Cây bút vẽ

Hồi ký của Quốc Nam PDX đăng trên Báo Xuân  Bính Thân 2016  của Oregon Thời Báo 

Nói đến Tết, tôi nhớ thời còn bé khi cận Tết, ba mẹ thường mua màu và giấy để tôi vẽ những bức họa trang trí Tết nơi phòng khách. Ba thì thích hình Phước Lộc Thọ, Mẹ thì ưng Hoa Mai Cúc Trúc. Vẽ tranh Tết coi như cái lệ hàng năm mà ba mẹ tôi ưa thích và cũng để ông bà có dịp khoe thằng con nhà có khiếu vẽ với bà con chòm xóm. Màu và giấy còn dư lại, tôi làm bích báo (báo tường) cho lớp học để tranh giải trong mỗi dịp Tết đến. Thời trung học, năm nào bích báo của lớp đều đoạt giải nhất hay nhì về giải mỹ thuật do tôi trình bày. Tôi còn thích vẽ thiệp chúc Tết cho cho bạn bè, người thân. Tôi cũng không quên gởi tặng đến người yêu cánh thiệp đầu xuân bằng những cánh hoa con buớm khoe sắc kế bên bài thơ tình lãng mạn. Thời xưa cử chỉ tình yêu của tuổi học trò chúng tôi mộc mạc và dễ thương như thế.

Có lẽ tôi có chút năng khiếu hội họa từ thuở bé. Nhưng tôi đã sớm bẻ gãy cây bút vẽ khi nghiệm được những người tôi thích vẽ chân dung cho họ hay những người thân của tôi lần lượt qua đời sau ít tháng từ khi bức chân dung được hoàn thành. Người đầu tiên là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi tôi muốn vẽ chân dung của một Tổng Thống. Sau khi bức chân dung màu đen trắng của Tổng Thống Diệm được hoàn tất thì biến cố đão chánh xảy ra và ông bị giết hại năm 1963. Kế đó là người cậu út của tôi, một sinh viên sĩ quan Không Quân, tên Tạ Đăng Gấm (cùng khóa với cựu Trung Tá KQ Huỳnh Liên, ở Portland) qua đời tại Texas khi cùng huấn luyện viên lâm nạn trong một chuyến bay. Bức chân dung cậu tôi được ông bà ngoại lấy để trên bàn thờ. Người thứ ba là em ruột của tôi và người thứ tư cũng là người cuối cùng mà từ đó tôi thề không vẽ chân dung nữa, chính là bức chân dung của cha tôi trong quân phục sĩ quan cảnh sát đang ngậm ống điếu thật oai.

Tôi cảm nhận ra được cái huông xui xẻo qua bút vẽ của mình và đủ bị cái huông đó đeo đuổi và ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ.

Sau 30 tháng 4 đen, tôi đi tù mà Việt cộng gọi là tập trung ‘cải tạo’. Ngay khi vào trại Long Giao (*), tôi tìm nhặt những tờ báo có ảnh của các tên lãnh đạo CSVN đương thời như Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng v.v…để vẽ chân dung của chúng. Tôi muốn cái huông ‘giết người’ ứng nghiệm (trù ếm) qua bút vẽ…. Một bạn tù nằm kế bên tôi, tên Tùng, phi công L19 thấy tôi vẽ chân dung các ‘bác’, những đầu sỏ CSVN thời đó giống qúa, Tùng năn nĩ tôi vẽ cho hắn một bức chân dung. Tôi nhất định từ chối. Tùng tỏ vẽ giận nên tôi buộc lòng kể cái huông xui xẻo qua ngòi bút vẽ của tôi: “mày muốn chết à!”. Chừng đó, Tùng mới thôi ép tôi và có lẽ hắn hiểu tại sao tôi cố tình vẽ chân dung của mấy tên lãnh đạo CSVN.

Long Giao là trại tù đầu tiên mà chúng tôi bị lùa vào. Cũng là thời điểm tù nhân chúng tôi khốn đốn, chịu đưng đau đớn thể xác nhất do dịch ghẻ quái ác hoành hành. Không tù nhân nào tránh khỏi, không nhiều thì ít, không thuốc men trị liệu. Nhiều đêm tôi bị đánh thức bởi tiếng rên la đau đớn của những anh bạn tù cùng phòng hay của bác Đường, bác sĩ Hiền bên kia phòng kế. Tôi may mắn chỉ bị chút ít không đáng kể. Phòng của tôi có trung uý Hảo (Công binh) và phi công trực thăng Bùi văn Thanh bị nặng nhất, hai anh chỉ ngũ ngồi vì toàn thân đều bị ghẻ, không cách gì nằm ngữa hay nằm úp được. Chúng tôi, những người bạn chung phòng không có phương tiện gì giúp được hai anh, ngoài mỗi buổi sáng sớm thức dậy để an ủi hai anh bằng câu thăm hòi: Tối qua anh ngũ được khộng?

Tù nhân chúng tôi rời trại tù Long Giao về trại Hốc Môn (*) sau khi kho đạn Long Khánh phát nổ. Tại Hốc Môn, một buổi trưa nắng cháy, đội chúng tôi đi làm cỏ dọc bờ vòng đai của tiểu đoàn. Lúc nghỉ giải lao, bên kia vòng đai của tiểu đoàn kế bên, một tên cán bộ có mấy ngôi sao trên cổ áo mà chúng tôi chẳng cần biết hắn cấp bậc gì đang đi đến sát hàng rào kẽm gai về hướng chúng tôi bên này. Hắn dừng lại, tự xưng là chính trị viên của tiểu đoàn và muốn nói chuyện với chúng tôi. Qua câu chuyện, hắn như tiết lộ hoặc nói lên cái suy nghỉ riêng của hắn: “Cách mạng biết là không thể nào cải tạo được các anh. Vì xã hôi miền Bắc của chúng tôi thua xa xã hôi miền Nam của các anh. Đó là sự thật. Cách mạng tập trung các anh vào đây để ổn định an ninh bên ngoài”…. Chúng tôi ngạc nhiên trước lời lẽ ‘cực kỳ phản động’ của tên cán bộ. Và thật sự, ngày qua ngày chúng tôi cảm nhận được thân phận của mình: bị khống chế và chịu sự trả thù của phe thắng cuộc. Ngày về!  Ánh sáng cuối đường hầm đã tắt ngúm!

Sau buổi nói chuyện với tên chính trị viên ấy, bác Hùng, người tù cùng tổ và nằm kế bên tôi đã rủ tôi trốn trại. Chúng tôi gọi bác là Hùng Gấu vì bác to con, đen đúa, tay chân lông lá khỏe mạnh tuy lớn tuổi hơn tôi khá nhiều. Hùng Gấu là một đại úy bộ binh của Tiểu khu Gia Định. Bác cho biết kế hoạch và địa điểm sẽ trốn trại mà bác đã nghiên cứu tự hồi nào. Sau vài đêm thao thức suy tính và cuối cùng tôi quyết định từ chối. Bác Hùng có người vợ bé, người Việt gốc Hoa đang ở Chợ Lớn, là người thăm nuôi, khuyến khích bác trốn trại và lo cho bác vượt biên. Bác Hùng Gấu có nơi dung thân. Còn tôi? Mặc dù lý lịch tôi đã khai man về cấp bậc, chức vụ, nhưng địa chỉ vợ con đang sinh sống ở Saigon không thể khai dối được. Tôi trốn ra ngoài sẽ đi và ở nơi đâu?. Bám theo bác là điều khó và không thể!

Vài ngày sau đó Hùng Gấu biến mất khỏi trại trong lúc tiểu đoàn tù nhân đang ‘học tập’ (lên lớp) tại hội trường. Lúc bác Hùng ra đi, bác ra dấu cho tôi biết và để lại cho tôi cái điếu cày hút thuốc lào bằng nhôm chạm trổ rất công phu đã theo bác từ lâu và tôi đã giử nó cho đến khi ra trại sau này. Không biết bây giờ bác đang ở đâu? Bác vượt biên suôn sẻ hay không? Hai chữ ‘vượt biên’ mà lần đầu tôi được nghe từ bác. Sau này ra khỏi tù (1983), tôi mới nghe lại được hai chữ ‘vượt biên’. Là sĩ quan hải quân đi biển và từng là thuyền trưởng hải đội duyên phòng nhiều năm như thiên định (xin đọc bài viết ‘Những mắc xích của định mệnh) đã ban cho tôi ít nhiều kinh nghiệm đi biển. Cám ơn binh chủng mẹ, binh chủng Hải Quân đã cho tôi cái vốn liếng đi biển này vừa đủ để  nhiều tổ chức vượt biên săn đón, mời gọi. Do đó, trong thời hạn bị quản chế tức tù treo tại địa phương, tôi âm thầm hoạt động và đi lại trong giới tổ chức vượt biên. Cuối cùng tháng 7 năm 1983 tôi đưa được gia đình, bạn bè và 89 thuyền nhân thoát khỏi Việt Nam trên một chiếc ghe nhỏ ra khơi bình an. Sau hai ngày trên biển hướng về Indonesia, chúng tôi được tàu Hoa Kỳ vớt.

Tôi cũng từ hối tiếc nhưng thông cảm cho gia đình khi nghe vợ tôi kể lại lúc tôi đang ở trại tù Hốc Môn có thủy thủ tên TN Hà, người Việt gốc Hoa là nhân viên dưới chiến hạm của tôi trước 30/4/1975 đã đến nhà xin địa chỉ trại tù nhằm tìm cách đưa tôi ra khỏi tù để lái (làm tài công) chiếc tàu vượt biên thời bán chính thức, nhưng gia đình tôi từ chối vì lo sợ bị công an VC gài. Sợ hãi và nghi ngờ lẫn nhau là tâm trạng chung của người dân miền Nam lúc đó bị Việt cộng ‘khủng bố’ bằng bạo lực và thủ đoạn. Sự khủng bố đó bao trùm cả hai miền Nam Bắc đến ngày nay. Ngưng khủng bố thì chế độ của chúng sẽ xụp đổ lập tức. Có thể nói cộng sản là thầy ’khủng bố’ và di họa hơn cả khủng bố IS ở chổ chúng vừa dùng bạo lực vừa tẩy nảo và trồng người vô tri. Chúng ta không thua VC nhưng chúng ta thua những kẻ vô tri.

Cuối năm 1977, chúng tôi chuyển trại vào tận rừng Kà Tum (*). Rời Hốc Môn, chúng tôi coi như chấm dứt đường dây do tôi và người bạn hải quân, trung uý  Huỳnh Ngọc Sơn lén lút tiếp tế thuốc men, quần áo củ, sách báo, thực phẩm đến các chị em tù nhân nữ cảnh sát nằm trong khu của bộ chi huy tiểu đoàn. Chúng tôi tiếp tế cho các chị qua các nữ tù cảnh sát ở tổ nuôi heo mỗi khi chúng tôi có công tác lên tiểu đoàn nhồi bột làm bánh mì vào sáng sớm.

Chúng tôi lên đường đi Kà Tum đang lúc nữ trung úy cảnh sát tên Xuân kêu la đau đớn bởi các vết  thương ruớm máu, bầm tím do các tên cai tù đánh đập. Cô Xuân nhiều lần gỉa điên hoặc có thể điên thật đã la hét, chửi bới từ tên Hồ chí Minh xuống đến tên cai tù không còn biết. Chúng đánh đập cô chết ngất mấy lần. Chúng tôi rời trại không biết ống thuốc Aspirine, vài viên trụ sinh, thuốc đỏ, băng cứu thương do chúng tôi tiếp tế cho cô có còn hay không? Hay còn đủ những mảnh áo tơi, quần rách để các chị em đồng đội băng bó vết thương cho cô. Không biết cô đã chết hay giờ đang ở đâu? Một nữ cảnh sát VNCH can trường!

***

Các bộ mặt cán ngố của bộ chỉ huy tiểu đoàn theo chúng tôi đến Kà Tum. Đại úy Hưng (Công Binh) ở chung phòng với tôi ở Hốc Môn, người Bắc to con nhưng anh mắc bệnh đau bao tử. Anh  không ăn uống được, suốt ngày anh  ôm bụng kêu rên và thường ói ra máu. Đến Kà Tum được hơn một tuần anh Hưng biến mất giửa đêm. Có lẽ sức khoẻ bệnh hoạn của anh không chịu nổi lao động khổ sai như vào rừng vác cây, vác nứa, kéo mây rừng, cắt cỏ tranh. Chúng tôi lo ngại cho sức khoẻ của anh phải đối diện với rừng sâu, nước độc để đào thoát. Cầu xin cho anh trốn trại bình an. Anh Hưng trốn đi chưa được một tuần, đến bác Hoàng, một tù nhân gìa nua và ốm yếu sau buổi trưa hì hục cố vác bao củ mì to tổ bố theo ‘chỉ tiêu’ trèo lên dốc về trại. Bác về được đến sân trại thì ngất xỉu, lên cơn sốt và hộc máu tươi, qua đời. Sáng hôm sau chúng tôi cuộn xác bác Hoàng trong tấm chiếu của bác và đào lổ chôn bác bên lề con đường lên trung đoàn và dùng một cành cây lớn cấm xuống để đánh dấu.

Đi lao động khổ sai, bệnh tật, tai nạn đi rừng, đói khát đối với tù nhân của cộng sản là chuyện thường của nhà tù bất quy chế. Chúng tôi kiên cường chịu đựng, không than van, không phản bội đồng đội. Nhưng có một sự kiện xảy ra tại Kà Tum phải kể ra để thấy bọn cai tù VC thật đê hèn và độc ác đến thế nào khi có một số anh em tù đi rừng bắt được một con trăng lớn, xẻ thịt rồi mang về trại dấu chia nhau. It ngày sau bọn quản giáo biết được và chúng lên lớp (kết tội): “con trăng là tài sản của nhà nước….”. Chúng ra lệnh phạt bằng cách ước tính số cân ký của thịt trăng để khấu trừ vào phần gạo mốc hay khoai mì lát khô cấp phát hàng ngày. Thế là cả đội chúng tôi đói meo hết mấy ngày: Sự trả thù của cộng sản!

Đi rừng lao động là cơ hôi tốt để trốn trại. Nguyễn văn Thuấn, Trung úy Biệt kích 81 dù của Nha Kỹ Thuật (Beverton), Trung úy Huỳnh Ngọc Sơn (hải quân) và tôi cũng chuẩn bị tích trử lương khô để trốn trại sau khi chúng tôi có được trong tay bản đồ vùng rừng Kà Tum. Chuyến vượt tù của chúng tôi chưa thực hiện được thì toán bảy người của đại úy Lễ (Công Binh) đã trốn trại trước làm cho kế hoạch chúng tôi phải hủy bỏ và tẩu tán lương khô. Ít lâu sau chúng tôi được tin nhóm 7 người trốn trại của đại úy Lễ đi đến Nha Trang và vượt biên thành công.

Rời Kà Tum chuyển đến rừng Phước Long (*). Cả tiểu đoàn cán ngố của Bảy Dũng, tên tiểu đoàn trưởng cũng đi theo. Trong số bọn này có tên trung úy Tư Lung, người bắc có hàm răng vẫu, mặt xương, ốm lều khều, tướng đi như con vượn và cực kỳ hung ác đối với tù nhân. Một buổi trưa cuối tuần, ngoài sân trại vắng tanh, chỉ có tôi ngồi sủi cây lược nhôm chải tóc theo hình tôi vẽ một phụ nữ nằm nghiêng, xỏa tóc ôm lấy bờ vai no tròn để lộ cánh tay thon thả nằm dọc theo bờ hông và cố tình phơi bàn tay nằm trên bắp đùi để khoe năm ngón tay thon dài búp măn xinh xắn (Mẩu lược này, có một thời anh em tù nhân ưa thích tại trại tù Phước Long, năm 1979). Tôi say mê sủi hình, đến nổi tên vẹm Tư Lung đi đến nơi và đứng sau lưng lúc nào mà tôi không hay biết.

–  Anh lầy! * (nầy)

Giọng quát quen thuộc của tên Tư Lung làm tôi giật bắn người, đứng phắt dậy, buông rơi cây thép sủi trên bàn theo khe nhỏ lọt xuống đất. Tôi đứng dạt một bên chới với đưa mắt nhìn hắn, trong bụng đánh lô tô: “thôi chết rồi!”. Tên Tư Lung vừa quát vừa vối tay chụp lấy cây lược. Hắn cầm cây lược đang sủi dở dang lật qua lật lại xem, mồm buông lời mắng chửi:

– Anh cải tạo bao nhiêu lăm* (năm) rồi mà bây giờ còn vẽ mụ đàn bà trần truồng thế lầy* (nầy) à!…Anh chắc khỏi được về”.

Mồm hắn ngưng lại đưa mắt nhìn chầm chập vào đâu đó trên cây lược rồi mắng tiếp:

– Tư tưởng còn ngụy, không chịu nao* (lao) động…đàn bà còn để móng tay dài như thế lầy* (này)?

Mặt hắn lúc nào cũng đanh lạnh như đồng. Vài người bạn trong lán nghe tiếng quát tháo của Tư Lung, họ thập thò nhìn ra sân lo lắng cho tôi. Tên Tư Lung ra lệnh:

– Anh đưa hết đồ nghề cho tôi.

Tôi gom đồ nghề làm lược bỏ lại vào hộp thiết nhỏ trao cho hắn. Cầm lấy hộp đồ nghề và cây lược hắn quay lưng lững thững trở về bộ chỉ huy tiểu đoàn.

Tối hôm đó khi những dãy lán dài của tù nhân đã chìm hẳn trong màn đêm giửa khu rừng trở nên tĩnh mịch. Thỉnh thoảng chỉ còn nghe tiếng kêu của loài chim ăn đêm hay đâu đó tiếng kêu của những con tắc kè. Còn đang trăn trở xoay mình qua lại trên tấm phản của chiếc giường tre cọt kẹt để tìm giấc ngủ, bổng tôi chợt thấy bên ngoài sân qua song cửa sổ tre loé lên những vệt ánh sáng từ chiếc đèn pin quẹt qua lại đang soi đường đi về hướng lán của chúng tôi. Ánh đèn pin dừng lại phía trước cửa ra vào lán. Tiếng gỏ mạnh vào cây cột cái cùng với vệt sáng của đèn pin rọi thẳng vào lán. Tôi nằm im, lắng nghe. Tiếp theo có tiếng gỏ mạnh hơn vào thành cột cửa, vệt sáng đèn pin quệt quẹt nhanh hơn làm cho vài người bạn tù thức giấc ngồi dậy ngơ ngác nhìn ra cửa. Rồi tôi nghe âm thanh của ai đó ở đầu lán bước xuống khỏi giường. Tiếp theo là giọng bắc kỳ đặc sệt của Tư Lung:

– Kêu anh Lam* (Nam, tên của tôi) ra tôi bảo.

”Vâng”, tôi nhận ra tiếng của đội trưởng  Ẩn. Không đợi cho đội trưởng Ẩn đến nơi, tôi ngồi dậy, vén mùng, xỏ chân vào đôi guốc cây lọc cọc đi ra cửa. Không chờ tôi lên tiếng, gã Tư Lung chìa cái hộp đồ nghề làm lược mà hắn tịch thu hồi trưa về phía tôi:

– Trả nại* (lại) anh này….và nàm*(làm) cho tớ 5 cái giống như thế lầy* (này)…để tớ gởi về Bắc nhá.

Hắn vừa nói vừa trả lại tôi cây lược có hình cô gái lõa thân chưa sủi xong. Hắn bỏ đi. Không một tiếng cám ơn. Hắn dùng chữ ‘tớ’, lối xưng hô khi cần nhờ vả. Trong bóng đêm, tôi cố nhìn tận vào mặt hắn để xem gương mặt đanh ác ấy có nét gì hân hoan khi nhờ tôi để có được món qùa (qúy đối với hắn) từ miền Nam gởi về gia đình nơi miền Bắc? Thú thật, đám vẹm của bộ chỉ huy tiểu đoàn từ tên Bảy Dũng, tiểu đoàn trưởng đến các tên vẹm quản giáo của các đội theo chân chúng tôi từ trại tù Hốc Môn đến Kà Tum, rồi đến Phước Long đã mấy năm liền mà chúng tôi chưa hề thấy chúng cười ra làm sao? Chẳng lẽ đảng CSVN nặn các tên vẹm nầy ra từ khúc gổ hay từ đất sét bùn nào đó như là một thứ công cụ vô tri.

Chúng vô tri về nhân tính nhưng giỏi về che dấu cảm xúc, một thứ tình cảm, ham muốn cá nhân hết sức bình thường xuất phát từ bản năng tự nhiên của con người và dù sự ham muốn đó rất nhỏ, nhỏ như câu chuyện cây lược nhôm và tên Tư Lung. Họ không sống thật đến đổi trở thành gỉa dối và gỉa dối ngay với chính mình. Bản chất của con người cộng sản và cả chế độ cộng sản là như thế: Gỉa dối và gỉa dối! Thời sự nóng bỏng diễn ra trước Đại hội Đảng lần thứ 12 đang xuất hiện những hiện tượng công khai chống Trung cộng quyết liệt của một số chóp bu CSVN trên các phương tiện truyền thông trong, ngoài nước và ngay cả tại các hội nghị quốc tế chỉ là thủ đoạn của tập đoàn CSVN để mị dân, mị thuộc hạ (công an bộ đội), mị các tổ chức thế lực đối lập và gạt cả quốc tế, các nước láng giềng để bảo vệ an ninh cho đại hôi và tranh dành quyền lực. Chúng nói dối không ngượng miệng: Đại hội Đảng lần thứ 12 này được bầu cừ tuyệt đối dân chủ, ‘Dân chủ’ hay Đảng chủ’? Tên nào thắng cử (cụi) cũng thế thôi. Sau đại hội, chúng sẽ trở lại nguyên dạng của những thái thú Tàu cộng. Chúng càng ra sức cướp tài sản quốc gia và giết hại dân lành tàn bạo hơn. Cộng sản còn cai trị thì những đòi hỏi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền vẫn là kẻ thù số một của chúng. Chỉ khi nào người dân không còn ‘VÔ TRI’, nghĩa là ‘DÂN TRÍ’ của người dân được khai phóng thì khi ấy mới là ngày tàn của cộng sản. Thới gian qua, tôi làm báo và đưa tin hàng ngày nhưng không màng đưa tin tức hay bình bàn gì về bầu bán đại hôi 12 của chúng. Nếu có chỉ đón nhận những bình luận lật tẩy sự bịp bợm của chúng hay vạch mặt những tên cộng sản chạy ra nước ngoài hay bọn việt gian đánh phá tên ứng viên này hay ủng hộ tên CS ứng viên kia thắng cử . Cộng sản không cướp, không ác thì không phải là đảng viên cộng sản. Đưa thông tin về đại hội 12 của chúng chẳng khác gì tô sơn trét phấn cho sự ‘Dối Trá, Mị Dân’. Ông Dennis Prager, Viện trưởng trường đại học Prager hiện có một chương trình Talk Show hàng ngày trên đài KRLA, tần số 870AM  vừa đi quan sát Việt Nam và trở về Hoa Kỳ tuần qua, ông tức giận nói trên talk show rằng: ‘ Tất cả những kẻ độc tài Cộng Sản trên thế giới đều là những kẻ côn đồ ngông cuồng, thần thánh hóa cá nhân, tham quyền, khát máu. Hồ Chí Minh cũng thế……. Tôi hy vọng tôi còn sống để thấy ngày người dân Việt Nam, được giải phóng khỏi những lời dối trá của Cộng Sản hiện vẫn lan tràn trong đời sống hàng ngày của họ.( Nguyên bản tiếng Anh: Trip to Vietnam Revives Hatred of Communism  by Dennis Prager)

* * *

Câu chuyện ‘Cây bút vẽ’ của tôi chưa dứt nơi đây. Nó được tiếp tục khi biên giới Việt Miên có biến động, chúng tôi rời trại Phước Long, chấm dứt qui chế bộ đội làm cai tù. Chúng chuyển chúng tôi cho cai tù công an áo vàng tại trại tù Z30A (chợ Ông Đồn). Trưởng trại tên Lâm và tên cán bộ quản giáo của đội chúng tôi tên Công. Những ai từng ở Z30A vào đầu năm 1981 đều biết câu chuyện của tôi bị bọn trật tự và cai tù đánh hội đồng. Trại Z30A, lúc ấy có tên Nguyễn văn Muôn (Trinh sát ở Biên Hòa) và Lành (không nhớ họ) là hai tên trật tự viên của trại. Trật tự là vai trò của những tù nhân trở mặt làm tay sai cho các cai tù VC. Chúng được hưởng đặc ân của trại tù như ăn ở nhà riêng, tự do đi lại, không đi lao động và không bị khóa cửa ban đêm. Chúng chuyên rình mò, bắt nạt và báo cáo những sinh hoạt của tù nhân lên ban chỉ huy trại.

Chiều 30 Tết năm 1981, tên Muôn và  Lành rình bắt qủa tang tôi mua nửa ký đường tán (nấu chè ăn Tết) từ các tù nhân đi xe be tại trạm xá. Hai tên trật tự

Tên bộ đội mang cái 'hòm' sau lưng.
Tên bộ đội mang cái ‘hòm’ (của quý) sau lưng.

chờ tôi rời khỏi trạm xá, chúng gọi chận tôi lại. Sợ bị bắt qủa tang nửa ký đường trên tay, tôi bỏ chạy vòng quanh, băng qua các đội khác và quăng túi đường trên đường để tẩu tán tang chứng. Cuối cùng hai tên trật tự Muôn và Lành bắt được tôi gần đội nhà. Chúng khóa hai tay và lôi tôi về phòng riêng của chúng. Hai tên thay phiên đánh đá tôi túi bụi. Nhất là tên Muôn. Đuôi chân mày mắt bên trái của tôi bị rách đường dài và phun máu tươi bởi cạnh chiếc cà rá sắt bén của tên Muôn để lại vết sẹo còn  đến ngày nay. Tôi co quắp toàn thân và áp sát vào vách nhà, chịu trận. Tôi biết chúng trả thù cá nhân. Vì trước đó hai tên này muốn chúng tôi mời chúng ăn uống và có qùa cáp cho chúng mỗi khi trong bọn chúng tôi có người được thăm nuôi. Dĩ nhiên chúng tôi từ chối mọi liên hệ, tiếp xúc với hai gã chó săn ấy. Từ đó chúng ra sức rình rập và không lâu, chúng bắt được tôi.

Sau một hồi đánh đập tôi đã tay giản chân, chúng áp giải tôi lên văn phòng trại. Mắt trái của tôi sưng vù và che lấp bởi máu từ vết thương còn đang chảy xuống, chỉ còn mắt phải trông thấy trong phòng đang có tên Lâm, trưởng trại, mấy tên quản giáo và vệ binh vác súng. Tên trật tự Muôn đến nhỏ to gì đó với tên Lâm trưởng trại và đám cai tù. Tên Lâm ra dấu, một tên vệ binh vạt ra khỏi bọn dùng bán súng AK.47 thúc mạnh vào bụng tôi. Hắn tiếp tục giơ bán súng định thúc vào mặt tôi, tôi co tay lên đầu che mặt và kịp thấy vài tên áo vàng khác bu lại can ngăn tên vệ binh hung hang làm hắn dừng lại. Tôi nhận ra tên quản giáo Công và hai tên vệ binh ra tay can thiệp. Chúng là những cai tù đã từng nhờ tôi vẽ hình bên cạnh những bài thơ con cóc và dùng sơn màu, cọ vẽ để tô những vệt vân gổ bên ngoài chiếc rương đựng áo quần (VC gọi là chiếc hòm) để biến những chiếc rương từ gổ thường trở thành những chiếc rương nhìn vào tưởng là chiếc hòm được đóng bằng gổ qúy như cẩm lai hay gỏ đỏ có vân nâu. Những chiếc rương được bôi màu gổ qúy gỉa tạo đó đã từng làm chúng mê mệt, coi như là của qúy sau khi ‘giải phóng’ miền Nam mới có được. Thế mới biết thế giới cộng sản bần cùng hóa con người và ngu dân đến mức nào…………… Sau biến cố 30/4/1975 dân chúng hai miền Nam Bắc thật sự đã nhìn ra: Ai giải phóng Ai???

Nhờ mấy tên cai tù can thiệp. Tôi được trả về lán với những vết thương do hai tên trật tự hành hung và bẹ sườn nhói đau do bán súng của tên vệ binh. Đúng hơn tôi nhờ cây bút và cọ vẽ đã thoát được kiếp nạn.

***

Đầu tháng mười một vừa qua, chiến hữu Nguyễn Thế Thăng (Trung Tá Vệ Binh Quốc Gia, Hoa Kỳ) cho tôi hay Trần Đức Thịnh (Khóa 4/OCS, người bạn cùng tôi gia nhập vào Khóa 21 Sĩ quan Hải quân giửa năm 1969) từ Houston, TX đến Portland thăm gia đình người cháu gái là phu nhân của chiến hữu Nguyễn Thế Thăng. Tôi và vợ chồng anh Thăng ra phi trường đón Thịnh. Chúng tôi mừng vui nói đủ chuyện sau mấy mươi năm gặp lại. Thịnh kể lại chuyện bị Trung Cộng bắt làm tù binh trong trận Hải Chiến Hoàng Sa (19/1/1974, khi đó Thịnh đang phục vụ trên HQ.5). Thịnh cũng từng ở trại tù Z30A với tôi. Thịnh kể cho Nguyễn Thế Thăng nghe câu chuyện tôi bị hai tên trật tự viên đánh trong trại tù. Nhắc lại chuyện tù Z30A, tôi cho Thịnh biết có người thấy tên trật tự Muôn từng xuất hiện tại Seattle nhiều năm trước và sau đó hắn đã biến mất. Thịnh chửi thề:

– Gặp nó có mặt tại Texas, tao đập bỏ mẹ nó.

Nguyễn thế Thăng và tôi trố mắt nhìn Thịnh……

Ra trại tù Z30A đến nay đã hơn 32 năm, tôi chưa lần nào cầm lại bút hay cọ vẽ. Cho đến mùa Giáng Sinh năm nay, tự dưng nổi hứng tôi cầm lại cọ vẽ và vẽ những hình ảnh đón mừng Giáng Sinh 2015 trên những mặt kiến cửa sổ trước nhà (vẽ ngược). Mấy ngày sau có bà Mỹ gìa đi ngang ghé vào gỏ cửa, chỉ vào các hình vẽ trên cửa kíến và hỏi vợ tôi ai đã vẽ và mướn vẽ bao nhiêu tiền. Vợ tôi cười:

– Chồng tôi vẽ.

Hồi ký ‘Cây Bút Vẽ” được chấm hết nơi đây.

Kính chúc quý Đồng Hương và quý Chiến Hữu một Năm Mới Thắng Lợi, An Khang và Hạnh Phúc.

Portland, Tết Bính Thân 2016

Quốc Nam PDX

…………………………………………

(*) Lâu qúa không nhớ thời gian và địa điểm

* (…) Phát âm của người miền Bắc

Mời đọc bài:  “Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam !”

 

Tạp ghi: “Khoảnh khắc của người lính biển”

Tân khóa sinh SVSQ/HQ/K.21 đi bờ khi còn tạm trú trại Bạch Đằng II cuối năm 1969. (Ảnh của Lê Xuân Chiến)

Rời giảng đường đại học, bước chân vào lính, tôi tình nguyện vào quân chủng Hải quân, gia nhập vào đại gia đình của những chàng trai yêu sông, thích biển…
Tháng 9 năm 1969, tôi vào Khóa 21 SQHQ. Được thụ huấn quân sự và chuyên nghiệp tại các quân trường như Quang Trung (căn bản quân sự), Thủ Đức (Tác chiến bộ binh), Hải quân Nha Trang (Hải nghiệp) và Cam Ranh (Thuyền trưởng hải đội duyên phòng). Thế là con nòng nọc hai chữ CB bám trên cập cầu vai của tôi đứt đuôi để trở thành quan hai tàu thủy. Rồi từ đó cứ theo con tàu lớn nhỏ đêm ngày lênh đênh trên biển cho đến khi chiến hạm mang tên Trường Sa do tôi chỉ huy vào những ngày cuối tháng Tư Đen biến mất vào đêm 29 tháng 4 năm 1975. Tính ra thời gian làm lính của tôi chỉ tròn 6 năm một tháng. So ra thời gian đi lính ít hơn thời gian tôi đi tù cộng sản. Thật là khoảnh khắc ngắn ngũi của một người lính biển!

.
Thời gian làm lính của tôi qúa ngắn ngũi phải không các bạn? Khi mà màu áo xanh và cập cầu vai còn nhẹ trơn, chưa đủ bạc màu gió biển và vẫn còn nhát sợ khi lái con tàu một mình đối diện với những cơn cuồng nộ của biển mà chung quanh không có một chiến hạm hay chiến đĩnh bạn nào. Ngày này qua tháng nọ trên chiến đĩnh tôi quen dần với sóng gió biển khơi không như lần đầu tiên tôi bị say sóng rã nát người, tưởng như muốn chết đi khi cùng những người bạn cùng khóa mới ra trường qúa giang chiếc hạm LST của Đại Hàn từ Saigon đi An Thới (Phú Quốc) để tân đáo Vùng 4 Duyên Hải (V4ZH). Suốt cuộc hải hành trên chiến hạm LST tôi nằm lăn ra trên boong tàu, ói hết mật vàng đến mật xanh và không còn biết mình là ai và đang ở đâu?

.
Biển! Không biết có sức mạnh nào mạnh hơn sóng biển nhỉ? Bất cứ loại tàu bè lớn cỡ nào cũng sẽ trở nên nhỏ bé và yếu đuối trước những cơn thịnh nộ của đại dương. Ngày đầu đi biển mấy ai mà chẳng say sóng? Có lẽ phải có thời gian làm quen hay trở thành “người tình” của biển hoặc vì trách nhiệm đối với con tàu làm cho người lính thủy quên đi sóng gió.

.
Tuy đời lính của tôi ngắn ngũi như thế. Nhưng thời gian đó thật có gía trị cho cả một đời người. Đồng thời nó còn cho tôi cái vinh hạnh được dâng một phần tuổi trẻ phục vụ cho Tổ quốc và niềm tự hào của người lính thủy.
Thật vậy, đời lính đã dạy cho tôi biết bao nhiêu điều trong cuộc sống, nó mang đến cho tôi thật nhiều bạn bè đồng đội thân thương, nó cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên, nó đưa tôi đi đến nhiều vùng đất lạ của đầm lầy, con sông, cửa biển, hải đảo và tận đến những vùng biển xa xôi lạ lẫm của quê hương nước Việt mà tôi chưa bao giờ có một lần đi đến nếu không nhờ cái khoảnh khắc làm lính thủy đó.

.
Dù là đời lính thủy chỉ trong khoảnh khắc, nhưng tôi rất trân trọng và cám ơn cái khoảnh khắc đó. Ngoài những gì đời lính đã cho và dạy, nó còn cho tôi cái vốn liếng đi biển. Cái vốn liếng ấy có được bởi sự tiếp nối nhau qua từng đơn vị, từng loại chiến hạm, chiến đĩnh như những mắt xích của định mệnh. Nó chính là cứu cánh đã biến đổi đời sống của tôi sau khi ra tù cộng sản. Cái vốn liếng ấy đủ giúp tôi thoát khỏi ‘thiên đường cộng sản’ bằng cuộc vượt biển thành công.

.
Tôi cũng rất tự hào với bộ quân phục hải quân. Ngày nay thỉnh thoảng tôi trân trọng mang ra mặc trong những ngày lễ hội lớn. Mặc lại bộ quân phục ngày xưa, tôi không hề thấy mặc cảm của người thua trận. Màu áo của mộng hải hồ! Tôi vẫn yêu thích mặc lấy nó vì tôi đã khôn lớn từ màu áo ấy. Nó đã cho tôi đủ thứ trong qúa khứ kể cả biết thế nào là bạo lực và xảo quyệt của người cộng sản. Chính nó đã biến đổi và mang đến cho tôi mọi sự tốt đẹp, hạnh phúc của ngày hôm nay. Mục đích cuối cùng của cuộc sống là sự thành đạt của con cái mà chúng có được như hôm nay phải chăng cũng từ bộ quân phục đó. Xin cho tôi trân trọng nói một lời cảm tạ quân chủng mẹ.

.
Nhưng cái khoảnh khắc đó cũng đã đưa tôi vào nhà tù của phe thắng cuộc. Sau 30/4/75, tôi cũng như hàng trăm ngàn người lính VNCH trở thành những người tù của lũ cộng nô. Những người lính chúng tôi chấp nhận số phận của người thua cuộc nhưng không khuất phục kẻ thù. Kẻ thắng cuộc càng hành hạ chúng tôi thì càng làm tăng thêm lòng căm thù giặc Cộng trong lòng mỗi chúng tôi. Những tên cai tù từ vệ binh cho đến cán bộ trại giam là những tên cán ngố ngu xuẩn, thất học và tàn ác. Bài học đầu tiên trong trại tù là bài “Lao động là vinh quang. Lao động làm biến dạng con người….” được tên chánh trị viên giảng bài như con vẹt nhưng chúng quên nhìn lại hình dạng của chúng không khác gì loài khỉ Trường Sơn so với người miền Nam văn minh và nhân bản.

.
Gọi chúng là bên “thắng cuộc” hay kẻ “thắng cuộc” hình như là không đúng vì chúng chỉ là một băng đảng ăn cướp đang có cơ hội tung hoành trên quê hương. Chúng như loại vi trùng nguy hiểm phá hoại, đục khóet thân thể của mẹ Việt Nam. Người lính VNCH ngày nay đang sống lại trong lòng dân tộc.
Bên cạnh Người lính VNCH kiên gan và bất khuất trong các trại tù cũng có những thằng tù bội phản đồng đội, làm tay sai cho kẻ thù. Tù nhân chúng tôi gọi chúng là an-ten (antenna). Thường bọn an-ten này được trại tù sử dụng công khai với danh xưng “trực tự viên”. Bọn trật tự viên này có nhiệm vụ rình rập, thu thập tin tức người tù để báo cáo lên ban chỉ huy trại. Thậm chí chúng có quyền đánh đập tù nhân. Tại trại giam Z30A (chợ Ông Đồn-Long Khánh) vào cuối năm 1982, tôi từng bị hai thằng trực tự viên có tên là Muôn và Lành lôi tôi về phòng riêng thay phiên đánh đá hội đồng trước khi chúng giải tôi lên bộ chỉ huy trại chỉ vì quà cáp không biếu chúng khi tôi được người nhà thăm nuôi. Vành cạnh sắt bén của chiến nhẫn đeo tay của tên Muôn còn để lại mí mắt phải của tôi một vết sẹo dài cho đến ngày nay.

.
Hồi tưởng lại sau 7 năm tù cộng sản, trở về gia đình với sức khoẻ tồi tệ bên trong cái thân thể gầy gò khô héo, tôi đã nhận một chuyến vượt biên với gần cả trăm thuyền nhân. Chiếc ghe vượt biên khởi hành từ vườn hoa Lạc Hồng, Mỹ Tho và ba lần chiếc ghe bé nhỏ thoát khỏi sự đuổi bắt của tàu tuần Việt Cộng trong sông và ngoài cửa biển Bình Đại. Chiếc ghe chưa ra xa khỏi bờ biển, sóng biển tuy không lớn lắm nhưng đã làm cho tất cả thuyền nhân nằm lăn ra như chết. Còn lại một mình tôi ôm tay lái ghe vượt chặng đường hải hành hai ngày ba đêm không một phút nghĩ ngơi, chợp mắt cho đến khi được chiếc tàu dầu của Hoa Kỳ vớt gần Indonesia. Phải chăng vì trách nhiệm với gần một trăm sinh mạng, trong đó có cả vợ và hai con nhỏ đã làm cho tôi có sức chịu đựng kỳ diệu đó?

.
Ở lại Việt Nam sau 30/4/1975 tôi đi tù gần 8 năm; qua nhiều trại tù khổ sai của Việt Cộng. Ra tù, tôi bôn ba trong giới vượt biên cho đến khi tôi gặp được HQ Thiếu tá Nguyễn Duy Khanh (K.12/NT) giới thiệu đến một tổ chức vượt biên. Chuyến ra đi thành công. Tôi quen biết anh Khanh ngay những ngày đầu khi còn là khóa sinh tạm trú tại trại Bạch Đằng II, lúc anh là tuỳ viên của Tư Lịnh HQ Trần Văn Chơn qua sự giới thiệu của ca sĩ Huyền Châu trong Ban Việt Nhi của cố nhạc sĩ Nguyễn Đức và anh từng là Chỉ huy phó Hải Đội 5 Duyên Phòng. Anh đưa tôi xuống làm thuyền trưởng PCF -HQ.3909.
Anh Khanh là một đàn anh hải quân đáng kính. Ông và tôi gắn bó trong suốt thời gian quân ngũ, cũng như sau này khi cả hai ra tù cho đến khi cùng có mặt trên đất Mỹ. Gia đình chúng tôi xem ông là một ân nhân…

 NỖI BUỒN HAI CHỮ “TRƯỜNG SA”

Rời đại học Khoa Học Saigon, tôi gia nhập vào khóa 21 sĩ quan hải quân giữa tháng 9 năm 1969. Đầu đời thủy thủ là thời gian chúng tôi tạm trú tại Bạch Đằng II. Nơi đó đầy ấp kỷ niệm khó quên của những chàng trai trẻ xếp bút nghiêng theo tiếng gọi của Đại dương. Ngày đó chúng tôi, những tân khóa sinh trong bộ quân phục kaki vàng mới toanh (vài tuần sau đổi sang màu xanh tím), ca vang bài hát “Hải quân Hành khúc” mới của Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí (thay thế bài ca Chiến sĩ Hải quân của Văn Cao) và tập tành làm lính với những bước đi cơ bản thao diễn còn chưa quen. Tại đây, bài học đầu tiên làm lính là thi hành “quân lệnh” theo hệ thống tự chỉ huy.

.
Đơn vị đầu tiên của tôi ở tận hải đảo xa xôi có tên gọi là Hòn Khoai hay hải đảo Giáng Tiên (Duyên đoàn 41 Poulo Obi), ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ, gió biển bốn bề…Nhà thơ Giang Hữu Tuyên, người bạn cùng khóa đã có hai câu thơ bất hủ khi Tuyên cùng với tôi thuyên chuyển về ZĐ41 Poulo Obi thuộc Vùng 4 Duyên Hải vào cuối năm 1970:

“Obi gió lạnh không tình sưởi,
Rượu uống mềm môi vẫn thấy thèm”.

Rời Obi tôi được biệt phái vài tháng cho Tác Chiến Điện Tử của Hoa Kỳ có căn cứ đồn trú trong hậu cứ Duyên đoàn 44 Hà Tiên (Trưởng toán HQ Xung kích), công tác thám sát hệ thống sensors vùng biên giới Việt- Miên (Kinh Vĩnh Tế). Sau đó tiếp tục thuyên chuyển đến các đơn vị Duyên đoàn 42 (An Thới-Phú Quốc), Hải đội Duyên phòng (HĐZP) của Vùng 4 và 5 Duyên Hải. Cuối năm 1974, tôi bàn giao PCF- HQ 3909 đang tuần tiểu vùng biển Hòn Tre-Rạch Gía cho một sĩ quan thuyền trưởng khác để thuyên chuyển về BTL Hạm đội, tân đáo Tuần duyên hạm HQ-611 có tên Trường Sa.

.
Vận nước đến thời đen tối. Tôi thuyên chuyển về HQ-611 Trường Sa vào lúc miền Nam đang dần dần co cụm lại trước sự tấn công xâm lược của quân cộng sản Bắc Việt: Miền Nam mất dần từ Vùng I đến mất Vùng II…Phi trường Tân Sơn Nhất bị dội bom, Saigon giới nghiêm, Bộ Tư lịnh Hải quân Saigon từ cấm trại 100% đến báo động đỏ. Cho đến một ngày….

,
BTL Hạm đội chỉ định tôi thay thế hạm trưởng vắng mặt để chỉ huy Tuần duyên hạm HQ-611. Bấy giờ chiến hạm chúng tôi túc trực tại cầu A trước cổng BTL/HQ. Chiến hạm đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc di tản như nhiên liệu, nước ngọt, thực phẩm và danh sách thân nhân của thủy thủ đoàn được phép theo chiến hạm “Di tản ra Côn Sơn tránh Saigon bị pháo kích” (Mật lệnh của Đại tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư lịnh Hạm Đội).
Sáng sớm ngày 8/4/1975 phi cơ F5-E do giặc lái Nguyễn Thành Trung (tên thật Đinh Khắc Chung) dội bom Dinh Độc Lập. Thượng sĩ TP Nguyễn Văn Chánh, quản nội trưởng của HQ-611 và tôi đang đứng uống cà phê sáng tại ban công bên hữu hạm của đài chỉ huy. Bỗng chúng tôi thấy chiếc phi cơ F5-E chúi xuống dội bom hướng Dinh Độc Lập rồi nó bay vút lên cao để lại cột khói đen từ phía dưới bốc lên cao. Chúng tôi không biết chuyện gì đang xảy ra thì chiếc F5-E lại chúi xuống dội bom lần thứ hai, nó lại bay lên cao và đột nhiên nó hạ xuống thật thấp và lao thẳng về hướng HQ-611.
Trong chớp mắt chiếc F5 bay đến HQ.611. Tiếng gào thét của động cơ phản lực F5-E bay ngang qua đài chỉ huy HQ.611 làm rung rinh cần antenna và hai lổ tai của tôi như bị nổ tung, ù điếc. Tôi bàng hoàng, chưa kịp có phản ứng thì chiếc F5-E biến mất về hướng Thủ Thiêm trong chớp mắt. Tôi hốt hoảng ra lệnh nhiệm sở tác chiến đúng ngay lúc tiếng còi inh ỏi hỗn loạn báo động của Biệt khu Thủ đô và BTL/HQ . Sau khi F5-E bắn phá kho xăng Nhà Bè, nó bay lên thật cao hướng đông Bắc, các chiến hạm trên sông Saigon đồng loạt tác xạ đuổi theo phi cơ địch. Thân tàu HQ.611 cứ rung chuyển từng hồi do những trái đạn bofore 40 ly của ổ súng sân trước mũi bắn đi…cho đến khi BTL/HQ ra lệnh ngưng bắn. Biến cố xảy ra trong vài phút. Chiếc phi cơ dội bơm là loại phản lực F5-E của Không quân VNCH; lúc ấy tôi cứ tưởng là “đảo chánh” khi HQ Trung tá Phan Ngọc Xuân (Khóa 10/NT), Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh của BTL/HQ ra khỏi cổng BTL dùng két-pi ra dấu cho tôi lên máy truyền tin: “Nam, ngưng bắn đi. Mày muốn đi tù hả”…

.

Chuyến công tác cuối cùng của HQ-611 vận chuyển một lô hàng từ Saigon ra Vũng Tàu chuyển cho Cơ xưởng hạm HQ.802 Vĩnh Long đang bỏ neo ngoài khơi. Ngoài xa có nhiều chiến hạm lớn nhỏ khác. Trưa hôm đó biển động mạnh, HQ-611 ngã nghiêng như trứng vịt, không thể nào cập vào HQ-802. Cho nên HQ.802 phải dùng cần cẩu bốc hàng. Sau đó HQ-611 quay về Saigon. Trên đường trở về bến chúng tôi thấy những chiếc tàu hàng khổng lồ trước kia chúng thường bỏ neo giữa dòng sông Saigon; trên những chiếc tàu hàng đang đi ngược chiều với HQ-611 ra biển có hàng ngàn người chen chúc từ mũi đến sau lái. Người dân trên những chiếc tàu hàng vẫy tay, vẫy nón chào “từ biệt” chúng tôi.

.
Vào một buổi trưa nắng gắt, chúng tôi trên đài chỉ huy HQ-611 đang nằm tại Cầu A nhìn phía trước thấy chiếc sà lan gần bến đò Thủ Thiêm đang cố gắng tháo dây tách bến với hàng trăm người chen lấn trên sàn tàu. Từ trong bờ có rất đông người đang bơi ra sà lan, họ cố bám vào các trái độn, vào thành sà lan, trèo lên. Trên công viên, nhiều người đàn bà đang bán hàng rong, vội vã quăng gánh, bỏ thúng, hớt hãi chạy về hướng sà lan…Lâu lắm chiếc sà lan mới tháo được dây tách bến với dòng người còn đang cố sức bám víu thành tàu. Chiếc sà lan ì ạch ra được giữa dòng sông bỏ lại nhiều người đang cố bơi theo, bỏ lại những tiếng kêu la, hò hét cầu cứu muốn ra đi…Một thảm cảnh của tháng Tư Đen! Sau bảy năm tù cộng sản và tròn một năm sống dưới chế độ, tôi hiểu ra lúc ấy những ngày cuối tháng Tư tại sao người Saigon hốt hoảng, tháo chạy, bỏ nước ra đi như hình ảnh chiếc sà lan được kể ở trên; thì ra họ sợ Việt Cộng tiến vào Saigon. Họ sợ và không muốn sống chung với Cộng sản.

.
Chiều tối 26/4/1975 tôi tham dự buổi bàn giao Tư lịnh Hạm Đội giữa HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn và tân Tư lịnh Hạm đội HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê trên lầu hai của BTL/HQ. Buổi bàn giao diễn ra thật buồn bả trong tiếng kèn của nghi thức. Các hạm trưởng tham dự buổi lễ bàn giao với nét mặt đầy lo lắng trước lời chia tay của Đại tá Sơn thật cảm động và khó hiểu: “Những gì tôi làm sau này các anh em sẽ rõ!”…

.
Ngày 29/04/1975 quang cảnh của Saigon bổng nhốn nháo căng thẳng hẳn lên sau buổi chiều tối hôm qua Việt Cộng cướp 5 chiếc phi cơ A-37 do giặc lái VC Nguyễn Thành Trung hướng dẫn phi đội (Quyết Thắng) từ Phan Rang bay vào Saigon dội bom đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất, lửa khói bốc cháy đỏ rực một góc trời làm Saigon rung chuyển.
Buổi trưa 29/04/75 bầu trời ảm đạm, không chút nắng. Trên không, trực thăng vẫn liên tục bay về hướng Đông ra biển. Nhiều trực thăng có đàn bà, trẻ con chen chúc sau lưng những người lính ngồi thòng chân ra hai bên hông cửa. Nhiều trực thăng hạ thấp xuống bến tàu, cánh quạt trực thăng xoay bốc cát bụi mù mịt và sau đó không tìm được nơi đáp phải bay lên cao và bay đi. Ngoài đường đông đảo dòng người và xe cộ đủ loại hối hả chạy về hướng bến tàu. Công trường Mê Linh đông nghẹt người và xe…
Buổi chiều 29/4 trên bầu trời tiếng trực thăng vẫn còn tiếp nối bay ngang. Thỉnh thoảng có những tràn súng M16 nổ ở hướng nhà hàng Mỹ Cảnh càng làm cho Saigon nhốn nháo, rối loạn lên trong cơn mưa chiều lác đác rơi bốc mùi hơi đất. Trên đài chỉ huy chúng tôi nghe qua tần số truyền tin tiếng ồn ào, hối hả của những lời yêu cầu hạm trưởng dời tàu…Giặc về! Saigon đang chạy loạn…

.
Trở lại BTL/HQ Saigon, từ sáng sớm 29/04/1975 cổng Công trường Mê Linh và Cường Để, hai lối đi vào BTL/HQ đã đóng kín bằng những vòng kẽm gai, có quân cảnh hải quân bồng súng đứng gác (Nội bất xuất ngoại bất nhập). Sau khi nhận lệnh chiều tối di tản từ BTL/HQ tôi trở về tàu thì gặp HQ Trung úy Võ Trường Xuân, người bạn cùng khóa (cựu thuyền trưởng PCF HQ.3909) tại hạm kiều, từ Hải vận hạm LSM HQ-402 Lam Giang sang HQ-611 gặp tôi. Chúng tôi lập kế hoạch đưa thủy thủ đoàn HQ-402 sang HQ-611 cùng di tản vì HQ-402 bất khiển dụng. Trung úy Xuân là sĩ quan trực HQ-402 hôm đó. Hải quân cấm trại 100%, cho nên vào lúc 5 giờ chiều tôi phải ký hai sự vụ lệnh, một cho tôi và một cho Hạ sĩ CK Tô Nhật Hà để ra cổng Công trường Mê Linh. Trước khi rời tàu tôi không quên lấy khẩu colt 45 còn mới dắt vào bên hông phòng khi gặp bất trắc trên đường đi (Sau này tôi bất chấp lệnh giao nộp vũ khí của Việt Cộng và giữ nó tận đến khi vượt biên sau này mang theo). Rời tàu, tôi nhờ Hạ sĩ Hà lái xe đưa tôi về nhà tận Gia định để đưa gia đình xuống tàu…Tuy nhiên kế hoạch di tản của HQ-402 và HQ-611 không thành vì tôi gặp trở ngại trong gia đình khi đứa con gái đang bệnh nặng và người thân kẻ muốn đi, người không muốn nên tôi không kịp quay về tàu để có mặt tại điểm hẹn với Trung úy Xuân.

.
Qua bài viết “Đêm giang hành lịch sử” của Người Thủy thủ già tức niên trưởng Trần Hương (Khóa 9/NT), tôi được biết 7 giờ 30 tối ngày 29/04/1975 HQ Trung tá Trần Hương hộ tống Đô Đốc Tư Lịnh Hải quân Chung Tấn Cang, gia đình và đoàn tùy tùng xuống HQ-611 tại cầu A trước cổng BTL/HQ để ra biển. Nhưng không may HQ-611 không có hạm trưởng vì tôi không có mặt dưới tàu, nên ĐĐ Tư lịnh và đoàn tùy tùng chuyển sang chiếc tuần duyên hạm khác mang số hiệu HQ-601 Tiên Mới của Hạm trưởng Trần Minh Chánh (con trai trưởng của Cố Đô Đốc TL Trần Văn Chơn, cũng là SQHQĐB, anh K.1 và tôi K.2). Hạm trưởng Trần Minh Chánh đưa ĐĐ Tư Lịnh Cang và nhiều sĩ quan cao cấp của hải quân lên HQ-3 ngoài khơi Vũng Tàu. Sau đó HQ-601 quay trở về Saigon. Theo một bài viết trên website tài liệu hải quân của niên trưởng Trần Đỗ Cẩm (Khóa 11/NT) PGM HQ-601 được mệnh danh là “SOÁI HẠM NHỎ NHẤT” trong đêm Hải quân VNCH di tản.

.
HQ-601 rời cầu A không bao lâu thì có nhiều quân nhân của các quân binh chủng khác tràn xuống HQ-611 tại cầu A. Họ có súng và đã dùng vũ lực cưỡng ép HQ-611 rời bến. Trên đường ra Vũng Tàu, HQ-611 bị vô nước và chìm. Đó là lời kể lại của anh em thủy thủ đoàn HQ-611 khi họ tập hợp tại nhà tôi vào sáng sớm 30/04/1975 để báo tin. Vào 10 giờ 30 sáng 30/04/1975 TT. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Chúng tôi tuyệt vọng, nghẹn ngào và uất hận. Nhìn anh em thủy thủ HQ-611 rời nhà tôi trong dáng thiểu não buồu hiu, mệt mỏi, áo quần ướt nhem xốc xếch, có anh mất cả giày vớ đi chân không sau một đêm vật lộn với con tàu vô nước đã làm cho lòng tôi quặn đau như cắt.

.
Sáng 30/4/1975, BTL/HQ vắng tanh, từ cổng BTL/HQ qua đến bên kia đường sách báo, áo quần, đồ đạt, xe cộ vứt ngổn ngang như đống rác khổng lồ. Tôi đứng tần ngần tại Cầu A, nơi hạm kiều của HQ.611 hôm qua với nổi buồn của người lính thủy mất tàu, mất đồng đội và mất tất cả.

.
Tôi còn đang đứng tần ngần trên bến tàu vắng tanh; bỗng có tiếng gọi tên tôi từ một PGM đang chầm chậm cập Cầu A. Tôi bắt dây cho chiến hạm. HQ.Trung úy Trần Văn Báu (K.7/OCS), người bạn cùng Khóa 21, cùng đại đội lúc ở Quang Trung (ĐĐ.18C) và cũng cùng thời là cựu thuyền trưởng của Hải đội 5 Duyên phòng, từ đài chỉ huy Báu chạy xuống sân sau chiến hạm hỏi lớn bằng giọng Bắc kỳ quen thuộc thuở nào:
– Ê! Nam, mày đi không? Lên đi với tao.
Tôi trèo lên chiến hạm gặp Báu để giải bày lý do không thể đi với Báu vì không nỡ để lại vợ và hai con nhỏ. Giã từ Báu, tôi trèo xuống và tháo dây cho chiếc hạm của Báu tách bến. Chiến hạm lặng lẽ ra giữa dòng sông và dần dần đi xa. Lá Quốc kỳ VNCH sau lái tàu thỉnh thoảng rung nhẹ như nghẹn ngào giã biệt Saigon thân yêu. Đó là chiếc hạm cuối cùng tôi còn thấy vào sáng 30/04/75 do trung úy Báu chỉ huy ra đi.

.
Thế là hết! Mộng hải hồ tan tành. Đời binh nghiệp của tôi bỗng chốc biến mất cùng với chiến hạm mang tên Trường Sa (Hồi ký “Số phận của Tuần duyên hạm HQ-611 Trường Sa trong đêm di tản” của cùng người viết).
Cứ mỗi năm vào tháng Tư Đen là mỗi lần chiến hạm HQ.611 theo hồi ức kéo về là mỗi lần tôi nghĩ đến số phận anh em thủy thủ đoàn của HQ-611; họ phải sống ra sao dưới chế độ bạo tàn Việt Cộng?

.
Trường Sa! Hai chữ Trường Sa tên của Tuần duyên hạm HQ-611 còn mãi vấn vương ray rứt. Nhớ chiến hạm và thương lắm anh em thủy thủ đoàn, những người lính thủy trung kiên với quân chủng và thượng tôn kỷ luật đến tận giây phút cuối cùng của cuộc chiến.

.
Phạm Quốc Nam
www.hqvnch.com

Các cựu Thuyền trưởng Hải Đội Duyên Phòng

Kỷ Niệm Công Tác Hà Tiên (Nam Quốc)

HQ. Phạm Quốc Nam

HQ. Phạm Quốc Nam và Hạ sĩ HQ. Nguyễn văn Tám (Tám rổ)

Trời vừa hừng sáng, toán xung kích đã trang bị gọn gàn, đầy đủ súng đạn và tụ tập dưới bến tàu của Duyên đoàn 44 Hà Tiên. Đằng kia, chiếc PCF của Trung úy Các (K.19) đã nổ hai máy sẳn sàng. Sau khi trung úy Các điều động xong nhân viên PCF cột 3 chiếc xuồng nhỏ kéo theo sau lái. Thuyền trưởng Các gọi tôi:

– Ê! xong chưa Nam?

Tôi ra dấu cho Trung úy Các, nói lớn:

– Chờ mấy thằng Seal xuống là go.

Không đầy 5 phút sau, Đãi úy Smith và một US Navy Seal khác mang máy PRC-25 từ phía trên cầu tàu chạy lụp xụp xuống bến. Hai thằng Seal mặc bà ba đen, mang dép râu, mặt mũi bôi lọ vằn vện màu xanh đỏ, dây đạn M.16 quấn trên vai với hai khẩu M.16. Trông thấy cả hai Navy Seal thật xom tụ như các tài tử đóng phim Rambo. Lần nào đi công tác, mấy thằng Seal cứ màu mè như thế. Nhưng đến vùng, họ ở dưới tàu và chỉ có bọn chúng tôi lần vào ‘victor tango’.

Tôi ra dấu cho cả toán, vừa nhảy xuống sàn lái PCF và nói to với thuyền trưởng Các:

– OK! Let’s go.

Trung úy Các thò đầu ra cửa phòng lái:

– Đủ chưa Nam?

Tôi gật gật đầu:

– OK! Đủ rồi.

Chiếc PCF tách bến hướng mũi vào sông Giang Thành. Tôi vào phòng lái gặp thuyền trưởng, Trung úy Các:

– Niên trưởng Các. Mình ghé Trà Phô ăn sáng.

Trung uý Các:

– OK! Được Nam.

Một lát sau, tàu đến Trà Phô. Chúng tôi lên chợ và tấp vào cái quán bán hủ tiếu quen thuôc, nằm cạnh bờ sông. Sáng sớm, con sông còn đang bốc hơi mùi tanh tanh, càng làm cho mùi hủ tiếu dậy mùi hấp dẫn. Mùi thơm quen thuộc mỗi lần ghé lên Trà Phô trên bờ sông Giang Thành. Mặc dù đó là quán hủ tiếu bình dân của nhà quê như Trà Phô này, nhưng mấy mươi năm ở Mỹ, tôi chưa tìm lại được mùi thơm của hủ tiếu quyến rũ như thế, ở bất cứ nhà hàng nào. Nói chi đến hương vị của nó. Tôi thắc mắc ở Mỹ đầy đủ nguyên vật liệu để nấu hủ tiếu, nhưng không thể nào và không có quán tiệm nào nấu được một tô hủ tiếu có hương vị đặc sắc của tô hủ tiếu như ở Việt Nam, dù là hủ tiếu bình dân rẻ tiền như nơi nhà quê. Tô hủ tiếu chỉ có vài lát thịt heo mỏng, ít tép mở, một nhúm nhỏ cải bấp thảo khô và vài cọng hẹ tươi với hành lá. Thế mà ngon tuyệt!

Đớp sạch tô hủ tiếu và uống cạn ly cà phê sửa nóng. Chúng tôi no bụng, tươi tỉnh ra và kéo nhau trở về tàu. Hai thằng seal cũng no ké. Chiếc PCF tách bến chạy ra giửa dòng sông và hai máy tiến full vào vùng công tác. Hơn nữa giờ sau, tôi dò theo bản đồ và nói Trung uý Các cho PCF ủi vào lùm cây gần cửa một con rạch nhỏ, không xa lắm với con kinh Vĩnh Tế. Toán của tôi chỉ có 7 người. Tôi đã cho hai nhân viên đi phép. Chúng tôi chia nhau xuống ba chiếc xuồng nhỏ được PCF kéo theo.

Trước khi trèo xuống chiếc xuồng của Hạ sĩ Tám rổ, nhân viên mang máy truyền tin PRC-25. Tôi hỏi hai thằng navy

US Navy seal
US Navy seal

seal:

– Tụi mầy vào không?

Thằng Smith, rất thích đi công tác và nhậu ruợu đế ở quán cô Lệ góc cây me với tôi. Hắn lắc đầu, ra dấu ngón tay cái ‘Number one’ và đẩy ra phía chúng tôi:

– Tụi mày vào đi. Tụi tao ở ngoài. Nếu tụi mày bên trong có đụng, tao gọi yểm trợ hay trực thăng nhanh hơn.

Tôi cố ý hỏi để chọc họ chơi vậy thôi. Chứ đi nhiều chuyến công tác rồi, có khi nào mấy thàng seal này theo chúng tôi vào điểm kích.

Các chiếc xuồng bằng vật liệu thật mỏng nhẹ, rất hẹp và ngắn, chỉ ngồi được hai hoặc ba người. Chúng tôi bơi vào rạch. Chiếc xuồng di chuyển bằng cách níu các chòm cỏ dại hoặc cành cây nằm ven bờ rạch hay chống tay vào bờ đẩy xuồng tiến về phía trước. Các xuồng tiến vào sâu trong rạch. Đến vị trí kích, tôi cho xuồng trải ra xa và im lặng ngồi kích trên xuồng. Cảnh vật chung quanh thật tĩnh mịch. Thỉnh thoảng có bầy bù mắt kéo bay qua. Tiếng con cá nhỏ đớp mồi dưới mé rạch, chúng tôi cũng nghe thấy được.

Chờ đợi, rồi chờ đợi….Mặt trời đứng bóng….rồi ngã từ từ về tây….Xế trưa, mọi cảnh vật vẫn im lìm, không động tịnh. Tiếng rè rè của chiếc máy truyền tin vào xế trưa càng nghe như rỏ hơn…..Tôi nhìn đồng hồ tay thấy vừa đúng ba giờ chiều. Chúng tôi ngồi yên dưới xuồng kích đã hơn 5 tiếng đồng hồ. Không thấy bóng ma thằng kinh tài VC nào đi qua đây như tình báo đã đưa tin. Tôi báo cáo tình hình về phòng hành quân và xin lệnh rút ra tàu.

Bên kia đầu máy, Trung uý Nguyễn Văn Tràng (K.19):

– Ráng một chút nữa Nam. Đến 4 giờ không có gì thì rút.

Tôi nói ‘Ok’. Thời gian trôi qua chầm chậm như đi theo cây kim gió của chiếc đồng hồ đeo tay. Tôi nghe rỏ cả tiếng kêu tích tắc ở giửa cái không gian trầm lặng như tờ giửa rừng đước. Đúng 3:45 chiều, tôi ra dấu tập trung xuồng lại, chuẩn bị rút….

‘Xoạt’…..tiếng kêu xoạt trên bờ cách con rạch khoảng 10 mét làm chúng tôi giật mình. Cả bọn chúng tôi cùng hướng mắt vào nơi phát ra tiếng động. Với phản ứng tức thì, chúng tôi cùng đưa nòng súng vào tầm bắn. Một thằng nhỏ khoảng 10 tuổi vừa vạch bụi cây, chui lẹ ra ngoài và đâm đầu bỏ chạy vào trong rừng đước; Trung sĩ Nhàn định bóp cò nhưng tôi nhanh hơn:

– Đừng bắn! Đừng bắn! Nó là thằng con nít.

Trong nháy mắt, thằng VC con chạy biến mất trong khu rừng đước. Trung sĩ Nhàn ngạc nhiên:

– Ủa! Sao không bắn nó…Chuẩn úy?

Tôi lắc đầu:

– Mình có bắn thằng nhỏ thì bên trong mấy thằng VC nghe tiếng súng cũng đã bỏ chạy mất mẹ nó rồi. Có bắn chết hay bắt sống thằng VC con thì cũng không bắt được mấy thằng VC bên trong. Vã lại mình lại không được lệnh rời điểm kích đi sâu vào trong bờ.

Tôi tặc lưỡi:

– Cha nó. Bọn VC độc ác đến thế là cùng. Dùng thằng con nít làm bia báo động….Thôi rút về tàu anh em.

Trước khi rời điểm kích, tôi kêu Hạ sĩ nhất Châu văn Năm thẩy vào trong sâu vài trái M.79 và báo cho PCF và hai thằng seal bên ngoài biết chúng tôi đang trở ra tàu.

PCF đưa chúng tôi về đến bến tàu dưới ánh nắng buổi chiều buông.

Đó là chuyến công tác lần thứ mười một khi tôi làm trưởng toán xung kích. Đúng ra công tác của chúng tôi là đi thám sát, đổ bộ lên nơi sensor của khu vực nào có tín hiệu báo động để quan sát hay thu thập nguyên nhân làm cho sensor phát tín hiệu. Dãy sensor được cày đặt dọc biên giới Việt – Miên. Công tác bất kể ngày đêm, cứ sensor có báo động là chúng tôi được đưa đến. Tuy nhiên thỉnh thoảng phải đi công tác cho tình báo như phục kích bắt kinh tài hay cán bộ VC được kể bên trên. Không biết do tình báo của Hải quân Việt Nam hay của Hoa Kỳ yêu cầu.

Tôi và hai thằng bạn khác trong số 15 thằng mới ra trường về Vùng 4 Duyên Hải, bắt thăm về Duyên đoàn 41. Tôi không may mắn như Tuyên và Ninh được thay phiên nhau đi công tác hành quân ở Năm Căn (Vùng 5 Duyên Hải), tôi bị đơn vị trưởng là một đại úy gốc bộ binh chuyển sang hải quân đì hết sức. Nhiều lúc đối diện đấu võ mồm với ông ta làm cho tôi muốn điên lên. Tôi gần như bị ông ta giam lỏng tại hậu cứ của Duyên đoàn 41 trên hải đảo Giáng Tiên (Hòn Khoai – Poulo Obi). Ngày xưa tôi nghĩ đơn giản là tôi không họp ‘gu’ với ông ấy nên bị ‘đì’. Nhưng sau 30/4/1975 tôi được biết những vụ bất ổn xảy ra trong đơn vị chính do tên VC nằm vùng đội lớp sĩ quan hải quân của duyên đoàn gây nên mà bấy giờ tôi chỉ nghĩ hắn chỉ là tên antenna cho đơn vị trưởng mà thôi. Câu chuyện của tôi và đơn vị trưởng đã đến tay Tư lịnh vùng. Nhân chuyến thị sát bờ biển phía Nam của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và HQ Đại Tá Đỗ Kiểm, Tư Lịnh Vùng 4 Duyên Hải ghé Duyên đoàn 41, qua tin tức của Chuẩn úy Trần Công Nhuận thay thế Thiếu úy Nguyễn Phúc Kha, tùy viên Tư Lịnh Đỗ Kiểm được tháp tùng theo chuyến bay, cho tôi biết tôi đã có công điện gọi về Bộ Tư Lịnh Vùng. Biết được tin này và được TL. Đỗ Kiểm đồng ý, tôi cuốn gói lẹ theo trực thăng của Tướng Ngô Quang Trưởng, gĩa từ hải đảo Giáng Tiên trở về Bộ tư Lịnh vùng. Ngày hôm sau, tôi trình diện TL. Đổ Kiễm để lảnh 8 ngày trọng cấm. Một tháng sau, tôi được biệt phái cho đơn vị Tác Chiến Điện Tử của Hoa Kỳ tại Hà Tiên.

Chuyến công tác đầu tiên của tôi khi được biệt phái đến đây là dẫn toán xung kích thám sát một khu vực sensor báo động nằm sâu trong bờ, gần biên giới Việt – Miên vào giửa đêm khuya. Chúng tôi đến nơi và ghi nhận có một đơn vị của VC đang di chuyển. Chúng tôi được lệnh theo dõi đoàn quân của VC đang di chuyển này. Khi đoàn quân của địch biến mất vào sâu trong lãnh thổ của Miên, chúng tôi được lệnh rút về tàu. Mặt tôi vài nơi sưng vù vì bù mắt cắn, mặc dù tôi có mang theo thuốc thoa da và lưới trùm kín mặt.

Sáng hôm sau, chúng tôi lại được đưa trở lại điểm kích khuya hôm qua để thám sát và ước tính quân số của địch quân di chuyển. Nhân dịp này, chúng tôi đi sâu vào lãnh thổ của Miên. Dọc biên giới, xa xa mới có một căn nhà lá. Bấy giờ trời nắng gắt, cả bọn khát nước nên chúng tôi ghé tạt vào một ngôi nhà gần nhất, có vách bằng đất và mái nhà lợp bằng lá dừa. Sân nhà thật rộng, có hàng cây dừa cao thẳng tắp và nhiều cây xoài đang độ xum xuê, đầy trái chín (xoài mọi nhỏ trái nhưng rất ngọt). Vừa vào đến giửa sân, có một ông gìa người Miên trong nhà lom khom đi ra chào đón. Ông ta không nói được tiếng Việt. Chúng tôi ra dấu bằng tay, ông ta hiểu ý chúng tôi muốn xin vài trái dừa tươi để uống và ít trái xoài mọi ăn giải khát. Ông già vui vẻ chỉ trỏ như muốn nói tự nhiên hái lấy mà ăn. Tuy nhiên, chúng tôi biết xâm nhập qua đất Miên là trái phép, nên tôi bày kế cho Hạ sĩ Lưu Ban, nhân viên người Việt lai Miên trong toán xung kích biết nghe và nói được tiếng Miên sành sỏi:

– Lưu Ban. Anh nói tụi mình là lính Pôn Pốt nha. Đừng cho ông ta biết tụi mình là hải quân dưới tàu.

Không biết Lưu Ban nói gì với ông gìa. Chúng tôi thấy ông ta nhe hàm răng rụng gần hết, cười và quơ bàn tay như không tin lời Lưu Ban, miệng cứ nói: “Marine…Marine…”. Tay kia ông ta chỉ về hướng tàu đang ủi bên dưới bờ sông ngoài kia.

Tôi hiểu ra mấy tiếng ‘Marine…Marine” của ông cụ:

– Thôi Lưu Ban. Ông gìa biết mình là hải quân rồi. Không gạt được ổng đâu.

Lưu Ban không gạt ông lão nữa và cả hai quay ra nói chuyện chi đó. Một hồi ông gìa chỉ bầy gà đang kiếm mồi trước cửa nhà. Chúng tôi hiểu ông gìa cho Lưu Ban con gà. Lưu Ban chạy lẹ khom người xuống chụp một con gà trong bầy. Nhưng Lưu Ban chụp hụt làm bầy gà bỏ chạy tứ tán. Có một con gà mái chạy thẳng vào bên trong nhà. Lưu Ban rượt theo. Ông gìa như hốt hoảng chạy theo sau. Thấy phản ứng lạ lùng của ông gìa, tôi đi nhanh theo vào nhà. Vừa vào đến phòng bên trong, ông gìa thấy tôi xuất hiện, ông ta quỳ sụp xuống và lạy lia lịa làm tôi càng sanh nghi, nhìn quanh:

– Lưu Ban đừng bắt gà nữa. Khám xét mấy cái khạp lớn coi bên trong có cái gì không?

Ông gìa hình như hiểu lời tôi nói. Ông ta càng lạy và miệng nói lấp bắp như van xin điều chi đó. Sát vách nhà có mấy cái khạp to đậy nấp ván. Các khạp đựng nước uống và có cái đựng thóc, lúa. Lưu Ban đến giở nấp cái khạp cuối …một cô gái trẻ trong khạp đứng thẳng lên làm tôi và Lưu Ban giực nẩy người. Cô gái Miên độ chừng 16 hay 17 tuổi đứng thẳng, hai tay che trước ngực run lẩy bẩy. Mặt cô bé tái xanh không còn chút máu, như muốn khóc, trong khi ông gìa cứ hướng về phía tôi sụp lạy như tế sao.

Bấy giờ tôi và Lưu Ban hiểu ra cử chỉ van xin của ông gìa Miên. Tôi nói:

– Lưu Ban nói với ông gìa tụi mình không có làm bậy bạ gì cô gái kia đâu. Đừng sợ!

Lưu Ban thông dịch lại. Ông gìa mừng qúa. Ông ta hướng về tôi xá thêm vài xá và kéo tay Lưu Ban ra phía sau nhà. Tôi nhìn theo. Sau nhà là cái chuồng heo. Tôi trở ra ngoài ngồi với mấy anh em ngoài sân. Chúng tôi đợi Lưu Ban. Chưa đốt xong nữa điếu thuốc captain, Lưu Ban từ cửa nhà bước ra với một con heo mọi nhỏ xíu (heo con) kẹp bên hông. Ông gìa  vui vẽ và trở nên thân thiện hơn, đi theo phía sau Lưu Ban nói liên tu, mà chúng tôi chẳng hiểu gì cả.

Lưu Ban hí hửng:

– Chuẩn úy ơi! Ông gìa cho con heo sữa.

Vài anh em khoái chí:

– Thiệt hả Lưu Ban?

Lưu Ban ra dấu chắc ăn và chỉ ông già đi sau đang cười toe toét, gật gật đầu:

– Thiệt mà.

Nắng trưa cũng đã đứng bóng. Chúng tôi cám ơn ông gìa Miên và kéo nhau trở về tàu. PCF về đến bến. Chúng tôi rời bến tàu và trở về bản doanh. Chiều tối hôm đó, chúng tôi có một chầu nhậu đã đời với thịt heo quay, da mỏng dòn rụm và lòng heo luộc chấm nước mấm cay, dầm me. Tuyệt cú mèo!

Đơn vị Tác chiến Điện Tử của Hoa Kỳ tại Hà Tiên được đặt trong căn cứ của Duyên đoàn 44. Toán xung kích của chúng tôi không trực thuộc Duyên đoàn. Lúc ấy CHT Duyên đoàn 44 là HQ Thiếu Tá Nguyễn Khoa Lô (K.13), CHP là HQ. Trung úy Phạm Xuân Kha (K.14) và Trung úy Tình báo Nguyễn Văn Lang (Lang say – K.16). Giửa cố HQ Thiếu tá Nguyễn Dinh K.13, Cựu Liên đoàn Trưởng LĐ/SVSQ/HQ/NT, niên trưởng Lang và tôi có nhiều gắn bó ở trại tỵ nạn Bataan – Philippines vào đầu năm 1986. Nhất là niên trưởng Lang và tôi có một thời với lắm kỷ niệm vui. Tại Duyên đoàn 44, tôi còn gặp số bạn cùng khóa.

Toán xung kích của chúng tôi biệt lập với Duyên đoàn 44 nên Thiếu tá Nguyễn Khoa Lô, Chỉ huy trưởng Duyên đoàn không có ý kiến gì khi chúng tôi muốn ở bên ngoài căn cứ. Chúng tôi thuê nhà riêng cách chợ Hà Tiên một con đường và gần bến ghe đánh cá. Đương nhiên lính tráng được ở ngoài căn cứ thì được tự do, thoải mái qúa đi chứ. Chúng tôi còn thuê một căn nhà cho nhân viên ở chung và dùng nơi đó làm bản doanh để tập họp, cất vũ khí và máy truyền tin. Dân Hà Tiên cũng như các thứ lính khác như Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Cảnh Sát v.v…, có thể họ biết chúng tôi là hải quân nhưng không biết chúng tôi thuộc đơn vị nào. Chúng tôi thích gì mặc nấy khi đi công tác. Phần lớn anh em thích mặc đồ rằn ri nylon vì có nhiều chuyến công tác phải lội qua những con rạch lớn hay ngâm mình dưới đầm lầy nhiều giờ. Với vải nylon khi lên bờ chỉ một chút có gió và nắng là áo quần khô ngay. Súng ống thì đủ loại như M16, phóng lựu M.79, trung liên M.60, lựu đạn K3, lựu đạn mãng cầu (miểng), trái khói v.v…Anh em vác vũ khí đi lờ ngờ giửa đường, giửa chợ khi chuẩn đi công tác hay lúc trở về từ vùng hành quân. Hình ảnh ‘kiêu binh’ đó không có gì lạ, vì Hà Tiên gần như là một thành phố của nhiều sắc lính tác chiến. Có lúc tôi phải nổ súng giửa chợ để ra mật hiệu tập họp nhân viên đi công tác bất thường. Cơm nước thì khỏe re. Tôi ăn cơm tháng tại nơi mướn nhà trọ. Vài nhân viên của tôi quen biết ngư dân có ghe đi biển nên chúng tôi tha hồ có đồ biển ăn hàng ngày. Tôi thích nhất món cá sống làm gỏi với nước chấm đặc biệt có nước cốt dừa và lẩu chua cá nháp hay cá đuối. Nhậu hết biết, do đầu bếp Tám rổ ra tay.

Thời gian công tác tại Hà Tiên, toán xung kích chúng tôi rất gắn bó và có thật nhiều kỷ niệm khó quên với nếp sống tự do, bụi đời và ngang tàng của những người lính trẻ. Sau hai tháng, tôi được thuyên chuyển về Duyên Đoàn 42 An Thới – Phú Quốc. HQ. Chuẩn úy Nguyễn Tấn Phát thay tôi làm trưởng toán xung kích. Sau đó không lâu tôi được tin trong một chuyến công tác, Chuẩn úy Phát bị thương nơi đùi trái và Thủy thủ Thạch, xạ thủ M.60 bị VC bắn sẻ, viên đạn Ak47 oái oăm trúng đầu làm Thạch tử trận ngay tại chổ, trên kinh Vĩnh Tế. Tội nghiệp một thằng em dễ thương! Xin đốt một nén hương lòng tưởng niệm một Thủy thủ xung kích đã vĩnh viễn nằm xuống.

 

Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19/6 năm 2016

HQ. Phm Quc Nam

 

…………………………………………………………………………..

BÀI HÁT HẢI QUÂN HÀNH KHÚC NĂM 1969

Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí (K7/NT), tác gỉa bản Hải Quân Hành Khúc năm 1969, thay thế Hải Quân Hành Khúc của Văn Cao.

Kính thưa quý chiến hữu Hải Quân VNCH

Chúng tôi nhận thấy thời gian gần đây trong các buổi lễ do Hải Quân tổ chức cũng như trên các website có 2 bài Hải Quân Hành Khúc (HQHK). Điều này gây tranh cãi trong hải quân và làm không ít quý vị gia nhập Hải Quân trước năm 1969 thắc mắc.

– Một bài khởi bằng lời (trước kia) :”Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay…..Bờ nước Nam….”

http://lyric.tkaraoke.com/10310/bai_ca_chien_si_hai_quan.html

– Một bài khác khởi bằng lời (sau này): “Bao người con trai..kiêu hùng……cùng nhau tách bến…..”

https://www.youtube.com/watch?v=BpSYaBp8NXU

Thưa qúy vị,

Tôi gia nhập vào Khóa 21/SQHQ vào giửa năm 1969. Tại Bạch Đằng II, chúng tôi đã được học thuộc bài ca HQHK bằng lời khởi đầu: “ Bao người con trai..kiêu hùng……cùng nhau tách bến….”. Mỗi sáng sớm sang bên đường đối diện Bạch Đằng II tập cơ bản thao diễn đi đều bước cũng hát bài hải HQHK: “Bao ngươì con trai…”.

Cuối tháng 12 năm 1969, tài nguyên K.21/SQHQ cộng thêm khoảng 2 trung đội của Khóa 22/SQHQ, nâng tổng số trên 530 SVSQ/HQ được BTL/HQ đưa lên Quang Trung thụ huấn Căn bản Quân sự. Thời gian chúng tôi tại Quang Trung, khi di chuyển ra bải tập chúng tôi cũng hát bài ca HQHK: “Bao người con trai….”. Chúng tôi có biết bài HQHK: “ Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay…..Bờ nước Nam….”, nhưng KHÔNG được hát bài này. Không biết bản HQHK “Bao người con trai…kiêu hùng…” này đã áp dụng từ Khóa 20/SQHQ hay không?

Sau này, chúng tôi được biết bài hát HQHK: “Bao người con trai…kiêu hùng….cùng nhau tách bến…” do Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí (tức nhà thơ Hữu Phương) sáng tác để thay thế bài HQHK của Văn Cao: “ Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay…..Bờ nước Nam….”, bắt đầu vào năm 1969, thời điểm BTL/HQ đang tuyển Khóa 21 và 22/SQHQ. Do đó từ năm 1969 trở về sau, Hải Quân VNCH sử dụng bài hát HQHK của ĐĐ Nguyễn Hữu Chí. Sở dĩ tôi dài dòng như vậy để làm nhân chứng cho một sự kiện. Tin hay không thì tùy quý vị tìm hiểu riêng.

Dưới đây tôi xin mượn bài phân tích hai bài HQHK của HQ. Nguyễn Trần Đàm (K.6/OCS, Hội Trưởng Hội Hải Quân Houston, TX), là bạn cùng tài nguyên Khóa 21SQHQ với tôi:

1-      Bản:

“Bao người con trai kiêu hùng cùng nhau tách bến

Ra khơi mênh mông sóng to gió mưa không sờn

Ta là chiến sĩ của trùng dương muôn sức sống

Hiên ngang ra khơi giữ vững cõi bờ Việt Nam

Làm trai gắng noi theo dấu anh hùng cường quyết một lòng

Đường trường xa bền tay lái

Một lòng tin, tin tương lai

Trùng dương xanh bao la

Trời cao mây vương xa

Hồn theo sóng với nước tới chân trời xa”

Toàn bản nói lên sự oai hùng, lòng yêu nước, hy vọng một ngày mai tươi sáng.

2-      Bài “Toán chiến sĩ hải quân ra khơi……” do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác khoảng năm 1945, khi đó chưa có Hải Quân VNCH, cũng chưa có Hải Quân Quân Đội Nhân Dân Việt Cộng.

Toán chiến sĩ thủy quân ra khơi hôm nay

Bờ nước Nam gió khơi nồng máu say

Ra đi không vương thê nhi

Miền Bắc núi tuyết rét mướt

Quen vui trong muôn phân ly

Sống trên ngàn trùng sóng

Thân phơi trên Nam Băng Dương

Nước xanh hồn Thái Bình Dương

ÐK:

Xa khơi sóng vang dạt dào

Mênh mông sóng va thân tàu

Nghe âm u … u …. u ….

Át tiếng máy rầm rầm

Quân ca theo trầm trầm, tàu nhấp nhô

Mờ mờ xa mây mù

Dần dần xa mây mù

Ði cho quên bến bờ

Xa khơi trùng dương bát ngát

Ngày về tổ quốc ghi tên

Hướng tới ánh hải đăng soi trong đêm sương

Ðoàn chúng ta chí tang bồng bốn phương

Thi gan trong cơn phong ba

Tàu thét khói lướt gió tiến

Khi trăng trên boong in phơi

Giấc mơ người ngàn ngàn bến

Xông pha chung quên đau thương

Với gia đình lớn Trùng Dương

(trở lại ÐK)

Quyết chiến thắng thủy binh ngăn quân xâm lăng

Hồn Yết Kiêu, máu sông Ðằng nhớ chăng ?

Say men năm châu tha phương

Ðời khát máu, khát gió mới

Tay tung bao thây yêu thương

Xuống chôn vùi mồ cá !

Hy sinh sao nêu cao gương

Nước Nam miền Thái Bình Dương

– “Bờ nước Nam gió khơi nồng máu say”

Hải Quân VNCH sao lại say máu?

– “Miền Bắc núi tuyết rét mướt”

Hải Quân VNCH sao lại từ miền Bắc núi tuyết rét mướt?

– “Thân phơi trên Nam Băng Dương”

Có quý vị nào đã tới nam băng dương?

– “Đời khát máu, khát gió mới”

Hải Quân VNCH khát máu?

Nói tóm lại, bản “Toán chiến sĩ thủy quân ra khơi” nên để cho Hải quân Việt cộng hát thì đúng hơn. Họ từ miền Bắc núi tuyết rét mướt xâm nhập xuống miền Nam, say máu, khát máu, láo khoét, đi chiến đấu phơi thây tận Nam Băng Dương. (HQ Nguyễn Trần Đàm – Houston ngày 23 tháng 9 năm 2015).

Thật vậy, xin mời quý vị nghe “Bài ca chiến sĩ Hải Quân” trong một website của Việt cộng như là bài hát mà quý chiến hữu Hải quân VNCH của chúng ta vẫn thường hát:

http://www.funnydog.tv/video/bai-ca-chien-si-hai-quan/jSgKm29mnJM

.

HQ. Phạm quốc Nam

…………………………………………………………………..

TRƯỜNG SA VÙNG BIỂN NHỚ

TRỊNH HOÀI PHƯƠNG


Để nhớ về Hạm trưởng, Hạm phó, quý chiến hữu thủy thủ đoàn Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ 3 (WHEC).

Mỗi lần đi tầu du lịch (Cruise), tôi có cái thú buổi sáng ngồi uống cà phê, ngắm trời nước mênh mông. Nhìn những bọt nước trắng xóa để lại sau con tầu. Tôi chợt nhớ về những chiến hữu với bao kỷ niệm vui buồn, những nhọc nhằn của đời lính biển, những ngày xa gia đình. Bù lại, chúng tôi được chúng tôi tìm được niềm vui đơn sơ qua những chuyến hải hành quần đảo Trường Sa.
Sau biến cố Hoàng Sa rơi vào tay Trung cộng tháng 01 – 1974, vùng biển Trường Sa trở nên sôi động. Trước nguy cơ xâm lăng của kẻ thù, Việt Nam Cộng Hòa điều động thêm quân đội trấn giữ các đảo. Nhiều chiến hạm như Hải vận hạm (LSM), Dương vận hạm (LST), Tuần dương hạm (WHEC)… chở Địa phưong quân Phước Tuy (Bà Rịa), đặc biệt Tiểu đoàn Trinh sát Mãnh Sư 371, ra bảo vệ đảo và dựng bia chủ quyền quốc gia. Chiến hạm chúng tôi –Trần Nhật Duật HQ3- thuộc loại tầu chiến, không chở tiếp liệu và binh sĩ nhiều như như các tầu Hải và Dương vận hạm. Tuy nhiên, sự hiện diện của các chiến hạm có hỏa lực mạnh như Khu trục hạm, Tuần dương hạm chứng tỏ quyết tâm bảo vệ biển đảo của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa.

Ngoài những nguy hiểm bão tố hàng năm, hải hành trong vùng biển Trường Sa đòi hỏi sự thận trọng, vì có nhiều bãi đá ngầm, san hô. Rải rác trong vùng, đôi khi chúng tôi còn bắt gặp những xác tầu chìm.
Chiến hạm chúng tôi thường công tác đến các đảo: Song Tử Tây, Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, An Bang, Sinh Tồn (Gạc Ma)… Đảo Nam Yết nằm giữa các đảo nhỏ, nên ở đây đặt hậu cứ gồm Trung tâm truyền tin và trạm y tế. Riêng Bộ chỉ huy tiền phương đặt ở Song Tử Tây. Từ đảo này, bằng mắt thường có thể nhìn thấy đảo Song Tử Đông của Phi Luật Tân và đảo Itu-Aba (Ba Bình), do Đài Loan chiếm giữ. Đảo Ba Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa và có nước ngọt (fresh-water).

Song Tử Tây có gì lạ?

Theo khảo cứu địa chất, đảo này giầu tài nguyên khoáng sản. Đảo trơ trọi, chỉ có cây dừa không đủ bóng mát che cái lều lớn binh sĩ đồn trú tại đây. Anh em trông khỏe mạnh, đa số để tóc dài, nước da đen sậm vì nắng cháy. Nếu không nghe họ nói tiếng Việt, bạn có thể tưởng họ là thổ dân trên đảo. Vì tầu lớn mà đảo không có cầu tầu nên anh em lái ca nô ra nhận tiếp liệu hay thay thế binh sĩ mãn hạn công tác. Câu hỏi quen thuộc của anh em là có mang thuốc lá, cà phê? Đặc biệt rượu “Ông già chống gậy” để chúng tôi nhậu lai rai các món hải sản anh em trên đảo tự nấu.

Chim biển

Đảo có hàng ngàn chim biển về làm tổ, đẻ trứng. Bạn có bao giờ ăn thịt chim biển? Mùi vị hơi tanh khi chưa quen. Nếu có thêm gia vị thì không đến nỗi nào! Anh em trên đảo bắt chim, rùa biển phơi khô. Mùa giông bão, tầu tiếp liệu không đến kịp, anh em có thức ăn dự trữ.

Trứng chim

Trên đảo có vô số trứng. Tha hồ nhặt. Đàn chim la hét, bay vần vũ trên đầu mình tỏ vẻ “phẫn nộ” với kẻ ăn cắp trứng. Có con nhào xuống mổ đầu mình. Không đau. Nhưng nhớ đội mũ, đeo kính cho an toàn. Đi biển lâu ngày, thiếu đồ ăn tươi. Buổi sáng uống ly sữa đặc Ông thọ, bỏ thêm vài trứng chim (thay cho trứng gà). Cơ thể như thêm sức.
Quà của lính biển mang về cho người thân hoặc người yêu, không huyền thoại như mang “hoa biển” về tặng em. Thực tế chỉ có hải sản: Thịt chim biển phơi khô ư? Tanh quá nuốt hổng vô! Thịt rùa biển ư? Ăn vô ngứa thấy bà tổ! Tóm lại chỉ có trứng chim được ưa chuộng nhất.

Ốc tai tượng

Tôi có vài lần theo các chiến sĩ người nhái lặn bắt tôm hùm, ghẹ, ốc ở các đảo Cam Ranh, Bình Ba, Nha Trang. Tôi chưa bao giờ thấy ốc tai tượng to đến hai ba gang tay như ở đây. Có lần đi bơi ở Song Tử Tây, khi đứng dưới nước, tôi cảm thấy có vật gì động đậy dưới chân. Theo phản xạ, tôi giật chân lên và lặn xem con gì? Quá đỗi ngạc nhiên, tôi thấy vô số ốc tai tượng. Tôi định bắt vài con về xào hay nấu cháo. Tôi nhặt nhánh cây khô đặt vào miệng ốc, chờ khép lại và kéo ra khỏi cát. Trái như tôi nghĩ, thân ốc nằm trong đá san hô. Dùng hết sức, tôi không thể nào rút cành cây ra khỏi miệng ốc, đừng nói đến đem ốc lên bờ. Chợt nghĩ nếu chẳng may, tay hoặc chân bị ốc kẹp, thì chỉ có nước đi chầu Long vương Hải thần. Lạnh cẳng, tôi bỏ lên bờ, không dám nghĩ đến… nồi cháo ốc.

Rùa biển

Có nhiều loại như: ba ba, đồi mồi… trên đảo mọi người gọi là vít. Họ đi bắt về ban đêm, nhất là mùa đẻ trứng. Tha hồ đào cát lượm trứng. Trứng có vỏ mềm, luộc ăn rất ngon. Thịt vít có người ăn không bị phản ứng. Có người ăn bị ngứa, không ngủ được. Dù sao món hải sản này cũng góp phần thực phẩm cho binh sĩ trấn đảo.

Cá chuồn

Trên biển, thỉnh thoảng thấy vài con cá chuồn bay trên mặt nước như “thủy phi cơ”. Trông rất ngoạn mục. Đôi lúc từng đàn cá mập, nhiều nhất là cá heo, bơi đuổi theo tầu. Một niềm vui bất chợt, vì giữa đại dương bao la không phải chỉ mình ta dong ruổi…
Có lần chiến hạm neo tại đảo Nam Yết, gặp mùa cá chuồn. Ban đêm, xung quanh chiến hạm thường thắp điện sáng trưng. Cá chuồn theo ánh sáng bay lên boong, đụng thành tầu sắt, nằm lăn dẫy đành đạch. Chúng tôi lâu lâu đi quanh tầu, lượm cá vô nấu cháo khuya. Cháo cá chuồn vào mùa có trứng thật tuyệt vời. Ăn tô cháo cá, cam đoan tối ngủ không… mộng mị.

Đối diện với cá mập

Chiến hạm neo tại đảo Sơn Ca, gần một vùng vịnh hình tròn, xung quanh nhấp nhô san hô, chính giữa là một vùng nước trong xanh. Trông thật thanh bình. Sau cơn mưa tối hôm qua, sáng nay bầu trời trong vắt, nắng đẹp. Tầu đi công tác lâu ngày, thiếu đồ ăn tươi. Anh em đề nghị hạm trưởng Nguyễn Kim Triệu cho thả ca nô đi bắt cá. Hạm trưởng thông cảm, vui vẻ chấp thuận. Xuồng nhỏ hạ xuống, từ từ chạy vào vùng vịnh trong xanh phẳng lặng như gương. Hai quả lựu đạn chống người nhái (MK.3) ném xuống biển. Sau tiếng nổ, vài con cá chết từ từ nổi lên mặt nước.
Anh em nhanh nhẹn lặn xuống bắt những con cá còn chìm phía dưới. Đột nhiên từ dưới nước anh em bắn mình lên hốt hoảng la to: cá mập! cá mập! Thì ra mấy con cá mập đánh hơi máu cá chết, phóng vào tranh ăn. Cá mập vùng này da rằn ri, trông rất dữ tợn. Muốn vớt vài con cá nổi trên mặt nước nhưng không có vợt lưới. Định dùng tay vớt cá nhưng thấy vài vi cá mập nổi lên mặt nước, lượn vòng vòng ung dung đớp cá của mình. Chúng tôi hậm hực trở về tay không.

Tắm mưa

Những chuyến công tác xa bờ lâu ngày, việc sử dụng nước ngọt rất giới hạn. Đi biển không nói đến tắm mưa thật là thiếu. Cấu trúc của tầu tuần dương hạm, cho chúng tôi hứng được nhiều nước mưa trên các sàn tầu đổ xuống. Những cơn mưa ngoài đại dương thật thú vị. Mưa đem đến sự tươi mát, tắm rửa, giặt quần áo dơ bẩn theo những chuyến hải hành. Nước ngọt chứa trong hầm tầu vào những ngày sắp cạn, mà vẫn còn phải “vượt bao hải lý, chưa nghe vừa ý, lắc lư con tầu đi”… Làm cho nước có màu vẩn đục vì chất sét thân tàu, chúng tôi vẫn phải dùng và gọi đùa là vitamin iron. Giữ một thùng nước mưa để sau khi tắm nước biển, tưới khắp thân thể bằng hai, ba cốc nước mưa cho sạch chất mặn, hạnh phúc không gì bằng! Lạy trời mưa xuống, có nước tôi uống, có nước nấu mì (gói)…

Quần đảo Trường Sa ngày nay trở thành pháo đài, phi trường quân sự của các quốc gia chiếm đóng. Đặc biệt Trung cộng. Sự nạo vét đất cát, san hô để xây dựng đảo nhân tạo đã phá hủy nguồn hải sản, tài nguyên Biển Đông. Vẻ đẹp thiên nhiên của Trường Sa, thú vui bình dị của người Lính Biển ngày xưa có lẽ bây giờ chỉ là những kỷ niệm…

TRỊNH HOÀI PHƯƠNG

DẬY SỚM DỌN GIƯỜNG

Dân mạng không chỉ thể hiện sự ngưỡng mộ vị Đô đốc này mà còn rủ nhau “dậy sớm dọn giường”, cố gắng làm thật tốt ngay từ những việc nhỏ.

Được biết, Đô đốc William H. McRaven đồng thời là người tổ chức cuộc đột kích tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden năm xưa.

TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA DƯỚI MẮT MỘT NGƯỜI CÒN SỐNG SÓT (Jan 16, 2018)

Posted on  by dongsongcu

Chuyn tht xy ra vào trung tun Tháng Giêng năm 1974

Phó thịnh Đường

Lời Giới Thiệu:

Tất Ngưu là người bạn cùng lớp (Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) – Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Việt Nam.  Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà thất điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh.   Mộng tìm việc làm trên các thương thuyền tan theo mây khói.  Cùng một số bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa ,… chúng tôi đành lên đường nhập ngũ tòng chinh.   Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải hành hấp thụ được ở trường HHTT.  Thế rồi trong một trận hải chiến, chiến hạm bị đánh đắm.   Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn ngày không thực phẩm và nước uống,  Tất Ngưu đã chết đi rồi sống lại.

Là người may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn thận giữ gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng tải nguyên văn.

Xin nói thêm là đối với một người đã một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi chỉ là chuyện phù phiếm.  Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài ý muốn của anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi,  anh đã đồng ý.   Dẫu sao đây cũng là một dịp để xác nhận chiến công của những chiến sĩ vô danh và các đồng đội mà anh còn nhớ tên trong đó có Trung Sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ Sĩ Nhất Vận Chuyển (HS1VC) Tây, Hạ Sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa…

Cũng nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm kích chiến công của HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc khóa 13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã đi theo chiến hạm vào lòng đại dương.

Xin độc giả dành cho anh Tất Ngưu và các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất.  Riêng tôi, xin “thẩm quyền nước Việt” trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và hằng mong Thượng Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.

Phó Thịnh Đường (nguyên Hải Quân Thiếu Úy Hàng Hải Thương Thuyền)

Florida, Spring 2006

https://i1.wp.com/vnhanghaiphap.free.fr/wp-content/uploads/2017/04/Khoa-20-HHTT-1.jpg

Bổ túc chi tiết:

Trước trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng.   Lúc trận chiến diễn ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10.  Khi rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10.  Giữa đường đến quần đảo Hoàng Sa,  để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng, HQ11 đã được lệnh gọi quay trở về.  Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết.  Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau:

(E-mail ngày 30 tháng 3 năm 2006)

Không biết là Tất Ngưu có biết  (hay có nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh sách các chiến sĩ của HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên …

Hôm đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11, khi anh hạ sĩ trực máy truyền tin nhận được tín hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên tầu …

Tớ không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên của Chuẩn úy Tất Ngưu được đọc lên trong máy …

Ký tên,

Nguyễn văn Kết.

Ho tong ham Chi Linh HQ11

Sau đây là tên các chiến sĩ sống sót được chép lại từ quyển nhật ký của Tất Ngưu:

Danh sách thủy thủ đoàn thuộc Hộ Tống Hạm NHẬT TẢO HQ10 đã trở về sau trận hải chiến Hoàng Sa:

1 Trung sĩ Bí Thư TSBT Võ văn Bằng

2 Trung sĩ Tiếp Vụ TSTV Đỗ kim Hoàng

3 Hạ sĩ 1 Trọng Pháo HS1TP Nguyễn văn Tám

4 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Trần ngọc Sơn

5 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP  Phạm văn Lợi

6 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Võ văn Tuấn

7 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Lê tấn Hưng

8 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Vương văn Và

9 Hạ sĩ 1 Cơ Khí HS1CK Lưu tố Nữ

10 Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Nguyễn hồng Cứng

11 Hạ sĩ Cơ Khí  HSCK Huỳnh văn Hòa

12 Hạ sĩ Tiếp Vụ HSTV Nguyễn văn A

13 Thủy thủ 1 Cơ Khí TT1CK Trần văn Hà

14 Hạ sĩ Bí Thư HSBT  Đỗ văn Thành

15 Thủy thủ 1 Thám Xuất TT1TX Trương văn Long

16 HQ Trung úy K8/OCS Hà đăng Ngân

17 HQ Trung úy K20/NT  Phạm văn Thì

18 HQ Trung úy K1/70 ĐB Ngô văn Hòa

19 HQ Trung úy  K25/VBĐL Nguyễn đông Mai

20 HQ Thiếu úy  K24/NT  Phạm thế Hùng

21 HQ Chuẩn úy  K1/IOCS Tất Ngưu

https://i2.wp.com/vnhanghaiphap.free.fr/wp-content/uploads/2017/04/hoang-sa.png

TRẬN  HOÀNG  SA

Nhật Ký của

Tất Ngưu

blank

 

Sài Gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,

            Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai.  Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi không còn một tia hy vọng trong trí não.  Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.

“Te-Tít … Te-Tít … Te-Tít …Te-Tít … Te-Tít … Nhiệm sở vận chuyển.”

HTH Nhut Tao HQ.10

Hạm trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ huy ra lệnh tháo giây.  Một số anh em khấp khiểng chạy về chiến hạm.  Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân viên trên tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.

“Nhanh lên, tầu rời bến, nhanh lên !”

“Tủm !”

“Ối !”

Anh HS1TP Tám chếnh choáng rơi tùm xuống nước.  Tôi thấy hạm kiều náo động, nghe tiếng hối thúc:

“Thả phao”,  “Vớt người”, …

Đó phải chăng là một điềm chẳng lành.

Chiến hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm lình bình tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh theo HQ 5 trực chỉ quần đảo Hoàng Sa.  Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các thuyền đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa (Duncan).

“Chuẩn Úy,  Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”.   Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn đồng hồ.   Đã 2345H (11 giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ.  Thời tiết tháng Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm một chiếc áo choàng mầu navy blue.   Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả trôi tại quần đảo Hoàng Sa.  Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai tuần dương hạm HQ5, và HQ16.

Trong suốt ca trực từ 2400H đến 0400H, tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau.  Anh này vừa mới tân đáo và đây là chuyến công tác đầu.  Tôi nghe anh ta kể lại những ngày huy hoàng sống ở giang đoàn.  Nào là bắt những con tôm càng, thịt, bánh mì sandwich, v.v… Nghĩ mà thú nhỉ !

Vào khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị – không đúng – một công điện khẩn thì đúng hơn:  “0600H GIỜ THI HÀNH”.  Tôi trình công điện lên hạm trưởng.  Đêm đó hạm trưởng an giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy.  Thời gian đi như chợp mắt,  mới đó mà đã đến gần 0400H rồi.  Tôi gọi:

“Anh Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên đổi ca giùm đi!”

Thế rồi hạm trưởng thức giấc.  Đứng trên đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để quan sát vị thế, rồi ra lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến.   Một hồi còi rợn người nổi lên:   “ Tít … Tít … Tít … Tít … Tít … Tít…”  Tiếng của hạm trưởng vang trên hệ thống nội thông :

“Đây là Hạm Trưởng”

“Nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở tác chiến”

“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”

“Nhiệm sở tác chiến”

“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”.     “Tít … Tít … Tít … Tít … ……”

Tất cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức giấc.  Ai nấy vào nhiệm sở của mình.  Riêng tôi, vừa đi xong ca cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ.  Ngay sau đó:

“Nhiệm sở phòng không”   “Nhiệm sở phòng không”

Tôi thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45 độ,  nào là các đại bác 76 ly 2, bô-pho 40 ly, 20 ly, đại liên 30, súng cối 81 ly.

“Đài chỉ huy, đây sân mũi, 76 ly,  2 cò điện bất khiển dụng”

“Thôi được, cho dùng cò chân”

“Đài chỉ huy, đây 41, 42  tôi phát hiện một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta, hướng 3 giờ.”

“Đài chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu hướng về hướng 3 giờ”

“Đài chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất dạng”

Toàn thể nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng.  Chắc hẳn mọi người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ xảy ra. Có lẽ cũng giống như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một ngày về với bộ tiểu lễ trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy những huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc chiến:  thương vong.

Khoảng thời gian từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch.   Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh dương, hải đội của ta lập thành một đội hình.  Bên địch (Trung Cộng) cũng gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại có vẻ như muốn khiêu khích.  Lắm lúc như muốn đâm thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta.  Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để công kích nhau.

Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng, từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía Bắc, di tản, và bốn chiến  đỉnh  của họ  vận  chuyển  song song  để bảo vệ.

Thế rồi anh em trên chiến hạm thoáng nét vui mừng.

Ồ! họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta.  Nào ngờ sau khi bốn tầu đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu trở lại với lối vận chuyển đầy khiêu khích.   Chiến hạm lại nhận được lệnh chuẩn bị tác chiến.  Tất cả nòng súng hướng vào phiá đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch.  Trên tầu anh em xôn xao căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn vô tri này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu nhân mạng trên đảo sẽ bị chôn vùi dưới lòng đại dương.

Trông chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được ban hành,  thủy thủ đoàn có phần nản chí, không còn vẻ hăng say của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò đùa.   Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch và ta, bẵng đi việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến.   Một số nhỏ hớ hênh để súng cá nhân xuống sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa với nhau.  Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ không có gì lót dạ,  anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò trong bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để dùng cháo.

“Th/úy Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”

Khi  Th/úy Mai  vừa  dùng  diểm  tâm  xong, chúng  tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các chiến hạm địch:  Bất kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu chính yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.

Và rồi những nòng súng nay đã được hướng vào chiến hạm địch.  Rồi những chiến hạm của địch và ta lại tiếp tục quần thảo nhau.

Vào khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN” được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc headphone.  Riêng tôi, trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20 ly và súng cối 81 ly ở sân sau.  Tôi vội vã hô to:

“Bắn, bắn nhanh lên”.

Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch.

TSTP Xuân hiên ngang đưa khẩu 20 ly qua lại,  bắn liên hồi.

“Tạch … Tạch … Tạch …”

“Ối ! sao khẩu 20 ly không bắn nữa ?”

“Thưa Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”

“Trở ngại thế nào ?”

“Kẹt đạn”

“Bắn một nòng”

“Tạch … Tạch … Tạch …”

“Hết đạn”

“Nằm xuống, để tao”,  Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20 ly.

“Tạch … Tạch …Tạch ..”

Trong khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua chạy lại lấy đạn 81 ly nạp vào khẩu súng cối.

“Ầm!”  “Ầm!”

Tầu địch bốc cháy.  Tôi thấy những viên đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu địch.

“Rầm !!!”

Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn:

“Tàu Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.

Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy.  Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của ta đâm vào tầu địch.  Thế rồi hai tàu từ từ dang ra.  Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà  trôi lênh đênh.

Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ.  Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt.  Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau.  Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa.  Một số nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy.  Những anh còn tỉnh thì được kéo lên boong chánh.  Trung úy Huỳnh Duy Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10, chẳng may đã tử trận trong hầm máy.  Ôi ! tiếng rên la áo não ngần nào.  Đài chỉ huy hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy cũng bay mất một góc.

HTH Nhut Tao HQ10..jpg

Phòng y tá hoàn toàn thiêu trụi.  Trong phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm phòng tai), sĩ quan phòng tai HQ Thiếu Úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên la với một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến sân sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng.  Các anh em bị thương khác không có thuốc men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.

“Ồ ! HQ16 , anh Thương hãy đánh SOS cho họ đến tiếp cứu!”

Chúng tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16 đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn toàn của chúng tôi.  Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên tàu.  Chính lúc này Thiếu Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh trên đài chỉ huy.  Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê liệt hoàn toàn đã ra lệnh cho chúng tôi đào thoát.  Những giòng tư tưởng quay cuồng trong tôi.  Thế còn tàu?  và nếu có đào thoát, chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ quay lại cứu mình.

Những tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn.  Nhìn  ra  phía  sau, hai  chiến  hạm  địch  lù lù tiến đến, hướng về phía mình.  HQ16 di tản càng ngày càng xa.  Trên boong thây xác ngổn ngang, chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa. Trên mặt biển, đồng đội lô nhô trên những bè cấp cứu.  Ôi thay! tôi tự hỏi mình có nên đào thoát hay không.

Hạ sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng rung rung:

“Ch/úy.  Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé!”

“Rồi cứ nhẩy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”

“Ch/úy, phao này cho hơi vào cách nào ?”

Tôi bèn kéo chốt cho hơi vào phao và nói anh ấy nhẩy đi.  Một chốc sau ngó xuống nước tôi lại không thấy anh ta đâu nữa.  Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt vào thành tàu.  Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy đến:

“Ch/úy nhẩy nhanh lên, kho đạn 20 ly và 40 ly nổ, nhẩy nhanh lên!”

TSVC Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy xuống.  Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại to, ngẩm không biết mình có thể bơi ra đến nơi không.

Xin mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhẩy, nhưng anh ta trả lời rằng: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ nhẩy đi.”

Thật đúng y như câu nói của người xưa:  “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.  Chẳng biết HS1VC Tây có được đến trường để học và thấu hiểu câu nói thâm thúy này không?  Anh có nghe ai bàn về câu nói ấy không?  !! Thế mà anh đã thực hiện được sự việc đó mới là hay chứ.  Việc mà chỉ có những đại anh hùng, các bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm được.  Thật là anh hùng.  Tôi xin ngã mũ.

Lớp ngớp trên mặt biển, bơi mãi vẫn không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối ! phải biết ở lại tàu còn hơn!”  Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong phao cá nhân của tôi đã được bật ra,.  Thuốc hòa lẫn với nước biển biến thành một vũng mầu xanh lá cây.  Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt xa. Mỗi lần sóng đánh đến, nước biển lại tràn vào miệng cùng với thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay cay,  Ôi ! hơi sức nào để ý  đến nữa, mục đích là sự sống.  Chỉ làm cách nào bám vào được bè, mạng sống mới có thể vãn hồi.  Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa mà bơi ra bè.  Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không cho phép tôi ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn thấy mặt anh em, tôi ngất đi trong giây lát.  Phải chăng lực tiềm tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm thấy sự sống nên lực đó không cần thiết nữa.  Khi được kéo lên bè, người tôi lã đi vì đói khát mệt mỏi.

Thật là “họa bất đơn hành”, sau khi ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về hướng tàu, trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới, khẩu 20 ly trên HQ10 cứ nổ vang.  Hai chiến hạm của TC cũng không vừa, cứ vừa tiến vừa tác xạ, thế rồi khẩu 20 ly đành im bặt.  Những tiếng súng sau cùng đó…  Hỡi ơi ! anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ bất tử của HQ10.  Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ có những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu.  Nói đến sự hy sinh chiến đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan niệm của mỗi con người.  Có người cho rằng: “Quân tử phục thù, thập niên vị vãn”.  Nhưng theo tôi, các anh là những tấm gương anh dũng rạng ngời.  Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với dòng chữ xâm trên tay “Mặc Thế Nhân”.  Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi dưới đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10.  Ước gì tên tuổi của hai anh HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử xanh.

Hai chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông tha một chiến thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển.  Chúng cứ luân phiên nhau vây đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu tiến đến bè của chúng tôi.  Chúng tôi nghĩ là nếu họ tác xạ mình thì anh em lại đào thoát lần thứ hai.  Mắt Thượng Đế vẫn còn đây, bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn.  Tôi tự nhủ hãy phó thác mạng sống mình cho Trời Phật.  Số đã sống thì không thể chết, số chết thì không sao cứu vãn được. May thay họ lại bỏ đi.  (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo – cộng sản làm gì có nhân đạo – lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông.  Họ chẳng cần vớt người làm chi cho nhọc công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang tiếng với quốc tế.)

Qua cơn bỉ cực đầu tiên, tôi phải đương đầu với đại dương trùng sóng và đói khát.  Người đã mệt lã đi, lại cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ.  Tôi say sóng cũng thường rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập, tôi ói ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy người không còn chút sức lực nào.

Nhìn lại xung quanh, tôi thấy tất cả có năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã bị bắn thủng.  Chúng tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn, một cái bè bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không thể lại gần nó được.  Bè đông người và được cột chum nhau, chìm xuống mặt nước. Chúng tôi không có một dụng cụ nào khác để chèo ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến chiều hôm đó (ngày 19 tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối.  Mắt trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần đảo được, vì hôm đó sóng quả rất to.

Sau khi kiểm điểm lại chúng tôi chia làm bốn bè:

Bè số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa, Th/úy Mai, HSBT Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.

Bè số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A, HSTP Lợi, HSTP Tuấn và TT1CK Hà.

Bè số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP Châu, TSĐT Thọ.

Bè số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân có thể nằm cho không ướt người.  Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.

Riêng về bè trôi dạt không thể cột chùm được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK Nữ, HSTP Sơn, HSCK Cứng, TT1TX Long.

Bầu trời đã tối mịt, sóng lại to hơn.  Anh em mệt lã người phần vì đói khát, phần vì mệt nhọc sợ hãi.  Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi vào đảo được.  Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng.  Thân xác Hạm Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.

Suốt đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột.  Anh em cứ ôm gồng lấy nhau mà rung rẩy chờ đêm qua.  Đêm sao qua chậm thế!  Giờ này mới ba giờ đêm, bốn giờ, năm giờ, … trời bắt đầu sáng.  Thật là quái dị.  Đêm vừa qua lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc.  Phải chăng ông Trời cũng không dám diện kiến một cảnh tượng thê lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?

Thân mệt nhừ, tôi quay qua quay lại nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:

“Ủa ! đảo hôm qua đâu ?! Thôi rồi anh em ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?!”

Ai nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì chúng tôi mới hỡi ơi là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc, nếu muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.

Cơn đói khát lại hành hạ.  Sau khi kiểm điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm nào cả dù rằng dây buộc vẫn còn đó.  Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa 20 lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng kẹo.   Thế rồi phải lấy ra gom lại chia đều ra.  Trong đó có 6 bao kẹo không thể sử dụng được, nhưng cũng để dành lại đó.  Chúng tôi khui những lon nước, mỗi người hớp một ít, và ăn một miếng kẹo.

Những người bị thương nặng như TS1GL Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu nên họ cứ đòi nước mãi.  Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của ta ra cứu vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế.  Nhất là nghe các anh bị mất nhiều máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi không đành nên cho họ uống cả lon.  Khoảng 9 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời trối trăn,  mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát, khát quá…. Ý thức được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết, chúng tôi tự hạn chế trong việc sử dụng nước ngọt và kẹo. Bè cứ mặc cho dòng nước đưa trôi. Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang.  Chúng tôi thắc mắc phải chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải chiến lại tiếp diễn?

“Anh em hãy gắng sức chèo về hướng Tây Nam, đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo hôm qua ta tranh giành.”…

“Cố lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn.”…

Khoát nước, chèo mãi vẫn không đi tới đâu.

“Thôi chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo hướng Tây Nam sẽ đến đảo ngay.”

“Anh em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay, nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng đến gìờ coi như hoang phí.  Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”…

Bè nay đã được cột chùm vào nhau; lúc đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các bè cứ va đập vào nhau.  Bè lật, vỡ bể thêm ra.  Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối đuôi nhau.  Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ.  Những bè sau đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì, Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa, HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để chèo.   Đêm đó cứ luân phiên nhau mà chèo. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn, nhưng trong đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để chèo.  Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.

Khoảng sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa châu lóe lên rồi mất hẳn.  Tôi mới hô to:“Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm ta, hai là lính địa phương quân trên đảo.  Anh em hãy chèo về hướng đó nhanh lên!”

Nhưng trời chưa tha bọn người hoạn nạn như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa lại phải chèo ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ.  Buồn thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt – TS1GL Thương.  Buổi chiều, thêm TSĐT Thọ từ giã anh em.  Xin được mỹ miều chua xót ghi là “Sáng, thủy thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm người theo hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”

Có lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng vẳng bên tai một cách yếu ớt “Khát quá … khát quá …”  Tinh thần của anh em lúc này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên mình, nghĩ đến những bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói là mọi người như sắp điên loạn.  Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:

“Đây cách Đà Nẵng bao xa?”.

“Khoảng trăm mấy, hai trăm hải lý.”, tôi nói.

Thế là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu không ông sẽ đi một mình!  Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên bè xuống biển.  Thế rồi chúng tôi lại phải thất công lần lượt kéo từng người lên.   Thượng Sĩ Châu đã mất trí !!

Ban ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có đảo.  Nhưng nhìn dáo dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả.  Kẹo và nước ngọt đều dùng cạn.  Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha nước tiểu với nước biển để uống.  Lúc bấy gìờ không ai để ý đến đói, nhưng cơn khát hoành hành cảm thấy thấm thía.  Đêm đó ai nấy đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè lại với nhau đứt hồi nào không hay.

Sáng hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy một bè nào cột bên cạnh bè mình.  Nhìn về trước, một bè trôi khá xa.  Ngó về phía phải cũng thấy một bè, nhưng cố gắng chèo mãi mà không sao tới nổi.  Dần dần những bè đó khuất dần ngoài tầm mắt của tôi  Trưa rồi lại chiều.  Chân tôi giờ này sưng thủng, không sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát quá … khát quá”.  Mắt, miệng đã sưng vù lên.  Th/úy Mai đã nói lâm râm:

“Ch/úy Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”

Tai tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó, đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào thoát khỏi tử thần trong đêm nay – có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình có đủ điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?

Chiều hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt.  Thình lình HSCK Hòa thét lên: “Có tàu!”

“Ôi ! tàu đâu, tàu đâu?”

Một cứu tinh hiện trước mặt.  Lúc đó tự dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ áo phao đỏ mà phất.  Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu tinh còn cách bè mấy hải lý.

https://i2.wp.com/vnhanghaiphap.free.fr/wp-content/uploads/2017/04/MS-Kopionella.jpg

“Phải rồi ! Chúng ta đã sống, tàu đang ngừng!”

“Có lẽ họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên, nếu đêm tối họ sẽ không nhìn thấy để cứt vớt ta, la lớn lên anh em.”

“ Một hai ba… Ô!”  “ Một hai ba… Ô!”  “123…Ah!”  “123… Ah!”, một mặt lo chèo, mặt khác la to lên.

“Hình như bè không tiến tới chút nào cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”

“Anh em ơi, nhẩy xuống bơi!”

Nhưng hơi sức đâu mà bơi nữa.  nhất là vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại không còn.

“Ô kìa! tàu quay đi đâu? thôi chết rồi, hết hy vọng rồi,  cố lên anh em!”

Hy vọng xen lẫn thất vọng.  Màn đêm đang dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng đèn tàu rực lên.  Ôi chao! Trông chiếc tàu dễ thương biết bao!  Sau đó một ánh đèn pha rọi sáng và từ từ di chuyển.

“À ! họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng ta.  Sao họ chạy đường kia?”

“Có lẽ họ đang vớt đồng đội mình.  Kìa, họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”

“Ah ! Oh ! help us sir, please help us.”

“Okey, take it easy, be careful.  Are there any wounded ?”

“Yes sir, most of us are wounded.”

“All right …”

Chiếc dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp về tàu.  Trên dzu dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên lạc với thuyền trưởng,.  Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu.  Trên tàu, các thủy thủ người Hồng Kông đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu.  Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên.  Khi thành của dzu dzu ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ hai nhân viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.

Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi tất cả quần áo ướt  ra, đắp cho mỗi người một tấm chăn, rồi cho chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm.  Cùng lúc đó họ đem cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá.  Sau đó thuyền phó hỏi tôi là hình như trong nhóm có một lieutenant.  Tôi đáp lại rằng chỉ có Lieutenant Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ Tr/úy Thì.  Ông  đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa và lên phòng  ông để liên lạc với Hải Quân Việt Nam.

Chúng tôi đã thật sự sống lại.  Ngay khi đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô to lên với anh em:

“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”…

 Ghi chú:  Th/úy Nguyễn đông Mai là một sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trước khi xảy ra trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày đeo lon Trung Úy; sau khi trở về, Tr/úy Mai được đặc cách thăng cấp lên chức Đại Úy. 

Tác giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10

Bổ túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11

Sửa kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim

Giới thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường

Yêu cầu:  Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS

Hải Đội 4 Duyên Phòng

Phùng Học Thông

Lời nói đầu.

Tập tài liệu về Hải Đội 4 Duyên Phòng này được hình thành là do rất nhiều người đã đóng góp, họ là những  cựu Thuyền Trưởng, Thuyền Phó, Đoàn Viên Thủy Thủ đoàn, Nhân viên và Hạ Sĩ Quan phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Hải Đội. Và hơn nửa, một vài Sĩ Quan cấp chỉ huy và một số Sĩ Quan bạn phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Duyên Hải.

Như lời giới thiệu của Báo Lướt Sóng số 61 phát hành nhân ngày Húy Nhật Đức Trần Hưng Đạo năm 2007 đã đăng trích đoạn tài liệu, mục đìch tiếp tay kêu gọi các cựu Hải Quân thuộc HĐ4DP cũng như một số bạn bè thuộc HĐ5 Duyên Phòng và các Hải Đội khác nếu biết tin tức hoặc chi tiết thì xin đóng góp hầu hoàn thành tài liệu này.Cám ơn báo Lướt Sóng.

Tài liệu được bắt đầu soạn thảo từ tháng 8 năm 2006 theo những gì còn nhớ được qua trải nghiệm của từng cá nhân, kiểm chứng ngày tháng và năm bằng tài liệu Hoa Kỳ là báo cáo của NAVFORV háng tháng từ năm 1967 đến năm 1971.Các số hiệu của PCF bàn giao và ngày bàn giao có được do tài liệu của website swift boats của Hoa Kỳ.

Với lời cám ơn đến các bạn HQ các Khóa. Các anh Nguyễn An Cường, Nguyễn Minh Tú, Vương Thế Tuấn, Lương Văn Phước, Đặng Trọng Đính đã khuyến khích tôi ngay từ ngày đầu, các anh  Thuyền trưởng đầu tiên của 4 PCF với các tên của các HSQ và Đoàn viên trên tàu mình, các anh Nguyễn Đình Lâm, Đỗ Sĩ Thạc, Ninh Duy Định. Anh Lý Thành Thông, Trần Quốc Cường đã cho tin về các anh Thuyền Trưởng của 5 WPB, anh Nguyễn Đình Sài với chi tiết về HĐ5 DP,  anh là người biết nhiều về Thuyền Trưởng John Kerry, Trung úy Kerry sau này là TNS Mỹ, có thời ra tranh cử với Ông Bush, anh Bùi Đức Ly và anh Trần Ken đã giới thiệu tôi với rất nhiều Thuyền Trưởng khác để liên lạc, anh Phạm Hồng Ân, anh Vũ Đức Cương đã giúp rất nhiều chi tiết quí giá nhất là đã viết và kể lại chi tiết PCF 3806 đã bị Việt Cộng cướp tại ngoài khơi vùng Hòn Đất, giêt chết [chặt đầu) Thuyền Trưởng, Thuyền Phó, bắt đi Thũy Thủ đoàn vào những ngày tháng đầu năm 1975. Anh Cương còn nói là tôi có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết với những tài liệu và tin này! Niên trưởng Mai Mộng Liễn, niên trưởng Lê Văn Quế và anh Nguyễn Ngọc Ẩn để biết thêm về tin tức này.Các anh Trương Đình Quí, Trương Thanh Việt, Dương Ngọc Lợi cho tên các anh Thuyền Trưởng và các anh xuất thân từ trường Võ Bị Đà Lạt, anh Huỳnh Văn Phườc, Tạ Cự Nguyên với một số hình ảnh của PCF và nhân viên trên PCF, anh Châu Đình Lợi, một ngừơi đã giúp rất nhiều về chi tiết và tình trạng của Hải Đội cũng như trí nhớ của anh về quân số của đơn vị ở một thời điểm nào, anh Nguyễn Văn Tây người Việt đầu tiên mà tôi liên lạc sau khi vào website PCF của Hoa Kỳ. Anh Trương Văn Quang đã giúp rất nhiều về hình ảnh cũng như tài liệu của Hải Quân Hoa Kỳ trong giai đoạn 1966-1975.

Một số rất nhiều tên mà tôi không kể ra đây để cám ơn, xin các anh tha lỗi. Và khi nhìn vào danh sách Thủy Thủ Đoàn với tên hàng trăm người là SQ, là HSQ, là Đoàn viên xin các anh coi như đây là một lời cám ơn vì các anh  là những người đã làm nên Hải Đội 4 Duyên Phòng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

Cám ơn những phương tiện kỹ thuật hiện đại đã giúp chúng ta liên lạc dễ dàng bằng điện thư vì tất cả chúng ta đều ở từ những nơi xa xôi trên đất Mỹ, đất Canada và đất Úc.

Người ghi chép và biên soạn.

Phùng Học Thông

Tháng 12 năm 2007.

Hải Đội 4 Duyên Phòng  (1967-1975)

Hải Đội 4 Duyên Phòng [1] được chánh thức thành lập sau khi nhận lãnh 4 PCF mark II tại An Thới vào ngày  19 tháng 7 năm 1968. Đây là 4 PCF đầu tiên được chuyển giao cho HQVN, các chiến đỉnh nầy được đưa đến Việt Nam trên một LSD Hoa Kỳ, và tấtcả trang bị và vũ khí cá nhân đều được chứa trong thùng .

Trở lại thời gian trước khi nhận lãnh các PCF nầy thì trên thực tế, Hải Đội 4 đã được

khai sanh vào khoảng giữa năm 1967 với một số nhân viên và Sĩ Quan tình nguyện từ

Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Duyên Hải. (Thời gian đó còn gọi là Bộ Chỉ Huy Vùng 4 Duyên Hải) họ đã được gởi thưc tập trên các PCF và WPB của Hải Quân Hoa Kỳ thuộc Coastal Squadron 1 và PCF Division 101 tại An Thới.

Vào cuối năm 1967 và đầu năm 1968 thì một Bộ Chỉ Huy cho Hải Đội 4 được xây cất. Danh xưng của Hải Đội 4 lúc nầy là Hải Đội 4 Duyên Tốc Đĩnh.

Bo chi huy HD4DP. Photo by PHTjpgBộ Chỉ Huy của Hải Đội 4  năm 1968  trước khi nhận lãnh bàn giao các PCF.                         

Chương trình huấn luyện  Thủy thủ đoàn do  Vùng 4 Duyên Hải và PCF Division 101 đảm nhận .Sĩ Quan điều hợp huấn luyện Việt Nam lúc đó là HQ Tr/úy Trầm Hữu Tạo K14, thuộc phòng Huấn Luyện của Vùng 4 Duyên Hải. Các Sĩ Quan và Đoàn Viên Việt Nam được gởi trên các PCF Hoa Kỳ để được huấn luyện khi các chiến đỉnh nầy đi tuần ở những vùng Market Time 9D đến 9L. Thời gian huấn luyện của những Thủy thủ đoàn đầu tiên nầy đã được thưc hiện từ năm 1967 dưới thời của  HQ Đại Tá Phùng Nhật Tân K2, đến lúc  nhận lãnh 4 chiến đĩnh đầu tiên là thời gian của TL/V4, HQ Đại Tá Đặng Cao Thăng K1 Brest.  Quân số HĐ  lúc đó có 71 người, gồm SQ và Đoàn Viên.  48 người được trang bị cho 8 Thủy thủ đoàn của 4 PCF (Mỗi PCF có hai Thủy Thủ đoàn) số còn lại là những nhân viên ứng trực, nhân viên sửa chữa và người chờ bổ sung cho các Thủy thủ đoàn tương lai ..

Buổi lể bàn giao 4 PCF  từ 3800  đến 3803 ngày 19 tháng 7 năm 1968  tại cầu tàu An Thới.Phú Quốc.(tài liệu nguồn All Hands Nov.1968)

Sau khi nhận bàn giao,  4 PCF mới nầy được lấy số từ HQ 3800 đến HQ 3803, các SQ Thuyền Trưởng cho Thủy thủ đoàn (1) theo thứ tự  số tàu là  HQTr/úy Huỳnh Công Phuơng, HQTr/úy Văn Trung Thu, HQTr/úy Phùng Học Thông và HQTr/úy Nguyễn Văn Đông, tất cả thuộc K14, và các SQ Thuyền Trưởng của Thủy thủ đoàn (2) là HQTr/úy Lê Khánh Dư, HQTr/úy Lương Văn Phước,HQTr/úy Đặng Trọng Đính và HQTr/úy Phạm Đình Phùng, tất cả thuộc K15.[2] 

Vùng tuần tiểu trách nhiệm là 2 vùng Market Time.Thủy thủ đoàn đi tuần 24 tiếng và nghỉ 48 tiếng, giống như tiêu chuẩn của PCF Division 101

Khoảng hơn tháng sau,cuối tháng 8 năm 1968 thì Hải Đội nhận lảnh thêm 2  PCF mark II tai HQCX Saigon. Hai PCF nầy được lái về An Thới có số HQ 3804 , và    HQ 3805. Thuyền Trưởng của hai PCF nầy là các anh HQTr/úy Lê Văn Quí K14,  HQTr/úy Trương Minh Hoàng K14, HQTr/úy Vương Thế Tuấn K15, và HQ Th/úy DV Lê Văn Ngọ. Th/úy DV Nguyễn Văn Tường là Thuyền phó trên 3805 sau đó.

Trong giai đoạn đầu, Hải Đội 4 chưa có người chánh thức đảm nhiệm chức vụ Hải Đội Trưởng, Tham Mưu Trưởng Vùng 4 là HQ Trung Tá Hà Văn Ngạc kiêm chức vụ  nầy, từ năm 1968 và danh xưng Hải Đội là Hải Đội 4 Duyên Phòng từ năm 1969. Chỉ Huy phó HĐ là HQĐ/úy Nguyễn Đình Lâm K12.

Tháng 10 năm 1968, Hải Đội nhận lãnh thêm 2 PCF mark II tại Đà Nẳng và lái về Phú Quốc đó là hai chiến đỉnh HQ3806 và HQ3807 do HQTr/úy Nguyễn Văn

Mạnh K13 và HQĐ/úy Lê Như Bái K12 làm Thuyền trưởng. Hướng dẫn nhận lãnh

là HQ Đ/úy Nguyễn Đình Lâm K12.

Cuối năm 1968, Hải Đội nhận lãnh thêm 4 PCF mark II tại Đà Nẵng, HQ3808, 3809

3810 và 3811. HQTr/tá Hà Văn Ngạc đã hướng dẫn nhận lãnh 4 PCF này. Thuyền trưởng là Th/úy DV Nguyễn Văn Tường, HQ3808 soái đĩnh vì có Tr/tá Ngạc hiện

diện, HQTr/úy Ninh Duy Định K14, HQ3809, HQTr/úy Trương Công Hải, K14 HQ3810 và HQTr/úy Đỗ Sĩ Thạc K14, HQ 3811.

Huy hieu HD4DP. TVQ Collection.

Huy hiệu HĐ4DP (hình sưu tầm của anh Trương Văn Quang)

Tháng 4 năm 1969,Hải Đội nhận lãnh 2 PCF mark I tại Saigon là các PCF có số HQ3812 và HQ3813.HQTr/úy Vương Thế Tuấn,người hướng dẫn, Thuyền trưởng HQ3812., và HQTr/úy Đặng Trọng Đính, Thuyền trưởng HQ3813.                      

Tháng 5 năm 1969, một số 88 người gồm các Đoàn viên và Sĩ Quan được Bộ Tư Lệnh Hải Quân gởi đến Hải Đội để được huấn luyện và sau đó được đưa đi Cát lở, Cam Ranh, Qui Nhơn, Chu Lai và Đà Nẳng theo chương trình START (Swift Training And Rapid Turn Over on the job training) cho các đợt chuyển giao 49 PCF vào  năm 1970.

Thời gian nầy,quân số của Hải Đội 4 được bổ sung một cách nhanh chóng, chuẩn bị nhận lãnh thêm các PCF mới. Riêng về Sĩ Quan, có khoảng trên 50 SQ, đa số thuộc K17 được đưa đến Hải Đội  để được huấn luyện và các SQ K14 một số thuyên chuyển đi  đơn vị mới và một số cùng với Sĩ Quan Khóa 15 được thuyên chuyển đến Vùng 3 Duyên Hải chờ tiếp nhận các Tuần Duyên Đỉnh WPB.

Chỉ Huy Trưởng Hải Đội 4 Duyên Phòng lúc này là HQ Tr/tá Trịnh Kim Thanh K5  và  tiếp đến là HQ Th/tá Nguyễn Quang Tộ thuộc K6. Chỉ Huy Phó HĐ, HQ Đại úy Nguyễn Đình Lâm K12 , kế tiếp là HQ Đ/úy Nguyễn Minh Tú  K14 (1969-1970) 

Tháng 4 năm 1970, để chuẩn bị cho cuộc Hành Quân sang Kampuchea , 5 chiếc WPB

thuộc Hải Đội 3 Duyên Phòng được gởi đến An Thới là HQ720, HQ722, HQ723, HQ724 và HQ725  do các SQ thứ tự sau đây là Thuyền Trưởng: HQ Tr/úy Nguyễn Minh Hải K16, HQ Tr/úy Lý Thành Thông K16, HQ Tr/úy Nguyễn Văn Thịnh K15, HQ Tr/úy Liêu Chơn K15 và HQ Tr/úy Trần Quốc Cường K15

Riêng về PCF, thì Hải Đội 4 lúc đó có trên 100 SQ  là Thuyền Trưởng và Thuyền Phó các PCF. Con số nầy được kể  luôn cho  các SQ đang được huấn luyện chờ lãnh các PCF đợt kế tiếp.

Ngày 10 tháng 6 năm 1970, tại An Thới, HQ Hoa Kỳ  chuyển giao các PCF 17, PCF 37, PCF 52, PCF 64, PCF 71 và PCF 73 cho Hải Đội 4, đó là các PCF lần lượt có số, 3815, 3816, 3817, 3818, 3819 và 3820. [4]

Tháng 10 năm 1971, trận bão Hester thổi vào Duyên Hải Việt Nam, một số WPB của Hải Độí 1 Duyên Phòng bị thiệt hại trong trận bão. Các WPB trực thuộc Hải Đội 4 đã được điều động đến Hải Độí 1, từ đó không còn sự hiện diện của các WPB  Việt Nam tại Phú Quốc. Các WPB của HQHK thì thường xuyên họat động tại vùng mũi Cà  Mau và Năm Căn trong cuộc hành quân Sea Float va Solid Anchor.

WPB va PCF của Hải Độí 1 Duyên Phòng bị thiệt hại trong trận bão Hester tháng 10 năm 1971 (photo: 40 years today – A Vietnam War Timeline)

PCF và sự có mặt của loại chiến đĩnh nầy tại chiến trường Việt Nam.

PCF chử viết tắt của Patrol Craft Fast, một loại chiến đĩnh được đóng và trang bị cho

Hải Quân Hoa Kỳ sử dụng tại chiến trường Việt Nam vào năm 1965.

PCF hay tiếng Việt gọi Duyên Tốc Đĩnh được HQHK đặt đóng tại Xưởng Đóng tàu Seawart Seacraft, thành phố Berwick.Tiểu bang Louisiana.

Bốn PCF đầu tiên được hoàn tất tháng 9 năm 1965.PCF 1 và PCF 2 được đưa đến Coronado, Tiểu Bang California,để sử dụng huấn luyện. PCF 3 và PCF 4 được đưa đến Căn Cứ HQ ở Subic vào những ngày giửa tháng 9 năm 1965 và chờ các Thủy Thủ đoàn,và sau đó được đưa đến An Thới vào ngày 28 tháng 10 năm 1965.

Về đặc tính thì loại chiến đĩnh nầy được coi như thích ứng cho việc tuần tiểu vùng ven biển với độ sâu thích hợp cho ghe tàu nhỏ thường xuyên hoạt đông và hiện diện ở Duyên Hải Việt Nam. Với tốc độ nhanh có thể truy chận và có mặt tại vùng chỉ định trong một thời gian ngắn.Tầm hoạt động từ 200 đến 780 hải lý tùy theo vận tốc.

Duyên Tốc Đĩnh Mark I với những đặc tính sau:

                                  Dài : 50 foot

                                  Trọng tấn : 23 tấn

                                  Vận tốc : 26 gút

                                  Máy chánh : 2 máy 12V71 General Motors

                                  Máy điện : Onan

                                  Nhiên liệu : 3 hầm dầu chứa 828 gallons

                                  Nước ngọt : 60 gallons

                                  Thủy thủ đoàn : 6-7 người.

    Trang bị trên chiến đĩnh:

                                 Radar Decca tầm xa 24 hải lý.

                                 Máy đo chiều sâu : 240 foot tối đa.

                                 Truyền tin :Giai tần đơn AN/VRC58,VRC/46,AN/PRC25…

                                 Vũ Khí : – Đại Liên 50 đôi,tác xạ điện,vị trí trên pháo tháp.

                                 – Súng cối 81 ly trực xạ và đai liên 50 ghép chung .          

                                 – Vũ khí cá nhân M16, phóng lựu M79…

                                 – Ống dòm hồng ngọai tuyến.

Hình PCF mark 

I. Trích từ nguồn ảnh PCF-website  pcf45.com

Duyên Tốc Đĩnh Mark I  của Hải Đội 4 Duyên Phòng gồm có : các PCF có số 3812, 3813 ,  3814, 3815, 3816, 3817, 3818, 3819, 3820, 3821,3822, 3902, 3920, 3926.

Duyên Tốc Đĩnh Mark II của Hải đội 4 Duyên Phòng  : các PCF có số: 3800, 3801,3802, 3803, 3804, 3805, 3806, 3807, 3808, 3809, 3810, 3811.

Các Duyên Tốc Đĩnh Mark I, nhận lãnh lại từ PCF của Hoa Kỳ hoạt động từ năm 1966.

Các Duyên Tốc Đĩnh Mark II, được bàn giao từ các PCF mới đóng vào những năm 1968. Về hình dáng thì chiến đĩnh mark II,giống như mark I, nhưng  chiều dài của PCF mark II là 51 foot.,phần phía trước mủi được nâng cao và phòng lái được dời về phía sau khoảng  một  thước.                      Duyen toc dinh PCF HQ.3802PCF Mark II, HQ 3802 trên sông Giang Thành. Hình chụp năm 1969 (photo: Phung Hoc Thong)

Các PCF Hoa Kỳ Mark I, có số từ PCF 1 đến PCF 104, hoạt động trên vùng biển và sông của Việt Nam,trực thuộc các phân đội PCF: 11, 12, 13,Cam Ranh Qui Nhơn, Chu Lai.đã được lần lượt chuyển giao cho Hải Quân Việt Nam ở các Hải Đội 1, Hải Đội 2, Hải Đội 3, Hải Đội 4,và Hải Đội 5 Duyên Phòng[5] bắt đầu từ năm 1968 đến 1970

Trong số 30 PCF Mark II được đóng vào những năm 1968-1969 ,sau khi bàn giao cho HQVN, HQHK chỉ sử dụng tại Việt Nam  ba chiếc là các PCF 137, PCF 138 tại Cát lở và PCF 139 tại Đà Nẳng. Một số khác được ghi nhận là chuyển giao cho Phi Luật Tân, Thái Lan và một số nước khác.

Riêng về các PCF Mark III [6] được đóng vào các năm 1969-1972. Trong số 33 chiếc, chỉ có 5 chiếc được HQHK sử dụng tại Việt Nam là các PCF 691, 692, 693, 694 và 695.

Các PCF nầy đã được chuyển giao cho HQVN tại Vũng Tàu ngày  1 tháng 12 năm 1970 và lấy số theo thứ tự HQ 3933, 3934, 3935, 3936 và 3937.

Ngoài ra tại Việt Nam và Phi Luật Tân cũng đã đóng một PCF bằng Ferro Cement ở mỗi nơi với giá chi phí rẽ hơn và dỉ nhiên kém hiệu quả.

 WPB – loại Tuần Duyên Đĩnh mới tại vùng Duyên Hải Việt Nam.

Sau sự việc tàu tiếp tế vũ khí cho Việt Cộng  bị phát giác và  đánh chìm tại Vũng Rô ngày 16 tháng 2 năm 1965. Hải Quân Hoa Kỳ đã nhờ lực lượng Duyên Phòng Coast Guard thuộc Bộ Tài Chánh Hoa Kỳ giúp gởi các tàu thuộc Duyên Phòng đến giúp Hải Quân tuần tiểu trên Duyên Hải Việt Nam,đặc biệt những tàu có thể hải hành vùng gần bờ dùng trong mục đích khám xét và truy chận.

Bộ Tư lệnh Coast Guard đả thành lập  Hải Đội 1 Coast Guard (Coast Guard Squadron One) ngày 29 tháng 4 năm 1965 và cho điều động 17 Tuần Duyên Đĩnh WPB gia nhập lực lượng nầy. 47 Sĩ Quan và 198 Đoàn Viên được chuyển đến Coronado để được huấn luyện. Ngày 12 tháng 6 năm 1965, Hải đội 1 Coast Guard được đặt dưới sự chỉ huy của lực lượng Hải Quân, Đệ Thất Hạm Đội  tại Thái Bình Dương và được gởi đến huấn luyện tại căn cứ Hải Quân Subic.                     .

Ngày 16 tháng 7, Phân Đội 12 với 8 WPB khởi hành đi Đà Nẳng  và ngày 24 tháng 7 thì Phân Đội 11 với 9 WPB khởi hành đi An Thới. Khi đến Việt Nam 17 WPB nầy đặt trực thuộc Task Force 71 vài ngày cho đến ngày 30 tháng 7 năm 1965 thì trực thuộc TF 115 khi lưc lượng nầy được thành lập để trực tiếp chỉ huy Hành Quân Market Time.

WPB Chử tắt của W Patrol Boat – Large, được gọi là Tuần Duyên Đĩnh trong Hải Quân Việt Nam.  Các WPB được đưa đến Việt Nam thuộc Class “A “và  “C”, có tên Hoa Kỳ  với chử   POINT  đứng đầu, được đóng tại Coast Guard Yard. Curtis Bay. Maryland ,vào những năm 1960 và 1961 [7].

Ở  lực lượng Coast Guard , những tàu và chiến hạm đều được gọi là Cutter, trưóc tên loại tàu có chữ W, ví dụ sau nầy các chiến hạm lớn trên 2000 tấn có tên WHEC (W  High Endurance Cutter) đến Việt Nam và sau đó được chuyển giao cho HQVN, có tên Tuần Dương Hạm.

Tuần Duyên Đĩnh –WPB Point Young  tại An Thới năm 1965. Tuần Duyên Đĩnh nầy được chuyển giao cho HQVN năm 1970 và có số HQ  714

                     Đặc tính của các  WPB  hoạt động tại Việt nam

                            Dài :   82 foot

                            Trọng tấn   : 67 tấn

                            Máy chánh :  2

                            Vận tốc  :   16.8 gút

                            Vũ khí  :  Súng Cối 81 bắn cò và Đại liên 50 ghép chung (sân trước)

                            Từ  2  đến  4  đại liên 50.

                            Vũ khí cá nhân M16 , M 79…

                            Thủy Thủ đoàn :  8 đến 10

Trong giai đoạn đầu của năm 1965, hai phân đội 11 và 12 hoạt động tại Vùng  phía Tây và Đông của Duyên hải Việt Nam, vùng Đông Nam còn trống, chưa có đơn vị nào đảm trách cho nên Bộ Hải Quân đã yêu cầu lực lượng Coast Guard gởi thêm 9 tàu WPB tăng cường. Phân đội 13 được thành lập với 9 WPB  vào ngày 12 tháng 12 năm 1965, khởi hành từ Subic đi Cát Lỡ ngày 18 tháng 2 năm 1966

Các WPB có khả năng chịu sóng cao và sau này thường được sử dụng tại vùng Duyên Hải Đà Nẳng, Nha Trang, Vũng Tàu .

Tại Vùng 1 Duyên Hải đã có những PCF bị chìm khi ra cửa biển vào những thời gian của mùa gió Đông Bắc, ít nhất 2 PCF đã chìm vì sóng gió quá lớn tại một cửa biển.

Các WPB tại Vũng Tàu đã vào sâu và hoạt động trên các sông Lòng Tàu, và các nhánh sông của sông Cửu Long , nơi có những Duyên Đoàn của Vùng 3 Duyên Hải trấn đóng.

WPB Hoa Kỳ trong những năm 1966, 1967, 1968 có rất nhiều công khi ngăn chận và phát hiện cũng như phá hủy những tàu Cộng Sãn VN chở vũ khí xâm nhập, nhất là trong năm 1966.

Cuối năm 1969, các WPB Hoa Kỳ đã  giảm đi những hoạt đông tại vùng Phú Quốc, An Thới, vì các vùng Market Time 9 đều do Vùng 4 Duyên Hải trách nhiệm, các WPB của Phân Đội 11 được điều động đảm nhiệm những công tác tuần tiễu hành quân tại vùng mủi Cà Mau và Duyên Hải Năm Căn.(Hành quân Sea Float và Solid Anchor).

Hải Đội 4 Duyên Phòng được biệt phái 5 WPB từ Hải Đội 3 Cát Lở vào giửa năm 1970. Các WPB nầy hoạt động tại An Thới từ 1970 cho đến năm 1971. Liền sau trận bảo Hester thổi vào Duyên Hải phía Bắc của Nam Việt Nam, các WPB Việt Nam hiện diện tại vùng Phú Quốc và Vịnh Thái Lan được đưa ra Vùng 1 Duyên Hải để tăng cường và thay thế những WPB bị thiệt hại vì trận bảo nầy.

Không như ở các PCF-Duyên Tốc Đĩnh, thủy thủ đoàn sống trên căn cứ bờ hoặc trên các Tạm trú hạm. Thủy thủ đoàn của WPB sống và sinh hoạt trên tàu của mình.Hệ thống máy điều hòa trên tàu đã giúp cho thủy thủ đoàn chịu đựng nổi thời tiết của vùng Đông Nam Á

Các WPB khi đến Việt Nam còn sơn màu trắng.Ngay ngày tuần tiễu đầu tiên gần vĩ tuyến 17, WPB Point Orient đã bị bắn bằng súng cối và súng liên thanh. Tàu màu trắng là mục tiêu dễ thấy trong đêm sáng trăng và ánh sáng hỏa châu. Ngày 21 tháng 9 năm 1965, CHT Lực lượng 115 liền chỉ thị cho các WPB phải sơn màu xám đậm. Point Orient chưa kịp thi hành, liền sau những chuyến tuần tiễu tiếp đó, chiến đĩnh bị tác xạ bởi chính đơn vị bạn, may mắn không có thiệt hại, WPB Point Orient lập tức được sơn màu xám đậm .

Hoạt động, tuần tiễu, hành quân của Duyên Tốc Đĩnh HĐ4DP.

1/ Bối cảnh lịch sử và tình hình xâm nhập vũ khí bằng đường biển của Việt Cộng.

Vào những năm đầu của thập niên 60,nhận thấy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, với một lực lượng Hải Lực yếu kém vì thiếu phương tiện không thể đảm nhiệm một cách hoàn hảo việc canh phòng một bờ biển dài từ vĩ tuyến 17 đến biên giới Việt Nam ở vùng Vịnh Thái Lan, cho nên HQHK đã dùng một số chiến hạm của Đệ Thất Hạm đội tuần tiểu chận xét ghe thuyền trên Duyên Hải Việt Nam, mục đích ngăn chận sự xâm nhập vũ khí bằng đường biển và yểm trợ Hải Pháo.

Tháng 2 năm 1965, một tàu Cộng Sãn xâm nhập tiếp tế vũ khí bị phát hiện và bị đánh chìm tại Vũng Rô. Ta tịch thu được 100 tấn vũ khí, đạn dược được chế tạo tại Liên Sô và Trung Quốc. Đây là một bằng chứng là Cộng Sản đã dùng đường biển để tiếp tế và xâm nhập vào miền Nam.

Riêng về miền cực Nam và vùng Vịnh Thái Lan, những địa danh Cà Mau, U Minh, duyên hải tỉnh Rạch Giá, biên giới Việt Nam (Hà Tiên) và lãnh thổ Kampuchea, phía Bắc Đảo Phú Quốc là những nơi xâm nhập người và vũ khí của Việt Cộng vào Việt Nam Cộng Hòa, và cũng là những mật khu Việt Cộng.                  

Sau biến cố Vũng Rô, Hải Quân Hoa kỳ đề ra kế hoạch Hành Quân Market Time và phân ra những vùng tuần tiểu dọc theo Duyên Hải Việt Nam.

Lưc lượng Đặc Nhiệm 115 (CTF 115) được thành lập vào ngày 30 tháng 7 năm 1965 với 5 Trung Tâm Kiểm soát Duyên Hải (CSC) tại Đà Nẳng,Qui Nhơn,Nha Trang,

Vũng Tàu và An Thới để điều hành và giúp phối hợp các lực lượng tuần tiểu trên biển như các phân đội 11, 12 ,13 và 14 WPB và PCF.

Tại những vùng Duyên Hải, việc tuần tiễu từ bờ ra phía ngoài trong vòng 10 hải lý sẽ do những chiến đĩnh như PCF và WPB, ghe Duyên Đoàn đãm nhận. Phía ngoài là những Tuần Duyên Hạm (PGM), Hộ Tống Hạm (PCE,PCER), Khu Trục Hạm (DER), Tuần Dương Hạm (WHEC),tàu rà mìn  (MSO) của HQVN và HQHK trách nhiệm.

Các WPB và PCF báo cáo cho các MSO, Khu Truc Hạm,và những chiến hạm khác ở vòng ngoài cũng như về các Trung Tâm Kiểm soát Duyên Hải. Các chiến hạm vòng ngoài sẽ cung cấp tin tức cho WPB, PCF về các mục tiêu Radar, thông tin về hải hành.

Trong khi đó các PCF và WPB sẽ liên lạc cho tin đến các ghe Duyên Đoàn,yểm trợ Hải Pháo khi cần thiết.

Phân Đội 11 WPB của Hoa Kỳ đến vùng Phú Quốc liền bắt đầu công tác tuần tiễu cho Hành Quân Market Time. Ưu tiên cho kế hoạch hành quân nầy là:

                    1/ Kiểm soát sự di chuyễn của ghe tàu trong vùng trách nhiệm.

                    2/ Lục soát các ghe đang đánh cá trong vùng cấm.

                    3/ Kiểm soát các ghe đánh cá đang neo,chờ kéo lưới.

                    4/ Kiểm soát các ghe đánh cá đang kéo lưới.

Chỉ trong tháng đầu tiên của cuộc hành quân, phân đội 11 đã khám xét trên 1000 ghe xuồng đánh cá và di chuyển, hơn 4000 người được khám xét.Hiệu quả của cuộc hành quân được thấy rõ, vì các ghe xuồng đánh cá thường xâm nhập vào những vùng cấm,một khu vực mầu mở cá tôm và thường bị chi phối bởi sự kiểm soát của Việt Cộng vì gần bờ và dễ thu lợi.

Việt Cộng đã mỡ một chiến dịch tuyên truyền là Hải Quân Mỹ và VNCH đuổi các ghe dân đánh cá ra chổ khác để dành cho các tàu đánh cá của Mỹ vào đánh cá tôm tại các vùng nhiều cá tôm nầy..Hải Quân VNCH và Hải Quân Hoa Kỳ, các ghe Duyên Đoàn phải dùng biện pháp Tâm Lý Chiến để đáp ứng bằng cách giải thích, phát những tài liệu hướng dẫn, các lá cờ VNCH, thuốc men, quà tặng cho dân đánh cá trong những chuyến tuần tiễu, chận xét.

Chỉ trong vòng hai tháng 5 và 6 của năm 1966, đã có hai tàu sắt của Bắc Việt bị các WPB phân đội 11 và chiến hạm bắn chìm và bắt giữ tại các cửa Bồ Đề và Ba Động.

Vũ khí trên tàu xâm nhập tại Ba Động bị ta tịch thu từ 8o đến 100 tấn. Những vũ khí nầy là để tiếp tế cho quân Bắc Việt và Việt Cộng không những dùng cho chiến truờng tại Quân Khu 4 mà còn dùng tại chiến trường Quân Khu 2.

II /  Hoạt động tuần tiễu và hành quân của PCF Hải Đội 4 Duyên Phòng.

Từ giữa năm 1968, sau  khi nhận lãnh 4 PCF đầu tiên, Hãi Đội 4 được giao hai vùng tuần tiễu Market Time 9F và 9G,vùng Rạch Giá và vùng Quần Đảo Bà Lụa , ngoài khơi  Kiên Lương. Sau đó với số lượng  6 PCF, nhận thêm hai vùng 9I và 9J/K .PCF của Hoa Kỳ và PCF Hải Đội 4 sau đó luân phiên thay đổi trên các vùng từ 9D đến 9L.

Bản đồ phân vùng tuần tiễu Market Time

                                                

Năm 1968, một năm đã để lại nhiều ấn tượng trong chiến tranh Việt Nam dưới mắt của người Việt Nam và người Mỹ. Trận Tổng Tấn công của Cộng Sản đã là dấu hiệu cho thấy Việt Cộng đã có mặt tại miền Nam với một lưc lượng đáng kể và có chiều hướng mở ra những trận đánh lớn tại các vùng mà chúng đang giữ thế mật khu an toàn, và những vùng dễ xâm nhập do vị trí địa lý và chánh trị,vũ khí mà cộng sản sử dụng cho thấy là những cuộc xâm nhập vũ khí và tiếp tế của họ phần lớn qua các cửa ngõ biên giới và đường biển..Qua cuộc tấn công nầy, măc dù sự thiệt hại của Việt Cộng là lớn với những tổn thất nhân mạng và vũ khí đã  làm chậm trễ những kế hoạch tấn công  lớn bắng chiến tranh qui ước trong tương lai, nhưng xét ra thì nó  đã dẫn  đến sách  lược tương lai của người Mỹ là  nhanh chóng giao lại trách nhiệm cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa  đảm trách cuộc chiến Việt Nam, rút bớt quân đội tham chiến, xoa dịu những chống đối của dân chúng, giữ ghế  cho những cấp lãnh đạo chánh trị và những người được dân cử tại Quốc Hội.

Phó Đô Đốc Zumwalt được thuyên chuyển đến Việt Nam trong thời gian nầy [8], ông muốn Hải Quân Hoa Kỳ trở nên có hiệu quả hơn và kế đến là thực hiện kế hoạch bàn giao trách nhiệm cho Hải Quân Việt Nam qua những chương trình và kế hoạch huấn luyện,  chuyển giao, thúc đẩy nhanh chóng việc thực hiện Việt Nam hóa cuộc chiến thi hành  kế hoạch của hành pháp Hoa Kỳ. [9]

Nhìn lại việc xâm nhập và tiếp tế vũ khí của Cộng Sản, ông đã mau chóng thiết lập kế hoạch và thực hiện những cuộc hành quân mang tên SEALORDS. Ngoài mục tiêu chận đứng việc xâm nhập, hành quân nấy còn chú trọng nhiều về việc bình định những vùng mà trước kia là những vùng kiểm soát và  là mật khu của Việt Cộng.

Riêng tại Vùng 4 Duyên Hải, vùng biên giới Miên và Hà Tiên là nơi đang được Cộng Sãn dùng để xâm nhập cán bộ và vũ khí vào lãnh thổ  Việt Nam qua cửa ngõ hải cảng Kompong Som. Chánh quyền Sihanouk đang làm ngơ và thầm liên kết với Hà Nội dùng nơi nầy để tiếp nhận vũ khí của các nước Cộng Sãn tiếp tế cho các lực lượng võ trang của Bắc Việt tại miền Nam.

Các PCF Hoa Kỳ được lệnh vào sông Giang Thành và Kinh Vĩnh Tế, thời gian giữa tháng 10 năm 1968, đây là bước đầu tiên của cuộc hành  quân SEALORDS [10] (hành quân Trần Hưng Đạo) vào tháng 11 năm 1968.

Nguyên vào ngày 14 tháng 10 năm 1968, PCF 3 của Hoa Kỳ biệt phái Hà Tiên, được tin có một trạm thu thuế của Việt Cộng đang hoạt động trên sông Giang Thành, cách Hà Tiên một khoảng cách ngắn. Thuyền Trưởng PCF 3 là Trung úy Bernique đang nghỉ bến tại Hà Tiên bèn khởi hành đến nơi để ngăn chận. Nhân viên thu thuế Việt Cộng và 7 Du Kích đang làm việc đã ngạc nhiên khi thấy sự xuất hiện của PCF và chỉ nổ súng khi thấy lá cờ Mỹ, lúc đó chỉ cách nhau khoảng 30 m. PCF bắn trả, 3 VC  chết tại trận. Nhiều giấy tờ, tài liệu và vũ khí được tịch thu.Đây là vùng mà PCF không được phép hiện diện cho nên sự việc nầy đã bị Quốc Trưởng Cam-Bốt là Sihanouk phản đối, và cho là thường dân Miên bị Mỹ sát hại. Trung Úy Bernique được gởi về Saigon để điều tra và sau đó được Đô Đốc Zumwalt ban thưởng huy chuơng thay vì tờ giấy phạt.

Hai ngày sau, tức là ngày 16 tháng 10, Đô đốc Zumwalt đã chỉ thị PCF vào tuần tiễu sông Giang Thành cho đến đầu nối của Kinh Vĩnh Tế với sông nầy. Chỉ nội trong 5 ngày đầu tiên, Việt Cộng đã phản ứng bằng một cuộc chạm súng giửa PCF và một đơn vị VC khoảng 2 Đại Đội.Sang tháng 12 thì các PCF Hoa Kỳ thường xuyên chạm súng với VC trong vùng. Tổng kết trong tháng 12/1968 có:

                                 3 HQHK và 1 HQVN chết.

                                28 HQHK và 1 HQVN  bị thương    

                                17 PCF bị thiệt hại nhẹ. Việt Cộng có 119 chết, 47 bị thương.

Các Duyên Tốc Đĩnh của Hải Đội 4 bắt đầu vào sông vào tháng 12 năm 1968. PCF 3802 và PCF 3805 đã được biệt phái Hà Tiên dài hạn để tuần tiễu trên sông Giang Thành cùng các PCF Hoa Kỳ.

PCF HQ.3802    PCF 3802 đang tuần tiểu trên sông Giang Thành đầu năm 1969. Hình chụp từ PCF 3805 ,2 PCF vùa được sơn lại tại Hà Tiên để đón Tết Nguyên Đán. Các số tàu chưa được vẻ lại vì sợ phai mất khi chạy nhanh (photo: Phung Hoc Thong)

Ngày 11 tháng 5 năm 1969, lúc 18.30 giờ, hai PCF 3802 và 3805 trong khi tuần tiểu trên sông Giang Thành đã bị Việt Cộng phục kích bằng B40 và đại liên. Các chiến đĩnh nầy chống trả . PCF 3805 do  HQ Trung úy Trương Minh Hoàng làm thuyền trưởng đã trúng nhiều trái đạn B40, hệ thống truyền tin và Radar bất khiển dụng, một nhân viên bị thương, trên PCF 3802 một nhân viên bị thương nơi sân sau.Việt Cộng đã bắn trên 40 trái đạn B 40 trên một đọan sông dài 50 thước. [11]

Các PCF Hải Đội 4 và các PCF Hoa Kỳ thường xuyên bị phục kích trên đoạn đường từ ấp Trà Phô đến đoạn nối với Kinh Vĩnh Tế vào những lúc trời sập tối và khoảng giửa đêm.

Cũng vào thời gian cuối năm 1968, những cuộc tuần tiễu trong hành quân Search Turn đã đưa PCF Hoa Kỳ vào sông Cái Lớn, Rạch Giá. Các PCF Hải Đội 4 cũng đã tham dự. Ngày 27 tháng 12 năm 1968, 2 PCF Việt Nam đầu tiên vào sông Cái Lớn, hoạt động trên một đoạn đường dài 25 hải lý đến Chương Thiện.

Hải Đội 4 vì không đũ PCF tham dự hành quân Search Turn nên phần lớn các PCF Hoa Kỳ  trách nhiêm hành quân nầy cùng một số ghe Duyên Đoàn 43. Đôi khi những PCF Hải Đội đi tuần vùng 9D hoặc 9E, lúc mãn công tác và được thay thế thì được điều động vào sông Cái lớn hoạt động cho đến gần giửa đêm mới khởi hành về An Thới nghỉ bến.

Cuộc Hành quân vượt biên giới sang Cam Bốt năm 1970 tại vùng 4 Duyên Hải.

Dưới chiêu bài Trung Lập và thành viên của những nước phi liên kết,nước Cam Bốt, láng giềng của Việt Nam Cộng Hóa dưới sự lãnh đạo của Quốc Vương Sihanouk theo duổi một chánh sách thân Cộng Sãn,chống Hoa Kỳ. Ông đã để Bắc Việt dùng lãnh thổ Cam Bốt xâm nhập vũ khí và nơi trú đóng quân.

Tại Vùng Vịnh Thái Lan, vũ khí của khối Cộng Sãn công khai được đưa đến hải cảng Kompong Som và sau đó thì dùng biên giới Việt Nam Cộng Hòa và Cam Bốt để đưa sâu vào miền Nam.

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, Tướng Lon Nol đảo chánh Sihanouk bằng cách dùng áp lực bắt Quốc hội Cam Bốt bất tín nhiệm Sihanouk khi ông ta đang công du Pháp.

Lon Nol thành lập chánh phủ bang giao tốt với Hoa Kỳ.

Phùng Học Thông

Tháng12 năm 2007.


[1] Danh xưng Hải Đội 4 Duyên Phòng chỉ chánh thức được gọi khi Lực Lượng Duyên Phòng 213 được thành lập.Tuy nhiên Hải Đội 4 vì có thể coi như được thành lập trước các Hải Đội khác và ngay cả LLDP 213 cho nên tên gọi của đơn vị nầy  có sớm hơn.

[2] Mỗi PCF có hai Thủy Thủ đoàn, dể khi Thủy Thủ đoàn mãn công tác tuần tiễu về đến bến nghỉ ngơi thì Thủy Thủ đoàn thứ hai sẽ đi tuần trên PCF nầy sau khi được tiếp tế nhiên liệu, nước ngọt và đạn dược.

[3] Cùng lúc tại TTHL/Cam Ranh có 200 Thủy Thủ đoàn PCF được huấn luyện, các PCF Mỹ hàng tuần đến để đưa các thủy thủ đoàn đi tuần tiễu thực tập trên chiến đĩnh.

[4] Không ghi nhận được PCF 3814 được chuyển giao vào lúc nào. Người viết sẽ bổ túc khi đối chiếu và phối kiểm được tài liệu. Trong cuộc hành quân sang Kampuchea vào tháng 4 năm 1970, và cuộc di tản Kiều bào Việt Nam về Rạch Giá sau đó, chỉ có 12 PCF của Hải Đội 4 tham dự cùng 18 ghe Duyên Đoàn.Các WPB chỉ hiện diện ngoài khơi.

[5] PCF 1 và PCF 2 được sử dụng huấn luyện tại Coronado-California. Các PCF 7, PCF 8, PCF29, PCF 30 PCF 33, PCF 34 không thấy được sử dụng tại Việt Nam.Đó là những PCF được giữ lại để huấn luyện hoặc hoạt động tại Phi Luật Tân (theo Coastal Squadron One-Swift Boat Crew Directory ).

[6] PCF Mark III cùng có dặc tính như Mark I và Mark II, tuy rằng có rộng hơn hai loại trước một chút. Sau chiến tranh Việt Nam, HQHK đã cho đóng các loại PCF Mark IV và Mark V tại các xưởng đóng tàu Swiftships và Peterson với các PCF có chiều dài  63 foot và trọng tấn 33 tấn.

[7] J Moore.Captain. USN- Jane’s American Fighting Ships of the 20th century, xuất bản 1991.Nxb The Mallard Press (trang 306).

[8]W. C. McQuilkin, Lcdr,USN-Operation Sealords: A front in a frontless war, an analysis…1997..(trg18) Đô Đốc E. Zumwalt đến Việt Nam tháng 9 năm 1968. Khi ở Washington, ông có nhiều quan hệ với Paul Nitz là Bộ Trưởng Hải Quân cho nên biết được cuộc chiến không được công luận Mỹ hậu thuẩn. Ông nghĩ là  Đãng Cộng Hòa sẽ để ông có thời gian thực hiện kế hoạch trang bị và huấn luyện cho HQVN.

[9] HQHK có trên 38,000 người đang phục vụ tại các đơn vị  biển và sông trên chiến trường Việt Nam.

[10] Sealords tên của Chiến Dịch Hành Quân phối hợp giửa các đơm vị Việt Nam, Hoa Kỳ, với sự  yểm trợ của Không Quân. Chiến dịch Sealords có những cuộc hành quân sau:Hành quân ngăn chận Search Turn, vùng Rạch Giá –Long Xuyên, hành quân Trần Hưng Đạo vùng sông Giang Thanh và Kinh Vĩnh Tế, hành quân Giant Sling Shot vùng Mỏ Vẹt, hành quân Barrier Reef vùng Kinh Lagrange, Kinh Ong Lơn.

[11] Sáng sớm hôm sau ghe Duyên Đoàn 44 được PCF Hoa Kỳ yểm trợ đổ bộ khu vực chạm súng đã tìm thấy dấu vết của một cuộc chuyển quân qua sông từ hướng lãnh thổ Miên sang bờ của Việt Nam.

…………………………………………………………………………

Patrol Boat, River & Swift Boats (documentary)- Vietnam War

  • Patrol Craft Fast (pcf)

Home   Crews  Boat Tour  Boat Specs  81mm Mortar  Boat Background  An Thoi  Cam Ranh Bay  Qui Nhon  Chu Lai  Jungle Ball
Patrols  Hearts & Minds  Rules of Engagement  ROK’s and Shoals  Misfire  CosGrp 16  Sa Ky Victory  Sa Ky Aftermath  Duc Pho
SEALORDS  Cua Viet  Cua Dai  Ha Tien  Song Ong Doc Ambush  Silver Mace II  Sea Float  Sa Dec  Cambodia  VNN Turnover
Swift Boat Story  Swifts at War  Capsized  Gugliotta  Nguyen Charlie  Malta  PCF-104  VUMM  Epilogue  Links  email  GuestBook

Lịch sử quân chủng Hải Quân VNCH

 

(Trích trong phần sưu tầm trong trang mạng của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH vùng Hoa Thịnh Đốn)

Những nhà nghiên cứu hải sử có mặt tại khúc quanh lịch sử Việt Nam, ngày 30 Tháng Tư năm 1975, đều thừa nhận mặc dù đột ngột tan hàng, song Hải Quân VNCH đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng của Tổ Quốc Việt Nam giao phó bảo vệ tự do cho dân tộc trong suốt quá trình ngăn chận làn sóng đỏ do Đảng cộng sản VN phát động thành một cuộc chiến nghiệt ngã huynh đệ tương tàn. Suốt quá trình 23 năm bảo vệ nước, căn cứ vào những mốc thời gian quan trọng thì thành quả đạt được của quân chủng có thể chia làm 3 giai đoạn; đặc biệt chú trọng đến sự lớn mạnh của Giang Lực và Duyên Lực:

  • Giai đoạn khó khăn hình thành
  • Giai đoạn chậm chạp phát triển
  • Giai đoạn nhanh chóng bành trướng

1. Giai đoạn khó khăn hình thành (1952-1957)

Ngày lịch sử đau buồn mùng 1 Tháng Chín năm 1858 cũng là ngày đánh dấu khởi điểm suy tàn của triều đại Nhà Nguyễn, khi Ðề Đốc (Hải Quân Thiếu tướng) Charles Rigault de Genouilly (1) chỉ huy 2,500 lính viễn chinh Pháp và 1,000 lính thuộc địa Tây Ban Nha với 14 chiến hạm vào cửa Đà Nẵng bắn chìm các chiến thuyền Việt Nam, chiếm các pháo đài bán đảo Sơn Trà rồi giao cho Hải Quân Ðại Tá Toyon trấn giữ. Ðến ngày 11 Tháng Hai năm 1859, De Genouilly lại dẫn các chiến hạm trên vô cửa Cần Giờ đánh tan các chiến thuyền và đồn bót do Ðề Ðốc Trần Trí đang tổ chức phòng thủ tại vịnh Gành Rái. Thừa thắng tiến lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859, quân Pháp lại tấn công đổ bộ qui mô từ bờ sông vào thành Gia Ðịnh. Thành vỡ, Án Sát Lê Tứ và Hộ Ðốc Vũ Duy Ninh đều tuẫn tiết. Còn lại Ðề Ðốc Trần Trí, Bố Chánh Vũ Trực cùng Lãnh Binh Tôn Thất Năng rút tàn quân về cố thủ huyện Bình Long.

Vào giữa thế kỷ thứ 19, hạm đội Pháp được các sử gia Tây phương đánh giá là hạm đội tối tân nhất trong các cường quốc Hải Quân Châu Âu đang săn tìm thuộc địa. Các chiến thuyền lỗi thời của thủy quân Triều Nguyễn hành thủy từ những năm vua Gia Long phục quốc thống nhất sơn hà 1802, nên không đủ khả năng đương cự lại.

Qua hai trận thủy chiến mà tương quan kỹ thuật tác chiến quá chênh lệch như vậy thành ra quân ta thất trận hoàn toàn và thủy quân triều Nguyễn coi như thật sự bị xóa sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua Tự Ðức việc huấn luyện thủy quân rất được chú trọng đến.

Giở lại những trang quân sử thành lập Quân Lực VNCH (2), nếu gác bỏ ra ngoài những tai tiếng không tốt mà đối phương đã tuyên truyền về nếp sống xa hoa của cựu hoàng Bảo Ðại lưu vong, người đọc sẽ thông cảm được quyết tâm cao tạo dựng một quốc gia Việt Nam (QGVN) độc lập, qua quyển CON RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối cùng triều đại nhà Nguyễn.

Trải qua nhiều giai đoạn thương thuyết rất cam go với chính quyền thực dân Pháp, cựu hoàng Bảo Ðại hết sức kiên nhẫn với tập đoàn thống trị để họ chấp nhận một nước Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp được hình thành.

Ngày mùng 5 Tháng Sáu năm 1948, hiệp định sơ bộ Vịnh Hạ Long (dẫn đến hiệp định Elysée sau này) ký kết giữa Toàn Quyền Ðông Dương Emile Bollaert và Thủ Tướng lâm thời Nguyễn Văn Xuân có cựu hoàng phó thư (countersign) trên chiến hạm Duguay Trouin thừa nhận nguyên tắc độc lập và thống nhất của nước Việt Nam với Quốc kỳ: Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc ca: Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước. (3).

Nhưng rồi Quốc Hội Pháp cứ làm ngơ, viện cớ chưa tìm được qui chế thích hợp cho Nam Kỳ, mãi đến ngày 8 Tháng Ba năm 1949 mới thuận cho Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Ðại chính thức ký hiệp định Elysée chấp nhận nước Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp có tổ chức hành chánh riêng, tài chánh riêng, tư pháp riêng, quân đội riêng và Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc (4).

Như vậy, cực chẳng đã chính phủ Pháp đành phải trao trả nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho vị nguyên thủ của nước Việt Nam là Quốc trưởng Bảo Ðại. Dĩ nhiên hiệp định này đi ngược lại quyền lợi của nước Pháp, vì thực dân Pháp chỉ muốn cai trị nước ta như trước kia mà thôi.

Thực thi Hiệp Định Elysée, thỏa ước quân sự Pháp-Việt ngày 30 Tháng Mười Hai năm 1949 về Hải Quân lại bị trì trệ kéo dài đến giữa năm 1951, Ðô Ðốc Ortoli, tư lệnh Hải Quân Pháp ở Viễn Ðông mới được lệnh lập kế hoạch huấn luyện quân sự để chuyển giao đầu tiên 2 Hải Ðoàn Xung Phong cho Hải Quân Việt Nam. Chương trình chuyển giao các Trục lôi hạm (YMS), Giang pháo hạm (LSIL). Trợ chiến hạm (LSSL)… sẽ tiến hành vào những năm kế tiếp. Nhưng khi nắm quyền tổng chỉ huy hành chánh lẫn quân sự tại Ðông Dương, Thống Tướng Jean de Lattre de Tassigny (5) muốn Hải Quân Việt Nam hoàn toàn thống thuộc mọi mặt vào lục quân Pháp, chứ không phải là một quân chủng riêng như Ðô Ðốc Ortoli đã đề nghị. Viên tướng 5 sao này cho rằng một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân không thể nào đứng vững được vì thiếu cán bộ và chiến cụ.

Ngày 15 Tháng Tám năm 1951, Pháp đồng ý cho tuyển mộ khóa 1 Sĩ quan Hải Quân gồm 9 sinh viên – 6 theo ngành chỉ huy và 3 theo ngành cơ khí – phần đông là cựu sinh viên trường Thủy Văn Sài Gòn (Saigon Hydrography School); khóa hạ sĩ quan có 50 và đoàn viên là 300.

Còn về phía Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, dù bị chèn ép mọi mặt, Quốc Trưởng Bảo Ðại vẫn kiên trì tranh thủ xây dựng nền tảng bắt đầu từ con số không cho Quân Ðội Quốc Gia.

Kể từ sau ngày 24 Tháng Tám năm 1945 bị Hồ Chí Minh ép buộc thoái vị phải trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại diện Việt Minh Cộng Sản là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tại Ngọ Môn Huế, cựu hoàng hết sức thấm thía về việc hoàng triều không có một quân đội đủ mạnh để dẹp bỏ Việt Minh Cộng Sản trước rồi sau đó đẩy lui Phú-Lang-Sa và bảo vệ chủ quyền quốc gia trường tồn. Cho nên trong thông điệp ngày 15 Tháng Năm năm 1948 gửi cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, cựu hoàng tán thành đề nghị thành lập Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời và giao cho Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng trấn Trung phần (sau này đổi tên là Thủ hiến Trung Việt) Phan Văn Giáo (6) trọng trách xây dựng một Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam gồm đủ cả Hải, Lục và Không Quân. Cho đến năm 1949, Tổng Trấn Trung Phần Phan Văn Giáo đã thành công trong công tác tuyển mộ và huấn luyện cho tổ chức Việt Binh Ðoàn tại Huế. Sau Hiệp Định Elysée, lần lượt Vệ Binh Nam Phần và Bảo Chính Ðoàn Bắc Phần cũng được thành lập vào giữa năm 1950. Chính những đơn vị này là hạt nhân cơ bản cho tổ chức quân đội chính qui QGVN (The Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 Tháng Giêng năm 1951 (Dụ số 1 0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc lệnh cùng ngày (7).

Sinh sau đẻ muộn hơn 2 quân chủng Lục và Không Quân vì nghị định thành lập Hải Quân bị đình hoãn nhiều lần. Nhưng rồi do nhu cầu chiến cuộc, dụ số 2 đã cho phép Hải Quân ra đời ngày 6 Tháng Ba năm 1952, hồi tố đến ngày 1 Tháng Giêng năm 1952. Vào thời điểm này, muốn thành lập một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân mà không có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, không có các phương tiện huấn luyện nhân sự quả là một điều không tưởng. Không còn cách nào tốt hơn để đốt giai đoạn, ngoại trừ chính phủ QGVN dựa vào những cơ sở huấn luyện có sẵn của Hải Quân Pháp để đào tạo nhân viên tân tuyển của mình.

Cho nên trong khoảng thời gian từ năm 1951 đến năm 1953, hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên tiên khởi của Hải Quân Việt Nam phải theo thực tập (On the job training) trên các chiến hạm, chiến đỉnh của Hải Quân Pháp đang hoạt động ngoài biển cũng như trong sông.

Có thể nói những người tình nguyện gia nhập vào hàng ngũ Hải Quân Việt Nam trong hoàn cảnh quá khó khăn như vậy là những thanh niên quyết tâm bảo vệ quốc gia và ôm ấp mộng hải hồ. Với tinh thần yêu nước cao độ, nhẫn nhịn chịu đựng tập luyện vượt qua nhiều giai đoạn cực khổ, cuối cùng họ đã chứng tỏ được khả năng hoàn hảo về kỹ thuật, hành thủy và tác chiến để xứng đáng nhận lãnh đầu tiên 2 Hải Ðoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long vào giữa năm 1953 (8). Thái độ đối xử hòa nhã cùng nhiệt tình làm việc của tân thủy thủ đoàn Việt Nam khiến cho một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp quên đi nỗi bất bình về lá cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất phới bay trên các chiến đỉnh của họ mà họ còn nán lại phục vụ trong những ngày chót trước khi lên đường về nước.

Giờ đây, Hải Quân Việt Nam là một thực thể trong ước mơ của những chàng trai trẻ ham ra khơi, thíchlướt sóng; nhất là viễn dương xuất ngoại du học. Họ đã tạo được niềm tin vững mạnh cho Thủ tướng Ngô Ðình Diệm ban nghị định ngày 20 Tháng Tám năm 1955 thành lập Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) và chính thức bổ nhiệm HQ/Thiếu Tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ tư lệnh Hải Quân kiêm chỉ huy trưởng đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Riêng Hải Ðoàn 2 Xung Phong (Dinassault N0 2) được Tướng De Lattre ra lệnh thành lập từ đầu Tháng Hai năm 1951 theo nhu cầu cuộc chiến tại miền Trung châu Bắc việt vẫn trực thuộc Bộ Chỉ Huy Giang Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát nhập vào Hải Ðoàn 21 Xung Phong đầu năm 1955 khi vào Nam (9).

Ngày 16 Tháng Sáu năm 1954, chí sĩ Ngô Ðình Diệm về nước thành lập Chính Phủ do sự ủy nhiệm của Quốc Trưởng Bảo Ðại bằng sắc lệnh số 38/QT. Bởi những thế lực riêng biệt do quân đội Pháp cố tình tạo ra trước khi rút về nước theo hiệp định Genève ngày 21 Tháng Bảy năm 1954, quân đội QGVN bị chia rẽ thật trầm trọng. Theo Ðoàn Thêm trong tài liệu đã dẫn, ngày 21 Tháng Ba năm 1955, trên hệ thống đài phát thanh Pháp-Á cũng như đài phát thanh Quốc Gia Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm đã phải cương quyết tuyên bố:

“Phải thống nhất quân đội, không có lực lượng riêng biệt; phải thống nhất hành chánh, không có địa phương tự trị; phải thống nhất tài chánh, không thể thâu những sắc thuế do địa phương tự động đặt ra.”

Ngoại trừ quân đội Cao Ðài thực tâm qui thuận Chính phủ, ngày 28 Tháng Ba năm 1955, Thủ Tướng Diệm ra lệnh cho quân đội QGVN tấn công loại bỏ quân đội Bình Xuyên và ngày 5 Tháng Sáu năm 1955 loại trừ luôn quân đội Hòa Hảo.

Báo chí trong nước, ngoài nước thời đó đều ca ngợi tài lãnh đạo anh minh của Thủ Tướng Diệm; vì chỉ trong vòng một năm thôi mà ông đã gom được quân đội về một mối, chấm dứt nạn “Sứ quân thời thượng.” Thắng lợi này cũng dọn đường cho cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 Tháng Mười năm 1955 truất phế Bảo Ðại và suy tôn Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lên chức vụ Quốc Trưởng. Chủ Tịch Thượng Viện Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson cũng cổ vũ Tổng Thống Diệm là Churchill của thập niên… người lãnh đạo tiền phong cho nền tự do ở Ðông Nam Á…(10).

Dụ số 2 ấn định ngày 26 Tháng Mười năm 1955 là ngày Quốc Khánh của nền Ðệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và Quốc trưởng lấy danh hiệu là Tổng Thống VNCH. Quân Ðội QGVN trở thành Quân lực VNCH (The Republic of Vietnam Armed Forces = RVNAF).

Ðến cuối năm 1955, Hải Quân thuần túy Việt Nam có 3,858 người kể cả 1,291 Thủy Quân Lục Chiến với Tiểu đoàn 1 Quái Ðiểu và Tiểu đoàn 2 Trâu Ðiên.

Ðầu năm 1956, tổng thống VNCH chấp thuận dự án Giang Lực dự trù thành lập 5 Hải Đoàn Xung Phong, mỗi hải đoàn sẽ được trang bị:

  • 05 Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)
  • 04 Tiểu vận đỉnh LCVP (Landing craft vehicle and personnel)
  • 05 Hô-bo vận tốc nhanh (Hors bord)
  • 02 Quân vận hạm LCU (Landing craft utility)
  • 02 Tàu kéo quân cảng YTL (harbor craft)
  • 01 Giang pháo hạm LSIL (Landing ship infantry large) tăng phái.

Ðó là các Hải Ðoàn 21 Xung Phong (hậu cứ tại Mỹ Tho), Hải Ðoàn 23 Xung Phong (hậu cứ tại Vĩnh Long), Hải Ðoàn 24 Xung Phong (hậu cứ tại Cát Lái), Hải Ðoàn 25 Xung Phong (hậu cứ tại Cần Thơ) và Hải Ðoàn 26 Xung Phong (hậu cứ tại Long Xuyên).

Riêng về Hải Lực, đến cuối năm 1957, số chiến hạm được Pháp chuyển giao lên 21 chiếc gồm:

  • 05 Hộ tống hạm PC (Patrol Craft or submarine chaser) là:

HQ01 – Chi Lăng
HQ02 – Vạn Kiếp
HQ03 – Ðống Ða
HQ04 – Tuy Ðộng
HQ05 – Tây Kết

  • 03 Trục lôi hạm YMS (Yard MineSweeper) là:

HQ111 – Hàm Tử
HQ112 – Chương Dương
HQ113 – Bạch Ðằng.

  • 02 Trợ chiến hạm LSSL (Landing Ship Support Large) là:

HQ225 – Nỏ Thần (Nguyễn Văn Trụ)
HQ226 – Linh Kiếm (Lê Trọng Ðàm).

  • 05 Giang Pháo Hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large) là:

HQ327 – Long Ðao
HQ328 – Thần Tiễn
HQ329 – Thiên Kích
HQ330 – Lôi Công
HQ331 – Tấm Sét.

  • 04 Hải Vận Hạm LSM (Landing Ship Medium) là:

HQ400 – Hát Giang
HQ401 – Hàn Giang
HQ402 – Lam Giang
HQ403 – Ninh Giang

  • 01 Hỏa vận hạm YOG (Oiler) là:

HQ470.

  • 01 Huấn luyện hạm AKL (Loại tàu vận chuyển) là:

HQ451 – Quá Giang

2. Giai đoạn chậm phát triển (1958-1967)

Năm 1958 được chọn làm mốc thời gian vì những sự kiện quan trọng sau đây:

Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang được Pháp chuyển giao toàn bộ lại cho Hải Quân Việt Nam.

Hải Quân Việt Nam tăng lên 5,000 người

Khóa 8 Sĩ qian Nha Trang (Ðệ I Hổ Cáp) có 50 sinh viên nhập học với giáo sư, giảng viên và huấn luyện viên hoàn toàn là người Việt Nam.

Quân số Giang Lực gia tăng 50% cho 5 Hải Ðoàn Xung Phong trang bị 96 chiến đĩnh đủ loại.

Ðầu năm 1960, Bộ Tư Lệnh Hải Quân phúc trình đặc biệt lên Bộ Tổng Tham Mưu về Tiểu đoàn 603 Việt Cộng tức Tập Ðoàn Ðánh Cá Sông Gianh đã lén lút xâm nhập vào Duyên khu Đà Nẵng. Tổng Thống Diệm chấp thuận thành lập ngay 4 Ðội Hải Thuyền đầu tiên: Ðội 11 Cửa Việt, Ðội 12 Cửa Thuận An, Ðội 13 Cửa Tư Hiền, Ðội 14 Cửa Hội An. HQ/Ðại Úy Nguyễn Văn Thông (khóa 3 Sĩ Quan Nha Trang) chỉ huy huấn luyện 400 tuần viên sơ khởi cho 80 ghe đủ loại.

Năm 1962, Hải Ðoàn 22 Xung Phong được thành lập, HQ/Ðại Úy Huỳnh Duy Thiệp (khóa 7 Sĩ quan Nha Trang) là chỉ huy trưởng đầu tiên.

Ðến cuối năm này, lực lượng Hải Thuyền tăng lên 28 đội đóng dọc theo duyên hải với 800 tuần viên, rồi được cải danh thành Duyên Ðoàn khi quân số tăng lên đến 4,000 người.

Ðến đầu năm 1963, HQ/Ðại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân mở cuộc hành quân thủy bộ bình định Năm Căn: Chiến dịch Sóng Tình Thương

Bước ngoặt chính trị năm 1963:

Ðược sự ủng hộ của Ðại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge (vua tổ chức đảo chánh), các tướng lãnh Việt Nam đã làm cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 giết chết Tổng Thống Diệm và chấm dứt nền Ðệ I VNCH (11). Trong cuộc chính biến này, HQ/Ðại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân cũng bị một sĩ quan đàn em chối bỏ truyền thống quân chủng ám sát chết (12).

Vì không còn lãnh tụ nào sáng giá hơn ông Diệm, nên tình hình chính trị miền Nam trở nên bất ổn. Quân đội phân hóa, đảo chánh liên miên, sinh viên học sinh biểu tình hàng ngày. Lợi dụng tình trạng rối ren tại thành phố và hoang phế 7,000 ấp chiến lươc tại nông thôn, Việt Cộng gia tăng cường độ ám sát khủng bố và bắt đầu tổ chức đánh lớn cấp trung đoàn. Cuối năm này, Hải Quân mất luôn quyền chỉ huy Liên Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khi binh chủng thống thuộc này trở thành lữ đoàn tổng trừ bị do Trung Tá Lê Nguyên Khang làm tư lệnh và bị áp đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu về mọi mặt giống như binh chủng Nhảy Dù của Không Quân.

Ðến hết năm 1964, Hải Quân cũng chưa thoát khỏi quỹ đạo lục đục trên đây, các sĩ quan khóa 2 Nha Trang gồm HQ/Trung Tá Nghiêm Văn Phú, chỉ huy trưởng Hải lực; HQ/Trung Tá Ðỗ Quý Hợp, chỉ huy trưởng Giang Lực; HQ/Trung Tá Khương Hữu Bá, chỉ huy trưởng Duyên Lực; HQ/Trung Tá Ðặng Cao Thăng, (khóa 1 Brest), giám đốc Hải Quân Công Xưởng đồng lòng lật đổ Phó Ðề Ðốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải Quân về vụ thủy cước.

Sau ngày 8 Tháng Ba năm 1965, quân đội Hoa Kỳ đổ bộ lên hải cảng Đà Nẵng, Hải Quân có 7 Hải Ðoàn Xung Phong. Với bảng cấp số (SOP) mới 1965, Hải Ðoàn Xung Phong được cải danh là Giang Ðoàn Xung Phong (River Assault Group = RAG) có quân số 150 người. Sáu trong bảy Giang đoàn loại này được trang bị:

  • 01 Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor)
  • 01 Chiến đấu đỉnh (Combat Monitor)
  • 05 Trung vận đỉnh LCM6
  • 06 Tiểu vận đỉnh LCVP
  • 06 Xung kích đỉnh STCAN or FOM.

Riêng Giang đoàn 27 Xung Phong trang bị hơi khác biệt với 6 Giang đoàn kia: 01 Giang đỉnh chỉ huy + 01 Chiến đấu đỉnh + 06 Quân vận đỉnh LCM8 và 10 Tiểu đỉnh RPC (River Patrol Craft) (13). Quân số Giang lực lúc bấy giờ tăng thành 1,150 người kể cả Bộ Chỉ huy Giang lực và 3 Ban Chỉ Huy hành chánh Liên Giang Đoàn (type).

Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965 được gọi là Ngày Quân Lực do sắc lệnh của Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (tương đương với thủ tướng chính phủ) Nguyễn Cao Kỳ ban hành để chấm dứt thời kỳ khủng hoảng chính trị kéo dài. (14).

Gần cuối năm, lực lượng Hải Thuyền 4,000 người được sáp nhập vào Hải Quân. Tuần viên cải danh thành đoàn viên kèm theo cấp số chính thức cho mỗi duyên đoàn là 03 ghe chủ lực, 03 ghe di cư và 16 ghe chèo.

Trong 7 năm đầu, Hải Quân tiến triển chậm chạp nhưng trong 3 năm sau, Hải Lực đã nhận thêm một số chiến hạm đáng kể:

  • 03 Trục lôi hạm MSC (Mine Sweeper Craft) là:

HQ114 – Hàm Tử II
HQ115 – Chương Dương II
HQ116 – Bạch Ðằng II.

  • 01 Hộ tống hạm PC là:

HQ06 – Vân Ðồn.

  • 02 Hộ tống hạm PCE (Patrol Craft Escort) là:

HQ07 – Ðống Ða
HQ12 – Ngọc Hồi

  • 04 Hộ tống hạm MSF (Mine Sweeper Fleet) là:

HQ08 – Chi Lăng II
HQ09 – Kỳ Hòa
HQ10 – Nhựt Tảo
HQ11 – Chí Linh.

  • 03 Hải vận hạm LSM (Landing Ship Medium) là:

HQ404 – Hương Giang
HQ405 – Tiền Giang
HQ406 – Hậu Giang.

  • 03 Dương vận hạm LST (Landing Ship Tank) là:

HQ500 – Cam Ranh
HQ501 – Đà Nẵng
HQ502 – Thị Nại.

  • 20 Tuần duyên hạm PGM (Patrol Gunboat) là:

HQ600 – Phú Dự
HQ601 – Tiên Mới
HQ602 – Minh Hòa
HQ603 – Kiến Vàng
HQ604 – Keo Ngựa
HQ605 – Kim Quy
HQ606 – May Rút
HQ607 – Nam Du
HQ608 – Hoa Lư
HQ609 – Tổ Yến
HQ610 – Ðịnh Hải
HQ611 – Trường Sa
HQ612 – Thái Bình
HQ613 – Thị Tứ
HQ614 – Song Tử
HQ615 – Tây Sa
HQ616 – Hoàng Sa
HQ617 – Phú Quý
HQ618 – Hòn Trọc
HQ619 – Thổ Châu.

  • 02 Hỏa Vận Hạm YOG là:

HQ471
HQ472.

  • 05 Trợ chiến hạm LSSL là:

HQ227 – Lê Văn Bình
HQ228 – Ðoàn Ngọc Tảng
HQ229 – Lưu Phú Thọ
HQ230 – Nguyễn Ngọc Long
HQ231 – Nguyễn Ðức Bổng

Như vậy, vào cuối năm 1967, Hải Lực có tổng số chiến hạm là 64 chiếc.

3. Giai đoạn nhanh chóng bành trướng (1968-1975)

Ðầu năm 1968, Việt Cộng mở cuộc Tổng Nổi Dậy, công kích trên toàn lãnh thổ VNCH; Hải Quân với quân số 30,000, kể cả 7,500 sĩ quan, không những bảo toàn được lực lượng đông đảo như vậy mà còn yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn tái chiếm nhiều vị trí bị lọt vào tay địch trong những ngày Tết Mậu Thân.

Cũng trong năm này, 3 trung tâm huấn luyện được phân nhiệm rõ rệt: Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang đào tạo sĩ quan, Trung Tâm Huấn Luyện Cam Ranh dành cho hạ sĩ quan và đoàn viên, Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc Sài Gòn trau dồi thêm kiến thức chuyên môn cho các cấp.

Ðến năm 1969, để theo kịp chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” (Accelerated turnover to the Vietnamese = ACTOV), Bộ Tư Lệnh Hải Quân tổ chức Hành Quân Lưu Ðộng Biển và Hành Quân Lưu Ðộng Sông. Trong tổ chức Hành Quân Lưu Ðộng Sông, 3 Lực lượng tác chiến trong sông được thành lập:

  • Lực lượng Thủy Bộ, tổ chức hành chánh (type) đóng tại Bình Thủy, khi trở thành Ðặc Nhiệm (Task) gọi là Lực Lượng Ðặc Nhiệm 211.
  • Lực Lượng Tuần Thám, tổ chức hành chánh đóng tại Mỹ Tho, khi trở thành Ðặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Ðặc Nhiệm 212.
  • Lực Lượng Trung Ương, tổ chức hành chánh đóng tại Ðồng Tâm, khi trở thành Ðặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Ðặc Nhiệm 214.

Tư lệnh Hải Quân vùng IV Sông Ngòi kiêm tư lệnh Hạm Ðội Ðặc Nhiệm 21 khi chỉ huy cả 3 lực lượng trên cùng 7 Giang Ðoàn Xung Phong và các cơ sở tiếp vận trong vùng châu thổ [Sông] Cửu Long, quân số lên đến 10,500 người. Tư lệnh vùng III Sông Ngòi có 5 Giang đoàn Xung Phong cơ hữu, cũng được sự tăng phái của các lực lượng đặc nhiệm 211, 212 và 214. (15)

Hoàn tất chương trình ACTOV năm 1972, Hành Quân Lưu Động Biển đã nhận thêm 20 chiến hạm:

  • 04 Dương Vận Hạm LST là:

HQ503 – Vũng Tàu
HQ504 – Qui Nhơn
HQ505 – Nha Trang
HQ800 – Mỹ Tho

  • 02 Cơ Xưởng Hạm LST là:

HQ801 – Cần Thơ
HQ802 – Vĩnh Long

  • 01 Hộ Tống Hạm MSF là:

HQ13 – Hà Hồi

  • 01 Hộ tống hạm PCE là:

HQ14 – Vạn Kiếp.

  • 03 Hỏa Vận Hạm YOG là:

HQ472
HQ473
HQ475.

  • 02 Khu trục hạm tiền thám DER (Destroyer Radar Picket Escort) là:

HQ1 – Trần Hưng Ðạo
HQ4 – Trần Khánh Dư

  • 07 Tuần dương hạm WHEC (White High Endurance Cutter) là:

HQ2 – Trần Quang Khải
HQ3 – Trần Nhật Duật
HQ5 – Trần Bình Trọng
HQ6 – Trần Quốc Toản
HQ15 – Phạm Ngũ Lão
HQ16 – Lý Thường Kiệt
HQ17 – Ngô Quyền

  • 05 Hải đội Duyên Phòng được chuyển giao 26 Tuần duyên đỉnh WPB (Coastal Patrol Boat) đánh số từ HQ700 đến HQ725 và HQ107 Duyên tốc đỉnh PCF (Patrol Craft Fast).

Cuối năm 1972, quân số Hải Quân VNCH tăng thành 41,000 người. Theo Jane’s Fighting Ships 1972-1973, HQ/Ðại tá John More xếp sự lớn mạnh của lực lượng Hải Quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường quốc Hải Quân trên thế giới.

Ðầu năm 1975, lực lượng Hải Quân VNCH gồm:

  • 05 vùng Duyên hải với 133 chiến đỉnh và 500 ghe đủ loại
  • 02 vùng Sông ngòi và 03 lực lượng tác chiến trong sông với trên 950 chiến đỉnh đủ loại
  • Hạm đội Biển với 84 chiến hạm
  • Quân số: 43,000 người.

Giữa Tháng Tư năm 1975, ngay sau khi trở lại nhậm chức tư lệnh Hải Quân lần thứ hai, Phó Ðô Đốc Chung Tấn Cang chỉ định HQ/Ðại Tá Lê Hữu Dõng thành lập cấp tốc Lực Lượng Ðặc Nhiệm 99 với sự phối hợp của các Giang đoàn 22 Xung Phong, Giang đoàn 42 Ngăn Chặn và Giang Ðoàn 59 Tuần Thám gồm khoảng 50 chiến đỉnh để giải tỏa áp lực địch trong phạm vi trách nhiệm của Hải Quân.


Chú thích:

(1) Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài Gòn thư xã 1962. Chương 7: Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ (từ trang 480 đến trang 492).

Nguyễn Hợp Minh. Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam. Melbourne 2000. Tập 6, trang 285 288.

Ðúc kết tóm lược: Sau khi ký hiệp ước Thiên Tân ngày 27 Tháng Sáu năm 1858 với Trung Hoa, Chính Phủ thực dân Pháp chỉ định Ðề đốc Rigault de Genouilly điều động 13 chiến hạm Pháp và 01 chiến hạm Tây Ban Nha do HQ/Ðại tá Lanzarote làm Hạm trưởng, kéo sang xâm lược Việt Nam. De Genouilly được phong chức Phó Thủy sư Ðô đốc, Tổng chỉ huy Lực lượng Thực dân Viễn chinh tại nước ta từ ngày 1 Tháng Chín năm 1858 đến ngày 1 Tháng Mười Một năm 1859.

(2) Bộ Tổng tham mưu phòng 5. Quân sử tập 4: Quân lực hình thành 1946-1955. Sài Gòn 1972.

(3) Ðoàn Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày. Sài Gòn 1966, trang 44-45.

(4) Ðoàn Thêm. Tài liệu đã dẫn, trang 52.

(5) Ðoàn Thêm ghi nhận trang 82, tài liệu đã dẫn: Từ nay, quân đội VN thuộc hẳn quyền Quốc Trưởng Bảo Ðại, nhưng có cơ quan liên lạc với quân đội Liên Hiệp Pháp.

Cũng ngày hôm đó, Thống Tướng 5 sao Jean de Lattre de Tassigny, được Chính Phủ Pháp cử sang làm Tổng Tư Lệnh Quân Ðội kiêm Cao Ủy Pháp tại Ðông Dương.

(6) Trung Tướng Tôn Thất Ðính. Hồi ký 20 năm binh nghiệp. CA Chánh đạo 1988, trang 29-30.

Ðoàn Thêm. Tài liệu đã dẫn, trang 44, 57, 69 và 112.

Ðúc kết tóm lược: Ông Phan Văn Giáo, một nhân vật thân tín của Cựu Hoàng Bảo Ðại, tuy không tốt nghiệp một trường võ bị nào nhưng có khả năng rất cao về tổ chức quân đội, giúp Quân Ðội VNCH sớm hình thành. Qua nhiều chính phủ từ Nguyễn Văn Xuân đến Nguyễn Văn Tâm, ông đã được giao phó nhiều chức vụ thật quan trọng:

Ngày 2 Tháng Sáu năm 1948: Quốc vụ khanh, tổng trưởng kiêm tổng trấn Trung Phần, đặc trách thành lập Việt Binh Ðoàn.

Ngày 3 Tháng Bảy năm 1949: Thủ hiến Trung Việt bành trướng Việt Binh Ðoàn thành Quân Ðội QGVN.

Ngày 4 Tháng Tư năm 1950: Tổng thanh tra Quân Đội QGVN với cấp bậc trung tướng giả định (être assimilé au grade de Général), trực thuộc quốc trưởng (Sắc lệnh số 31/QT).

Ngày 25 Tháng Sáu năm 1952: Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng thông tin.

(7) Ðoàn Thêm. Tài liệu đã dẫn, trang 86.

(8) Hải Đoàn Xung Phong, Hải Quân Pháp gọi là DINASSAUT (Division Naval d’assault), xin xem phần quan niệm về tổ chức Dinassault trong tập này, trang… Lúc Pháp chuyển giao, các Hải đoàn chưa có số nên tạm thời lấy tên địa phương đồn trú. Hải Đoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long, mỗi đơn vị nhận:

01 Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor LCM6)

02 Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)

02 Tiểu vận đỉnh LCVP (Landingcraft Vehicle and Personnel).

(9) HQ/Trung Tá Vũ Hữu San. Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. Tài liệu chuyển cho Hội Ðồng Hải Sử 2000, trang 4-6.

(10) Karnow, Stanley. Viuetnam a story. Viking London 1991, trang 222 ghi lại nhận định của Lyndon B. Johnson như sau: “President Diem is the Churchill of the decade… in the vanguard of those leaders who stand for freedom…”

(11) Karnow, Stanley. Tài liệu đã dẫn, nhận xét về Tổng Thống Diệm: “… into South Vietnam’s military and Police machinery, leaving only small fraction for economie development; and he was less interested in building an army to fight Viet Cong guerrillas than in forming conventional units that would protect him against his rival in Saigon…” Karnow cựu thông tín viên cho các tờ Times, Life và The Washington Post kiêm chủ nhiệm The New Republic về vấn đề Ðông Nam Á, nổi tiếng qua quyển “Mao and China” năm 1972 vì những sự thật được phơi bày trong đó. Nhưng đến quyển Vietnam a story xuất bản năm 1983, ông vấp phải nhiều sai sót nghiêm trọng, có lẽ vì không được ở Việt Nam lâu bằng ở Trung Cộng. Ðiển hình là ông không biết Liên Binh Phòng Vệ dinh Tổng Thống có mấy Tiểu đoàn và Lực lượng Ðặc biệt của Trung tá Lê Quang Tung có bao nhiêu đại đội thuộc Cần Lao? Ông cũng không biết đến quốc sách 7 ngàn ấp chiến lược với 8 triệu dân quân đang ngày đêm trực diện chiến đấu với cộng sản tại nông thôn hẻo lánh. Thành thử ông nhận định hàm hồ như vậy cũng phải!

(12) Nghi phạm ám sát HQ/Ðại Tá Hồ Tấn Quyền (khóa 1 Sĩ quan Nha Trang) là HQ/Thiếu Tá Trương Ngọc Lực (khóa 2 Sĩ quan Nha Trang). Các Tướng lãnh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 đã sai lầm trong quyết định dùng một sĩ quan đàn em sát hại sĩ quan đàn anh mà không đếm xỉa gì đến truyền thống quân chủng Hải Quân. Ngay khi nhận thấy hậu quả nghiêm trọng về cái chết của tư lệnh Hải Quân. Hội Đồng Tướng Lãnh vội vã thăng cấp trung tá Bộ Binh cho Lực rồi đẩy ra nước ngoài để tránh búa rìu nguyền rủa của cả Hải Quân vào thời đó.

(13) Tham chiếu quyết định của Hội Ðồng Tu Chính Hải Qui do Phó Ðề Đốc Lâm Nguơn Tánh làm chủ tịch, BTL/HQ/P5 ban hành một tài liệu căn bản về việc định danh (đặt tên) cho các chiến hạm và chiến đỉnh vào Tháng Sáu năm 1971. Tên các chiến đỉnh trong tập này được viết theo đúng tinh thần sự vụ văn thư đã phổ biến. Xin xem chương trình ACTOV trong tập này, trang…

(14) Trên thế giới, các quốc gia văn hiến chọn ngày truyền thống Quân Đội (Ngày Quân Lực) là ngày đề cao giá trị tinh thần bất khuất, anh dũng hy sinh và tình đoàn kết chiến đấu vì mục tiêu cao cả của người chiến binh mình. Úc Ðại Lợi (Australia) chẳng hạn, Lưỡng Viện Quốc Hội Úc đã chọn ngày 25 Tháng Tư hằng năm làm ngày ANZAC. Cái độc đáo của ngày Quân Lực Úc là ngày bại trận tổn thất đến 5,000 chiến binh nhưng lại nói lên tinh thần keo sơn đoàn kết, hào hùng chiến đấu của Liên Quân Úc và Tân Tây Lan trên chiến trường quá bất lợi Gallipoli (Thổ Nhĩ Kỳ) vào ngày 25 Tháng Tư năm 1915. Còn ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1965 của nền Ðệ II VNCH chỉ là ngày mà Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đồng ý với nhau mà thôi, không làm đảo chánh nữa vì đã loại bỏ chính quyền dân sự Phan Khắc Sửu (Tổng thống) và Phan Huy Quát (thủ tướng) rồi. Ngày truyền thống của Quân Lực VNCH mà chỉ có hai người quyết định giống như trong thời kỳ quân chủ chuyên chế. Thật hiếm thấy thay!

(15) Vùng III Sông Ngòi có 5 Giang Ðoàn Xung phong trực thuộc:

Giang Ðoàn 22 Xung Phong và Giang Ðoàn 28 Xung Phong hợp thành Liên Giang Ðoàn trú đóng tại Nhà Bè.

Giang Ðoàn 24 Xung Phong và Giang Ðoàn 30 Xung Phong hợp thành Liên Giang Ðoàn trú đóng tại Long Bình.

Giang Ðoàn 27 Xung Phong, tăng phái thường trực cho Ðặc khu Rừng Sát. Trú đóng tại Nhà Bè.

Vùng IV Sông Ngòi có 7 Giang Ðoàn Xung phong trực thuộc:

Giang Ðoàn 21 Xung Phong và Giang Ðoàn 33 Xung Phong hợp thành Liên Giang Ðoàn đồn trú tại Mỹ Tho.

Giang Ðoàn 23 Xung Phong và Giang Ðoàn 31 Xung Phong hợp thành Liên Giang Ðoàn đồn trú tại Vĩnh Long.

Giang Ðoàn 25 Xung Phong và Giang Ðoàn 29 Xung Phong hợp thành Liên Giang Ðoàn đồn trú tại Cần Thơ.

………………………………………………………………………………………….


TÀI LIỆU CHỌN LỌC THAM KHẢO

Tập này không có phần phụ đính danh mục (Index) để đồng nhất và dễ dàng tra cứu, tên các tác giả nước ngoài sẽ được ghi HỌ trước rồi mới đến TÊN giống như tên các tác giả Việt Nam, trong phần ghi chú.

  1. Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim. Sài Gòn Thư xã 1962.
  2. Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam – Nguyễn Hợp Minh. Melbourne 2000, tập 6.
  3. Quân sử – Bộ TTM/Phòng 5 1972, tập 4 quân lực hình thành Sài Gòn 1972.
  4. Hai Mươi Năm Qua, việc Từng Ngày 1945-1964 – Ðoàn Thêm. Sài Gòn 1966.
  5. Tôn Ngô binh pháp – Ngô Văn Triệu. Sài Gòn 1973.
  6. Trấn Hưng Ðạo binh thư yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris 1988.
  7. Hoạt động trong sông của Hải Quân VNCH. Phó Ðề đốc Ðặng Cao Thăng, bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000)
  8. Giang Ðoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Ðại Tá Lê Hữu Dõng, bài viết cho HS 2000
  9. Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết cho HS 2000
  10. Giang Ðoàn 26 Xung Phong. HQ/Trung Tá Trần Ðỗ Cẩm, bài viết cho HS 2000.
  11. Trận Ba Rài. HQ/Trung Tá Phan Lạc Tiếp, bài viết cho HS 2000.
  12. Trung Ðoàn U Minh Hạ. Ðộc Hành. Việt Luận số 297 Sydney 5/1988.
  13. Hồi ký 20 năm binh nghiệp. Trung tướng Tôn Thất Ðính. CA Chánh đạo 1988.
  14. Cuộc chiến dang dở. Tướng Trần Văn Nhựt. CA 2003.
  15. Việt Nam Máu Lửa. Nghiêm Kế Tổ. Mai Lĩnh Sài Gòn 1954.
  16. Kinh nghiệm chiến trường chống đặc công thủy. Ban Hải sử. BTL/HQ/P5 Sài Gòn 1970.
  17. 1945 Lạc đường vào lịch sử. Nguyễn Manh Côn. Giao điểm Sài Gòn 1965.
  18. Ðường mòn trên biển. Nguyễn Tư Ðương. Hà Nội 2002.
  19. The Ford Foundation Fellowship USA and France – Cao Thế Dung 1976.
  20. Reassessing the ARVN – Lewis Sorley. VN Magazine April 2003.
  21. Nation in arms – Greg Lockhart. Australia 1989.
  22. The Vietnam war for dummies – Ronald B. Frankum, Jr and Stephen F. Maxner. Wiley Publishing Newyork 2003.
  23. Vietnam war almanac – Harrys Summer Jr. USA 1982.
  24. Vietnam a history – Stanley Karnow. Viking Newyork 1983.
  25. Encyclopedia of the Vietnam war – Spencer C. Tucker. London 1999.
  26. Vietnam: A visual encyclopedia – Philip Gutzman. London 2002.
  27. The brown water navy – Victor Croizat. Blandford Press UK 1984.
  28. The naval war in Vietnam – Anthony Preston. USA 1985.
  29. Brown water, Black berets – Thomas J. Cutler. USA 1988.
  30. Dictionary of the Vietnam war by Marc Leepson with Hanaford. USA 1996.
  31. Victory at any cost – Cecil B. Currey. Great Britain 1997

…………………………………………………………………………….

Hình ảnh Hải quân VNCH của Nam Ròm