Chiến Ðĩnh Yểm Trợ và Chuyển Vận

Quân Vận Ðĩnh – 6 (LCM – 6  Landing Craft Mechanized – 6)
Quân Vận Ðĩnh – 3 (LCM – 3  Landing Craft Mechanized – 3)
Quân Vận Ðĩnh Tác Chiến (ATC – Armored Troop Carrier)
Quân Vận Ðĩnh – 8 (LCM – 8  Landing Craft Mechanized – 8)
Tiểu Vận Ðĩnh (LCVP – Landing Craft Vehicle Personnel)
Hỏa Vận Ðĩnh (LCM – Recharger)
  • HQ 9173
  • HQ 9174
  • HQ 9175
  • HQ 9176
  • HQ 9177
  • HQ 9178 (Biến cải từ LCM-6)
Hỏa Vận Ðĩnh (LCM – Refueler)
Trục Vớt Ðĩnh (CSB – Combat Salvage Boat)
  • HQ 1400
  • HQ 1401
  • HQ 1402
  • HQ 1403 (Biến cải từ LCM)
Hải Kích Ðĩnh (HSSC – Heavy Seal Support Craft)
Cứu Hỏa Ðĩnh (LCM – Fire)
Duyên Vận Ðĩnh 50 (UB-50Ft  Utility Boat)
Trợ Vận Ðĩnh Trung Hạng (YTM – Medium Harbor Tug)
Trợ Vận Ðĩnh Tiểu Hạng (YTL – Small Harbor Tug)
  • HQ 9500
  • HQ 9501
  • HQ 9502
  • HQ 9503
  • HQ 9504
  • HQ 9507
  • HQ 9508
  • HQ 9509
  • HQ 9510
  • HQ 9511
Quân Vận Ðĩnh Ðẩy (LCM – Pusher)
  • HQ 1002
  • HQ 1004
  • HQ 1013
  • HQ 1015 (Biến cải từ LCM-6)
Tiểu Vận Ðĩnh Ðẩy (LCVP – Pusher)
  • HQ 2002
  • HQ 2008
  • HQ 2009
  • HQ 2013
  • HQ 2067

Chiến Hạm Chuyển Vận và Yểm Trợ

Dương Vận Hạm (LST – Landing Ship Tank)

  • HQ 500 Cam-Ranh – USS Marion County, LST 975. Đóng bởi công ty Bethlehem Steel Co. Hingham, Massachusette. Hạ thủy ngày 6 tháng 1 năm 1945. Ngày chuyển giao không được ghi nhận.
  • HQ 501 Ðà-Nẵng – USS Maricopa County, LST 938. Đóng bởi công ty Bethlehem Steel Co. Hingham, Massachusette. Hạ thủy ngày 15 tháng 8 năm 1944. Không ghi nhận ngày chuyển giao cho HQ/VNCH
  • HQ 502 Thị-Nại – USS Cayuga County, LST 529. Đóng bởi công ty Jeffersonville B&M Co. Jeffersonville, Indiana. Hạ thủy ngày 17 tháng 1 năm 1944. Không ghi nhận ngày chuyển giao cho HQ/VNCH.
  • HQ 503 Vũng-Tầu – USS Cochino County, LST 603. Đóng bởi công ty Chicago Bridge & Iron Co. Illinois. Hạ thủy ngày 14 tháng 3 năm 1944. Không ghi nhận ngày chuyển giao cho HQ/VNCH.
  • HQ 504 Qui-Nhơn – USS Bullock County, LST 509. Đóng bởi công ty Jeffersonville B&M Co. Jeffersonville, Indiana. Hạ thủy ngày 23 tháng 11 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 6 năm 1970.
  • HQ 505 Nha-Trang – USS Jerome County, LST 848. Đóng bởi công ty Kaiser Co. Richmond California Hạ thủy ngày 2 tháng 1 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 6 năm 1970.)

Sáu Dương Vận Hạm trực thuộc BTL/Hạm Đội, trước kia cũng là những chiến hạm chuyển vận và đổ bộ chiến xa (LST= Tank Landing Ship) của Hải Quân Hoa Kỳ.
• Trọng tải: tối đa 4080 tấn,
• Kích thước: dài 328 ft, rộng 50 ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, 1700 mã lực mỗi động cơ,
• Vận tốc: trung bình 11 hải lý/giờ.
• Vũ khí trang bị: 2 khẩu 40 mm đôi, 5 khẩu 40 mm đơn, nhiều khẩu 20 mm. Thủy thủ đoàn: khoảng 110 người.

Yểm Trợ Hạm (AGP – Auxiliary General Purpose)

  • HQ 800 Mỹ-Tho – USS Harnett County, LST 821. Hạ thủy ngày 27 tháng 10 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 12 tháng 10 năm 1970.
  • HQ 801 Cần-Thơ – USS Garrett County, LST 786. Hạ thủy ngày 22 tháng 7 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 23 tháng 4 năm 1971.

Hai Yểm Trợ Hạm (AGP ) và một Cơ Xưởng Hạm HQ 802 (ARL ) trực thuộc BTL/Hạm Đội. Đây là những chiến hạm đỗ bộ chiến xa (LST) của Hải Quân Hoa Kỳ trước kia được cải biến thành chiến hạm yểm trợ kỹ thuật cho các chiến đỉnh trên sông cũng như duyên hải, đặc biệt cho chiến trường Việt Nam. Chi tiết về công ty đóng tàu cũng như quân số của thủy thủ đoàn không được ghi nhận.
• Trọng tải: tối đa 4080 tấn (AGP), và 4100 tấn (ARL).
• Kích thước: dài 328 ft, rộng 50 ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, 1700 mã lực mỗi động cơ,
• Vận tốc: trung bình 11 hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: 2 giàn 40 mm đôi, 4 khẩu 20 mm đơn.
Cơ Xưởng Hạm (ARL – Landing Craft Repair Ship)

  • HQ 802 Vĩnh-Long –  USS Satyr, LST 852. Hạ thủy ngày 13 tháng 11 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 15 tháng 10 năm 1971. HQ802 được cải biến với nhiều khả năng sửa chữa hơn hai chiến hạm đầu.

HQ802 Vĩnh Long, Cơ Xưởng Hạm được trang bị động cơ mạnh hơn: 1800 mã lực, và vận tốc trung bình cũng cao hơn là 11.6 hải lý/ giờ.
Hải Vận Hạm (LSM – Landing Ship Medium)

  • HQ 402 Lam-Giang – USS/LSM-226
  • HQ 403 Ninh-Giang – USS/LSM-85
  • HQ 404 Hương-Giang – USS Oceanside, USS/LSM-175. Hạ thủy ngày 12 tháng 8 năm 1944, chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 1 tháng 8 năm 1961.
  • HQ 405 Tiền-Giang – USS/LSM-313. Hạ thủy ngày 24 tháng 5 năm 1944, chuyển giao cho Hải Quân VNCH năm 1962.
  • HQ 406 Hậu-Giang –  USS/ LSM 276. Hạ thủy ngày 20 tháng 9 năm 1944, chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 10 tháng 6 năm 1965.

Bảy Hải Vận Hạm trực thuộc BTL/Hạm Đội, tiền thân là những chiến hạm đỗ bộ loại trung bình (LSM= Landing Ship, Medium) của Hải Quân Hoa Kỳ). HQ 400 (USS/LSM-335) và HQ 401 (USS/LSM-110) biến cãi thành Bệnh viện Hạm.
• Trọng tải: tối đa 1095 tấn,
• Kích thước: dài 203.5 ft, rộng 34.5ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, 2800 mã lực mỗi động cơ,
• Vận tốc: trung bình 12 hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: 2 khẩu đại bác 40 mm, 4 khẩu 20 mm.
Thủy thủ đoàn: khoảng 73 người.
Bệnh Viện Hạm (LSMH – Landing Ship Medium Hospital)

Hỏa Vận Hạm (YOG – Yard Oiler)

  • HQ 470 – YOG 80. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 1 năm 1951.
  • HQ 471 – YOG 33. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 8 năm 1963.
  • HQ 472 –  YOG 67. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 7 năm 1967.
  • HQ 473 – YOG 71. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 3 năm 1970.
  • HQ 474 – YOG 131. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1971
  • HQ 475 – YOG 56. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 6 năm 1972.

Sáu Hỏa Vận Hạm trực thuộc BTL/ Hạm Đội cũng là những chiến hạm chuyên chở nhiên liêu của Hải Quân Hoa Kỳ trước kia (YOG). Vũ khí trang bị cũng như tên của công ty đóng tàu và ngày hạ thủy không được ghi nhận.
• Trọng tải: lúc chưa nhận nhiên liệu là 450 tấn, lúc đầy nhiên liệu là 1253 tấn,
• Kích thước: dài 174 ft, rộng 32 ft.
• Vận chuyển: một động cơ diesel, không ghi nhận số mã lực,
• Vận tốc: trung bình 10 hải lý/ giờ.
• Khả năng chuyên chở: 6570 thùng dầu (barrels).
Thủy thủ đoàn: khoảng 30 người.
Thực Vận Hạm (YFR – Refrigerated Covered Lighter)

  • HQ 490 – Là chiến hạm chuyên chở thực phẩm để tiếp tế trong những trường hợp đặc biệt. Chiến Hạm được trang bị những phòng lạnh lớn và có khả năng tồn trử thực phẩm lâu dài. Những tin tức đặc biệt khác không được ghi nhận.

Duyên Vận Hạm (UB 100ft – Utility Boat 100 Feet)

    • HQ 454
    • HQ 455
    • HQ 456
    • HQ 457
    • HQ 458

Giang Vận Hạm (LCU – Landing Craft Utility)

  • HQ 533
  • HQ 534
  • HQ 535
  • HQ 536
  • HQ 537
  • HQ 538
  • HQ 539
  • HQ 540
  • HQ 541
  • HQ 542
  • HQ 543
  • HQ 544
  • HQ 545
  • HQ 547
  • HQ 548

Có 16 Giang Vận Hạm trước kia là những LCU (Landing Craft, Utility). Đây cũng là những chiến hạm đổ bộ nhẹ của Hải Quân Hoa Kỳ. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH từ năm 1954 đến năm 1971.
• Trọng tải: 320 tấn.
• Kích thước: dài 119 ft, rộng 32.7 ft.

Giang Vận hạm YFU – Harbor Utility Craft

• Vận chuyển: ba động cơ diesels, 675 mã lực mỗi động cơ,
• Vận tốc: trung bình 10 hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: 2 khẩu đại bác 20 mm.
Thủy thủ đoàn: khoảng 10 người.

Giang Vận Hạm (YFU – Harbor Utility Craft)

Trục Vớt Hạm (YLLC – Salvage Light Lift Craft)

Ba Trục Vớt Hạm cũng là những chiến hạm đổ bộ loại nhẹ (LCU) của Hải Quân Hoa Kỳ được cải biến thành tàu vớt với trang bị đặc biệt như neo loại lớn và chắc, air compressor, water pump, dụng cụ hàn vá. Chuyển giao cho HQ/VNCH năm 1971
Kiểm Báo Hạm (WLV – Lights Ship)

HQ460 là Kiểm Báo Hạm duy nhất của HQ/VNCH. Tiền thân là một chiến hạm Coast Guard loại nhẹ của Hoa Kỳ mang tên WLV- 523. Chuyển giao ngày 25 tháng 9 năm 1971, được tân trang thêm loại radar đặc biệt để đảm trách nhiệm vụ như một đài kiểm báo di động. Kiểm Báo Hạm HQ460 được đặt tên là Đài Kiểm Báo 304, Đá Bông. Các chi tiết khác về cơ xưởng đóng tàu, ngày hạ thủy cũng như các trang bị khác không được ghi nhận.

Chiến Hạm Tuần Dương và Tuần Duyên

Khu Trục Hạm (DER – Destroyer Escort and Ricket)

Hai Khu Trục Hạm (Destroyer Escorts) trực thuộc BTL/Hạm Đội. Trước kia là những chiếc DER (Destroyer Escort Radar) của Hải Quân Hoa Kỳ. Sau đây là những số liệu đáng chú ý:
• Trọng tải: tối đa 1850 tấn.
• Kích thước: dài 306 ft, rộng 36.6 ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, 6000 mã lực mỗi động cơ.
• Vận tốc: trung bình 21 hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: 2 khẩu đại bác 76 mm, đại liên 50, 6 giàn phóng thủy lôi 324 mm, 1 giàn hedgehog MK 15 depth charge.
Thủy thủ đoàn: khoảng 170 ngườiHQ1 Trần Hưng Đạo trước là USS Camp, DER 251. Đóng bởi công ty Brown SB Co. Houston, Texas. Hạ thủy ngày 16 tháng 4 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 6 tháng 2 năm 1971.
HQ4 Trần Khánh Dư trước là USS Forster, DER 334. Đóng bởi công ty Consolidated Steel Corp. Orange, Texas. Hạ thủy ngày 13 tháng 11 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 25 tháng 9 năm 1971.

Tuần Dương Hạm (WHEC – White High Endurance Cutter)

Bảy Tuần Dương Hạm (Frigate) dưới đây trực thuộc BTL/Hạm Đội. Trước kia là những chiếc Coast Guard Cutter của Lực Lượng Phòng Vệ Duyên Hải Hoa Kỳ.

Những số liệu đáng chú ý:
• Trọng tải: tối đa 2800 tấn.
• Kích thước: dài 310 ft, rộng 41.1 ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, 6080 mã lực mỗi động cơ.
• Vận tốc: trung bình 18 hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: một khẩu 127 mm, 1 hoặc 2 súng cối trực xạ 81 mm và nhiều súng đại liên.
• Thủy thủ đoàn: khoảng 200 người.

Hộ Tống Hạm (PCE – Patrol Craft Escort)

  • HQ 02  Ðống -Ða
  • HQ 06 Vân Đồn  là Hộ Tống Hạm duy nhất đặc biệt hộ tống các đoàn tàu buôn từ cửa biển Việt Nam đến Nam Vang, Cambodia. Trước kia là USS Anacortes PC 1569 một loại Coast Guard Cutter. Đóng bởi công ty Leathem D. Smith SB Co. Hạ thủy ngày 9 tháng 12 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH 23 tháng 11 năm 1960.
  • HQ 07  Ðống-Ða II (USS Crestview, PCE 895. Đóng bởi công ty Williamette Iron & Steel Corp. Portland, Oregon. Hạ thủy ngày 18 tháng 5 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 29 tháng 11 năm 1961)
  • HQ 08  Chi-Lăng II (USS Gayety, MSF 239. Đóng bởi công ty Winslow Marine Railway & SB Co. Winslow, Washington. Hạ thủy ngày 19 tháng 3 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1962)
  • HQ 09  Kỳ-Hòa (USS Sentry, MSF 299. Đóng bởi công ty Winslow Marine Railway & SB Co. Winslow, Washington. Hạ thủy ngày 15 tháng 8 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 8 năm 1962)
  • HQ 10  Nhựt-Tảo (USS Serene, MSF 300. Đóng bởi công ty Winslow Marine Railway & SB Co. Winslow, Washington. Hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 1 năm 1964. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo đã đi vào lòng đại dương trong trận hải chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa chống Hải Quân Trung Cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974.
  • HQ 11  Chí-Linh (USS Shelter, MSF 301. Đóng bởi công ty Winslow Marine Railway & SB Co. Winslow, Washington. Hạ thủy ngày 14 tháng 11 năm 1943. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 1 năm 1964)
  • HQ 12  Ngọc-Hồi (USS Brattleboro, EPCER 852. Đóng bởi công ty Pullman Standard Car Manufacturing Co. Chicago, Illinois. Hạ thủy ngày 1 tháng 3 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 11 tháng 7 năm 1966)
  • HQ 13  Hà-Hồi (USS Prowess, MSF 280. Đóng bởi công ty Gulf SB Corp. Chicasaw, Alabama. Hạ thủy ngày 17 tháng 2 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH ngày 4 tháng 6 năm 1970)
  • HQ 14  Vạn-Kiếp II (USS Amherst, PCER 853. Đóng bởi công ty Pullman Standard Car Manufacturing Co. Chicago, Illinois. Hạ thủy ngày 18 tháng 3 năm 1944. Chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 6 năm 1970)

Tám Hộ Tống Hạm trực thuộc BTL/Hạm Đội trong đó có 3 chiếc là PCE (Patrol Vessel- Escort), 5 chiếc khác là tàu vớt mìn MSF (Mine Sweeper) thuộc Hải Quân Hoa Kỳ.  Những số liệu cần biết:
• Trọng tải: tối đa từ 903 (PCE) đến 945 (MSF) tấn.
• Kích thước: dài 184 ft, rộng 33.1 ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, từ 1710 (MSF) đến 2000 (PCE) mã lực mỗi động cơ.
• Vận tốc: trung bình từ 14 (MSF) – 15 (PCE) hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: 1 đại bác 76 mm, đại liên 50, 2 khẩu 40 mm đơn, 4 khẩu 20mm đôi, 1 giàn depth charges.
Thủy thủ đoàn: khoảng 90 người.

Giang Pháo Hạm (LSIL – Landing Ship Infantry Light)

Bảng đặc trưng tàu LSIL:

-TT: (250 tấn tiêu chuẩn) -KT: (48.80 x 7.10 x 1.75) -VT: (14 hải lý/giờ) -TD: (5+50 người)

-VK: (1/40mm, 2/20mm, Mortar 81mm) -Phạm vi: (5.000 dặm/12 haỉ lý) -Máy: (2 dầu cặn – 1.600 mã ngựa – 2 chân vịt)

Trợ Chiến Hạm (LSSL – Landing Ship Support Large)

Tuần Duyên Hạm (PGM – Patrol Gunboat Motor)

  • HQ 600  Phù-Du (PGM-64/ Hoa Kỳ chuyển giao cho HQVNCH tháng 2 năm 1963)
  • HQ 601  Tiên-Mới (PGM-65/ HK chuyển giao cho HQVNCH tháng 2 năm 1963)
  • HQ 602  Minh-Hoa (PGM-66/ HK chuyển giao cho HQVNCH tháng 2 năm 1963)
  • HQ 603  Kiến-Vàng ( PGM 67/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 2 năm 1963)
  • HQ 604  Keo-Ngựa (PGM 68/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 2 năm 1963)
  • HQ 605  Kim-Quy (PGM 60/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 5 năm 1963)
  • HQ 606  Mây-Rút (PGM 59/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 5 năm 1963)
  • HQ 607  Nam-Du (PGM 61/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 5 năm 1963)
  • HQ 608  Hoa-Lư (PGM 62/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 7 năm 1963)
  • HQ 609  Tổ-Yến (PGM 63/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 7 năm 1963)
  • HQ 610  Ðịnh-Hải ( PGM 69/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 2 năm 1964)
  • HQ 611  Trường-Sa (PGM 70/HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1964). Chìm trong đêm di tản 29/4/1975.
  • HQ 612  Thái-Bình (PGM 72/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 1 năm 1966)
  • HQ 613  Thị-Tứ (PGM 73/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 1 năm 1966)
  • HQ 614  Song-Tử (PGM 74/ KH chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 1 năm 1966)
  • HQ 615  Tây-Sa (PGM 80/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 10 năm 1966)
  • HQ 616 Hoàng-Sa (PGM 82/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1967)
  • HQ 617  Phú-Quý (PGM 81/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1967)
  • HQ 618  Hòn-Trọc (PGM 83/ HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1967)
  • HQ 619  Thổ-Châu (PGM 91/HK chuyển giao cho Hải Quân VNCH tháng 4 năm 1967)

20 Tuần Duyên Hạm trực thuộc BTL/Hạm Đội, trước kia là những chiếc duyên pháo hạm (PGM= Patrol Gunboat, Medium) mà Hoa Kỳ đã đóng đặc biệt để chuyển giao cho nước ngoài. Những chiến hạm này xuất thân từ loại Coast Guard có kích thước hơi nhỏ hơn. Các chiến hạm được đóng từ hai công ty J.M. Martinac SB Corp. Tacoma, Washington và Marinette Marine Corp. Wisconsin. Những số liệu quan trọng được ghi nhận như sau:
• Trọng tải: tối đa 117 tấn.
• Kích thước: dài 100.33 ft, rộng 21.1 ft.
• Vận chuyển: hai động cơ diesels, 1900 mã lực mỗi động cơ,
• Vận tốc: trung bình là 17 hải lý/ giờ.
• Vũ khí trang bị: 1 khẩu 40 mm đơn, 4 khẩu 20 mm đôi, và nhiều súng đại liên.
Thủy thủ đoàn: khoảng 25 người.


Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí Kể Về Cuộc Hải Trình Cuối Cùng

13/05/2000

Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí (K7/NT)

Trong loạt bài “Chiến trường Việt Nam, 30 năm nhìn lại” đăng trên VB cách đây hai năm, chúng tôi đã lược trình về hoạt động của Hải quân VNCH vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, một phần của bài báo kỳ đó có trích lại vài đoạn bài hồi ký của phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí phổ biến vào giữa năm 1988 trên tạp chí KBC. Phó đề đốc Chí đã qua đời tại Hoa Kỳ vào mùa hè 1988 khi báo KBC chuẩn bị đăng bài hồi ký của ông. Từ cuối thập niên 50 đến những năm đầu của thập niên 70, ông là tác giả nhiều bài thơ hay đăng trên các tạp chí, tuần báo ở Sài Gòn với bút hiệu Hữu Phương.

Trong số báo kỳ này, VB trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài tóm lược toàn bộ nội dung hồi ký của phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí kể về cuộc hải trình cuối cùng của ông và đồng đội. Do bài hồi ký khá dài, trong phạm vi trang báo, chúng tôi cố gắng lược ghi lại những điểm chính, trong đó có một số chi tiết chưa trình bày trong loạt bài trước, và phần bổ sung vài chi tiết dựa theo tài liệu ký của cựu trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Phó Thủ tướng kiên Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của VNCH.

* Câu chuyện giữa ông Dương Văn Minh và Tư lệnh Hải quân
Theo lời của cựu trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi ký, vào ngày 29 tháng 4/1975, trước tình hình bi đát tại Sài Gòn, khoảng 10 giờ sáng, phó đô đốc (3 sao) Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân, đã báo cho ông Dương Văn Minh biết hiện tàu bè của Hải quân đủ để cho chính phủ và binh sĩ xuống miền Tây (các tỉnh ở Hậu Giang), Phú Quốc, Côn Đảo nhưng ông Minh cho biết chính phủ đang lo thương thuyết. Đến 4 giờ 30 chiều ngày 29/4/1975, ông Brochand, cố vấn chính trị tòa đại sứ Pháp đã báo cho ông Dương Văn Minh biết là Cộng sản Hà Nội không chịu nói chuyện với chính phủ của ông Minh nữa. 5 giờ chiều, ông Minh gọi phó đô đốc Chung Tấn Cang đến gấp. Ông Cang đã cử phó đề đốc (1 sao) Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Hải quân, gặp ông Dương Văn Minh. Ông Minh nói với vị tham mưu trưởng Hải quân:
– Tôi trao cho Hải quân toàn quyền hoạt động.

Ông Minh cũng nhờ phó đề đốc Thủy cho bà Minh và người con rễ là đại tá Nguyễn Hồng Đài, nguyên Trưởng khối Kế Hoạch của Tổng cục Tiếp vận, đi theo tàu Hải quân. Bà Minh nói nếu ông Minh không đi thì bà ở lại, còn đại tá Đài thì người vợ đã rời Việt Nam sang Pháp trước đó vài ngày nên đã đi theo Hải quân. Ông Minh cũng nhờ Hải quân đưa giùm trung tướng Mai Hữu Xuân, chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng và con gái ra khỏi Việt Nam. Trung tướng Xuân nguyên tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm đô trưởng Sài Gòn trong thời ông Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách Mạng từ 2/11/1963 đến 30/1/1964, sau đó bị tướng Khánh bắt giam, đến tháng 11/1964 được tướng Khánh bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị, nhưng chỉ hai tháng sau thì tướng Khánh cho giải ngũ; chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng từng giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 7, tư lệnh phó lãnh thổ Quân khu 2, cuối cùng là chánh thanh tra cấp quân đoàn, bị tổng thống Thiệu cho giải ngũ vào tháng 4/1974.

* Giờ thứ 25 của Hải quân VNCH
Theo hồi ký của phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí, Phụ tá Hành quân Biển của Tư lệnh Hải quân, những giờ cuối cùng của Hải quân VNCH được ghi lại như sau.
“Tám giờ tối nay, nước bắt đầu lớn, chúng ta sẽ nhổ neo.” Đó là lệnh của thượng cấp, từ một vài ba nhân sự nòng cốt của bộ Tư lệnh Hải quân. Lúc đó là 10 giờ ngày 29/4. Từ lúc sau 10 giờ cho đến khi phó đề đốc Chí rời văn phòng của ông ở Tân Cao Ốc, gần 5 tiếng đồng hồ trôi qua trong sự bâng khuâng vô tả của vị phó đề đốc này. Trong tâm trạng chênh vênh đó, chính ông trong cương vị Phụ tá Hành quân Biển cũng chẳng biết phải hành động như thế nào để khi tự chấm dứt nhiệm vụ, những phương tiện đặt thuộc quyền sử dụng của ông sẽ bị phá hủy. Ông nghĩ dến Trung tâm Hành quân, lúc nào cũng có phiên trực mươi người. Trưa ngày này, phiên trực chỉ còn thưa thớt vài nhân viên. Phó đề đốc Chí vẫn còn 2 sĩ quan, đó là chánh văn phòng và tùy viên ở bên cạnh ông.

Vào những giờ phút đó, phó đề đốc Chí nghĩ đến hai bà chị của ông. Ông tự hỏi hai người thân tình của đời ông sẽ phải sống thiếu vắng ông đến bao giờ. Hai chị ông ở bên kia Khánh Hội làm sao ông vù được qua đó để giã từ trong giờ thứ 25 này. Ông sực nhớ ông còn 50 ngàn đồng giấu trong một ngăn kéo bàn viết. Vội vàng ông móc mớ bạc đó ra, gói kỹ lại, biên mấy chữ nhờ cha Tuyên úy trao hộ về Tân Qui. Xong phần việc tình cảm, ông quay về với thực tại. Kể lại tâm trạng lúc đó, phó đề đốc Chí viết: “Vẫn là một thứ băn khoăn, bối rối, chứ không phải là một thực tại rõ ràng chi hết. Duy có việc ra đi là khẳng định rồi. Nhưng từ lúc nhận lệnh cho đến khi nhổ neo, nếu phải chờ khi màn đêm phủ xuống thì quá lâu. Mười tiếng đồng hồ nữa, mười tiếng để triệt tiêu cơ cấu, phá hủy sự sản hay chỉ để trôi qua trong tuyệt vọng” Một lúc nào đó tôi nhất quyết phải làm vỡ đổ trung tâm Hành quân, phương tiện chỉ huy của tôi đó. Tôi nhờ một hạ sĩ quan đi tìm cho tôi một ít lựu đạn lân tinh. Một lát sau người ấy trở lại báo cáo không tìm được. Thế là ý định phá vỡ cơ sở đặt dưới phần nhiệm của tôi không thành…”

Vào khoảng trước 3 giờ, phó đề đốc Chí rời văn phòng, ông định làm một vòng quan sát tình hình rồi trở lại. Trong thâm tâm ông, giờ khởi hành vẫn đúng như thượng cấp ấn định. Thế rồi khi đến ngang cổng Hải quân Công xưởng, ông thấy rất đông binh sĩ cùng thân nhân tụ tập. Quân nhân không chỉ là Hải quân mà còn từ các binh chủng khác nữa. Họ mang theo vũ khí cho ông cảm tưởng đây là một cuộc chuyển binh đang chờ đợi nhập bến tàu. Quả thật họ đang chờ đợi được tháo cổng không phải để từ trong ra mà từ ngoài vào. Thay vì về khu cư xá, phó đề đốc Chí rẽ vào cổng Hải quân Công xưởng. Sĩ quan trực nhận lệnh của ông mở cổng cho đoàn người di tản tuần tự đi vào, tự bỏ vũ khí lại rồi tuần tự xuống tàu. Thấy mọi sự đâu vào đó, phó đề đốc Chí rời khu Công xưởng quay về bến Bạch Đằng. Ông đi ngược lại với dòng người tuôn vào từ phía đường Tự Do và Hai Bà Trưng. Làn sóng người lúc bấy giờ không xuôi về Hải quân Công xưởng nữa mà lại rẽ vào cầu B có ba chiến hạm lớn cặp tại đó: DER 1, WHEC 3, WHEC 2 tuần tự từ trong ra ngoài.

Phó đề đốc Chí mang trên người áo giáp, trên đầu đội mũ lưỡi trai, chen vào đám đông đến gần hạm kiều HQ 1. Ông hét to: Khoan cho lên tàu, hãy giữ họ trên tàu. Lúc đó, phó đề đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Hải quân cũng có mặt ở đó. Ông cũng hét to lên: Khoan cho bất cứ ai lên tàu. Thế nhưng không ai ngăn cản được đám đông lúc này, nên cả hai vị phó đề đốc đành rồi khỏi cầu B. Phó đề đốc Chí hỏi phó đề đốc Thủy bây giờ tính ra sao, có cho gia đình xuống tàu không” Phó đề đốc Thủy lắc đầu bảo không. Tình thế hỗn độn mỗi lúc một hơn. Hai phó đề đốc chia tay. Phó đề đốc Chí vội vàng rẽ xuống cầu Đô Đốc nơi đang có một vài tiểu đỉnh cặp không rõ để nghỉ ngơi hay chờ lệnh ai. Anh em trên chiến đỉnh nhận diện ra ông. Ông thấy thủy thủ đoàn chiến đỉnh rất bình tĩnh, hầu như không tỏ chút gì lo âu sợ hãi.

Phó đề đốc Chí nhờ chiến hạm đưa ông đi quan sát một vòng trên khoảng sông Sài Gòn. Nước đang còn giựt ròng khá mạnh. Từ mạn sông nhìn lên bờ phía ngoài nút chận Bạch Đằng, người ào tới một lúc một đông. Ông nhìn rõ chiếc WHC 2. Ông nghĩ đến giờ ra đi sẽ nhập hạm ở tả mạn tức là sẽ nhờ tiểu đỉnh này cặp vào và lên tàu bằng thang giây.

Đêm 29/4, phó đề đốc Chí có mặt trên HQ 2, tàu này xem như tách bến trước tiên và hướng về điểm hẹn ở Côn Đảo. Tiếp đó là các tàu khác. Chiều 30/4/1975, cả hạm đội đã mặt tại điểm hẹn. Các các phó đề đốc, sĩ quan cao cấp của Hải quân trên các chiến hạm di tản được mời sang soái hạm chỉ huy Tư lệnh Hải quân. Tại cuộc họp này, phó đô đốc Chung Tấn Cang cho lệnh toàn Hạm đội phải rời khỏi Côn Sơn càng nhanh càng tốt. Phó đề đốc Chí vẫn đi trên chiến hạm HQ 2 (WHEC 2). Ngay trong ngày đầu tiên của cuộc hải trình, tàu HQ 2 đã phải nhận đến ba lệnh của Tư lệnh Hải quân. Lệnh đầu tiên là quày lại Côn Đảo để bốc vài trăm người trên chiếc xà lan. Đến chiều cùng ngày, HQ2 nhận thêm lệnh thứ hai là cứu thủy thủ đoàn và số người tị nạn trên tàu HQ 402 bị liệt máy; lệnh thứ ba đến vào buổi tối, đó là chiến hạm HQ 2 giòng dây kéo chiến hạm HQ 329. Cuộc hải hành vượt trùng dương của cả đoàn tàu bắt đầu sau khi HQ 329 được lôi xểnh chạy ở phía sau. Với vận tốc 7 gút một giờ, đoàn tàu phải mất 7 ngày mới đến Phi Luật Tân.

Giữa đêm đầu hành trình, vị trung tá Hạm trưởng báo cho phó đề đốc Chí là xin lệnh của soái hạm cho tàu HQ 2 tách khỏi đoàn tàu để chạy nhanh hơn. Lý do rất quan trọng là nước ngọt bị lộn dầu, nên nước uống trở nên khan hiếm. Phó đề đốc Chí do dự mãi nhưng sau cùng chính ông thảo công điện sang soái hạm xin Tư lệnh Hải quân giải tỏa vị trí, không chờ hồi âm, ông đồng ý cho hạm trưởng gia tăng vận tốc từ bảy lên 10 gút một giờ. Sau đó, soái hạm hồi đáp công điện là không đồng ý nhưng phó đề đốc Chí lờ đi.

Ghi lại sự việc này, phó đề đốc Chí viết như sau: “Có lẽ lần đầu tiên tôi bạo gan, không thi hành một mệnh lệnh. Tôi chợt nghĩ đến HQ 802 đã im lặng vô tuyến và trên đó đã có 2 vị phó đề đốc. Chiến hạm này đã rời Vũng Tàu từ sáng 30 trực chỉ Subic, tức là không qua điểm tập trung ở Côn Đảo. Nếu tôi bị ghép vào tội bất tuân thượng lệnh, tôi tự nghĩ giờ thứ 25, thoát được cứ thoát. Chúng tôi đang cõng một thằng bạn trên vai, HQ 329 cũng nặng nề lắm! Mà nặng nề hơn nữa, có lẽ là sự thua bại đang dày vò trong tâm trí mọi người buộc tôi im lặng, nhưng vẫn muốn khẩn khoản kêu lên: Hãy tháo gỡ xiềng xích cho nhau khi xiềng xích quân thù đã phủ xuống quê hương dân tộc của chúng ta rồi!”

Tách khỏi đoàn tàu, HQ 2 lướt nhanh, khoảng trưa thứ hai của cuộc hải trình, thì có một tiếp liệu hạm của Hải quân Hoa Kỳ hải hành song song. Khi chỉ còn cách Subic chỉ một ngày đường, tàu Hoa Kỳ yêu cầu HQ 2 cho họ chuyển sang một sĩ quan liên lạc. Đó là một thiếu tá. Vị sĩ quan này trình diện phó đề đốc Chí, ông ta mang theo đầy đủ lương thực cá nhân và máy truyền tin liên lạc với chiến hạm gốc. Đêm 4 rạng ngày 5/5/1975, khi gần đến Subic, thủy thủ đoàn cùng quân dân tỵ nạn trên tàu phụ lực nhau quăng ném súng đạn xuống biển. Từ dưới hầm sâu, hàng trăm viên đạn đại pháo loại 5 inch được kéo lên boong tàu. Các hầm chứa đạn được bốc dỡ trống trơn trước sự chứng giám của sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ. Hoàn tất việc giải giới mới vào điểm neo được.

Khi trời vừa hững sáng, phó đề đốc Chí được báo cáo là súng đạn đã được quăng trọn xuống biển trừ cổ đại pháo 5 inch. HQ2 từ từ vào điểm neo ấn định. HQ 802 đã có mặt ở đó tự bao giờ, và không còn một ai trên đó. Một chiếc LCM-8 thuộc căn cứ Hải quân Hoa Kỳ Vịnh Subic cặp bên tả mạn HQ 2. Phó đề đốc Chí và các tướng lãnh quá giang được yêu cầu vận thường phục để rời tàu. Riêng phó đề đốc Chí được Hải quân Hoa Kỳ dành cho một danh dự cuối cùng: Một Hải quân đại tá Hoa Kỳ trong bộ tiểu lễ trắng đón chào ông tại cầu bến và đưa lên một chiếc Sedan đen do một thủy thủ lái. Các tướng lãnh khác cùng gia đình lên xe bus rồi cả đoàn tiến về trại tiếp cư.

Trước đó, khi còn ngoài hải phận Phi Luật Tân, tất cả quân dân tỵ nạn đi trên tàu HQ2 đã cùng với thủy thủy đoàn và ban chỉ huy chiến hạm đã làm lễ hạ kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Buổi lễ diễn ra rất đơn giản nhưng cũng rất lịch sử. Lần cuối cùng, những người lính Hải quân VNCH của chiến hạm HQ2, trong nghi thức quân cách, làm lễ hạ quốc kỳ, bỏ lại đằng sau quê hương và quãng đời hải nghiệp. Ghi lại giây phút lịch sử đó, phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí viết: Niềm đau ly xứ lẫn mất mát không còn gì xót xa và bẽ bàng khi nhìn thấy lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ bị ép phải lìa bỏ vị trí của nó. Quốc dân ly tán. Quốc tịch xóa bôi. Mặc dù không vĩnh viễn nhưng sự việc đã xảy ra ngoài ý muốn của con người.

QUÂN NHÂN HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA LẬP NHIỀU CHIẾN CÔNG

Trong cuộc chiến giữa Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Sản Việt Nam 1954 – 1975

ĐIỆP MỸ LINH Biên khảo

Phần I

CÁC VỊ TƯ LỆNH HẢI QUÂN V.N.C.H.

Hải Quân Đại Tá Lê Quang Mỹ

Ông Lê Quang Mỹ sinh năm 1926; xuất thân khóa 2 trường Võ Bị tại Huế với cấp bậc thiếu úy Bộ Binh. Ông xin và được chấp thuận chuyển sang Hải Quân.

Ông gia nhập khóa 1 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang; tốt nghiệp với cấp bậc trung úy – cấp bậc cao nhất của sĩ quan Hải Quân Việt Nam lúc bấy giờ.

Chức vụ đã đảm nhận:

  • Chiến hạm Jeanne d’Arc và Savorgnan de Brazza của Pháp.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 21 Xung Phong.
  • Chỉ huy Lực Lượng Hải Quân tại Vùng IV tham gia chiến dịch Hoàng Diệu.
  • Phụ tá Tổng Tham Mưu Trưởng – đặc trách về Hải Quân – cho Tướng Lê Văn Tỵ.
  • Tư Lệnh đầu tiên của Hải Quân – từ ngày 20 tháng 8 năm 1955 đến tháng 8 năm 1957 – kiêm Tư Lệnh đầu tiên của Thủy Quân Lục Chiến.
  • Thị trưởng thị xã Đà Nẵng.
  • Thanh Tra tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Postgraduate School.

Đã tham dự:

Chỉ huy Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H. ra Phú Quốc để xác định các đảo Poulo Panjang, Poulo Tang và Poulo Wai trong vịnh Thái Lan thuộc chủ quyền của V.N.C.H.

Chỉ huy chiến dịch Rừng Sát dẹp tan quân Bình Xuyên.

Chỉ huy nhiều đơn vị Hải Quân hành quân yểm trợ các chiến dịch: Hồng Nhạn, Đinh Tiên Hoàng, Hoàng Diệu, Nguyễn Huệ, v.v… để bình định các vùng sông ngòi.

Đề Đốc Trần Văn Chơn

Ông Trần Văn Chơn sinh năm 1920 tại Vũng Tàu. Ông đỗ thủ khoa khóa I sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang, ông đã tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải tại trường Ecole Rosel – sau được đổi tên là Ecole Technique Special; rồi lại được đổi thành Trường Kỹ Thuật. Ông cũng tốt nghiệp khóa Vô Tuyến Truyền Tin Hàng Hải. Ông là sĩ quan, rồi trở thành Thuyền Trưởng Hàng Hải Thương Thuyền.

Đơn Vị Đã Phục Vụ:

  • Chỉ Huy Phó Hải Đoàn Xung Phong tại Vĩnh Long.
  • Chỉ Huy Phó Hải Đoàn Xung Phong Ninh Giang – tại Bắc Việt – về sau Hải Đoàn Ninh Giang được chuyển vào Nam, căn cứ tại Mỹ Tho.
  • Hạm Trưởng HQ 226.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Lực.
  • Tư Lệnh Hải Quân, từ tháng 08 năm 1957 đến tháng 08 năm 1959.
  • Phụ Tá Tổng Giám Đốc Bảo An và Dân Vệ cho Đại Tá Dương Ngọc Lắm; hai đơn vị này về sau được cải danh là Địa Phương Quân và Nghĩa Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Tuần Giang.
  • Đáo nhiệm Tư Lệnh Hải Quân, từ 31 tháng 10 năm 1966 đến tháng 11 năm 1974.

Tu nghiệp:

  • S. Naval War College.
  • Sau khi mãn tù Cộng Sản và được sang Mỹ theo diện H.O., ông trở lại trường và tốt nghiệp ngành Interdisciplinary Studies tại San Jose/Evergreen Community College rồi chuyển qua San Jose State University, học về Political Science.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương đệ tam đẳng.
  • 01 Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.
  • 01 Chiến Thương Bội Tinh.
  • 02 Legion of Merit with Combat Distinguishing của Hoa Kỳ.
  • 01 Certificate of Recommendation tại San Jose.
  • 01 Certificate of Special Congressional Recognition của U.S. House of Representatives.

Thành tích:

  • Ông có sáng kiến và đôn đốc việc xây dựng Tượng Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo tại Bến Bạch Đằng, Saigon.
  • Trận Hải Chiến Hoàng Sa giữa Hải Quân V.N.C.H. và Hải Quân Trung Cộng xảy ra vào thời điểm Đề Đốc Trần Văn Chơn là Tư Lệnh Hải Quân lần thứ hai.
  • Ông là sĩ quan cao cấp nhất của Hải Quân V.N.C.H. bị Cộng Sản Việt Nam cầm tù hơn 12 năm.
  • Ông được Hải Quân Hoa Kỳ mời tham dự buổi lễ đặt tên cho Khu Trục Hạm tối tân USS Zumwalt ngày 19 tháng 10 năm 2013, tại Bath Iron Work, tiểu bang Maine.
  • Ông cũng là một trong những thành viên danh dự trong Board of Advisors, gồm những nhân vật nổi tiếng như Bộ Trưởng Hải Quân William le Ball III, Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ Gary Roughead, T.N.S. John S. McCain III, v.v… của chiến hạm USS Zumwalt DDG 1000. Cố Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ – Zumwalt – từng là Cố Vấn cho Cựu Tư Lệnh Trần Văn Chơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.

Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền

Ông Hồ Tấn Quyền sinh năm 1927, tại Đà Nẵng; xuất thân khóa 1 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi gia nhập Hải Quân, ông đã tốt nghiệp trường Hàng Hải Thương Thuyền.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 25 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Hải Quân trong Chiến Dịch Sóng Tình Thương – giai đoạn I.
  • Hạm Trưởng HQ 535.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Khu Đà Nẵng – về sau được cải danh là Vùng I Duyên Hải.
  • Tham Mưu Trưởng Hải Quân.
  • Tư Lệnh Hải Quân, từ ngày 06 tháng 08 năm 1959 đến tháng 10 năm 1963.

Thành tích:

  • Chỉ huy chiến dịch Sóng Tình Thương để tái chiếm và bình định vùng Năm Căn, Cà Mau.
  • Thành lập Lực Lượng Hải Thuyền.
  • Thành Lập Liên Đội Người Nhái – về sau được cải danh là Liên Đoàn Người Nhái.

Hải Quân Đại Tá Trần Văn Phấn

(1)

Ông Trần Văn Phấn sinh năm 1920; tốt nghiệp khóa 1 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang, năm 1952.

Trước khi được tuyển chọn vào Hải Quân, ông đã tốt nghiệp từ trường Hàng Hải Thương Thuyền.

Sau khi tốt nghiệp từ trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang, ông được tạm trú và thực tập trên chiến hạm Arromanches của Pháp.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Đơn vị tác chiến Hải Quân đầu tiên tại Bắc Việt, năm 1953.
  • Đơn vị trưởng nhóm đầu tiên của Hải Đoàn 21 Xung Phong, miền Nam.
  • Thực tập trên nhiều chiến hạm của Pháp.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 24 Xung Phong.
  • Hạm Trưởng Tuần Duyên Hạm.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Khu Đà Nẵng – về sau được cải danh là Vùng I Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Trấn.
  • Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Tư Lệnh Hải Quân, ngày 26 tháng 04 năm 1965 đến tháng 09 năm 1966.
  • Tùy viên quân sự tòa đại sứ Việt Nam tại Thái Lan.

Tu nghiệp:

  • Căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ – Olongapo – tại Phi Luật Tân.
  • Joint and Combined School at Okinawa, Nhật.
  • S. Naval War College.

(1.- Tư liệu và hình từ Website Nguyen Văn Hieu. Q.L./V.N.C.H. – A.R.V.N. và các vị sĩ quan H.Q./V.N.C.H.)

Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh

Ông Lâm Ngươn Tánh sinh năm 1928 tại Sadec; xuất thân khóa 1 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang, ông đã tốt nghiệp Hàng Hải Thương Thuyền.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hạm Trưởng HQ 534; HQ 330; HQ 226; HQ 03.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Khu miền Tây – về sau được cải danh là Vùng IV Sông Ngòi.
  • Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hải Lực.
  • Tham Mưu Trưởng Hải Quân.
  • Giám Đốc Hải Quân Công Xưởng.
  • Tham Mưu Trưởng Hải Quân.
  • Đáo nhiệm Tham Mưu Trưởng Hải Quân.
  • Phụ tá – về Hải Quân – cho Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu.
  • Chỉ Huy Trưởng trường đại học Chiến Tranh Chính Trị Dalat.
  • Tư Lệnh Phó Hải Quân.
  • Chủ Tịch tiểu ban Bài Trừ Tham Nhũng trong Hải Quân.
  • Tư Lệnh Hải Quân, từ tháng 11 năm 1974 đến tháng 03 năm 1975.
  • Phụ Tá Quốc Vụ Khanh cho Thứ Trưởng Bộ Xã hội – bác sĩ Phan Quang Đán.

Tu nghiệp:

  • S. Postgraduate School.
  • S. Naval War College.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương đệ tứ đẳng.

Thành tích:

Chỉ huy các đơn vị Hải Quân tham dự chiến dịch Sóng Tình Thương; chiến dịch Đồng Tháp Mười; chiến dịch Rừng Sát, v.v…

Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang

Ông Chung Tấn Cang sinh năm 1926 tại Gia Định, Saigon; tốt nghiệp khóa 1 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào trường sĩ quan Hải Quân, ông đã tốt nghiệp trường Hàng Hải Thương Thuyền.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Chỉ huy Hải Đoàn 21 Xung Phong .
  • Hạm Trưởng HQ 533; HQ 330; HQ 114.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
  • Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Giang Lực.
  • Tư Lệnh Hải Quân, từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 04 năm 1965.
  • Trưởng Ban Hội Đồng Lãnh Đạo Quốc Gia.
  • Phụ tá đặt biệt – về Hải Quân – cho Tổng Tham Mưu Trưởng.
  • Chỉ Huy Trưởng Trường Đại Học Quân Sự – về sau được cải danh là Trường Chỉ Huy và Tham Mưu.
  • Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia bài trừ tham nhũng.
  • Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Tổng Trấn Saigon – Gia Định.
  • Đáo nhiệm Tư Lệnh Hải Quân, từ tháng 03 năm 1975 đến tháng 04 năm 1975.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Amphibious Base Coronado, San Diego.
  • S. Naval War College New Port.

Thành tích:

  • Hải Quân Đại Tá Chung Tấn Cang Hải Quân và Trung Tá Khương Hữu Bá đã cùng Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ và Trần Văn Minh ký tên vào Hiến Chương Vũng Tàu – 1st Constitution of the Republic of South Vietnam. (1)
  • Vào thời gian sôi động nhất của cuộc chiến, Ông cho thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, đặt dưới quyền chỉ huy của Hải Quân đại tá Lê Hữu Dõng. Nếu có đảo chánh, Lực Lượng 99 sẽ hỗ trợ cho những Lực Lượng khác chống đảo chánh; đồng thời Lực Lượng 99 cũng bảo vệ an ninh những hải trình huyết mạch quanh thủ đô Saigon như sông Lòng Tào, sông Vàm Cỏ, sông Soài Rạp để chiến hạm của Hải Quân V.N.C.H. cũng như thương thuyền có thể lưu thông và cũng để đề phòng trường hợp Việt Cộng cắt quốc lộ 4. (2)
  • Ông chỉ thị Hạm Đội Hải Quân tận dụng tối đa phương tiện để tiếp cứu và di chuyển đồng bào cũng như quân bạn từ Vùng I và Vùng II Duyên Hải về Saigon và Phú Quốc. (3)
  • Sau khi Vùng I và Vùng II bị bỏ ngõ, Ông muốn tận dụng phương tiện của Hải Quân để đưa gia đình binh sĩ ra tạm trú tại Phú Quốc rồi đưa binh sĩ trở lại miền Tây – Vùng IV Sông Ngòi – chiến đấu. (4)
  • Khi ý định đưa binh sĩ về Vùng IV Sông Ngòi không thành, Ông được cựu cố vấn của Hải Quân V.N.C.H. – ông Richard Lee Armitage – đề nghị nên đưa toàn Hạm Đội ra Côn Sơn. (5)
  • Sau khi Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cộng Sản Việt Nam, từ Côn Sơn, ông chỉ thị Hạm Đội Hải Quân trực chỉ Phi Luật Tân. (6)

Chú thích:

1.- Tư liệu của tiến sĩ Khương Hữu Lộc.

2-3-4-5-6.- Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp Mỹ Linh.

Phần II

CÁC VỊ PHÓ ĐỀ ĐỐC HẢI QUÂN V.N.C.H. (1)

Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu*

Ông Nguyễn Thanh Châu sinh năm 1933 tại Long An; tốt nghiệp khóa 3 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Chỉ Huy Phó Căn Cứ Hải Quân Tiên Sa, Đà Nẵng.
  • Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Tiên Sa, Đà Nẵng.
  • Hạm Trưởng HQ 3.
  • Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 8.
  • Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy Hải Quân vùng IV Sông Ngòi.
  • Chỉ Huy Phó Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.

(1.- Tất cả sĩ quan trong phần này được sắp theo thứ tự tên của mỗi vị.)

*Wikipedia.

Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí

Ông Nguyễn Hữu Chí sinh năm 1931, tại Nam phần; xuất thân khóa 3 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào khóa 3 sĩ quan Hải Quân, ông đã tốt nghiệp từ trường Hàng Hải Thương Thuyền với bằng Thuyền Trưởng. Ngoài binh nghiệp, ông còn là một nhà thơ – bút hiệu Hữu Phương – rất được mến mộ.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Chỉ Huy Phó Hải Đoàn 21 Xung Phong.
  • Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 405
  • Trưởng phòng nhân viên.
  • Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hải Tuần.
  • Chỉ Huy Trưởng Duyên Khu IV – về sau được cải danh là Vùng IV Duyên Hải.
  • Tư Lệnh Lực Lượng Duyên Phòng – danh xưng khác là Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.
  • Phu Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Biển.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Post Graduate School, California.
  • S. Naval War College.
  • Trường Cao Đẳng Quốc Phòng.

Thành tích:

  • Chỉ huy Hải Quân tham gia các chiến dịch bình định lãnh thổ tại Cà Mau, U Minh và Thới Bình.
  • Tác giả 3 tập thơ: Luống Biển, Neo Tuổi Vàng, Tâm Sự Người Đi Biển và 3 tập thơ sáng tác tại Hoa Kỳ, chưa kịp xuất bản: Kiếp Lưu Đày I, II, III.

Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào *

Ông Vũ Đình Đào sinh năm 1931 tại Hải Phòng; xuất thân khóa 3 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi gia nhập khóa 3 sĩ quan Hải Quân, ông đã tốt nghiệp trường Hàng Hải Thương Thuyền với bằng Thuyền Trưởng.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hạm Trưởng HQ 331; HQ 403.
  • Đáo nhiệm Hạm Trưởng HQ 331; HQ 403.
  • Trưởng Phòng III Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 11.
  • Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy Hải Lực.
  • Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hải Lực – về sau được cải danh là Hạm Đội.
  • Tham Mưu Phó hành quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi.
  • Tư Lệnh Vùng III Duyên Hải kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.3

Tu nghiệp:

  • S. Naval Post Graduate School.
  • S. Naval War College.

Ân Thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương Đệ Tứ Đẳng.
  • 01 Hải Quân Huân Chương.
  • 01 Anh Dũng Bôi tinh Ngôi sao vàng.
  • 01 Hải Dũng Bôi tinh Ngôi sao vàng.
  • 01 Danh Dự Bôi tinh Hạng nhất.
  • 01 Chỉ Đạo Bội tinh cấp Sư đoàn.
  • 01 Tham Mưu Bôi tinh Hạng nhất.
  • 01 Huấn Vụ Bôi tinh Hạng nhất, 01 Dân Vụ Bôi tinh Hạng nhất, 01 Quân Phong Bội tinh Hạng nhất, 01 Chiến Dịch Bôi tinh, 01 Quân Vụ Bôi tinh Hạng nhì và 01 Hải vụ Bôi tinh Hạng nhất.

Thành tích:

Chỉ huy các đơn vị Hải Quân tham dự chiến dịch Sóng Tình Thương; Chiến dịch Trần Hưng Đạo 18; Chiến dịch Trần Hưng Đạo 19; Chiến dịch Trần Hưng Đạo 20.

(*Tư liệu từ ông Nguyễn Bá Nghiệp OAM. Hình chụp lúc phó đề đốc Đào mang cấp bậc H.Q.trung tá.)

Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng

Ông Đinh Mạnh Hùng sinh năm 1932 tại Hà Nội; tốt nghiệp thủ khoa khóa 2 sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan đệ tam Trục Lôi Hạm Geranium.
  • Hạm Phó HQ 330.
  • Hạm Trưởng HQ 225.
  • Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 115.
  • Hạm Trưởng HQ 405.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 25 Xung Phong.
  • Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Quyền Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hải Lực.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang
  • Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ.
  • Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Sông kiêm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Lưu Động Sông.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Postgraduate school.
  • S. Naval War College.
  • Trường Cao Đẳng Quốc Phòng.
  • Khóa Quản Trị Quốc Phòng, Hoa Kỳ.

Ân Thưởng:

  • Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • 01 Hải Quân Huân Chương
  • 05 Anh Dũng Bội Tinh.
  • 01 Hải Vụ Bội Tinh.

Thành tích:

  • Chỉ huy các đơn vị Hải Quân tham dự chiến dịch Đinh Tiên Hoàng; Chiến dịch Hoàng Diệu; Chiến dịch Sóng Tình Thương, bình định Năm Căn, Cà Mau.
  • Hành quân bình định Miền Tây.
  • Các cuộc hành quân Trần Trần Hưng Đạo trong sông.

Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh

Ông Hoàng Cơ Minh sinh năm 1935 tại Hà Nội; tốt nghiệp khóa 5 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hạm trưởng HQ 116.
  • Chỉ Huy Trưởng Phân Ðội IV Trục Lôi Hạm.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội I.
  • Chỉ Huy Phó Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
  • Tùy Viên Quân Sự Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Nam Hàn.
  • Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Trường Tham Mưu Cao Cấp, Ðà Lạt.
  • Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ – Lực Lượng Đặc Nhiệm 211.
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng II Duyên Hải kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.2.
  • Tối 31 tháng 3-1975, Tướng Phạm Văn Phú – Tư Lệnh Quân Đoàn II – chỉ định Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh kiêm chức vụ Tư Lệnh mặt trận tiền phương Quân Đoàn II, thay thế Tướng Phan Đình Niệm ở chúc vụ Tư Lệnh chiến trường Bình Định. (1)
  • Tối 1 tháng 4-1975, lúc 11:00, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký nghị định chỉ định Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh kiêm Tổng Trấn Qui Nhơn trong nhiệm vụ phối trí các lực lượng V.N.C.H. để tái chiếm Qui Nhơn. (2)

Tu nghiệp:

  • S. Naval Post Graduate School, Caliafornia.
  • Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp – Dalat.

Ân thưởng:

  • Huy chương cao quý nhất do Quốc Hội và Tổng Thống Đại Hàn ban tặng. (3)

Hoạt động sau tháng 04-1975:

  • Thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhật Giải Phóng Viện Nam.
  • Mặt Trận Q.G.T.N.G.P. Việt Nam ra đời ngày 30 tháng 4-1980. Mặt Trận Q.G.T.N.G.P. Việt Nam thực hiện được hai cuộc hành quân: Đông Tiến I và Đông Tiến II.
  • Trong cuộc hành quân Đông Tiến II, phục quốc quân của Mặt Trận – do chính ông chỉ huy – đụng độ nặng với Việt Cộng và Lào Cộng. Phục quốc quân bị thiệt hại nặng! Một số kháng chiến quân tự sát. Cựu Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh cũng tự sát để được chết cạnh những kháng chiến quân của ông, tại Saranavan! (4)

(1 và 2.- Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp Mỹ Linh.

3 và 4.- Website Việt Tân)

Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú*

Ông Nghiêm Văn Phú sinh năm 1928 tại Hà Đông, Bắc Việt; xuất thân khóa 2 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào khóa 2 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang, ông đã tốt nghiệp trường Hàng Hải Thương Thuyền với bằng Thuyền Trưởng.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Phục vụ tại nhiều Hải Đoàn Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Sóng Tình Thương – giai đoạn II.
  • Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hải Lực.
  • Tư Lệnh hành quân Trần Hưng Đạo 18.
  • Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hải Tuần.
  • Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám – Lực Lượng Đặc Nhiệm 212.

(*Wikipedia. Hình từ vietnamvanhien.net)

Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng*

 

Ông Đặng Cao Thăng sinh năm 1929 tại Nam Định, Bắc Việt; tốt nghiệp khóa 1 trường sĩ quan Hải Quân Pháp, tại Brest.

Trước khi được tuyển nhận vào trường sĩ quan Hải Quân Brest, ông bị động viên vào trường sĩ quan trừ bị Nam Định. Sau đó ông được chuyển vào trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, học về Pháo Binh, Công Binh và Truyền Tin. Ông ra trường với cấp bậc chuẩn úy.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan đệ tam HQ 113.
  • Hạm Trưởng HQ 112; HQ 327; HQ 05.
  • Giám Đốc Quân Huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
  • Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy Hải Lực.
  • Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Giám Đốc Hải Quân Công Xưởng.
  • Tư Lệnh Phó Hải Quân.
  • Tùy Viên quân sự Tòa Sại Sứ V.N.C.H. tại Nam Hàn.
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Duyên Hải.
  • Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi kiêm Tư Lệnh Hạm Đội Đặc Nhiệm 21.

*Wikipedia.

Phó Đề Đốc  Hồ Văn Kỳ Thoại

Related image

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại sinh năm 1933 tại Cần Thơ; xuất thân khóa 4 trường sĩ quan Hải Quân  Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hộ Tống Hạm Glaive và Hộ Tống Hạm Mousquet của Hải Quân Pháp.
  • Hạm trưởng HQ 04.
  • Thực tập trên Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ.
  • Hải Đội Trưởng Hải Đội Hộ Tống Hạm.
  • Trưởng Phòng Truyền Tin Hải Quân.
  • Sĩ quan tùy viên cho Tổng Thống V.N.C.H. Ngô Đình Diệm.
  • Trưởng phòng nhân viên và hành chánh Hải Quân
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc Saigon
  • Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Nha Trang và Duyên Khu II.
  • Chỉ Huy Trưởng Vùng II Duyên Hải
  • Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.1. Sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam Lực Lượng Đặc Nhiệm 213 trở thành Lực Lượng Đặc Nhiệm 231.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Postgraduate School, California.
  • Khóa cao cấp Quản Trị Nhân Viên tại Pentagon, U.S.A.

Ân thưởng:

  • Đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • 01 Hải Quân Huân Chương đệ nhất đẳng.
  • 01 Biệt Công Bội Tinh.
  • 08 Anh Dũng Bội Tinh: 05 với nhành dương liễu, 01 ngôi sao vàng, 01 ngôi sao bạc, 01 với ngôi sao đồng.
  • 01 Hải Dũng Bội Tinh với mỏ neo vàng.
  • 02 Bronze Star with combat V của Hải Quân Hoa Kỳ.

Thành tích:

  • Những công tác trên vỹ tuyến 17 của Sở Phòng Vệ Duyên Hải.
  • Chỉ huy cuộc hành quân tấn công, phá hủy mật khu Vũng Rô.
  • Trực tiếp chỉ thị Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc – sĩ quan chỉ huy chiến thuật (O.T.C.) – ra lệnh cho các chiến hạm của Hải Quân V.N.C.H. tại Hoàng Sa khai hỏa, tấn công chiến hạm của Hải Quân Trung Cộng, ngày 19 tháng 01, năm 1974.
  • Tác giả quyển Hồi Ký Can Trường Trong Chiến Bại.

Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy *

Ông Diệp Quang Thủy sinh năm 1932; xuất thân khóa 3 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang, ông đã tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Dalat, cấp bậc thiếu úy.

  • Đơn vị đã phục vụ:
  • Hạm Trưởng HQ 7.
  • Tùy viên cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
  • Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hải Tuần.
  • Chỉ Huy Trưởng Vùng III Sông Ngòi kiêm Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Rừng Sát.
  • Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.

*Wikipedia

Phần 3

CÁC VỊ SĨ QUAN CẤP TÁ

Hải Quân Đại Tá Khương Hữu Bá

Ông Khương Hữu Bá sinh năm 1930. Ông tốt nghiệp khóa  2 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào khóa 2 Hải Quân, ông đã tốt nghiệp sĩ quan Hàng Hải Thương Thuyền.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 25 Xung Phong.
  • Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 404.
  • Chỉ Huy Trưởng Lực Lương Hải Thuyền kiêm Chỉ Huy Trưởng Duyên Lực.
  • Tham Mưu Phó Hành Quân Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
  • Chánh Thanh Tra Hải Quân.
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Duyên Hải kiêm Đặc Khu Trưởng đặc khu Phú Quốc.

Tu nghiệp:

  • Cao Đẳng Quốc Phòng.
  • S. Post Graduate School – General Line.
  • S. Naval War College.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương đệ tứ đẳng.
  • 01 Hải Quân Huân Chương đệ nhất đẳng.
  • 01 Danh Dư Bội Tinh đệ nhất đẳng.
  • 01 Hải Vụ Bội Tinh đệ nhất đẳng.
  • 01 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.

Thành tích:

  • Hải Quân Trung Tá Khương Hữu Bá và Hải Quân Đại Tá Chung Tấn Cang đã cùng Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ và Trần Văn Minh ký tên vào Hiến Chương Vũng Tàu – 1st Constitution of the Republic of South Viet Nam.
  • Năm 1974, Cao Miên đưa một chiến hạm và một tàu dò tìm dầu hỏa vào lãnh hải Việt Nam, thuộc Vùng IV Duyên Hải. Hải Quân Đại Tá Khương Hữu Bá phúc trình sự việc lên Đề Đốc Tư Lệnh Trần Văn Chơn. Sau khi được Đề Đốc Tư Lệnh Trần Văn Chơn cấp thuận, Đại Tá Bá điều động 3 chiến hạm của Hải Quân V.N.C.H. đang công tác trong lãnh hải Vùng IV Duyên Hải đến nơi hai chiếc tàu của Cao Miên đang hoạt động; đồng thời Đại Tá Bá cũng gửi công hàm ngoại giao đến Tư Lệnh Vùng của Cao Miên, yêu cầu 2 chiếc tàu của Cao Miên phải rời lãnh hải của V.N.C.H. trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Hai chiếc tàu của Cao Miên dò tìm dầu hỏa trong lãnh hải của V.N.C.H. phải rút lui.

(*Tư liệu của tiến sĩ Khương Hữu Lộc.)

Hải Quân Đại Tá Lê Hữu Dõng

https://i1.wp.com/hung-viet.org/images/file/kg5B9Orj1AgBAEAC/cuu-hai-quan-dai-ta-le-huu-dong.jpg?ssl=1

Ông Lê Hữu Dõng sinh năm 1937; tốt nghiệp khóa 8 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan đệ tam HQ 330.
  • Hạm Phó HQ 02.
  • Hạm Trưởng HQ 609; HQ 07; HQ 13.
  • Chỉ Huy Phó Hải Đoàn 22 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 22 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn 25 – 29 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn 23 – 31 Xung Phong.
  • Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi.
  • Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Hải Quân Vùng II Duyên Hải.
  • Đáo nhiệm Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi.
  • Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Tuần Thám.
  • Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 99.

Tu Nghiệp:

  • Khóa Landing Force Training Command tại Hoa Kỳ.
  • Chỉ Huy Tham Mưu cao cấp – Long Bình.

Ân Thưởng:

  • Đệ ngũ đẳng Bảo Quốc Huân Chương với nhành dương liễu.
  • Đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • 02 Hải Quân Huân Chương.
  • 02 Hải Dũng Bội Tinh.
  • 06 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.

Thành tích:

  • Tiếp cứu Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân tại Đức Hòa – Đức Huệ.
  • Chỉ huy liên Giang Đoàn 22 – 24 Xung Phong phối hợp với Sư Đoàn 5 Bộ Binh hành quân dài hạn tại Dầu Tiếng và mật khu Tam Giác Sắt.
  • Năm Mậu Thân, 1968, cho đơn vị án ngữ từ sông Bassac đến cầu Cái Răng, chận đường tiến quân của 2 tiểu đoàn Việt Cộng muốn vượt sông để tấn công Cần Thơ.
  • Giữa tháng 03-1975, chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 phối hợp với Giang Đoàn 40 Ngăn Chận giải tỏa quận Tân Trụ, thuộc tỉnh Long An. Sau đó, tại kinh Thủ Thừa, Long An, Lực Lượng 99 đụng độ nặng với một đơn vị của công trường 7 Việt Cộng. Vì không thể chống trả với hỏa lực như vũ bão từ đoàn chiến đỉnh, Việt Cộng đành “chém vè”. (1)
  • Chiều 30-04-1975, HQ 402 – một Hải Vận Hạm đang được sửa chữa tại Hải Quân Công Xưởng, với hơn hai ngàn quân dân trên tàu – được Trung Úy cơ khí Cao Thế Hùng “đưa” đến ngã ba sông Soài Rạp thì HQ 402 chỉ quay vòng vòng! Nghe lời kêu cứu từ HQ 402 trên máy truyền tin, Đại Tá Dõng từ một PBR nhập hạm và hướng dẫn HQ 402 hải hành đến đảo Côn Sơn. (2)

((1) và (2).- Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 cùa Điệp Mỹ Linh.)

Hải Quân Trung Tá Trịnh Hòa Hiệp *

Ông Trịnh Hòa Hiệp tốt nghiệp khóa 7 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan đệ tam HQ 04; HQ 03.
  • Thuyền Trưởng PT – Patrol Torpedo Boat.
  • Duyên Khu I – về sau Duyên Khu I được cải danh là Vùng I Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Phó Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Saigon.
  • Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Biệt Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Khối Huấn Luyện Biệt Hải.
  • Lực Lượng Hải Tuần
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Người Nhái.
  • Sau khi sang Hoa Kỳ du học về Hành Quân Đổ Bộ, ông đáo nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Người Nhái cho đến ngày 30-04-1975.

Tu nghiệp:

  • Khóa I Biệt Hải.
  • Khóa UDT – Underwater Demolition Team – tại Hoa Kỳ.
  • S. Post Graduate School, California.
  • Khóa Hành Quân Đổ Bộ tại Hoa Kỳ.
  • Tham Mưu Trung Cấp Long Bình.

Thành tích:

  • Chỉ huy Người Nhái tham dự trận phá vỡ mật khu Vũng Rô; Hải chiến Hoàng Sa, ngày 19-01-1974; và rất nhiều cuộc hành quân quy mô khác.

 (*Tư liệu từ: Cựu Hải Quân đại tá Nguyễn Văn Thiện, cựu Hải Quân trung tá Hà Đắc Vinh, cựu Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn,Quang, cựu Hải Quân thiếu tá Phan Tấn Hưng.)

Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Hoa

 Ông Nguyễn Văn Hoa sinh năm 1934; xuất thân khóa 7 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào Hải Quân, ông đã tốt nghiệp trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền với bằng Thuyền Trưởng cận duyên và viễn duyên. Ông phục vụ trên thương thuyền Pháp và thương thuyền Việt Nam

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan Đệ Tam kiêm sĩ quan Mật Mã HQ 401.
  • Hạm Phó HQ 04; HQ 329.
  • Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Phó HQ 06.
  • Hạm Trưởng HQ 330.
  • Sĩ quan Thanh Tra Vùng I Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn 23 – 31 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng liên Giang Đoàn 25 – 29 Xung Phong.
  • Quận Trưởng Quận Phú Quốc – Dương Đông.
  • Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Thủy Bộ.

Tu nghiệp:

  • Đến U.S. Naval Amphibious School, Coronado, San Diego, để trình bày kinh nghiệm hành quân trong sông.
  • Chỉ Huy Tham Mưu – Long Bình.

Ân thưởng :

  • Đệ ngũ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • 01 Chiến Thương Bội Tinh.
  • 02 Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân Đội.
  • 19 Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân đoàn, Sư đoàn, và Trung đoàn.
  • 01 Chương Mỹ Bội Tinh, 01 Hải Quân Huân Chương, 01 Danh Dự Bội Tinh, 01 Tham Mưu Bội Tinh, 01 Kỹ Thuật Bội Tinh, 01 Huấn Vụ Bội Tinh, 01 Quân Vụ Bội Tinh, 01 Hải Vụ Bội Tinh, 01 Không Vụ Bội Tinh, 01 Chiến Dịch Bội Tinh, 01 Cảnh Sát Bội Tinh, 01 Dân Vụ Bội Tinh, 01 Xây Dựng Nông Thôn Bội Tinh, 01 Xã Hội Bội Tinh.

Đã tham dự:

  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự chiến dịch Hồng Nhạn và Chiến dịch Sóng Tình Thương.
  • Sau 30-04-1975, bị Cộng Sản Việt Nam cầm tù ngoài Bắc 10 năm. Năm 1986 Ông cùng gia đình vượt biển đến Mỹ.

Hải Quân Đại Tá Dư Trí Hùng

Ông Dư Trí Hùng sinh năm 1933;  xuất thân khóa 2 trường sĩ quan Hải Quân Pháp, tại Brest, năm 1955. Sau đó, ông thực tập hải nghiệp trên Tuần Dương Hạm Jeanne d’Arc trong một năm. Ông tốt nghiệp năm 1956.

Đơn vị đã  phục vụ:

  • Hạm Phó HQ 05.
  • Hạm Trưởng: HQ 225; HQ 114; HQ 402; HQ 500; HQ 12.
  • Trưởng phòng 4 Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đội II.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.

Tu nghiệp:

  • Lớp thực tập rà mìn tại Charleston, South Corolina.
  • Bổ túc thực hành về Quản Trị vật liệu tại Trung Tâm Tiếp Liệu Hải Quân Hoa Kỳ, Guam.
  • S. Post Graduate School, Monterey, California.
  • S. Naval War College, tại Newport, Rhodes Island.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương đệ ngũ đẳng kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.
  • 01 Hải Quân Huân Chương.
  • 01 Huấn Vụ Bội Tinh.
  • 01 Hải Vụ Bội Tinh.

Thành tích:

  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự chiến dịch Năm Căn, giai đoạn I.
  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân đuổi bắt và đánh chìm một tàu Việt Cộng chuyển vũ khí từ Bắc vào Hòn Hèo, Nha Trang, thuộc hải phận Vùng II Duyên Hải, vào Tết Mậu Thân, 1968.

Hải Quân Đại Tá Đỗ Kiểm

Ông Đỗ Kiểm sinh năm 1933, tại Hà Nội; xuất thân khóa 3 trường sĩ quan Hải Quân Pháp tại Brest.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hạm trưởng HQ 537; HQ 331; HQ 06; HQ 07.
  • Hiệu Trưởng trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.
  • Tư Lệnh Phó Hạm Đội.
  • Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải.
  • Tham Mưu Trưởng Hành Quân sông.
  • Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Postgraduate school, California.
  • Chỉ Huy Tham Mưu cao cấp, Dalat.

Ân thưởng:

  • Đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • Đệ nhất đẳng Hải Quân Huân Chương.
  • 07 Anh Dũng Bội Tinh: 01 ngôi sao vàng với nhành dương liễu, 03 ngôi sao bạc, 03 ngôi sao đồng.
  • 01 Đệ nhất Danh Dự Bội Tinh, 01 Tham Mưu Bội Tinh, 01 Kỹ Thuật Bội Tinh, 01 Hải Vụ Bội Tinh, 01 Huấn Luyện Bội Tinh, 01 Chiến Công Bội Tinh.

Thành tích:

  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự hành quân Rừng Sát và chiến dịch Sóng Tình Thương.
  • Chỉ Huy Phó hành quân tảo thanh các hải đảo.
  • Đồng Chỉ Huy Trưởng hành quân hỗng hợp Việt Mỹ Sea Float.
  • Chỉ Huy Trưởng hành quân Trần Hưng Đạo – Năm Căn.
  • Chỉ Huy Trưởng hành quân tảo thanh sông Giang Thành – Kinh Vĩnh Tế.
  • Chỉ Huy Trưởng hành quân Campuchia – khu vực Nam.
  • Chủ tịch Ủy Ban Liên Hợp 3 quốc gia: Việt, Mỹ, Cao Miên để tiếp tế Campuchia.
  • Đặc trách soạn thảo và thi hành kế hoạch di tản Hải Quân V.N.C.H., tháng 04-1975.

Hải Quân Đại Tá Ngô Khắc Luân

Ông Ngô Khắc Luân sinh năm 1933; xuất thân khóa 2 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan hải hành rồi trở thành Hạm Phó YMS Belladone của Pháp.
  • Hạm Trưởng HQ 12; LSIL 328; HQ 02; HQ 502.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Khu Vũng Tàu – về sau được cải danh là Vùng III Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Khu Đà Nẵng – về sau được cải danh là Vùng I Duyên Hải.
  • Trưởng phòng II kiêm phụ tá Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Phó Hiệu Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quan Nha Trang.
  • Chỉ Huy Trưởng liên Giang Đoàn 25-26 Xung Phong.
  • Trưởng phòng I Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đội II.
  • Biệt phái sang Cao Miên với chức vụ Chỉ Huy Trưởng Task Force 210.
  • Chỉ Huy Trưởng  Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận Hải Quân.

Tu nghiệp:

  • Mine warfare school, South Carolina.
  • Tham Mưu school Point Loma, San Diego, California.
  • Instructor school, San Diego, California.
  • English school  Lackland, Texas.
  • S. Postgraduate school  Monterey, California.
  • S. Naval War College Newport, Rhode  Island.

Ân thưởng:

  • Để Ngủ đẳng Bảo quốc Huân Chương.
  • 01 Hải Vụ Bội Tinh.
  • 12 Anh Dũng Bội Tinh.
  • 01 Chiến Thương Bội Tinh.
  • 01 Hải Quân Huân Chương.
  • 01 Legion of Merit do Tổng Thống Hoa Kỳ – Richard Milhous Nixon – ban thưởng.

Thành tích:

  • Chỉ huy tất cả đơn vị tác chiến Hải Quân thuộc Vùng III Sông Ngòi tham dự các cuộc hành quân dài hạn trong chiến dịch Rừng Sát.

Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn May

Ông Nguyễn Văn May sinh năm 1933; xuất thân khóa 5 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Trước khi được tuyển nhận vào khóa 5 sĩ quan Hải Quan Nha Trang, ông đã tốt nghiệp trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền.

  • Đơn vị đã phục vụ:
  • Hải Đoàn 21 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 23 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 25 Xung Phong.
  • Hạm Trưởng HQ 328; HQ 116; HQ 11.
  • Phó trưởng phòng III Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn 26 – 32 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn I Tuần Thám – 212.1.
  • Phụ Tá Tư Lệnh hành quân Trần Hưng Đạo 18.
  • Tư Lệnh Phó Vùng III Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đội II.
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng V Duyên Hải.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Post Graduate School, California.
  • Chỉ Huy Tham Mưu.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương đệ ngũ đẳng.
  • 03 Anh Dũng Bội Tinh: 02 ngôi sao vàng, 01 ngôi sao bạc.
  • 01 Bronze Star của Hoa Kỳ.

Thành tích:

  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự hành quân Trần Hưng Đạo 18; thường xuyên phối hợp với Bộ Binh thuộc các tỉnh Kiên Giang, Kiến Phong, Mộc Hóa, v.v… để chống trả hoặc càn quét sự xâm nhập của Việt Cộng dọc biên giới Miên Việt.
  • Hành quân Trần Hưng Đạo 18 cũng phối hợp với các đơn vị Hải Quân như chiến hạm, Giang Đoàn Tuần Thám, Giang Đoàn Ngăn Chận, Hải Đội Duyên Phòng, v.v…để bảo vệ an ninh thủy trình cho các đoàn thương thuyền từ Nam Vang đến Tân Châu hay ngược lại.
  • Các chiến hạm biệt phái cũng như những đơn vị Hải Quân trực thuộc Bộ Tư Lệnh Vùng V Duyên Hải phối hợp với Địa Phương Quân để săn lùng, tiêu diệt địch quân và yểm trợ các chiến hạm chở dầu tiếp tê cho Căn Cứ Hải Quân Năm Căn.

Hải Quân Trung Tá Hồ Quang Minh

Ông Hồ Quang Minh sinh năm 1938; xuất thân khóa  8 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hải Đoàn 25 Xung Phong.
  • Sĩ quan đệ Tam HQ 327.
  • Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn 26.
  • Đại diện Hải Quân Vùng II Duyên Hải, tại Qui Nhơn.
  • Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 23 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 30 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn V Tuần Thám – Liên Đoàn Đặc Nhiệm 212.5
  • Thực tập Hạm Trưởng, HQ 2.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn I Ngăn Chận.
  • Chỉ Huy Trưởng đơn vị Đặc Nhiệm của Lực Lượng Tuần Thám

Tu nghiệp:

  • Chỉ Huy Tham Mưu cao cấp – Long Bình.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương với nhành Dương Liễu.
  • 25 Anh Dũng Bội Tinh: 23 với nhành Dương Liễu, 02 với ngôi sao đồng.
  • 03 Chiến Thương Bội Tinh.
  • 03 Navy Commendation Medal with Combat V của Hoa Kỳ.

Thành tích:

  • Tham dự chiến dịch Sóng Tình Thương.
  • Chỉ huy Duyên Đoàn 26 tấn công sào huyệt của Việt Cộng tại Vĩnh Hy.
  • Chỉ huy Duyên Đoàn 26 bắt 2 ghe lớn của Trung Cộng chở nhiều vũ khí.
  • Chỉ huy Giang Đoàn 30 & 24 Xung Phong phối hợp hành quân với nhiều đơn vị Hoa Kỳ và Việt Nam trong cuộc hành quân dài hạn Tam Giác Sắt
  • Chỉ huy Giang Đoàn 26 Xung Phong hiệp cùng Sư Đoàn 21 Bộ Binh và các đơn vị bạn hành quân dài hạn và luân phiên chịu trách nhiệm an ninh cũng như yểm trợ các đồn dọc theo sông rạch thuộc U Minh Thượng, U Minh Hạ, sông Trèm Trẹm, sông Cái Lớn và vùng biên giới Miên Việt.
  • Phối hợp hành quân để yểm trợ và chuyên chở người Việt từ Cao Miên về Việt Nam.

Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc

Ông Hà Văn Ngạc sinh năm 1935; xuất thân khóa 5 sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Hạm Trưởng HQ 225; HQ 451; HQ 09.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 25 Xung Phong; Giang Đoàn 22 Xung Phong.
  • Tham Mưu Trưởng Vùng IV Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đội IV Duyên Phòng.
  • Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đội III Tuần Dương – Hải Đội Đặc Nhiệm Hoàng Sa.
  • Phụ tá về Hải Quân cho Trung Tướng Phan Trọng Chinh – Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Liên Quân tại Long Bình.

Tu nghiệp:

  • S. Navy Oceanographic Office.
  • S. Naval Postgraduate School, California.

Ân thưởng:

  • Certificate of Achievement Awarded for Outstanding United States-Vietnamese Naval Support for the 2nd Battalion, 3rd Infantry Brigade.
  • Bằng Tưởng Lục cấp Quân Đoàn.

Thành tích:

  • Tham dự Hội Nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ IV về Đồ Bản khu vực Á Châu và Viễn Đông tại Tehran, Iran.
  • Với chức vụ Chỉ Huy Trưởng Hải Đội Đặc Nhiệm Hoàng Sa, trong trận hải chiến với Trung Cộng tại Hoàng Sa, ngày 19 tháng 01 năm 1974, Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã thi hành chỉ thị của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại để ra lệnh cho các chiến hạm của Hải Quân V.N.C.H. khai hỏa – trước khi chiến hạm của Trung Cộng tấn công.
  • Tác giả của 03 phần tài liệu: Tìm Hiểu Về Quần Đảo Hoàng Sa, Những Diễn Biến Đưa Tới Trận Hải Chiến Hoàng Sa, Tường Thuật Trận Hải Chiến Lịch Sử tại Hoàng Sa.

Hải Quân Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn

 Ông Nguyễn Xuân Sơn sinh năm 1935; tốt nghiệp khóa 4 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Thuyền Trưởng HQ 537
  • Hạm Trưởng HQ 330; HQ 03; HQ 04.
  • Nhận lãnh từ Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 09
  • Tham Mưu Phó Nhân Niên Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Vùng III Duyên Hải.
  • Tư Lệnh Hạm Đội.

Tu nghiệp:

  • S. Naval Postgraduate school, California.
  • S. Naval War College.

Ân thưởng:

  • Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • 02 Anh Dũng Bội Tinh: 01 với nhành dương liễu, 01 với ngôi sao vàng.

Thành tích:

  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự hành quân vào mật khu Ba Động, cửa sông Bà Lai; hành quân vào mật khu Lăng Cô, Bà Rịa.
  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự hành quân Liên Quân, yểm trợ những đoàn tàu thuyền tiếp tế PnomPenh.
  • Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân Liên Quân Hoa Kỳ, Việt Nam và Cao Miên trong công tác yểm trợ các đoàn công voa tiếp tếNamVang.

Cựu Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thiện

Ông Nguyễn Văn Thiện sinh năm 1936. Ông đỗ thủ khoa khóa 7 sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan đệ tam HQ 400.
  • Sĩ Quan Tùy Viên cho Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn.
  • Sĩ quan đệ tứ rồi trở thành Hạm Phó HQ 07.
  • Hạm Phó: HQ 226; HQ 401; HQ 114.
  • Hạm Trưởng: HQ 602; HQ 05; HQ 1; HQ 5; B6 – Lực Lượng Hải Tuần.
  • Chỉ Huy Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Bộ Chỉ Huy Vùng IV Duyên Hải.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn 23 – 31 Xung Phong.
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn 21 – 33 Xung Phong.
  • Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân vùng III Sông Ngòi.
  • Chỉ Huy Trưởng Hải Đội II – Hải Đội Chuyển Vận.
  • Tư Lệnh Phó Bộ Tư Lệnh Hạm Đội.
  • Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Duyên Hải kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.4 kiêm Đặc Khu Trưởng Đặc Khu Phú Quốc.

Tu nghiệp:

  • Khóa Anti Submarine warfare, Anti Air warfare, tại Hoa Kỳ
  • Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp.

Ân thưởng:

  • Đệ ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
  • 01 Hải Quân Huân Chương.
  • 01 Hải Vụ Bội Tinh với ngôi sao Bắc Đẩu.
  • 01 Chiến Thương Bội Tinh.
  • 01 Tham Mưu Bội Tinh, 01 Dân Vụ Bội Tinh, 01 Chiến Dịch Bội Tinh, 01 Kỹ Thuật Bội Tinh, 01 Không Vụ Bội Tinh, 01 Quân Vụ Bội Tinh.
  • 09 Anh Dũng Bội Tinh: 02 với nhành dương liễu, 02 ngôi sao vàng, 03 ngôi sao bạc, 02 ngôi sao đồng.

Thành tích:

  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân hành quân hỗn hợp dài hạng với Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam và Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân hành quân với Lực Lượng Thủy Bộ và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại U Minh Thượng, U Minh Hạ, sông Bồ Đề, Vị Thanh, Hỏa Lựu và sông Cái Lớn.

Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Tòng

Ông Nguyễn Văn Tòng sinh năm 1932; tốt nghiệp khóa 7 trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Đơn vị đã phục vụ:

  • Sĩ quan đệ tam HQ 225.
  • Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 26 Xung Phong.
  • Hạm Phó rồi trở thành Hạm Trưởng HQ 331.
  • Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 24 Xung Phong; Giang Đoàn 21 Xung Phong.
  • Trưởng Ban hành quân Phòng III Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Trưởng Ban địa ốc và vận chuyển Phòng IV Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Trưởng Phòng II Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi.
  • Phó Trưởng Phòng II Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
  • Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 32 Xung Phong
  • Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn II Thủy Bộ; Liên Đoàn I Tuần Thám.
  • Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng III Sông Ngòi.
  • Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân Biệt Khu Thủ Đô.

Tu nghiệp:

  • Khóa Phân Phối về Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu.
  • Khóa Tham Mưu Đại Học Quân Sự Dalat.
  • Khóa Tình Báo, Trường Cây Mai, Cholon.
  • Chỉ Huy Tham Mưu Long Bình.
  • Khóa Tình Báo Cao Cấp thuộc Trường Tình Báo Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tại Okinawa, Nhật.

Ân thưởng:

  • Bảo Quốc Huân Chương đệ ngũ đẳng.
  • 06 Anh Dũng Bội Tinh: 01 với nhành dương liễu; 02 ngôi sao vàng; 01 ngôi sao bạc; 02 ngôi sao đồng.

Thành tích:

  • Chỉ huy Giang Đoàn 26 Xung Phong tham dự hành quân cấp Sư Đoàn tại Kiến Phong để yểm trợ Tiểu Đoàn I Nhảy Dù.
  • Chỉ huy đơn vị Hải Quân tham dự chiến dịch Sóng Tình Thương; hành quân Trần Hưng Đạo, tại Neak Lương, Cao Miên.

Phần 4

LỜI CHÂN TÌNH của “THỦY THỦ KHÔNG SỐ QUÂN”

ĐIỆP MỸ LINH

Là một ngòi bút không chuyên nghiệp, nhưng tôi lại rất say mê viết về sự hào hùng, lòng dũng cảm cũng như những đau thương, những thống hận của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.) trong cuộc chiến giữa chính thể V.N.C.H. và Cộng Sản Việt Nam, từ năm 1954 đến 1975.

Lý do tôi say mê viết về Lính không những vì Bố của các con tôi – Cố Hải Quân trung tá Hồ Quang Minh – là Lính mà em tôi, em của Minh và bạn học của tôi thời thơ dại cũng đều là Lính.

Vì thích viết về Lính, cho nên, cách nay khá lâu, Hội Sử Học đã nhờ tôi viết Sơ Lượt Về Lịch Sử Hải Quân V.N.C.H. và gần đây, Hội Sử Học lại nhờ tôi biên khảo về những quân nhân Hải Quân có nhiều công trạng trong cuộc chiến vừa qua, tôi nhận lời ngay.

Sau khi nhận lời giúp Hội Sử Học, tôi mới nhận ra được nhiều trở ngại mà tôi phải trực diện. Đó là – cũng như đa số di dân thế hệ thứ nhất – quân nhân Hải quân V.N.C.H. không còn trẻ nữa; nhiều vị tuổi khá cao, không nhớ được nhiều và nhiều vị không còn nữa!

Sau thời gian dài tra cứu tài liệu và nhờ sự giúp đở tận tình của Đại Gia Đình Hải Quân, phần tài liệu đã xong; nhưng tôi biết vẫn còn nhiều thiếu sót.

Trong phần tài liệu, cấp bậc được nêu cùng với tên của mỗi quân nhân là cấp bậc sau cùng của quân nhân đó; vì vậy, khi viết về những vị đã qua đời, tôi không dùng chữ “cố”, cũng như tôi không dùng chữ “cựu/nguyên”  khi viết về các vị khác.

Tài liệu này được chia làm 3 phần:

1.- Các Vị Tư Lệnh Hải Quân, được sắp theo thời gian các vị đó đảm nhận chúc vụ.

2.- Các vị Phó Đề Đốc, được sắp theo mẫu tự tên của từng vị.

3.- Các vị sĩ quan cấp Tá, được sắp theo mẫu tự tên của từng vị.

Danh Sách Quân Nhân Hy Sinh trong trận Hải Chiến Hoàng Sa, 19-01-1974 do 2 sĩ quan Hải Quân – ông Trần Chấn Hải và ông Trần Kim Ngọc – cung cấp.

Hội Sử Học cũng yêu cầu tôi viết vài dòng về Điệp Mỹ Linh, nhưng tôi rất ngại ngùng; vì Điệp Mỹ Linh chỉ là “ngòi bút bất đắc dĩ”! Thật vậy, thời mới lớn, khi đàn Accordéon và hát trong Ban Ca Nhạc Bình Minh – do Ba tôi thành lập – để phụ trách phần văn nghệ cho đài phát thanh Nha Trang, tôi chỉ ước mơ được trở thàng nghệ sĩ trình diễn; nhưng Ba Má tôi không cho phép! Thấy tôi buồn, Ba tôi – bút hiệu Điệp Linh, cộng tác với báo Sóng Thần, Đuốc Thiêng và nhiều báo khác – khuyến khích và dạy tôi…cầm bút.

Sau khi lập gia đình, Minh không muốn tôi viết/đàn/hát; thế là tôi trở thành “Thủy Thủ không số quân”, được tháp tùng theo các đơn vị tác chiến do Minh chỉ huy.

Trong các cuộc hành quân hỗn hợp, thấy rõ sự can cường, sự hy sinh liều lĩnh của Người Lính V.N.C.H. lòng tôi dâng lên niềm thương cảm và tôi “lén” viết những bài tường thuật ngăn ngắn, gửi đến các báo với nhiều bút hiệu khác nhau – để Minh khỏi nhận ra tôi là tác giả!

Trước khi dừng bút, tôi xin trân trọng cảm ơn quý độc giả thích đọc bài/truyện của tôi; xin cảm ơn Hội Sử Học đã tin tưởng tôi; xin cảm ơn Đại Gia Đình Hải Quân lúc nào cũng yểm trợ ngòi bút của tôi; và tôi cũng xin chân thành biết ơn Ba tôi – người đã dạy tôi đàn/hát/viết văn.

Và tôi cũng xin gửi theo đây lời xin lỗi những vị nào/websites/tài liệu nào tôi đã trích dẫn mà quên ghi chú.

Trân trọng,

Điệp Mỹ Linh

http://www.diepmylinh.com/

HQ 402 NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

HQ Trung Úy Nguyễn Văn Thước


Sau ba mnvthuoc1ươi bẩy năm xa quê hương, nay xin cùng các bạn hồi tưởng lại ngày chúng tôi rời Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975 trên con tàu mang tên Hải Vận Hạm Lam Giang HQ-402.
Cuối năm 1974, tôi được thuyên chuyển về Hạm Đội, Hải Vận Hạm Lam Giang HQ-402. Sau những chuyến công tác Đà Nẵng vào dịp Giáng Sinh năm 1974, và chuyến công tác Năm Căn vào chiều ngày 28 Tết Âm Lịch đầu năm 1975, chiến hạm HQ-402 còn thêm một chuyến công tác ra Đà Nẵng vào khoảng gần cuối tháng 3 năm 1975. Trong chuyến công tác ra Đà Nẵnglần cuối cùng này, chiến hạm đã di tản Thủy Quân Lục Chiến ở bãi biển Sơn Trà nằm ở phía Nam Đà Nẵng về Cam Ranh. Trong lần đầu ủi bãi, nước cạn nên tàu đã không vào sát bờ được, và mọi người đã phải lội ra tàu, trong số đó có cả tướng Ngô Quang Trưởng. Sau đó tàu đã ra khơi để chuyển người qua chiếc Hải Vận Hạm Hương Giang HQ-404 nằm ngoài khơi vì cửa đổ bộ của HQ-404 đã không thể mở được. Sau đó HQ-402 lại trở vào ủi bãi lần thứ hai để đón tiếp TQLC. VC từ trên núi pháo kích xuống bờ biển ồ ạt, đạn rơi lõm bõm chung quanh chiến hạm, nên chỉ vớt được một số quân TQLC bơi ra gần được chiến hạm thì đành phải rút lùi ra, và không dám ở lại để đón tiếp. Chiến hạm vận chuyển về đến Cam Ranh để đổ quân TQLC xuống. Sáng ngày hôm sau lại có lệnh cho chiến hạm ra đón gia đình Hải Quân thuộc Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang về Sài Gòn. Từ Sài Gòn HQ-402 đã được lệnh công tác tiếp tế các đơn vị ngoài hải đảo vùng Trường Sa. Chuyến này thì tôi bị trễ tàu nên đã không có dịp theo chuyến hải hành, nhưng khi tàu mới ra tới Vũng Tàu thì máy móc lại bị hư nên đã được quay trở về Sài Gòn để vào đại kỳ.
Sáng ngày 28 tôi đi bờ về nhà ở vùng Xóm Mới, Gò Vấp để ăn cơm trưa, và bị kẹt lại luôn ở lại nhà vào đêm 28 tháng 4. Sáng sớm ngày 29, VC đào hố chôn súng cối ngay trước cửa nhà chúng tôi. Tờ mờ sáng, ba tôi đã đánh thức cả nhà dậy để đi lánh nạn. “Dắt díu” nhau, chúng tôi ra đến gần nhà thờ Xóm Mới thì bị đám Nhân Dân Tự Vệ súng ống lăm lăm, quát tháo: ”Giờ này mà còn đi đâu?” Chúng tôi chạy vào trong sân nhà thờ trú ẩn. Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau lời kêu gọi quân nhân đi trình diện của tướng Minh trên đài phát thanh, tôi từ giã gia đình ra đi trình diện. Vì không có xe nên tôi ghé qua nhà anh bạn cùng khóa Nguyễn Văn Chừng, cũng ở gần nhà để mong qúa giang đi vào đơn vị. Nhưng nhà kế bên đã cho biết là cả gia đình bạn Nguyễn Văn Chừng đã đi từ hồi đêm. Tôi chắc mẩm là mình chỉ còn lại một con đường là ra đi trình diện mà thôi!
Từ nhà bạn Nguyễn Văn Chừng, tôi đã phải cuốc bộ ra đến bến xe lam và xe buýt gần nhà, nhưng bãi vắng hoe, và không còn một chiếc xe nào đón khách nữa! Tôi đã phải tiếp tục đi bộ ra đến tận Tổng Y Viện Cộng Hoà mới đón được chiếc xe Honda ôm chở tới ngã ba đường Cường Để và Hùng Vương. Tôi đi bộ vào chiến hạm, Hải Vận Hạm Lam Giang HQ-402 đang đậu ở cầu E, bên trong Hải Quân Công Xưởng. Khi đến nơi, một số nhân viên cơ hữu của chiến hạm còn lại đã cho tôi biết là Hạm trưởng đã ra đi hồi đêm. Mọi người đã yêu cầu tôi xuống phòng hạm trưởng, lấy qũy còn lại để chia cho anh em lấy làm lộ phí đi về. Sau khi chia đều ra, mỗi người còn lại được $6500. Vào lúc này, những vị trí canh gác Hải Quân tại cổng trên đường Cường Để vẫn còn nghiêm chỉnh và chặt chẽ.
Cơ khí trưởng chiến hạm cũng là một người cùng khoá với tôi, bạn Cao Thế Hùng. Tôi lò mò leo xuống hầm máy, Hùng và một số nhân viên cơ khí đang ra sức lắp ráp lại máy tàu. Tôi hỏi Hùng “Sao, tàu có sửa được không?” Hùng lắc đầu chán nản! Đi ra ngoài, lính gác cổng không cho ra vì còn nghiêm lệnh! Tôi quay trở lại tàu, xuống phòng và thiếp ngủ được một chút. Tỉnh dậy, tôi leo lên boong tàu, gặp một anh bạn cũng ở khu Xóm Mới và thuộc khoá 21 đang chuẩn bị đi về. Hỏi tôi có đi về không? Tôi xin đi quá giang, và chạy vội xuống phòng để lấy cái túi xách cá nhân nhưng leo lên boong thì anh bạn khóa 21 đã đi mất! Tôi gặp lại cơ khí trưởng Cao Thế Hùng, quần áo, đầu tóc lem luốc dính đầy dầu mỡ, đang đứng thở trên boong. Tôi lại hỏi anh về tình trạng sửa chữa con tàu, và anh lại lắc đầu chán nản! Tôi gặp được hai sĩ quan cơ hữu chiến hạm thuộc khóa 25 đang định đi về vì tình hình chiến hạm không sửa được, còn các chiến hạm khiển dụng thì đã ra đi từ hồi đêm ngày 29 rồi! Tôi xin họ cho qúa giang ra đến khu Đa Kao. Lúc này là lúc Tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng rồi nên cửa ra vào HQCX và bến Bạch Đằng đã bị bỏ ngỏ.

Hải vận hạm Lam Giang

Tôi xuống xe, đi bộ qua cầu Bông, và lần theo đường Lê Văn Duyệt để về khu Xóm Mới. Khi đến khu Lăng Ông, gần chợ Bà Chiểu, tôi thấy có một chiếc xe GMC chở đầy gạo. Tôi hỏi tài xế, và họ nói phải chở về khu Gò Vấp. Tôi xin đi qúa giang. Xe chạy lòng vòng một hồi, và không biết vì lý do gì xe lại phải quay về chỗ cũ gần chợ Bà Chiểu. Tôi thấy mất thì giờ và không thể đi xa hơn được nên xuống xe và tiếp tục “cuốc” bộ về Gò Vấp. Trên đường đi, nhiều toán Nhân dân Tự Vệ đã quay đầu trở thành dân 30 tháng 4 với băng đỏ đeo ở cánh tay, và đứng chận đường xét người qua lại. Tôi lẩn vào trong một ngõ hẻm tìm chỗ vứt đi cây colt 45 nằm trong túi xách. Nhờ bộ đồ 4 túi màu tím, nên khi đi ngang qua thì bọn chúng không chận lại hạch hỏi lôi thôi. Khi tới bến xe lam và xe buýt ở Gò Vấp thì bất ngờ bắt gặp ba tôi đang chở mọi người trong gia đình trên chiếc xe nhà cũng vừa trờ tới. Tôi nhẩy lên ngồi cạnh ba tôi, và chúng tôi quyết định quay trở lại bến Bạch Đằng với một hy vọng mong manh là sẽ còn có một con đường thoát thân ra khỏi Việt Nam bằng bất kỳ một chiếc tàu hay chiếc ghe nào còn sót lại.
Khi đi ngang qua toà Tỉnh trưởng Gia Định, chúng tôi thấy một đoàn xe chở đầy cán binh Việt Cộng, có cả thiết vận xa đi kèm đang đi về hướng Sài Gòn. Chúng tôi nhập vào đoàn và chạy theo. Đến ngã ba Cường Để và Hùng Vương, đoàn quân xa chở Việt Cộng đi thẳng còn chúng tôi thì quẹo trái vào đường Cường Để để vào trong khu Hải Quân Công Xưởng. Khi đến cầu E, trên chiếc Hải Vận Hạm HQ-402 người ta đã lên đông nghẹt. Tôi đưa gia đình tôi lên tàu, và vừa lên tàu xong thì tàu nổ máy, nên tôi vội vàng để gia đình và vợ con tự tìm lấy chỗ ở. Vì là một sĩ quan cơ hữu nên tôi đã biết chắc là hệ thống tình trạng tay lái điện trên tàu đã bị bất khiển dụng. Tàu đã bắt đầu nổ máy đều được. Tôi gặp người bạn cùng khóa là Lưu An Huê ở ngay dưới chân đài chỉ huy. Tôi bảo với Lưu An Huê là hãy tập họp một số thanh niên tình nguyện để lập một đường dây truyền lệnh miệng từ đài chỉ huy xuống tới cửa hầm lái tay cho tôi. Chúng tôi đã xoay tay lái theo lệnh truyền xuống từ đài chỉ huy. Tay lái tay của chiến hạm cũng hơi giống như tay lái trên phòng lái, nhưng nằm ở phía cuối chiến hạm, và trực tiếp được nối thẳng vào bánh lái tàu qua một hệ thống cơ và dây xích.Tôi ở dưới hầm lái tay miết đến khoảng 5 giờ chiều, thì bạn Lưu An Huê mới chợt nhớ đến là tôi vẫn còn đang phải lui cui ở dưới hầm lái tay, và anh cho kêu người thay thế. Bạn Lưu An Huê và tôi cho lập danh sách những thanh niên tình nguyện để chia ca lái tay theo lệnh của đài chỉ huy. Sau đó tôi leo lên boong tàu, thấy tàu đã ra đến khoảng ngã ba Nhà Bè, và thấy có một chiếc PGM, chiếc Tuần Duyên Hạm Tiên Mới HQ-601 đang từ hướng cửa biển chạy ngược vào. Mọi người trên chiếc PGM đang ở trong nhiệm sở tác chiến. Họ cho biết là sông Lòng Tào đã bị VC đóng chốt. Trong khoảng thời gian từ khi tàu rời cầu E cho đến Nhà Bè thì tôi đã không biết tình hình bên trên, hay tàu có dừng lại để vớt thêm những ai nữa hay không vì còn mải xoay tay lái trong hầm lái tay. Nhưng tại đây thì thấy có nhiều giang đỉnh và những ghe dân túa ra, cặp vào bên hông tàu để mọi người leo lên. Tàu chuyển hướng chạy về phía sông Soài Rạp.
Trời bắt đầu nhá nhem tối, tôi mò vào phòng radar, nằm phía dưới đài chỉ huy, và thử bật máy radar lên coi xem có còn hoạt động hay không? Dàn radar vẫn còn hoạt động bình thường, nên tôi tiếp tục theo dõi màn hình radar vì con tàu còn đang hải hành trên sông. Khoảng 12 giờ đêm thì tàu ra khỏi cửa Soài Rạp, không còn nguy hiểm nữa, nên tôi tắt máy radar và leo lên đài chỉ huy. Đại tá Dõng (?) đang nằm trên võng đong đưa, và theo dõi âm thoại liên lạc vô tuyến giữa những chiến hạm đang trên đường ra Côn Sơn bằng một máy truyền tin PRC-25. Vị sĩ quan đương ca mà tôi không nhớ mặt khi thấy tôi xuất hiện, bèn lẳng lặng leo xuống vì tưởng là tôi lên ca để thay thế! Bất đắc dĩ tôi lại phải đi “ca cách mạng”, và cũng chẳng thấy ai lên thay thế, nên tôi đã phải “gồng mình” tiếp tục đứng trên đài chỉ huy cho đến hừng sáng ngày hôm sau mới thấy có người lên thay thế. Trong thời gian ở trên đài chỉ huy, Đại tá Dõng lâu lâu vẫn nhắc lệnh cho tôi giữ hướng ra đảo Côn Sơn. Xuống ca tôi lại phải vội vàng ra boong lo lấy bạt cho mọi người chăng lên để che nắng. Xong chuyện rồi tôi mới vội vã lo đi tìm vợ con để đưa xuống phòng ngủ của tôi, xuống đến nơi thì chúng tôi thấy là đã có người khác chiếm mất rồi! Tôi đã yêu cầu họ nhường lại cho chúng tôi vì tôi là một sĩ quan cơ hữu của tàu và từ hôm qua cho tới giờ vì mải lo công việc để tàu chuyển vận được, và bây giờ mới có thì giờ đưa vợ con xuống phòng. Tôi yêu cầu một vị linh mục giúp tôi lập danh sách những người trên tàu để hỏa đầu vụ có thể cung cấp cơm cho họ, ưu tiên cho những người đã tình nguyện vận chuyển, và gia đình có con còn nhỏ. Vì trên chiến hạm qúa đông người nên việc này chắc cũng đã không thể nào thực thi cho chu toàn được, nhưng tôi đã làm cố hết sức những gì mà tôi đã có thể thực hiện được.
Khi ra đến gần Côn Sơn thì có chiếc PCE Hộ Tống Hạm Đống Đa HQ-07 (tôi không nhớ rõ đã là chiếc này hay chiếc khác) được lệnh quay trở lại để kéo tiếp sức tàu chúng tôi. Cơ khí trưởng Cao Thế Hùng và một số nhân viên cơ khí vẫn tiếp tục sửa chiếc máy điện, và qua ngày hôm sau, ngày 2 tháng 5 năm 1975 thì sửa xong được một máy phát điện. Vì tình trạng tàu qúa hư hỏng và được sự khuyến cáo của ban cơ khí Hoa Kỳ khi qua giám sát tình trạng máy móc, nên BTL/Hải Quân đã quyết định bỏ chiếc HQ-402 lại. Mọi người đã được chuyển qua những chiến hạm khác của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Gia đình tôi và một số người khác đã được chuyển qua chiếc WHEC, Tuần Dương Hạm Trần Quang Khải HQ-02. Chiếc Hải Vận Hạm Lam Giang HQ-402 đã được tháo valve (Lỗ Lù) hầm máy để cho nước biển vào, và trước khi có lẽ đã được dùng làm vị trí tác xạ cho những chiến hạm khác. Hải Vận Hạm Lam Giang HQ-402 đã được đánh chìm và bỏ xác lại trong hải phận Việt Nam, gần đảo Côn Sơn. Sau khi lên Subic Bay, gia đình chúng tôi đã được chuyển đi trại tỵ nạn trên đảo Wake trước khi được đưa sang Camp Pendleton, và đã được bảo trợ về Texas.
Theo nhận xét cá nhân và đức tin của tôi thì việc chúng tôi đã đào thoát được ra khỏi Việt Nam trên chiếc Hải Vận Hạm Lam Giang HQ-402 là phải do ơn trên sắp đặt. Chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa đã xếp đặt đưa gia đình chúng tôi tới đất Mỹ này một cách huyền diệu mà không ai có thể hiểu được sự huyền nhiệm này, và chỉ có những người trong cuộc như chúng tôi thì mới cảm nhận được cái sự sắp xếp của ơn trên này. Gia đình chúng tôi khi ra đi chỉ có 13 người, nay con số này đã được nâng lên đến tổng số là 44 người.

Hàng Trăm TÀI LIỆU về HOÀNG SA và TRƯỜNG SA

http://navygermany.gerussa.com/

Phán Quyết của Toà Trọng Tài Thường Trực về Luật Biển: Hiệu lực và thực tế:Đại Dương 
Tài liệu Hải Quân Việt Nam Cọng Hoà
Xem Hai Su Tuyen Tap
Danh sách Tử Sĩ Hoàng Sa ngày 19.01.1974 được cập nhật mới nhất ngày 03.03.2017 bởi Ban Hải Sử HQVNCH
Lễ Tưởng niệm Ngày Hoàng Sa tại Houston, Hoa Kỳ ngày 22.01.2017

Giỗ trận Hoàng Sa tại San Diego, California Hoa Kỳ ngày 20.01.2017

Tưởng niệm Anh Hùng Hải Chiến Hoàng Sa19.01.1974-19.01.2017

Link các Youtube nói về Ngày Hoàng Sa 19.01.1974-19.01.2017

Sài gòn: Tưởng niệm Anh Hùng Tử Sĩ Hoàng Sa 19.01.1974 ngay tại Tượng Đài Trần Hưng Đạo Sài Gòn
Mời xem đồng bào biểu tình nhân ngày Tưởng Niệm Anh Hùng Tử Sĩ Hoàng Sa 
Hà Nội: Hàng trăm đồng bào tham dự Lễ Tưởng Niệm Anh Hùng Tử Sĩ Hoàng Sa

Tưởng niệm Chiến sĩ Hoàng Sa, Trường sa: Vi Anh
Bà quả phụ cố HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí qua đời

Văn Tế Anh Linh Tử Sĩ Hoàng Sa 2017

Chiến tranh hải đảo ở biển Đông hoặcKS Nguyễn Văn Phảy
Tử sĩ Hoàng Sa_Nguyễn Thành Trọng
Việt Nam có thể mất Trường Sa?_Trương Nhân Tuấn
Hành quân Trần Hưng Đạo 47_Hải Chiến Hoàng Sa: Phạm Mạnh Khuê
Trận Hải Chiến giữa VNCH và Trung Cộng: Phạm Mạnh Khuê
(đang được bổ sung)
Hồi Ký Hoàng Sa_HQ10: Hà Đăng Ngân
Văn Tế Anh Linh Tử Sĩ Hoàng Sa
Tầm quan trọng của Đảo Nhân Tạo Gạc Ma: GS Nguyễn Văn Canh   
Hải Bất Dương BaPhi Ngọc Hùng
Hoàng Sa Trường Sa trong Hội Nghị San Francisco 1951: Trần Gia Phụng
Giải Quyết Hoàng Sa và Trường bằng Pháp Lý hay Chính Trị: Đại Dương
Hoa Kỳ kết liễu sự mập mờ của Trung cộng về đường lưởi bò chín đoạn: Liêm Nguyên chuyển ngữ
HQ5 và Hải chiến Hoàng sa 1974: Nguyễn Hoà Nguyên
Nhật Ký Tất Ngưu: Châu Tất Ngưu
Hoàng Sa 34 năm sau: Lệnh Khai Hoả : Giao Chỉ
Hoang Sa Nhuom Mau_Le Thuong
Hoàng Sa Nhuộm Máu: Lê Thương
GS Nguyen Canh
Tuyên Cáo của Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ: UBBVHS&TS
Hồi Ký Trận Hải Chiến Hoàng Sa 19.01.1974: Đông Hải
Hồ Sơ Hoàng Sa_Trường Sa: GS Nguyễn Văn Canh
Bằng chứng khằng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là của Việt Nam
Hải Chiến Hoàng Sa: Phan Công Minh
TQLC VNCH bắt quân TC năm 1959: Quốc Thiên
Thư của Đề Đốc Trần Văn Chơn
Trận hải Chiến Hoàng Sa: Trần Đổ Cẩm
Công hàm 14.09.1958: Phạm Văn Đồng

Phạm Văn Hồng Oral History, trả lời phỏng vấn về trận Hải Chiến Hoàng Sa 19.01.1974  hoặc 
Bối cảnh chính trị và quân sự của biến cố Hoàng Sa: Nguyễn Gia Nam
Những dữ kiện về Hoàng sa và Trường Sa: Phạm phong Dinh
Trung cộng đã đưa hai giàn khoan dầu vào khu tư chính: GS Nguyễn Văn Canh
Nói lại về trận Hoàng Sa: Trần Trọng Ngà
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại lên tiếng: PĐĐ Hồ Văn kỳ Thoại
Bối cảnh dẫn tới trận Hải chiếng Hoàng Sa 19.01.1974: TS Nguyễn Tiến Hưng
Vai trò của Mao Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa: Trần Trung Đạo
Biển Đông_Phán quyết của Toà Trọng Tài Quốc Tế PCA: Đại Dương
Biển Đông_Luật Pháp thắng tuyên truyền: Đại Dương
Biển Đông_Lợi thế của CSVN sau phán quyết của Toà Án Trọng Tài PCA: Đại Dương
Hội luận chủ đề về Hoàng Sa, Trường Sa
Biển Đông và Vận Mệnh Dân Tộc Việt: GS Nguyễn Văn Canh
Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân của TC và CSVN tại Biển Đông: GS Nguyễn Văn Canh
Tuyên Bố của UBBVSVTLT về một Hệ Thống Căn Cứ Quân Sự trên Quần Đảo Trường Sa: GS Nguyễn Văn Canh
Đọc Sự Thật Hải Chiến Hoàng Sa: Trần Bình Nam
Lực lượng Trung cộng trong Biến Cố Hoàng Sa: Thềm Sơn Hà
Việt Nam: Biển Đông và Chủ Quyền: KS Nguyễn Văn Phảy
Đảo Chìm_Niên Biên Ký Sự: Phi Ngọc Hùng
Tuyên Cáo về Âm Mưu của Trung Cộng Xác Nhận Chủ Quyền trên toàn Biển Đông qua giàn khoan HD 981. 
Toàn bộ tranh chấp của các quốc gia trên quần đảo Trường Sa: Trúc Giang
Hoàng Sa, Trường Sa theo Trung Quốc Sử: Luật sư Nguyễn Hữu Thống
Kiện Trung Cộng: Yếu tố quyết định thành bại là nhân chứng: Luật sư Châu Huy Quang
Bản Lên Tiếng Của UỶ BAN BẢO VỆ SỰ VẸN TOÀN LÃNH THỔ về việc Trung Cộng đặt giàn khoan  HD 981 tại Hoàng Sa: GS Nguyễn Văn Canh
Văn Tế 74 Anh Hùng Tử Sĩ Hoàng Sa 19.01.1974_19.01.2014 
Trận Hải Chiến Lịch Sử_ Hoàng Sa: Cố HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc
Một Chiến Lược Biển Đông_HQTT Nguyễn Mạnh Trí: Trần Bình Nam 
Biển Đông với Hoa Kỳ, Trung Cộng và Việt Cộng hiện nay: LS Nguyễn Thành
Những Mùa Xuân Ghi Dấu_Phần 2: Hải Chiến Hoàng Sa 19.01.1974: KS Nguyễn văn Phảy 
Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974: Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
Tường Thuật của một Chứng Nhân Trận Hải Chiến Hoàng Sa: Đặng Quốc Tuấn
Soái Hạm HQ5 và Trận Hải Chiến Hoàng Sa: Bùi Ngọc Nở
So Sánh 2 Cuộc Chiến với Trung Cộng 1974 và 1988: Trần Phong
Những Buổi Lễ Tưởng Niệm 74 Anh Hùng Tử Sĩ Hoàng Sa 19.01.1974-19.01.2014

http://navygermany.gerussa.com/

Hải Quân Đại Úy Mỹ Mayerkord

Do HQ. Võ Minh Mẫn chuyển 12/12/2015 (Seattle)

Vũ Đoàn
Tác giả tên thật là Đoàn Q Vũ, cựu sĩ quan Hải quân VNVH, cựu tù cộng sản, hiện là cu dân vùng Little Saigon. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Vượt Biển Bằng Thuyền Buồm” đã phổ biến. Bài mới, kể về người Sĩ Quan Hải Quân Mỹ đầu tiên bị tử thương ở chiến trường Việt Nam.

FOM4.jpg

Khi đặt chân lên nước Mỹ tháng 3/1984 có hai điều làm cho tôi đứng lặng người để thấy là mình vẫn còn sống thật với chính mình.

Ngày 30/4/1984 tôi được thấy lá Quốc Kỳ và nghe Quốc Ca VNCH tôi mới biết mình sống lại với linh hồn dân tộc VN vì khi đi tù Cộng Sản tôi đã coi như mình đã chết rồi.

Sau đó mấy năm tôi được dự lễ Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Nhìn Tượng Đài mà tôi ứa nước mắt. Tượng Đài này làm tôi nhớ hình ảnh một Cố Vấn Mỹ từng sát bên tôi trong trận chiến năm xưa. Người bạn thân tình ấy đã ngã gục và chết trong vòng tay tôi: Hải Quân Đại Úy Meyerkord.

Giang Đoàn 23 Xung Phong
Tôi được thuyên chuyển đến Giang Đoàn 23 xung phong đóng ở Vĩnh Long từ tháng 9/1964 làm Sĩ Quan Giang Đỉnh.

http://www.hqvn-ocs.org/chienham/ch_stcan.jpg
Qua 1965, tình hình chiến sự thay đổi quá nhanh, CS đã tăng cường người và vũ khí ào ạt vào Miền Nam VN.

Đầu năm 1965 khi đi tuần tiễu đêm, tôi đã bắt được một ghe chở hơn một tấn đạn dược đủ loại từ Bến Tre qua cù lao Dài để tiếp tế cho Vĩnh Bình (Trà Vinh). Trong buổi đến Giang Đoàn để khen thưởng Thiếu Tướng Dương Văn Đức Tư Lệnh Quân Đoàn 4 thời đó, có nói với Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh HQ bằng tiếng Pháp (chửi thề) “Không biết mấy thằng CS muốn cái gì mà chúng đưa hằng Sư Đoàn cán binh vào Miền Nam”.

Cuộc truy kích Cộng sản miền Bắc xâm nhập trở nên ráo riết không ngừng nghỉ. CS địa phương cũng liên tục đánh phá các đồn bót ở Tiểu Khu Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Sa Đéc, Bến Tre, Cao Lãnh.

Hải Quân Đại Úy Harold Dale Meyerkord (1937-1965.)

blankhttp://www.tf116.org/All_Hands_magazine/images/AH55.jpg

Hải Quân Đại úy Meyerkord đến Giang Đoàn trước tôi khoảng 2 tháng 13/7/1964. Ông còn rất trẻ, vui tánh, thích làm quen với chúng tôi. Chúng tôi ở cùng 1 dãy phòng dành cho Sĩ Quan. Tôi ở sát phòng với Cố Vấn Mỹ nên khi về căn cứ tôi hay ra trước hành lang tán dóc, Đ/úy Meyerkord cũng thích ra ngối nói chuyện cho vui. Đôi khi ông còn mời tôi ra quán Bar ngoài phố làm vài lon bia, ở quán Bar ông rất đứng đắn không thích đùa dỡn với gái. Quen thân một thời gian sau ông nói với tôi ông là người Mỹ gốc Đức và là con 1 Giám Đốc Ngân Hàng ở Mỹ, khi nào có dịp sang Mỹ ông sẽ giới thiệu tôi với gia đình ông ( dịp này sẽ không bao giờ có, xin hẹn lại kiếp sau).

HQ/Đại úy Meyerkord đã dự hầu hết các cuộc hành quân của Giang Đoàn và đã giúp Giang Đoàn rất nhiều khi Giang Đoàn bị địch tấn công, ông gọi máy bay yểm trợ và cấp cứu rất nhanh.

Ông đã hướng dẫn một nữ phóng viên báo National Geographic đi theo tàu hành quân để chụp ảnh và viết phóng sự Delta River đăng trên báo năm 1965 có hình tôi đứng trên chiếc FOM

https://s-media-cache-ak0.pinimg.com/736x/6c/0d/7e/6c0d7e6157a542ded1c81873dc327dac.jpg
Có lần ông hỏi tôi “Sao tôi thấy trong các cuộc hành quân anh thường đi tàu nhỏ và đi đầu?”, tôi trả lời “Tôi đã đọc cuốn BỨC TƯỜNG THÀNH DO THÁI có viết là Sĩ Quan phải dẫn đầu để cho lính theo sau. Tôi bắt chước họ nên khi hành quân anh Hạ Sĩ Nhất Lợi đi đầu ở cánh phải thì tôi đi bên cánh trái”.

Trận chiến không thể quên

Giữa năm 1965 một đại đội Địa Phương Quân đóng ở gần cửa sông Hàm Luông (Tỉnh Bến Tre) bị một tiểu đoàn VC tấn công trong nhiều ngày, đồn cố thủ để chờ tiếp viện. Đường bộ bị phá không đi được, Tiểu Khu Bến Tre phải cần tới Giang Đoàn để tiếp cứu. Chúng tôi đến Tiểu Khu Bến Tre rất sớm đợi đón quân, nhưng Tiểu Khu còn do dự vì có tin tình báo VC sẽ dùng kế “Công Đồn Đã Viện” và lực lượng VC có thể là cả Trung Đoàn có súng nặng.

Tiểu Đoàn mà chúng tôi đến đón là 1 tiểu đoàn vừa mới thắng lớn, Tiểu Đoàn Trưởng và các Đại Đội Trưởng đều mới thăng cấp đặc cách một cấp tại chiến trường.

Mãi đến 11 giờ chúng tôi mới đón xong 4 đại đội lên 4LCM8. Giang Đoan bố trí độ hình như sau:

1 – 2 FOM (tiền phong đỉnh) đi đầu.
2 – Chiếc Command chở Chỉ Huy Trưởng/ Giang Đoàn, Cố Vấn Mỹ và Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn.
3 – 4 LCM 8 chở quân.
4 – Chiếc Combat có tôi đi hộ tống.
5 – Sau cùng là 2 FOM

Đoàn tàu đi khoảng 2 giờ thì bị phục kích. VC dùng đủ loại súng bắn xối xả vào tàu. Chúng tôi thấy rõ cả Lance bom, B40 bay trên mặt nước. Chúng tôi phản kích ngay lập tức. Sau nửa giờ tấn công tiếng súng địch im dần. 4LCM 8 đều bị trọng thương phải ủi vào bờ. Chiếc Combat bị 1 trái đạn lọt vào phòng ngủ phát nổ hất tôi đứng trên sàn tàu té nhủi vào ụ súng 81. Thuyền Trưởng Th/sĩ Trâm đang điều khiển cây 40 ly trước mũi tàu vội chạy đến đỡ tôi dậy xem tôi có bị thương không? May tôi không bị thương nặng. Chúng tôi dùng toàn bộ hỏa lực để trấn áp lực địch.

http://brownwater-navy.com/vietnam/photos2/PBR750.jpg
Nửa giờ sau đã có 4 phản lực cơ đến oanh tạc dữ dội, tất cả hầm hố của địch đều bị đào xới, hàng cây dọc bờ sông chỉ còn trơ thân xác khẳng khiu. 2 giờ sau có 1 Tro chiién Hạm LSSL, Hạm Trưởng Nguyễn Văn Dinh đến tiếp viện. Chúng tôi chạy sát bờ phía VC ẩn núp, đặt ống dòm chúng tôi thấy sâu trong đất liền, những hố bom và cả một vùng đổ nát dọc theo bờ sông. Giang pháo hạm tiếp tục bắn phá những nơi nghi ngờ còn VC ẩn nấp.


https://cherrieswriter.files.wordpress.com/2013/09/18.jpg
Chính Đại Úy Meyerkord đã gọi phản lực, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn lo cấp cứu tàu bị nạn, chiếc nào còn chạy được ráng lết về Tiểu Khu chở theo thương binh. Tôi ở lại với chiếc Combat và 2 FOM để bảo vệ cho tàu chìm. Một tuần sau mới kéo hết tàu hư về Thủy xưởng để sửa chữa.


Sau trận này Đ/úy Meyerkord được đề nghị tặng thưởng 1 Silver Star.
Tôi nghiệm thấy lời ông tướng Dương Văn Đức nói trên đây là rất đúng.

http://brownwater-navy.com/vietnam/photos/Boats6.jpg
Khoảng một tháng sau, tôi được đi tuần tiểu vùng Vĩnh Bình, đoàn tàu tôi gồm một LCM 8 + hai FOM + hai LCVP 8. Tôi ra tới cửa sông Cổ Chiên ghé lại Duyên Đoàn 35 do anh Nguyễn Kim Trọng mới đáo nhậm để thăm và nghỉ lại đêm.

Lúc 6 giờ sáng anh vô tuyến viên nhận được một công điện Hỏa Tốc bảo tôi phải mở máy PRC25 ở tần số được cho để liênlạc với máy bay Trinh Sát Mỹ trong vùng. Khi mở máy tôi mới biết có một tàu lạ ngụy trang bị theo dõi từ Côn Sơn vào đến gần cửa sông anh còn cho tôi tọa độ tàu lạ (cũng may là lúc học ở Trung Học tôi bị ba tôi bắt đi học thêm Anh Ngữ nên tôi mới nói được chút Tiếng Anh giọng Người Anh vì thầy tôi là thông tín viên của báo Hồng Kông, ở trường lúc đó tôi chỉ học Anh Ngữ hai giờ một tuần).

Lần theo cửa sông ra biển, khoảng 9 giờ sáng tôi thấy 1 tàu sắt cỡ trung bình (25m*5m) ngụy trang bằng cành cây trên boong tàu. Tôi ra lệnh tác xạ, tôi chỉ bị phản pháo nhẹ trong bờ vì bờ là một rừng cây tràm sâu cả 100m. Tàu bốc cháy, tôi cho tàu tôi cặp tàu VC để chữa cháy và khám xét. Lục xuống dưới hầm tàu chúng tôi thấy không biết bao nhiêu là súng còn mới tinh bọc trong giấy dầu.

Tôi đánh công điện báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân/HQV4/SN và Giang Đoàn.

Khoảng 11 giờ thì có 1 Trợ chiến hạm của vùng 2 Duyên Hải đến gặp tôi bảo tôi hãy về Giang Đoàn, nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất.

Lúc trở về là lúc nước lớn. FOM nhỏ và nặng đi trong sóng lớn rất là nguy hiểm tôi phải cho tăng cường người tát nước nếu không tàu sẽ chìm. Mãi đến 10 giờ đêm tôi mới về đến Vĩnh Long.

Sáng hôm sau, ông Meyerkord chạy qua phòng tôi hỏi thăm về việc bắt tàu VC, tôi kể sơ sự việc và tặng ông 1 cây K54. Ông ôm tôi và nói: “Oh, My Brother”.

Tôi được giấy phép 3 ngày về SG chơi. Tôi dấu 1 cây K54 đưa cho anh Công Tùy Viên Tư Lệnh Hải Quân để làm quà cho Tư Lệnh.(kiss ass = NFG = No F%#@ing Good!)

Về đơn vị tôi được lệnh công tác biệt phái một tháng ở Tân Châu. Trong thời gian này tôi được báo là ông Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn bị thương. Mãn công tác tôi trở về đơn vị, tôi được lệnh dẫn tàu qua Cần Thơ để dự lễ trình diện súng tịch thu được trên tàu VC. Nhưng khi đến Cần Thơ, tàu tôi chỉ được đậu tại bến và không được lên bờ.

Đến trưa có một người Mỹ đến tìm tôi, tôi rất ngạc nhiên, tôi hỏi anh đến tìm tôi có việc gì? Anh nói: “Anh là người theo dõi tàu VC từ Côn Sơn tới cửa sông Cổ Chiên và là người đã liên lạc với tôi, để tôi tìm ra tàu VC. Nhưng nay thì không thấy ai nói gì tới anh hết, anh rất lấy làm buồn.”

Tôi nói: “Không sao, tôi có quà cho anh. Tôi lấy 1 cây K54 tặng anh, mắt anh sáng lên, ôm lấy tôi nói liên tiếp “Thank you, Thank you”.

Không biết ai báo cáo mà sau này an ninh Hải Quân còn theo dõi điều tra xem tôi còn cất dấu súng nữa không!.

Ngày định mệnh 03/16/1965

Chúng tôi nhận được lệnh hành quân tại một địa điểm bên trong sông Măng Thít thuôc Quận Vũng Liêm. 8 giờ sáng đã nhận xong 1 tiểu đoàn lên 4 LCM 8, có 4 FOM hộ tống. 11 giờ đến địa điểm đổ quân. Chỉ huy Trưởng bị thương nên Chỉ huy phó đi thay. Đổ quân xong, chúng tôi ngồi trên mui LCM 8 để liên lạc hành quân, các tàu rải đều, ủi bãi cả hai bờ sông.

Trên mui tàu LCM 8, tôi ngồi ngoài cùng, kế đó là Đ/úy Meyerkord, Thượng Sĩ Mỹ và ông Chỉ Huy Phó Hoàng Thế Thái. Khi bộ binh đi được nửa giờ thì toán VC phục kích dưới hầm ngay chỗ tàu tôi đậu lia súng bắn nhiều loạt đạn lên tàu rồi bỏ chạy. Chúng tôi phản pháo ngay tức khắc. Nhưng than ôi ! viên đạn đầu tiên bay ngang tai tôi, viên thứ hai trúng vào Đ/úy Meyerkord, kế tiếp Thượng Sĩ Mỹ bị thương nơi vai, ông Thái vô sự.

Ông Thái gọi bộ binh trở lại bọc hậu để chận địch, gọi trực thăng phản kích và cứu thương.

Đại úy Meyerkord bị trọng thương máu tuôn xối xả, tôi ôm chặt Đ/úy vì ông dãy dụa rất mạnh, nếu buông ông ra ông sẽ bị té xuống sông ngay.Trực thăng đến, y tá kiểm soát khắp mình tôi vì thấy người tôi dính đầy máu từ đầu tới chân nhưng không có vết thương nào nên vội đưa 2 người Mỹ đi cấp cứu.

Hải Quân Đại úy Meyerkord đã tắt thở trên máy bay lúc 12 giờ ngày 03/16/1965. Ông được Hải quân Mỹ nói là “He cited as the First Naval officer to be killed in Việt Nam.” Nhưng thật ra đã có 1 HQ Đại úy khác là Lieutenant Bruce C Farrell và 12 binh sĩ đã chết trước đó nhưng là vì rớt trực thăng.

Bẩy năm sau khi Meyerkord tử trận, một chiến hạm mang mang tên ông hoat động quanh bờ biển Việt Nam.

blankBẩy năm sau khi Meyerkord tử trận, USS MEYERKORD (DE-1058), một chiến hạm mang tên ông hoat động quanh bờ biển VN.

Theo tài liệu, ông đến Giang Đoàn ngày 13/7/1964 và ông mất ngày 16/3/1965, như vậy ông chỉ ở Giang Đoàn có 8 tháng 3 ngày mà dự hơn 10 cuộc hành quân là vô lý. Theo tôi nghĩ ông phải ở hơn 1 năm 8 tháng, vậy ông phải mất năm 16/3/1966 mới đúng. Tôi cũng vậy mấy tháng sau tôi rời Giang Đoàn năm 1966.

Sau 50 năm ngày ông mất đối với tôi không còn là điều quan trọng, có quan trọng chăng là hình ảnh của ông vẫn còn ẩn hiện trong tim tôi khi tôi viết những dòng chữ này.

Ông là con nhà giàu tại Mỹ, lại không trốn quân dịch, không phản chiến, đã hy sinh để bảo vệ Độc Lập Tự Do cho một nước xa vời nửa vòng trái đất, đó mới là điều đáng nói.

Tri ân 59 ngàn người bạn đồng minh đã hy sinh cho nước Việt Nam. Mọi sự kiện đều có 2 mặt. Tôi rất buồn việc một số người Mỹ đã quên đi sự hy sinh mạng sống của đồng đội, giao miền Nam cho CS miền Bắc.

Chiến tranh Việt Nam do Cộng sản gây ra đã khiến 3 triệu người chết. Sau 30/4/1975, cho tới nay, đã có thêm có 4 triệu người bỏ nước ra đi lánh nạn cộng sản, hai triệu người chết trên biển ca, cộng thêm 300 ngàn người đi tù CS.

Vũ Đoàn

 

 

 







 



 

Giấc Mơ Đi Biển, Thơ và Tranh của HQ Nguyễn Hùng Sơn

HQ. Nguyễn Hùng Sơn, nguyên cựu SVSQ/HQ, tài nguyên Khóa 21 SQHQ. Tốt nghiệp Khóa 1 Đặc Biệt Sĩ Quan Hải quân Nha Trang. Đơn vịcuối cùng: Tuần Dương Hạm HQ.2. Hiện là một Họa sĩ có nhiều tranh vẽ sơn dầu nổi tiếng. (Sẽ post phòng tranh của Nguyễn Hùng Sơn nay mai)

Nhớ Bạn Hiền…

Bớ mấy anh thủy thủ già,
Tết này có gì lạ
Xỉn, đang nằm nhà ?
Hay đã ra chợ “ngắm hoa” ?

Mới đó mà đã 40 năm rồi hả?
Chuyện trùng khơi thuở ấy đã mù xa
Mong mấy cha vẫn còn sức la cà ?!
Cũng còn thích lai rai ba ngày Tết

Xuân biệt xứ có gì vui làm Tết ?
Rảnh qua chơi mình kết bậy một phen
Hủ dưa chua với con mực nướng mềm
Nhai lắp bắp rồi dzô ly chất ấm

Tui còn đây chút chất cay nồng thắm
Nhớ bạn hiền, nên ngồi ngẩm chuyện mình
Tết năm xưa, tình huynh đệ chi binh
Giữa biển cả hoặc rừng đêm… mình “đụng” Tết !

30 năm chiến tranh rồi cũng hết
Thằng về vườn, đứa làm ruộng sinh nhai
Người vong thân, kẻ biệt xứ lạc loài
Chàng lính thủy cố quên đi đời biển cả !

Bớ mấy anh thủy thủ già!
Mấy cha có tiếc đời biển cả ?
Tiếc một thời tuổi trẻ mất mùa Xuân ?
Có nhớ trời xanh và chim biển tung hoành

Nhớ gió muối và con tàu lướt sóng ?
Còn lại đây chút chất cay nồng ấm
Tết đến rồi, mình cụng chén nhắc chuyện xưa!
Làm chút mồi, hớp tí rượu, cù cưa

Bốn mươi năm vẫn còn đón Giao Thừa
Nhưng năm mới chờ hoài chưa thấy đến
Còn nửa xị thôi cưa đôi … đầy chén
Hớp quan san nghe đắng chát tim gan

Nhớ biển xưa, nâng chén nuốt bàng hoàng
Uống đất nước quê hương còn trôi nổi
Nghẹn nhiều lắm biết bao điều muốn nói
Giữa mênh mông phẩn uất vỗ cuồng phong

Cạn ly này ta thấy tàu nghiêng ngả
Rót thêm đi say ngất ngưỏng trùng khơi
Bốn mươi năm xa xứ quá đủ rồi
Cứ mỗi Tết đếm lại còn mấy đứa ?

Này mấy anh thủy thủ già
Còn quăng nỗi dây mồi không hả ?
Dây mũi xong, dây lái kéo lẹ qua
Cột cho chắc rồi đi bờ đón Tết…

HQ/21/1ĐB . Nguyễn Hùng Sơn

Giấc Mơ Đi Biển

HQ. Nguyễn Hùng Sơn

Tranh vẽ HQ.2 của Họa sĩ Nguyễn Hùng Sơn

Chiến hạm đang đặt trong tình trạng chuẩn bị công tác. Tàu đã về neo tại Vũng Tàu được 2 ngày rồi. Cũng như thường lệ, sau hơn 3 tháng tuần dương dài đăng đẳng, tàu về nhận tiếp tế trong vài ngày, rồi tiếp tục lên đường… Chúng tôi đứng trên đài chỉ huy, dői mắt vào chiếc duyên tốc đỉnh PCF của Hải Đội III Duyên Phòng, đang loay hoay cặp vào chiến hạm. Trời tháng 10, biển có nhiều sóng, chiến hạm phải thả thêm 2 trái độn lớn để chiếc PCF được an toàn hơn. Từ con tàu nhỏ chòng chành, nghiêng ngả, các SQ, HSQ và nhân viên thuộc chi đội đi bờ, măn phép, lần lượt trở về chiến hạm. Trong nhóm những người ấy, tôi thấy có 2 tân thiếu úy. Họ trong tư thế thật nghiêm trang, đặt túi quân trang xuống sàn tàu, đứng nghiêm, thẳng người, quay mặt về hướng quốc kỳ phía sau lái, rôì đưa tay chào thật hùng dũng, đúng quân cách. Nhìn nét mặt rạng rỡ đầy hãnh diện của họ, giấc mơ của một thời tuổi trẻ, bất chợt bùng lên trong tôi.

Giấc mơ của tôi thật đơn giản, “được đi biển”! Hình ảnh của con tàu và biển cả luôn là ước vọng trong suốt khoảng đời mới lớn của tôi. Ngày ấy tôi mê say đóng những con tàu nhỏ xíu bằng cây, rồi xếp đám lính đồ chơi bằng nylon lên boong tàu.Chúng tôi chia 2 phe, mỗi phe một chiếc tàu và dùng dây thun bắn vào đám lính đồ chơi của nhau. Đám lính của phe nào ngă hết trước thì phe ấy thua. Cuộc chơi chỉ có chừng đó, nhưng chúng tôi chơi mãi không biết chán… Giấc mơ cứ thế lớn dần.

Xong Tú Tài II, tôi vội vã thi vào trường Hàng Hải Phú Thọ nhưng bị loại. Mức độ chiến tranh càng lúc càng tăng. Lệnh tổng động vięn lại được ban hành. Tôi không còn một chút hy vọng nào để bước chân vào trường Hàng Hải, đành phải nương náu hoãn dịch ở một đại học không thi tuyển. Mặc dù vậy, giấc mơ con tàu và biển cả vẫn còn đó trong tôi.

* * *

Tình nguyện vào khóa 20 SQHQ/Nha Trang, bị tái khám về sức khỏe, rồi được xếp vào tài nguyên của khoá 21. Nhưng rốt cuộc Hải Quân lại đưa chúng tôi đi thụ huấn K1/70 SQTB tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Trong hoàn cảnh phải chấp nhận và không được giải thích này. Mãi đến sau này, tôi tự tìm hiểu và được biết, vì nhu cầu khẩn cấp gia tăng quân số, HQ không đủ cơ sở huấn luyện, phải gởi một số tân binh và SVSQ đi thụ huấn tại các quân trường hoặc TTHL khác, để đáp ứng với hoàn cảnh Việt Nam Hoá chiến tranh.

Hải Quân Chuẩn Úy”Chiến Binh”Nguyễn Hùng Sơn. Giang Đoàn 57 Tuần Thám,năm 1970

Đơn vị đầu tiên của tôi là Giang Đoàn 57 Tuần Thám, đồn trú tại Nhà Bè. Đây là một căn cứ quân sự của Hải Quân Hoa Kỳ, nằm trong lãnh thổ Đặc Khu Rừng Sát, thuộc tỉnh Gia Định, vùng III chiến thuật. Cấp bậc của tôi, bây giờ được kèm thêm hai chữ “Chiến Binh”. Tôi không thích danh xưng “Chiến Binh” ấy và tự hỏi, tại sao lại gọi là chiến binh? Để phân biệt chăng?Nhưng phân biệt để làm gì?! Khi tất cả đều cùng chung một lý tưởng phục vụ?! Cũng may, nỗi buồn rồi qua mau khi tôi gặp lại hai người bạn cùng khoá 1/70 đến trình diện trước đó một ngày. Không kể CHT và CHP, sĩ quan của đơn vị gồm mười hai người. Trong đó, có đến chín người là”Chiến Binh”, cấp bậc từ chuẩn úy đến thiếu úy. Xuất thân các khóa 3/69, 6/69, 1/70 TĐ.Ngoài ra, còn có hai chuẩn úy Đoàn Viên và một chuẩn úy OCS. Chúng tôi không gặp nhau thường xuyên vì được phân tántheo các toán công tác khác nhau. Hoạt động tuần tiểu, hành quân trong các trục và khu vực cũng khác nhau.

Lúc ấy, đơn vị còn đang trong giai đoạn cuối của chương trình huấn luyện tại chỗ (OJT). Chúng tôi thực tập qua những chuyến công tác trên chiến đỉnh Mỹ. tất cả đều xa lạ. Mặc dù vậy chúng tôi cũng đă cố gắng để sớm hội nhập vào môi trường sống mới, quen dần các sinh hoạt, cũng như rất ngưỡng mộ tinh thần kỷ luật, thái độ lịch sự, tôn trọng cấp bực của mỗi một quân nhân Hoa Kỳ mà tôi gặp gỡ.

Địa danh Nhà Bè, không xa lạ gì đối với người dân thành phố. Nhà Bè, một quận lỵ nhỏ gắn liền với Rừng Sát. Vùng nước lợ, đất thấp ngập nước, sình lầy, sông rạch chằng chịt, rậm rạp dây leo và cây thấp. Nhiều muỗi, rắn rết và cá sấu. Trong quá khứ Rừng Sát đã được biết đến qua các cuộc hành quân tiểu trừ loạn quân Bình Xuyên, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Rừng Sát. trải rộng 405 dặm vuông. Từ ranh giới Cát Lái, dọc quốc lộ 15 đi Vũng Tàu, suốt chiều dài sông Thị Vải, vòng qua vịnh Gành Rái, Cần Giờ, Long Thạnh, cửa sông Đồng Tranh, rồi bọc vòng lại Nhà Bè với sông Soài Rạp. Đôi khi địa bàn hành quân mở rộng đến vùng cửa sông Vàm Cỏ, lãnh thổ của tỉnh Long An và Vàm Láng thuộc tỉnh Gò Công. Các đơn vị đồn trú và tham chiến Việt Mỹ, gồm đủ cả Hải Lục Không Quân. Nhưng nỗ lực chánh vẫn là các lực lượng trấn giữ của Đặc Khu Rừng Sát. Riêng về HQVN, ngoài giang đoàn 57 TT, còn có 27 Xung Phong, 93 Trục Lôi và đôi khi có thêm một hay hai phân đội của giang đoàn 52 TT từ Cát Lái đến tăng cường. Đặc biệt hơn là các đơn vị Tình Báo, Biệt Kích, Thám Sát, Người Nhái, vẫn thường xuyên, âm thầm hoạt động.

Những trận đánh rất thường xảy ra, nhưng không ở mức độ lớn. Đại quân của CS nếu có thể, chỉ ở phía bên kia núi Thị Vải, Bà Rịa. Địa thế Rừng Sát, cây thấp, nước ngập, sông rạch chằng chịt không phải là nơi tập trung quân tốt. Nhưng lại là một vị trí chiến lược quan trọng. Địa thế rất thuận lợi cho lối đánh du kích, giao liên, nơi ẩn náu của các toán đặc công phá hoại CS, nhằm xâm nhập, khủng bố quấy rối Saigon. Đây cũng là vị trí yết hầu mà CS luôn ước muốn bóp nghẽn, cắt đứt thủy lộ huyết mạch Lòng Tào để ngăn chận nguồn tiếp vận vào thủ đô.

HQ Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng giang đoàn là một người uy quyền, ông nói tiếng Anh khá thạo nên tạo được sự kính nể của ban cố vấn Hoa Kỳ, nhờ vậy vấn đề tiếp liệu, sửa chữa các chiến đỉnh được đầy đủ, chu đáo. Ở một cấp bậc thấp, tôi thật ngưỡng mộ kiến thức kỹ thuật, tài tháo vát điều hành của ông. Nhưng lối đối xử đôi khi thiếu tôn trọng nhân phẩm đối với thuộc cấp của ông, đã làm cho tôi rất khó chịu. Có lần tôi bạo dạn, yêu cầu ông đừng nói ĐM và mày tao với tôi vì Hải Quy không quy định như vậy. Thú thật khi yêu cầu như thế thì tôi rất lo lắng và chờ đợi một phản ứng trừng phạt của ông. Nhưng ông đã lắng nghe và sau gần một năm phục vụ, ông đă đưa tôi từ vị trí một SQ trưởng toán tuần tiểu lên trưởng khối giang đỉnh và rồi SQ hành quân.

Trong bối cảnh chiến tranh càng lúc càng gia tăng, phải đương đầu với vất vả, nguy hiểm hằng ngày. Sự căng thẳng sống chết đă biến những người lính trở nên lì lợm, bướng bỉnh. Họ là những chiến sĩ can trường, nhưng cũng là những con ngựa bất kham! Họ cũng như chúng tôi, mang một thân phận “bất phùng thời”. Có những người là thủy thủ tập sự hay cải tuyển đã hai, ba năm mà chưa được đi học chuyên nghiệp. Có những người đă tử trận mà vẫn chưa thành thủy thủ. Còn lại một số đã từng mặc hai ba sắc áo lính trong chiến trận. Những ngày đầu ra đơn vị đầy thử thách. SQ trưởng toán không có lính cơ hữu. chỉ mang trách nhiệm điều động 2 giang đỉnh trong một chuyến công tác mà thôi. Người có quyền hạn trực tiếp đối với các thủy thủ trên chiến đỉnh là HSQ thuyền trưởng. Đó là vấn đề rất tế nhị trong lănh vực chỉ huy. Các thuyền trưởng nhận lệnh từ SQ trưởng toán. Nhưng thủy thủ đoàn lại phục tùng thuyền trưởng hơn là SQ trưởng toán. Nếu không khéo, SQ trưởng toán có thể bị cô lập và ngược lại, nếu vì sợ bị cô lập, không dám chứng tỏ quyền hạn chỉ huy của mình để hoàn tất công tác, thì vị SQ trưởng toán ấy phải nhận trách nhiệm đối với CHT. Khi nhìn những vết xâm, vết thẹo chằn chịt trên ngực hay trên cánh tay của hầu hết các thủy thủ và một vài thuyền trưởng, tôi thật có nhiều ái ngại! Một gã học sinh, ngơ ngẩn vào lính. Cái lon chuẩn úy trên vai quả thật nhẹ bổng, non choẹt đối với những người lính dày dạn chiến trận. Điều tôi lo lắng không hẳn chỉ với quân thù mà chính là làm sao để điều động được những người lính này. Làm sao để khiến họ phục tùng khi giáp trận. Khó khăn rồi cũng qua đi. Khi những chiếc huy chương nhỏ được cài lên ngực áo, thì cũng chính là lúc mà tôi thông cảm và ngưỡng mộ sự hy sinh vô cùng lớn lao, xứng đáng của những người lính xâm mình lì lợm ấy.

Chiếc huy hiệu tam giác nền xanh lá cây ở giữa nổi bật hình chiếc giang tốc đỉnh PBR đang cắt sóng với hàng chữ Giang Đoŕn 57 Tuần Thám. Đă bắt đầu cho tôi niềm hănh diện khi đeo nó trên ngực áo. Hai chữ “Chiến Binh” vẫn còn đó, nhưng dường như không ai màng đến. Trước các cuộc hŕnh quân và tuần tiểu liên miên, trước cảnh sống chết mỗi ngày, chúng tôi chỉ còn rất ít thời gian để gặp gỡ. Và tình chiến hữu bỗng dưng trở nên gắn bó, sâu đậm như anh em. Cụm từ “huynh đệ chi binh” đă không còn là những khẩu hiệu, những nhắc nhớ trong âm nhạc mà chính là tinh thần sống của chúng tôi. Một giang đoàn tác chiến!

Cuối năm 1971, bất ngờ tôi được thuyên chuyển về BTL/HQ/KQH lŕm Trưởng Tiểu Ban Huấn Luyện Liên Quân thuộc Phòng Điều Huấn. Công việc của tôi là liên hệ, điều hành thủ tục các khóa huấn luyện bên ngoài HQ. Đặc biệt là lo thủ tục cho các SQHQ dự thi tuyển và vào học tại các trường Kỹ Sư Phú Thọ. Công việc tham mưu văn phòng, nhàn hạ, an toàn, có thể là một hấp dẫn của nhiều người. Nhưng với tôi, ngày càng thêm căng thẳng, bởi có quá nhiều đụng chạm. Tất cả những bước cứu xét tuyển chọn khóa sinh, đều phải dựa trên những điều kiện qui định bởi các văn thư của BTTM hay BTL/HQ. Thế nhưng sau khi báo cáo danh sách tuyển chọn, tôi thường xuyên phải đương đầu với những cú gọi đầy áp lực của một số SQ cao cấp trong hoặc ngoài BTL/HQ, gởi gấm, nhờ giúp đỡ cho thân nhân, đŕà em của họ, những người không đủ điều kiện, nằm trong danh sách bị loại. Có khi đó là những lời “Toi, Moi” lịch sự nhả nhặn, có khi là hằn giọng hăm he. Tôi thất vọng, chán nản, xin trở lại giang đoàn tác chiến hay ra khỏi quân chủng. Đại Tá TMP/QH là một cấp chỉ huy mà tôi hằng kính trọng. Ông là người trí thức, bao dung nhân hậu. Trong tâm tình của người anh, ông an ủi và khuyên nhủ tôi nhẫn nại, chịu đựng, trở lại làm việc…

Bạn bè cho tôi là người hay lý tưởng hóa vấn đề, thiếu thực tế ! Điều đó đúng, tôi biết rő. Nhưng tôi không thể thoát ra được quan niệm công bằng trong tương quan cuộc sống. Phải chăng công bằng chỉ là một ước vọng?! Vừa định làm đơn xin trở lại giang đoàn tác chiến một lần nữa, thì được biết có khóa 1ĐB/SQHQ/NT dành cho các SQ Chiến Binh, tôi mừng quá ghi danh ngay.

Tuần Dương Hạm HQ2 Trần Quang Khải

Mãn khóa, tôi về tuần dương hạm HQ2 cùng với 3 người bạn. Đây là một chọn lựa mà chúng tôi đã hảnh diện trước tràng pháo tay của các bạn đồng khóa.

HQ2 đă biến giấc mơ “Đi Biển” của tôi thành sự thật. Tôi thích ứng ngay đời sống trên chiến hạm… Cho dù sóng to gió lớn, lạnh buốt sương mù hay những ngày êm ả nắng ấm… Biển cả luôn là một hấp lực, cuốn chặt tôi vào những say mê riêng tư. Tôi tha thiết với những ngày tháng trùng khơi sóng gió ấy, học hỏi rất nhiều trên đủ mọi lãnh vực. Từ chuyên môn đến chỉ huy. Tôi trân quý các kiến thức “Đi Biển” lượm lặt được từ những người đi trước, bạn bè và sách vở. Sóng và gió biển đă làm cho huy hiệu trên mũ và cặp lon trên vai của tôi đen xanh lại. Kinh nghiệm biển cả cũng nhờ đó lớn dần. Tôi dò dẫm từ một SQ trưởng khẩu đại bác 127 ly, SQ hải pháo, cho đến Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Chiến Báo, rồi Trưởng Khối Hành Quân.

Khác xa với không khí cởi mở, gần gũi “huynh đệ chi binh” như ở giang đoàn tác chiến, đời sống trên chiến hạm thật quy cũ, nguyên tắc và kỷ luật. Truyền thống ấy dựa trên quyền lực của Hạm Trưởng và các sĩ quan chỉ huy. Một kỷ cương có lẽ đã lâu đời trong lịch sử hàng hải Tây Phương, của những thời thuyền buồm. Mang dáng vẻ phong kiến mà ở đó SQHQ là giai cấp chỉ huy hoàng tộc và thủy thủ là giai cấp phục tùng bình dân. Trong khuôn khổ kỷ luật như vậy, quả thật đã trấn áp được nhiều cuộc nổi loạn của thủy thủ trong quá khứ. Đă chứng tỏ được sức mạnh của phục tùng tuyệt đối trong các cuộc hải chiến giữa các hạm đội hay với hải tặc xưa kia. Nhưng xem ra, nguyên tắc lảnh đạo như thế quá khô khan, gò bó! Cả 4 gã “Lưu Đày” chúng tôi đều phải cố gắng gò mình trong cái khuôn khổ mới. Tuy vậy, đối với các SQHQ (truyền thống) dường như đó là điều tự nhiên.

“Lưu Đày” không có thói quen ấy, không đặt nặng ranh giới giữa SQ,HSQ và Đoàn Viên. Sự hoà mình trong quan niệm chỉ huy có lúc trở nên một vấn đề bị chỉ trích trên chiến hạm. Có lần tôi bị Hạm Trưởng than phiền rằng: “Anh làm đục nước Hải Quân” khi ông thấy tôi có mặt trong một quán nhậu chung với các thủy thủ. Hạm Trưởng rất đúng trong phương cách tạo sự cách biệt, dùng uy quyền để chỉ huy. Nhưng chúng tôi không được huấn luyện như vậy. Trường Bộ Binh dạy chúng tôi lối chỉ huy của một SQ Bộ Binh, biết vận dụng sức lực của con người qua tâm lý “đồng tâm cộng khổ”, “huynh đệ chi binh”, cái nhìn chỉ huy mang tính cách liên đới “tình cảm” trong đó có trách nhiệm của người anh và bổn phận của đàn em. Cái nhìn gắn chặt “đội hình”, nghĩa là toàn đội và đồng bộ. Bởi vì rất dễ hiểu, khung cảnh sống của binh sĩ Bộ Binh không bị cô lập như các thủy thủ trên một con tàu giữa đại dương. Vã lại, “uy quyền” của một trung đội trưởng Bộ Binh tác chiến không đủ để áp lực, buộc các thuộc cấp xung phong thí thân xuyên thủng phòng tuyến địch nếu không có sự liên hệ tình cảm trước khi tuân phục. Muốn vậy, người SQ vừa là cấp chỉ huy nêu gương dũng cảm lại phải vừa là người anh được sự thương mến, gần gũi của đàn em.

Thời gian trước Hiệp Định Paris 1973. Chúng tôi rất bận bịu, hải pháo ngày đêm, tuần tiểu không thấy ngày về bến. Thường thì nhận tiếp tế ngoài biển. Nhưng đôi khi cũng có ghé vào một vài căn cứ vùng duyên hải. Rồi lại đi ngay, chẳng có chi đội nào được đi bờ. Những lúc ấy thật là thiếu vắng cái không khí sinh hoạt của đất liền. Tôi thèm lắm màu xanh lá cây, thèm lắm một chút xe cộ, bụi đất và cũng nhớ lắm hình ảnh xum họp gia đình. Biển cả đâu phải chỉ có những ngày rì rào nắng ấm, con tàu đâu phải chỉ êm đềm rẻ sóng trùng dương. Đã bao lần chiến hạm phải đặt trong tình trạng kín nước, đương đầu với sóng gió băo táp, sương mù. Mũi tàu như cắm vào biển cả và chân vịt như gầm gừ giữa khoảng không. Những cái lắc nghiêng ngả, xô đẩy, răn rắc của vỏ tàu… và những chàng Thủy thủ bơ phờ xiểng niểng, vài chàng mắt mũi lem nhem, tay bám thành tàu, tay xách thùng sô ói mửa… Chiến hạm trân mình xuyên qua từng đợt sóng dữ dội, hất té những con chuột say mèm sóng gió xuống sàn tàu, quay cuồng rồi lăn tòm xuống biển. Tôi mệt mỏi, bơ phờ, nhưng đầy thích thú.

Huy hiệu HQ 2

Vào năm 1972. Một phái đoàn “Nghiên Cứu Phân Chim” của Bộ Quốc Phòng (?) gởi tháp tùng chiến hạm ra đảo Hoàng Sa. Trong buổi chiều, trước giờ hoàng hôn, biển bắt đầu động nhẹ, chúng tôi vài người còn nán lại ở sân mũi, chuyện trò. Bất ngờ, một vị Trung Tá Phòng 7 TTM thuộc phái đoàn, bước ra và nhập bọn với chúng tôi. Trong câu chuyện vui vẻ, ông nói : “HQ mấy anh sướng quá! Ăn cơm ngồi bàn, muỗng nỉa. Ngủ giường nệm trắng, tắm nước nóng. Chẳng bù với chúng tôi, muỗi mòng, vắt đỉa, sình lầy, gạo sấy, mưa nắng vất vả”! Đang nói, bất ngờ ông lợm giọng, ói một ngụm xuống biển (cho cá ăn!). Chúng tôi biết ngay là ông đang say sóng, nhưng không ai nói ra, chỉ đề nghị ông vào phòng nghỉ ngơi. Ông không chịu! Cho đến ngụm thứ 3 thì ông từ giả, “Có lẽ tôi bị trúng gió. Thôi chào các anh em nhé!”. Dáng ông nghiêng ngả theo nhịp lắc của con tàu . Chúng tôi nhìn theo cùng cười và thông cảm. Những ngày sau đó, chúng tôi không hề thấy ông, kể cả giờ cơm ở phòng ăn SQ. Thời gian công tác rồi cũng qua, tàu về neo ở cửa Tiên Sa Đà Nẳng. Chúng tôi tiển đưa phái đoàn qua PCF để vào bờ. Vị Trung Tá P7/TTM hôm ấy, đã đến bắt tay tôi, nụ cười thật tươi như sắp thoát khỏi một hoạn nạn. Ông nói, “Tôi nghĩ đi lính Bộ Binh sướng hơn!”.

Đời lính thủy đâu có phải chỉ đương đầu với sóng gió. Phía sau giấc mộng hải hồ là cả một thử thách, những khứng chịu của sự cô đơn, của tách rời, của thèm khát mà một người trong đời sống bình thường không thể nào có thể cảm nhận và thông cảm được. Tôi chợt nhớ đă đọc được trên lưng chiếc Jacket của một anh Hạ Sĩ Giám Lộ, “HQ2 cù lao sắt”, hoặc là hàng chữ xâm trên tay của một chàng Thủy Thủ Vận Chuyển, “Xa quê hương nhớ mẹ hiền” . Hay những dòng chữ nguệch ngoạc “Ôi biển cả bây giờ ta mới biết. Mộng hải hồ giết chết cuộc đời ta!” trên một giường bố nào đó, trong phòng ngủ đoàn viên. Tôi hiểu rất rõ sự khứng chịu ấy và hòa nhập hoàn toàn vào những cảm xúc thiếu vắng của họ. Đời thủy thủ là như thế đó. Nhưng bổn phận, trách nhiệm và kỷ luật đã gắn chặt tất cả chúng tôi với biển cả bằng một sức chịu đựng chân thành.

Về Sài Gòn. Quả như cánh cửa thiên đàng mở rộng, lòng chúng tôi hân hoan vô kể. Những bộ tiểu lễ được đem ra mặc và nhiệm sở dàn chào thật nghiêm trang, đầy hãnh diện. Lâu lắm, chúng tôi mới được trở lại thủ đô mến yêu. Tàu có 3 chi đội, nhưng đâu phải được đi bờ 100%. Chúng tôi luân phiên, một chi đội rời tàu đi bờ. còn lại 2 chi đội, ứng trực và trực phải có mặt trên tàu 24/24. Một lần tàu về Sài Gòn. Gặp lúc chi đội của tôi trực, nhưng anh em vẫn vui vẻ, náo nức chờ xuống phiên rồi sẽ đi bờ ngày hôm sau. Bất ngờ được lệnh nhận tiếp tế đạn tại chỗ và ra khơi công tác vào ngày mai. Lúc ấy vào buổi trưa, trời nóng bức. Tôi phải điều động cả 2 chi đội còn lại khoảng 20 người để chuyển 2000 viên đạn đại bác 127 ly từ một chiếc LCU cặp ở vị trí kế bên vào hầm đạn của chiến hạm. Lệnh công tác ban ra, chúng tôi như tiêu tan hết năng lực làm việc. Sau hơn 6 tháng xa gia đình, anh em ai cũng muốn về nhà. Ước mong tàu sẽ nghỉ được vài ngày. Nào ngờ chỉ mới một ngày, lại có lệnh đi!

Vì sự an toàn, đạn 127 ly có 2 phần rời, đầu và thân đạn. 2000 viên đạn có nghĩa là 4000 lần chuyển đạn chia đều cho 20 người hôm đó. Trong trách nhiệm một SQ trực, tôi hiểu ngay sự khó khăn sẽ phải đương đầu đối với một hoàn cảnh tâm lý không thuận lợi như vậy. Tôi quyết định cởi áo, cùng với anh em ra khiêng đạn. Sau cùng chúng tôi hoàn tất trong hạn định. Tôi mệt lã, mồ hôi như tắm, mặt mày lem luốc, bước vào phòng ăn SQ để uống nước. Hạm Phó đã về chiến hạm từ nãy giờ. Ông có mặt trong phòng ăn SQ lúc ấy. Thấy tôi, nét mặt ông bỗng trở nên hầm hầm, ông quát lớn :”ĐM, anh không biết chỉ huy! Không có tác phong. Anh bảo tụi nó làm chứ anh không phải làm! Thằng nào cải lệnh thì đá đít nó. Anh hiểu chưa?” Câu quát tháo ấy làm cơn giận của tôi suýt nổ bùng! Tôi hiểu tôi đă phạm qui định, vào phòng ăn SQ mà không ăn mặc chỉnh tề. Nhưng tôi lại nghĩ, đây là trường hợp bất khả kháng. Tôi cố gắng trình bày,”thưa HP, tôi đã hoàn tất nhiệm vụ được giao phó.”

Theo tôi, một người chỉ huy phải biết ước đoán, tiên liệu. Tùy theo hoàn cảnh, năng lực của thuộc cấp để đạt được mục đích là thi hành và hoàn tất lệnh của thượng cấp. Việc dùng uy quyền, la hét, đá đít thuộc cấp. Không nhất thiết và không phải là một cung cách chỉ huy hữu hiệu. Hai cái máy, nếu mở cùng một tần số thì nó sẽ hát như nhau. Nhưng nếu là 2 con người thì không thể áp dụng một “công thức” đối đăi như nhau được. Hơn thế nữa, buổi sáng sẽ khác buổi trưa. Chuyển đạn rồi được đi bờ sẽ khác với phải ra khơi… Người lính cũng là con người, và tôi cũng thế. Tôi nghĩ nhiều về thân phận của chính tôi, của những bạn bè đồng cảnh ngộ, của nhân viên thuộc cấp, lý tưởng và mục đích của cuộc chiến. Một ý niệm về trách nhiệm phục vụ rộng mở, không còn bị đóng khung hạn hẹp ở màu cờ sắc áo nữa. Trong cái nhìn xa hơn. Tôi tìm thấy được niềm tự hào góp phần phục vụ quê hương dân tộc.

Sân mũi báo cáo, neo đă về lại vị trí. Nhiệm sở kéo neo được giải tán. Chúng tôi vào nhiệm sở hải hành… Chiếm hạm rẻ sóng ra khơi. Qua làn khói đen từ ống khói, thành phố Vũng Tàu mờ dần ở phía sau. Một cảm giác bồi hồi lại dâng lên trong lòng. “Ra khơi”, từ ngữ thật lãng mạn, cái lãng mạn đầy ắp tính chất văn chương thơ phú! Ra khơi với đại dương mênh mông, với hoa biển, mỹ nhân ngư và ngàn sao lấp lánh… Tất cả đã một thời gợi trong tôi thật nhiều mơ tưởng. Giấc chiêm bao của tôi về con tàu và biển cả lớn lắm! Lớn như một ước vọng được tung hoành… Tôi bất chợt cảm thấy buồn cười và thương hại cho chính mình. Thực tế đã đập vỡ tất cả những giấc mơ bay bổng của tôi. Cuộc dấn thân thật sự, không giống như 2 tân thiếu úy vừa đến chiến hạm. Cái xuất thân phức tạp, đă làm mất đi niềm tự hào trong tôi. Bước đầu quân ngũ, đầy nặng nề, choáng váng trước những cú thôi sơn thực tế. Giấc mơ biển cả như tan tành! Tôi đă có ý định ra khỏi Hải Quân. Nhưng rồi cũng chính trong trạng huống đổ vỡ ấy, tôi nhận ra được cái giá trị và ý nghĩa của quan niệm phục vụ. Con người, một cách rất tự nhięn, luôn mong muốn, cố gắng tìm kiếm cho mình một chỗ đứng để được ngưỡng mộ. Muốn thế, thành tích, phong cách và tên tuổi phải được đánh bóng. Để rồi từ đó, xuất thân và truyền thống được đề cao. Thật ra niềm tự hào, tự nó, mang một ý nghĩa tốt đẹp qua việc phục vụ chung. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp nào đó, niềm tự hào rất có thể trở thành nguyên nhân của nhiều mặc cảm. Gây nên sự so sánh, mất đoàn kết.

Đi biển, một giấc mơ. Hải Quân, niềm hănh diện phục vụ. Lưu Đày một thân phận bẽ bàng! Tôi muốn thả lỏng tâm hồn. Tất cả chỉ còn là dấu vết của một đời người. Cho đến bây giờ. Sau hơn 30 năm, cuộc chiến đă chấm dứt. Bao nhiêu bạn bè đã ra đi? Bao nhiêu người là “Chiến Binh”, bao nhiêu người là “HQ Lưu Đày”, bao nhiêu người là “HQ Truyền Thống NhaTrang” , bao nhiêu người là “HQ OCS Hoa Kỳ” hay Úc Đại Lợi ?! Họ đă tự hào, đă xông pha chiến đấu và đă hy sinh. Trong cuộc chiến ấy, đạn quân thù nào có phân biệt được ai?!… Tôi nghĩ về những vị CHT hay HT đầy uy quyền, và thông cảm được sự cô đơn của họ. Những vách ngăn, rào cản do quyền bính, chức vụ tạo thành, chắc hẳn đă làm cho họ nhiều trăn trở. Tôi nghĩ về những SQ, những con người nhiệt huyết, hăng say đă chôn vùi tuổi trẻ của họ cho lý tưởng tự do. Và tôi cũng nghĩ về những người lính, những anh em, bạn bè của tôi. Những người đích thực xả thân! Xả thân và xả thân… Một khối thương yêu chợt ập đến, đè nặng tâm hồn.

Tôi ngồi đây trong hình hài một người đàn ông 60. Trang sử đă lật qua. Tuồng hát đã hạ màn. Tôi rời sân khấu. Nhưng những dư âm dường như còn đâu đó. Như một hoàng hôn hạ kỳ năm nào tręn biển cả, tôi thấy tôi, các bạn tôi, cả thủy thủ đoàn và con tàu đang xẩm dần trong màn đêm. Khi đèn hải hành được thắp lên, sau lái chiến hạm, màu trắng xóa của bọt biển chợt lấp lánh một thứ ánh sáng lân tinh. Ánh sáng ấy kéo dài, xa dần, tan dần, đưa tôi vào dòng ký ức. Bắt đầu lại một giấc mơ biển cả, tôi ngồi đóng những con tàu gỗ nhỏ, những sợi thun được bắn thật chính xác vào đám lính đồ chơi của phe bên kia. Giấc mơ tuổi trẻ bay bổng thật xa, không ranh giới và phân biệt.

Nguyễn Hùng Sơn –
TN/K21SQHQ- K1/70 TĐ/ – K1ĐB/SQHQ/NT, K1TMTC/HQ

Họa sĩ Nguyễn Hùng Sơn

Tất cả các bức tranh dưới đây đã được sự đồng ý của Họa sĩ Nguyễn Hùng Sơn để trình bày trên web Lưu Đày cho mọi người cùng thưởng lãm.Đây là các bức tranh mà tác giả đã bán,phổ biến,ấn loát v.v…Nay không còn bán nữa.Chỉ là collectionde để trưng bày mà thôi.Tuy nhiên bất cứ ai muốn sử dụng vào việc khác xin vui lòng liên lạc với tác giả. Nguyễn Hùng Sơn Email: lt_sonnguyen@yahoo.com

Xem tranh của Nguyễn Hùng Sơn……click here

Kỷ Niệm Đời Quân Ngũ (Lê Ngọc Trùng Dương )

-Thân tặng các bạn thuộc các khóa đặc biệt ( Lưu Đày ), 21 Nha trang, và OCS.

<>Sau mùa thi năm 1969, tôi giă từ trường học, bước vào trường đời. Từ giã bạn thầy thân yêu và ngôi trường Nguyễn Đình Chiểu thâm nghiêm cổ kính, để dấn thân vào cuộc chiến khốc liệt đang tàn phá quê hương. Tháng 9 năm 1969, tôi cùng các bạn: Lê văn Tính, Lê Minh Tiên, Lê Minh Bạch, Lê văn Đán, Trần Quang, và Ngô Hữu Tân.. ., gia nhập quân chủng Hải Quân; chúng tôi trải qua thủ tục khám sức khoẻ, tại Bệnh viện 3 Dã Chiến Mỷ Tho. Ngày đăng trình, đoàn xe lầm lũi chạy qua con đường Hùng Vương quen thuộc. Hàng me già âm thầm rũ bóng, nhạc ve sầu tấu khúc, hòa cùng tiếng hát u hòai của Thanh Lan từ đâu vọng lại:

Anh đi rồi còn ai vuốt tóc,

LờI tình thơm sách vở học trò …

Anh đi rồi còn ai tình tự

Đêm đầy trơi tiếc nhớ bơ vơ.. . (1)

Âm điệu buồn như vấn vương theo những cánh phượng hồng rơi lả chả, cuốn hút theo cơn gió giao mùa.

Chúng tôi đến với Bạch Đằng 2 vào những ngày đầu tháng 10 năm 1969. Chỉ vài ngày sau, là thực sự khoác áo chinh nhân; sinh họat, tập họp điểm danh, xếp hàng theo đội hình, tập hát những bài hát quân hành và thực tập diễn hành. Ở Bạch Đằng 2 một tuần thì được về phép lần đầu. Hai tuần sau có lệnh đổi quân phục từ kaki vàng sang tím vŕ mũ kepi đen. Hai anh Lê Sang và Nguyễn văn Báu tình nguyện mang quân phục đi nhuộm cho các bạn. Khoá sinh kỷ luật do các anh Lê văn Minh (Tề), Lý Tỷ, Nguyễn văn Báu, Lê Sang đảm nhận. Tôi vẫn còn nhớ các anh Nguyễn Kim Hòan Mỹ, Phạm Quốc Nam, Nguyễn văn Nghiêm, Lê xuân Chiến, Phạm Ngọc Quỳnh, Phan Ban. Lưu Văn MườI, Trần Đăng Bé, Lâm Thanh Khiết, Nguyễn Cường Việt, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Đŕi, Tôn Thất Phước, Trần Ngọc Chiểu, Nguyễn Ngọc Dzao, Lę Văn Khá, Nguyễn Văn Khá. .. Anh Phạm Khắc Khiêm vào những ngày đầu, trong bộ thường phục thường ôm đŕn hát nhạc phẩm Ngày Trở Về của Phạm Duy cho các bạn cùng nghe, giọng anh trầm buồn đầm ấm:

…Ngày trở về, bên bếp vui

Anh kể chuyện nghe,

chuyện đời quân ngũ…

<>Qua bảng danh sách khóa 21 Home Page, tôi được biết một số bạn Bạch Đằng 2/69 lŕàcác anh Đặng Qui, Văn Yn, Vő Tánh đă từ trần. Những ngày tạm trú ở Bạch Đằng 2 rồi cũng qua mau, chúng tôi được gửi đi tiếp tục thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung; tại đây, tôi trực thuộc đại đội 18C. Đaị Đội Trưởng làThiếu Úy Tôn, ngươì Bắc, dáng hao gầy , Đại Đôị Phó là Chuẩn Úy Tây và một Thượng Sĩ Thường Vụ khoảng 50 tuổi mà tôi quên tên. Khoá sinh Đại Đội Trưởng là anh Huỳnh Văn Sang. Ở TTHL Quang Trung chúng tôi ngủ trên giường hai tầng. Hàng ngày, chúng tôi có nhiệm vụ canh gác phòng ngủ, doanh trại, thực tập tránh pháo kích. Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi thường mua chè, cháo lòng đựng trong thùng đạn đại lięn, do các quân nhân cơ hửu hay thân nhân của họ bán. Buổi sáng thức dậy sớm, sau khi “chŕláng ” các hầm trú ẩn, giao thông hào, chúng tôi di hành ra bãi tập để học. Chúng tôi được huấn luyện về căn bản quân sự, di hành, bò hỏa lực, xử dụng các lọai vũ khí, thực tập tác xạ, tác chiến, ứng chiến có khi ngủ đêm tại các băi học. Trưa đến, có xe tiếp tế thực phẩm: cơm, canh, cá mối (chiên), khẩu phần đạm bạc, nhưng vì vận động nhiều, nên ai cũng cảm thấy ngon ăn. Tôi vẫn nhớ các bạn Phạm Đinh Nhật Hà, Nguyễn văn Điềm, Hà Đăng Ngân, Nguyễn Văn Kế Ba, Nguyễn Trọng Quýnh, Nguyễn Khắc Chinh, Phạm Quốc Nam, Vő Xuân Long, Lương Quang Bình.. . Riêng bạn Trần Minh Dũng, sau giờ học tập, về trại thường ngâm nga vài câu thơ Phạm Công Thiện trong bài Ngày Sinh Nhật Của Rắn. Bài hát di hành chắc nhiều bạn vẫn còn nhớ :

Đây khúc ca nơi quân trường đầy hào hùng Vai sát vai ta thi tài trong tình quân ngũ, Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm .. . (?).

Có những sáng sớm rạng đông đă nghe tiếng hát

Thanh Tuyền, vang vọng từ chiếc quán bên kia đường :

Con đường xưa em đi.

Vàng lên mái tóc thề,

Ngõ hồn dâng tái tê.. (?)

Hay nhạc bản Bên Cầu Biên GiớI của Phạm Duy

mỗi lần ăn cơm nhà bàn:

.. .Bên cầu biên giới,

Tôi lặng nghe giòng đơi từ từ trôi. Sông nứơc xa xôi, mây núi khắp nơi,…

Quân trường Quang Trung đă lưu lại nơi tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Vào những ngày Chúa Nhựt; khóa sinh được thân nhân đến thăm viếng như được diễn tả trong bản nhạc Vườn Tao Ngộ,

Hôm nay ngày chúa nhật. Em đến thăm anh,

Đường Quang Trung nắng đổ mŕàem đâu có ngại khi tình yêu ngun ngút cao…(2)

Có lần tham dự sinh hoạt Chính Huấn cuối tuần , chúng tôi được thưởng thức chương trình ca, vủ, nhạc, kịch thật đặc sắc. Anh Nguyễn Văn Trào ( Khóa 21 Nha Trang) biểu diễn những màn vỏ thuật VOVINAM hồi hộp và ngoạn mục. Chúng tôi cũng được vị Đại Úy chủ tọa buổi sinh hoạt CTCT đồng ý cho mặc quân phục Hải Quân màu tím khi xuất trại về phép.

Từ giã Quang Trung, nhiều bạn ( đa số thuộc đại độI 20 E) lên đường, tiếp tục thụ huấn khóa 21 Nha Trang, một số bạn về Sài Gòn, học Anh Văn, chờ đi du học. Rięng tôi vŕ một số bạn, vì sỉ số khóa sinh quá đông ( khoảng 650 ngươi ), Hải Quân không đủ quân trường huấn luyện nên được gửi đi thụ huấn tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức để ra trường và thụ hưởng quyền lợI Sĩ Quan sớm hơn. Tại trường Sĩ Quan Trừ Bị, tôi thuộc đại độI 16, và cũng là Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân duy nhứt ở đại độI này. Đại Úy Đức làm đai đội trưởng, Sĩ Quan Cán Bộ gồm có: Trung Uý Hiểu, (Sau nầy chết vě Việt Cộng pháo kích vào quân trường, ), Chuẩn Uý Bá (Tốt nghiệp Fort Benning Texas). Thành phần Sinh Viên Sĩ Quan gồm các binh chủng, Hải, Lục, Không quân, nhưng đa số là SVSQ Bộ Binh.

Tại trường Sĩ Quan Thủ Đức, khoảng 5 giờ sáng, chúng tôi “được” đánh thức, di hành lên đồi Tăng Nhơn Phú để học tập. Ai tập họp trễ sẽ bị phạt bò, hít đất, nhảy xổm. Khoăng 10 giờ tối thì về đến trại. Chúng tôi trải qua thật nhiều gian khổ trong những tuần huấn nhục như bài thơ mà Nguyên Sa đã ghi lại như sau:

Bây giờ khẩu Garant ta mang trên vai

Bây giờ khẩu trung liên Bar ta mang trên vai

Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế nào.. . .. .

Bây giờ di chuyển đêm, di chuyển ngày, di chuyển nắng, di chuyển mưa

Ăn không được, ngủ không được , cười không được, khóc không được.. .

Tôi còn nhớ trong thời gian huấn nhục, có một SVSQ mang bịnh “buồn ngủ”, có lần sau khi mãn học ngoài bãi tập, thấy vắng anh, mọi người đổ xô těm kiếm . Cuối cůng khám phá là anh đã leo lên cây, dùng giây nịt, buộc vào cành cây và “đi vào giấc mộng”.

Đêm Di Hành là bài hát được các bạn tại Đại Đội 16 ưa thích nhất, bản nhạc có lời như sau:

Đêm di hành vượt qua ngàn núi non,

dù gian nan, dù chiến đãu.

Mặc bụi đường vẫn ghi lời hứa, ” Hây!”.

Mong xua tan quân bạo tàn để nước non thanh bình. Tàn đêm nay, tàn đêm mai, sương mênh mông lạnh buốt núi non….” (?)

Đầu tháng 5/70, chúng tôi về ứng chiến Sài Gòn, cũng trong lần nầy, tôi đă quen nhà tôi và chúng tôi đã thành hôn vào cuối năm 1974.

Sau ngày mãn khóa, tôi lại được gửi đi học trường Tổng Quản Trị ở đường Đồng Khánh, Chợ Lớn, rồi về tòng sự tại ban Huy chương, ban Hành Chánh 3, phòng TQT BộTư Lệnh Hải Quân. Được một thời gian ngắn, được biết có mở khoá du học OCS, tôi dự thi và trúng tuyển theo học Anh Văn trường Boat School ở góc đường Duy Tân- Hiền Vương Sài Gòn, tối đến sinh hoạt với các huấn luyện viên Hoa Kỳ bên Hải Quân Công Xưởng. Sau 2 tháng học tập, tôi được gửi đi thụ huấn hải nghiệp tại quân trường OCS.

Đến với quân trường OCS vào tháng 1 năm 1971. Tôi thuộc khoá 11 U/O ; ( O lŕ chữ viết tắt Officer, vě chúng tôi là Sĩ Quan Khóa Sinh ). Có tất cả ba khóa 10, 11, và 12 mà đa số khóa sinh là những Sĩ Quan Chiến Binh đã tốt nghiệp tại các quân trường Vỏ Bị Đà Lạt hay Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức nhưng chưa có chuyęn nghiệp quân sự. Sau ngày tốt nghiệp OCS, sẽ được cấp chuyên nghiệp quân sự nghành chỉ huy và được gọi là Hải Quân Thiếu Úy, hay Hải Quân Trung Úy… Trưởng toán của nhóm sĩ quan khóa sinh là Trung Úy Bùi văn Quang. Trưởng tóan SVSQ là anh Trần Hải Mank. Sĩ Quan Mỷ đại đội trưởng làTrung Úy Robert W. Auve. Tại quân trường OCS, chúng tôi đă được huấn luyện, hải hành tập độI, cơ khí phòng tai, hải pháo, vận chuyển, lý thuyết tàu bè, cơ khí và lãnh đạo chỉ huy, hàng hải cận duyên ( Piloting ), dùng những điểm cố định tręn bờ và la bàn để lấy hướng định toạ độ, vị trí chiến hạm tręn hải đồ; hàng hải phỏng định ( Dead reckoning ), hàng hải viễn duyên về thiên văn ( Celestial Navigation ), dùng sextant đo vì sao biết được trong chòm sao, đưa xuống chân trờI lấy góc độ, hướng, tra cứu sách thiên văn ( Star finder, H.O. 214, Nautical Almanac ) rồI vẽ lên hải đồ vị trí của con tàu; hàng hải điện tử, dùng ra đa để xác định vị trí. Chúng tôi được thực tập trên các tiểu đỉnh YP trong vůng vịnh Narragansette.

Học Trình tại quân trường OCS được họach định như sau:

VNN CURRICULUM BY SUBJECT AREA

SUBJECT AREA: ORGANIZATIONAL DIVISION HOURS

English Language ( Naval Terminology ) 90

The Shipboard Team 10 Division Officer Duties 5

105 Total

TECHNOLOGICAL DIVISION

Operation and Maintenance of Shipboard Equipment Introduction 7

Engines 21 Propulsion Drives 15 Electricity 22 Auxiliary Equipment 15 80 Total Casualty Control ( Ship Construction, Damage Control and fire fighting )

Ship Compartmentation 2

Fire fighting 21 Dammage Control 6

NBC Warfare 2 Stability 4

Deck Seamanship 4 25 Total TACTICAL DIVISION OOD

ProceduresYP’ s 12

Tactical Trainer 6 Shiphandling Theory 6

Rada 4

OOD 2 30 Total

Communication 25

CPA 8

Simple Formations 11

Rules of the Road 6 50 Total

Weapons 14 Unconventional Warfare 8 Amphibious Operations 4

Mine Warfare 2

Gunfire Support 2

30 Total

NAVIGATION DIVISION

Introduction 3

Charts and Aids to Navigation 12

DR, Piloting 14 Current 10 Compasses, Instruments 16 Sunrise and Sunset 4

P-Works 36 Celestial 56 151 Total

Intro. To Celestial Navigation 2

Time 4

Time Diagram 2 Nautical Almanac 9

H.O. 214 6 Methode and Problem Solving 6

Celestial Line of Position 2 Sextant Familiarization and use 4

Practical Work in Sights and Piloting 12

Test 9

56 Total

(Tài liệu từ quân trường OCS ).

Sau ngày hòan tất việc huấn luyện tại OCS, Newport Rhode Island, các khoá sinh được gửI đi thụ huấn về ” Chiến Tranh Sông Ngòi” ( Riverine Warfare ) tại Trung Tâm Huấn Luyện N.I.O.T.C. ( Naval Inshore Operation Training Center ) thuộc Mare Island, California. Các khóa sinh được thực tâp về độI hình, tác xạ, phục kích, tránh mìn, truyền tin, vận chuyển trong sông rạch trên những chiến đỉnh PBR, PCF. Trong những ngày thụ huấn tôi chỉ mong thờI gian chóng qua mau để sớm trở về quê hương. Được biết các bạn cùng khoá: Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Ngọc Chót, Nguyễn Hữu Hạnh, Huỳnh Trọng Nghĩa, Phạm Quang Huy, Đổ Anh Tuấn, Đinh Sĩ Vụ, hiện định cư tại Hoa kỳ. Riêng Nguyễn Văn Sĩ ( My roomate/Thuyền Trưởng PCF ) đă tử nạn trong lúc đưa tàu đi tuần tiễu trên vùng biển Năm Căn . Xin các bạn mỗi người một lời cầu nguyện cho linh hồn anh Sĩ.

Sau ngày tốt nghiệp từ quân trường OCS trở về, tôi được bổ nhiệm về phục vụ Giang Pháo Hạm Thięn Kích HQ 329. Hạm trưởng lŕ HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Sắc, khoá 11 Nha Trang. Hạm phó HQ Trung Úy Nguyễn Bích Ngân, khóa 17 NT. Sĩ quan gồm có Nguyễn Văn Phứơc khoá 19 NT, Lưu văn Nở, Khóa 20 NT, Vő văn Vân khóa 20 /CK/NT. Trần Trung Gấu, Khoá 21/CK/ NT. SQ các khóa OCS gồm có: Võ văn Bé, Nguyễn Kim Tuấn, Trần văn Hai. Đa số sĩ quan ở tàu đều có gia đình ở  Sài Gòn, riêng tôi và Trần văn Hai là “con bà phước” nên thường xuyên ở lại tàu trong khi hầu hết các sĩ quan khác đều về vớI gia đěnh trong những ngày tàu ở bến. Trong suốt thờI gian tôi phục vụ tại HQ 329, hầu hết thời gian công tác của chiến hạm là hoạt động vùng Năm Căn, Vũng Tàu. Trong chuyến công tác vùng Năm Căn năm 1972. Tàu suýt bị trúng lance bomb do Việt Cộng phóng từ bờ. Lúc đó, tôi đang đứng cạnh khẩu đại pháo 76 ly, bỗng thấy vật lạ từ bờ nhảy trên mặt nước hướng về phía chiến hạm, nhưng may mắn lŕàchiến hạm chạy giữa giòng sông, lance bomb bị chìm trước khi tới chiến hạm. Sau đó, Hạm Trưởng Sắc thuyên chuyển, HQ Thiếu Tá Lê văn Quế về thay thế. Khoảng tháng Giêng năm 1972, tôi được chấp thuận theo học khoá Căn Bản Sĩ Quan Chiến Tranh Chánh Trị tại Trung Tâm Huấn Luyện/CTCT/ Sài Gòn. Sau ngày tốt nghiệp, được chỉ định đảm nhiệm chức vụ Hạm Phó Tuần Duyęn Hạm Song Tử HQ 614. Vě chiến hạm đang công tác, tôi phải đáp phi cơ ra Phú Quốc trình diện tân đáo. Được biết vị Hạm Phó tiền nhiệm là HQ Trung Úy Nguyễn văn Quít khoá 19 Nha Trang, thường được nhân viên nhắc nhở, ca tụng vě ông là một sĩ quan tài giỏi, nhiều kinh nghiệm. Sĩ quan tạm thờI thay thế Trung Úy Quít là HQ Chuẩn úy Nguyễn Bão Đồng khóa 8 (?) OCS. Khi tôi đến đáo nhậm thì Chuẩn Úy Đồng đang nằm bịnh xá HQ Phú Quốc. Vài tháng sau, Chuẩn úy Đồng có lệnh thuyęn chuyển đi đơn vị khác, và HQ Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Tòng khóa 22/NT về thay thế. Kỷ niệm đáng nhớ nhất về Chuẩn Uý Tòng đó là trong một lần công tác vùng biển Hà Tiên, sau khi bàn giao ca khoảng 12 giờ đêm lại cho anh. Tôi trở về phòng định đi ngủ, thình lình tôi nghe một tiếng “ầm” vang dội. Tòan thân tàu rung động, con tàu nghiêng nghửa, Đại Úy Cố Vấn Mỷ Dudley từ trên chiếc giừơng từng trên cao té xuống sàn tàu. Tôi có cảm tưởng tàu sắp lật úp và sẽ bị chìm. Tôi vội vàng lên đài chỉ huy, con tàu vẫn còn chòng chành, Chuẩn Uý Tòng cho biết có lẽ chiến hạm bị tàu Sealand đụng, bên hữu hạm bị vỡ một khoảng gần nửa thước cạnh khẩu đại liên phòng không 20 ly. Tôi cho bắn hỏa châu để quan sát, nhưng chiếc tàu gây ra tai nạn đã biến dạng vì trời tối và có quá nhiều tàu qua lại lúc ấy nên không thể phát hiện được.

Sau ngày mãn hạn công tác chiến hạm về Sài Gòn, khi tàu về gần đến Nhà Bè, chúng tôi có nhìn thấy một chiếc ghe nhỏ lái đâm đầu vào chiếc thương thuyền cở lớn, ghe bị chìm, chúng tôi dừng lại để cưú cấp, đợi khoảng 1 giờ, nhưng không thâý động tĩnh gě chúng tôi tiếp tục giang hành. Riêng chiếc thương thuyền, không biết có nhận thức tai nạn hay không? vẫn tiếp tục chạy biến dạng. Tàu về nghỉ bến, đậu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Môt sáng sớm, khi tôi còn say ngủ, một thủy thủ đánh thức tôi dậy và cho biết tàu sắp chìm. Nhìn qua phòng Hạm trưởng thì thấy nước đã vào đến sàn tàu. Tôi vội vàng ra lệnh cột chặt chiến hạm vào hai tàu đậu kế bên, đồng thời gửI công điện thượng khẩn, yêu cầu BTL Hạm Đội cho toán phòng tai mang bơm xuống hút nước và đã cứu vãn được con tàu.

Trong thời gian phục vụ tại tuần duyên hạm HQ 614. Chiến hạm thường công tác taị Phú Quốc, Vũng Tàu, Năm Căn, Qui Nhơn, Nha Trang; nhưng nhiều nhất là Phú Quốc. Đặc điểm của Phú Quốc là tại An ThớI, mũi Ông ĐộI, có dấu bàn chân trên mỏm đá, luôn luôn có nước ngọt rịn ra.

Dạo chơi An ThơiI ròng đôi bửa

Giọc nước Bãi Kem tắm nắng đào. (3)

Bãi biển khá đẹp, du khách có thể tắm thoải mái tại Bãi Kem, Bãi Dung, Gềnh Dâu… Ngoài khơi quanh đảo Phú Quốc, du khách có thể thăm viếng các đảo Thổ Châu ( Poulo Panjang), Hòn Sơn Rái ( Tamassou ). Quán phở Bò Vàng và Hội Quán Bi Da do gia đình thân hữu Đổ Kỳ Nam khoá 6 OCS làm chủ là nơi qui tụ nhiều quân nhân đến ăn uống và giải trí . Trong lúc tuần tiễu vùng bắc đảo Phú Quốc, chúng tôi có dịp viếng thăm xứ Cao Miên. Có lần, Hạm trưởng Thiếu Tá Tùng, Đại Úy Cố Vấn Dudley vŕ tôi vào hoang đảo, ném lựu đạn bắt được rất nhiều cá Thác Lác, có con dài hơn 1 mét. Khi chiến hạm tuần tiễu vùng cửa sông Ông Đốc, chúng tôi bắt được một ghe đánh cá Thái Lan vi phạm lănh hải nước ta, chúng tôi áp giải ghe nầy về CCHQ/ Năm Căn. Sĩ Quan vŕ Thủy Thủ đoŕn mỗi người đựơc tưởng thưởng sáu ngŕn đồng. Trong lần yểm trợ hải pháo gần Căn Cứ Hải Quân Năm Căn, HQ 614 đă giải tỏa được áp lực địch đang tấn công mănh liệt vào đơn vị bộ binh, và đă đẩy lui được kẻ thù.

Năm Căn muổi đói vo ve khóc

Sông chụm đầu nhau quẫy sóng ca. (4)

Sau ngày hiệp định Paris được ký kết đầu xuân 1973. Cùng lúc vớI lệnh ngưng bắn được ban hành là thông điệp của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đọc sáng ngŕy 28 tháng 1 năm 1973, kęu gọI đề cao cảnh giác âm mưu lấn đất giŕnh dân, đừng mắc vŕo cạm bẫy của cộng sản. Chúng tôi đang sắp khởi hành đi tuần tiễu thì nhận được lệnh công tác đến vùng Hòn Heo, gần tháp Hải Đăng Hà Tiên, theo chỉ thị, chúng tôi, phải triệt hạ lá cờ của Việt Cộng đang treo trên ngọn Hải Đăng đồng thờI yểm trợ cho Biệt Động Quân đang àŕnh quân trong vùng. Địch quân đă phục kích sẵn, chờ khi chúng tôi tiến sát gần bờ, chúng dùng đại bác 57 ly, B40, AK 47, bắn tớI tấp, chúng tôi vừa phản pháo, vừa rút lui ra vùng an toŕn, tránh khỏi hỏa lực uy hiếp của địch. Trong một chuyến công tác khác , chúng tôi ghé lại Hòn Heo, được chúa đảo là một cụ giŕ khoảng 70 tuổi ra đón rước, chúng tôi được dân hải đảo thết tiệc bằng món cháo lươn, nấu với bẹ môn, và họ trình diễn cho xem điệu múa Cao Mięn rất ngoạn mục. Khi mọi người đă trở về chiến hạm, chúa đảo còn gửi một cô gái độ 20 tuổi mang tặng thủy thủ đoŕn 1 buồng chuối, chúng tôi nhận quà và ngỏ lời cảm ơn hảo ý của dân hải đảo.

Sau chuyến công tác Năm Căn, chúng tôi về BTL Hạm ĐộI, nghỉ bến được 1 tuần lễ, thì nhận được lệnh công tác vùng 2 Duyęn Hải. Nha Trang nổI tiếng là nơi danh lam thắng cảnh, vớI hàng thùy dương và bãi biển cát trắng chạy dài từ Đại Lãnh-Văn Phong- Cà Ná; ngoài khơi có khoảng 6 hải đảo mà lớn nhất là Hòn Tre. Ở Hòn Yến, ngườI ta có thể tìm thấy yến sào do lòai chim yến ( Salegane ) dùng nước miếng tạo ra, tổ yến được dùng làm thực phẩm rất quí và đắt tiền.

Non nước hữu tình nhất trời Nam

Nhàn du ngoạn cảnh ngắm danh lam

Tháp Bà nhẹ bước người vào viếng

Cầu Đá chen chân khách đến thăm. .. (5)

Khi cập bến Cầu Đá, tôi có gặp anh Phạm Đình Nhật Hà khoá 12 OCS và cũng là ngườI bạn từ trại Bạch Đằng 2 & TTHL/ Quang Trung. Anh Hà là thuyền trưởng Coast Guard. Khi tàu nhập vùng được 1 tuần thì Hạm trưởng đi phép về Sài Gòn thăm gia đình, còn lại một mình, trẻ tuổI, lại ham vui; nghe theo lờI “dụ dỗ” của thủy thủ đňan, tôi và đòan tùy tùng, khoảng tám ngườI kéo nhau vào bờ dạo chơi gần căn cứ Đại Hàn ở Vũng Rô rồi ở lại ngủ đêm, sáng hôm sau, nhờ ghe đánh cá đưa ra tàu. May mắn cho chúng tôi đă không bị sát hại ! Một lần khác, chúng tôi tắt liên lạc vô tuyến vào Đại Lãnh, tìm thịt heo rừng cho thủy thủ đoàn có thêm chút dinh dưỡng. Chúng tôi có tặng một ít gạo cho vài gia đình tử sỉ có thân nhân bị cộng sản sát hại. Trong lúc đang quan sát lớp học với đám học trò trẻ con nghčo xơ xác thì có đoan ghe Yabuta, và phi cơ bay lượn vờn quanh. Những người lính trên tàu cho biết, vùng 2 Duyên Hải đang báo động vě nghĩ rằng chúng tôi là tàu Bắc Việt xâm nhập. Chúng tôi vội vàng tách bến, trở lại vùng công tác.

Khoảng tháng 4 năm 1974, tôi mang chiến hạm HQ 614 ra đại kỳ ở Căn Cứ Hải Quân Sơn Chŕ. Sau ngày nghỉ phép từ Sài gòn trở ra Đà Nẵng, Tôi đã gặp lại anh Trần Văn T, người bạn thời niên thiếu cùng làng . Lúc gặp tôi, anh T là Thiếu Uý Bộ Binh ra Đà Nẵng tân đáo đơn vị, T có nhờ tôi trao lại phong thư cho người yêu của anh ở Mỷ Tho. Tôi đă làm điều mà anh căn dặn; nhưng ” tiếc thay rằng tình chung không ngủ trên môi” (?), chĩ sau ba ngày sau, trên đường trở về Saì Gòn để đáp phi cơ ra Đà Nẳng, tôi đă gặp người tình của T đan tay dạo phố với một HQ Trung Úy! Trong thời gian tàu đại kỳ ở Đà Nẵng, quân số chiến hạm đă giảm thiểu chỉ còn độ 1/3, chỉ đủ canh gác và thử đường trường. Tôi và Hạm Trưởng Tùng ngòai thời gian liên lạc hợp tác với hải xưởng Đà Nẵng để cho công việc Đại Kỳ tiến hŕnh tốt đẹp, chúng tôi có được chút thời giờ viếng thăm thŕnh phố Đà Nẵng. Rất tiếc, dạo đó tôi đă không có dịp ra Huế để viếng Cố Đô. Du lịch Đà Nẵng, du khách nęn viếng những thắng cảnh và di tích lịch sử địa phương như: Đčo Hải Vân, Ngũ Hŕnh Sơn, Núi Bà Nà, Chùa Linh Ứng, và Viện Bảo Tàng Chàm. Mỗi chiều cuối tuần Lê Văn Nhẫn ( Cùng làm chung vớI tôi ở phòng TQT /BTL/ HQ năm 1970 ), Nguyễn Cao Bách, Bác Sĩ Phạm Khắc Hiệu, Dược Sĩ Cao Thái Thành ( tất cả các bạn đều là Trung Úy ), mang xe jeep đón chúng tôi đi dạo phố Đŕ Nẵng, ghé quán Thięn Nga, Thạch Thảo, nghe nhạc, uống cà phê. Đôi khi, những ngày cuối tuần, tôi còn có cơ hộI bay về Sài Gòn để thăm ngườI yêu. Cuối tháng 7 thì công việc đại kỳ đă hoàn tất. Hải quân Đại Uý Nguyễn Hữu Thiện về thay thế HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn Tùng. Đại Úy Thiện và tôi đưa chiến hạm về SŕàGòn.

Sau hơn ba năm phục vụ trên 2 chiến hạm thuộc Hạm Đội, tôi được ân thưởng bằng Tưởng Lục, Chiến Dịch, Quân Vụ, Kỷ Thuật, và Hải Vụ Bội Tinh; tôi xin học khóa Trung Cấp CTCT và được chấp thuận. Sau khi bŕàn giao chức vụ Hạm phó cho HQ Trung Úy Nguyễn Hữu Minh, tôi về trình diện BTL/HQ/ P. CH, và được gữi đi thụ huấn tại Đại Học CTCT Đŕ Lạt. Ban giảng huấn trường Đại Học CTCT gồm có: Tiến Sĩ Nguyễn Thị Huệ, Tiến Sĩ Phó Bá Long, Tiến Sĩ Nguyễn Hoàng Giáp, Tiến Sĩ Thượng Tọa Thích Giác Đức, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng , Luật Sư Nguyễn Hữu Thống ,vŕ các Sĩ Quan cơ hữu của trường. Chúng tôi học về Tình Báo, Tâm Lý Chiến, Chính Huấn… Trường Đại Học CTCT tọa lạc trong thŕnh phố Đà Lạt, thị trấn nổI tiếng vớI Trường Vő Bị, thác Cam Ly, hồ Than Thở,

Đứng trên triền dốc nhìn xuống hàng thông. Hàng cây thẫm màu đèn lên phố phường..

Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ

Màu lam tím Đà Lạt sương phủ mờ… (6)

Sau ngày ra trường, tôi được bổ nhậm vào ban Giáo Dục Chính Trị thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân/ Phòng Chính Huấn. Trưởng Phòng là HQ Trung Tá Phạm Thành Long. Sĩ Quan gồm có các Đại Úy CTCT: Đỗ Hửu Danh, Lê Văn Soại, Phạm Ngọc Hòa. Sĩ Quan OCS: Lê Tín Thành, Nguyễn Thái Hùng. Thiếu Úy Đòan Viên Lê Thùy Anh. Trong thời gian nầy, tôi có gặp bạn Hà Đăng Ngân (OCS 8), người về từ Hoàng Sa; anh kể lại trận chiến lịch sử màcác chiến hữu HQVN đă can trường chiến đấu chống quân xâm lược Trung Cộng vào tháng Giêng năm 1974. Được biết Ngân hiện định cư tại Hoa Kỳ, mong anh tường thuật lại thiên phóng sự hăn hữu mà anh đựơc vinh dự tham chiến.

Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tôi có nhiệm vụ tiếp đón các đơn vị di tản chiến thuật từ miền Trung về tạm trú tại Căn Cứ Hải Quân Cát Lái. Từng đoàn tàu từ miền Trung, đưa binh sĩ, gia đěnh quân nhân cůng đồng bŕo tị nạn. Hàng vạn đồng bào và quân nhân đã được đón nhận tại căn cứ này . Thực phẩm không đủ phân phối cho tất cả moị người. Tôi cũng nhận được tặng vật của một nhà hảo tâm trao tặng gồm hai xe chở đầy chao và phân phối cho tất cả mọI người. Khoảng 1 tuần lễ trước ngày 29/4/75., trong khi tôi đang thuyết trình tại Câu Lạc Bộ nổI BTL/HQ thì được lịnh hòan trả súng đạn lại kho vũ khí. Các chiến hạm cập bến tại Sài Gòn được tiếp tế thực phẩm, nhiên liệu đầy đủ. Đêm 28/4/75., Việt Công pháo kích, đạn pháo rớt xuống sông Sài Gòn và khách sạn Majestic . Trưa ngày 29/4/75., tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy đồng bào đổ xô xuống tàu càng lúc càng đông. Khoảng 4 giờ chiều, tôi quá giang Đại Uý CTCT Đỗ Hữu Danh về nhà.

Khi tôi trở lại Bộ Tư Lịnh Hải Quân và khoảng 6 giờ chiều thì có lệnh tập hợp, HQ Đại Tá Đỗ Kiểm thông báo: Sĩ Quan hăy về nhà đưa gia đěnh theo Hạm Đội di chuyển chiến thuật ra Côn Sơn. Tôi vội ra trước cổng BTL/HQ thě gặp HQ Trung Úy Lê Minh Đạo khóa 10 OCS. Anh Đạo hốt hoảng hỏi nên làm gì ? Tôi khuyên anh nên đưa gia đình di tản theo Hạm Đội. Khi ra khỏi cổng, tôi gặp được người lính cũ ở HQ 614. Anh đă dùng xe Honda đưa tôi về nhà tận phi trường Tân Sơn Nhất. Khi tôi vào nhà thì cả gia đình đang chờ tôi. Nhạc mẩu tôi cùng gia đình mang hành lý rời nhà khoảng 100 mét thì đạn pháo kích nổ gần bên làm mọi người hoảng sợ chạy trở về nhà. Mẹ vợ tôi đưa tiền cho vợ tôi vŕàkhuyên chúng tôi hãy ra đi. Những người đi theo tôi lúc bấy giờ chỉ còn có đứa cháu thuộc binh chủng Không Quân, hai mẹ con ngườI hàng xóm và vợ tôi .

Khi chúng tôi rời nhà khoảng một cây số thì may gặp một quân nhân thuộc binh chủng Nhảy Dù đang lái xe jéep, chúng tôi xin quá giang và được anh đưa đến cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Tôi ngỏ ý là nếu anh muốn, tôi có thể giúp anh cùng xuống tàu theo Hạm Đội. Anh cám ơn, nhưng từ chối, và cho biết sẽ ở lại tử thủ. Tôi tặng anh số tiền mà mẹ vợ tôi vừa cho. Vào tới Bộ Tư Lệnh thì đã 10 giờ tối, Thượng Sỉ Định, Quản Nội Trưởng có đưa tôi khẩu súng Carbine mang theo để phòng thân, tôi không lấy, chỉ mang theo chiếc chăn ngủ. Khi tôi và gia đěnh đến bến, tàu đă đầy ứ người. Bình thường, Khu Trục Hạm Trần Hưng Đạo/ HQ 1 chỉ chứa được khoảng 200 người. Lúc đó, theo tôi phỏng định, có vào khoảng 2000 người. Một số quân nhân khóc nức nở vě không mang đựơc gia đình theo! Vài sĩ quan trẻ quá thất vọng, đă nông nổi vứt cả súng ống xuống sông. Khi tầu ra gần Vũng Tàu thì Phó Đề Đốc .. .(?) ghé tàu để đón gia đình. Khi tàu cập bến bị bể bên hông phía sau lái. Đến Côn Sơn, tất cả chiến hạm tụ họp lại với nhau và được loan báo là Hạm ĐộI sẽ rời Việt Nam để đi Phi; sẽ có chiến hạm đưa những người muốn ở lại trở về Vũng Tàu. Gia đình tôi chuyển sang Cơ Xưởng Hạm Cần Thơ HQ 801 vì H.Q 1 chứa quá nhiều người và bị hư hại. Trên hải trình đi Phi, HQ 801 cũng đón nhận thêm nhiều quân nhân cùng đồng bào muốn quá giang. Chiến hạm cũng cho phép một phi cơ trực thăng hạ cánh mang theo một Đại Tá Bộ Binh, đoàn tuỳ tùng và viên Phi Công. Tình trạng sinh hoạt trên chiến hạm ngày thêm tồi tệ, khan hiếm thực phẩm và nước uống; may mắn, tôi tìm được ít cơm khô mà ai đó đă phơi cạnh bęn ống khói tàu. Có lần vợ tôi quá đói, đau lòng khi thấy thai nhi bò quậy trong bụng mẹ, tôi liều lĩnh vào khu ẩm thực định tìm chút nước uống và thực phẩm cho vợ thì bị một Thiếu Uý Bộ Binh (?) cản đường không cho vào. Tôi lên phòng Sĩ Quan tìm bạn. May mắn, gặp được HQ Trung Úy CK Lê Đăng Bảo, ( Khóa 21 Nha Trang ) anh Bảo cho vài hộp cá hộp, nhờ đó mà vợ con tôi đở đói. Hôm sau lại được tàu chở dầu của anh Lý Thái Thạnh ( Thân hữu Bạch Đằng 2 & Quang Trung ), anh Thạnh tặng hai thùng chao. Tôi chia sẻ lại cho đồng bào, chỉ giữ lại vài hộp. Lúc đó, tôi thật vô cùng cảm kích, các bạn đã nhường thực phẩm của chính mình cho chúng tôi trong lúc khan hiếm,

Miếng khi đói, gói khi no,

Của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn trùng. (?)

Trước khi chiến hạm vào lãnh hải Phi Luật Tân, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi khi nhìn thấy lá quốc kỳ VNCH được hạ xuống để chuyển giao tàu lại cho ngườI Mỹ.

Từ Phi, chúng tôi được chuyển sang một thương thuyền khác để sang đảo Guam. Tại Guam, nhiều trại lính bằng vải bố đă được dựng sẵn. Trên đoạn đường dài vŕàrộng, có nhiều nhà tắm và nhà vệ sinh lộ thiên. Ngày ba buổi, ngườI tị nạn xếp hàng đi nhận thức ăn. Sống ở trại tỵ nạn được khoảng một tháng thì chúng tôi được chuyển đến trại Indiantown Gap tiểu bang Pensylvania. Tại đây, vợ tôi đă hạ sanh đứa con đầu lòng và chúng tôi đă đặt tęn cho con là Hòai Nam để tưởng nhớ về Quê Hương Việt Nam.

Khi tình nguyện gia nhập binh chủng Hải Quân, tôi chỉ có một ý niệm đơn thuần: Thi hành nhiệm vụ công dân. “Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách” (?). Tuy nhiên, qua Trại Bạch Đằng 2 và những quân trường thụ huấn ( Tổng Quản Trị, Đại Học CTCT, Sĩ Quan Trừ Bị, OCS.), ngòai những kiến thức cần thiết cho một Sĩ Quan Hải Quân học hỏi được, tôi còn may mắn quen thân nhiều bằng hữu quí mến, các bạn là những thanh niên ưu tú, đă nhiệt tình đáp ứng lờI kêu gọi của Tổ Quốc khi Sơn Hà nguy biến.

Binh Chủng Hải Quân đă cho tôi cơ hộI trực tiếp đi, thấy, phụng sự quê hương, vŕ thủ đắc được nhiều kinh nghiệm mà tôi khó có thể tìm thấy ở đờI sống dân sự. VớI tất cả tấm lòng chân thành của một ngườI dân yêu nước, chúng tôi đã dâng hiến quãng đờI thanh niên tươi đẹp nhất để chiến đấu cho Quê Hương Việt Nam được độc lập, tự do, dân chủ, thịnh vượng vŕàtiến bộ. Nhưng rồi vận nước không may,” mưu sự tại nhân, thŕnh sự tại thiên !” “(?). Biến cố đổI đờI 30 tháng 4 năm 1975 đă đưa đẩy tôi lưu lạc hơn nữa vòng trái đất. Ngày nay, dù cuộc sống ở Hoa Kỳ đă tương đối được ổn định, nhưng mỗI lần hồi tưởng về cuộc chiến cũ, tôi không khỏi ngậm ngùi: Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ! (7) Thượng Đế vẫn còn dành cho Quê Hương Việt Nam nhiều khổ lụy !

” Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mớI được phần thanh cao.” (8).

 

Ghi Chú:

(?) Không nhớ tên.

(1) Nhạc phẩm LờI Tình Buồn. Vũ Thành An. (2) Nhạc phẩm Vườn Tao Ngộ. Nhật Hà.

(3)&(4) Thơ Thiên Cổ Bùi Ngùi. Phạm Hồng Ân. Thơ Nha Trang Tâm Bút. Nguyễn Vĩnh Châu. Nhạc phẩm Đà Lạt Hoàng Hôn. Minh Kỳ & Dạ Cầm.

(7) & (8) Thơ Truyện Kiều. Nguyễn Du.