Liêu Diệc Vũ: Trung Quốc sẽ tốt đẹp hơn nếu được chia thành chục nước.


Nhà thơ ly khai Liêu Diệc Vũ (Liao Yiwu), sinh năm 1958, từng bị đày ải trong goulag Trung Quốc bốn năm trời, vì đã sáng tác bài thơ « Vụ thảm sát vĩ đại », về sự kiện nhà cầm quyền Bắc Kinh điều quân đội đàn áp đẫm máu sinh viên biểu tình năm 1989.

Ông nằm trong số trên 300 trí thức Trung Quốc ký vào bản Hiến chương 08, và đã tị nạn tại Berlin từ năm 2011. Tác phẩm « Trong đế chế của bóng tối » của ông nói về trại lao cải Trung Quốc thường được so sánh với tiểu thuyết nổi tiếng « Quần đảo ngục tù » của nhà văn Nga Soljenitsyne.

Vào thời điểm còn hai tháng nữa là đến ngày kỷ niệm 30 năm vụ thảm sát Thiên An Môn, Liêu Diệc Vũ đã cho ra mắt tác phẩm « Những viên đạn và thuốc phiện » nói về sự kiện trên. Trả lời phỏng vấn báo Le Figaro và AFP, nhà thơ ly khai đã cảnh báo nguy cơ từ chế độ độc tài Trung Quốc đối với các nền dân chủ phương Tây.

Ông có biết Vương Duy Lâm (Wang Weilin), anh sinh viên đứng chặn các xe tăng ở Thiên An Môn và hình ảnh « Tank Man » đã lan truyền khắp thế giới, giờ đây như thế nào hay không ?

Không, chẳng ai biết được số phận cậu sinh viên đó ra sao cả, thậm chí cũng chẳng biết tên. Cái tên Vương Duy Lâm là do phương Tây đặt ra cho cậu ấy. Cũng không biết là cậu ta có bị bắt giam hay không. « Người biểu tình vô danh » này đã trở thành biểu tượng của việc kháng cự lại vụ thảm sát, nhưng lại che khuất đi những số phận khác.

Như vậy những người hùng thực sự lại là những người dân bình thường, hơn là các sinh viên ?

Nếu ban đầu đó là một phong trào sinh viên, thì sau ngày 4 tháng Sáu năm 1989, nhiều sinh viên đã phải bỏ trốn. Hầu hết là những công dân bình thường đã tham gia phong trào phản kháng chống lại quân đội Trung Quốc để tránh cho sinh viên bị thảm sát, và họ đã bị đánh đập đến chết, bị xử bắn, bị kết án hay bỏ tù chung thân. Thế giới coi Thiên An Môn là một phong trào sinh viên, và tất cả những gì còn lại ít được chú ý. Cũng phải nói rằng điều này không mấy người biết. Bản thân tôi khi ra tù mới hiểu được. Thế nên tôi quyết định tiến hành một loạt cuộc gặp gỡ với những người bị kết án tù để lần ra sự thật ít biết này.

Có nạn nhân nào trong vụ Thiên An Môn khiến ông xúc động nhất ?

Tôi đau buồn cho tất cả nạn nhân, nhưng đặc biệt xúc động đối với số phận của Ngô Quốc Phong (Wu Guofeng). Sinh viên này xuất thân từ một gia đình nghèo ở Tứ Xuyên, đã xuất sắc đậu vào đại học ở Bắc Kinh với số điểm cao nhất, là niềm hy vọng của cả nhà. Cậu ấy chụp ảnh phong trào nổi dậy của sinh viên, và đã bị bắn chết khi quân đội xối xả nã súng vào đám đông.

Cuộc sống của những người bị gọi là « nổi dậy » dường như còn khó khăn hơn sau khi họ ra tù…

Đa số bị tống vào nhà tù khi còn rất trẻ, và khi được thả họ thường phải về sống chung với cha mẹ – nếu không bị cha mẹ từ bỏ, cũng như bạn bè. Họ không còn nhận ra xã hội Trung Quốc, một xã hội đã quên đi rằng trước đây họ là anh hùng. Cô độc, bị công an theo dõi hàng ngày, hầu như họ không thể tìm được việc làm. Nhưng hình như không có ai hối hận vì những gì đã làm vào thời đó.

Ông không chịu nổi một xã hội Trung Quốc mà nay tiền là trên hết, tham nhũng lan tràn khắp nơi, của cải tập trung trong tay một thiểu số người giàu…

Giờ đây đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ có mỗi một ý tưởng trong đầu : kiếm tiền và vươn vòi ra toàn cầu. Trên thực tế, chiến lược của Tập Cận Bình là trói buộc người dân thông qua cơn khát tiêu thụ. Cũng vì thế mà Trung Quốc muốn tổ chức cho bằng được Thế vận hội năm 2008. Và thực ra chính Tập Cận Bình là kẻ tham nhũng lớn nhất. Điều này gây nguy hiểm cho các nền dân chủ phương Tây.

Nạn đàn áp và kiểm duyệt ngày nay cũng giống như cách đây 30 năm hay không ?

Tệ hơn nhiều. Tập Cận Bình muốn dùng công nghệ cao để tẩy não công dân, và kiểm duyệt tất cả các dạng thức đối lập. Theo cách nghĩ của ông ta, quý vị cứ lo cho nhân quyền, còn tôi không quan tâm, với tôi chỉ có công nghệ. Những ai kinh doanh đành phải chấp nhận một cuộc sống dưới sự giám sát, chối từ nhân cách và cuộc sống riêng tư.

Các nước phương Tây có chịu trách nhiệm gì không ?

Các chính phủ phương Tây đã góp phần rất lớn vào sự trỗi dậy của con quái vật mới này. Khi được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Trung Quốc đã trở thành thị trường lớn nhất toàn cầu. Những tên đao phủ đang ca khúc khải hoàn.

Nhưng nay ở phương Tây, một số chính khách đã bắt đầu ý thức được rằng chế độ độc tài của Tập Cận Bình là một nguy cơ. Bằng chứng là vụ bắt giữ con gái của người sáng lập Hoa Vi (Huawei) ở Canada và cho dẫn độ theo yêu cầu của Hoa Kỳ. Châu Âu cần phải hợp tác với Mỹ, quốc gia vẫn là đồng minh của mình, thay vì xích lại gần Trung Quốc.

Ông không lo ngại khi ngày càng nhiều người Trung Quốc giàu có rời bỏ một đất nước mà ông mô tả là « bãi rác lớn nhất hành tinh » ?

Những sinh viên Trung Quốc giỏi nhất ra nước ngoài du học, đặc biệt là đến Havard, như con trai của Bạc Hy Lai (Bo Xilai) và con gái của Tập Cận Bình. Cha mẹ họ tự hào về con cái, nhưng đại học Havard đóng một vai trò oái oăm khi đào tạo những kẻ thống trị tương lai. Lãnh đạo Havard đã gặp gỡ ông Tập Cận Bình, chưa có cơ sở giáo dục nào tỏ ra tham lam như thế. Nhưng các sinh viên Trung Quốc nghĩ gì ? Điều đó ai cũng biết…Di cư là một thách thức khủng khiếp cho Trung Quốc, có thể dẫn đến một hiện tượng tệ hại hơn cả người tị nạn Syria.

Nước Pháp có ủng hộ đúng mức ông Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo), giải Nobel hòa bình đã chết trong tình trạng giam cầm ?

Pháp cần phải hành động nhiều hơn nữa. Tất cả chưa phải đã muộn. Phóng viên Không biên giới đã đấu tranh rất nhiều cho nhà báo Hoàng Kỳ (Huang Qi) – từng bênh vực các nạn nhân trận động đất Tứ Xuyên – tuy ốm đau nhưng không được nhận thuốc men trong tù.

Nhân kỷ niệm 30 năm vụ thảm sát Thiên An Môn, các nhà ly khai sẽ phát biểu trước Quốc Hội Mỹ. Nghị Viện Châu Âu cần có sáng kiến tương tự. Khi kỷ niệm sự kiện bi thảm này, người dân Trung Quốc có thể sẽ tìm lại được đôi chút hy vọng.

Ông có còn tin rằng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ có được dân chủ, và với những điều kiện nào ?

Tôi không muốn nói về điều đó. Đối với tôi, Trung Quốc là một kỷ niệm quá sức đau buồn. Tôi cho rằng cần phải chia Trung Quốc ra làm nhiều nước nhỏ. Như vậy sẽ hạnh phúc hơn khi Trung Quốc trở thành hơn một chục nước với dân số từ 80 đến 100 triệu cho mỗi nước. Một quốc gia có đến 1,4 tỉ con người thì khó thể điều hành nổi.

Nguồn: RFI

30 THÁNG 4, ĐỌC GÌ, VIẾT GÌ?

Những con chuột Đỏ trong cộng đồng.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY GẪM . DẦU CHẬM NHƯNG KHÔNG MUỘN . XIN PHỔ BIỂN RỘNG RÃI…..
Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng, cũng như sinh hoạt của hội đoàn, đoàn thể của người Việt Quốc gia và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt…

.
Lời thật mích lòng……
Sự thật, ngày nay sinh hoạt cộng đồng hay của các tổ chức, đoàn thể và ngay cả các hội đoàn cựu quân nhân thường lợi dụng các ngày lễ truyền thống trong năm hay trong sinh hoạt riêng thường tổ chức tiệc tùng gây qũy, ăn uống, ca hát, nhảy đầm…Nói chung đó là những buổi tiệc tùng đình đám vui chơi. Tổ chức không có nội dung hay chủ đề đúng ý nghĩa của ngày lễ hay sinh hoạt để tạo sự lợi ích cho cộng đồng hay cho đoàn thể. Những thứ tổ chức vui chơi này trở thành những lổ ‘cống’ cho những con chuột Đỏ trong cộng đồng.

.
Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, ca hay hát giỏi, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Thường chúng hay núp dưới bóng làm ‘văn nghệ’, một bộ môn dễ xâm nhập vì nó đáp ứng đúng nhu cầu của các tổ chức vui chơi hay sinh hoạt cộng đồng. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.
Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.
Ký thiệt

.
Hãy nhìn lại miền Nam tại sao sụp đổ nhanh chống và hãy nhớ tên của những con chuột đỏ qua bài trích từ “Những mũi giáo đâm sau lưng, hay những kẻ nối giáo cho giặc” của ông Đỗ Hồng Ngọc.
Một bà
i học qúa đắc mà quân dân miền Nam (VNCH) phải trả bằng xương máu, bằng vong quốc và mất cả dân tộc…

Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc.
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản.
Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:

.
Trên đời có bốn cái ngu
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu
Thứ năm ngu nhưng lại đứng đầu
Đó là cuồng tín theo hầu cộng nô

.
Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như:Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH.
Vào ngày 20/12/1960, con bài “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN” (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có:Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…
Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là“Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như:Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…
Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976.
Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.
Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…
Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…) Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.
Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.
Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)…
Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến (ông này là cha của ông Lê Khắc Nhàn tức Hằng Trường. Đại lão Hòa Thượng Tuyên Hóa đã đuổi ra khỏi Tăng Đoàn Vạn Phật Thành vì âm mưu chiếm chùa Vạn Phật và không được lấy pháp danh họ Hằng nữa), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên…
Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng.
Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam.
Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài…
Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng.
Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…
Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng. (ngưng trích)
Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ. Nào đoàn tụ gia đình, nào bảo lãnh thân nhân, nào hôn nhân (thật lẫn giả), nào “HO”, nào du sinh, nào đại gia VC và con cháu VC gộc, cùng nhau cấu kết với cựu tị nạn trở cờ…tạo thành một “đội ngũ” chuột đỏ rộng lớn dưới sự chỉ đạo giấu tay của các sứ quán VC, đã xâm nhập mọi sinh hoạt chính trị, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, báo chí, truyền thông … trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.
Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.
Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.
Ký‎ Thiệt

HÃY CỨU NƯỚC MỸ !

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

Kính thưa Đồng Bào Việt Nam,

Nhân danh một người Mỹ gốc Việt Nam, tôi xin khẩn thiết kêu gọi Đồng Bào Việt Nam Tỵ Nạn khắp thế giới hãy nắm tay nhau cứu Nước Mỹ đang bị lâm nguy.

Nước Việt Nam Cộng Hòa ta mất vào tay Việt Cộng vì nội thù. Vậy Nước Mỹ sẽ không thể tồn tại, khi bị nội thù đang manh tâm phá hoại nền độc lập lâu dài ngót 250 năm!

Dưới đây là bằng chứng bọn nội thù muốn giật sập nền Dân Chủ của Hoa Kỳ:

1/ Sau khi kiểm tra bản báo cáo của Bill Mueller, ông Tổng Chưởng lý William P. Barr tuyên bố Tổng thống Donald Trump không thông đồng với Nga và không cản trở công lý. Bọn Nghị sĩ Thượng viện của đảng Dân Chủ liền rộ lên phản đối, đòi xem xét toàn bộ nguyên bản báo cáo không bị biên tập (unredacted report). Chúng đòi ông Barr ra điều trần mà cung cách tra hỏi giống như côn đồ, rất thiếu văn minh – văn hóa. Chúng đã từng hành xử đối với ông Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Brett Kavanaugh như thế!Tiếp theo, bọn Dân biểu Dân Chủ ở Hạ Viện lại đòi ông Barr đến điều trần. Điều đó, chứng tỏ bọn Dân Chủ đang lạm dụng quyền dân chủ. Tại sao bọn Dân Chủ đòi ông Barr phải ra điều trần? Bởi vì trong cuộc điều trần tại Thượng Viện, ông Barr cam kết sẽ ráo riết điều tra nguyên nhân từ đâu mà có cuộc điều tra của ông Bill Mueller!Bằng mọi giá, bọn Dân Chủ quyết tâm triệt hạ Tổng thống Donald J. Trump do dân bầu, giống như băng đảng bọn Việt Cộng, trá hình giả dạng làm tu sĩ Phật giáo, quyết tâm lật đổ nền Đệ nhất lẫn Đệ nhị Cộng Hòa Việt Nam.

2/ Ứng viên đang dẫn đầu trong đảng Dân Chủ, cựu Phó Tổng thống Joe Bider, tuyên bố Trung Cộng không âm mưu đoạt ngôi vị bá chủ toàn cầu của Mỹ, trong khi ai nấy đều biết mỗi năm nước Mỹ bị thiệt thòi 500 tỉ Mỹ kim trên thương trường; Trung Cộng cài cấm gián điệp thuộc mọi địa hạt trên 50 Tiểu bang Hoa Kỳ; ăn cắp tài sản trí tuệ, lập Viện Không Tử dưới chiêu bài văn hóa để xây dựng Đạo quân Thứ năm (Fifth Column). Nếu Joe Biden là người yêu nước Mỹ, tại sao không nhìn thấy mối họa từ Trung Cộng? Có phải Joe Biden được Trung Cộng yểm trợ tài chánh để tranh chức Tổng thống?Chính bà Hillary Clinton công khai nài nỉ xin Trung Cộng cung cấp hồ sơ thuế vụ của Tổng thống Donald J. Trump là một bằng chứng đảng Dân Chủ thông đồng với kẻ thù để triệt hạ nước Mỹ. Sự kiện đảng Dân Chủ vu cho Donald Trump thông đồng với Nga là âm mưu của Trung  Cộng ngăn Mỹ liên minh với Nga để chống chúng nó.

3/ Nghị sĩ của đảng Dân Chủ, Bernie Sanders, được xếp hạng nhì trong cuộc chạy đua làm đại diện đảng để tranh chức Tổng thống vào năm 2020, quyết tâm thực hiện Xã hội Chủ nghĩa (một chủ nghĩa đã bị nhân loại kết tội diệt chủng) lên đất nước Hoa Kỳ, tức là Bernie Sanders muốn dìm nước Mỹ xuống hàng đàn em của Trung Cộng, chấp nhận sự thống trị của Trung Cộng.

4/ Các đài truyền hình, truyền thanh, báo chí mệnh danh “Dòng Chính” (mainstream media) chắc chắn đã ngầm ăn tiền của Trung Cộng, nên mới đồng thanh đánh phá một cách tàn bạo vị Tổng thống không lãnh lương đã mang lại nhiều thắng lợi trên thương trường, giảm nạn thất nghiệp chưa từng có trong suốt 50 năm.

5/ Tham nhũng đã đi vào ngành Giáo Dục mà ta đã thấy Trung Cộng đút lót để con được nhận vào trường Đại Học thì đủ thấy âm mưu của Trung Cộng “donate” tiền cho các Đại Học danh tiếng là thủ đoạn làm băng hoại tầng lợp lãnh đạo tương lai nước Mỹ.

6/ Từng đoàn lữ hành (caravan) mệnh danh di dân ồ ạt vào nước Mỹ mà các Nghị sĩ, Dân biểu đảng Dân Chủ chống lại chính sách bảo vệ biên giới của Tổng thống Donald Trump thì nhất định bọn này trót ăn tiền của Trung Cộng để làm hại nước Mỹ. Nên nhớ, đoàn di dân hiện nay không phải tự phát, mà đó là chiến lược của Trung Cộng nhằm triệt hạ nền dân chủ Hoa Kỳ. Tại sao tôi dám phát biểu như thế? Bởi vì sau khi thắng lợi cuộc tranh cử giữa kỳ năm 2018 vào Hạ Viện, dân biểu đảng Dân Chủ liền tranh thủ đệ trình dự luật cho phép di dân bất hợp pháp, tù nhân phạm pháp (dù bị án tử hình) vẫn được quyền bỏ phiếu. Ngoài ra, chúng còn đòi cho trẻ em 16 tuổi cũng được bỏ phiếu.

7/ Tổ chức Đảng của Mỹ không giống như Việt Cộng chủ trương hãm hại đảng viên ra khỏi đảng. Trước đây chúng ta đã thấy đảng viên Dân Chủ hoặc Cộng Hòa bỏ đảng này sang đảng khác, vì nhận thấy đảng của mình đi ngược lại lý tưởng phục vụ nhân dân. Ngày nay đảng Dân Chủ đang đi vào con đường Cộng Sản mà không có một Dân biểu hay Nghị sĩ nào trong đảng từ bỏ đảng, thì phải thấy bọn này là một lũ mất trí, tham tiền, chỉ biết quyền lợi bản thân, thây kệ đất nước đi về đâu.

8/ Việt Nam Cộng Hòa bị mất nước vì Việt Cộng xâm nhập các cơ cấu chính quyền. Nay bọn phản bội nước Mỹ đã đạt địa vị lãnh đạo các cơ quan FBI, CIA, NSA thì chắc chắn nước Mỹ sẽ tiêu vong, nếu bà Hillary Clinton đắc cử Tổng thống. Nghị sĩ Jeff Session ủng hộ tích cực Ứng Cử viên Donald Trump, khi được trao chức Bộ trưởng Tư Pháp thì trở mặt, rút chân ra khỏi cuộc điều tra Trump thông đồng với Nga, nhất định chúng ta phải nghi ngờ Jeff Session là một tên nằm vùng chiến lược!

Tôi không có ý trầm trọng hóa vấn đề nguy cơ của nước Mỹ. Đảng Dân Chủ lẫn đảng Cộng Hòa đã biến Washington DC thành một đầm lầy đầy rắn rết, cá sấu và dòi bọ. Chính Việt Cộng còn đặt tên cho tình trạng tham nhũng của nước chúng nó là giặc Nội Xâm (cuộc xâm lăng từ bên trong). Nước Mỹ đang gặp nạn vừa Nội Xâm vừa Ngoại Xâm. Giống như Việt Nam Cộng Hòa đã gặp nạn ấy trước năm 1975, nên mất nước!

Tổng thống Donald Trump đã nhìn thấy cái đầm lầy của nước Mỹ từ năm 1988, và ông đã viết sách cảnh báo; chứ ông không phải là một doanh nhân thành công trên thương trường, nay nhào ra tranh cử Tổng thống để kiếm chút danh.

Sự thắng cử của Tổng thống Trump là một phép lạ!

Không những tập đoàn cầm quyền Barack Hussein Obama sử dụng FBI, CIA, NSA cài đặt gián điệp vào Ủy ban Tranh Cử của ông, không những bọn truyền thông khốn kiếp xuyên tạc, bôi nhọ, mà còn cả đảng Cộng Hòa. Cha con George Bush, John McCain, Mitt Roney và băng đảng trong cái đầm lầy, cũng chống Donald Trump!

Sau khi chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm sụp đổ, các cuộc binh biến xảy ra liên tục, bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo gây rối liên tục, các đảng chính trị chống nhau liên tục. Mà trí thức im lìm thì sự mất nước chỉ còn là vấn đề thời gian.Lúc bấy giờ, tôi chỉ là một sĩ quan cấp thấp, sự cảnh báo của tôi về mất nước chẳng ai thèm đếm xĩa. Lại thêm vị Tổng Tư lệnh Quân đội cấm quân nhân viết báo nói lên quan điểm của mình trước tình trạng đất nước, thì người lính phải tuân hành kỷ luật. Ví dụ nhà văn Không Quân Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, viết một bài báo chỉ trích rất hiền lành, liền bị nhốt 30 ngày trọng cấm ngay.

Tôi bây giờ là một công dân Hoa Kỳ gốc Việt, không bị ràng buộc bởi luật ngăn cấm quyền tự do bày tỏ quan điểm, quyền nhận thức, xin mạn phép trân trọng mở lời kêu gọi đến những vị tị nạn cộng sản trọng danh dự, hãy tiếp tay với vị Tổng thống Chống Xã Hội Chủ Nghĩa để cứu đất nước này.

Dưới đây là những đề nghị của tôi:

1/ Những người cầm bút chân chính, gồm văn sĩ, thi sĩ, nhà báo có lòng tự trọng không làm tay sai cho Việt Cộng với bất cứ giá nào, hãy tiến tới thành lập một cơ quan truyền thông nhằm hướng dẫn tư tưởng quần chúng để họ hiểu rằng chúng ta đến sinh sống ở nước này vì hai chữ TỰ DO chứ không phải là một lũ tha phương cầu thực, giá áo túi cơm. Chúng phải tố cáo với đồn bào những cơ quan truyền thông tay sai Việt Cộng.

2/ Đừng viện cớ “tôi không làm chính trị” để có lý do thờ ơ, vô cảm trước nguy cơ của đất nước đã nuôi dưỡng mình đối với bọn chính trị gia lưu manh, xôi thịt, mị dân, bán nước. Im lặng trước những hành vi tồi bại của bọn buôn dân là phản quốc!

3/ Vận động quần chúng Mỹ gốc Việt bỏ phiếu và yểm trợ tài chánh cho ứng cử viên không chấp nhận Chủ nghĩa Xã hội.

Vốn gốc lính, tôi sẵn sàng làm người lính cho Đạo Quân Việt Tị Nạn Cộng Sản tích cực ủng hộ vị lãnh đạo Chống Cộng với chủ trương làm cho Nước Mỹ giàu mạnh để bảo vệ nền hòa bình thế giới. Dù cho tuổi già sức yếu, trí tuệ bình thường, nhưng tôi vẫn còn bầu nhiệt huyết, bởi vì Tổng thống Donald Trump bị bọn ma quỷ đánh bại, thì nòi giống Việt Nam sẽ bị tiêu vong dưới gót giày của bọn Trung Cộng.

Xin lặp lại, Trung Cộng đang trên đà tiêu diệt nòi giống Tây Tạng, Tân Cương, Việt Nam. Nếu Trung Cộng trở thành bá chủ hoàn cầu thì nhất định bọn Hán Tộc có dòng máu xâm lăng, bành trướng, với dân số gần 1 tỉ 500 triệu dân, sẽ đè bẹp nhân loại. Chỉ có Hoa Kỳ mới đủ sức mạnh ngăn cản ý đồ và tham vọng ngông cuồng của nòi giống Hán. Nếu Tổng thống Donald Trump không chiến thắng trận giặc Nội Xâm; chắc chắn quả dịa cầu này sẽ trở thành địa ngục bị quỷ sứ cộng sản thống trị!

Những lập luận của tôi hoàn toàn dựa trên bằng chứng của một dân tộc đã bị loài yêu tinh Cộng Sản chế ngự; chứ không phải hù dọa để làm công cụ cho Tổng thống Trump.

Với não trạng của bọn Dân Chủ bán nước, tôi tin rằng nếu Tổng thống chẳng may bị ám sát thì bọn Dân Chủ và bọn truyền thông thổ tả sẽ mở tiệc liên hoan, ăn mừng thắng lợi ngay. Vì thế, người Việt Tị Nạn Cộng Sản phải có nghĩa vụ ủng hộ tài lực, vật lực và cầu nguyện Ơn Trên bảo vệ tính mạng vị lãnh tụ thề xóa sổ Cộng Sản.

Nếu vị thức giả nào nhận thấy đề nghị của tôi là hoang tưởng, bất khả thi, xin hãy vui lòng lên tiếng chỉ giáo cho tôi một cách đứng đắn, nghiêm chỉnh.Nếu quý vị thức giả nào nhận thấy lời đề nghị của tôi là chính đáng, cần gấp rút thi hành, xin vui lòng đứng ra lãnh đạo cuộc chiến đấu vì lý tưởng TỰ DO, tôi sẽ tình nguyện đứng dưới cờ lãnh đạo của quý vị.

Đã đến lúc những người Việt Tỵ Nạn Việt Cộng phải đoàn kết lại để tiếp tay Tổng thống Donald J. Trump chiến thắng ma quỷ!

Trân trọng kính trình.

Bằng Phong Đặng văn Âu

10200 BOLSA AVENUEWESTMINSTER, CA.92683

TELEPHONE: 714 – 276 – 5600. 

EMAIL ADDRESS: bangphongdva033@gmail.com

Ngày 9 tháng 5 năm 2019

30 tháng 4, đọc gì, viết gì?

Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.

Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.

Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.

Trích bài “Những mũi giáo đâm sau lưng, hay những kẻ nối giáo cho giặc” của ông Đỗ Hồng Ngọc:
….
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc.
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản.

Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:

Trên đời có bốn cái ngu 
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu
Thứ năm ngu nhưng lại đứng đầu 
Đó là cuồng tín theo hầu cộng nô

Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như:Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH.

Vào ngày 20/12/1960, con bài“Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN” (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có:Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…

Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là“Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như:Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…

Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976.

Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.

Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…

Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…) Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.

Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.

Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)…

Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến (ông này là cha của ông Lê Khắc Nhàn tức Hằng Trường. Đại lão Hòa Thượng Tuyên Hóa đã đuổi ra khỏi Tăng Đoàn Vạn Phật Thành vì âm mưu chiếm chùa Vạn Phật và không được lấy pháp danh họ Hằng nữa), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên…

Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng.

Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam.

Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài…

Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng.

Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…

Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng. (ngưng trích)

Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ. Nào đoàn tụ gia đình, nào bảo lãnh thân nhân, nào hôn nhân (thật lẫn giả), nào “HO”, nào du sinh, nào đại gia VC và con cháu VC gộc, cùng nhau cấu kết với cựu tị nạn trở cờ…tạo thành một “đội ngũ” chuột đỏ rộng lớn dưới sự chỉ đạo giấu tay của các sứ quán VC, đã xâm nhập mọi sinh hoạt chính trị, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, báo chí, truyền thông … trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.

Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.

Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.


Ký‎ Thiệt

30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI

Tác giả: Trần Gia Phụng – 2019-05-01
Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.
Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.

1.- AI THẮNG AI?
Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa.
Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản.
Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc.
Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969.
Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ
Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3)
Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5)
Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.
Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.“(7)
Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9)
Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc.
Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh.

2.- THỰC TẾ SAU 30-4
Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.)
Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa.
Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước.
Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11)
Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách.
Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.)
Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12)
Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991?

3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC
Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13)
So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14)
Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa.
Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống.
Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15)
Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16)
Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn.

4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trung, cô lập, bắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam.
Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế…
Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18)
Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20)
Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay.
Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam.
Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc.
Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây:
· Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt.
· Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản.
· Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư…
· Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời.
Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt.
Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây.
Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21)
Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường.

.
TRẦN GIA PHỤNG (Toronto)

Thấy gì từ việc Terry Gou ra tranh cử tổng thống Đài Loan?


Nguồn: Taiwan’s richest man says his run for president is divinely inspired”, The Economist, 27/04/2019.

Nếu các doanh nhân giàu có mang lại cả sức mạnh và gánh nặng chính trị, thì Terry Gou (Quách Đài Minh, sinh năm 1950) là người mang lại cả hai thứ đó ở quy mô lớn. Ông là người giàu nhất Đài Loan, với khối tài sản ước tính lên tới 7 tỷ đô la, vì vậy ông sẽ không gặp khó khăn gì trong việc tài trợ cho chiến dịch tranh cử tổng thống mà ông tuyên bố tuần trước. Hơn thế nữa, rất ít người trên thế giới có thể tuyên bố đã tạo ra được nhiều việc làm hơn ông: bắt đầu từ một khoản vay nhỏ từ mẹ mình, ông đã xây dựng nên công ty sản xuất theo hợp đồng lớn nhất trong ngành điện tử, Foxconn, công ty sản xuất iPhone cho Apple, bên cạnh những thứ khác. Công ty sử dụng gần 1 triệu lao động. Trước những cử tri thất vọng về thành tích kinh tế dưới thời tổng thống đương nhiệm Tsai Ing-wen (Thái Anh Văn), ông Gou sẽ không gặp khó khăn trong việc quảng bá mình như là giải pháp cho vấn đề của họ.

Nhưng không thể xây dựng được một doanh nghiệp lớn như vậy mà không đi kèm việc tích tụ những oán hận, ít nhất là theo nghĩa chính trị. Ông Gou không thiếu những oán hận như vậy. Ví dụ, phần lớn việc làm ông tạo ra không phải ở Đài Loan. Và chín năm trước Foxconn gặp phải một loạt các vụ tự tử của công nhân, khiến nhiều người đặt câu hỏi liệu công ty có nên đối xử tốt hơn với công nhân hay không. Trên thực tế, mô hình Foxconn đi ngược lại với những gì Đài Loan cần, Hsiao Bi-khim, một nghị sĩ Đảng Dân Tiến (DPP) cầm quyền nói (ông Gou đang tìm kiếm đề cử từ đảng đối lập lớn nhất, Quốc Dân Đảng – KMT). Công ty đã phát triển mạnh mẽ bằng cách làm ngơ những công nhân Đài Loan và xây dựng các nhà máy ở những nơi có mức lương thấp hơn, đặc biệt là ở Trung Quốc. Bà Hsiao lập luận rằng nằm tại trung tâm các vấn đề kinh tế của Đài Loan là tình trạng thu nhập bị đình trệ, một vấn đề mà Foxconn đóng vai trò như một lời cảnh báo hơn là một nguồn cảm hứng.

Nhưng những câu hỏi về đặc điểm của Foxconn trong tư cách là một người sử dụng lao động không là gì nếu so với những lo lắng về việc ông Gou ứng cử có thể gây ra những xung đột lợi ích. Trung Quốc coi Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình và khẳng định quyền tiến hành thống nhất bằng vũ lực nếu cần thiết. Nhiều người Đài Loan tự hỏi liệu ông Gou có thể chống lại được sức ép từ Trung Quốc hay không khi rất nhiều nhà máy Foxconn hiện đang được đặt tại đại lục, khiến gia tài cá nhân của ông phụ thuộc vào thiện chí của Đảng Cộng sản Trung Quốc? “Trung Quốc có thể kiểm soát ông ấy”, người dẫn chương trình của một chương trình truyền hình nổi tiếng nhận xét như vậy vào tuần qua.

Nếu thế thì, một lần nữa, Trung Quốc cũng có có thể kiểm soát được cả Đài Loan. Khoảng 1 triệu người Đài Loan, khoảng một phần mười lực lượng lao động, hiện đang làm việc tại Trung Quốc. Cùng với Hồng Kông, Trung Quốc hấp thụ khoảng 40% lượng hàng xuất khẩu của Đài Loan. Trung Quốc thưởng cho các chính phủ Đài Loan chịu nghe lời bằng các phần thưởng kinh tế như sự bùng nổ khách du lịch từ đại lục và trừng phạt những chính phủ cứng đầu bằng cách ngăn cản người dân đi du lịch Đài Loan. Quốc Dân Đảng đã phản ứng lại với hệ thống này bằng cách không chính thức từ bỏ mục tiêu thống nhất và tìm cách tăng cường quan hệ kinh tế. Ngược lại, Đảng Dân Tiến nhấn mạnh rằng Đài Loan là một quốc gia độc lập như bất kỳ quốc gia nào khác, bất chấp những hậu quả kinh tế mà lập trường đó có thể mang lại. Về bản chất các cử tri phải lựa chọn giữa các lợi ích kinh tế vốn khiến quốc gia này càng phải chịu sự chi phối của Trung Quốc, hay một chính sách khắc khổ do chính sách đối ngoại gây ra.

Vị trí ứng cử viên của ông Gou đơn  giản là biểu hiện rõ ràng hơn của tình huống lưỡng nan này. Ngay sau khi ông tham gia cuộc đua, bà Thái đã công kích ông trên mạng xã hội vì ông từng bình luận về các cuộc biểu tình chống Trung Quốc vài năm trước đây rằng “các bạn không thể ăn món dân chủ được”. Ông Gou đã phản ứng gay gắt, nói rằng bà Thái đã đưa câu nói đó ra khỏi bối cảnh bởi vì bà “thực sự ngu ngốc và ngây thơ”,  hoặc là “một người thực sự xấu xa và thủ đoạn”. Ông nhấn mạnh rằng ông chỉ muốn nói nền dân chủ nên được sử dụng để cải thiện cuộc sống của người dân.

Sự giận dữ của ông Gou đối với nhận xét của bà Thái gợi ý rằng ông biết sẽ là một sự tự sát chính trị nếu bị coi là ủng hộ sự đánh đổi mà Trung Quốc đưa ra, rằng Đài Loan nên chấp nhận sự thịnh vượng lớn hơn với cái giá phải trả là nền độc lập. Bruce Jacobs đến từ Đại học Monash ở Australia lập luận rằng Đài Loan trên thực tế có số cử tri ủng hộ Đảng Dân Tiến lớn hơn, và các ứng cử viên Quốc Dân Đảng phải tìm cách mở rộng sự hấp dẫn của mình ra ngoài tầng lớp cử tri trung thành nếu muốn thắng cử.

Ông Gou trả lời câu hỏi hóc búa này bằng cách thể hiện mình là một người bình thường được trao thiên chức. Ông đã ngừng cãi vã với bà Thái trong tuần này để đẩy người mẹ già ngồi xe lăn của mình đi dạo quanh một công viên trước ống kính máy quay. Và ông cũng tuyên bố ra ứng cử tại một ngôi đền thờ Matsu (Ma Tổ, hay Lâm Mặc Nương), một nữ thần được thờ phụng ở Đài Loan và vùng duyên hải Trung Quốc. Ông nói rằng Ma Tổ đã hiện ra trong một giấc mơ và bảo ông ra tranh cử để giúp đỡ “những người đang gặp khó khăn”. Tuy nhiên, sẽ rất khó để ông Gou thành công với chiến thuật này. Một người lớn tuổi nhận xét thẳng thừng rằng “Thật không phù hợp khi chính trị hóa Ma Tổ”.

Biên dịch: Phan Nguyên

Sự thay đổi hoàng đế có ý nghĩa như thế nào với Nhật Bản?


Nguồn: What the change of emperor means for Japan”, The Economist, 29/04/2019.

Biên dịch: Phan Nguyên

Vào ngày 30/04/2019, Hoàng đế Nhật Bản Akihito (trong ảnh, bên phải) sẽ thoái vị sau 30 năm cai trị. Quyết định của vị hoàng đế 85 tuổi xảy đến như một cú sốc vì đây là lần đầu tiên một hoàng đế Nhật Bản thoái vị kể từ năm 1817. Con trai cả của Akihito, Thái tử Naruhito (trong ảnh, bên trái), sẽ trở thành hoàng đế thứ 126 của chế độ quân chủ lâu đời nhất thế giới, mà theo huyền thoại Nhật Bản có nguồn gốc trực tiếp từ nữ thần mặt trời Amaterasu trong Thần đạo (Shinto). Sự thay đổi ngôi vị hoàng đế có ý nghĩa như thế nào đối với Nhật Bản?

Hiến pháp sau Thế chiến II đã thay đổi tư cách của hoàng đế Nhật Bản từ một vị thánh sống với quyền lực chính trị lớn, bao gồm quyền tuyên bố chiến tranh, thành một vị trí mang tính biểu tượng của Nhật Bản. Akihito, người lên ngôi năm 1989, đã đảm nhận vai trò này khác với cha mình. Thay vì ngồi trong cung điện và cầu nguyện, ông đã biến vai trò hoàng đế của mình trở nên dễ tiếp cận hơn với công chúng. Ông kết hôn với một thường dân, vị quân vương đầu tiên làm như vậy trong gần 2.680 năm lịch sử hoàng gia Nhật, thăm các viện điều dưỡng bệnh nhân mắc bệnh phong, và thúc đẩy phong trào Paralympics. Sau trận động đất Tohoku năm 2011 khiến phần lớn vùng đông bắc Nhật Bản bị tàn phá, ông và Hoàng hậu Michiko đã đến nói chuyện với những người sống sót, quỳ trên sàn nhà và nắm tay họ. Ông đã làm nhiều việc để xin lỗi cho lịch sử thời chiến của Nhật Bản, đến thăm các chiến trường như Saipan và Palau để tỏ lòng thành kính với những người đã thiệt mạng trong chiến tranh. Và ông cũng đã không đến thăm Đền Yasukuni, ngôi đền gây tranh cãi ở Tokyo nơi thờ phụng 14 tội phạm chiến tranh cấp cao của Nhật.

Sự thay đổi rõ ràng nhất mà sự kế thừa ngai vàng của Naruhito mang lại cho Nhật Bản là sự khởi đầu của một triều đại mới, có niên hiệu là Reiwa (Lệnh Hòa), có nghĩa là sự “hòa hợp tươi đẹp”. Naruhito sẽ có những ý tưởng riêng về vai trò của mình. Vị Thái tử từng học ở Đại học Oxford và hoàng hậu – từng tốt nghiệp Đại học Harvard và là một nhà ngoại giao biết nói nhiều thứ tiếng trước khi gia nhập hoàng gia – có thể xuất hiện thường xuyên hơn trên trường quốc tế so với Akihito và Michiko, những người có xu hướng tập trung hỗ trợ các nhóm yếu thế của Nhật Bản. Nhưng ít có khả năng Naruhito sẽ đi lệch xa khỏi con đường mà cha ông đã đi trong ba thập niên qua. Tỉ lệ ủng hộ của người dân đối với Akihito dao động quanh mốc 80%. Naruhito sẽ tiếp tục đến thăm các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai và ủng hộ người khuyết tật. Ông cũng sẽ tiếp tục di sản của Akihito khi nhìn lại lịch sử thời chiến của Nhật và tránh không viếng thăm Đền Yasukuni.

Những nỗ lực của Akihito nhằm thu hẹp khoảng cách giữa hoàng gia và công chúng đã giúp hoàng gia được lòng dân. Nhưng các cuộc khủng hoảng hoàng gia vẫn xuất hiện mà ngay cả một vị hoàng đế được lòng dân cũng không thể khắc phục. Theo Luật Gia đình Hoàng gia Nhật Bản, phụ nữ không  thể trở thành hoàng đế, vì vậy sau khi Naruhito lên ngôi, người tiếp theo trong danh sách kế vị ngai vàng sẽ là anh trai ông, tiếp đến là đứa cháu trai 12 tuổi của ông. Gia đình hoàng gia sẽ giảm dần từ con số 18 thành viên hiện tại, vì các thành viên nữ sẽ phải rời khỏi hoàng gia nếu kết hôn với thường dân. Các ý tưởng để giải quyết những vấn đề này, như chấp nhận phụ nữ làm hoàng đế, đã gặp phải sự phản đối quyết liệt từ những người theo chủ nghĩa truyền thống, vốn là những người ủng hộ thủ tướng Shinzo Abe. Các nghi lễ hoàng gia, thường có yếu tố Thần đạo mạnh mẽ, cũng gây nhiều tranh cãi. Các nhà phê bình cho rằng việc sử dụng công quỹ cho các nghi lễ hoàng gia vi phạm nguyên tắc của hiến pháp là tách biệt tôn giáo và nhà nước.

Nhưng hiện tại, một hoàng đế mới đồng nghĩa với một sự khởi đầu mới. Sau một thời kỳ được đánh dấu bởi trì trệ kinh tế và thiên tai, nước Nhật đã sẵn sàng đón chào một kỷ nguyên mới.

02/05/1957: Joseph McCarthy qua đời

Vào ngày này năm 1957, sau một thời gian chống chọi với bệnh nặng do chứng nghiện rượu, Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy (Đảng Cộng hoà, bang Wisconsin) đã qua đời ở tuổi 48. McCarthy là nhân vật chủ chốt trong cơn cuồng loạn bao trùm nước Mỹ trong những năm sau Thế chiến II, được biết đến với cái tên khét tiếng – “Nỗi sợ Cộng sản” (Red Scare).

McCarthy sinh tại một thị trấn nhỏ ở Wisconsin vào năm 1908. Năm 1942, ông gia nhập Thủy quân Lục chiến và phục vụ ở Thái Bình Dương trong Thế chiến II. Ông trở về vào năm 1944 và quyết định bắt đầu sự nghiệp chính trị.

Trong năm ấy, ông đã thất bại khi ra tranh cử một ghế trong Thượng viện Mỹ. Không nản lòng, năm 1946, McCarthy đã thách thức Thượng nghị sĩ nổi tiếng Robert LaFollette trong cuộc bầu cử của Đảng Cộng hòa. Sử dụng phong cách tấn công mạnh mẽ mà sau này trở thành thương hiệu của mình, McCarthy đã đánh bại một LaFollette quá tự tin và giành chiến thắng trong cuộc bầu cử để trở thành một Thượng nghị sĩ trẻ đại diện cho Wisconsin.

Thật ra, những năm đầu sự nghiệp tại Thượng viện của McCarthy không có gì đáng kể. Năm 1950, tuyệt vọng tìm kiếm một vấn đề mà ông có thể sử dụng để củng cố cơ hội tái đắc cử, McCarthy nghe theo lời khuyên của một vài cố vấn và chuyển hướng sang vấn đề chủ nghĩa cộng sản ở Mỹ. Mặc dù biết khá ít về chủ đề này, McCarthy đã nhanh chóng thổi bùng câu chuyện.

Tháng 02/1950, ông đã làm choáng váng mọi người với tuyên bố rằng có hơn 200 “thành viên Cộng sản” đã được xác định trong Bộ Ngoại giao. Trong bốn năm tiếp theo, McCarthy trở thành “Thợ săn Cộng sản” (Red Hunter) khét tiếng nhất và đáng sợ nhất ở Mỹ. Kết hợp các tuyên bố kịch tính với những cáo buộc hoang đường liều lĩnh, McCarthy đã sớm hủy hoại sự nghiệp của nhiều người, buộc đối thủ phải im lặng, và khuấy động công chúng Mỹ bằng những lời buộc tội chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, giữa cơn cuồng loạn ấy, ít ai để ý rằng McCarthy chưa bao giờ phát hiện được một người Cộng sản thực sự nào, dù là trong hay ngoài chính phủ.

Năm 1954, khi vận may chính trị của ông bắt đầu suy giảm, McCarthy thực sự đã đi quá xa khi buộc tội Quân đội Mỹ “mềm lòng với những người Cộng sản.” Trong các phiên điều trần nổi tiếng giữa Quân đội và McCarthy năm đó, công chúng Mỹ đã được trực tiếp chứng kiến thói quen bắt nạt và sự bạt mạng của McCarthy. Các phiên điều trần này đã hủy hoại uy tín của McCarthy, và dù có tiếp tục giữ chức vụ thì quyền lực của ông tại Thượng viện cũng đã chấm dứt.

Trong mấy năm tiếp theo, vị Thượng nghị sĩ ngày càng tìm đến rượu để giải tỏa sự thất vọng của mình. Năm 1957, ông nhập viện vì mắc nhiều căn bệnh, mà tất cả đều trở nên trầm trọng hơn do xơ gan. Ông qua đời tại Bethesda, Maryland và được chôn cất tại quê nhà Wisconsin.