Ký ức 30-4 ‘Tháng Ba Nhớ Lại’

* Nguyễn Diệu Anh Trinh – 9 tháng 3, 2022

Dân Đà Nẵng, Huế và nhiều thành phố khác ở miền Trung trong cảnh tháo chạy; ảnh chụp ngày 4 Tháng Tư 1975, Getty Images

Năm 1975, tôi đang học dở dang niên học lớp 10, chưa kịp đến Hè. Mới giữa Tháng Ba, lễ Hai Bà Trưng và ngày truyền thống của trường với cái tên mới: Nữ Trung Học Hồng Đức Đà Nẵng, được tổ chức ba ngày. Có hội chợ, cắm trại, có đêm văn nghệ lửa trại thật nhiều kỷ niệm. Niềm vui chưa tròn, sân trường chưa kịp dọn dẹp dấu vết mấy ngày hội hè đã tràn ngập những đoàn người từ Quảng Trị và Huế lê thê lếch thếch bồng bế nhau chạy tránh bom đạn. Trường đóng cửa để dành phòng học làm nơi tạm cư cho đồng bào.
Tôi nghe ba má bàn tán tìm cách di tản vào Sài Gòn vì quân đội mình từ Kontum, Ban Mê Thuột đang như rắn mất đầu chạy về Nha Trang. Tình hình an ninh đất nước thật hỗn loạn. Tôi vội vàng xuống trường để rút hồ sơ, chẳng còn một bóng dáng thầy cô nào ở đây. Phòng học vụ đã bị dân chúng phá cửa vào, giấy tờ rách nát ngổn ngang, không cách gì tìm kiếm được. Ngoài sân trường, những tờ bích báo mới đem dự thi hôm Lễ Truyền Thống nay đã bị đem ra làm vách ngăn cho những hố vệ sinh. Hình ảnh ngôi trường và những dãy phòng học thân yêu, khoảng sân rợp lá bạc hà thấp thoáng những tà áo dài trắng đã không còn nữa, trái tim tôi như tan nát.
Ngày 26, tin tức trên đài phát thanh loan báo quân đội Bắc Việt đã chiếm thành phố Huế. Ba tôi thất vọng, bỏ ý định di tản vì theo ông, đã mất Ban Mê Thuột và thành phố Huế thì đi đâu cũng vậy thôi. Cả nhà lo âu, mọi người nhìn nhau cùng hoang mang cho một viễn ảnh không mấy khả quan.

Tôi đạp xe vào nhà nhỏ bạn cùng lớp là Kim Liên. Tôi gọi Liên ơi, Liên hỡi, không có ai trả lời. Gia đình nó đã dọn đi mất tiêu, nhà trống hoang. Dòm vào cửa sổ phòng khách nhà bạn đang còn mở, tấm hình của ba má Liên được lồng kiếng thường treo trên tường không còn nữa. Tôi thẫn thờ nhìn lên cây mận trước sân nhà, ngay trước cửa phòng của nó, những chùm trái non mơn mởn vẫn đong đưa trên cành. Nước mắt tôi ứa ra.

Dân Đà Nẵng chạy trốn cộng sản; ngày 28 Tháng Ba 1975 (ảnh: Jack Cahill/Toronto Star via Getty Images)
Tôi đi ra đường, từ Trần Cao Vân xuống ngã tư Quân Cụ, rẽ phải qua đường Khải Định. Phố phường đông đúc nhưng điêu tàn, xơ xác, như không còn sức sống. Dân chúng từ các nơi đang chạy về lũ lượt, những ánh mắt hớt hải, những khuôn mặt mang nét hoảng loạn, dọc lề đường hàng đống những bộ quân phục, những cái bi đông của lính, nón sắt… vương vãi. Vài đám tranh giành hôi của, đang đánh nhau ở ngã tư chợ Cồn. Kho gạo đường Duy Tân bị dân chúng phá cửa vào, người ta chen nhau giành giật, không kể già trẻ lớn bé. Có người vừa vác bao gạo ra tới cửa đã bị kẻ mạnh hơn cướp chạy.
Xuống đến bờ sông Hàn thì tình hình càng thê thảm. Người ngồi, kẻ nằm dọc theo bờ sông, quang cảnh hỗn loạn. Người ta chen nhau tìm đường xuống ghe để ra biển vì nghe đâu đường bộ đã bị phong tỏa ở Quy Nhơn. Ai cũng hy vọng xuống tàu ra biển vào được Sài Gòn thì mới yên. Sài Gòn… Ôi! Sài Gòn, niềm hy vọng của người dân cả nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Tôi thất thểu trở về, dọc đường lại chứng kiến bao cảnh người di tản nằm la liệt, những cụ già lụm cụm, những em bé ngơ ngác. Người ta đùm túm nhau không biết sẽ đi về đâu. Có nhiều gia đình tài sản mang theo vỏn vẹn cái tượng Đức Mẹ, hoặc Phật Bà Quan Âm. Người ta ôm khư khư như đang bảo vệ mạng sống của mình, dường như tín ngưỡng là nơi bám víu cuối cùng của con người lúc tuyệt vọng. Tôi như kẻ không hồn, ngơ ngác giữa cơn hấp hối của thị xã.
Trong những giờ phút cuối cùng này, ba má tôi lúc nào cũng khư khư cái radio, lắng nghe tin tức từ đài BBC, VOA với chút hy vọng mong manh vào những đổi thay ở giờ cuối. Giấy tờ quan trọng được ba tôi sắp đặt lại một nơi an toàn, má tôi thì thắp nhang khấn vái tứ phía.

Buổi tối, thỉnh thoảng có tiếng đạn pháo kích từ xa vọng lại, tuyệt đối không thấy ánh hỏa châu. Thị xã Đà Nẵng dường như bị bỏ ngỏ. Đêm đêm, đài BBC đưa tin có rất nhiều người xuống tàu vào Nam tìm đường sống. Nhiều người đã bỏ mình giữa biển vì tàu đắm, nhiều người di tản bằng đường bộ thì bị trúng mìn, bị pháo kích, chết nhiều lắm.
Trưa ngày 29, xôn xao tin đồn cộng sản Bắc Việt đã vào đến Nam Ô. Khoảng hai giờ chiều, tôi ra trước sân nhà nhìn ra đường, lần đầu tiên tôi tận mắt nhìn thấy những người lính của phía bên kia. Trên những chiếc xe mang biển số rất lạ là những khuôn mặt còn non choẹt. Nón cối, dép cao su đen, quân phục thì rộng thùng thình, nước da người nào người nấy tai tái, hình ảnh của họ gieo vào tâm trí tôi nỗi chán chường, thất vọng.
Tôi lặng người nhìn những đoàn xe đi qua, và… không biết chuẩn bị từ bao giờ, cũng có nhiều người đứng hai bên lề đường, những cánh tay đeo băng đỏ đưa lên vẫy vẫy, hò reo. Buổi chiều hôm đó, một ngày cuối Tháng Ba trời Đà Nẵng bỗng dưng đổ mưa. Trong cơn giãy chết của thị xã, cơn mưa không lớn, những hạt mưa chưa đủ làm ướt mặt đất chỉ bốc lên cái mùi hơi đất nồng nồng. Tôi nghe cay ở mắt và lòng tôi cũng như đang giãy chết.

Ngoại ô Sài Gòn; ngày 28 Tháng Ba 1975 (ảnh: Jack Cahill/Toronto Star via Getty Images)
Một tháng sau, nghe tin Sài Gòn, vùng đất cuối cùng cũng mất. Lính tráng, dân chúng tìm mọi cách thoát thân, một số tướng lãnh đã tìm đến cái chết để bảo toàn khí tiết. Thế là bao nhiêu hy vọng, mong đợi cuối cùng cũng đã tan vỡ. Và… bao nhiêu mộng ước thời thanh xuân của lứa chúng tôi cũng đã tàn theo vận nước.
Mùa Hè đến sớm với những buổi lao động dọn vệ sinh trường lớp rồi cũng qua mau. Ngôi trường Nữ Trung Học thân yêu trở thành nơi ở của cán bộ trước khi trường được đổi thành trường Cao Đẳng Sư Phạm. Thời gian sau, nhiều lần đi ngang trường xưa, nhìn những hành lang trên tầng lầu phơi đầy áo quần tôi không khỏi ngậm ngùi, ngơ ngác, tất cả như chỉ là một giấc mơ.
Một giấc mơ không đẹp, không ươm đầy mộng mị, không óng ả hạnh phúc nhưng lại là một giấc mơ khó quên. Tôi không thể nào quên. Hai năm cuối cùng bậc trung học, tôi được xếp vào học ở trường trung học Phan Châu Trinh, ngôi trường lớn nhất thành phố từ trước đến nay. Hai năm vật lộn với sắn khoai, bo bo và “chủ nghĩa xã hội”, tôi ra trường và bắt đầu vào đời với nhiều đắng cay của một người có lý lịch phải đứng bên lề của hàng ngũ trí thức. Kể từ ngày trường học đóng cửa và nhà tù mọc lên như nấm khắp nơi từ Nam ra Bắc.
Tôi sống lây lất, dật dờ như thế đến mười chín năm. Mười chín năm quá đủ để tôi thấm hiểu thế nào là cuộc sống của kẻ lâm vào cảnh nước mất, nhà tan. Cứ mỗi năm khi Tháng Ba về, đọc báo, nghe tin tức nói về những tiến bộ mới mẻ ở quê nhà, những đổi thay của Đà Nẵng, tôi không khỏi mường tượng đến hình ảnh một chiều Tháng Ba năm xưa, khi một con bé mới mười bảy tuổi, là tôi, đứng ngơ ngác nhìn cảnh hấp hối của Đà Nẵng, nước mắt nhòe khuôn mặt. Cảm giác đớn đau đó cứ mãi ám ảnh tôi. Tôi cứ luôn nghĩ về những oan khiên của đồng bào đã bỏ mạng oan ức vì bom đạn vốn vô tình. Nghĩ đến những nghiệt ngã của dòng đời kể từ dạo đó khiến biết bao gia đình rơi vào cảnh dở khóc dở cười. Con lạc cha, vợ mất chồng, kẻ vùi thân nơi biển cả, người lưu lạc xứ xa, kẻ trở về tàn phế bịnh hoạn.
Tháng Ba của tang tóc và chia lìa, vậy mà Tháng Ba năm nào ở Đà Nẵng, người quê tôi cũng hân hoan chào đón, đốt pháo, treo cờ. Có phải người ta đã thật sự quên, hay tôi đã già cỗi khi nhắc nhớ hoài đến chuyện biển dâu?

Virus-free.  www.avg.com

LỚP HỌC THẾ GIỚI

– MỸ (USA): là trưởng lớp, giàu nhứt lớp. Nó chính là đứa quyền lực và đặt ra luật chơi cho cả lớp. Tuy thế nó chỉ già nhưng trí óc còn non nớt, đôi khi có những “động thái” ngờ nghệch lắm. Nhưng không ai đoán được là nó ngờ nghệch thiệt hay giả vờ lú lẫn

TRUNG CỘNG: lớp phó tự phong, không ai bầu nhưng nó tự phong là lớp phó. Hầu hết cả lớp ghét nó vì nó có tính tham lam, độc ác và hay bắt nạt những thằng yếu hơn nó. Thằng này có tài copy y chang bài của đứa khác nhanh như chớp. Thằng Sở Lưu Manh này thì khỏi nói, chuyên môn đi dụ cho mấy đứa nghèo trong lớp mượn tiền, khi mắc nợ nhiều quá trả không nổi thì nó xiết nhà, xiết đất. Không nhờ thằng Mỹ ngờ nghệch thì đến giờ nó vẫn còn là thằng khổng lồ với đôi chân bằng đất sét. Mỹ và Âu châu cưng yêu thú vật mà không giỏi chữ Hán nên không hiểu câu “dưỡng hổ di họa” là gì.

DO THÁI (ISRAEL): Thông minh và học giỏi toán nhứt lớp nên giữ chức lớp phó học tập, nhưng hơi có tính keo, không cho ai cóp bài hay mượn tài liệu bao giờ. Thằng này thì thủ đoạn vô lường. Con trai Đức Chúa Trời mà nó còn dám treo lên thập giá luôn, chẳng chút e dè. Dân Ả Rập vừa ghét nhưng lại vừa hãi nó lắm. Nó được võ lâm ban biệt danh là “Nhất Kiếm Trấn… Ả Rập”. Ai mà đụng nó thì nó chơi lại tới bến. Mỗi lần có tên Ả Rập nào chọc nó thì trưởng lớp Mỹ phải can muốn chết vì sợ nó chơi quá tay sẽ đưa đến Thế chiến 3.

PHÁP (FRANCE): Bạn này là dân chơi cầu ba cẳng, nổi tiếng thế giới về mỹ phẩm, rất đỏm dáng, điệu đàng lãng mạn khỏi nói, ra đường là xịt nước hoa nồng nặc. Khi vào lớp, nó thích nhất ai hỏi nó câu: “Paris có gì lạ không em?”
– ANH (ENGLAND): Thằng này học dẫn đầu lớp môn… tiếng Anh (English), nhưng hay hờn dỗi, suốt ngày đòi nghỉ chơi với mấy đứa bạn thân lâu năm. Nhờ học giỏi nên không thèm để mấy thằng ngu hơn lợi dụng. Nó thà làm đệ tử thằng giàu còn hơn làm sư phụ thằng nghèo để khỏi nuôi báo cô.
– BA TƯ (IRAN): Đây là xứ “1001 Đêm” của công chúa Jasmine, Aladdin và cây đèn cầy, ý lộn…, cây đèn thần… Nhưng đó là chuyện xưa. Còn nay, thằng này chỉ lo chăm chú luyện Thẩm Du Đại Pháp, chà chà cây đèn của nó để mong Thần Đèn xuất hiện giúp nó làm giàu uranium nhanh nhanh, bất chấp giáo viên đang dạy cái gì trên bảng.

– NGA (RUSSIA): thằng này lạnh lùng và gấu nhứt lớp. Tánh thằng này thô bạo lắm nên có biệt danh là “LA SÁT”, chuyên đi cưỡng hôn gái đẹp hàng xóm. Nó có tật xấu hay say sưa, hở ra là chuốc rượu vodka bạn bè. Hồi Thế Chiến 2, thằng Đức háo thắng lỡ dại đập nó một lần, sau đó bị nó đập lại phù mỏ, ba má thiếu điều nhận không ra, rồi thừa cơ cưỡng hôn luôn mười mấy người đẹp hàng xóm của nó. Hiện tại không ai dám đập nó kể cả trưởng lớp, chỉ có nó lâu lâu say xỉn đập hàng xóm thôi. Cái thằng [muốn làm] Mỹ con [nhưng] không có “đô-na” này chỉ cậy có mấy thứ võ công tà đạo mà hù thiên hạ. Vì sự hèn nhát của võ lâm Tây Âu và công tử trưởng lớp Mỹ nên cũng là mối đe dọa của giang hồ. 

– UKRAINE: là một nữ sinh hiền lành, xinh đẹp, học giỏi có hạng ở trường. Trước kia nàng bị thằng Nga La Sát cưỡng hôn. Nhân cơ hội thằng khốn nạn đấu nội công với lớp trưởng bị nội thương suýt chết nên nàng và mười mấy người đẹp khác nộp đơn ly dị thành công. Mấy năm trước nàng hay mặc bộ bikini hiệu Crimea & Donetsk – Luhansk tuyệt đẹp khi bơi ở trường. Thằng La Sát chồng cũ ghen quá nên đã đè ra lột bộ bikini chiếm giữ làm của riêng trước sự bất lực hèn hạ của bọn công tử đồng môn.

THÁI LAN (THAILAND): Em này cứ vài ba bữa thì xin nghỉ học để tổ chức thi Hoa Hậu Tiffany. Nhờ sự khôn ngoan nhất mực nên mấy mươi năm giang hồ loạn thế mà nó vẫn giữ được gia trang yên ổn. Nay tự nhiên luyện môn Quỳ Hoa Bảo Điển, cặp kè với thằng phó lớp rồi khoe đã uống thuốc ngừa thai nên chẳng sợ vướng bầu. Giời ạ! Chơi với thằng Sở Lưu Manh thì bầu bì gì. Chỉ e bị giang mai lậu mủ hay nhẹ lắm cũng bị lây ghẻ tầu rồi lở loét mà chết thôi…

– TRIỀU TIÊN (NORTH KOREA): Thằng này bị bệnh tự kỷ nặng, trong lớp không chơi với ai, cộng thêm chứng hoang tưởng, suốt ngày mang hàng nóng rởm ra dọa thằng trưởng lớp để tống tiền. Nó khùng khùng vậy chứ thuộc loại “uy vũ bất năng khuất”, không biết sợ ai hết kể cả trưởng lớp. Vì vậy, cả lớp phải kiêng dè nó. Trong 10 lần nó mang hàng nóng rởm ra dọa thì hết 7 lần trưởng lớp và hàng xóm phải hùn tiền cứu đói nó.
– ĐỨC (GERMANY): Thế kỷ trước nó là học sinh cá biệt, hung hãn nhứt lớp, gây nên Thế Chiến 2, khiến sơ sơ khoảng 70-85 triệu người chết. Sau đó bị trưởng lớp và các đồng minh đập hội đồng một trận nhừ tử. Giờ thì biết khôn nghe lời trưởng lớp rồi.


– VENEZUELA: Con bé này rất khoái thi sắc đẹp, hiện là hoa khôi của lớp. Nó bị thằng “phó lớp tự phong” dụ tiến lên “thiên đường xếp hàng cả ngày” nên nó tặng “quà” lung tung cho bất cứ thằng nào muốn… Giờ thì bệnh Ếch giai đoạn cuối rồi.

.

– Ả RẬP SAUDI (ARAB SAUDI): Có thể là một con bé xinh đẹp, tuy nhiên chưa ai nhìn thấy mặt nó, chỉ nhìn thấy cặp mắt to tròn, đen láy

thôi. Ai nhìn lâu vào cặp mắt ấy bị thôi miên ráng chịu. Có thể trưởng lớp đã bị con bé này thôi miên nên thỉnh thoảng hắn dùng máy bay vận tải loại khủng C-5 Galaxy chở tiền mặt (đô la) qua tặng nàng. 

– TÂN GIA BA (SINGAPORE): Lớp phó lao động, vệ sinh. Thằng này khôn ngoan, giữ vệ sinh rất kỹ, tính khó chịu. Đừng bao giờ nhai chewingum với hút thuốc trước mặt nó, hay vẽ bậy lên tường, coi chừng ăn roi của nó vào đít. Đất nhà của thằng này nhỏ xíu, nhỏ đến độ nếu nó có máy bay chiến đấu, vừa đề máy bay lên là đã ra khỏi không phận quốc gia, nên nó không cần có quân đội mà chả có ma nào dám đụng tới nó, giống như nó có bùa hộ mạng. Thằng này thuộc loại “phú quý bất năng dâm”, từng chỉ mặt thằng Đông Lào rằng “cút cha bản mặt Mã Giám Sinh của mày và dắt theo luôn con ‘Thúi Kiều’ về xứ Lèo cho tao, ngay. A lê hấp!”
THỤY SĨ (SWITZERLAND): Thằng này tính cẩn thận, nghiêm túc, được giao làm thủ quỹ của lớp. Ai mà gởi tiền cho nó giữ thì không sợ mất tiền, chỉ sợ quên mật mã của tài khoản thôi. Nó khôn ngoan lắm, luôn đứng ngoài các cuộc chiến, chỉ mong thân chủ gởi tiền càng nhiều càng tốt và mau sớm bị bệnh mất trí nhớ (Alzheimer).
– Ý ĐẠI LỢI (ITALY): Thằng này đẹp trai, tính tình phóng khoáng, nhà lại có shop hàng hiệu nên hay được mấy đứa con gái trong lớp bu xung quanh. Nhưng thằng nay có sở thích nuôi móng tay dài để cấu mông mấy con bé trong lớp. Mà bọn gái lại khoái ra mặt mới thật là kỳ cục.
– ÚC ĐẠI LỢI (AUSTRALIA): Cả trường có mình nó cưỡi kangaroo đi học. Chung quanh nhà nó có nhiều rừng, không biết ai (ở không quá) đốt mà cứ bị cháy hoài. Thằng này giàu có nhờ đất đai cụ cố (vồ được của thổ dân Úc) để lại. Cũng thuộc loại công tử dân chơi, dám đòi điều tra thằng phó lớp về việc thả con cúm Tầu ra tàn hại cả lớp.
– BA TÂY (BRAZIL): Thằng này là dân ham chơi hơn ham học, giỏi đá bóng với nhảy nhót nên được bầu làm lớp phó phụ trách văn nghệ thể thao.
– CU BA (CUBA): Nhà thằng này cách nhà trưởng lớp một cái ao làng nhỏ, có thể dùng xuồng thúng bơi qua, con nhà nghèo nhưng được cái liên hoan lớp không bao giờ quên đem mía và xì gà nhà trồng vào chiêu đãi các bạn. Thằng này là bạn nối khố của thằng Đông Lào và nhờ được thằng Đông Lào ngậm kỹ khi ngồi canh giữ hòa bình thế giới nên vẫn còn yên tâm ngủ kỹ để… chống đói. Tuy nghèo nhưng nó không ngu: thằng Đông Lào dụ nó đổi nhà hoài để được ở gần nhà trưởng lớp cho dễ vượt biên mà nó đâu có chịu.
– BƯỚM MÁ (BURMA): Tên cúng cơm trước đây của nó là MIẾN ĐIỆN, cũng thuộc loại quân phiệt. Vừa vào lớp là bị chọc ghẹo, ghép cặp với thằng Cuba nên nổi sùng tuyên bố một câu xanh dờn: “Không có Cu Ba, Cu Má gì hết. Tao thà ở giá chứ nhất định không lấy tên nghèo kiết xác Cu Ba.”
– ĐẠI HÀN (SOUTH KOREA): Nhóm trưởng nhóm nhảy hiện đại của lớp. Nhóm của nó mặt giống nhau y chang (chắc có cùng bác sĩ thẩm mỹ.) Lúc Saigon là Hòn Ngọc Viễn Đông thì mùa đông thằng này còn trùm mền giấu cái lò than be bé trước ngực để sưởi ấm. May nhờ bọn Hàn cộng kiệt quệ sau trận chiến với thằng “đế quốc sen đầm” không còn đòi “phỏng giái” miền Nam nữa nên nó có điều kiện phát triển một mạch. Giờ thì ai nó cũng dám cạnh tranh. 
– NHỰT BẢN (JAPAN): Thằng này cũng con nhà giàu, lái Lexus đi học, nhưng được cái lễ phép, chào bạn mà cũng cúi gập đầu. Trong giới giang hồ thì nó xứng đáng được gọi là đại hiệp Phù Tang. Chẳng phải nhờ tài cứu nhân độ thế gì mà nhờ vào đức tính biết bỏ cái sai theo cái đúng, bỏ tự ái vặt để chớp lấy thời cơ và tự cứu mình. Cái sai lầm lớn nhất của thằng này là lỡ dại dám đánh lén trưởng lớp Mỹ trong trận Trân Châu Cảng (Pearl Harbor, Hawaii) hồi Thế Chiến 2. Sau đó bị trưởng lớp đánh lại tả tơi như cái mền rách. Nếu không, giờ này công tử lùn có thể đang ngồi rung đùi cho thằng phó lớp đánh giày bằng lưỡi.
– ĐÔNG LÀO (EAST LAOS): Thằng này nghe tên là biết nhà nó ở đâu, thuộc diện con nhà nghèo ăn xin tứ phương nhưng bị bịnh hoang tưởng hay thần kinh gì đó không biết. Lúc nào cũng nghĩ mình đang ở thiên đường và đặc biệt là không biết nó là ai nên cái mặt cứ vênh vênh lên và hay gây hấn với các bạn trong lớp rồi hỏi: “Mày biết bố mày là ai không?” 
Nghe võ lâm thiên hạ đồn hồi nhỏ nó bị té giếng nên nó khùng nặng, chửi trưởng lớp hằng ngày, nhưng cứ tìm cách cho bà con dòng họ qua nhà trưởng lớp chơi rồi ở lỳ không về. Ngược lại, nó khúm núm theo bợ thằng “phó lớp tự phong” như bợ đờ-ít ông cố nội nó, không bao giờ dám cãi lời, bảo ăn gì thì nó ăn nấy. Bởi vậy bệnh khùng của nó càng ngày càng nặng vì chỉ thích uống thuốc giả của thằng “phó lớp tự phong” đưa cho. Thằng tiểu lưu manh này từ khi bị trúng Thiết Sa Chưởng của đồng chí Bình Lùn thì chứng hung hăng đã giảm đến chín phần. Chỉ còn cái mồm là hay xoen xoét khoe thành tích tưởng tượng. Nó thuộc loại đầu trọc không có tóc, kèm chứng tửng tửng nên liều mạng nhất lớp, hay đem bom vô lớp để cưa rồi lấy thuốc nổ đi đánh cá. Mỗi lần nó cưa bom thì cả lớp mạnh thằng nào thằng nấy vắt giò lên cổ mà chạy,ai cũng sợ nó…”CHỆT” (phát âm theo tiếng “Huệ”).
Dan Cao sưu tầm– 

VIẾT CHO TUỔI 70 – 90

Bằng Phong Đặng văn Âu

Nguyễn Tường Tuấn, người sĩ quan trinh sát thân mến,

Trong tâm tình huynh đệ của một thằng lính già đối với một thằng lính trẻ hơn, hôm nay thằng lính Không Quân Bằng Phong Đặng văn Âu viết cho thằng lính trẻ Trinh Sát Nguyễn Tường Tuấn đôi điều suy nghĩ về thời cuộc. Dù anh em ta đã già, nhưng khi nghe hai chữ “thằng lính” thì có cảm tưởng sung sướng như đang trở lại chiến trường ngày nào. Em có đồng ý với anh không hả Tuấn?

Chúng ta, con dân một nước nhược tiểu, bị nghiệp chướng, nên phải lãnh lấy cái họa Karl Marx – một người Do Thái – chả đẻ chủ nghĩa Cộng Sản. Cái chủ nghĩa cộng sản hết sức ghê gớm, vì nó gieo rắc tai họa chưa từng có trong lịch sử nước nhà mà tới giờ này vẫn chưa thoát ra được. Nước Tàu đặt nền đô hộ lên Đất Nước ta nhiều phen, nhưng đều bị Tổ Tiên ta đánh bật ra ngoài. Ngày nay thiên hạ ca ngợi ông Tổng thống trẻ của nước Ukraine. Nhưng nhiều người Việt quên rằng Quân sư Trần Thủ Độ cũng đã khẳng khái tâu vua: “Đầu thần chưa rơi, xin Bệ hạ đừng lo”. Dân tộc ta không thiếu anh hùng. Nhưng kể từ ngày Mao Trạch Đông dùng một người Tàu mang tên Việt du nhập vào cái chủ nghĩa cộng sản có quyết sách cắt gân tất cả anh hùng, nên bây giờ Đất Nước mới ra nông nỗi này: “Không còn ai tin ai. Không còn ai đồng ý với ai.  Người yêu nước bị chà đạp, bị thóa mạ. Đứa tiểu nhân, phản quốc được vinh danh!”

Năm 2011, Tiến sĩ Peter Navarro xuất bản cuốn sách “Death By China” để cảnh báo nhân dân Mỹ. Như anh đã nói trước đây, Mỹ chết bởi Trung Cộng là hậu quả. Nguyên nhân cái chết của Mỹ là từ chiến tranh Việt Nam. Tuấn có thấy hồn ma nước ta linh thiêng dễ sợ không? Tổng thống John Kennedy ra lệnh giết chết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ba tuần sau. Kennedy bị ám sát. Rồi Robert Kennedy cũng bị ám sát. Và Nghị sĩ Ted Kennedy bị tai tiếng trong vụ Chappaquiddick, vì để cho cô tình nhân chết ngộp trong xe, thản nhiên vào nhà đi ngủ.

Giữa Tổng thống Diệm và Tổng thống Kennedy có vài đặc điểm giống nhau. Tổng thống Diệm là người Công giáo đầu tiên lãnh đạo Việt Nam. Tổng thống Kennedy cũng là người Công Giáo đầu tiên lãnh đạo nước Mỹ. Tổng thống Diệm lưu lại cho hậu thế một câu nói bất hủ: “Ta tiến, anh em tiến theo ta. Ta lùi, anh em giết ta. Ta chết, anh em nối chí ta”. Tổng thống Kennedy cũng để lại hậu thế một câu nói bất hủ: “Ask not what country can do for you, but what you can do for your country”. Qua hai câu nói bất hủ ấy, chứng tỏ cả hai vị Tổng thống đều có lòng yêu nước rạt rào.

Khi còn ở Việt Nam, chúng ta đã nghe nước Mỹ có “Shadow Government” (Chính phủ trong bóng tối), tức là có những ông chủ đầy quyền lực không ra mặt điều khiển Quốc gia, nhưng âm thầm ra lệnh cho người thừa hành. Thực tế cho ta thấy Joe Biden chỉ là con rối đang thi hành mệnh lệnh của những “Big Tech” và “Big Media” để thể hiện nền Tư Bản Đỏ, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp đạo đức và luật pháp. Gọi Việt Cộng là Tư Bản Đỏ là sai, vì chúng chỉ biết ăn cướp, bán đất đai, tài nguyên của Tổ Quốc, nhưng không có khả năng và trí tuệ để làm ra của cải.

Tài liệu lịch sử cho biết John Kennedy không chủ tâm giết anh em ông Diệm. Bởi vì nghe tin ông Diệm đã bị hạ sát, Tổng thống John Kennedy hết sức sửng sốt, bàng hoàng, khi đang tắm ở hồ bơi. Vậy ai đã ra lệnh giết Tổng thống Ngô Đình Diệm? Nên nhớ, lúc bấy giờ Henry Cabot Lodge – đảng viên Cộng Hòa – giữ chức Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là người nắm quyền quyết định tối hậu . Tổng thống Kennedy ra lệnh cho người em, Robert Kennedy – đương kim Attorney General – ráo riết điều tra nội vụ. Có phải vì cái lệnh tìm ra sự thật của Tổng thống Kennedy mà anh em nhà Kennedy đều bị ám sát, cho đến nay vẫn chưa tìm ra thủ phạm thực sự? Vậy ai là người trong bí mật đã ra tay giết hai anh em Kennedy? Qua sự kiện này, anh ngờ rằng “Deep State” đã khởi sự nhúng tay vào tội ác. Bởi vì không lý do gì Mỹ thua trận chiến tranh Việt Nam!

Tuấn nên nhớ rằng bọn hành động trong bí mật thường giấu kín tung tích, khó ai tìm ra chứng cứ để pháp luật trừng trị. Khi có ai dùng lý luận suy diễn, liền bị cho là thuyết âm mưu (conspiracy theory). Trong đám tang của Tổng thống Bush Cha, có cái “video clip” chiếu đi chiếu lại cảnh Busk Con, Bill Clinton, Barack Hussein Obama sau khi đọc dòng chữ trên mảnh giấy xong, người nào người nấy sắc mặt tỏ ra kinh hãi. Nội dung mảnh giấy đó như thế này: “Họ đã biết chuyện hết cả rồi!” Chuyện gì mà có thể làm cho ba vị cựu Tổng thống đều xanh mặt? Có lời đồn rằng Tổng thống Bush Cha là người đã âm mưu giết anh em nhà Kennedy! Tuấn nhớ không?

Ông Joseph Patrick Kennedy – thân phụ Tổng thống Kennedy – trả lời báo chí rằng có ba điều kiện tiên quyết để thắng cử Tổng thống Mỹ là: tiền, tiền và tiền. Tất cả các đời Tổng thống Mỹ đắc cử được là nhờ tiền đóng góp của tài phiệt. Tổng thống Kennedy vốn nhờ sự giàu có của gia đình, không cần sự tài trợ, nên không phải tuân lệnh tài phiệt. Do đó, Kennedy đã bị thế lực ngầm xử. Ông Donald Trump cũng thế, là tỷ phú ra tranh cử Tổng thống mà không cần sự tài trợ của thế lực ngầm. Cho nên, Tổng thống Trump là người duy nhất dám “chửi” Đế chế truyền thông là bọn “fake news và corrupt”. Để phản pháo, bọn Truyền thông Thổ tả bôi nhọ Trump tơi bời. Có ba vụ âm mưu ám sát Donald Trump, nhưng ông vẫn bình an vô sự. Nhiều người bảo ông được Chúa che chở?

Nhắc thêm một sự kiện để Tuấn lưu ý. Thượng Nghị sĩ Cộng Hòa Jeff Sessions, Chủ tịch Ủy ban Tư Pháp Định Chế Thượng Viện, là người đầu tiên trong đảng Cộng Hòa ủng hộ ứng cử viên Donald Trump hết mình. Ông xuất hiện trong hầu hết những lần ông Trump đi vận động tranh cử, với chiếc nón Jockey Đỏ “MAGA” đội trên đầu. Khi Donald Trump đắc cử Tổng thống, ông Jeff Sessions đòi hỏi cho bằng được chức “Attorney General”. Khi Thượng Viện ra lệnh điều tra Tổng thống Trump, Bộ trưởng Tư Pháp Jeff Sessions đứng ra ngoài và giao trách nhiệm cho Thứ trưởng Rod Rosenstein, một Luật sư Do Thái nổi tiếng thông minh.

Sau cuộc bầu cử năm 2020, Joe Biden, một ông già lú lẩn mà thắng với số phiếu áp đảo, càng cho chúng ta thấy rõ sức mạnh của  “Nhà Nước Ngầm”. Hơn cả Mafia! Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp và Truyền thông đều nằm trong tay của họ. Thậm chí Đức Giáo hoàng Francis thuộc phái “Thần học Giải phóng” ở Nam Mỹ cũng được họ đưa lên thay thế Đức Giáo hoàng Benedict – người cương quyết giữ Giáo luật – đương nhiệm, còn khỏe mạnh mà phải về hưu, thì Tuấn đủ hiểu thế lực của Nhà Nước Ngầm mạnh đến dường nào. Giáo hoàng Francis công kích Tổng thống Donald Trump việc xây tường, yêu cầu mở cửa biên giới và nhìn nhận Giáo hội Công giáo Quốc doanh của Trung Cộng là chính thống. Thậm chí Hồng Y Joseph Zen ở Hongkong phải sang tận Vatican để đích thân trao thơ cho Giáo hoàng, xin Ngài đừng quên Giáo hội Thầm Lặng đang bị Trung Cộng bách hại. Nhưng Ngài Francis vẫn tiến hành, thì ta đủ hiểu Giáo hoàng Francis đứng về phía nào trong cuộc chiến tranh giữa ánh sáng và bóng tối này.

Tổng thống Putin của Nga, vốn là cấp chỉ huy KGB, ở chính quyền trong 20 năm, chắc chắn ông ta đã rải một mạng lưới tình báo gián điệp khắp toàn cầu. Do đó, Putin là người nắm vững âm mưu của “Deep State” toàn cầu hơn ai cả. Bây giờ ta hãy đặt câu hỏi tại sao đảng Dân Chủ vu cho Tổng thống Donald Trump thông đồng với Tổng thống Putin, mà không thông đồng với Tập Cận Bình, mặc dù Công ty Trump có làm ăn với Trung Cộng? Tại vì Putin và Tổng thống Trump đều là người chống lại  “Globalization” do ông Bush Cha – từng làm Đại sứ ở Bắc Kinh – chủ trương. Hai vị lãnh tụ này là “kỳ đà cản mũi” mưu đồ của “giới tinh hoa” (Élite). Toàn Cầu Hóa là một thuật ngữ mới thay cho chiêu bài “Thế giới Đại đồng” của cộng sản. Tập Cận Bình là con cháu của Tào Tháo, gian hùng túc trí đa mưu. Tập hiến kế cho “Deep State” phải phân hóa hai vị lãnh đạo của Mỹ và Nga chống chủ trương “Toàn Cầu Hóa”, Trung Cộng mới vượt lên địa vị cường quốc số #1 được. Tuấn có thể hỏi tại sao “Deep State” cần phải đánh sụp nước Mỹ? Tại vì Hiến Pháp Mỹ là nền tảng bảo vệ nền Dân Chủ của Mỹ. Khi Hiến Pháp không còn được tôn trọng, đảng Dân Chủ sẽ trở thành độc đảng như cộng sản, có quyền ngồi trên Pháp Luật mà không ai làm gì được. Cuộc bầu cử năm 2020, ai nấy đều thấy đảng Dân Chủ đã khinh thường Hiến Pháp một cách trắng trợn, mà các Tướng lãnh đều câm như hến, đủ cho ta biết Deep State đã khống chế Quân Đội, biến các Tướng lãnh thành những con cừu ngoan ngoãn.

Nước Nga từng bị quân Mông Cổ đô hộ gần 300 năm. Khi Nga và Trung Cộng còn thờ chủ nghĩa Marx, hai bên đã  có cuộc xung đột vào năm 1969, từng dàn quân ra thanh toán lẫn nhau. Hoàng Đế Napoleon Bonaparte đã cảnh báo “Họa Da Vàng” (Yellow Peril). Đại tướng Trì Hạo Điền – Nguyên Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Cộng – từ năm 2011 công khai đưa ra chiến lược sử dụng bom sinh học để xâm chiếm nước Mỹ. Từng ấy sự kiện, làm sao Putin có thể ngồi yên để cho “Nhà Nước Ngầm” tự do tung hoành? Nếu nước Mỹ sụp, còn nước nào đủ sức mạnh để ngăn tham vọng bành trướng của giống Da Vàng Trung Cộng? Chính Nhật Bản cũng là Da Vàng, nhưng ngày nay phải sợ Trung Cộng, vì nhờ Mỹ giúp cho giàu lên và tuồn “high tech” để vượt địa vị bá chủ hoàn cầu.

Tổng thống Donald Trump nói nếu ông làm Tổng thống, thì Putin không bao giờ đưa quân sang Ukraine. Ông Trump nói sự thật, chứ không phải nổ bậy. Tại sao? Tại vì nếu ông Trump lên làm Tổng thống nhiệm kỳ hai, thì ông Trump sẽ tát cạn đầm lầy, thanh toán sạch bách “Deep State”. Putin đâu cần hành động để bị cả thế giới lên án là kẻ sát nhân? Tổng thống Putin bị lâm vào hoàn cảnh “Damned if he does. Damned if he does’nt”, dù biết việc làm của mình là phi chính thống (illegitimacy), nhưng không thể có lựa chọn nào khác! Putin không ngu gì để mang tiếng xâm lược. Anh không bênh vực Putin. Anh nhận thấy Putin phải hành động vì sự sống còn bản thân.

Nguyễn Tường Tuấn thân mến,

Tuấn từng dẫn Đại đội Trinh Sát vào đất địch gặp phải hoàn cảnh sinh tử, đánh cũng chết mà không đánh cũng chết. Vậy đành phải đánh thì may ra có đường sống, phải không? Tình cảnh của Putin cũng giống như thế mà thôi. Lời tuyên bố cứng rắn của Putin rằng ông đã ra lệnh đơn vị nguyên tử sẵn sàng là lời nói thật, chứ không phải dọa già đâu. Nếu con gấu Bắc Cực bị dồn đến bước đường cùng, nó phải đánh bài liều. Nếu phía “Deep State” hiểu được tâm lý của Putin là như thế, thì phải tìm một giải pháp chấp nhận Ukraine làm vùng trung lập, hứa “Deep State” không ảnh hưởng, thì có lẽ Putin sẽ lui binh. Nhược bằng thế giới không thấy hiểm họa của “Deep State”, vẫn dồn Putin vào đường cùng, Putin sẽ không chịu chết một mình. Do đó, Thế Chiến III có hay không xảy ra là tùy ở hai bên. Anh tin rằng Tập Cận Bình đang vỗ đùi sung sướng trong tư thế ngư ông đắc lợi: Bọn Da Trắng không thấy mối “Họa Da Vàng”, chúng mày cứ việc húc nhau!

Tuấn ạ! Cuộc chiến hiện nay là cuộc Thánh Chiến đấy! Chẳng phải đùa đâu! Lãnh đạo Vatican – Giáo hoàng Francis – tới từ Nam Mỹ, nơi mà phong trào “thần học giải phóng” đang tiến hành. Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ Viện Nancy Pelosi đều là Công Giáo dòng, nhưng chối Chúa, đang dùng đấu pháp kiểu cộng sản để đánh bại giá trị truyền thống của Mỹ. Dân tộc Do Thái có các Thánh Tông đồ là Do Thái, nhưng cũng có dân Do Thái chống Chúa mà mà Tông đồ Judas là đại diện. Ukraine là quốc gia bị hai thế lực dùng làm bãi chiến trường giống như nước Việt Nam chúng ta mà thôi. Anh không biết đây là thời điểm Phán Xét chưa, nhưng trong Kinh Thánh có nói đến Ngày Tận Thế sẽ xảy ra. Chẳng việc gì phải sợ, phải bi quan. Cứ sống ngay lành, bảo vệ Sự Thật là được rồi!

Anh cầu mong Ma Quỷ sẽ bị đánh bại, để có một thế giới lương thiện. Người yêu Người.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

TÔI ĐÃ THẤY NHỮNG GÌ ?

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu: Kính thưa độc giả,

Một độc giả từ trong nước, sinh năm 1932, đi “Bộ Đội Cụ Hồ” kháng chiến chống Pháp từ năm 15 tuổi, từng tham gia trận đánh Điện Biên Phủ. Sau năm 1954 xin giải ngũ, ông về đi học lại và chỉ phục vụ như một công chức bình thường. Nhờ hệ thống thông tin toàn cầu, ông đọc được những bài tham luận chính trị của tôi giúp ông có một số hiểu biết về Việt Nam Cộng Hòa. Ông hoàn toàn đồng ý với lập luận của tôi rằng Hồ Chí Minh là tên tội đồ dân tộc, một tên tay sai đắc lực của Mao Trạch Đông có ý đồ biến Việt Nam thành một Châu quận của Tàu và tiêu diệt nòi giống Việt Nam.

Mặc dù bản thân chưa làm được điều gì to tát trong công cuộc chiến đấu chống lại bọn ma quỷ cộng sản, nhưng ít nhất tôi đã làm được một việc, là thay đổi tư duy của hơn một người bị giam hãm trong một nhà tù lớn  xã hội chủ nghĩa  thường tuyên truyền dối trá để nhồi nhét vào đầu óc nhân dân lòng căm thù và miệt thị tôn giáo. Ông tỏ ra tiếc nuối vì Hoa Kỳ đã giết chết một lãnh tụ anh minh và không giúp Miền Nam đem quân ra giải phóng Miền Bắc. Vì đã về hưu, suốt ngày theo dõi tình hình thế giới, ông yêu cầu tôi viết một bài nhận định về cuộc xâm lăng của Nga vào nước Ukraine. Ông ao ước lãnh đạo Việt Nam Cộng Sản có một nhà yêu nước, dũng cảm giống như ông Volodymyr Lezensky, một nghệ sĩ hài, trở thành một người hùng trong cơn quốc biến gia vong.

Thưa anh Trần quý mến,

Cám ơn lời khen ngợi của anh là nhờ đọc những bài viết của tôi mà biết rõ tâm chất yêu nước của một người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và đồng ý với tôi về những sự kiện vạch trần tội ác của cộng sản do Hồ Chí Minh áp đặt lên dân tộc Việt Nam. Người tù kiệt xuất Thép Đen Đặng Chí Bình cũng nhận xét như thế, nên kết nghĩa Anh Em với tôi. Do sự tin tưởng, anh đã yêu cầu tôi thử phân tích tình hình xâm lăng của Putin vào nước Ukraine sẽ kéo nhân loại đi về đâu.

Tôi nghĩ rằng phải là một nhà thông thái quán triệt vấn đề lịch sử, văn hóa, siêu hình thì may ra mới có thể giải đáp chính xác câu hỏi của anh được. Tôi dùng chữ “may ra” là vì thời đại mà chúng ta đang sống là thời của giả trá, chẳng biết thông tin nào của hai phe là đúng sự thật. Đây là cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa văn minh và man rợ thì khó lòng biết được chuyện gì xảy ra trong bóng tối. Nói theo kiểu nói của bà Nguyễn Phương Hằng là: “Chỉ có người trong cuộc mới biết chuyện trong kẹt”. Bởi vậy, xin anh hãy xem bài viết này chỉ là suy nghĩ cá nhân đã trầm tư mặc tưởng trong nhiều năm tháng. Anh có thể đồng ý hay nghe qua rồi bỏ cũng được, chẳng sao. Tôi thích nghe bài hát “Do you see what I see”, thì dưới đây là những gì tôi thấy. Tất nhiên là chủ quan, nhưng không phải là bất hợp lý:

Hơn hai ngàn năm trước, theo Kinh Thánh, Thượng đế gửi xuống vùng đất Israel người con duy nhất của Ngài là Đức Jesus để cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Theo tôi, Đức Jesus là một nhà cách mạng xã hội chống bọn giả hình và bọn thu thuế. Ngài rao giảng tình yêu thương và lòng bác ái, thứ tha. Dựa trên nền tảng triết lý đó, các Quốc gia Tây phương khai sinh nền Dân Chủ theo tiêu chí: Liberté – Égalité – Fraternité” (Tự do – Bình đẳng – Huynh đệ). Nhưng dân Do Thái không nhìn nhận Đức Jesus là Đấng Cứu Thế. Họ đã đồng thanh kết án Ngài, mặc dù Quan Tổng trấn Philatô, người La Mã, không thấy Ngài phạm tội gì. Đó là kiểu Tòa Án Nhân Dân dưới thời cộng sản. Vì tội đòi đóng đinh Chúa Jesus lên cây Thánh Giá, dân Do Thái bị đày đi khắp mặt địa cầu.

Dân tộc Do Thái thông minh bậc nhất thiên hạ. Có nhiều nhân vật lừng danh đóng góp vào nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, có một nhân vật Do Thái – Karl Marx – là Giáo chủ của Tà Đạo Cộng sản với giáo điều sử dụng căm thù làm động lực đấu tranh bằng bạo lực. Đạo Cộng sản triệt để chống lại tín lý Thiên Chúa và xem tôn giáo là thuốc phiện cần phải bị tiêu diệt.  Có phải tại vì người Do Thái quá thông minh, khiến cho sắc dân khác sinh lòng đố kỵ, thù ghét? Chẳng hạn, họ đã bị Hitler  có nguồn gốc Do Thái  đã thiêu sống gần 6 triệu người Do Thái!

Số phận nước Việt Nam ta cũng do người Do Thái quyết định. Đó là chủ nghĩa cộng sản do Hồ Chí Minh du nhập vào. Năm 1954, Thủ tướng nước Pháp – Mendès France – là người Do Thái ký Hiệp ước Geneve chia đôi nước ta. Năm 1975 cũng một người Do Thái – Henry Kissinger – bỏ rơi nước ta cho cộng sản. Với một Quân lực 500 ngàn binh sĩ thiện chiến và khí giới bậc nhất hoàn cầu mà Hoa Kỳ thua một kẻ thù chậm tiến, lạc hậu một cách phi lý, thì làm sao ai hiểu nổi?

Thua trận tại Việt Nam, nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ trầm trọng, chẳng khác tình hình chính trị của Việt Nam. Hồ Chí Minh là một nhân vật bí ẩn, vô danh tiểu tốt so với những nhà ái quốc như Cụ Phan Bội Châu, Cụ Phan Chu Trinh, chẳng ai biết đích xác ông ta là người Tàu hay người Việt Nam do Mao Trạch Đông dựng lên. Barack Hussein Obama, cũng vô danh tiểu tốt so với John McCain, chẳng ai biết ông ta sinh ra ở Mỹ hay ở Kenya, do một tỷ phú – George Soros – một người Do Thái có xu hướng cộng sản dựng lên. Barack Hussein Obama chuẩn bị cho người kế vị mình – Hillary Clinton – hết sức chu đáo để tiếp tục nghị trình (agenda) với chủ đích làm suy yếu nước Mỹ. Nhưng kinh ngạc thay! Giống như một phép lạ! Một doanh gia tỷ phú, chưa hề giữ một chức vụ gì trong chính quyền, bị coi là non nớt chính trị  Donald J. Trump  đắc cử Tổng thống một cách vẻ vang!

Chương trình hành động của Tổng thống Donald Trump là làm cho nước Mỹ giàu mạnh trở lại (MAGA) và Tát Cạn Đầm Lầy (Drain The Swamp). Chủ nhân ông của các cơ quan Truyền thông lớn và các Định chế  Tài Chánh đều nằm trong tay Do Thái. Thượng Viện có Chuck Schumer và Blumenthal; Hạ Viện có Adam Schiff và Jerrold Nadler cũng đều có gốc Do Thái, đã đánh phá Tổng thống Donald Trump liên tục, dù cựu Giám đốc FBI là Robert Mueller làm Công tố viên đặc biệt điều tra trong hai năm và tiêu tốn 37 triệu Mỹ kim, nhưng không tìm ra chứng cứ Tổng thống Donald Trump thông đồng với Nga. Đảng Dân Chủ đã học theo đấu pháp của cộng sản để triệt hạ đối thủ là: vu khống, vu khống, vu khống. Giống như Việt Cộng dùng Phật giáo vu cho Tổng thống Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo thì Dân chủ Mỹ dựng lên Phong trào “Black Lives Matter” để vu cho Tổng thống Donald Trump kỳ thị chủng tộc. Tổ chức Antifa là một tổ chức khủng bố giống Việt Cộng chuyên môn đặt bom tại nhà hàng, khách sạn. Nói tóm lại, đảng Dân Chủ đã dùng phương châm “cứu cánh biện minh phương tiện” y hệt như cộng sản.

Ông George H. Bush (Bush Cha), từng làm Giám đốc CIA và Đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, nhờ thừa hưởng thành quả của Tổng thống Ronald Reagan, đắc cử Tổng thống. Sau khi Liên bang Soviet sụp đổ, ông Bush Cha tuyên bố chiến lược “Toàn Cầu Hóa” (Globalization), một hình thức Thế giới Đại đồng của Cộng sản để sắp xếp lại trật tự thế giới mới (New World Order). Trong tang lễ của Bush Cha, người ta thấy các ông bà Barack Hussein Obama, ông bà Bill Clinton, ông bà George W. Bush chuyền tay nhau đọc một mảnh giấy, làm cho sắc mặt của họ thay đổi với vẻ kinh sợ. Nghe nói mảnh giấy đó là của Bush Cha có lời ghi “Chúng nó biết tất cả rồi”. Phải chăng ông Bush Cha cho các cựu Tổng thống biết có một âm mưu khuất tất gì đó của Nhà Nước Ngầm đã bị bại lộ?

Năm 2020, Tổng thống Donald Trump được đa số quần chúng Mỹ ủng hộ vì những thành quả đạt được cao hơn tất cả các đời Tổng thống tiền nhiệm. Ai nấy đều chắc mẩm Tổng thống Trump đối đầu với một đối thủ ngủ gật, nói trước quên sau Joe Biden, thì thế nào ông cũng sẽ được tái đắc cử. Không ngờ Joe Biden thắng vào giờ chót. Mười tám (18) Tiểu bang đâm đơn kiện lên Tối Cao Pháp Viện đều bị bác bỏ, không thèm cứu xét, mặc dầu có ba vị Quan Tòa do Tổng thống Trump bổ nhiệm. Nhà Nước Ngầm (The Deep State) đã làm cuộc đảo chánh (Coup d’état) giúp ông Joe Biden thắng cử. Cả thế giới đều trông thấy sức mạnh khủng khiếp của Nhà Nước Ngầm đã lật nhào vị lãnh tụ của một đất nước có nền dân chủ lâu đời nhất thế giới. Tất nhiên Tổng thống Putin của Nga cũng thấy nền dân chủ Mỹ đã bị phá sản, nên lo sợ địa vị Tổng thống của ông cũng sẽ bị lật đổ như Tổng thống Donald J. Trump.

Bây giờ tôi xin nêu lên câu hỏi: “Nhà Nước Ngầm do ai lãnh đạo?” Đó là những người thông minh nhất, giàu có nhất, chế ra vũ khí sát thương mạnh mẽ nhất và có một bộ máy truyền thông rập khuôn theo Bộ trưởng Tuyên truyền (Propaganda Minister) Joseph Goebbels của Hitler chuyên trị nói dối, nói dối, nói dối. Hiện nay, ai cũng thấy đứng đầu các cơ quan truyền thông, các định chế tài chánh đều là người Do Thái. Cha đẻ bom Nguyên tử  Albert Einstein – và nhiều nhà khoa học lừng danh lãnh giải Nobel phần lớn là người Do Thái.

Thưa anh Trần thân mến,

Tôi thấy thực tế ra sao, tôi viết vậy. Tôi không bài Do Thái. Tôi chỉ nêu ra sự kiện Chúa Jesus Christ là người Do Thái đem tình yêu thương, lòng bác ái, thứ tha để rao giảng cho nhân loại phải tuân theo “Mười Điều Răn” để có một thế giới hòa bình. Đồng thời, Karl Marx cũng là người Do Thái, lại lập ra cái Đạo Giả Hình hoàn toàn đối lập với tín lý của Chúa Jesus. Chủ nghĩa Cộng sản tuyên dương công bằng xã hội, không còn có cảnh người bóc lột người, tranh đấu cho dân nghèo, nhưng thực tế thì ngược lại như ta đang thấy trên Đất Nước Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, đảng Dân Chủ đang bắt chước phương thức đấu tranh kiểu Việt Cộng để cướp Chính quyền. Chỉ khác một điều là Việt Cộng đi lên từ bần cố nông, ngu dốt, vô học. Còn đảng Dân Chủ, ngược lại, cướp Chính quyền do bọn cực giàu, cực thông minh và cực dối trá để vĩnh viễn giữ quyền lực.

Tổng thống Putin xuất thân là một cán bộ Tình Báo của Cộng Sản, từng nắm quyền lãnh đạo nước Nga, nên ông biết sự nguy hiểm của Nhà Nước Ngầm. Tổng thống Donald Trump bị thất cử, thấy rõ tính cách nguy hiểm của Nhà Nước Ngầm, nhưng đành bó tay, vì sự ràng buộc của Hiến Pháp. Ông Trump chỉ có thể lập ra một kênh Truyền Thông cho riêng mình để đấu lại bọn Truyền Thông Thổ Tả của Nhà Nước Ngầm. Còn Putin là Tổng thống có toàn quyền, không bị ràng buộc bởi Hiến Pháp, thì dùng vũ lực để giải quyết vấn đề.

Rất có thể Tổng thống Putin có tin mật để biết rằng NATO là công cụ của Nhà Nước Ngầm. Khi thấy Tổng thống Ukraine – Volodymyr Lezenski – có gốc Do Thái mà cứ nằng nặc đòi NATO chấp thuận làm Hội viên, thì Putin lo sợ sẽ bị lật đổ như Tổng thống Donald Trump, nên phải vội ra tay “tiên hạ thủ vi cường” của môn Cờ Tướng?.

Như tôi nói ở đầu bài, không ai có thể đoán chính xác ý đồ của Tổng thống Putin xâm lăng Ukraine, bởi vì các tin tức đều bị nhiễu, hư thực khó phân biệt. Tôi chỉ thấy Joe Biden, Nancy Pelosi là Công Giáo dòng lại kịch liệt chống tín lý Công Giáo. Họ nhất quyết thi hành chính sách ủng hộ phá thai, đồng tính luyến ái và sự giả hình của xã hội chủ nghĩa, mở cửa biên giới để phá vỡ nền tảng đạo đức cũng như an ninh của nước Mỹ. Vì vậy, tôi mới cho rằng hiện nay Hoa Kỳ đang có cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa văn minh và man rợ, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa quỷ sư ma vương và lương tri.

Nếu năm 2022 này, đảng Dân Chủ vẫn giữ đa số đại biểu tại Lưỡng Viện Quốc Hội, thì những nhà làm luật của Mỹ sẽ hoàn thành công cuộc đánh sụm nước Mỹ. Và khi nước Mỹ sụp thì không còn Quốc Gia nào có thể ngăn nổi tham vọng bành trướng của Trung Cộng. Lúc đó, nước Việt Nam ta chính thức là một Châu Quận của Tàu và nòi giống của ta bị đồng hóa.

Chúa Jesus Christ là người Do Thái. Karl Marx, giáo chủ đạo Cộng sản cũng là người Do Thái. Tôi mong những người Do Thái như các tông đồ của Chúa Jesus đánh bại những người Do Thái chống Chúa thì nền văn minh nhân loại sẽ tồn tại. Đó là cái nhìn chủ quan của tôi về tinh hình thế giới hiện nay. Nếu anh Trần có cái nhìn khác hơn, xin vui lòng cho tôi biết.

Thân ái,

Bằng Phong Đặng văn Âu

Chuyện phiếm…của Lê Văn Nghĩa 

Thoạt đầu, tôi định đặt tựa bài này là “Thiên đàng mơ mộng”, vì thấy thật đúng tâm trạng của những thằng học sinh Petrus Ký chúng tôi thời đó. Thời chúng tôi có rất nhiều thiên đàng mơ mộng: “Em theo trường về… áo dài tà áo vờn bay” .1. “Thiên đàng” của những thằng tóc hớt ngắn, quần xanh áo trắng là nơi các nữ thiên thần áo dài trắng túa ra như lũ chim bồ câu sau giờ tan học của Trường Gia Long. Thằng học sinh Petrus Ký nào chẳng mơ được “mần quen” cùng một em áo dài.\

Phía bên hông cổng Trường Gia Long, trước cổng chùa Xá Lợi, “cạnh tranh” với những chiếc xe bán bò bía, gỏi đu đủ là những chàng áo trắng Petrus Ký đang gửi hồn qua cánh cổng thâm nghiêm có từ năm 1915 với cái tên thơ mộng “Trường nữ sinh Áo Tím”.Nghe kể lại, trường được thành lập do đề nghị của nghị viên Hội đồng quản hạt Nam kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của tổng đốc Phương và một số trí thức người Việt. Khóa đầu tiên (1915) trường tuyển 45 nữ sinh với đồng phục là áo dài tím.Năm 1949, nữ sinh Trường Áo Tím cùng nam sinh Trường Petrus Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam kỳ khởi nghĩa nên chính quyền đã đóng cửa trường. Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh, biểu tình dài ngày với sự ủng hộ của phong trào học sinh lúc ấy, trường được mở cửa lại.

Đánh dấu sự kiện quan trọng này, sau bảy đời hiệu trưởng trường là người Pháp, lần đầu tiên trường có nữ hiệu trưởng là người Việt: bà Nguyễn Thị Châu. Năm 1953, Trường Áo Tím đổi tên thành Trường nữ trung học Gia Long. Áo dài tím được thay bằng áo dài trắng với phù hiệu là bông mai vàng. Chương trình giáo dục bằng tiếng Pháp được chuyển sang quốc ngữ.
Biết đâu chính “mối tình” gắn kết tranh đấu của Áo Tím và sau đó Gia Long trong những năm về sau đã gắn kết “trai Petrus Ký, gái Gia Long” trong những mối tình thật và ảo của lứa tuổi học trò. Hãy mơ đi những chàng trai Petrus về “thiên đường” tuổi nhỏ dại của mình!2. Khoảng giữa thập niên 1970, bài hát Con đường tình ta đi của nhạc sĩ Phạm Duy làm xáo động những trái tim mới lớn với những lời ca mộng mị: “…Lá đổ để đưa đường/Hỡi người tình Trưng Vương”.Tôi không biết đó là lời cảm thán của chàng trai nào. Nhưng có lẽ thích hợp hơn xin hãy cho chàng trai ấy là người của Trường Chu Văn An. Như một mặc định, “trai Petrus Ký, gái Gia Long” thì nữ sinh Trường Trưng Vương lại là “của riêng” của những học sinh Chu Văn An mặc dầu hai trường cách trở về mặt địa lý một quãng đường khá dài.Trường chàng thì ở tận nhà thờ ngã sáu, đường Minh Mạng, còn “thiên đường” của nàng thì ở đối diện Sở thú – Thảo cầm viên, số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tội nghiệp cho nam sinh Trường Võ Trường Toản cùng ăn chung xe gỏi bò với các nàng nhưng chỉ đứng xa ngắm những chàng trường Chu đón nàng mà hát câu cảm thán: “Trưng Vương hôm nay mưa vẫn giăng đầy trời/ Bóng người thì mịt mùng/ Từng hàng me rung rung” .

Có lẽ “nhân duyên tiền định” của hai trường này đều xuất phát từ “người phương Bắc”. Học sinh Chu Văn An đa số là người miền Bắc và Trường Trưng Vương cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu vì Trường Trưng Vương là ngôi trường có gốc gác từ Hà Nội.Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925, trên con đường Đồng Khánh, phía nam hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (College de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương.Năm học đầu tiên phải học nhờ cơ sở của Trường nữ trung học Gia Long. Mãi cho đến năm 1957, Trường Trưng Vương dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên trước đó là Quân y viện Coste của quân đội Pháp).Bởi vậy ta không lấy làm lạ khi đây là một trong những ngôi trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp và được bình chọn là ngôi trường có kiến trúc đẹp nhất Sài Gòn. Nhờ là học sinh Trưng Vương nên mỗi lần làm lễ kỷ niệm Hai Bà, nữ sinh Trưng Vương được ưu tiên tuyển chọn làm Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi trong lễ diễu hành.Có lần đi xem lễ diễu hành trên đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), khi hai nàng học trò Trưng Vương ngồi trên voi “phất ngọn cờ vàng” đi ngang, tôi thấy thằng bạn có vẻ phấn khích. Tôi hỏi: “Mầy thích “ghệ” áo vàng hả?”. Nó trả lời buồn xo: “Không, tao thích con voi. Bây giờ tao ước gì mình được làm con voi”.Rồi nó cảm thán nhại theo thơ của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/ làm voi nàng cưỡi, cái vòi đung đưa”. Sau này tôi mới biết cô gái đóng vai Trưng Trắc – áo vàng đó đã cho chàng leo cây.

“Trưng Vương vắng xa anh dần. Mùa thu đã qua một lần. Còn đây bâng khuâng”. Ôi, tội nghiệp một thời mê gái!3. “Áo dài trắng em mang mà anh nhớ…” đâu chỉ ở Sài Gòn. Ở một vùng trời tỉnh Gia Định, những chiếc tà áo của nữ sinh Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt vờn bay thật nhẹ nhàng, thanh khiết. Tôi khoái chữ “vờn bay” của nhà thơ Phạm Thiên Thư hơn chữ “tung bay” của nhạc sĩ Từ Huy khi nói về chiếc áo dài của nữ sinh trung học. Chữ “tung” có vẻ gì đó mạnh bạo quá khi nói về chiếc áo dài vốn dĩ đằm thắm.Thật thiệt thòi khi ngôi trường này không được nhắc đến trong âm nhạc hoặc thơ ca, có lẽ những chàng thi sĩ, nhạc sĩ chỉ thích tụ tập ở Sài Gòn mà bỏ quên một ngôi trường nữ làm đẹp và trắng khung trời Gia Định.Từ Sài Gòn, xuôi theo đường Đinh Tiên Hoàng, quẹo tay mặt, qua cầu Bông một đoạn, nhìn sang tay trái là một ngôi trường kiến trúc kiểu hiện đại hơn trường Gia Long và Trưng Vương. Chuyện cũng dễ hiểu vì năm 1960, tòa tỉnh trưởng Gia Định đã dùng một khu đất trước kia là ao rau muống để xây dựng trường trên đường Lê Văn, gần Lăng Ông thuộc xã Bình Hòa (tỉnh Gia Định). Trước kia trường mang tên Trương Tấn Bửu, thành lập năm 1957, có hai lớp đệ thất một nam và một nữ, học nhờ tại trường nam tỉnh lỵ (nay là Trường THCS Lê Văn Tám).Năm 1959, lớp nam sinh chuyển về Trường Hồ Ngọc Cẩn (nay là Trường Nguyễn Đình Chiểu). Khi xây dựng xong, trường được đặt tên là Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt và chương trình học bắt đầu từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhị. Học sinh nào đậu tú tài I sẽ chuyển sang học Trường Trưng Vương. Khoảng năm 1965-1966 trường mới có lớp đệ nhất. So với hai trường nữ đàn chị thì nữ sinh Lê Văn Duyệt nào có kém cạnh chi, cũng làm những chàng trai thốt lên: “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu?”…Có những chàng trai lãng mạn thì cũng có những chàng trai rất thực tế. Hiệp mập, thằng bạn của tôi, phát biểu: “Tao không lấy vợ là “ghệ” Gia Long, yểu điệu thục nữ quá cỡ, tao chỉ muốn vợ tao là nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh”. Tôi sửng sốt vì Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh mới vừa thành lập năm 1971.Sau Mậu Thân 1968, một góc đường Minh Mạng, Sư Vạn Hạnh gần chùa Ấn Quang bị cháy rụi. Vài năm sau đó, chung cư Minh Mạng ra đời, phía bắc của chung cư, ngay góc đường Hòa Hảo, Minh Mạng (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh cùng được xây dựng.Không phải thằng Hiệp mập không có lý của nó, vì nữ sinh trường này được học một chương trình giáo dục hoàn toàn mới. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên tại VN với lối giáo dục theo phương pháp tổng hợp theo mô hình của các nước tiên tiến thời ấy. Song song với việc giảng dạy như các trường công lập khác, trường còn dạy thêm kinh tế gia đình (tức nữ công gia chánh, may vá nấu ăn), môn doanh thương (tức kế toán đánh máy), âm nhạc (đàn tranh, piano), hội họa, nghệ thuật cắm hoa, và cả môn võ aikido, vovinam.Ngay từ năm lớp 6, nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh đã được học cả hai sinh ngữ Anh và Pháp khi mà học sinh công lập các trường khác chỉ được học một sinh ngữ. Trường được trang bị một phòng thính thị máy móc rất tối tân để luyện giọng chính xác với giáo sư ngoại quốc, một phòng thí nghiệm đầy đủ dụng cụ.Với lối giáo dục mới mẻ này, sau bảy năm trung học, nữ sinh trường có cơ hội thành một thiếu nữ VN văn võ song toàn. Còn theo thằng bạn tôi, giúp ích xã hội được hay không thì chưa biết, nhưng chắc chắn là một bà xã biết dạy chồng bằng võ vovinam và tài nội trợ.Sài Gòn, cùng với những trường nữ trung học công lập Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Sương Nguyệt Anh cũng còn trắng trời áo dài với những trường nữ trung học tư khác như Thánh Linh, Hồng Đức… đã nhốt hồn những chàng trai mặt bắt đầu nổi mụn trứng cá và vỡ giọng với những thổn thức “áo ai trắng quá nhìn không ra”…Những cô nữ sinh với những ngôi trường ấy đã là một phần hồn của chúng tôi, một phần hồn của Sài Gòn đã đào tạo những nữ lưu anh kiệt về các mặt chính trị, văn hóa, khoa học, và tiếp tục những nữ lưu anh kiệt lại là những anh kiệt nữ lưu khác.Cảm ơn Sài Gòn đã có những ngôi trường ấy cho tôi nhớ. Cảm ơn Sài Gòn có những ngôi trường thiên đàng tuổi nhỏ dành riêng cho chàng trai mơ về những mái tóc, những chiếc áo dài trắng vờn bay… vờn bay!

Lê Văn Nghĩa

Chiến Tranh Và Địa Ngục

Huỳnh Quốc Bình

… Chúng ta có thể mất mạng vì chiến tranh hay dưới bàn tay kẻ ác, nhưng đừng để linh hồn mình rơi vào địa ngục chỉ vì tội hèn nhát, hoặc tội phản nghịch lại Thiên Chúa…
Nhắc đến chiến tranh, người viết tin rằng dân tộc Việt Nam có quá nhiều kinh nghiệm “xương máu” về cảnh lầm than, chia ly, và tang tóc do chủ nghĩa cộng sản man rợ tạo ra cho người dân của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam.

Tại Hoa Kỳ, vào thời kỳ nội chiến (The American Civil War), Tướng William Tecumseh Sherman, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ, đã từng than rằng, “Tôi mệt mỏi và chán ngán chiến tranh… Chiến tranh là địa ngục.” (I am tired and sick of war… War is hell.)

Thời nào và ở đâu, chiến tranh là hình ảnh của máu đổ, thịt rơi. Dù vậy, trong một số trường hợp, người ta cũng cần phải chấp nhận sự tranh chiến để cứu người. Đấu tranh hay chiến tranh giải phóng đúng nghĩa, là cứu người; còn chiến tranh xâm lược là giết người. Bọn xâm lược luôn tìm cách gây chiến và giết người để đạt mục đích chiếm hữu đất đai, tài sản, và tài nguyên của quốc gia người ta.
Bài này được viết trong thời điểm Putin của Nga xua quân tấn công Ukraine một cách hung hãn. Thế giới đã liên tục nhắc đến sự dũng cảm và lòng yêu nước của Tổng Thống Ukraine- Volodymyr Zelenskyy và người dân Ukraine bởi vì họ phải đối đầu với Putin một kẻ cầm đầu một nước lớn, có vũ khí tối tân, kể cả bom nguyên tử. Đó là chưa kể đến việc Putin có quá nhiều thủ đoạn chính trị và hành động gian ác.
Tôi không rõ Ông Volodymyr Zelenskyy, Tổng Thống Ukraine có niềm tin tôn giáo nào, nhưng ông đã tránh được một trọng tội mà Thánh Kinh- sách Khải Huyền 21:8 khuyến cáo. Xin nói rõ hơn: Một số trọng tội không được vào Thiên Đàng, trong đó có tội hèn nhát, giết người, dâm loạn, và nói dối. Kinh Thánh cho biết rõ, “Phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự chết thứ hai.”

Chỉ có kẻ dại và kẻ thù của Ông Volodymyr Zelenskyy mới dám phủ nhận lòng yêu nước và sự khôn ngoan của ông. Ông chọn lựa ở lại đất nước Ukraine để cùng người dân chiến đấu chống quân xâm lược. Ông đã nói với quốc dân Ukraine và thế giới rằng, “Đây có thể là lần cuối cùng quý vị thấy tôi còn sống” (This might be the last time you see me alive).

Kết quả, người dân và binh lính Ukraine đã sống chết với ông, cho dù họ biết rõ sự chênh lệch một trời một vực trong cán cân quân sự giữa Ukraine và Nga. Xin mời quý độc giả nghe lời khẳng khái của ông tại link này: https://nypost.com/2022/02/25/ukraines-volodymyr-zelensky-delivers-foreboding-message-to-eu-leaders/

Trong chiến tranh, người ta chỉ có thể nói chuyện hòa bình với những ai còn lương tâm và tử tế chứ không thể hòa đàm với bọn ác gian và hiếu chiến. Muốn xây dựng, cần thiện chí của nhiều người tử tế, nhưng muốn tàn phá chỉ cần một đứa bất lương.
Người ta đã thấy, hễ có chiến tranh là có giết người. Chiến tranh theo kiểu một nước lớn áp đảo một nước nhỏ, “lấy thịt đè người”, chắc chắn phải tàn độc hơn sự suy nghĩ của con người. Điển hình, trong chiến tranh Việt Nam trước 30-4-75 và một số nước mà khối cộng sản nhắm đến đã tăng cường tối đa những loại vũ khí giết người hằng loạt tại các chiến trường. Vì cho mục tiêu bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên thế giới nên kẻ ác đã bất chấp mạng sống của con người.

Hành động cố tình xâm lấn các nước láng giềng của Putin đã cho mọi người trên thế giới thấy rõ bản chất hiếu chiến và man rợ của đương sự. Cho dù cho Putin và đồng bọn gian ác của hắn có mang nhãn hiệu gì hay chiêu bài gì đi nữa, chúng nó cũng đều là những kẻ giết người.
Địa ngục là nơi chứa chấp bọn giết người, bọn nói dối, những kẻ hèn nhát, và nhất là những kẻ phản nghịch Thiên Chúa. Cho dù là Putin của nước Nga hay bất cứ tên độc tài khát máu nào khác cũng đều bị Thiên Chúa lên án. Kinh Thánh chép, “Đức Giê-hô-va dò xét người công chính lẫn kẻ gian ác, và lòng Ngài ghét kẻ ưa thích bạo lực” (Thi-thiên 11:5).
Chắc chắn Thiên Chúa nhân từ và công bằng sẽ không đứng về phe nào trong chiến tranh, nhưng Ngài không thể ban phước cho những kẻ tạo ra chiến tranh cho mục tiêu bất chính.Người viết không ngại để nói rằng ngay cả Hoa Kỳ được thành lập bởi những người có đức tin vào Thiên Chúa, nhưng ngày nay nếu Hoa Kỳ bị cai trị bởi những kẻ gian ác, dung dưỡng tội phạm, làm cho xã hội bị băng hoại, đạo đức suy đồi, xem thường mạng sống con người, và nhất là phản bội đồng minh, chắc chắn Thiên Chúa không thể ban phước cho bọn cầm quyền gian ác đó.
Muốn được phước và muốn tồn tại trước sự cai trị của kẻ ác, người dân phải biết Kinh Thánh dạy gì về vấn đề tuân phục chính quyền hầu có thể làm theo một cách đúng đắn.Người viết xin tóm lược một phần trong thư của Sứ Đồ Phao-lô gửi cho người Rô-ma như sau, “Các quan quyền không phải để cho người làm lành sợ, mà để cho người làm dữ sợ…Vì quan quyền là chức việc của Đức Chúa Trời để làm ích cho ngươi… Và sợ kẻ mình đáng sợ, kính kẻ mình đáng kính” (Rô-ma 13:1-4). (Xin quý con dân Chúa tự đọc nguyên đoạn Kinh Thánh, Rô-ma 13, đừng để những kẻ hèn nhát bóp méo lời Kinh Thánh để dạy người khác theo ý họ)
Đọc sách Rô-ma 13, https://vietchristian.com/kinhthanh/tim.asp?btt/44/13 người tử tế và sáng suốt chắc chắn sẽ nhận ra rằng Kinh Thánh dạy con dân Chúa phải tuân phục những nhà cầm quyền làm những điều ích lợi cho dân. Kinh Thánh không hề dạy con dân Ngài tuân phục bọn cướp của giết người. Kinh Thánh không dạy người dân của một nước phải luôn luôn cúi đầu làm theo lệnh của phường thảo khấu, hoặc a tòng với đám buôn dân bán nước theo kiểu “Hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu”.
Kẻ nào vì muốn “vinh thân phì gia” nên muối mặt làm tay sai cho quân xâm lược cướp nước mình, kẻ đó đáng tội hơn quân xâm lược. Bọn làm lợi cho ngoại bang người ta gọi chúng là phản quốc. Quân bán bán nước và những kẻ dạy lẽ đạo trong các tôn giáo nhưng lại a tòng hay bênh vực kẻ ác, thật đáng khinh và đáng bị nguyền rủa hơn những kẻ trộm cướp ngoài xã hội.
Những ai nhận mình là Tin Lành hay Công Giáo, hoặc cấp lãnh đạo cao trọng cở nào trong Thiên Chúa Giáo mà có suy nghĩ và hành động gian trá, thiếu tình yêu thương, nói những điều có lợi cho bọn gian ác, bênh vực bọn bất lương để thủ lợi và để tồn tại, hãy cẩn thận. Kinh Thánh đã khuyến cáo, “Kẻ nào nói với kẻ ác rằng: Ngươi là công bình, sẽ bị dân tộc rủa sả, và các nước lấy làm gớm ghiếc mình; Còn người nào quở trách kẻ ác ắt sẽ được đẹp lòng, và sự phước lành sẽ giáng trên họ” (Châm-ngôn 24: 24-25).
Kinh Thánh bản dịch Hiện Đại (Vietnamese Contemporary Bible) đã chép lời phán của Chúa Cứu Thế Jesus liên quan đến vấn đề chiến tranh như sau, “Các con sẽ nghe chiến tranh bùng nổ, và những tin tức khủng khiếp về chiến tranh. Đừng bối rối, vì các biến cố ấy phải xảy ra, nhưng chưa đến ngày tận thế. Dân tộc này sẽ tiến đánh dân tộc khác, nước nọ tuyên chiến với nước kia. Nhiều xứ sẽ gặp nạn đói và động đất. Đó chỉ là giai đoạn đầu của cơn đại nạn” (Phúc Âm Ma-thi-ơ 24:6-8).
Liên quan đến cuộc chiến do một nước lớn tấn công áp đảo một nước nhỏ, người viết xin kêu gọi quý con dân Chúa hãy cùng cầu nguyện cho cuộc khủng hoảng ở Ukraine và cho thế giới.
Cầu xin Chúa khiến cho nhiều người tìm đến sự quan phòng của Thiên Chúa hơn là chỉ dựa và sức của người khác hay chính mình. Cầu xin Chúa cho người Ukraine và người Nga ý thức rằng Chúa Cứu Thế Jesus là nơi trông cậy duy nhất cho hòa bình và tự do. Cầu xin Chúa ban cho Tổng Thống Volodymyr Zelenskyy có sự khôn ngoan để lãnh đạo cuộc chiến chống quân xâm lược. Cầu xin Chúa ban bình an cho những người lính Ukraine chiến đấu bảo vệ tổ quốc và cho Tổng Thống và gia đình ông được bình an.  Cầu xin Chúa ban phước cho vợ con của những người lính chiến đấu được sự bình an. Xin Ngài an ủi những bà mẹ, những người vợ, những người con mà chồng, cha, và con của họ đã anh dũng hy sinh vì chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Cầu xin Chúa thương xót và giải cứu đất nước Ukraine ra khỏi sự dữ. Cầu xin Chúa cho vấn đề truyền giáo tại đất nước này được kết quả tốt đẹp.
Ai tình nguyện hiến dâng đời mình hay mạng sống của mình vì lẽ công chính, chắc chắn họ đã có đủ can đảm để dấn thân vào chốn hiểm nguy. Người lính xông pha vào chiến trường để ngăn chận gót giầy xâm lược của bọn cướp nước thật xứng đáng được mọi người trân trọng và nhớ đến họ. Ai đang lãnh đạo các cuộc đấu tranh vì chính nghĩa, hay theo đuổi mục tiêu mang phúc lợi cho toàn dân thật đáng được mọi người kính trọng. Thành phần này dứt khoát phải ý thức lời dạy này trong Kinh Thánh, “Đánh giặc phải nhờ mưu khôn ngoan; muốn chiến thắng, cần nhiều mưu sĩ” (Châm Ngôn 24:6).
Kết luậnTrước khi kết thúc bài viết này, xin phép cho tôi nhắc đến đại văn hào người Anh- William Shakespeare. Ông đã từng nói một câu để đời trong một tác phẩm nào đó của ông,  “Cowards die many times before their deaths; the valiant never taste of death but once.” Xin tạm thoát dịch, “Những kẻ hèn nhát phải chết đi chết lại nhiều lần, song người dũng cảm chỉ chết một lần mà thôi”.
Nếu Tổng Thống Vladimir Zelensky của Ukraine và vợ con ông có chết bởi quân xâm lược Nga, họ chỉ chết một lần. Nếu linh hồn của họ phải xuống địa ngục, chắc chắn là do một trọng tội nào khác chứ không phải do tội hèn nhát mà ra.
Những ai đang bị hà hiếp hãy an tâm. Thánh Kinh khuyến cáo, “Kìa, kẻ dữ đang đẻ gian ác; thật nó đã hoài thai sự khuấy khỏa, và sanh điều dối trá. Nó đào một hố sâu, nhưng lại té vào hố nó đã đào. Sự khuấy khỏa nó đã làm sẽ đổ lại trên đầu nó. Và sự hung hăng nó giáng trên trán nó” (Thi-thiên 7:14-16).
Chúng ta có thể mất mạng vì chiến tranh hay dưới bàn tay kẻ ác, nhưng đừng để linh hồn mình rơi vào địa ngục chỉ vì tội hèn nhát, hoặc tội phản nghịch lại Thiên Chúa.
Huỳnh Quốc BìnhNgày 3, Tháng Ba, năm 2022E-mail: huynhquocbinh@yahoo.com

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….

Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị
Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….
Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
– Ông bà từ đâu tới.– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.– Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.
Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…Ông ôn tồn giải thích:– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.

Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:
– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?– Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
– Đúng là chị tôi rồi.
Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

.
Taberd75 (FB Victor Đoàn)

Richard

NHỮNG NGÀY THÁNG TÙ ĐẦY KHÔNG THỂ QUÊN

Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước đó “đánh”tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa.

Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai. Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là người trong giới Văn nghệ đầu tiên, mới nhập trại đã bị tống ngay vào “biệt giam” (cachot) khu B1, phòng 11 trại Phan Đăng Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân vật quan trọng, là tay sai của CIA được dựng lên làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam hoạt động trong báo giới. Vì ngoài Bắc chức vụ này “to” lắm, do đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang bộ trưởng.

Trong cùng dẫy biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Linh mục Đỗ Bác Ái, Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu Khoa trưởng Khoa Luật đại học Huế), Luật sư Nguyễn Hữu Doãn, Luật sư Nguyễn Khắc Chính, Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ, Nhà báo Hồ Văn Đồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, Nhà Văn Nhà báo (nguyên dân biểu) Hồ Hữu Tường. Những người này lần lượt vào biệt giam sau tôi 1, 2 tuần. Đầu dẫy khu biệt giam buồng số 1 là “tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết nhiều về nhân vật này. Ông là người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn trong nhà thờ Vinh Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài vũ khí thô sơ, khi CS vào Saigon mấy tháng. Sau đó ông bị CS xử bắn. Vụ “vùng lên”khởi đầu chống đối CS này đã gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận khắp nước khi đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hãm quanh khu vực Nhà Thờ mấy ngày liền mới trấn áp được. Tôi nghĩ chúng ta thật vô tình khi ở ngoài này, trải qua mấy chục năm, không thấy một ai nhắc nhở tới ông (người được gọi là tướng Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đãi là biệt danh của Tướng NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lãnh đạo cuộc chiến đấu với rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”). Theo tôi đây là người chiến sĩ quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay từ ngày đầu, chúng ta nên tỏ bầy lòng ngưỡng mộ và khâm phục. Phía sau dẫy biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc Thông, ông chủ nhiệm nhật báo Lẽ Sống Mới Ngô Công Minh (vào đầu năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông Tin), ông Tống Đình Bắc,Trưởng ty Công an nổi tiếng sát cộng Miền Tây, ông chủ Nhà sách Khai Trí và một vài người nữa từng giữ chức vụ cao chế độ cũ. Riêng ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao động Gia Trung với chúng tôi hơn tháng thì CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không ai biết tin tức về ông. Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu vì mấy tay tổ văn nghệ, báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi nhà lớn của ông ở Saigon và vàng bạc của cải. Theo tôi, ông không phải nhà hoạt động chánh trị, chỉ là nhà báo thuần tuý nên không thể bị sát hại vì lý do chánh trị. Khi tù về tôi có dò hỏi tin tức ông nhưng không ai biết một cách chính xác.

Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài việc để nhớ xin kể ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc. Bọn “thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu, kể cả vị Linh mục, nhưng với hai vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì cai tù lại bắt để tóc. Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên: “Đó là chính sách Nhà nước!”. Việc thứ hai là vì biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi ngày chúng tôi chỉ được từ hai tới ba phút vòi nước ở ngoài thọc vào để làm vệ sinh. Tôi không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu (bằng xà bông giặt). Đang làm nửa chừng vòi nước rút ra mặc cho tôi nài nỉ. Báo hại đêm đó đầu tôi bị xà bông làm ngứa ngáy khó chịu không tài nào nhắm mắt ngủ yên được. Cũng vì “nước” tôi phải tự “tranh đấu” với mình mãi mới nuốt xong phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái tô nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh. Vì phải chứa nước làm vệ sinh (khi đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái tô lớn mầu xanh. Trong khi đi “làm việc” (hỏi cung) tôi viết mấy chữ bằng bút chì dặn anh tù hành sự để cơm vào nửa tờ giấy báo cũ, còn canh để vào tô nhựa mầu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước trữ đi, để cơm canh vào 2 cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội nước còn nồng nặc mùi phân của mình. Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nhìn hai tô cơm canh muốn ứa nước mắt tự “tranh đấu” với mình. Ăn hay nhịn? Nếu ăn, khó nuốt trôi miếng cơm vì tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị đói tới trưa hôm sau. Tôi lại mắc chứng đau dạ dầy từ ngày CS chiếm Saigon nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối cùng tôi đành nhắm mắt nuốt vội chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.

Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng trời âm u, được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi liếc nhìn thấy nhà văn Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt phòng giam tập thể hướng về phía tôi nói khá lớn: “Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao…”. Tôi chỉ nghe được tới đây thì bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Thì ra Duyên Anh tưởng tôi được tha về nhờ tôi tới nhà nhắn tin vợ.

Khi đi đến trước sân “nhà khách” trại giam tôi thấy vài người quen ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh. Chúng tôi chỉ đưa mắt chào nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong còng tay lại đưa lên chiếc xe hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công an thành phố Saigon cũ đường Trần Hưng Đạo). Cùng trên chuyến xe có tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Đình Bắc và một vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài sân cơ quan chờ làm thủ tục gì đó, các bạn tù của tôi bàn cãi sôi nổi về dự đoán chúng tôi được đưa lên đây làm giấy tờ tha. Có vị còn “cá” một chầu ăn uống linh đình ở Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi tên đem hành lý đi vào phòng…biệt giam! Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi vì biệt giam hết chỗ(?) – viên công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A (làm từ thời Pháp).Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư sản, chính trị gia, Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Đại đức, trộm cắp, buôn lậu, nhốt chung trong một phòng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ hẹp, u tối, ẩm ướt, thiếu ánh sáng và khí trời. Phòng có 2 “sàn”, sàn trên cao khoảng một mét. Mỗi người được cấp manh chiếu rách cáu bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích tụ lâu năm đã kết thành “cao”. Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt giam vì mấy tháng sau anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào phòng tôi kể cho nghe thảm cảnh trong buồng biệt giam anh đã “chết trong cõi sống” mấy tháng qua. Buồng biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ thời Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy chục năm.Tường bẩn thỉu lam nham dầy cáu bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh năm. Mùi mồ hôi, mùi phân nước tiểu người tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi hôi hám khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe ngay. Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu đã nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu dâng lên tràn lan khắp buồng với những cục phân chưa tiêu hủy. Nếu mưa lâu khoảng một giờ nước cầu tiêu dâng ngập buồng giam hơn gang tay, tù chỉ còn biết đứng dựa vào tường chờ cho nước rút hoặc ngủ đứng. Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng còn ẩm ướt, tù mới ngả lưng nằm thì một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm ghẻ lở khắp mình trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên gặm bàn chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu nó sống bằng xương thịt tù bị chết chưa kịp mang đi. Anh Mai Văn Lễ kết luận: “Đúng là tầng chót địa ngục trần gian, có một không hai trên thế giới!”. Tôi được biết Linh mục Hoàng Quỳnh, người lãnh đạo giáo dân khu Bùi Chu Phát Diệm nổi tiếng chống CS bằng vũ lực hồi còn ngoài miền Bắc. Linh mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5. 1975, bị giam và chết trong “tầng chót địa ngục trần gian” này. Khi họ đem xác Linh mục đi trên cái băng ca, thân thể teo tóp gầy đét bé nhỏ như đưá trẻ lên 10.

Sau hai ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn, trước đây dùng chở heo, chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúch nhích cánh tay cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài mệt lả người, chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo Gia Trung (thuộc tỉnh Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu. Nghe nói nơi này khi trước là mật khu của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi tới đã có 3 trại giam, mỗi trại cách nhau khoảng cây số. Trại nào cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000. Tù đa số là các viên chức cấp nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn là tù hành sự từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10 tuổi, đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị bắt.

Những nỗi đói khổ nhục nhã, sống cuộc đời trung cổ, sách báo đã nói nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhã chúng tôi còn có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối với chúng tôi là sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đình, với đời sống ngoài xã hội. Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách Nhà nước là đem vợ con lên vùng đất tù đầy này cuốc đất trồng khoai sinh sống (như ngoài Bắc đã thực hiện). Tất nhiên chúng tôi không thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời mình chứ không thể để vợ con đã khốn khổ ngoài đời lại phải gánh thêm cảnh tù đầy.

Trong những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế kỷ sống như cây cỏ như súc vật, chúng tôi hết cả hy vọng hết cả chờ mong thì có những tin tức như những làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn về chương trình HO, người Mỹ sẽ cứu chúng tôi đem sang Mỹ. Trong thời gian này các con tôi gửi thư cho tôi nói bóng nói gió là hai hội Văn Bút Quốc Tế và Việt Nam đang ráo riết can thiệp vận động cho anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi cũng báo tin có nhận được “quà” của hai hội gửi. Thời gian này bọn tù chúng tôi “hồ hởi phấn khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương trình HO (mỗi người tán một kiểu toàn có lợi cho mình) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi cũng hết lời ca ngợi Tổng Thống Carter – vị ân nhân vĩ đại – sẽ lập cầu Không vận đưa chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do tươi sáng. Tôi cũng nghe nói tới tên một bà lúc ấy còn rất xa lạ với chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết bao giai thoại đồn đại thêu dệt về bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời bình luận của anh em tù, tôi có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm cây đũa thần giúp chúng tôi từ vực thẳm lên. Rồi ngày tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua, tất cả mọi việc vẫn như cũ không có biến chuyển gì xẩy ra, chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất vọng lê cái thân tù đầy mòn mỏi héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng không đợi không chờ” như câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi nghe.

Sau gần 10 năm thân thể rã rời hư hao chỉ cỏn bộ da bọc xương, tinh thần suy sụp chán nản chẳng còn gì để mong để chờ và cũng hết cả “cú” tha bất ngờ thì anh Doãn Quốc Sỹ được gọi tên tha, năm sau anh Hồ Văn Đồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư Vũ Quốc Thông. Những người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong chúng tôi lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.

Có lẽ do nguồn từ gia đình ký giả Cao Sơn lên thăm nuôi nói đài VOA vừa loan tin tôi và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở trại Gia Trung, Pleiku. Thế là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội tôi cũng tò mò hỏi anh tù nấu nước có biết tôi không và hiện ở đội nào (vì đài VOA chỉ loan bút hiệu của tôi nên anh ta không biết). Báo hại tôi từ khi có tin này không được tự động đi gánh phân người từ trại ra ngoài đồng nữa. phải về đội cuốc đất chặt cây đào mương như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn thỉu hôi hám mất vệ sinh thật nhưng chỉ nửa buổi là “thanh toán” xong các hố xí. Thời gian còn lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh” kiếm củ khoai mì hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng thường trực rỗng. Nếu tôi nói đã hơn một lần “tự động” ăn…phân người, có lẽ nhiều người không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân phận tù đầy dưới chế độ cộng sản. Lần thứ nhất quãng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ chòi đun nước uống của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước, nguyên đại úy cảnh sát quốc gia, vốn quý mến tôi, thấy tôi đến, anh mắt nhìn chỗ khác nhưng miệng nói nhỏ: “bác đi tới phía bụi cây bên trái”. Tôi biết là “có gì” rồi. Tới nơi nhìn vào trong bụi cây tôi thấy nửa trái dưa chuột nhỏ. Tôi cầm lên bỏ vào miệng nhai liền. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ ăn miếng dưa chuột ngon đến thế (tôi vốn không thích ăn dưa chuột). Vừa nuốt xong nửa phần dưa chuột tôi chợt nhớ ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước, nói: “Này ông ơi, có phải trái dưa này “tẩm” phân người?”. Anh bạn gắt nhẹ: “Đã bảo, bác cứ ăn đi, không chết đâu mà sợ!”. Nghe anh bạn nói, tôi biết mình đã lỡ ăn rồi (hơn nữa cũng tại đói) nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa chuột còn lại. Nguyên do thế này. Trong vườn ươm giống của đội trồng rau có một dàn dưa chuột. Khi dưa mới kết trái to hơn ngón tay đã bị tù (và cả cai tù) hái trộm ăn hết nên ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân tươi của người hòa với nước rồi hàng ngày quết vào những trái dưa chuột cho hết bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi rửa sơ qua. Thế là lần thứ nhất tôi ăn phân người. Lần thứ hai thì chính do tôi (và mấy ông bạn) chủ động ăn phân người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn phân cầu tiêu các phòng giam. Một số anh em tù hình sự ra ngoài đồng làm việc đã hái và ăn tươi nuốt sống các trái bắp. Vì ăn trộm nên không kịp nhai (sợ cai tù thấy) các bạn tù hình sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ dầy không tiêu nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc đầu còn sợ bẩn sợ hôi và bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”, chúng tôi đi tới việc lấy những hạt bắp này đem ra suối rửa, luộc hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon lành thoải mái! Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké. Tôi được “ấm bụng” ít ngày thì bị “ngưng công tác” (vì tin đài Voa loan?). Đó là hai dấu ấn khủng khiếp trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn không khỏi rùng mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể “ghê gớm” đến thế!.

Còn một chuyện nhỏ nữa mà tôi cũng khó quên. Tôi vốn bị quy kết “học tập cải tạo” xấu, tư tưởng không ổn định và trây lười lao động nên thường xuyên bị ăn 13 ký một tháng (5 ký gạo, 8 ký khoai mì – nhưng bọn cai tù và bọn nhà bếp đồng lõa ăn chặn mất 2 ký gạo nên chỉ còn 3 ký). Trong 7 năm sống ở trại Gia Trung tôi được gia đình “thăm nuôi” có 3 lần. Đáng nhớ nhất là lần 2 con tôi (còn vị thành niên: một trai 15 tuổi và một gái 13 tuổi) đi xe đò hơn ngàn cây số lên thăm Bố với gói quà khoảng 10 ký. Khi đến cây số 25 (quốc lộ 18) thì xuống xe, lúc đó là 2 giờ đêm. Trời rất lạnh lại ở chốn rừng thưa hoang vắng không biết đường vào trại, hai anh em phải ngồi dựa lưng vào nhau chờ sáng trong lòng vừa sợ vừa lo mọi thứ, nhất là với thú dữ và kẻ cướp.

Sáng hôm sau tôi được gọi thăm nuôi. Tôi cố làm nét mặt lạnh lùng vô cảm để tránh trận nước mắt của hai con tôi khi nhìn thấy thân thể tiều tụy mòn mỏi hết sinh lực của bố chúng. Như đã viết ở trên vì tôi học tập cải tạo xấu lao động kém nên chỉ được nhận 2 ký đồ thăm nuôi. Tôi nhìn thấy một gói bột trắng khoảng 1 ký, tôi tưởng là bột gạo hoặc bột sữa nên lấy gói này và 1 gói xả xào mắm ruốc vừa đủ 2 ký. Hai con tôi đứng trước cửa nhà thăm nuôi nhìn theo, tôi biết chúng đang khóc nhưng không đủ can đảm quay lại nhìn: tôi sợ không cầm được nước mắt và òa khóc. Tôi nghe tiếng con gái tôi nói trong nước mắt: “Bố ráng giừ gìn sức khỏe để còn sống trở về với các con”. Vào tới buồng tôi mở ngay gói bột ra pha nước vào cái tô nhựa và ngoắng cho tan bột. Bột bị ngoắng sủi bọt lên trắng xoá. Đang đói đang khát tôi đưa lên miệng uống liền một ngụm lớn. Nhưng chất bột vừa trôi vào cổ họng, thấm vào lưỡi đắng chát và nóng rát, không có mùi vị gì có thể gọi là sữa cả, dù là sữa quá “đát”, tôi muốn nôn ọe vội nhổ ra ngay. Thì ra đó là sà bông bột (mà tôi cứ đinh ninh là bột gạo hay bột sữa). Kể lại cho anh em trong trại nghe ai cũng ôm bụng cười. Hai con tôi thật ngây thơ đem sà bông bột cho tù giặt quần áo! Sau này tù về tôi mới biết hai con tôi cũng vô cùng khốn khổ trong chuyến về này. Vì xe đò hết chỗ chật cứng, chủ xe bảo hai con tôi muốn đi thì lên mui xe mà “nằm”. Bát đắc dĩ chúng phải làm theo. Mấy lần suýt chết khi xe chạy qua nhưng cái “cầu” thấp nhỏ bắc ngang đường, chỉ sơ sẩy một chút là bị vướng gạt ngã xuống đường chỉ có chết, nếu không thì cũng vỡ đầu gẫy chân tay.

Đầu năm 1985 tôi bất thần được gọi tên tha về cùng một số anh em quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các anh mừng cho tôi thì ít, lo lắng chán nản thất vọng cho mình thì nhiều. Viên quản giáo trở nên tử tế với tôi, gã chạy vào phòng nói: “Mừng cho anh nhé. Có thuốc men gì cho tớ xin”. Tôi cho gã mấy viên thuốc cảm, gã đòi lấy hết nhưng tôi không cho để cho anh em tù nghèo không thăm nuôi.

Trại tù phát cho chúng tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi giá xe về Saigon 150 đồng. Đi bộ từ trại tù ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số. Chúng tôi phải nài nỉ mãi bà chủ xe đò mới “thông cảm” lấy 50 đồng. Xe đày nhóc người ì ạch chạy như rùa bò trên con đường vòng vèo dốc núi cheo leo đầy bất trắc, nguy hiểm. Tôi và ba anh tù đi cùng chuyến xe không một đồng bạc dính túi, phải nhịn đói nhịn khát hai ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Saigon. Một anh có “sáng kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi tha, gạ bán cho mấy người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối vì ai cũng sợ xui khi mặc đồ tù.

Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm thì “phong trào HO” nở rộ và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca ngợi công đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi vì nghèo, tiền ăn không có lấy đâu ra vàng đút lót hối lộ để được đi HO. Nhưng nghe theo lời các bạn đồng nghiệp cũ may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về khuyên tôi cứ đến đường Nguyễn Du nộp đơn kèm theo những giấy tờ can thiệp (từ trước tới nay) của các tổ chức như Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Đoàn Ký Giả Quốc Tế, Hội Nhân Quyền…v…v…Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê hương đất nước mình. Nhưng tới cuối năm 1998 tôi được anh bạn nhà văn Hoàng Hải Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi và Nhà văn Uyên Thao được bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã tận tình can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để chúng tôi được sang Mỹ định cư. Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới thiệu hai chúng tôi với bà Khúc Minh Thơ và cộng tác mật thiết với bà trong công việc vận động. Con đường hy vọng, con đường sống, lại mở rộng trước mắt tôi.

Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giã biệt quê hương tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống lại dưới bầu trời tự do dân chủ như tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều đêm vẫn giật mình thức giấc vì những ám ảnh não nề thê thảm khốn cùng của những năm tháng tù đầy. 

.
Thanh Thương Hoàng

Mặt Trận Phan Rang Tháng 03 /1975 .

Hồi ức của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang

Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đê bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ngòi chờ viện binh. Mãi đến ngăy 16.4.1975, khi tung ra toàn lực âp đảo, chúng mới vào được Phan Rang.

      Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, thì căn cứ Phan Rang đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt.

      Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:

      Giai đoạn thứ nhứt từ ngày1 đến 3.4.1975, là giai đoạn hình thành tuyến phòng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân còn lại.

      Sư đoàn 6 Không quân gồm:

– 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548

– 1 Phi đội A-1

– 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C

– 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235

      Lữ đoàn 3 Dù gồm:

– Bộ chỉ huy

– Tiểu đoàn 5

      Giai đoạn thứ hai từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến phòng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.

      Lử đoàn 2 Dù gồm:

– 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11

– 1 Tiểu đoàn Pháo binh

– Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận

      Giai đoạn thứ ba từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:

      Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm:

– 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.

      Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:

– Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật

      Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:

– 2 Trung đoàn 4 và 5

– 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly

– 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc

      Lực lượng Hải quân gồm:

– Duyên đoàn 27

– 2 Khu trục hạm

– 1 Giang pháo hạm

– 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ

      Trong 2 ngăy 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và phòng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đã có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.

      Lực lượng địch:

      Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ngòi chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)

I. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ 

      Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quđn canh gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô đơn.

      Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc phòng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác vòng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra tình trạng bung chạy, vì quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.

      Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu tình hình mới, chấp nhận thực trạng và hết mình nổ lực chiến đấu vì nhu cầu phòng thủ.

      Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình hình. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.

      Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.

      Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”

      Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.

      Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn còn rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt bình thường.

      Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đã sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.

      Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đã bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.

      Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.

      Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.

      Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như bình thường, bởi cảng Cam Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi.

      Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.

      Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lý Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.

II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG 

      Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba Ngòi chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường mòn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)

      Thị xã và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xã, mặt đất bằng phẳng.

      Phi trường Phan Rang rất rộng, hình vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc phòng thủ bao gồm 60 chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch.

      Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ.

      Vì địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm:

      ” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn còn lại.”

      Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được. Đó là:

      Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.

      Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.

      Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.

      Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc trình diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng còn nấp chờ chi viện.

      Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Tòa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về tòa đại sứ.

      Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.

      Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đã có sự bình thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về.

      Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đã xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.

      Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.

      Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân.

      Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.

      Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xã đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.

      Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, vì ngở Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm thấy bộ đồ bay của Trung úy Lý Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, còn để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lý Tống là người đã thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)

      Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.

      Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đã được cấp tốc thi hành, và Trung đã không bay qua đây.

      Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đã thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.

      Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Võ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm kiếm và chở về các toán còn kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.

      Trong thị xã, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại bình thường, tạo nhiều phấn khởi.

      Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.

      Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc phòng thủ Phan Rang.

      Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.

      Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, thì được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.

      Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy còn hoang mang, dao động. Vì chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.

      Bộ Tổng tham mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.

      Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân vă còn đang chờ đợi bổ sung quân số.

      Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được những đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang.

III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH

      Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến phòng thủ Phan Rang.

      Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Phòng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt.

      Tướng Times của Tòa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Tòa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.

      Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.

      Tiếc thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.

      Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, thì Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân thì chạm súng với các toán thăm dò của địch.

      Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.

      Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.

      Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ và đã bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.

      Thị xả được phòng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân còn lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự.

      Cũng để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.

      Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đã xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng võ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.

      Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc phòng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây.

      Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm dò của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. .

      Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.

      Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.

      Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua phòng tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đã ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530.

      Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.

      Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là vì đã 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)

      Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi phòng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.

      Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đã vào thị xã khiến cho Trung tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh Văn phòng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét tình hình. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị mình.

      Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xả, thì bên trong căn cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đã rời căn cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản thương ở lại đến phút chót.

      Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.

      Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét tình hình. Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.

      Khoảng 10,30 giờ sáng, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương thì Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Tòa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.

      Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.

      Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống bãi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng vì Trung tướng Nghi không thuận cho đáp vì lý do an toàn bãi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)

      Tiểu đoàn 11 Dù còn lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn.

      Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đã đóng làm nút chận tại đây rồi,

      Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, thì Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.

      Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể vì mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.

      Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị chìm và mộït chiến hạm bị pháo.

      Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung tướng Nghi quyết định vì sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.

      Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.

IV. KẾT LUẬN

      Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đã khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.

      Địa phương quđn và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo sứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.

      Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy còn hoang mang, dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự.

      Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.

      Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

      Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.

      Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quâ lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.

      Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.

Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002 

Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang 

Truyện ngắn ‘CHIỀU TIỄN BIỆT’

ĐIỆP MỸ LINH

Trong buổi lễ ra trường của Phúc, tại đại học Rice, Trí nghiêng sang, nói nhỏ với Paul, bằng tiếng Anh:
 -Con gắng học giỏi như anh Phúc. Okay!
Paul nhìn Trí, cười rồi nghiêng đầu vào Quỳnh – Mẹ của Paul. Trí kéo Paul về phía chàng, xoa tóc con và nhớ lại mẫu chuyện rất dễ thương vào một sáng cuối tuần, khi Trí đang vừa đọc báo vừa ăn sáng. Bất ngờ Phúc đến bên Trí, giọng buồn buồn:
-Dad! I know you don’t like me as much as you like Paul!
-Who told you that?
Phúc phát âm nửa Tây nửa Ta; vì Phúc học trường Notre Dame Des Missions từ bé:
-Nobody. I know. You don’t like me because you don’t… “đẻ” me!
Trước nhận xét quá bất ngờ của Phúc, Trí có vẻ lúng túng, cũng đáp nửa Tây nửa Ta:
-I don’t “đẻ” Paul either!
-Really?
-That’s truth! Women can “đẻ”, men can’t.
-Then, how come you like Paul more than you like me?
Trí xúc động, ôm Phúc:
-I do love you, Phúc!
Dòng hồi tưởng vừa đến đây, Trí chợt nghe tiếng vỗ tay và tiếng reo hò của phụ huynh tham dự lễ ra trường. Thấy Quỳnh và Paul đều cười và đưa cao tay vẫy vẫy, Trí nhìn về khu vực dành cho sinh viên tốt nghiệp, thấy Phúc đang tươi cười bước về phía sân khấu để nhận văn bằng. Trí đưa hai tay vẫy vẫy, lòng cũng vui lây.
Như đã hẹn trước, sau khi lễ ra trường chấm dứt, gia đình Trí rời hội trường, đợi Phúc nơi gốc cây sồi. Chỉ một chốc sau, Phúc xuất hiện và cùng gia đình đến nhà hàng dùng cơm chiều.
Đợi Trí và Quỳnh gọi thức ăn xong, Phúc đứng lên, với thái độ rất trịnh trọng, trao cho Trí một bì thư. Hơi ngạc nhiên, Trí nhìn bì thư và thấy “To my W.B.D”. Trí hoang mang:
 -W.B.D. là gì, Phúc?
  -Dạ, là The World’s Best Daddy!
Xúc động vô ngần, Trí ôm Phúc thật lâu và cảm nhận được tình cảm của chàng lúc này cũng dạt dào không kém chi ngày trước, lúc chàng ôm Phúc, sau khi Phúc bảo rằng “you don’t… ‘đẻ’ me”. Đợi Trí nới lỏng vòng tay, Quỳnh cũng ôm Phúc, lòng thầm tạ ơn bà Bửu – bà Nội của Phúc – đã hy sinh và sáng suốt cho nên đứa con côi cút của nàng mới có ngày hôm nay!
Trong khi Trí, Phúc và Paul vừa ăn vừa líu lo chuyện trò, Quỳnh lại bồi hồi nhớ lại lời bà Bửu kể về những ngày đầu tiên, sau khi cộng sản Việt Nam (csVN) cưỡng chiếm miền Nam.
Trước khi csVN chiếm Saigon, Phú bị thương nhẹ trong phi vụ yểm trợ Thủy Quân Lục Chiến tại Vùng I Chiến Thuật, được đưa về điều trị tại bệnh viện Duy Tân, Đà Nẵng. Quỳnh đem Phúc ra Đà Nẵng thăm nuôi Phú rồi bị kẹt lại; chỉ có bà Bửu và bà Hai giúp việc ở nhà, tại Tân Định.
 Ngày 5 tháng 5, 1975, một tên quàng khăn đỏ dẫn sáu tên Việt cộng trang bị súng AK, đẩy cổng, bước vào sân. Thấy mấy gương mặt đằng đằng sát khí, bà Hai không dám mở cửa. Cả bọn phá cửa, ùa vào, vừa lục tung mọi thứ vừa quát:
-Thằng Phú đâu, ra đền tội trước nhân dân!
Bà Bửu khóc, đáp:
-Kẹt ngoài Đà Nẵng rồi!
Cả bọn vừa nạy các chấu điện vừa bảo nhau:
-Các đồng chí khám thật kỹ, nhé! Thế nào bọn C.I.A. cũng cài máy trong mấy cái ổ này để nghe ‘nén’ đấy!
Nhận ra sự ngu dốt, đần độn của “bộ đội ông Hồ”, bà Bửu và bà Hai nhìn nhau, hết khóc! Một tên bảo:
-Hai bà già! ‘Nấy’ quần áo rồi đi ra khỏi nhà ngay!
Hai bà lại khóc, van xin, nhưng bị một tên csVN nạt:
-Van xin gì nữa! Thằng Phú có nợ máu với nhân dân, nhà này ‘nà’ nhà của nhân dân! Đảng và nhà nước tha tội chết cho hai bà “nà” may dzồi! Cút ngay!
Một tên lấy giỏ đi chợ vất về phía hai bà, bảo:
-Cho áo quần vào đây rồi xéo đi! Không được ‘nấy’ bất cứ thứ gì khác, nghe chưa?
Trong khi hai người đàn bà khốn khổ vừa khóc vừa lấy quần áo cho vào giỏ đi chợ thì cả bọn khệ nệ khiêng TV, tủ lạnh, máy nghe nhạc, radio, tủ quần áo, v.v… để ngay giữa nhà! Một tên xách thùng đàn Accordéon, cảm thấy nặng, vội để xuống, mở ra. Thấy cây đàn màu đỏ, tên này gọi cả nhóm đến xem “vật quái quỉ” gì mà “nạ” kỳ thế này! Săm soi một lúc cũng vẫn không biết đấy là vật gì, một tên chửi thề:
-Đ. Biết! Hai bà già kia, ‘nại’ đây!
Hai bà khúm núm bước đến. Tên csVN hất hàm:
-Cái này “nà” cái quái quỷ gì, hả?
Bà Bửu đáp:
-Tôi có biết mô. Tôi chỉ thấy con dâu của tôi thường ôm, kéo ra, đẩy vào, nghe hay lắm.
Cả bọn cười lớn. Một tên bảo:
-Cho hai bà già đem cái của nợ này theo đấy! Bọn “Ngụy” phải học văn hóa và nếp sống văn minh của “bác” và đảng thì chúng nó mới giác ngộ được! Chúng nó bị bọn đế quốc Mỹ đầu độc đến ngu xuẩn và mù quáng, tin rằng cái “vật quái quỷ” như thế này “nại” phát ra tiếng nghe hay “nắm”!”
Vừa rời nhà của Phú, bà Hai đề nghị bà Bửu đến ở tạm nhà người con của Bà Hai.
Sau khi Phú – cũng như tất cả thương bệnh binh tại quân y viện Duy Tân, Đà Nẵng – bị đuổi ra khỏi bệnh viện, cùng Quỳnh và Phúc theo đoàn người di tản từ Đà Nẵng về Saigon. Tìm bà Bửu và bà Hai không ra, Quỳnh chợt nhớ đến người con của bà Hai. Vợ chồng Quỳnh đến nhà người con của bà Hai để tìm tin tức của bà Bửu. Bà Hai và vợ chồng người con cho Phú cùng vợ con tá túc cho đến khi bọn quàng khăn đỏ chỉ điểm, bộ đội csVN đến bắt Phú, giam tại A-30!…
Vừa nhớ đến đây, Quỳnh chợt nghe tiếng của Trí:
-Ăn đi, em!
Quỳnh âu yếm nhìn Trí, nói nhỏ:
-Em cảm ơn anh đã giúp em nuôi dạy Phúc thành thân và thành nhân.
Trí nhìn Quỳnh với ánh mắt tràn ngập thương yêu – dù đôi khi Trí cũng ghen thầm vì nghĩ rằng, có thể Quỳnh cũng “Vẫn giấu trong tim bóng một người!” (1).
Rời nhà hàng, Phúc cho xe chạy trên con đường rợp bóng cây sồi. Khi xe vào xa lộ, nhìn hai dòng xe xuôi ngược, không thể nào Quỳnh không liên tưởng đến chuyến xe đò ì ạch lúc nàng và Phúc theo bà Bửu đến trại tù A-30 thăm Phú. Ngoài mấy món thức ăn nghèo nàn trong “thời bao cấp”, nàng còn ôm trong lòng niềm nhớ thương vô vàn!
Trong khi ngồi chờ tại lều thăm nuôi, Quỳnh cảm biết có người cố ý đá nhẹ vào chân nàng hai lần. Xoay sang, Quỳnh nhận ra một người tù gầy nhom ngồi gần, vừa hết giờ thăm nuôi, đang bịn rịn giã từ vợ con. Người tù nhìn Quỳnh, nháy mắt nhiều lần. Ra tới cửa lều thăm nuôi, người tù quay lui, kín đáo nhìn Quỳnh, vừa nháy mắt làm hiệu vừa đi về hướng nhà vệ sinh. Cảm biết có điều gì rất quan trọng trong ánh mắt của người tù, Quỳnh xin phép quản giáo để đi nhà vệ sinh.
Đến gần nhà vệ sinh, Quỳnh thấy người tù bước vào; chỉ thoáng chốc, người tù đi ra. Đi ngang nàng, người tù cúi mặt, nói nhỏ:
-Tới phiên chị dùng nhà vệ sinh đó.
Quỳnh bước vào và thấy nơi kẻ hở một mảnh giấy nhỏ xíu: “Nếu chị chờ thăm anh Phú F5 thì anh Phú đã vượt ngục, bị bắn chết rồi!”
Quỳnh và Phúc trở nên điên loạn, gào khóc đến khan tiếng! Bà Bửu vừa khóc vừa khuyên nàng:
-Hãy nghĩ đến thằng Phúc mà gắng sống, con ơi!
Trở về nhà người con của bà Hai, bà Bửu bảo Quỳnh đem cây đàn Accordéon bán, lấy tiền, tìm mối vượt biển để tìm tương lai cho Phúc; vì người em trai độc thân của Phú đã tử trận, bà Bửu ngại không ai “nối dõi” tông đường! Nàng đề nghị bà Bửu cùng vượt biển. Bà bảo Bà đã có tuổi, lại không biết tiếng Pháp tiếng Anh, sang bên đó chỉ trở thành gánh nặng cho nàng.
Để đền ơn người Mẹ chồng nhân từ và nghĩa cử của bà Hai, từ trại tỵ nạn, Quỳnh viết thư về, hứa sau khi định cư, bằng mọi cách, nàng sẽ gửi tiền về giúp bà Bửu, bà Hai và gia đình người con tốt bụng của bà Hai.
Đêm trước khi được đi định cư tại Hoa Kỳ, Quỳnh tình nguyện tham gia buổi văn nghệ trong trại tỵ nạn tại Thái Lan. 
Giữa khung trời xa lạ và chỉ với tiếng Acoustic Guitar không được nhuần nhuyển của Trí, mọi người tỵ nạn tại đây dường như bị chi phối hoàn toàn vì tiếng hát ray rức của Quỳnh:
“Biệt ly nhớ nhung từ đây!…
réo rắt trong muôn hương mơ,
thành sầu tiễn đưa…” (2)
Trong khi khán giả chìm đắm vào dòng Slow tha thiết thì lời ca ướt lệ lại dẫn dắt tâm hồn của Quỳnh trở về vùng không gian dấu yêu mà nàng phải lìa xa!
“… Biệt ly sóng trên giòng sông.
Ôi! còi tàu như xé đôi lòng…
Ðến nay bóng anh mờ khuất.
Người về u buồn khắp trời.
Người ra đi với muôn ngàn nhớ thương…” (3).
Theo tiếng hát nghẹn ngào của chính nàng, Quỳnh tưởng như có thể thấy lại ánh mắt bịn rịn của Phú mỗi khi Phú giã từ nàng tại ga xe lửa Nha Trang để trở lại đơn vị. Xe lửa rời nhà ga, nàng nhìn theo, vẫn thấy Phú vẫy tay và cố chồm người ra cửa sổ, nhìn lui…Nhớ đến đây, mủi lòng quá, nàng vừa hát vừa khóc!
Trong khi Quỳnh khóc vì thương nhớ người xưa thì Trí – người đã ngầm để ý Quỳnh ngay khi nàng tình nguyện làm thông dịch viên, phụ với Trí lo giúp đỡ văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn trong việc lập hồ sơ, lo thủ tục nhập và xuất trại cho người tỵ nạn – lại nghĩ nàng khóc vì buồn cho thân phận đơn chiếc của Mẹ con nàng trước một tương lai vô định!
Thân phận của Quỳnh ít ra còn được có Phúc; riêng Trí, sự đơn chiếc của Trí lại mang nặng nỗi đau thương; bởi vợ con của chàng đã chết vì đạn của công an biên phòng csVN tại cửa Tiểu! Vì vậy, khi cùng làm việc với nhau, Trí không thể giấu tình cảm của chàng dành cho Quỳnh.
Hát xong, Quỳnh lặng lẽ rời buổi văn nghệ, lang thang dọc bờ biển đầy rong rêu và đá cuội. Đến bên phiến đá phẳng, nàng ngồi xuống, hướng ánh mắt nhìn về cố hương – nơi còn lịm kín nguyên nhân cái chết đầy oan khuất của Phú!
Giữa lúc tâm hồn Quỳnh chùng thấp, Trí xuất hiện. Để nàng khỏi sợ hãi, từ xa, Trí gọi tên nàng. Nhận ra giọng của Trí, nàng yên tâm. Trí ngồi đối diện với Quỳnh. Sau một thoáng đắn đo, Trí nói:
-Thấy Quỳnh vừa hát vừa khóc anh chịu không được! Khi thấy Quỳnh lẽn ra sau sân khấu, anh không yên tâm. Sorry, nếu anh làm phiền Quỳnh. Nhưng quả thật anh không yên lòng khi thấy Quỳnh ngồi bơ vơ trên phiến đá này! Cháu Phúc đâu?
-Dạ, tôi gửi cháu ngồi xem văn nghệ chung với vợ chồng người quen.
-Quỳnh có biết rằng anh rất ái ngại cho hoàn cảnh đơn chiếc của Quỳnh hay không?
Thời gian cùng làm việc với nhau, mỗi khi vắng người, Quỳnh cứ nghe Trí “ngân nga” nho nhỏ: “Nhìn em, nhìn em giây phút, muốn nói yêu em…” (4) nàng đã nghi rồi. Bây giờ nghe giọng nói rất thành thật của Trí, Quỳnh xúc động nhiều. Sau khi Quỳnh tâm sự với Trí về mối tình đầu với Phú, nỗi oan khuất về cái chết của Phú và sự lo sợ của nàng trước một tương lai đầy bất trắc, Trí nói rất thật lòng:
-Anh muốn được cùng chia xẻ những bất trắc trong đời với Quỳnh. Quỳnh có cho phép anh không?
Quỳnh lại khóc. Trí để tay lên vai nàng…


Sau khi trốn khỏi trại A-30, Phú được một thuộc cấp cũ cho tá túc và giúp lo giấy tờ mang tên giả để vượt biên bằng đường bộ. Nhưng, Phú bị bắt lại, gần biên giới Việt Miên.
Suốt thời gian dài bị tù, ngại Mẹ và vợ con bị liên lụy, Phú vẫn cứ khai gia đình di tản hết, không còn ai là người thân ở Việt Nam. Đến lúc bị kiết lỵ, tưởng chết, Phú muốn gặp Mẹ và vợ con lần cuối, vội nhờ bạn tù nhắn tin về cho bà Bửu và Quỳnh.
Khi được bà Bửu thăm nuôi và đem những loại thuốc lặt vặt do Quỳnh gửi về, Phú mới được Mẹ cho hay về việc Mẹ và vợ đã được tin Phú vượt ngục, bị bắn chết và những gì xảy ra cho Quỳnh và Phúc sau đó. Thấy Mẹ ngưng nói và khóc, Phú khó hiểu:
-Quỳnh là một phụ nữ tốt, có nhân nghĩa; vậy thì tại sao Mạ lại khóc?
-Câu chuyện sẽ đẹp vô cùng nếu Mạ và Quỳnh biết được tin con còn sống sớm hơn!
-Quỳnh có chồng khác, phải không, Mạ?
Im lặng. Phú cố nén tiếng thở dài:
-Mạ đừng nên trách Quỳnh, vì Quỳnh đã được tin con chết rồi! Vả lại, Quỳnh còn quá trẻ và đẹp, làm thế nào Quỳnh có thể chịu đựng được sự cô đơn và sự cám dỗ của đàn ông! Một mình nơi xứ lạ quê người, lại thêm đứa con dại, Quỳnh cần một người đàn ông để nương tựa, Mạ à!
Tuy nói như vậy, nhưng, sau khi bệnh thuyên giảm, mỗi chiều, sau giờ ăn, bạn tù thường nghe Phú “ngân nga” những câu não lòng:

“…Dù mai đây ai đưa em đi đến cuối cuộc đời.
Dù cho em, em đang tâm xé, xé nát tim tôi.
Dù có ước, có ước ngàn lời,
Có trách một đời cũng đã muộn rồi!
Quỳnh ơi! dù sao đi nữa anh vẫn yêu em…” (5).
Một buổi chiều, không biết có điều gì “bức xúc”, vừa nghe Phú “ngân nga” đến đây, Cúc – “cán bộ gái” của trại tù – vừa bước nhanh về hướng phát ra tiếng hát vừa lầm bầm: “Địt mẹ! Sao cứ sau giờ cơm chiều ‘nà’  nó hát tới hát ‘nui’ bài này thế, nhỉ!”. Tới cửa trại D, thấy một người tù đang xin vệ binh cho đi nhà vệ sinh, Cúc hỏi:
-Này, anh kia! Anh có biết thằng nào mà cứ đến giờ này “nà” nó “rên rỉ” cái bài gì mà buồn đ. chịu được hay không?
-Đó là anh Phú.
-Trong trại này có mấy thằng tên Phú, ai biết Phú đấy “nà” Phú “lào”!
-Anh Phú F5 đó.
-Thế thì biết rồi. Cái thằng cao to, đẹp “giai” thế mà hát cứ như thằng thất tình!
Vừa đáp Cúc vừa quay đi, thầm nghĩ, sẽ tìm cơ hội làm quen với Phú.
Cơ hội đến vào một buổi chiều, khi đoàn tù lao động trở về, đi ngang nơi Cúc ngụ. Cúc bước ra, gọi:
-Anh Phú F5! Vào đây giúp hộ tôi cái này.
Phú bước vào nơi cư ngụ của Cúc:
-Cán bộ cần tôi về việc gì?
-Anh ngồi đi.
Cúc ngồi vào ghế đối diện, hỏi:
-Anh có tâm sự buồn, phải không?
-Có ai ở tù mà vui đâu!
-Thôi, chuyện tù, từ từ mình giải quyết. Em tên Cúc. Anh gọi tên em cho thân mật, nhá!
Im lặng. Cúc tiếp:
-Em muốn giúp anh, đề nghị ban quản giáo cho anh về đội rau cải hoặc vào đội hậu cần.

  • “Cách mạng”, kết tội tôi là một tên “Ngụy” có “nợ máu với nhân dân”, là “nhất Pháo, nhì Phi”; bây giờ thêm tội vượt biên đường bộ, tại sao cán bộ lại tử tế với tôi?
    -Nói thật với anh, mấy hôm nay nghe anh ca cái gì mà “… Dù có ước…Quỳnh ơi! Dù sao đi nữa xin vẫn yêu em…” em … chịu không được! Em có cảm tình với anh. Em muốn giúp anh khỏi đi “nao” động. Từ từ em sẽ đề nghị ban quản giáo thành “nập” đội văn nghệ, giao cho anh phụ trách, nhá!
    -Cảm ơn cán bộ.
    Cúc bước qua, lã lơi choàng tay lên vai Phú:
    -Ấy, “nại” cán bộ! Gọi Cúc đi nào!
    Phú cười khẩy, tìm lý do từ giã Cúc.

Đang trong tình trạng lúc tỉnh lúc mê tại bệnh viện Chợ Rẫy, nhưng Phú vẫn cảm nhận được có người cầm tay chàng. Thu hết tàn lực, Phú cố mở mắt và thấy một phụ nữ vừa khóc tức tưởi vừa cầm tay chàng. Nhờ tấm ảnh gia đình chụp hôm lễ ra trường của Phúc – do Phúc gửi về biếu bà Bửu – Phú nhận ra Quỳnh ngay. Sau vài câu thăm hỏi ngắn ngủi, Phú thều thào:
 -Anh vô cùng biết ơn Quỳnh đã gửi tiền về giúp Mạ trong thời gian anh bị tù đày. Sau đó, khi hay tin anh được tha vể với chứng bệnh nan y, Quỳnh, không những gửi tiền về giúp anh chữa bệnh mà Quỳnh còn khuyến khích và thúc đẩy Phúc bảo lãnh anh sang Mỹ chữa bệnh!
Vừa nhắc đến Phúc, Phú chợt tỉnh hẳn, tiếp:
-Phúc có về với Quỳnh không?
Quỳnh mở cửa, gọi Phúc vào. Thấy một thanh niên cao lớn, đôi mắt sáng, gương mặt trông rất trí thức bước vào, Phú nhận ra ngay:
 -Phúc! Ba cảm ơn con. Sau khi hay tin Ba bệnh và được thả về con đã thường xuyên điện thoại thăm Ba. Con và Mommy gửi tiền về nuôi bà Nội và giúp Ba chữa bệnh.
 -It’s okay, Ba! Con sẽ chung lời cầu nguyện với Bà Nội, với Mommy, với Daddy, và với Paul để xin Ơn Trên cho Ba được lành bệnh.
 -Không làm gì được nữa rồi, con à! Bác sĩ đã cho Ba và bà Nội biết rồi! Ba cũng đã tự biết căn bệnh quái ác của Ba, cho nên, ngay từ đầu, Ba đã từ chối đề nghị của con bảo lãnh Ba sang Mỹ để chữa bệnh; dù Bà Nội cứ khóc lóc, năn nỉ và giải thích rằng nếu trước khi chết mà Ba thấy được mặt đứa con duy nhất của Ba thì đó cũng là điều an ủi! Nhưng bây giờ Ba thấy con rồi. Ba rất mãn nguyện và hãnh diện về con.
 Quỳnh hỏi Phú:
 -Anh thấy Phúc giống anh như “hai giọt nước” hay không?
 Phú cố mỉm nụ cười méo xẹo rồi hỏi Quỳnh:
 -Anh Trí có về không, Quỳnh?
-Dạ có, đang đứng bên ngoài với Mạ và Paul.
 -Cho anh gặp anh Trí.
 Quỳnh lúng túng, hỏi ý kiến Phúc. Phúc nhún vai:
 -Ba muốn thì làm theo ý Ba.
 Trí bước vào, khom xuống, cầm tay Phú. Phú nhìn Trí, thều thào:
 -Xin hết lòng đa tạ tình thương và sự dạy bảo quý hóa mà anh đã dành cho Phúc. Phúc đã điện thoại về tâm sự với tôi rất nhiều. Lúc nào Phúc cũng biết ơn Daddy đã thay thế Ba, nuôi dạy Phúc nên người.
 -Anh đừng nghĩ ngợi gì cả. Phúc rất ngoan, đó là công lao dạy bảo của Quỳnh.
 Trí để tay lên vai Phúc:
 -Can đảm lên, Phúc!
 -Cảm ơn Daddy. I’m okay.
 -Daddy có thể thấy, con không okay! Con phải có nghị lực thì con mới có thể giúp bà Nội và Mommy vượt qua tình cảnh này!
 -Con hiểu. Cảm ơn Daddy.
 Phú lại từ từ “chìm” vào hôn mê!
 Nhìn khuôn mặt điễn trai của Phú ngày nào, giờ đây chỉ còn đôi mắt lộ, hai gò má tóp vào, miệng hô, trán vồ và hơi thở thều thào, Quỳnh lại cầm tay Phú, lòng thầm tạ lỗi với người xưa! Trí và Phúc lặng lẽ bước ra ngoài, dành giây phút riêng tư cho Quỳnh.
Quỳnh ngẫng lên, nhìn qua khung cửa sổ vừa khi một chiếc phi cơ bay ngang. Chiếc phi cơ gợi lại trong hồn nàng bóng dáng người em trai duy nhất của Phú – phi công khu trục  – bị csVN dùng hỏa tiễn tầm nhiệt của Nga, bắn hạ vào Mùa Hè Đỏ Lửa, 1972!
Ngày đó, khi được tin em của Phú bị bắn hạ, bà Bửu vật vã khổ đau! Phú im lặng. Nhưng tối đến, Phú lên sân thượng, gục đầu, gào lớn:
“Mẹ đón con về cuối đường bay
Mờ trong sương khói dáng con gầy
Nợ nước tình nhà con đền đáp
Nghìn thu yên giấc hãy ngủ say!…” (6)
Hôm nay, Phú đang giữa bờ tử sinh thì Quỳnh khóc sướt mướt; vì thấy Phú phải nằm cùng giường, nhưng ngược đầu, với một bệnh nhân khác. Chiếc giường Phú nằm lại chen chúc với nhiều chiếc giường khác trong căn phòng hôi hám và nhiều ruồi bọ!
Không chịu được cảnh đau lòng, Quỳnh đi ra ngoài, vừa quẹt nước mắt vừa bước chầm chậm dọc hành lang. Nhìn bầu trời xam xám của một buổi chiều cuối Đông, Quỳnh chợt thầm ước được thấy lại những chuyến bay thực tập của Phú trong khung trời cũ, khi Phú thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang.
 Vào lúc tâm hồn Quỳnh giao động nhiều nhất, tiếng hát thơ dại của nàng ngày xưa vọng về:
“…Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây,
đã bay cao trong vòm trời này…
Nơi đây một lần, nhìn anh đến
những xót xa đành nói cùng hư không!…” (7).


ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/

1.- Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.Kh.
2 và 3.- Biệt Ly của Dzoãn Mẫn
4 và 5.- Niệm Khúc Cuối của Ngô Thụy Miên
6.- Tiễn Nhau Ngàn Dặm Cũng Chia Phôi của Firebird 24
7.- Hát Cho Người Nằm Xuống của Trịnh Công Sơn