án có tên mã là Igloo White và được triển khai chủ yếu một cách bí mật này đã gặp phải vô số vấn đề kỹ thuật, như tuổi thọ pin cảm biến ngắn. Khi thông tin về dự án bắt đầu lọt ra ngoài, McNamara buộc phải đưa ra một tuyên bố công khai, mặc dù cung cấp rất ít chi tiết về hàng rào. “Tôi không có ý định dâng cho kẻ thù lợi thế biết được chúng ta sẽ sử dụng công cụ nào, ở đâu hay số lượng bao nhiêu,” McNamara nói tại một cuộc họp báo vào tháng 9 năm 1967.

Không quân Hoa Kỳ tuyên bố thành công vang dội, dẫn ra những con số lớn về các đoàn người bị trúng bom, tuy nhiên việc xác minh những con số đó là rất khó khăn, bởi trong thời đại chiến tranh số mới, chỉ Lầu Năm Góc mới có sự tiếp cận đầy đủ đối với chiến trường. Những người ủng hộ công nghệ nền tảng chỉ trích Không quân vì sử dụng công nghệ cảm biến để theo đuổi chiến dịch ném bom chiến lược thất bại vào Bắc Việt, làm trệch hướng nguồn lực khỏi kế hoạch rào chắn.