Quân Đoàn 2 và Thiếu Tường Phạm văn Phú

Đây là góc độ đứng nhìn của người trong cuộc chiến, không có quyền phê bình hay đổ thừa cho một vị Tướng lãnh nào. Viết để chia sẻ những mất mát to lớn mà các bạn đồng ngủ và gia đình phải gánh chịu trong trận chiến vừa qua. Hình đầu là Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2

1- Thứ nhất là bị trói tay, không cho đánh. Một ý nghỉ rất đơn sơ là chận đèo Hải Vân, độc đạo duy nhất từ Bắc muốn vào Nam. Nếu không có quân Bắc Việt vào thì du kích không thể nào thắng nổi QLVNCH. Đường mòn Trường Sơn phải di chuyển xa và lâu hơn. Trong khi đó thì quân bạn mới rút lui an toàn ít bị tổn thất nhờ yểm trợ của phi cơ và pháo binh.

Một trái bom MK82 thả ra ở Long Khánh mà cầm chân VC được 12 ngày, co nơi loan bao chết cả sư Đoàn 10 ngàn. Trong lúc đó kho Đà Nẳng còn vai trăm trái( Mà không cho ngòi nổ) thì có phải bị trói tay hay không ?

2- Buổi họp ngày 13-3-75 là quyết định bỏ vùng 1 và 2 do TT Thiệu và Đ. Tướng Cao văn Viên quyết định chiến dịch Triệt Thoài Cao Nguyên…khiến cả 2 Tư Lệnh Vùng 1 là Ngô Quang Trưởng và Vùng 2 là Phạm văn Phú bất bình nên cả 2 sinh bệnh ? Thứ nhất là lệnh đã ra thì phải cho thời hạn. Bất ngờ thay đổi trong khi khả năng còn chiến đấu….thì làm cho hoang mang rối loạn tinh thần Binh Sĩ nhất là gia đình của họ chưa kịp sắp xếp. Từ đó dẫm đạp lên nhau mà chạy, giết lẫn nhau để cướp phuong tiện đào tẩu. Phải có phối trí, có án ngử mới có an tòan rút lui. Cá nhân nghĩ vậy.

Quân đoàn 2 có một sai lệch là phải rút quân về Tuy Hòa trong khi đó Tướng Phú lại thích về Nha Trang sau khi xem xét Cam Ranh không được. Do Đó Tướng Trần văn Đôn kêu về xử phạt về tội đào ngủ rời bỏ nhiệm sở. Tướng Phú ra Đệ Thất hạm Đội để gặp những bạn thân cũ như Ngô Quang Trưởng để vấn kế. Té ra Tướng Trưởng cũng dang dưỡng bệnh ở đó (có nguồn tin cho rằng bị nhốt, hay bị trói tay? do TT Thiệu. Cũng có tin là cả hai phối hợp với Dù và TQLC, Tướng Lân và Tướng Lưỡng đồng khoá 4 với Tướng Trưởng để hạ bệ TT Thiệu ?)

Sau Tướng Trưởng được PTT Nguyễn Cao Kỳ bốc đi ra nước ngoài. Riêng Tướng Phú về cáo bệnh sau ngày 16-3 phải bàn giao chức Tư lệnh cho Đại Tá Phạm Duy Tật và thăng Chuẩn Tướng. Trong khi đó đáng lý phải bàn giao cho Tư Lệnh Phó là Chuẩn Tướng Thân hay Chuẩn Tướng Cẩm, chức vụ cao thứ nhì.

Về quá trình trong Quân Đội thì Tướng Phú là một thiên tài, ra trường gia nhập Binh Chủng Nhảy dù. Bị bắt ở mặt trận Điện Biên Phủ năm 54, bị nhốt trại Đình Cả Thái Nguyên. Năm 69 thăng cấp Chuẩn Tướng tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt-thay Tướng Lam Sơn…

Tứơng Phú được lòng nhiều bạn bè Pháp và Mỹ, Ông Smith là người lo về di tản tại Sàigòn dành nhiều ưu tiên cho ông thế mà Ông nhất định ở lại bởi vì Thành Mất thì Tướng phải chết. Sau nầy cuốn sách do Frank Snapp viết về Tướng Phú với những lời ngưỡng mộ. Ngày 29-4 nơi nhà riêng đường Gia Long ông dùng Chloroquine liều nặng

mà kết liễu cuộc đời. Ngày ấy vợ ông sắp lên máy bay phải quay trở lại đưa Ông vào bệnh Viện Grall cứu cấp. Đến 11gsáng hôm 30-4-75,Ông tỉnh dậy nghe ngóng tình hình rằng lệnh đầu hàng đã ban ra. như uống thêm một liều độc dược nữa. Thiếu Tướng Phạm văn Phú đã ra đi vĩnh Viển ở tuổi đời là 47…Đáng kính phục.

Hải Đăng

Chín cái chết oan khiên của Văn Nghệ sĩ miền Nam

(Sau ngày 30/4/1975, CSVN xâm lăng nước VNCH)

Phạm Văn Duyệt

Sau khi cưỡng chiếm Saigon, tập đoàn cọng sản đã thực hiện chính sách đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn. Một trong những thành phần bị đọa đày thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống chi là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước.

Bài này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước thân yêu.

1. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 1976)

Đỗ Tú Tài 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch Thơ. Di cư vào Saigon 1954 hành nghề dạy học. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.

Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.

Trong tập truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại: Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như người đồng thiếp. Như không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.

Một cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài: Tại Sao Vũ Hoàng Chương bị bắt vào tù Khám Lớn?

– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: sau 75 nhiều thơ nhạc chế diễu chế độ mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc biệt là hai câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:

Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý

Đồng Khởi ra đời mất Tự Do

– Chê thơ Tố Hữu: theo bài đăng trên “net” của Sông Lô viết về Vũ Hoàng Chương nhận xét thơ Tố Hữu:

Sau 75, một phái đoàn từ bắc vô Saigon có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “họp mặt văn nghệ”. Đề tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng 

Thương mình, thương một, thương ông thương mười 

Cán bộ như Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Nghị, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của nhà thơ để dạy con trẻ yêu cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi từ đoạn trên của mấy câu lục bát này trong bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói 

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của hai câu ta đang mổ xẻ.

Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẻ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.

Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là người của tự do không phải quỵ lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà Thơ đã thế hiện khí khái tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.

– Nhà Văn Mai Thảo có bài “Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”: Sau 75, Họ Vũ dời nhà về sống với vợ con Đinh Hùng (em Bà Chương) ở Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng. Vì Hà Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.

Từ cọng sản chiếm miền Nam, hơn ba triệu người đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.

Theo Mai Thảo, đám nhà thơ miền Bắc đặc biệt đố kỵ Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam rồi đưa tới hệ lụy cho việc bắt giữ.

– Mai Thảo viết theo lời kế của Bà Chương: 9:30 sáng 13.4.76 Vũ bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe jeep đầy nhóc áo vàng mang súng ống như cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi Sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.

Vũ bị đánh thức trong giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật thẳng giữa chiếu, bất động như một pho tượng. 

Bọn quỹ dữ ở lại lục soát trên hai tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi, Ông không trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó, hai thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa vào khám Chí Hòa giam cầm cùng với một số trí thức khác kể cả Bác Sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến họ Vũ mà Cựu Thủ Tướng đã tận tình chăm sóc và không hề ngại ngần bưng bô cho thi sĩ.

Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm thiếu thốn mọi bề, sức lực Ông kiệt dần. Việt Cọng biết không thể sống được bao lâu nên thả Ông về để tránh tiếng bức tử trong tù. Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng vấn vương tiếc nuối điều gì.

Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:

Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người

Sên bò nát óc máu thầm rơi

Chiều nay một dấu than buông dứt

Đinh đóng vào săng, tiếng trả lời!

2. NGUYỄN MẠNH CÔN (1920 – 1979)

Viết báo Đông Pháp từ 1939. Đến 1951 dạy học tư. 1956 – 61 chủ bút báo Chỉ Đạo. Xuất bản 13 tác phẩm. Có biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.

Theo Nhà Thơ Viên Linh, sách Nguyễn Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người trong các xã hội cọng sản.

Nhà Văn Mai Thảo cho rằng “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ yếu của văn học Quốc Gia Việt Nam từ 54 đến 75 và là niềm vinh dự chung của văn học miền Nam”. 

Một số tướng lãnh rất khâm phục luận thuyết và viễn kiến của Ông.

Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45 người nổi tiếng bị việt cọng bắt đi tù.

Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý giá của Nhà Văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn Can Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý bạn văn, bạn tù của Nguyễn Mạnh Côn.

– Tù Nhân Đặng Hoàng Hà: bị giam cùng buồng với Nguyễn Mạnh Côn: sáng 2.4.79, trước cả ngàn tù nhân và cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi “học tập” 3 năm. Hôm nay đủ hạn đó. Tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là tù nhân. Tôi sẽ không ăn cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau đó việt cọng căm thù nhốt riêng không cho ăn uống đến nỗi thời gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức và chết tháng 6.79.

– Ghi nhận của Nhà Báo Ngô Nhân Dụng: Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất bén nhọn, Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức của nhân loại.

– Nhà Văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận. Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì viết như một nhà thông thái hoặc như nhà phân tâm học.

– Nhà Thơ Viên Linh: 1940 Nguyễn Mạnh Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử có thể kể là giai đoạn hoạt động thực sự ngoài đời của Anh. 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc và 1975 được mời vào Ban Giám Khảo giải này.

– Nhà Văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn không lập danh bằng đường võ, có lẻ một phần do thể xác yếu ớt mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức trung úy đồng hóa nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết đầy sáng tạo, đi vào cả “vùng cấm địa” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, thế giới siêu nhân của khoa học giả tưởng và cả địa hạt tư duy chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì?

Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái một thời trong thế giới chữ nghĩa.

– Họa Sĩ Tạ Tỵ: một buổi tối, Nguyễn Mạnh Côn, mang cấp bậc Thiếu Úy, tới tìm tôi tại văn phòng đường Hồng Thập Tự, Thị Nghè.

Anh cho biết được đồng hóa cấp thiếu úy để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương. Anh nhờ tôi trình bày trang bìa cho báo đó. Là báo Bộ Quốc Phòng nên tôi vui lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với cấp chỉ  huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua bài của các nhà văn.

Nhờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm say mê người đọc.

– Nhà Văn Tuấn Huy: Năm 1960, Nguyễn Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh khi đăng những bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi…nói về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới cầm bút Saigon. Điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác, một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị)

Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh Côn là Nhà Văn Lặng Lẽ: Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ từ tốn nhàn nhã như người đi dạo giữa dòng đời. Ông đã nêu lên những vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa, Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi một món ăn bình dân và ly rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc. Tôi không hề thấy ở Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” hay một “nhà lập thuyết”. Ông vẫn là Nhà Văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Thưởng thức lặng lẽ và hướng thụ cũng lặng lẽ…

Lúc nào Ông cũng trầm ngâm. Ít Khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười. Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn. Tôi rất quý Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch sử trong lằn ranh Quốc/Cọng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng 6.98).

– Tù Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn” (Khởi Hành số 20 đã dẫn): Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9.79, có nghe anh em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.

Vào buổi sáng chủ nhật không đi lao động, một cậu nhỏ tù hinh sự tìm tới tôi rồi từ từ mở gói giấy báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng nói giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn Ông bằng xe “cải tiến”, em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em giữ làm kỷ niệm, nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3 loong gạo”.

Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là cặp kính của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả giá:

Một loong rưỡi thôi!

Cậu nhỏ gật đầu, chịu liền…”

3. CHU TỬ (1917 – 1975)

Một học trò cũ của Chu Tử là Hồ Xưa ghi lại bài viết “Nhớ Thầy Chu Văn Bình, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Lê Văn Trung” (nguồn webhoidonghuongtayninh), trong đó có sơ lược tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy.

Mới 13 tuổi gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đầu năm 1930 theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.

Cuối thập niên 30 trở thành một trong vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.

Thời thanh niên mở trường tư, học trò rất đông, nhưng tấm lòng Ông không an phận ở đó. 

1954 vào Nam, làm Hiệu Trưởng Trung Học Tây Ninh. Sau về Saigon lập báo Sống. Vì bất đồng chính kiến, tòa soạn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực đoan tấn công năm 1966  (vanviet.info). Cũng năm này, Ông bị việt cọng bắn vỡ quai hàm ngay trước nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.

Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi hàng được chừng 3 chữ.

Sau biến cố này, có bạn đọc gởi Chu Tử câu đối: 

Thượng Tọa bể bàn tọa 

Chu Bình sứt miệng bình 

– Nhà Báo Trùng Dương nhận xét: Nhật báo Sóng Thần ra đời năm 1971 với chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho cuộc chiến đấu chống cọng bảo vệ vùng đất tự do. Là tờ báo duy nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới vận mệnh đất nước đóng góp.

Giữa thập niên 1960, tình hình miền Nam khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chánh, tranh chấp ảnh hưởng của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và các đảng phái chính trị, việt cọng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh phá và ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử đã “lùa” các nhân vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai cấp mà Ông cho là bất xứng vào mục “Ao Thả Vịt” của Kha Trấn Ác (bút danh Chu Tử) được rất nhiều người đọc dù họ không biết có bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao vì đã làm một việc quá can đảm giữa môi trường hết sức nhố nhăng đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cọng nằm vùng đang chực chờ phá hoại. 

Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người thù ghét. Có thế nói Chu Tử nằm vào số ít thuộc giới văn chương báo chí trong ngoài nước được nhiều người biết đến.

Dẫu sao, Chu Tử là nhà văn nhà báo thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn bán rất chạy trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi như chủ báo hòa đồng thân thiện, hào sảng với anh em. 

– Nhà Văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong 20 năm làm báo, ông chưa hề gặp chủ báo nào hào hiệp rộng rãi như Chu Tử đã từng hỏi ông: Anh muốn lấy bao nhiêu tiền nhuận bút và lệnh cho thủ quỹ chi trả ngay không chút chần chừ.

– Nhà Văn Võ Phiến, tác giả Tổng Quan Văn Học bình luận chi ly: “Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm báo cũng khiến lắm người khoái quá trời. Người ta khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như trong văn chương.

Tiểu thuyết ông có những nhân vật ngang tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách.

Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc trực nên nhiều chuyện và nhân vật Chu Tử thả vào “Ao Thả Vịt” nghe như thật một trăm phần trăm ấy. Độc giả khoái tỉ, đem ra bàn tán. Sinh ra thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.

Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận tiền, tả xung hữu đột, đánh đông dẹp tây, ủng hộ cánh này, húc đổ phe kia, gây nên sóng gió.Theo Võ Phiến, Chu Tử bắt tay viết cuối thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo, ngổ ngáo. Trong lớp trẻ sau này có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông. Truyện ông thành công. Báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng rộng rãi. Sau ông, lắm kẻ cũng trổ tài hô hào, đập phá. Nhưng chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên trang giấy bằng ngòi bút mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như Ông viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng đạn.

Về cái chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:

1. Viên Linh: Định mệnh nào tai ác đã thù hằn đeo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như Chu Tử vào trưa ngày 30.4.75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành tàu để nhìn Saigon lần cuối. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên rồi gọi tên đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại…

Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với Viên Linh: thi hài Chu Tử được bó vải thả xuống Thái Bình Dương vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.

– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, 41 quái quỷ gì đó…rơi lõm bõm trên sông. Một viên bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà Văn Chu Tử…

– Du Tử Lê: Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết “Yêu” là nhà văn Chu Tử, nhưng số lượng người biết nhà báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do, ở lãnh vực báo chí, ông đã không ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có thế lực về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội…

Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh…Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận…

4. HỒ HỮU TƯỜNG (1910 – 1980)

1926 du học Pháp, trình luận án Cao Học Toán. Kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà.Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng cộng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa Stalin, cổ xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Rồi 1939 tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác.Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời phỏng vấn của Đài RFA thì trong những văn kiện lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít trong khoảng trước và sau 45, xem như bọn phản cách mạng chống lại Đệ Tam Quốc Tế của họ. Đây là phong trào cộng sản do Leon Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cọng sản Đệ Tam do Lênin lãnh đạo.

Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế giới, trong khi Đệ Tam chủ trương thực hiện từng bước và Liên Xô là quốc gia đầu tiên, rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới. Theo Bà Tuyến, chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn.

Về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền, những đảng hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Theo Trotsky thì tập trung dân chủ chứ không phải một đảng nắm hết. 

Về sau, Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt. Trotsky phải lưu vong ngay sau khi  thành lập và cuối cùng bị ám sát chết.

Bà Tuyến nói: “nhóm Đệ Tứ bị những người Đệ Tam, tức Việt Minh, lùng giết sau cách mạng tháng tám là chuyện có thật. Stalin đã truy lùng Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng đường lối đó. Bà Tuyến nói đảng cọng sản chưa bao giờ nhìn nhận họ đã ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Theo Bà, khoảng 400 người Đệ Tứ bị mất tích hoặc giết hại trong giai đoạn 45 khi họ tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1953 Hồ Hữu Tường đề nghị cọng sản để Việt Nam trung lập, nhưng không được chấp nhận. 1957 bị đày ra Côn Đảo vì Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống Tổng Thống Diệm. 

1967 đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị Cọng Hòa và tiếp tục viết báo. 1978 bị bắt do kiến nghị cộng sản trung lập hóa Việt Nam. Tháng 6.80 bệnh nặng khó cứu chữa, được cho về nhà và mất ngay hôm đó.

Đã viết 1000 bài báo và hơn 30 sách truyện giá trị.

Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Hồ Hữu Tường tự nói về mình: “nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, và nào là nhà báo”.

– Nhà Văn Thụy Khuê tóm tắt vài điểm chính về Hồ Hữu Tường,

  *Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính quyền thực dân, quốc gia, cọng sản. Suốt đời chống chiến tranh.

  *Con đường Ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của Ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.

  *Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc.

  *Có dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ. 

– Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân nhận xét trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”: cuộc đời Hồ Hữu Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một tri tuệ năng động, một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy”.

Hồ Hữu Tường kể chuyện viết tiểu thuyết với Khái Hưng (Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”): Khái Hưng rủ tôi cọng tác viết tiểu thuyết, cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã phác họa  vài nhân vật và cốt truyện, đặt tên Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ Khái Hưng, tôi thử viết tả những người này, trình bày được hai hình tượng Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử ấy cho thấy là tôi không có tài viết tiểu thuyết, nên không nối tiếp nữa.

– Nhà Văn Trần Bảo Định: Hồ Tiên Sinh vẫn là người hiền của đất Nam  Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay…vần xoay liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”. Dẫu vậy Ông đã có cả cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không còn gì hối tiếc, bởi Ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với những sự thế gặp phải trên đường đời.

Trong Phi Lạc Sang Tàu, Hồ Hữu Tường viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức, không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý về vật chất lẫn tinh thần mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp quả địa cầu, không đâu thoát được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.

5. PHẠM VĂN SƠN (1915 – 1978)

Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công phu nhất là Bộ Việt Sử Tân Biên.Đại Tá Sơn ra đi để lại nhiều tiếc thương cho đồng đội. Đây là lời kể của một số nhân chứng về việc “nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông:

– Nguyễn Văn Dưỡng: “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn” (https://vietmessenger.com)

Từng là thuộc cấp của Ông Sơn. Tôi biết Ông rất thận trọng, không hề khinh xuất trong nhiệm vụ.

 Ông thường nói: “phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.  

Với quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố – giữa các đơn vị quân ta và địch – khi mà những cơn pháo dữ dội của đối phương chưa giảm – khi không một trực thăng nào đáp xuống lại không sợ tan xác, thế mà Ông đã đích thân bay vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó, cùng  tôi ở trong hầm chống pháo một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo cọng quân rơi trên đầu mình, vừa hỏi tôi những sự kiện chi tiết ghi trong nhật ký hành quân.

Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ ở trại Tân Lập, Vĩnh Phú, lúc chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên trong cửa sổ phòng “cách ly”.

Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng đã trở vàng cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt bởi chứng nan y.

Mũi, má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết. Ông bị tàn phế cấp độ nặng.

Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại. Do kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi chết. Cả người nhầy nhụa máu me.

– Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang (Hồi Ký về Đại Tá Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://huongduongtxd.com).

Trong thời gian bị giam giữ, Đại Tá Sơn đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển: xin các Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây lịch sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo lời của tên Nhàn, trưởng ban thi đua trại).

Đại Tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho tù nhân chính trị được hưởng quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng cũng giúp cho anh em còn sống được dễ thở hơn.

– Huỳnh Hữu Ủy (Vài Điều Tản Mạn Nhân Đọc Bài Viết “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn”, https://dongsongcu.wordpress.com)

Cùng bay vào An Lộc với Đại Tá Sơn giữa lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy, Anh Ủy nhận xét: Ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong đại học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc cấp này, Đại Tá Sơn chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng có chút nào chất quân phiệt, không áp dụng kỷ  luật nhà binh mà ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng nghiệp cũng là những người cầm bút.

– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật lịch sử không tưởng của các sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.

– Bác Sĩ Phạm Hữu Phước: Trích từ  “Dòng Sông Cũ: Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại Tá Phạm Văn Sơn”.

Ở tù cùng trại. Từng khám bệnh Đại Tá Sơn. “Từ thời còn trung học Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, tôi đã được đọc “Việt Nam Tranh Đấu Sử” của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn cùng. Tôi kính trọng, thông cảm, ngã nón bái phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.

“Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.

“Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Thường mời Đại Tá quây quần để nghe Ông kể chuyện xưa lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức về sử.

“Đại Tá Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Trước cường quyền và độc tài, Ông không khiếp sợ van xin, luôn ngẩng cao đầu mà nói với cọng sản ‘các ông làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau’.

Với Ông, “Anh hùng tử, khí hùng bất tử”.

6. HỒ ĐIỆP (1930 – 1988)

Di cư vào Nam 1954. Tên thật Nguyễn Thị Tý. Sau khi phát hiện tài năng thiên phú của Bà, Đinh Hùng đặt nghệ danh là Hồ Điệp.

Báo Nghệ Sĩ (https://thoixua.vn) đã giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – tài năng nhưng cuộc đời lại quá đổi đau thương”: Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà nhẹ nhàng, mỏng manh mang lại đầy màu sắc như những cánh bướm.

Bà thường ngâm thơ trên chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do), được đánh giá là giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.

Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng. Ngót 60 năm rồi nhiều người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai của người con gái Sơn Tây qua bài “Gởi Người Dưới Mộ” của Đinh Hùng:

Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?

Nằm trong đất lạnh chắc em sầu 

Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy

Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu 

Em mộng về đâu? 

Em mất về đâu?

Hằng đêm ta nguyện, ta cầu 

Ấy màu hương khói là màu mắt xưa 

Em đã về chưa? 

Em sắp về chưa?

Trăng sao tắt ngọn đèn mờ

Ta nằm rỏ lệ, đọc thơ gọi hồn 

Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc vào cõi âm.

Hồ Điệp có khuôn mặt phúc hậu, hiền dịu. Nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến. Nhà Thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà là Nữ Hoàng Thanh Sắc: 

Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời 

Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ 

Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được mời diễn ngâm ở Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả xa quê lâu ngày, tâm hồn nhớ nhà nhớ nước, lắm người không ngăn được dòng nước mắt nức nở nghẹn ngào khi nghe Bà đưa hồn mình vào cõi thơ sầu mộng.

Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài “Một Thoáng Hương Xưa”: Vào năm 1960 tại cuộc họp một số văn nghệ sĩ có Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà Văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ và Bát Cơm Bát Máu), Vũ Quân tặng Hồ Điệp, Mặc Thu hai câu thơ:

Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp 

Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu

Nhà Thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca Sĩ Thái Hằng (chị em bạn bằng dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Saigon, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ với nét đẹp cổ kính của thục nữ Bắc Hà.

– Phạm Công Luận: “Saigon – Chuyện Đời của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn”. Theo báo Trẻ số 7 Tập 1 năm 1960, Hồ Điệp có giọng mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các đoạn thơ trong truyện Kiều, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ T.T.KH rất được thính giả hâm mộ.

– Chu Văn Lễ nêu nhận định: giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.

Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hoặc nhà bạn hữu.

Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh Bướm Bên Trời”:

“Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện đưa đón, theo dấu người tị nạn tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại.

Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ gởi qua nhờ theo dõi tin tức một người thân đã rời Saigon khoảng đầu 1988. Thư cũng cho biết nhóm này gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, nhưng có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre rừng…

Tôi đi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước. Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh. Bên nam còn có Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.

Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm bài Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp đã có lần ngâm trên Đài Saigon.

Bài Thơ hay quá đổi, quá liêu trai, phù hợp với ánh trăng xanh nhạt rải trên mái tranh, trên từng đám lá mồng tơi.

Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt…

Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm, thế nhưng thời gian trôi đi, Cánh Bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thể ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được.

Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.

Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung thủy của thính giả mà bay về đây báo mộng.

Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi…thôi!  Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã về thật rồi”…

Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đặt thờ trong Chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Saigon.

Theo NguoiVietBoston, các con của Hồ Điệp định cư ở Mỹ. Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007 tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt giam 6 tháng.

7. MINH KỲ (1930 – 1975)

Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Dòng dõi Hoàng tộc, vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại. Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm rất được ưa chuộng.

Là một trong ba thành viên nhóm Lê Minh Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.

Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. Ba người ở ba miền mà tương đắc, gắn bó, tri âm tri kỷ gần mười năm. Lê Dinh cho là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.

Chỉ nghe qua câu chuyện 3 Nữ Sinh Viên Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi tao phùng gặp gỡ Lê Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của nhóm này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:

Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng 

Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau  

Em đã đến và đã đến như áng mây 

Như cánh chim bay qua bầu trời 

Ôi hình hài một vài giờ vui…

Tôi đứng đó như hình một pho tượng

Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây  

Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi 

Nghe trái tim rung lên bồi hồi 

Chắc gì gặp lại lần thứ hai…

Theo Lê Dinh, Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời, chạm đến nỗi lòng người nghe. 

Ca Sĩ Hoàng Oanh ca ngợi nhạc Minh Kỳ tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.

– Ca Sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ: Tôi từng gặp anh để trao đổi về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc. Tôi xem anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc anh trầm ngâm động viên “chú rán hát cho hay, cho tốt”. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao nói rằng nét tài hoa của Minh Kỳ không  chỉ ở những tác phẩm Ông viết cho mình mà là sự đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên 1960, chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm, thanh niên giả từ học đường thi hành quân dịch. Thính giả bấy giờ muốn nghe và hát những bài ca có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ hát, tiết điệu nhịp nhàng…dễ đếm: đấy là thời kỳ những bài nhịp Bolero ra đời. Minh Kỳ đáp ứng với Biệt Kinh Kỳ:

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi 

Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi…

Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi

Bạn ơi! hãy nói khoác chiến y rồi…

Có lẻ chưa bao giờ một bài hát lại ăn khách tới mức đó. Hằng tuần trên làn sóng điện khi trực tiếp truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng chủ nhật tại rạp Quốc Thanh, thì có ít nhất 3 thí sinh chọn bài này để thi. Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe Biệt Kinh Kỳ nhiều quá đến phát thuộc lòng!

Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển dù viết ở thể loại nào. Câu cú rất hệ thống và tài tình nhất là lời ca đượm tính cách “kể chuyện” thật hấp dẫn.

– Nhà Văn Phạm Tín An Ninh có bài “Cái Chết Oan Khuất của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”: 

“Tôi và Minh Kỳ cùng trại tù An Dưỡng. Tôi ở nhà 1, Anh nhà 3.

Một đêm cuối tháng 8.75, khoảng 9:30 tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn người tù nằm thao thức chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng một tiếng nổ long trời, kèm theo tiếng la thất thanh, còi báo động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại chỗ, kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.

Khi chúng tôi chưa hết hoang mang,  thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, 2 tay để trên đầu.

Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “ có bọn phản động trong các anh đã dấu diếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả “kách mạng”.

Một số bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương. Minh Kỳ thương tích rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ cho đến lúc tắt thở.

Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết Minh Kỳ cùng những bạn tù khác là do chính bọn việt cọng quăng từ khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét”.

Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài cốt Giáo Xứ Tân Định.

8. HỒ ĐÌNH PHƯƠNG (1927 – 1979)

Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm của hơn 20 nhạc sĩ danh tiếng được Ông viết lời hay phổ từ thơ Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đỗ đầu khóa Đốc Sự  Hành Chánh.

Sau 75 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Dalat” hay “Nhớ Nha Trang” đều do Ông đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này biết dường nào.

– Theo Du Tử Lê thống kê thì trong khoảng 200 ca khúc Nhạc Sĩ Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta đếm trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ Ông.

Một bài hát rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích là Con Đường Xưa Em Đi.

– Theo Phù Sa (Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc Sĩ Châu Kỳ và Châu Thị Đàng, hoainiem.org): Bà Đàng kể thời điểm 1967 – 68 Bà làm kế toán, còn Hồ Đình Phương là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai, Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà thường đi lại để về nhà. Chứng kiến cảnh ngộ đó, Hồ Đình Phương đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc  vào năm 69 với ca từ thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Thật không uổng phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:

Con đường xưa em đi 

Vàng lên mái tóc thề 

Ngõ hồn dâng tái tê 

Anh làm thơ vu quy 

Khách qua đường lắng nghe 

Chuyện tình ta đã ghi

Những mùa trăng vu quy 

Vì mưa gió không về 

Chiến trường anh bước đi 

Có nàng hoen đôi mi 

Ngóng theo đường vắng hoe 

Hỏi còn ai cố tri 

 

Em ơi, nhìn gió lên khơi 

Lòng có trông vời 

Một người xa cuối trời 

Nơi đây phiên gác canh dài 

E ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài 

 

Em ơi, màu áo phong sương 

Mình ước huy hoàng 

Được bàn tay chính nàng 

Dâng hoa, dâng hết ân tình 

Tình đến bao giờ 

Hỏi đường xưa mà nhớ 

 

Con đường xưa em đi 

Thời gian có quên gì 

Đá mòn kia vẫn ghi 

Ghi một đêm trăng thanh 

Quán bên đường vắng tanh 

Chỉ còn em với anh 

Lời nhạc êm tai tha thiết như vậy mà từng bị cấm. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?

– Nhạc Sĩ/Nhà Phê Bình Âm Nhạc Nguyễn Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3.2017 cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do bài hát không đúng với bản gốc. Nhạc Sĩ nói rằng “đã cấp phép rồi lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”.

“Trước tiên phải nhìn nhận những ca khúc sáng tác trước 75 tại miền Nam là phần tạo nên diện mạo của nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20.

Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình, những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.

Đây chính là yếu tố khiến nhiều ca khúc thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.

Theo nhạc sĩ Long, việc Cục cấm hát 5 ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự việc càng trở nên rối khi những lý do viện dẫn để cấm chưa thực sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều tuần.

Trong khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý với báo chí “chiến trường” ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?

Bà Đàng từng chia sẻ: việc sử dụng từ “chiến trường” hay “phiên gác” chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này nói thay tâm tư tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa.

Cần nhìn nhận việc cấm 5 ca khúc này chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không, bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ  thời gian sống trong lòng công chúng”.

Cho đến ngày 15.4.17 thì quyết định cấm đã được thu hồi.

9. THỤC VŨ (1932 – 1976)

Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung Tá ngành Tâm Lý Chiến. 1969 tiếp nối Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân phụ trách Thi Văn Tao Đàn, đổi thành Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc.Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca Quang Trung Hành Khúc được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao trường tập luyện.1975 bị giam trại Tân Hiệp, Biên Hòa. Tại đây Ông sáng tác nhạc phẩm “Suối Máu” với mấy dòng thơ cảm đề:Em ở Saigon anh ở đâyĐồi pha cát trắng kẽm gai đầy Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược Để nhớ nhung về che khuất mây1976 chuyển ra Sơn La rồi mất tại vùng rừng thiêng nước độc này. Một số bạn hữu kể lại những ngày tù của Ông:– Nhà Văn Văn Quang (Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành nằm chờ chết.Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.Tôi lặng người bởi hôm qua lẻn sang thăm Thục Vũ, Anh đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ: “tôi mệt không hút được nữa”. Sau đó Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn La, từ bệnh xá quanh con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, “đám tang” di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng. Hai cai tù vác AK đi đầu, kế đến một anh tù cầm vài nén nhang, 4 người khiêng cổ quan tài mộc. Sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ chuyển động như những bóng ma.Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác sĩ tù nhân trẻ nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa trông như tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi.Một tháng trước khi mất Thục Vũ có  bài “Gởi Saigon”:Viết bài thơ sau cuối Ý nhạc tàn theo mây Hồn anh về bên Chúa Xác anh gửi phương này– Nhà Thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng 15.11.76 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngã nón cúi đầu chào người bạn vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban xã Mường Thái với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả về Saigon có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt Chồng vào Nam.– Nhà Thơ Huy Trâm viết: “Dù bị tù tội, Thục Vũ vẫn say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc: một hôm mưa tầm tả, cả đội lo đi hứng nước thì phải chạy trú tạm dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả áo quần, Anh vẫn mặc. Ta cứ hát. Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem! Thục Vũ vẫn nghêu ngao hát xong bài rồi mới vào hàng trú mưa. Hát cho quên sầu…và cũng là lần hát cuối đời. Một tuần sau anh mất”.Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên nợ đưa đẩy Ông yêu thương Nhà Thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa con đầu lòng.Vào những năm 1964 – 66, thi đàn miền Nam bỗng dưng xuất hiện nhà thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập  Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” do nhà sách Khai Trí xuất bản lúc mới  chừng 20 tuổi.Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu Tuyến”:Hôm nay trời vào thuDalat lắm sương mù Cây khô buồn trút lá Gió ven hồ bay xaMây thu lờ lững trôi Lồng lộng gió lưng đồi Xin anh đừng giận dỗiViết thư về thăm em Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ da diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” như là tiêu biểu cho vần thơ của thi nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng:Chiều chủ nhật đợi chờ anh mãi mãi Sao trể giờ cho chua xót anh ơi!Hẹn hò chi, chừ lỡ dở cả rồi Tình mới chớm đã vội vàng lịm tắt Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc Liệu người ta đáp trả lại hay không Đến bao giờ dẫm được xác pháo hồng Áo cưới đỏ cười vui cô dâu mới 

Những dấu ấn lịch sử của trường nữ sinh đầu tiên và duy nhất tại Hà Nội

Trường THCS Trưng Vương

Trường Nữ sinh đầu tiên và duy nhất ở xứ Bắc kỳ năm xưa, nay là Trường THCS Trưng Vương Hà Nội, là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô song ít ai biết được đầy đủ những tên gọi, hệ thống dạy-học cũng như những nét riêng biệt khác nữa trong bề dày lịch sử hàng trăm tuổi của ngôi trường.

Nằm trên một nền đất vuông vức ngay ngã tư phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội (thời Pháp là đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau), Trường THCS Trưng Vương được nhiều thế hệ người Hà Nội nói chung và giới học sinh nói riêng tự hào nhắc tới như một ngôi trường nổi tiếng đào tạo nữ sinh Việt Nam và là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô. Tuy nhiên ít ai biết được ngôi trường này trước kia có tên gọi là Trường trung học Paul Bert – tên chính danh của trường. Còn các tên gọi khác theo hệ đào tạo là Trường Cao đẳng tiểu học Nam sinh (Trường Con Trai – École des Garçons), Cơ sở giáo dục Nữ sinh người Việt (Institution de Jeunes filles annamites), Trường Sư phạm nữ sinh người Việt (École Normale des Institutrices annamites), Trường Trung học nữ sinh người Việt (Collège de Jeunes filles annamites), hay trường được gọi theo tên phố là Trường Nữ sinh Đồng Khánh (École de Jeunes filles de Đồng Khánh), vì mặt chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh và nhiều nét riêng biệt khác nữa.

Lịch sử tên gọi và kiến trúc
Năm 1886, trường trung học công lập đầu tiên được thành lập ở xứ Bắc kỳ (Tonkin) mang tên Trường Trung học Paul Bert (Collège Paul Bert) dành cho số ít con em người Pháp là quan chức thực dân, sĩ quan, viên chức đầu tiên đến Hà Nội, trường thực hiện dạy hai cấp Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học với mô hình tổ hợp trường nam sinh và nữ sinh. Trường Paul Bert tiếp nhận dạy hầu như toàn bộ số học sinh Pháp ở Bắc kỳ. Trước là dạy chương trình tiểu học rồi dạy đón chuyển tiếp chương trình Trung học[1]. Ngôi trường được xây dựng trong những năm 1897-1898, trên thửa đất ở ngã tư đại lộ Đồng Khánh, dài 100 mét và đại lộ Carreau, dài 87 mét, tức phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội ngày nay[2].

Ngôi trường được thiết kế và xây dựng theo lối kiến trúc cũ, mái ngói một tầng, phần giữa và hai cánh ở hai đầu xây sâu hơn, rộng hơn và lên cao tầng. Bên cánh phải (nhìn từ trường ra cổng) dành cho Giám hiệu và bên cánh trái dành cho các phòng Quản lý trường, chủ yếu theo nguyên tắc đối xứng về xây dựng[3].

Bản vẽ phối cảnh mặt chính của Trường Đồng Khánh năm 1897, phần trán tường, trên cửa vòm ở giữa có đắp nổi chữ “Ecole des Garçons” – Trường học con trai – Ảnh trích xuất từ sách Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française.

Theo thiết kế ban đầu, ngôi trường được xây dựng như một tổ hợp trường học nam sinh và nữ sinh. Khu chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh là khu trường học nam sinh nên ngay trên trán tường ở chính giữa, mặt chính có đắp nổi chữ “École des Garçons” – Trường học Nam sinh. Mặt chính ra đại lộ Đồng Khánh có ba cổng mang ba số 26, 28 và 30. Địa chỉ giao dịch chính của trường là số 30, Đại lộ Đồng Khánh, Hà Nội.

Những bước chuyển mình
Năm 1904, Trường Nữ sinh Pháp chuyển sang cơ sở nằm trên phố Thợ Nhuộm (rue des Teinturiers), rồi phát triển thành một trường độc lập dành riêng cho học sinh nữ người Pháp cơ sở ở đại lộ Hai Bà Trưng (boulevard Rollandes). Từ đây Trường Paul Bert (phố Đồng Khánh) chỉ còn học sinh nam nên còn gọi là Trường Nam sinh, hay Trường học con trai. Trường Nam sinh rất nổi tiếng, một số bản đồ thành phố Hà Nội đương thời đã cho ghi vào phần chỉ dẫn là Trường Nam sinh (École des Garçons).

Bản vẽ phối cảnh mặt bên của Trường Đồng Khánh năm 1897 – Ảnh trích xuất từ sách Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française.

Năm 1912, Chính quyền Pháp ở Đông Dương có kế hoạch cải tạo Trường Paul Bert trên phố Đồng Khánh và nâng bậc học thành trường Trung học Đông Dương[4] ở Hà Nội. Tuy nhiên, vì địa điểm này quá chật hẹp nên dự án không thực hiện được phải chuyển về xây dựng ở Đại lộ République, nay là phố Hoàng Văn Thụ. Trường Trung học Đông Dương là tên gọi ban đầu của Trường Trung học Albert Sarraut, ngày nay là trụ sở của Ban Đối ngoại và Ban Tổ chức Trung ương Đảng[5].

Năm 1917, theo Nghị định 2229, ký ngày 10/11/1917, chính quyền Pháp mở Cơ sở giáo dục Nữ sinh Việt Nam (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc học Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học[6]. Các em được học các môn chính là chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lý, luân lý, phép xã giao, vệ sinh với các cô giáo người Pháp, còn các môn học nữ công gia chánh như quản lý gia đình, may vá, thêu, nấu ăn… với các cô giáo người Việt. Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi.

Việc mở các trường nữ học đòi hỏi phải tuyển giáo viên là nữ để dạy môn tiếng Việt và vệ sinh phụ nữ. Ở Bắc kỳ, nữ giáo viên người Pháp không biết tiếng Việt nên rất khó khăn trong việc chuyển tải kiến thức và nữ giáo viên người Việt thiếu rất nhiều. Thời gian đầu chỉ có ít nữ giáo viên người Pháp và tuyển được một vài cô tốt nghiệp Trường Tiểu học Hàng Cót[7].

Vì những khó khăn về giáo viên, năm 1917, chính quyền Pháp cho mở Cơ sở Đào tạo giáo viên nữ người Việt (École normale d’Institutrices annamites), cơ sở này ban đầu hoạt động song song như một cơ sở phụ trợ cho Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt[8].

Về trường, lớp, năm 1918, chính quyền Pháp cho xây dựng khu trường học nằm trên phố Trần Phú (thời Pháp thuộc là phố Félix Faure), nay là trụ sở của Bộ Tư Pháp dành cho Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt của Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh bản xứ.

Trong suốt khoảng chục năm, số học sinh các trường Pháp và trường bản xứ tăng lên, nhu cầu học sinh nội trú cũng tăng, khiến chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng phải cho xây dựng, sửa chữa, mở rộng nhiều trường, lớp, phòng ăn, phòng ngủ đáp ứng nhu cầu của cha mẹ học sinh.

Bản vẽ dự án xây mới và mở rộng công trình Trường Đồng Khánh (3/1927) – Ảnh: Lưu tại Trung tâm Lưu trữ số I Nhà nước

ự án xây dựng và mở rộng Trường cao đẳng tiểu học Nam sinh ở phố Đồng Khánh được thực hiện trong những năm 1927-1928. Ngôi nhà chính, phần một tầng được cơi cao thành hai tầng đều để tầng trên làm phòng ngủ cho học sinh nội trú và tầng dưới làm phòng học. Có câu chuyện không vui là khi xây dựng lên cao tầng, sàn gác bê-tông bên trái bị sập đổ ngay khi mới dỡ giàn giáo chống bên dưới, may không xảy tai nạn chết người. Lúc đó, người ta quy cho nguyên nhân sự cố đó là do xi-măng mất phẩm chất và phải làm lại ngay trong năm 1928[9].

Cùng đợt này, Trường Đồng Khánh có xây mới và mở rộng thêm một số hạng mục:

Nhà ăn ở tầng dưới và phòng y tế trên gác ở cánh nhà bên trái, xây tiếp vào ngôi nhà chính kéo dài, dọc theo sân.
Nhà vui chơi và lớp học (hai tầng ở cuối sân).
Các nhà phụ, bếp, nhà tắm, vệ sinh… và nhà liền tường với nhà Giám hiệu.
Ý định ban đầu từ thiết kế là theo nguyên tắc đối xứng trong xây dựng, nhưng sau khi xây mở rộng cánh nhà bên trái dọc theo sân và nhìn ra phố Lý Thường Kiệt để chừa phần sân thoáng rộng, sát cổng bên thì trên thực tế không còn đối xứng nữa.

iờ tan học – Trường Sư phạm Nữ sinh người Việt tại Hà Nội (Ảnh trích từ sách Le Tonkin scolaire, 1931)

Giữa tháng 8 năm 1928, công trình xây dựng và mở rộng ngôi trường này hoàn thành, được bàn giao cho nhà trường để kịp khai giảng ngày 11 tháng 9. Ngay năm học này, các trường Pháp và bản xứ có sự hoán đổi. Trường Cao đẳng Nữ sinh Pháp rời chuyển từ phố Hai Bà Trưng về phố Trần Phú. Trường Trung học Paul Bert (hay Cao đẳng Tiểu học Nam sinh Pháp) rời chuyển từ phố Hàng Bài về ăn, ở, học thế chỗ Trường Cao đẳng nữ sinh Pháp ở phố Hai Bà Trưng[10]. Toàn bộ ngôi trường Paul Bert vừa được xây thêm, mở rộng dành riêng cho Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh người Việt gồm Cơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo giáo viên Nữ người Việt chuyển từ phố Trần Phú về phố Hàng Bài, theo dự án kiện toàn và chuyển đổi trường, lớp do Nha Học chính Đông Dương tại Hà Nội báo cáo và lập ngày 31 tháng 12 năm 1925.

ơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt (Hà Nội) trong giờ nữ công (Ảnh trích từ sách Le Tonkin scolaire, 1931)

Năm 1937, do chương trình học thay đổi, Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh bản xứ ở Đại lộ Đồng Khánh, gồm Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt đổi tên, gọi là Trường Trung học Nữ sinh Việt Nam (Collège de Jeunes Filles Annamites), hay Trường Nữ Trung học Đồng Khánh.

Nghị định của Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Trích từ Việt Nam dân quốc Công báo, số 6, thứ bảy, 27/10/1945, tr.67.

Năm 1943, Trường nữ Trung học Đồng Khánh sơ tán về Hưng Yên. Đến tháng 10/1945, trường dọn về khu học Hoàng Mai, khu Đại lý Hà Nội.

Ngày 14/2/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe ra Nghị định, số 85 đổi tên những trường trung học tại Bắc Bộ. Theo đó, Trường Nữ Trung học Hà Nội đổi tên gọi là Trường Trung học Hai Bà Trưng[11] (nay là Trường Lê Ngọc Hân, phố Lò Đúc).

Sau tháng 8/1945, cả khu Trường Hàng Bài trở thành trụ sở Tổng trấn Bắc bộ của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa[12].

Đến đầu năm 1948, Cơ sở trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học. Trường Nữ Trung học phải chuyển đến phố Hàng Than (nay là Trường Nguyễn Công Trứ) và đến cuối năm, trường chuyển về cơ sở số 9 phố Hai Bà Trưng (nay là cơ sở của Trung tâm Giáo dục Kỹ thuật tổng hợp số 4, thuộc Sở Giáo dục Hà Nội)[13]. Năm ấy cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương[14].

Việc mang tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương, hay Trường Nữ sinh Trưng Vương được ghi lại trong những bài viết và hồi ký của nhiều thế hệ nữ học sinh ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn như một dấu ấn đáng nhớ của ngôi trường. Trong bài viết “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu…”, hồi ký của một học sinh nam Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn tự nhận mình có rất nhiều thiên đàng mơ mộng có viết:

Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925 [??], trên con đường Đồng Khánh, phía nam Hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (Collège de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương[15].

Năm học 1950-1951, ngôi trường Hàng Bài bắt đầu được trưng dụng trở lại làm trường học. Tuy vậy, Trường Trung học Trưng Vương chưa về đây khai giảng năm học này mà là Trường Trung học Nguyễn Trãi[16]. Trường Trưng Vương vẫn tiếp tục hoạt động ở số 9, phố Hai Bà Trưng đến năm 1956. Bước vào năm học 1956-1957, Trường Trưng Vương mới chính thức về “nơi cội nguồn” ở phố Hàng Bài sau hơn 10 năm “lưu lạc”.

Những mốc son lịch sử của trường Trưng Vương rất có ý nghĩa với những năm 2016 và 2017:

130 năm: Thành lập Trường Trung học Paul Bert (1886-2016)
120 năm: Ngôi trường Trung học Paul Bert, hay còn gọi là Trường Đồng Khánh được xây dựng trên ngã tư đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau (1897-2017).
100 năm: Thành lập Cơ sở Giáo dục Nữ sinh bản xứ và Trường Sư phạm Nữ sinh bản xứ – tiền thân của Trường Nữ sinh Đồng Khánh hay Trường Nữ sinh Trưng Vương (1917-2017), ngày nay là Trường THCS Trưng Vương.
90 năm: Ngôi trường Đồng Khánh được xây mới và nâng cấp từ nhà một tầng thành khu nhà hai tầng có mô hình kiến trúc như hiện nay (1927-2017).
80 năm: Cơ sở Giáo dục Nữ sinh và Trường Sư phạm Nữ sinh của Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh Đồng Khánh được đổi tên, gọi chung là Trường Trung học Nữ sinh người Việt (1937-2017).
70 năm: Trường Nữ Trung học đổi tên là Trường Trung học Hai Bà Trưng (năm học 1946-1947)
Năm 1948: Trường đổi tên là Trường Nữ Trung học Trưng Vương.
60 năm: Trường Nữ Trung học Trưng Vương chuyển về “cội nguồn” trên phố Hàng Bài, tức đại lộ Đồng Khánh xưa kia (năm học 1956-1957).
Tác giả: Nguyễn Văn Trường
Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) Hà Nội
Đăng dưới sự đồng ý của tác giả.

*Chú thích:

[1] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 71-72. – Tương đương với bậc Tiểu học và PT cấp II hay TH Cơ sở hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).

[2] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.86-87.

[3] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.

[4] Tương đương cấp III hay PTTH hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).

[5] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.90.

[6] Giáo dục Pháp Việt ở Bắc kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Trần Thị Phương Hoa, Hà Nội, 2011.

[7] Trường Hàng Cót tên gọi chính danh là Trường nữ sinh tiểu học Brieux, hay Trường Brieux, nay là Trường THCS Thanh Quan, phố Hàng Cót quận Hoàn Kiếm Hà Nội.

[8] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 45.

[9] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.

[10] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 72.

[11] Theo Việt Nam dân quốc Công báo, số 9, thứ bảy, 2/3/1946, tr.124.

[12] Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Nhà nước: Trường Trưng Vương – một trong những trận địa chống Pháp oanh liệt năm 1946,
http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16481/language/vi-VN/Default.aspx

[13] 75 năm mái trường Trưng Vương (Hàng Bài) – 1917-1992, nhiều tác giả, Hà Nội, NM in Thống nhất, 1992, tr.11.

[14] Trẻ, http://baotreonline.com/i-hi-toan-cu-trng-vng/

[15] http://www.trieuthanhweeklymagazine.com/vanchuong/vc1/hontoivedau.html

[16] Ngày 4 tháng 10 năm 1950, Trường Trung học Nguyễn Trãi khai giảng và hoạt động tại cơ sở Trường Hàng Bài, Hà Nội đến hết năm học 1955-1956, ngày nay là Trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình, Hà Nội.

NỖI ĐAU NÀO LỚN HƠN?

NGUYỄN VŨ BÌNH

TCDM pv Nhà báo Nguyên Vũ Bình – 04-02-2022 – MP3 Download, Play, Listen Songs – 4shared – Vinh Hoang (Xin bấm link để nghe)

Hàng năm, cứ đến ngày 30/4 là nhà cầm quyền Việt Nam lại tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng các lễ mít tinh, diễu hành, diễu binh, duyệt binh. Đối với đồng bào người Việt hải ngoại, và rất nhiều đồng bào miền Nam ở trong nước, đây là ngày quốc hận, là nỗi đau chưa hề nguôi ngoai.

Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.

Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản

Hóa ra, có một sự thật có hệ thống từ khi đảng cộng sản xuất hiện đã chi phối và không chế hoàn toàn dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Sự thật này khởi nguồn từ việc cướp chính quyền, tiêu diệt toàn bộ các đảng phái không phải cộng sản; tạo ra cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất; cải tạo công thương nghiệp miền Bắc; Nhân văn Giai phẩm; cưỡng chiếm miền Nam; đày đọa hàng triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa; cải tạo công thương nghiệp miền Nam; hai lần đổi tiền để cướp của người dân; cướp đất đai của người dân tạo ra hàng triệu dân oan trên cả nước (thời kỳ đổi mới); đàn áp mọi tôn giáo, sắc tộc….một sự liệt kê chưa đầy đủ này đã làm câm họng tất cả những kẻ nói rằng chủ trương đường lối là đúng, thực hiện sai; bản chất là đúng, là tốt nhưng quá trình thực hiện có sai lầm; thế hệ trước là đúng, là tốt, sau này mới tha hóa, xấu xa…

Những sự thật này đã đẩy bên thắng cuộc tới tận cùng của nỗi đau: cả cuộc đời, cả sự nghiệp của họ là vứt đi, thậm chí có tội với dân tộc, với đất nước. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.

Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?

Hà Nội, ngày 25/4/2015

N.V.B                                                           

47 NĂM NHÌN LẠI

Nguyễn như Thành

Đã 47 năm trôi qua….nhìn lại những ngày tháng cũ:
-17/3/1975 VNCH mất Kon Tum & Pleiku
-19/3/1975 Quảng Trị bị giặc chiếm
-23/3/1975 Quảng Ngãi mất
-26/3/1975 Huế rơi vào tay giặc
-1/4/2975 Tuy Hoả Nha Trang không còn nữa

  • 10/4/1975 ở Xuân Lộc Lữ Đoàn 2 Dù & Sư
    Sư Đoàn 18 chận được VC
  • 16/4/1975 mất Phan Rang
  • 21/4/1975 Xuân Lộc thất thủ
  • 28/4/1975 Phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích
  • 30/4/1975 Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10h45 trong tủi nhục…
    Từ đó đã 47 năm với bao bi kịch:
  • hơn 1 triệu tù nhân cải tạo, với hơn 200
    ngàn tù nhân bị bức tử với nhiều lý do…
  • thảm trạng thuyền nhân với gần 500 ngàn người đã chết trên đường tìm Tự Do với nhiều lý do
  • Cải Tạo Công Thương nghiệp chỉ là hình thức cướp của bần cùng hoá nhân dân miền Nam cho nghèo như miền Bắc…..
  • Đất nước miền Nam đã nghèo đi….không còn là Hòn Ngọc Viễn Đông.
  • BS Trần Mộng Lâm đã viết: 1 100 năm sau sẽ có người hỏi tại sao người Việt ra đi nhiều như vậy,trong những năm cuối thế kỷ 21? Và 100 năm sau sẽ có những người gốc Việt muốn biết vì sao tổ tiên của họ đã đồ máu và nước mắt dón đau đến mức nào chỉ vì 2 chữ Tự Do ….?
  • Sủ gia Trần Gia Phụng cũng viết: Đây là cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ Cộng Sản bằng chính mạng sống của mình cũng vì muốn có quyền làm Người…..!
    Cuộc chiến bức tử Miền Nam VNCH….bi lụy
    LỊCH SỬ CHIẾN TRANH VN:
    Chúng ta hãy thắp một nén hương lòng cho QLVNCH, các Chiến Sĩ vô danh đã đi vào lịch Sử vì đã hy sinh đời mình cho Tổ Quốc và Lý Tưởng Tự Do. Nhà Văn gốc Binh Chủng Nhảy Dù Phan Nhật Nam đã viết:
    Trận chiến mất Nước 52 ngày của VNCH được khởi đầu bằng cuộc rút quân Tại Cao Nguyên và Huế thật hỗn loạn…Các vị Tướng Tá mặt trận trong ngày 30/4/1975 đã chọn cái chết sau lệnh đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh là quyết định anh hùng, đáng kính: Tướng Phạm Văn Phú, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng, Tướng Trần văn Hai, Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại tá Nguyển Hữu Thông, Trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long….
    Chúng ta phải ngả đầu ngưỡng phục và dành ngôi vị anh hùng cho những Người Lính, những Cán Bộ cấp nhỏ trong Chính Quyền và những Sĩ Quan từ cấp Trung Đoàn Trưởng, Lữ Đoàn Trưởng trở
    Nhân cuộc Chiến đấu Bi Hùng ca của Quân Dân Ukraina ….
    Trông Người mà nghĩ đến Ta:
  • Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu & Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã bằng lòng để nhân viên Toà Đại Sư Mỹ lo chuyện di tản…mặc dù trong ngày từ chức Tổng Thống đã nói: Tôi từ chức Tổng Thống nhưng Quân Lực VNCH còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu…”. Ông mang xuống tuyền đài câu nói này! Ông hành động:
  • Khác với Thủ Tướng của Cao Miên Sirik Matat. Ông này nói: “Tôi ở và Chết ở đây. Chỉ trách chúng tôi đã quá tin người Mỹ…
    ……………
  • Khác với Tổng Thống Ukraina Volodymyr Zelensky khi ông được người Mỹ đề nghị cho di tản; ông nói: “I need more ammunition, I don’t need a ride” ( Tôi cần thêm đạn, tôi không cần phương tiện để chạy).
  • Phải chi nếu Tổng Tham Mưu Trưởng là các Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu….thì cuộc chiến Việt Nam có khác với Trung Tướng Nguyễên Vĩnh Nghi (chạy sớm) và Chuẩn Tướng nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh?
    Tôi tin rằng: nếu biết kết cuộc Chiến Tranh VNCH
  • Là 47 năm dài tủi nhục
  • Là những năm tháng dài thảm hại trong các trại tù cải tạo …
  • Là bỏ xác trên đường vượt biên, vượt biển
  • Là một kết cục bán nước của tập đoàn tư bản đỏ Mafia Cộng Sản VN
  • Là một chế độ độc tài Đảng trị Hèn với Giặc, Ác với Dân…..
  • Là lao động bị bóc lột, bán mồ hôi của công nhân Việt…
  • Là Người con gái VN phải bán thân…
    Thì chắc chắn Quân Dân VNCH sẽ chiến đấu đến cùng cho dù phải tan hoang, phải đồ nát như Ukraina. Chúng ta vẫn còn canh bạc cuối: tử thủ vùng 4 khi Quân Dân sát cánh một lòng…với các dũng tướng của Quân Đoàn 4 Quân Khu 4.…..Chỉ vì chúng ta bị nằm vùng và phong trào của các Thành phần Thứ 3, Các chính khách, Trí thức Sa lông, Tôn Giáo Ru ngủ không có lập trường rõ ràng…
    Chúng ta khác với Ukraina, vì họ đã có kinh nghiệm với hơn 4 triệu người đã chết vì nạn đói do Cộng Sản Xô Viết thời Stalin gây ra.

    Lại môt mùa Quốc Hận với Quân Cán Chính và Người dân VNCH nói riêng và cả nước VN đang sống không có quyền làm Người, thiếu Tự Do với dảng CSVN độc tài đảng trị, Hèn với Giặc, Ác với Dân:
    Tôi viễn xứ..người biển sâu
    Chung hồn lưu lạc, chung sầu quê hương
    Người trên sóng nước trùng dương
    Tôi khung cửa hẹp, gió sương bốn mùa
    Bóc tờ lịch lại Tháng Tư
    Đem tình sông núi làm Thơ khóc người
    Người vùi xương trắng biển khơi
    Còn Tôi sống kiếp dân Hời vì Ai
    ( trích thơ Ngô Minh Hằng)

    .
    47 lại về, ray rứt lòng Quân Cán Chính và Người Dân VNCH. Viết cho Tôi, viết cho những Ai còn nghĩ đến tiền đồ Dân Việt… Nghĩ đến 4000 năm Cha Ông gìn giữ bờ cõi, nòi giống Tiên Rồng
    Vẫn mơ thành Người Quang Trung, Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Lê Lợi…..sử sách còn ghi……..
    Độc lập, Tự Do chỉ là Bánh vẽ
    Hạnh phúc Quê Hương sao thấy khôi hài
    Em đừng về, ngõ cũ chẳng thân quen
    Cả nước đang tù, quê hương đói khổ
    Hãy đốt lên đi ngọn lửa xuống đường
    Mưa buồn, bụi đỏ vào mùa tranh đấu
    Chút nào ấm nóng quê hương giữ lửa
    Hét vang xa rung chuyển thế gian này
    Tha phương đất khách, thương trời cũ
    Quốc hận muộn đời, giấc Nam Kha
    Sài Gòn chợt nắng, chợt mưa
    Bốn mươi bẩy năm, Trời Buồn ray rứt……

    .
    Montreal 17/3/2022
    Nguyễn như Thành

Giờ phút cuối cùng ngày 30-4, sự thật quan trọng hơn sự kiện

2006.04.30 – Nam Nguyên, phóng viên đài RFA

Vũ Văn Ánh

30 Tháng Tư 1975, cách đây 31 năm tổng thống Dương Văn Minh, nhà lãnh đạo cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã đầu hàng quân cộng sản Bắc Việt. Quyết định vừa nói được mô tả là để Saigon khỏi trở thành một biển máu.

Tổng thống Dương Văn Minh và chính phủ của ông trên thực tế chỉ tồn tại 36 giờ, nhưng là những thời khắc đầy cam go trăn trở. Giờ phút sau cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã diễn ra như thế nào, các sử gia cho rằng sự thật quan trọng hơn sự kiện, và muốn tìm hiểu sự thật thì hãy ghi nhận từ các nhân chứng.

Trong tinh thần mỗi chế độ mỗi chính phủ gắn liền với tiếng nói chính thức của mình, Nam Nguyên phỏng vấn ông Vũ Ánh, người chứng kiến cảnh ông Dương Văn Minh bị áp giải tới Đài Phát Thanh Saigon để đọc văn kiện đầu hàng. Từ California ông Vũ Ánh phát biểu.

Vũ Ánh: Quan trọng nhất là sự thật, bởi vì tôi tin tưởng là lịch sử có tiếng nói riêng của nó. Và không ai có thể bóp méo tiếng nói của lịch sử.

Nam Nguyên: Thưa ông Vũ Ánh vào thời điểm 30/4/75 ông là cấp chỉ huy cao nhất tại Đài Phát Thanh Saigon, năm ấy ông bao nhiêu tuổi?

Vũ Ánh: Năm 1975 tôi 34 tuổi, lúc đó tôi đang giữ cương vị là chánh sự vụ một sở tương đối có tầm vóc khá quan trọng vào lúc miền Nam VN có những biến chuyển. Đó là Sở Thời Sự Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia.

Những diễn tiến cuối cùng

Nam Nguyên: Thưa ông Vũ Ánh, trên ông còn có các cấp chỉ huy cao hơn, họ không có mặt trong những ngày đó hay sao?

Vũ Ánh: Tôi cần nhấn mạnh là từ ngày 1 tháng Tư cho tới lúc 11g ngày 30/4/75, tôi không về nhà mà ở luôn trong Đài Phát Thanh Saigon. Thực sự là từ ngày 15/4 các cấp chỉ huy trên tôi không đến Đài nữa, họ chỉ gọi điện thoại vào hỏi thăm tình hình thôi.

Đứng trước trách nhiệm như thế, tôi trở thành người phải giải quyết mọi chuyện ở trong Đài. Thật ra không có ai chỉ thị là tôi phải đảm nhận công việc đó, nhưng tôi thấy đây là trách nhiệm của một người làm truyền thông. Nhất là truyền thông của quốc gia.

Nam Nguyên: Thưa ông trong những ngày 29 và 30/4 có bao nhiêu bản thông điệp, hiệu triệu, và nhật lệnh được Đài Saigon phát đi?

Vũ Ánh: Trong giai đoạn đó ít nhất có hai nhật lệnh của Tổng Tham Mưu Trưởng, 1 lời hiệu triệu của ông Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền, một số bản thông cáo của Phủ Thủ Tướng cũng như Bộ Nội Vụ.

Sau khi ông Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28, thủ tướng mới là ông Vũ Văn Mẫu đã đọc tuyên bố yêu cầu người Mỹ quân đội Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

Nên nhớ rằng người ta không thể chế ra lịch sử được, lịch sử có giá trị của nó bởi vì nhân chứng sống còn rất là nhiều trong đó có tôi vẫn còn sống, mặc dù đã trải qua một thời gian rất dài trong trại cải tạo.

Tình hình bên ngoài lúc đó rất là lộn xộn, Đài Sài Gòn phát đi nhiều thông cáo có tính trấn an người dân, lúc đó người ta dầy xéo lên nhau trước Toà Đại Sứ Mỹ để tìm một chỗ di tản.

Lịch xử bị xuyên tạc

Nam Nguyên: Thưa ông như vậy làn sóng phát thanh quốc gia của chính phủ cuối cùng vẫn được duy trì, và duy trì cho đến lúc nào?

Vũ Ánh: Điều chắc chắn, ở đây còn rất nhiều nhân chứng. Tôi thấy quyển Đại Thắng Mùa Xuân của ông Văn Tiến Dũng viết sau khi chiếm được miền Nam có những chi tiết sai.

Chẳng hạn ông ta viết rằng là quân cộng sản tiến vào Đài Phát Thanh Sài Gòn, lúc đó Đài bỏ hoang không còn ai. Điều này hoàn toàn sai, nên nhớ rằng người ta không thể chế ra lịch sử được, lịch sử có giá trị của nó bởi vì nhân chứng sống còn rất là nhiều trong đó có tôi vẫn còn sống, mặc dù đã trải qua một thời gian rất dài trong trại cải tạo.

Khi ra hải ngoại tôi vẫn còn đủ minh mẫn để nói lên điều này, cho tới 11 giờ ngày 30/4/75 tiếng nói quốc gia VNCH vẫn còn. Sau đó khi phát lệnh đầu hàng văn bản lần thứ hai của tổng thống Dương Văn Minh thu tại đài phát thanh Saigon, thì lúc đó mới chấm dứt tiếng nói của quốc gia VNCH.

Trước khi xảy ra biến cố ngày 30/4 không lúc nào làn sóng của đài phát thanh Saigon bị gián đoạn hết, ngay cả ngày 28, 29 và sáng ngày 30, mỗi khi bắt đầu phát thanh vào lúc 5 giờ sáng chúng tôi đều cử quốc thiều và lời giới thiệu ‘Đây là tiếng nói nước Việt Nam Cộng Hoà phát thanh từ thủ đô Sài Gòn.

Thứ hai nữa có một sự kiện đặc biệt là ngày 28/4/75 vào lúc 5 giờ chiều chúng tôi vẫn thực hiện buổi trực tiếp truyền thanh lễ nhậm chức của tổng thống Dương Văn Minh. Phóng viên tường thuật trực tiếp truyền thanh hôm đó là anh Nguyễn Mạnh Tiến, hai phóng viên nữa cũng có mặt.

Xin thêm rằng, trực tiếp truyền thanh ngày trứơc không phải như bây giờ, đó là một hoạt động công phu và cồng kềnh. Chúng tôi phải đem một xe lưu động tới ráp đặt hệ thống máy móc tại phủ tổng thống, ở đài trung ương đã lên sóng buổi trực tiếp truyền thanh rất đàng hoàng. Cho tới trưa ngày 30/4 hệ thống kỹ thuật nhân viên đầy đủ không trở ngại. Buổi sáng ngày 30/4 Phòng Tin Tức và Phòng Phóng Viên vẫn làm việc như thường, ngay vào thời điểm ông Dương Văn Minh tới Đài đọc văn kiện đầu hàng, người phụ tá cho tôi là anh Vũ Thành An cũng có mặt.

Bên phòng phóng viên chúng tôi vẫn còn Phạm Mạnh Đức, Lê Phú Bổn, Nguyễn Vĩnh Lộc, người sau này là bạn đời của tôi cô phóng viên yến Tuyết cũng có mặt tới giờ cuối cùng, có cả anh Hải quản đốc đài ban Mê Thuột.

Bên Tin Tức thì có chủ bút Hồ Cầu, Phí Ích Bành và 4 biên tập viên nữa. Tôi còn nhớ có cô Triều Lương Anh Phương còn làm việc đến giờ phút chót, trưa 30/4 khi tôi rời đài thì cô này cũng ra cùng.

Đó là những phần hành liên quan tới phát thanh. Còn phòng sản xuất thì gồm 4 người, cô Bạch Kim Hồng, bà Ngọc Sương vợ ông Nghiêm Phú Phi, tôi thấy bà Minh Diệu, Minh Tần đều có mặt trong phòng sản xuất trong buổi sáng 30/4.

Thông điệp của TT Dương Văn Minh

Nam Nguyên: Khoảng hơn 10 giờ đài có phát một thông điệp của ông Dương Văn minh, cái đó đi thu bên Dinh hay sao?

Vũ Ánh: Tôi cần nói rõ một điều, ngừơi ta vẫn lầm vì có tới hai bản hiệu triệu khác nhau mà ông Dương Văn minh đọc. Bản thứ nhất phát đi lúc 10g15 sáng, trứơc đó lúc 10g kém 15 ông Dương Văn Minh yêu cầu tôi cử ngừơi sang số 7 Thống Nhất để thu thanh lời hiệu triệu rất quan trọng. Tôi cử phóng viên Lê Phú Bổn và kỹ thuật viên Hồ Ổn đi làm công tác này.

Bản thông điệp đó là bản viết tay do Tổng thống Dương Văn Minh tự thảo, ông đọc vấp rất nhiều lần và chúng tôi phải thu đi thu lại. Nội dung thông điệp này ông Minh kêu gọi binh sĩ, cảnh sát, quân đội giữ nguyên vị trí cũ để chờ chính phủ bàn giao trong vòng trật tự cho người anh em phía bên kia tức là cộng sản Bắc Việt.

Đó là bản thứ nhất, tôi nhận được lệnh tổng trưởng thông tin lúc đó là ông Lý Quí Chung nói rằng phải phát đúng 10g15 nếu không phát thì Saigon sẽ là một biển máu. Tôi không bao giờ quên sự kiện này, và tôi đã thi hành đúng như vậy…

Nam Nguyên: Bài hiệu triệu đó được phát mấy lần?

Vũ Ánh: Được phát một lần duy nhất vào lúc 10g 15 phút. Sau đó thì tổng thống Dương Văn Minh rời số 7 Thống Nhất (Phủ Thủ Tướng VNCH) để về Dinh Độc Lập cùng nội các mới thành lập của ông, chuẩn bị đón Cộng Sản Bắc Việt vô để bàn giao.

Tuy nhiên, khi quân cộng sản phá đổ cửa Dinh Độc Lập, những người đầu tiên đi vào đã bắt giữ tất cả, kể cả tổng thống, phó tổng thống, thủ tứơng và một số thành viên nội các, và giam vào phòng khánh tiết. Sau đó họ giải giao ông Dương Văn Minh sang Đài Phát Thanh Saigon.

Khi quân cộng sản phá đổ cửa Dinh Độc Lập, những người đầu tiên đi vào đã bắt giữ tất cả, kể cả tổng thống, phó tổng thống, thủ tứơng và một số thành viên nội các, và giam vào phòng khánh tiết. Sau đó họ giải giao ông Dương Văn Minh sang Đài Phát Thanh Saigon.

Nam Nguyên: Thưa lúc đó là mấy giờ?

Vũ Ánh: Mọi việc diễn biến rất nhanh, lúc đó khoảng 11 giờ kém 15 phút, bởi vì trứơc đó ông Nguyễn Hữu Hạnh Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH do ông Minh bổ nhiệm, đã sang Đài gặp tôi và cho biết ông sang để nhận Đài Phát Thanh và giao cho phía bên kia.

Tôi đứng nói chuyện với ông Hạnh độ khoảng dăm ba phút gì đó, thì thấy ông Dương Văn Minh từ Dinh Độc Lập bị giải giao qua Đài Phát Thanh. Khi cửa xe mở ra, thấy có hai người tay cầm súng K54 áp giải ông Minh, họ mặc quần áo tác chiến quân đội có đeo cấp hàm.

Những chứng nhân của lịch sử

Nam Nguyên: Ngoài xe chở ông Dương Văn Minh, còn có những xe nào khác?

Vũ Ánh: Sau xe đó có nhiều xe khác chở những người mặc thường phục, những người này rất trẻ, tay trái họ đeo băng đỏ. Tôi nhận ra Nguyễn Hữu Thái, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm…

Nhiều người nữa ở phía, trong đó có một người mà anh em báo chí thường hay gặp, một người luôn xuất hiện với cái ‘búi tó củ hành’, không biết anh ta làm ở báo nào nhưng tôi biết anh ta tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm. Đó là Hà Huy Đỉnh, lúc ấy anh ta cầm một máy quay phim. Tôi và Hà Huy Đỉnh có biết mặt nhau, tôi chào và anh ta chào lại.

Ngoài ra còn có vài phóng viên nứơc ngoài, trong số đó tôi nhận ra George Asper trưởng văn phòng AP tại Saigon.

Khi hai ngừơi áp giải ông Dương Văn Minh lên phòng vi âm lớn ở trên lầu, ngừơi coi máy vẫn còn ngồi đó, thế nhưng thái độ của bà ta hết sức sợ hãi, tay lóng cóng không thể nào ghi âm được.

Lúc đó tôi thấy một người phóng viên Mỹ đưa vào một máy cassette vào để mà thu thanh riêng cho mình thôi.

Bạn hoặc người thân trong gia đình có chứng kiến giờ phút cuối cùng ngày 30-4-1975? Xin gửi email về Vietweb@rfa.org

Bên ngoài phòng máy, sau khi trấn tĩnh lại được thì họ vẫn thu bằng băng lớn như thường, tôi biết chắc khi phát thanh là băng lớn, chứ băng cassette thì sau đó người phóng viên kia mang đi.

Lúc đó khoảng hơn 11giờ, tôi thấy không còn chuyện gì liên quan đến mình nên tôi đi xúông dưới và nói với ông Nguyễn Hữu Hạnh là tôi ra khỏi Đài. Tôi còn nhớ anh Vũ Thành An còn ở lại tới giờ phút chót, tôi nói với Vũ Thành An rằng, có lẽ đây là ‘Bài không Tên Cuối Cùng’ của chúng ta rồi. Đó là lời tôi nói với Vũ Thành An, và đó là tất cả câu chuyện của ngày 30/4 ở Đài Phát Thanh Saigon, coi như là lúc chấm dứt cuộc đời công vụ của tôi đối với chế độ VNCH.

Nam Nguyên: Cảm ơn ông Vũ Ánh về thời giờ ông dành cho RFA.© 2006 Radio Free Asia

Ngày 30/04: Nếu còn thiết tha hãy giúp một tay để lịch sử không bị đánh mất

  • Alex Thái Đình Võ
  • Gửi bài từ Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ
Khách sạn Continental cổ xưa nhất Việt Nam nằm trên đường Đồng Khởi, xây dựng 1878 theo lối kiến trúc giống như Toà Thị Chính Paris. Sau 1975 vẫn còn giữ nguyên tên cũ.

30/4 năm nay bạn nghĩ gì?

Tôi nghĩ nhiều về lịch sử, và trách nhiệm của mỗi người trong việc giữ gìn và làm sáng tỏ lịch sử.

Lịch sử thu nhỏ là hồi ký của từng cá nhân, là gia phả của mỗi gia đình, nhưng gôm chung sẽ là lịch sử của một đất nước, của nhân loại.

Nhà hùng biện Marcus Garvey từng nói “Một người không có kiến thức về lịch sử nguồn gốc và văn hóa của mình [thì cũng] giống như một cây không có rễ.”

Lịch sử giải thích quá khứ, định hình hiện tại, và định hướng tương lai nên việc thông hiểu lịch sử luôn là điều tất yếu.

Nhưng đây là điều không dễ, vì lịch sử rất dễ bị ghi lại một cách sai lạc.

Mỗi thể chế chính trị khi lên cầm quyền thường củng cố lịch sử theo định hướng của mình, vì nắm được lịch sử tức nắm được não trạng của dân.

Các cường quốc trong lịch sử được hình thành không chỉ ở sức mạnh kinh tế hoặc quân sự mà còn ở việc tạo dựng một nền tảng lịch sử vững vàng theo định hướng chính trị của thể chế cai trị.

Một lịch sử bị ‘định hướng’

Sau năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chính quyền Việt Nam cũng làm điều này, qua việc triệt sản tất cả các nhân vật, sự kiện, và khía cạnh mang dấu ấn của thể chế trước hoặc mang tính trái chiều.

Các nhân vật lịch sử như Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu đều bị xoá mờ trong sách sử. Các tên tuổi trí thức yêu nước như Phan Châu Trinh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, hay Nhất Linh cũng cùng số phận.

Biểu tượng của chính thể VNCH, từ lá cờ cho đến tên đường và tác phẩm nghệ thuật, đều bị xoá hoặc cấm. Thay vào đó là sự độc quyền trong việc trưng bày và phổ biến biểu tượng của chính thể mới.

Đinh Độc Lập trở thành Đinh Thống Nhất, Đường Công Lý đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa, trường trung học Gia Long được thay tên thành Nguyễn Thị Minh Khai, Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà bị bỏ hoang.

Qua thời gian, mọi ngóc ngách của xã hội đều bị vây phủ bởi những biểu tượng cách mạng, từ hình ảnh Hồ Chí Minh đến màu cờ đỏ, đến sự nở rộ của những tên Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Phạm Văn Đồng trên khắp mọi nẻo đường.

Và qua thời gian, người Việt, nhất là thế hệ trẻ, nghiễm nhiên cho rằng sự tồn tại của Việt Nam là do công của các nhà lãnh đạo cộng sản.

Mặt khác nhiều người Việt không muốn nhắc đến cuộc chiến đã kết thúc ngày 30/4/1975, cơ bản vì sự khốc liệt và gây chia rẽ của nó.

“Đề tài xưa như trái đất không phù hợp cho giới trẻ và thời cuộc hiện nay. Thắng thua cũng đã định thì không còn gì để nói và chỉ nên để cho lịch sử phán xét.” Họ nói.

Câu nói này thoáng nghe có vẻ bình thường, nhưng cho thấy một vấn đề khá nghiêm trọng trong nhận thức của nhiều người Việt về lịch sử.

Lịch sử không phải là một thực thể tự có thể tìm tòi, so sánh, suy luận thì tự nó làm sao có thể nhận định, phán xét?

Không biết bao nhiêu sách báo đã viết về cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt 46 năm, nhưng chúng ta cần nhìn nhận sự thật là đến nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu hết về cuộc chiến này.

Nhất là về những khía cạnh xã hội, kinh tế, và văn hóa, từ quan điểm và tầm nhìn của những thường dân, dù bên thắng hay bên thua, hoặc những người vô can, đứng giữa hai lằn đạn.

Thủ Tướng Winston Churchill từng nói “Lịch sử đã và sẽ được viết bởi kẻ thắng.”

Nếu lịch sử đã và sẽ được viết bởi phe thắng cuộc, những kẻ nắm quyền, vậy bên thua cuộc, những người ở vị thế không có quyền lực thì sao?

Có phải vô hình trung tiếng nói của họ sẽ tiếp tục bị vùi dập qua các hình thức kiểm duyệt hay bị loại bỏ khỏi sách sử và các cuộc bàn luận?

Hệ quả của những hiểu biết chưa tường tận là những ngộ nhận và cáo trạng đầy phiến diện được nhét vào đầu các thế hệ thanh thiếu niên trong thời gian 40, 50 năm qua.

Điều này sẽ tiếp tục xảy ra với những thế hệ sau nếu không có những nỗ lực hầu quân bình lại cái nhìn về lịch sử chiến tranh Việt Nam cũng như hậu quả của nó.

‘Em không biết gì về Tù cải tạo’

Có lần, khi được mời thỉnh giảng cho một lớp sử tại một trường đại học ở Hà Nội với chủ đề người “Việt trên đất Mỹ,” tôi ghi hai từ “Vượt Biển” và “Tù Cải Tạo” trên bảng và hỏi sinh viên nghĩ gì về hai từ ấy.

Tôi khá ngạc nhiên khi thấy đa số đều không hiểu biết ý nghĩa lịch sử phía sau hai từ đó trong sự hình thành của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Đa số đều không biết diện HO là gì, hay bao nhiêu phần trăm những người được qua Mỹ sau này là cựu sĩ quan VNCH từng bị giam cầm nhiều năm trong những trại tù cải tạo.

Những người dân miền Nam tuyệt vọng cố gắng trèo vào tòa Đại sứ quán Mỹ để chạy trốn khỏi Sài Gòn. Ngày hôm sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn rơi vào tay cộng sản và Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc

Sau lớp, vài sinh viên lên găp tôi và rưng rưng nước mắt thú nhận: “Em không hề biết gì về Tù cải tạo. Xưa nay em chỉ nghĩ những người ở Mỹ là những người phản quốc. Không biết sự cực khổ họ đã phải trải qua. Em cứ tưởng họ qua đấy là được chu cấp nhà cửa và mọi tiện nghi.”

Lần khác, trong năm học lớp 7, sau khi người thầy chiếu bộ phim ‘Vietnam: A Television History’ (1983), một cậu học sinh người Mỹ hỏi tôi:

“Nhà mày ở bên phe nào (cuộc chiến)?”

Tôi trả lời “Miền Nam,” lập tức cậu ấy chỉa tay vào mặt tôi, cười và la lên như vẻ đang đưa ra một phán quyết, “À, vậy gia đình mày thua là đáng!”

Lần khác nữa, trong năm học ở Đại Học Berkeley, trong lớp về “Hoà Bình và Xung Đột”, tôi viết một bài luận phản ảnh sự thiên lệch trong cách giảng dạy và tài liệu dùng trong lớp về cuộc chiến Việt Nam.

Thay vì tìm hiểu và trao đổi, vị giáo sư của lớp cho tôi điểm “F-“, điểm thấp nhất có thể, cùng với một trang viết, lý giải rằng tôi được điểm ấy vì không theo nguyên tắc của một bài luận, và những phản ảnh của tôi xuất phát từ việc tôi chưa vứt bỏ được cái đắng cay của kẻ thuộc bên thua cuộc.

Trên đây là những họa tiết nhỏ, nhưng phản ảnh những bài học và nhận định về lịch sử chiến tranh Việt Nam mà con cháu của chúng ta đã, đang, và sẽ được dạy ở học đường.

‘Bóp méo’ chiến tranh Việt Nam

Điển hình và gần đây nhất về sự bóp méo chiến tranh Việt Nam được thể hiện trong hai bộ phim: ‘Việt Nam: Thời Đại Hồ Chí Minh’ sản xuất ở Việt Nam và ‘The Vietnam War’ sản xuất ở Hoa Kỳ.

Lấy danh nghĩa công bằng, trung thực, nhằm nói lên tiếng nói của nhiều người, từ nhiều khía cạnh, cả hai bộ phim tạo cho người xem cảm giác mới lạ, nhưng trên thực tế chỉ là một màn ảo, nhai lại những định kiến của 40, 50 năm qua.

Với ‘Việt Nam: Thời Đại Hồ Chí Minh,’ khi đoàn làm phim liên lạc để nhờ tôi giúp kết nối phỏng vấn một số học giả ở Hoa Kỳ, danh sách họ đưa đa số là các học giả thuộc nhóm phản chiến, ít thiện cảm với VNCH hoặc chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc chiến.

Còn với ‘The Vietnam War’, dù với tiêu chí là sẽ đưa vào nhiều tiếng nói khác nhau, công bằng và quân bình hơn, nhưng thực tế không như vậy.

Trong 79 chứng nhân hai đạo diễn Ken Burns and Lynn Novick chọn để đưa hình ảnh và tiếng nói lên màn hình, thì 50 là người Mỹ và 29 là người Viêt Nam. Nhưng trong 29 người Việt Nam thì 13 người thuộc quân đội và chính quyền miền Bắc, ngoại trừ Huy Đức, 6 thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tức tổng cộng là 19 người liên quan với miền Bắc, trong khi chỉ có 9 người đại diện cho miền Nam Việt Nam.

Với những con số lệch lạc này thì thời lượng để bày tỏ quan điểm về sự việc cũng theo đó mà sai lệch, trong khi cuộc chiến đa phần xảy ra ở miền Nam Việt Nam.

Kết quả là cả hai bộ phim này góp tay xoá hầu hết những khám phá mới và quân bình hơn mà nhiều nhà nghiên cứu đã dầy công tìm hiểu trong 15-20 năm qua.

Nói cho cùng, nếu lịch sử của chính mình mà chúng ta không quan tâm, không tìm hiểu, không viết xuống, không trân quý giữ gìn, thì đừng trách tại sao lịch sử người khác viết có những sai lệch, phiến diện và đầy định kiến.

Ai có bổn phận ‘giữ gìn lịch sử’?

Đã đến lúc người Việt cần góp phần mình trong việc giữ gìn lịch sử.

Lịch sử không thể chỉ là những trang sách về câu chuyện rồng tiên đầy xa lạ, hay dừng lại ở vài bức tranh về những anh hùng chống ngoại xâm được phóng đại bởi dân tộc chủ nghĩa, hoặc ở những cái tên như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, và Lê Duẩn, hay Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.

Lịch sử công bằng và trung thực là lịch sử ghi nhận tất cả sự phức tạp và những sắc thái cấu tạo nên một con người, một xã hội, một dân tộc, và một đất nước.

Là nhìn nhận rằng Việt Nam không chỉ có những hình ảnh rừng vàng biển bạc, mà phải nói cả về sự nghèo đói bao người Việt phải trải qua bao thế hệ từ xưa đến nay.

Là nhìn nhận rằng song song với những cuộc chiến chống ngoại xâm đầy tự hào là những cuộc huynh đệ tương tàn đầy bi ai.

Lịch sử trung thực phải là bức tranh về con người thật, xã hội thật, cũng những vui buồn đắng cay mà một cuộc đời, một dân tộc phải trải qua.

Bức tranh ấy phải cho ta sự tàn khốc của bom đạn ở Khâm Thiên, thảm sát ở Huế, phải làm rõ những vụ thanh trừng và đàn áp, phải bám theo những gót chân di cư năm 1954, cũng như của những người tập kết ra Bắc, của hệ quả từ các chính sách cải cách ruộng đất, đánh tư sản, và tù cải tạo, hay những diễn biến kinh tế và xã hội đưa đến vấn nạn vượt biên, vượt biển bỏ nước ra đi.

Bức tranh ấy phải vẽ rõ hơn về những con số và bộ mặt của bao thanh niên thanh nữ bỏ xác trên chiến trường, dọc theo con dường mòn có tên Hồ Chí Minh.

Nó phải là bức tranh có những câu chuyện của những người phụ nữ một thân lo gia đình khi chồng bị tù đầy.

Nó phải là bức tranh về cuộc sống thường ngày của con người trong thời cuộc, từ những sinh hoạt ở nông thôn đến thị thành, ở công sở cũng như nhà trường, hoặc những nỗi lo ngại tính toán mỗi khi vật giá leo thang do lạm phát và thất nghiệp.

Nó phải là bức tranh của những cuộc sống trên đất người, từ những khó khăn đến thành công, vì dù muốn hay không, đó cũng là câu chuyện của con người Việt Nam, tức lịch sử Việt Nam.

Bức tranh đa dạng ấy về lịch sử chiến tranh Việt Nam phải bắt đầu từ mỗi chúng ta.

Từ sự mở lòng để kể rõ chuyện của mình với con cháu, từ sự hiếu kỳ với cuộc đời của cha mẹ và anh chị, từ sự khoan dung giữa người với người, dù trước kia từng là người bên kia giới tuyến.

Điều đó tất cả chúng ta đều nên làm và có thể làm, chỉ cần bắt đầu với cây bút, tập vở, hay chiếc iPhone hoặc Samsung.

Làm sao để giữ gìn lịch sử?

Tôi nghĩ, chúng ta hãy bắt đầu với những câu hỏi rất bình thường:

-Bố sinh năm nào? ở đâu? Nhà bố có bao nhiêu anh chị em? Ông, bà tên gì?

-Khi còn nhỏ, giấc mơ của mẹ là gì?

-Bố mẹ gặp nhau trong cơ duyên nào? Cảm giác đầu khi nhìn nhau là gì?

-Ba nhập ngũ năm nào? Tiểu đoàn của ba đóng ở đâu? Ba đã từng đánh bao nhiêu trận?

-Đường Trường Sơn khó nhọc ra sao? Bố mất bao nhiêu đồng đội và xác của họ giờ ở đâu?

-Khi phải đối diện Bác Hai ở chiến trường, suy nghĩ đầu tiên của ba là gì?

-Tết Mậu Thân gia đình mình đang làm gì?

-Khi bom rơi xuống Khâm Thiên thì nhà mình đang ở đâu?

-Chị nhớ gì về ngày Tết? Những ngày học ở Gia Long?

-Người cán bộ cai tù trong trại cải tạo đối xử với ba như thế nào?

-Ngày mẹ đẩy con và em lên thuyền, mẹ có nghĩ sẽ gặp lại chúng con?

-Bao cấp khổ như thế nào mẹ? Anh Hai có gởi tiền về giúp mẹ không?

-Hôm ra khỏi cổng trại, hít hởi thở tự do sau 6 năm tù, ba cảm thế nào?

Vâng. Hãy cứ bắt đầu bằng những câu hỏi và sự tò mò như khi ta đọc một cuốn tiểu thuyết.

Cứ để nhân vật chính dẫn ta vào thế giới của họ. Để họ vẽ bức tranh riêng, đậm nhạt cùng những nụ cười trên vành môi hay những giọt nước bên mí mắt. Hãy để họ tức giận theo cơn phẫn nộ và trầm tư khi cần một phút nghỉ.

Hãy bắt đầu gom nhặt những mảnh đời, rồi ghép lại thành bức tranh lịch sử về anh chị về mẹ cha.

Trước tiên, hãy trao tặng bức tranh ấy cho con cháu, vì một ngày chúng sẽ khát khao được xem, được biết.

Sau đó, hãy trao tặng những câu chuyện này cho các sử gia, các trung tâm nghiên cứu và lưu trữ, hoặc các thư viện, như Thư Viện Quốc Gia Hoa Kỳ, với lòng tin rằng một ngày, một ngày không xa, những câu chuyện ấy sẽ góp phần vẽ nên một bức tranh lịch sử đầy sắc mầu.

Bức tranh ấy sẽ làm sáng tỏ hơn về một giai đoạn lịch sử còn nhiều khúc mắc hầu giúp người sau hiểu rõ chuyện gì đã thực sự xảy ra.

Công việc này đòi hỏi sự góp tay của nhiều người, và bắt đầu với từng mỗi cá nhân ở mỗi gia đình.

Đã 46 năm rồi! Nếu chúng ta thiết tha nghĩ đến một giai đoạn lịch sử thì xin hãy góp tay để lịch sử đừng bị đánh mất.

Bài thể hiện quan điểm riêng của Alex-Thái Đình Võ, tiến sĩ sử học, hiện làm việc và cư ngụ tại Honolulu, Hawai

Chuyện Sài Gòn và sách ‘trước Bảy Lăm’

*Nguyễn Vĩnh Nguyên

 Có cuốn mới tinh, có cuốn rách bìa, đa số thì ố vàng và đã nhạt màu mực. Mỗi cuốn sách một số phận, trôi nổi qua biết bao biến cố, bỗng một hôm trở về với người sưu tầm, người đọc như những báu vật của thời gian… Gọi đó là “sách Sài Gòn trước Bảy Lăm.”

   Trên đường sách Sài Gòn giữa Quận Một ngày nay, có mấy kiosk bán sách cũ Sài Gòn xuất bản trước 1975. Ngoài sách, các ấn phẩm của thời kỳ này như báo chí, bản đồ, post-card và tờ nhạc cũng xuất hiện trở lại một cách công khai.

   Quán Sách Mùa Thu là nơi có hàng ngàn đầu sách đầy bất ngờ tụ về từ những thư viện gia đình khóa kín gần nửa thế kỷ. Nếu các ông Duyên Anh, Phạm Công Thiện mà sống lại, dạo bước qua mấy chỗ này hẳn sẽ bất ngờ vì tác phẩm của mình còn được đám hậu duệ sưu tầm đủ. Các sách văn học, triết học, chính trị… đình đám của một thời kỳ xuất bản tự do đã trở lại với độc giả hôm nay, bằng chính nguyên bản như mới, được người bán trau chuốt giữ gìn, đóng bìa, may lại gáy. Màu giấy vàng, lối làm bìa sách thanh nhã của một thời… khoác lên những giá sách quý một màu thời gian sâu thẳm.

    Trong một cuộc triển lãm sách cũ do các bạn sưu tập tổ chức, tôi đã gặp một độc giả năm xưa đứng khóc ròng như trẻ thơ khi cầm trên tay cuốn sách “Quốc Sử” của Lớp Nhất, vì cuốn sách gợi nhớ đến một người bạn chung lớp đã bỏ xác trên biển hồi sau 1975.

    Sách chạm vào ký ức của từng người theo một cách thế riêng, âm thầm. Tôi cũng từng dẫn những bạn bè lớn tuổi đến đây sau nhiều năm xa nước, họ mân mê những bản sách cũ đã trôi dạt qua những biến cố lịch sử như chính cuộc đời họ, mà quên cả thời gian trở về với thực tại.

   Giáo sư thiên văn học Trịnh Xuân Thuận (thứ hai, trái) và sử gia Philippe Papin tìm hiểu về sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 tại Quán Sách Mùa Thu trên đường sách Sài Gòn. (Hình: Nguyễn Vĩnh Nguyên)

    Gặp lại sách là gặp lại những người bạn thân thiết đã trải qua biết bao thăng trầm dâu bể. Những cuốn sách cũ khơi gợi lại kỷ niệm và gợi nhắc những ký ức đẹp đẽ hay đau buồn. Những quyển sách cũ lặng lẽ nối chuyện thời cuộc và ký ức cá nhân đã trở nên là một.

    Vào khoảng thời gian sau 1975, nhiều người kể lại rằng, nhiều tủ sách, kho sách Sài Gòn đã bị đẩy ra vỉa hè để đốt. Một kiến trúc sư nói với tôi trong nước mắt rằng, cha anh đã phát điên bởi vì thương sách. Ông ta nhìn cái cảnh những cuốn sách mình nâng niu trân quý trở thành mồi cho ngọn lửa trong suốt vài ngày trời mới hết, và nghĩ mình chỉ còn một con đường hoặc ra đi hoặc tự sát.

    Nhưng ở vào thời kỳ đó, đâu chỉ ba của bạn tôi, nhiều người đã phải lựa chọn. Họ phải chôn xuống đất những gì chế độ mới coi là “tàn dư” để bảo toàn mạng sống và tránh những liên lụy cho người thân. Sau cùng người ta đã chọn những cách thế tồn tại trong một hoàn cảnh đầy ngặt nghèo và khốc liệt. Người nâng niu sách như những hiện thân của giá trị văn hóa, của đời sống thanh tao làm sao không đau đớn phát điên cho được khi phải lựa chọn thiêu sách để tự cứu lấy mình.

    Ấy vậy mà bằng những phương cách nào đó thật lạ lùng, những cuốn sách cũ của một thời đã lách qua những cơn bão lửa của thời cuộc để neo giữ một tinh thần, tái hiện một vàng son. Những pho sách qua thời gian đã làm toát lên một phong vị văn hóa khó lẫn, một sự quyến rũ như người giàu có trải nghiệm đang kể câu chuyện cuộc đời mình, đầy mê hoặc.

   Đã có lúc, đâu chừng mươi mười năm trước, dân sưu tầm những sách “trước Bảy Lăm” còn rón rén rụt rè. Tôi còn nhớ thời đó, một tập thơ của Thanh Tâm Tuyền còn được đem ra đấu giá trong giới chơi sách, trong tình trạng lén lút vì sợ bị an ninh theo dõi tịch thu. Sau đó, một tờ báo đã bị nhắc nhở vì đăng bản tin bán đấu giá sách có nhắc đến tên một nhà thơ Sài Gòn cũ. Nhưng nhu cầu quy hồi những giá trị thuộc về văn hóa một thời đã dẫn dắt thị trường sách cũ theo một chiều hướng lạ lùng. Nó buộc những gọng kìm bấy lâu khóa chặt phải mở ra để văn hóa được liền lạc.

   Về Sài Gòn bây giờ đi tìm sách cũ, sẽ không lạ gì chuyện các nhà sưu tầm, giới chơi sách cho đến buôn bán sách cũ đa phần là trẻ. Nhiều người sinh ra sau 1975, nhưng họ có một thao thức, bằng cách này cách khác, làm cho những di sản của một thời kỳ xuất bản được xuất hiện lại một cách tự nhiên, công khai, không rón rén. Họ nói về lịch sử xuất bản, tiểu sử các tác giả… một cách thông thạo như thể những người đã đắm mình trong sinh khí văn hóa một thời Sài Gòn.

    Cùng với các nhà sách offline, các diễn đàn sách xưa trên mạng cũng nhộn nhịp. Thông tin về từng đầu sách được giới thiệu trở lại một cách chi tiết. Như vậy, những ai chuyên tìm kiếm sách cũ có thể hình dung đến một không gian riêng mà đám an ninh không muốn dây vào cấm đoán nhưng cũng không công khai thừa nhận. Từ nguồn sách này, sẽ phát lộ nhiều chất liệu quý để thấy rõ những giá trị tinh hoa của trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời kỳ đã qua. Chúng như những chứng tích này sẽ giúp người đọc hôm nay có một cái nhìn thấu suốt, khách quan về một giai đoạn văn hóa.

    Nhiều cuốn sách cũ đã được giới xuất bản tìm cách tái bản. Trường hợp tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bà Tùng Long, Du Tử Lê, Võ Phiến, Lê Tất Điều hay Dương Nghiễm Mậu… được giới làm xuất bản sinh sau đẻ muộn tìm kiếm ấn bản gốc từ những kho sách cũ như vậy để nhập liệu, làm văn bản và tìm cách tái bản. Dù việc này cũng chưa thật sự suôn sẻ trong bối cảnh kiểm duyệt xuất bản, nhưng những nỗ lực khai thông các trở lực để đặt một gạch nối hôm nay với hôm qua trong văn hóa Sài Gòn, ở giai đoạn này, đáng được nhìn với ánh mắt hoan hỉ hơn xét nét nghiệt ngã bởi những định kiến.

   Quá khứ không còn biến thành những thêu dệt huyền hoặc, những cuốn sách cũ nói với hôm nay về thực tại của văn hóa hôm qua một cách chi tiết. Cho dù, chúng trở thành những báu vật (và được định giá rất cao so với sách mới xuất bản) nhưng những người cần vẫn không ngại ngần để đón về một di chỉ của ký ức.

    Đi qua thời gian và những thăng trầm, những cuốn sách cũ “Sài Gòn trước Bảy Lăm” đang quay trở lại trong đời sống hôm nay thật lộng lẫy, huy hoàng, điều mà có lẽ nhiều người viết ra chúng, người ấn hành chúng, người bảo vệ chúng trong những kho tàng ẩn mật khó hình dung được.

    Nói mỗi cuốn sách có một số phận, là đúng. Như người Sài Gòn, mỗi người một cách thế phiêu dạt cùng thành phố, cùng thời cuộc. Tiếng nói, ngôn từ của người một thời đã được ghi trên giấy, kinh qua những biến cố, đã không hư nát và chìm vào thăm thẳm thời gian, mà còn vang vọng, bằng cách này, cách khác. Dù trong lặng lẽ, thì vẫn là những chứng tích của một khoảnh khắc bừng sáng trong thời gian.

    💝Đó chẳng phải là điều đáng để vui, dù là vui trong nước mắt?!

PHỤ NỮ BẮC NÓI VỀ PHỤ NỮ NAM

(Tác giả Giao Giao Giao)

Ảnh Google

Vào Sài Gòn sống từ 35 năm trước, mình đã thấy rất kinh ngạc, khi nhận ra phụ nữ Sài Gòn sướng hơn phụ nữ miền bắc không biết bao nhiêu mà kể. Nghĩ mãi vẫn chưa hiểu tại sao. Chợ búa, đồ ăn làm sẵn, mọi thứ đều tiện dụng, mua gì cũng có ngay gần nhà, không quá vất vả bữa cơm hay việc nhà, đầu tắt mặt tối ba bữa cơm. Nhà nào cũng có toilet riêng sạch sẽ (dù nghèo) phụ nữ Sài Gòn đa phần giữ bếp núc rất ngăn nắp, chăn màn ga gối văn minh, ai cũng nằm nệm êm không nằm chiếu, không ngủ chung với con, sống chung với cả gia đình đông, lạ nhất là mẹ chồng không bao giờ khăng khăng phải ở với con trai khi con trai lấy vợ. Họ buông tay cho con độc lập có đời sống riêng.

Phụ nữ Sài Gòn rất thích đi ăn tiệm, đi du lịch, họ thích thưởng thức món ăn mới, mặc đồ mới, cởi mở, dám thay đổi, họ không cho rằng cơm nhà mình là nhất, mình là nhất. Họ dễ tính dễ thương, ít chê bai xét nét, so đo về giá như ngoài bắc. Họ mặc đồ xanh đỏ tím vàng quần ngắn, hay hở cả ti ra chả sợ ai nói gì. Dù cùng mức sống, nhưng họ dám sắm máy nước nóng máy lạnh không sợ tốn điện, dù không có vài triệu mua cành hoa đào ngắm ba ngày tết. Họ không sợ chê nghèo, đi xe xấu, họ mặc đẹp đi chiếc xe trông thật ghê, mà vẫn vui.

Phụ nữ Sài Gòn không ôm đồm việc nhà, nhất là không giành lấy mọi thứ trách nhiệm, kiếm tiền dạy con, rồi kiệt sức quên bản thân, họ chăm sóc ngoại hình kể cả người đã có chồng đông con. Phụ nữ nào cũng có bàn trang điểm phấn son, bông tai. Ai cũng có vài cái nhẫn vàng tây; có tí tiền là họ tiêu ngay không cất đi, không để dành, cũng không sắm sửa mấy. Mình nhớ, đã kinh ngạc thế nào khi thấy các cô gái Sài Gòn, chả đi đâu chả tiếp ai, cũng mặc đồ rất đẹp, tô son mỗi sáng, ở ngoài bắc, năm 84, mà lúc nào cũng phấn son xinh đẹp, liền bị gọi ngay là ca-ve.

Họ lười hơn, vụng hơn, nông cạn hơn, có khi nghèo hơn, nhưng tự do hơn, hưởng thụ hơn, độc lập hơn, thẳng thắn hơn. Nhờ thế mà trẻ con cũng đỡ áp lực hơn. Vì các bà mẹ không hy sinh mọi niềm vui cho con cái, họ làm gương cho con mình, sống cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, được tự do là chính mình.

Đặc biệt nhất ở Sài Gòn là phụ nữ cực kỳ tự do cởi mở trong tư tưởng, họ ít chê ai ế hay sợ con mình ế. 35 năm ở đây mình ít thấy ai đánh ghen tàn bạo hay can thiệp đến chuyện cá nhân người khác. Dù ít học, họ cũng ít chấp nhận thói gia trưởng của đàn ông, kiểu như em không được mặc áo hở cổ, không được đi chơi tối, em sao không lo cho chồng con bữa cơm… Họ chiều chồng, nói ngọt, lắng nghe, nhưng không hầu chồng, tuân lệnh chồng, coi chồng là vua chúa.

Phụ nữ Sài Gòn luôn có thói quen dành thời gian cho bản thân, thứ xa xỉ mà phụ nữ miền bắc cho là một sự hoang phí: ăn hàng, làm nail, gội đầu tiệm, mua sắm… Chả ai ở ngoài bắc đi du lịch riêng với bạn bè khi đã có chồng con, du lịch Tết mà không cúng ông bà, quá kinh khủng, họ không thể tưởng tượng ra có loại phụ nữ ích kỷ, xấu xa tệ hại như thế… đời sống ngạt thở mà chỉ khi đi xa rồi trở về ta mới nhận ra mức độ căng thẳng phụ nữ ở đây phải chịu đựng.

Phụ nữ Sài Gòn dù nghèo cũng sướng hơn phụ nữ miền bắc trăm lần, họ không phải đối phó với gia đình chồng, mẹ chồng em chồng khắc nghiệt cay đắng, luôn chì chiết chê bai. Họ không có bố chồng khó tính và cả họ nhà chồng xét nét họ. Không ai nói là “cô may lắm mới lấy được con tôi,” mình nhớ mình đã kinh ngạc đến mức nào, khi nghe các cô con dâu Sài Gòn nói, họ rất yêu quý mẹ chồng thực tâm. Yêu quý chắc vì họ không chung sống với bố mẹ chồng không va chạm cơm nước tiền nong, mỗi năm không bị hàng chục lần nấu cỗ cúng, sấp ngửa lo tết, hay vất vả gì khi làm dâu.

Hàng xóm, đồng nghiệp, bạn bè không ai lên án phán xét cách sống cách ăn mặc, cách chi tiêu hay chuyện riêng tư cá nhân. Đi xe xấu , mặc đồ xấu không bị chê bai khinh thường. Thời tiết ở Sài Gòn cũng không làm cho phụ nữ sầu thảm được lâu, buồn thất tình không thê lương không tuyệt vọng, họ không chịu được khổ lâu nên ít thấy ai ôm hận đàn ông được lâu, họ chóng quên dễ tha thứ, họ sẵn sàng bắt đầu một khởi đầu mới bất cứ khi nào.

Mỗi lần ra bắc nhất là về quê, mình thấy thật bất công, phụ nữ miền bắc khổ vì lo sợ người khác đánh giá mình. Ai cũng có thể phán xét người khác. Bố mẹ can thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư, ngăn cấm dọa dẫm, thay vì cảm thông và chia sẻ khi gặp sự cố hay sai lầm. Con gái ế thì bố mẹ nhục nhã, đau khổ, phụ nữ lấy chồng thì cuộc sống của họ quay quanh một ông chồng ba bữa cơm, con cái và việc nhà lấy đi của họ nhiều thứ, phụ nữ lấy chồng xong biến thành người hoàn toàn khác. Sau 40 may ra họ mới có chút thời gian cho riêng mình. À mà chưa xong, già rồi họ còn sợ con cái mất mặt, ly hôn là chuyện nhục nhã. Có bà mẹ 50 tuổi không dám post cái video mình hát với bạn vì con bảo mẹ phải giữ gìn hình ảnh, không được chơi bời hát hò hay tỏ ra vui vẻ sau ly hôn.

35 năm trước mình đã nghĩ hẳn bắc nam Việt Nam là hai quốc gia độc lập, suy nghĩ lối sống đặc biệt khác nhau. Sao cùng là phụ nữ, mà họ khác nhau thế. Sau 35 năm mình thấy phụ nữ miền bắc khác trước nhiều, tuy nhiên họ vẫn khổ hơn, kể cả người giàu, người trí thức, người đẹp. Họ bị ghen ghét chê bai ghen tị nhiều hơn, họ chả được sống hồn nhiên tự do vô tư như phụ nữ Sài Gòn. Có sai lầm gì to mấy cũng được thứ tha rất nhanh… Chả ai nhớ chuyện xấu mấy, toàn khen nhau toàn quý nhau thật lòng thôi. Nghĩ gì là nói thật ra, không phải đau dạ dày vì suy nghĩ rắc rối. Ít ai có tính giận dỗi, nói xấu, ít ai bị bẽ mặt, họ thẳng thắn và đơn giản, ít sĩ diện, ít đao to búa lớn, lại càng ít sợ hãi người khác. Họ thực sự tự do.

Lắm lúc mình chỉ muốn giải phóng phụ nữ miền bắc khỏi chính họ thôi, cho họ được Tự Do – được là chính mình.

Một bác sĩ Biệt Động Quân chẳng giống ai!

Lời bạt: Năm 2015 tôi viết bài này và cố tình không viết về vợ con của Lê Văn Thại. Nhưng sau khi Hắn mỉm cười ra đi, tôi viết bổ sung câu chuyện cho tròn cái nghiệp mà Hắn đã trả xong. Mời quý vị xem đoạn cuối Hắn cưới vợ như thế nào và khúc quanh đời Hắn như cái “nghiệp” phải mang!

Tôi (bên trái) và Hắn năm 1967

Tôi và Hắn cùng quê hương Tam Quan, vùng đất trải dài rộng lớn những rừng dừa và hệ thống sông ngòi chằng chịt! Hắn là cháu nội một phú hộ vùng Cấm An Sơn thuộc xã Hoài Châu; còn tôi thì sanh ra và lớn lên trong thôn Cửu Lợi xã Tam Quan nổi tiếng sản xuất dầu dừa và dây dừa. Ông nội của Hắn là chủ những ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Ông nội tôi thì là chủ ghe bầu buôn bán dọc ven biển và các thành phố từ Nam chí Bắc một thời.

Tôi và Hắn cũng cùng chung số phận sống chín năm trong vùng Cộng Sản Liên Khu 5, thời kháng chiến chống Pháp, 1945-1954. Cũng có những tháng năm ngồi học trong các đình chùa bị đục vách phá bàn thờ để làm nhà kho và lớp học… Chung số phận là cháu con nhà địa chủ, sắp có chính sách đem ra tòa án nhân dân đấu tố!

Thế nhưng cuộc đổi đời năm 1954, sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, chúng tôi cởi bỏ được lớp bùn đất “Thiếu nhi Bác Hồ”; bắt đầu được học trong các trường công lập, được ca hát tự do! Hắn và tôi sau cùng vào học trường Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn. Hắn nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng học trên tôi một lớp. Gia đình Hắn có tiệm bán thuốc tây (Pharmacy), vì thế, vài năm sau, Hắn bỏ trường huyện, vào học Tabert ở Saigon. Thẳng cánh cò bay, xong trung học, Hắn vào trường thuốc. Đến năm 1970, Hắn ra Bác Sĩ và được động viên vào binh chủng Biệt Động Quân (BĐQ).

Còn tôi, đang học Văn Khoa thì bị động viên năm 1967 vào khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Năm 1970, lúc đang đóng quân ở Pleiku thì lính vào báo, “Thẩm quyền, có một số sĩ quan BĐQ đi xe Jeep trông dữ dằn lắm, tìm thẩm quyền!”Tôi cũng vừa từ đơn vị tác chiến tiểu khu Bình Định đổi lên vùng đất đỏ chưa được mấy tháng, chưa quen biết nhiều, làm sao có BĐQ là bạn tìm tôi! Trong khóa 26, ra trường có hơn 80 tên về BĐQ, nhưng chưa biết tụi nó ở đơn vị nào. Chưa quyết định thế nào thì đám rằn ri mũ nâu chạy sộc vào văn phòng, “Ê! Dũng Lùn đâu, trình diện thượng cấp!”

Dân mũ nâu rằn ri, đi tới đâu là ồn ào vang trời! Tôi nhìn lên, hóa ra tên dẫn đầu là Bác Sĩ Lê Văn Thại, tên thứ hai là Huỳnh Thọ Huyên, Khóa 26, tên thứ ba là Trần Tấn Đỡm, khóa 26, tên thứ tư là Lâm Đạo Đụng, khóa 26. Tôi bật dậy khỏi ghế như chiếc lò xo, mừng quá, bắt tay từng thằng.

Hóa ra là Hắn – Lê Văn Thại – ra trường nghề thầy thuốc năm 1970, với bảy năm chương trình Bác Sĩ Dân Sự, sau đó được động viên về BĐQ, lên Pleiku chăm sóc Liên Đoàn 2 BĐQ, Y Sỹ Trưởng, đóng hậu cứ ở Biển Hồ.

Cuộc hội ngộ “lính” vô cùng ồn ào và mùi “quân trường” còn thoảng hơi chưa phai! Chúng tôi kéo nhau ra cà phê Dinh Điền nhâm nhi và từng thằng khai “tình trạng quân ngũ,” những gương mặt mới xa, nhưng cứ tưởng không có cơ hội nào gặp lại… Ba thằng Khóa 26 Thủ Đức búng ra sửa, bây giờ trông rất “ngầu.” Bộ quân phục Biệt Động Quân, chiếc mũ nâu đội lệch, phù hiệu… Thằng nào cũng hiên ngang và tự tin! Ba thằng cùng đang phục vụ Liên Đoàn 2 BĐQ. Bác Sĩ Lê Văn Thại, Y Sĩ Trưởng, với bộ vía tác chiến Biệt Động trông rất “lính.” Hồi còn đi học, Hắn rất giỏi võ Bình Định, sở trường Hầu Quyền; vô Sài Gòn học thêm Taekwondo, Hapkido… Mỗi khi Hắn nổi hứng, nắm tay ai bóp nhẹ là người đó la làng… Hắn uống rượu như uống nước, lần nào ngồi với Hắn và mấy trự BĐQ, tôi chỉ là thằng phá mồi!
*
Rồi thời gian trôi! Chiến trường các nơi sôi động. Cánh Biệt Động hành quân rày đây mái đó. “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, tôi và đơn vị trấn thủ thành phố Pleiku để cho vợ con và dân chúng “di tản”… Sau đó, các đơn vị Biệt Động phải di chuyển xuống giải tỏa Tam Quan Bồng Sơn. Hành quân liên miên… nên tụi tôi ít khi gặp nhau; dù là ở thành phố trấn biên như Pleiku, mệnh danh là “thành phố của lính,” dù hậu cứ của tụi nó ở ngay Biển Hồ!Mỗi thằng mỗi khung trời nhỏ trong guồng máy chiến tranh.
Đã mang danh hiệu là “Biệt Động” thì có khi nào đơn vị được yên tịnh đóng ở một chỗ đâu! Cả “Vùng 2 Quân Khu II” đều là địa bàn in vết giày Biệt Động Quân; có biết bao anh hùng ngã xuống! Cuộc di tản tháng 3 năm 1975 là những ngày Quân Dân Cán Chính Pleiku – Kontum – Phú Bổn không thể nào quên. Tôi được may mắn thoát khỏi cuộc di tản trong gang tất nhờ cái lệnh thuyên chuyển về Đặc Khu Cam Ranh chỉ trước một tháng!

Cánh BĐQ của BS Lê Văn Thại, Huỳnh Thọ Huyên cùng số phận kẹt cứng trong đoàn người và quân trang quân dụng trên Tỉnh Lộ 7b. Mấy thằng Khóa 26, lúc bấy giờ vừa được thăng cấp Đại Uý, đều bị “tóm” ở gần Sông Ba – Phú Bổn! Đại Uý Huỳnh Thọ Huyên cùng chung số phận với đơn vị. Vợ và ba con của Hắn thì lạc mất trong rừng. Vợ của Huyên lạc luôn ba đứa con, một trai 5 tuổi và hai gái, đứa 3 và đứa chưa tròn một năm sanh… Sau này nhờ tìm kiếm, vợ của Huyên tìm được đứa con trai từ một gia đình người Thượng, cháu được nuôi để chăn trâu! Hai cháu nhỏ thì không còn dấu vết! Mấy tay BĐQ, bạn Khóa 26 của tôi bị nhốt ở nhiều nơi, sau rốt nằm ở Z30A Tuy Hòa. Riêng tên Bác Sĩ lì Lê Văn Thại thì thoát được về Sài Gòn.

Cuối tháng 3 năm 1975, từ Cam Ranh tôi về Saigon bằng đường bộ đến Phan Rang rồi đi ghe ở Bình Tuy về Vũng Tàu, vợ con gởi lại phía ngoại ở Ninh Hòa… Tôi và Lê Văn Thại lại gặp nhau, nhậu quên đời. Hai thằng quanh quẩn hũ rượu của ông già tôi ngâm. Rượu thuốc có thêm mùi trái ô môi vừa cay vừa ngọt. Ba tôi thấy hai đứa buồn chán nên cũng thường làm mồi cho hai đứa nhậu đưa cay!

Thê thảm nhất là ngày 30 tháng tư năm 1975. Khu xóm tôi ở trên đường Bà Hạt – Chung Cư Ấn Quang – rần rần người ra đi và rậm rật những đứa mang băng đỏ. Nếu ngày ấy hai đứa ra bến Bạch Đằng thì có lẽ đời sẽ rẽ qua hướng khác. Đàng này, hai đứa ngồi nhìn nhau không nói gì nhưng tay thì cầm ly! Tôi có hơi men, thỉnh thoảng còn bày đặt khóc nhớ vợ con chưa biết ra sao.

Cho đến một ngày cuối tháng 5, 1975, Ba tôi làm cơm đãi hai đứa ngày mai “Trình Diện Học Tập” 10 ngày bằng một chai rượu tây đem về từ Embassy Hotel. Lúc nâng ly, Lê Văn Thại đặt tên cuộc nhậu này là: “Đăng Trình Tửu.” Hôm sau, hai đứa xách bị áo quần và cái mền mỏng, đem theo tiền ăn mười ngày, mấy bao thuốc lá, đôi dép Nhật hai quai… Hai đứa hý ha hí hửng “trình diện” tại trường Petrus Ký. “Học tập 10 ngày” thì nhằm nhò gì! Ông hàng xóm nói với tụi tôi khi thấy hai đứa khăn gói gõ cửa nhà ông chào từ giã!

Tôi làm ra vẻ sành đường đi nước bước trong trường, dắt Lê Văn Thại lên lầu bên trái, chỉ vào lớp gần cuối, “ Tao mài quần chưa rách trong phòng này!” Thế là hai đứa tôi và mấy chục người trải nilon nằm dưới sàn. Có thằng leo nằm trên bàn học trò. Tôi tìm chỗ ngồi năm xưa, phía dưới hộc, quả nhiên còn tên của mình đã khắc bằng dao!

Ở “khách Sạn” Petrus Ký, ăn cơm ngày ba bữa do các nhà hàng nổi tiếng ở Chợ Lớn cung cấp… Mọi người hý ha hý hững cho rằng “Cách Mạng” đối đãi “Kẻ Đầu Hàng” sao mà tử tế quá!

Nửa đêm, sau mấy ngày nằm chờ đợi “việc gì sẽ xảy ra,” chúng tôi được gọi tên từng thằng, sắp hàng một, ôm hành lý leo lên xe bịt bùng đang đậu hàng dài trước cổng trường. Cứ hai mươi thằng leo lên, trên xe có sẵn hai chú nhóc bộ đội gườm súng bên hông. Xe phủ bạt kín mít, xe chạy rần rật trên các đường trong thành phố, chẳng ai biết nó về hường nào mà đoán!

Hai chú nhóc tì mặt hầm hầm, luôn gườm súng hăm doạ, “Không được nhìn ra ngoài, không được ồn ào nhúc nhích…” Xe chạy miết đến xế chiều, chúng tôi được phát lương khô “made in China.” Cuối cùng rồi cũng đến nơi, xe ngừng trong một trại lính của VNCH gần núi Bà Đen, Trảng Lớn Tây Ninh! Doanh Trại này, không biết trước kia làm gì mà có những gian trống trơn, chỉ có sàn xi măng quá to, quá dài, rất nhiều căn trại như thế chứa chúng tôi. Cứ hai chục thằng là một B, “cán Bộ” chỉ định B Trưởng, chia nhau trải chiếu hay bao nilon nằm san sát bên nhau cho có hơi ấm! Cứ thế ở đó tự phân chia nấu ăn, tự biên tự diễn. Nếu có đứa nào bịnh thì “Bác Sĩ Cách Mạng” đến khám và bôi dầu cù là, chứ không có thuốc gì hết!

BS Lê Văn Thại tìm được trong đám đông thêm bạn. Đó là BS Lê Văn Một, người miền Nam, râu quai nón. Hai tên Bác Sĩ bắt đầu ngứa nghề. Trong đám ngàn người ngủ giống như ngoài trời suốt hai ba tháng trời, chuyện bệnh hoạn xức dầu cù là… được chúng tôi âm thầm chuyển qua “Bệnh Viện Một- Thại.” Hai tên này kể cũng mát tay nên ít khi phải gọi Bác Sĩ “Dầu Cù Là”!

Nhưng khi “biên chế,” một số về trại lính Sư Đoàn 18 ở Long Khánh, B19 của tôi, B20 có Thại và Một, đều xách gói lên xe. Ở trại mới một thời gian, đang “được lên lớp” bài đầu tiên: “Ba Dòng Thác Cách Mạng” của Lê Duẫn thì có bốn thằng trốn trại trong đêm. Hai ngày sau thì tụi nó bị bắt , trong túi xách có một số thuốc tây, chúng khai là của BS Lê Văn Thại cho!

Thế là nửa đêm, rần rật súng ống và cả đám đông bộ đội bao vây nơi BS Thại nằm, lôi hắn xuống sàn, còng số tám, đọc lệnh nhốt vào co néc (conex) – Khung sắt này hình khối vuông, trước kia “Xâm Lược Mỹ” dùng loại này chở quân trang quân dụng, chuyên chở từ Hoa Kỳ bằng tàu thuỷ cung cấp cho chiến trường… Hắn bị thẩm vấn và nhốt vào cái khung sắt “kiên cố” đó bằng một khóa bự! Trời Long Khánh nắng đổ lửa, mà ngồi trong cái thùng sắt dày, không có lỗ thông hơi, bị khóa trái, ăn ngủ, tiêu tiểu một chỗ… Do Bác Sĩ Lê Văn Một được “đặc trách” chăm sóc. Chúng tôi cứ tưởng chừng mấy ngày là Hắn chết khô! Thế mà nhờ ngồi thiền, Hắn không chết.

Mấy tháng sau đó, một buổi trưa hè nóng gắt, kho đạn kế bên trại giam chúng tôi không biết sao phát nổ. Toàn bộ bom, hoả tiển, đạn 81 ly, 60 ly, M79 không những nổ mà còn bay đầy trời! Vụ nổ kéo dài đến tối. Trong trại chết một ít nhưng bị thương thì hơi nhiều. Ngoài dân chúng, những trái hỏa tiễn bay xa làm sập nhà và chết nhiều hơn chúng tôi. Vòng thiệt hại ở xa trung tâm nổ, nhiều hơn vòng trong gần với kho đạn!

Trong lúc kho đạn nổ bay đầy trời, mấy anh chàng nhát gan nhảy xuống các hố hay giếng khô trốn thì đạn lại rơi vào chết thảm. Những thằng sợ quá mất khôn lấy đôi guốc gổ che lên đầu đi lửng lơ như người điên, thế mà chẳng sao. Có thằng lấy miếng carton che đầu… Riêng BS Lê Văn Thại an toàn ngồi trong khung sắt nghe tiếng nổ bên ngoài. Còn tôi chui vào một cái lỗ trong đống gạch, hai chân lòi ra ngoài chịu trận!

Sau vụ nổ, một thời gian ngắn, chúng tôi được leo lên xe đến “Khu gia binh” ở Long Giao. Lê Văn Thại được “tháo củi sổ lồng” lên xe cùng chúng tôi. Hắn vốn đã là người ốm cao lêu nghêu, bấy giờ xác xơ đi không muốn nổi. Hồi còn sinh viên, tôi đặt tên Hắn là “Khô trúc Đại Sư”!

Hai đứa ở Long Giao một thời gian ngắn thì tôi “được thuyên thuyển” ra Bắc trên con tàu chở xi măng, để nổi trôi Hoàng Liên Sơn, Lao Cay, Yên Báy, Vĩnh Phú… Còn Hắn, “được tha về” vì có cái made in Bác Sĩ! Làm việc dưới quyền các Bác Sĩ vốn xuất thân từ trường thuốc “Dầu Cù Là”. ..
*
Tôi được “Cách Mạng khoan hồng” lệnh tha về từ trại tù K2 Tân lập Vĩnh Phú, phải mất 10 ngày từ nhà tù, vượt qua con sông Đà, ngồi tàu lửa chen lấn, từ ga Ấm Thượng về Hà Nội và con tàu suốt xuyên Việt. Về đến Sài Gòn thì mới hay là ông nội tôi đã qua đời 10 ngày trước, vì nghe tin tôi được ra tù, mừng quá lên máu đứng tim! Bước vào nhà cha mẹ tôi, Ba tôi chờ bên bàn thờ chít khăn tang cho thằng cháu đích tôn. Bác Sĩ Lê Văn Thại cũng có mặt.

Hắn kể lể một loạt từ khi hai đứa xa nhau. Lúc Ông Nội tôi bị đứng tim thì có Hắn đưa cấp cứu nhà thương Chợ Rẫy và ẵm xác ông nội tôi về lại nhà. Hắn thay tôi trực lo chôn cất, sát cánh với gia đình thằng bạn còn trong tù ngục.

Mấy tháng sau Hắn dẫn đến nhà một cô gái trẻ đẹp, có duyên và nói tiếng Bắc Kỳ ngọt xớt giọng Hà Nội. Hắn giới thiệu tên cô là Dung đang làm Nữ Ý Tá ở Bệnh Viện Chợ Rẫy. Ba tôi xách một chai đế ngâm thuốc và má tôi thì xào đĩa thịt bò hành tây đãi khách. Dung uống rượu cũng rất là tâm đắc với Thại. Tôi ngồi chuốc rượu mà ngạc nhiên là Hắn tìm đâu ra kỳ phùng địch thủ…

Một năm sau thì Hắn mời vợ chồng tôi mừng đám cưới Hắn với Dung. Năm đó Hắn 40 tuổi, là Bác Sĩ mà hàm răng cái mất cái còn trông tội nghiệp. Cô Dung y tá năm đó 25 xuân xanh! Một trời thơ mộng hạnh phúc mở ra cho thằng bạn tôi. Đám cưới ngoài vườn cây của ba mẹ Hắn trên Phú Lâm. Ngồi dưới tàng cây nhậu là hết ý.

Tôi nỗi hứng đứng lên trước hàng bao nhiêu Bác Sĩ, bạn bè tứ phương tụ tập vui chuyện chúc mừng. Tôi ra câu đối chúc mừng tân Lang và tân Giai nhân. Vế đầu tôi đọc lên: “Bốn mươi tuổi tròn, răng không còn, Thầy Lang cưới vợ!” Nếu ai đối hợp ý thì được toàn thể cử tọa vỗ tay và cụng ly với một chai rượu tây chính cống!

Thế là một không khí ồn ào náo nhiệt bàn tán về ý của câu đối và rất nhiều tài danh viết nạp câu đối. Cuối cùng một anh bạn, nay đã quy tiên, có câu đối như thế này: “Hai mươi tuổi lẽ, vẫn còn trẻ, Y Tá vu quy” Câu đối được chấm xuất sắc!

Tôi và gia đình không được nhập cư Sài Gòn với cha mẹ, tuy trước năm 1975 chúng tôi có tên trong hộ khẩu. Vì thế nên chúng tôi phải đi vùng “Kinh Tế Mới” ở Đồng Nai. Thời gian này Thại làm việc tại Bệnh Viện “Bệnh Nhiệt Đới” Chợ Quán. Cha Mẹ vợ Thại có con ở Hoa Kỳ đang làm bảo lãnh cho toàn thể gia quyến sang Mỹ. Lê Văn Thại lúc đó đã có được một con gái kháu khỉnh dễ thương tên Ngọc. Hắn không muốn ra đi “tùy theo quê vợ” nên cứ dùng dằng “em chả”! Nhưng cuối cùng thì cũng phải vì tương lai con gái mà “theo em xuống thuyền.”

Về phần tôi, năm 1990, cả gia đình tôi được giải thoát theo HO3 tháng 7 năm 1990 và định cư ở Nam Cali. Gia đình Thại, vì không đủ ba năm ở tù nên được đoàn tụ với đại gia đình vợ, định cư tiểu bang Oregon! Hắn quyết tâm học và quyết tâm lấy cho được bằng Bác Sĩ ở Hoa Kỳ, dù Hắn lúc đó đã lớn tuổi và sau năm 1990 thì chuyện học lấy BS rất khó! Vì nhiều lý do mà Hắn không thể theo học nghề thầy thuốc sau hai năm gắng sức! Trước kia Hắn học trường Pháp, bảy năm mài quần trong Y Khoa Đại Học Sài Gòn, đậu bằng Bác Sĩ theo chương trình Pháp ở VN. Qua Hoa Kỳ hóa ra Hắn trở thành một tên “lộn chuồng”!

Lúc Hắn than là học khó quá, tôi khuyên Hắn, “Mầy bỏ ý định thành BS ở đây, mầy mở võ đường dạy võ Bình Định, Thiếu Lâm hoặc cùng với BS Phạm Gia Cổn dạy võ Hàn Quốc thì tốt hơn.” Hằn mỉm cười làm thinh tiếp tục hành hạ thân xác vì sĩ diện (?!).

Chính vì thế mà Hắn chán đời, chán vợ, chán con… lặn sâu qua tiểu bang Delaware với mấy bạn Biệt Động Quân chán đời, cùng ở dưới hầm nhà hơn tám chín năm trời để săn bắn và nhìn trời chiều bãng lãng! Hắn chỉ sống với bạn bè BĐQ là chí cốt. Theo BĐQ Đỉnh Đầu Bạc, thì hầu hết cánh BĐQ đều thương mến Hắn kể cả Tướng Tất, vị Tướng cấp trên của Hắn. Phe Thầy thuốc thì hình như Hắn chỉ còn liên lạc với BS Phạm Gia Cổn.

Khi con gái Hắn đậu bằng Bác Sĩ, hắn lên tinh thần và về lại Cali ở với con gái. Bác Sĩ Ngọc rất có hiếu và chăm sóc tận tình, chiều chuộng ông cha già ương ngạnh! Nhưng cô Bác Sĩ trẻ dễ thương này lại thường xuyên ở nhà thương hơn về nhà!

Tháng 3 năm 2019, Hắn được xe cấp cứu ò e, chở vào Fountain Valley nằm đã gần 10 ngày. Tôi vào thăm, Hắn nhìn tôi cười đểu, “Ê Lùn! Sao không xách theo chai nào mà đi không vậy?” Cầu mong Hắn chóng qua cơn “bệnh viện,” tôi sẽ nói với bà xã đúc bánh xèo “dõ” (chỉ có bột gạo) kiểu Tam Quan, hắn rất thích, chấm với mắm nêm; đãi Hắn một bữa với vài ly xoay chừng! Bây giờ Hắn cũng không còn uống được mấy ly, nhưng gà vẫn còn nhớ tiếng “gáy” một thời vang bóng!

Sau ba năm ở với con gái tối ngày đi trực bệnh viện vì dịch Covid-19 và là Bác Sĩ chuyên khoa, con gái Hắn ít khi ở nhà với Hắn. Nơi ở của hắn và con gái xa Westminster hai giờ lái xe trên xa lộ, chung quanh rất ít người Việt Nam sinh sống. Hắn không dùng Iphone (chỉ sử dụng phôn cầm tay kiểu hồi thời năm 2000), không chơi internet, không email, không lấy bằng lái xe… Bao năm tháng ở cái xứ Hoa Kỳ này mà như Hắn thì có phải chính Hắn tự hủy hoại mình và hành hạ thân xác dẫn đến chỉ một đường… tự giải thoát!

Được vợ Hắn báo tin Hắn đã được thoát xác ngày 3 tháng 3 năm 2022, tôi đang lái xe, phải dừng lại bên lề đường vì xúc động. Bây giờ Hắn nằm xuống, con gái Hắn không thể làm gì hơn là ngồi khóc, vợ Hắn thì đã sang ngang từ bao nhiêu năm rồi. Nhưng phút cuối cùng Hắn cũng được gục chết bên vợ con với những lời trăn trối sau cùng nhắn với bạn bè chào vĩnh biệt!

Một người tài hoa không giống ai, một Bác Sĩ không giống ai, một người bạn mà mọi người đều cảm mến! Hắn là Lê Văn Thại!
(Tháng 3 năm 2022)
LETAMANH