Văn Nghệ Biển Khơi 

www.bienkhoi.com

BK 102:

Thơ

Tạ ân vũ – Hoàng Xuân Sơn
Ra đi – Thi Vũ
Tìm đâu. mái nhà – Nguyễn Xuân Thiệp               
Ký ức loạn ly – Đức Phổ                                                         
Nói không được – Nguyễn Hàn Chung
Ký ức phố – Nguyễn Thị Khánh Minh
Em và Saigon – Trần Hạ Vi
Không gian – Lưu Ly Thảo
Tháng tư, nỗi nhớ một đời – Huỳnh Liễu Ngạn
Tháng 4 – Anh ở đâu – Hứa Hiếu
Ly cà phê buổi sáng – Hoàng Thủy Trâm
Em về quê ngoại – Huỳnh Minh Lệ
Khan cổ gọi tình, về – Trần Yên Hòa
Trong chiến tranh – Phan Ni Tấn
Viết lại từ lịch sử – Phạm Hồng Ân
Tháng tư và những hệ lụy của nó – Cao Vị Khanh
Bầy cừu Phan Rang – Nguyễn Linh Khiếu                           
Tháng tư ơi những phù vân – Nguyễn Vĩnh Long                            
Tháng tư thấy mình ngồi yên – Thy An
Anh về thăm lại Saigon – Đặng Toản
Chiều ở U Minh Thượng – Nguyễn An Bình
Khúc tháng ba – Nguyễn Nguyên Phượng
Gió trở – Võ Thị Như Mai
Một thoáng mưa xa – Tôn nữ Mỹ Hạnh
Về phương nam – Trần Đức Phổ
Có một thời như thế – Đặng Q. Tiến 
Ơn em lộng lẫy môi trầm – Nguyễn Vũ Sinh
Về biển – Nguyễn Đức Cường
Ngủ sao còn mơ thấy ba – San Phi & Hoàng Xuân Sơn                          
Cái chết đẹp rực rỡ – Tiểu Lục Thần Phong
Tháng ba giã từ – Lê Minh Hiền
Ru theo tiếng gió – Biển Cát
Bên kia bờ thương nhớ – Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Xuân muộn – Lê Thanh Hùng
Những chiều đông cuối năm – Khê Kinh Kha
Quê sớm – Đặng Xuân Xuyến
Tháng tư – Ben Oh
Có phải em – Lâm Băng Phương
Tháng ba nghiệt ngã – Vinh Hồ
Chung một niềm đau – Ngọc Trân
Xương hoa – Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút, Tản mạn

Chim lệch đường bay từ thuở ấy – Đặng Mai Lan
Những mùa nắng Nha Trang – Nguyễn Thị Khánh Minh
Phi trường – Lê Chiều Giang
Đêm. nghe quạ kêu – Nguyễn Xuân Thiệp
Chỉ là đồ chơi – Trịnh Y Thư
Trăng là nguyệt – Phan Thái Yên                       
“Màu nắng hay là màu mắt em”  – Triều Hoa Đại & Vũ Hoàng Thư
Nỗi buồn cuối đời của người lính già lưu lạc – Phạm Tín An Ninh 
Sài Gòn của tôi xưa – Tim Nguyễn
Văn xuôi – Cao Vị Khanh
Những kỷ niệm nơi phòng tranh Trương Vũ – Trần Thị Nguyệt Mai
Viết, tôi muốn viết ra bằng ngôn ngữ của mẹ tôi – Nguyễn Thị Phương Trâm
Độ nắng trong mắt người – Hoàng Xuân Sơn
Sớm mai – Trần Yên Hòa
Phá Tam Giang: “Lòng đời nở thật lẻ loi- một cành mai nhị độ” – Tống Mai
Ván cờ dưới trăng – Vũ Ngọc Giao
Hôn – Song Thao
Thùy Dương, tiếng hát khói sương – Nguyễn Vĩnh Long
Thăm tù – Đơn Phương Thạch Thảo
Cuộc phiêu lưu của mèo đen – Trần Đức Phổ                         
Đêm đình chiến – Vũ Thất                                              
Niềm cay đắng âm thầm – Điệp Mỹ Linh
Quê mẹ – Nguyễn Thanh Sơn
Chơi chứng khoán – Tiểu Lục Thần Phong
Anh bây giờ ở đâu – Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Máu trong tôi, máu của bao người – Phan Trang Hy
Hài Quân VNCH và những điều khác biệt – Điệp Mỹ Linh
Thiên đàng ảo – Đoàn Thị
Hoàng hôn say nắng – Cỏ Biển
Chủ tiệm nước – Tiểu Lục Thần Phong
Cái cần xé – Ngọc Cân
Nắng trên đồi Cali – Trần Quang Thiệu
Gà chết – Ngọc Cân                   
“Xa rồi… tiếng đàn tôi” – Phạm Lê Huy

Văn học, Biên khảo, Dịch thuật

Giới thiệu sách mới: 9 khuôn mặt. 9 phong khí văn chương – Bùi Vĩnh Phúc
Nhớ Thi Vũ, ngày giỗ đầu – Vũ Hoàng Thư
Quách Thoại – Thi Vũ
Nguyễn Châu: Lời kết còn bỏ ngỏ – Đỗ Trường
Hoa linh thảo khúc phồn sinh thăm thẳm cõi người – Nguyễn Thị Vân Anh
Nguyên Sa: Thi ca với tình yêu vĩnh cửu – Đỗ Trường
Thuyền trà gạn nước hồng mai – Đặng Thế Kiệt
Thơ Thục Uyên – Võ Thị Như Mai
Cảm nhận về bài thơ “Đường Cong”– Võ Thị Như Mai – Lê Văn Chung           

Truyện dài

Ngàn ánh dương rực rỡ -Chương 45 (A Thousand Splendid Suns) – Khaled Hosseini – Trúc Hà dịch 
Đời thủy thủ 2 – Chương 8 – 11 – Vũ Thất 

Đà-nẵng những ngày cuối tháng Ba 1975

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTTK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức 

Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ trên lề đường. Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân 20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe dân sự sắp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suông sẻ. Song Việt cộng bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quì xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”. Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh. Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người bể đầu, gảy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm chầm lấy năn nỉ:

“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi, chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng ba, 1975(đài BBC có loan tin).

Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá trưởng gỏ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hởi ôi, thế là cộng sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau nầy tôi bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành phố.

Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau nầy hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thứ trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTTK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mỗ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ có Bác sĩ cấp bực Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn. Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái chân. Cuối ca mỗ, đáng lý nói: ca nầy khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói theo thói quen: ca nầy khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói gì. Các y tá quanh tôi đều sững sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không. Song sau nầy không thấy ai nhắc đến chuyện đó.

Trong suốt hơn một năm làm việc với CS, tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướn phải mìn hay đạn ca- nông chôn dưới đất. Giải phẩu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cải lý thuyết v.v..

Bất hạnh thường không đến một mình. Đã buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trương để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về, hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi chết êm thắm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi, cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngưng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng, tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh cửu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi, xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.

Lúc say sưa làm việc những năm chiến tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương vơí đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trử trong một căn phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rổi sẽ viết bài, dựa trên nhận xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào, thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun, nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.

Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh tế và nhân bản” ( économie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê chia xẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỷ sư nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã, tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu, nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an ninh. Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nổ lực tối đa để trong sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp, phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu giành hậu thuẩn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được, vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.

Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”

Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lở nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán đưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.

Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái phi cơ trưc thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin về xưởng sữa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sữa chữa thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm 27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo. Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia đình và ra ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần đường băng chúng tôi hoảng hốt dắt díu nhau chạy. Sau nầy gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.

Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực từ chôi. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế thì bi thảm vô kể.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

NGHĨA BIỂN TÌNH SÔNG – của Tôn Thất Ðính

.

Nhân ngày giỗ năm thứ 37 của Tổng Thống Ngô đình Diệm và bào đệ Ngô đình Nhu, thử điểm qua cuốn tự truyện chạy tội “Nghĩa biển tình sông” của Tôn thất Ðính.

Hoài cảm của Trần khắc Kính

1. Cây muốn lặng, mà gió chẳng đừng

Cách nay khoảng ba chục năm, tôi có đọc tập hồi ký đăng từng kỳ trên nhật báo Công luận, tại Sài gòn. Ông chủ báo – kiêm Thượng nghị sỹ Tôn thất Ðính – đã kể lể con cà con kê về những ngày ấu thơ tại thành phố xứ hoa đào Ðà lạt, nghịch ngợm, ưa quậy, kết bè kết đảng tập làm Mã chiếm Sơn. Mơ tưởng trở lùi về quá khứ lãng mạn, của cái thời còn trèo me, trèo sấu, na ná như những truyện “Nhi đồng Cứu vong” Thằng Chương, Thằng Còm, của nhà văn Duyên Anh, vào trước thập niên 60 vậy. Cũng có nghe là trong những ngày tập tễnh mới bước chân vào đời, ông có hành nghề cảnh sát viên tại Thị Xã Ðà Lạt, trước khi đăng vào Việt binh đoàn, làm Văn phòng, với cấp bậc binh nhì! Báo của mình, muốn đăng truyện gì mà chả được? Mặc sức đánh bóng tô son, miễn là biết chi đẹp cho các tay viết mướn.

Ðến bây giờ lại thấy xuất hiện một cuốn hồi ký nữa, mang tên “20 năm binh nghiệp”, cũng có vẻ là đã kể lại, phóng đại, phịa thêm, để nhờ ai đó viết, rồi mang in thành sách! Nếu ông Ðính không nhờ, mà đích thân viết, chắc là sẽ không có những chi tiết sai lầm, như là ông Trị, Tư lệnh Sư đoàn 22, trước năm 61, chỉ mới là Trung tá, không phải là Ðại tá; tại Sư đoàn 23 là Ðại tá Lê quang Trọng (không phải Quan) -trích trang 158.

Cũng trong trang 77 có đề cập tới Ðại tá Ðinh văn Sơn, trong năm 57, thay ông Ðính làm Tư lệnh Sư đoàn 2 tại Quảng Ngãi. Trong Quân đội, ai cũng nghe tiếng Ðặng văn Sơn, chứ không phải Ðinh. Ông từng nổi tiếng liêm khiết, cuối năm 60 là chỉ huy trưởng trường Hạ sỹ quan Nha trang và hiện còn sống, định cư ở San José.

Các thợ viết mướn, chắc chắn là trình độ hiểu biết về lịch sử Quân lực phải hạn hẹp hơn ông Ðính rất nhiều, nên không tránh khỏi những lỗi lầm “tam sao thất bản”, tỷ dụ như là truyện ông Nguyễn văn Sơn, Tỉnh trưởng Quảng Nam, bị hy sinh như dê tế thần, trong vụ án kinh tế bán gạo cho Cộng sản (trang 105). Ðó là Bùi quang Sơn (em ruột Văn Ngọc Bùi quang Nga), thời 56, làm Phó Tỉnh trưởng Quảng Ngãi, liên quan tới vụ bán gạo ra Bắc, chứ không phải là Nguyễn văn Sơn, Tỉnh trưởng Quảng Nam! Chưa hề nghe nhắc tới một Tỉnh trưởng Quảng Nam nào, mang tên Nguyễn văn Sơn cả! Trước đó, trong trang 44, ông nói là vào tháng 8/54, ông là phụ tá HQ cho Vanuxem, đóng tại Mỹ Côi (Núi Gôi), điều động các GM 31, 32 trong khuôn khổ cuộc hành quân Auvergne, tai Nam Ðịnh, Bùi Chu, Phát Diệm: tại sao lại còn có cuộc hành quân thực hiện sau khi HÐ Genève đã được ký kết nhỉ? Vì chiếu theo các điều khoản của Hiệp Ðịnh này, thì các phe lâm chiến bắt buộc phải ngưng chiến, im tiếng súng kể từ O giờ ngày 28.7.54 rồi. Không thể kể hết những sai lầm, sơ hở, trải dài suốt 455 trang của cuốn sách. Hơn nữa, đây không phải là một cuộc điểm sách.

Mà người viết chỉ muốn nêu ra vài sự kiện nổi cộm (xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, đề cao quá lố, phét lác,…), vì đã từng có dịp được mục kích, trực tiếp tham gia, hoặc biết rõ.

2. Ðiệp viên hai mang

Gần hết thời hạn 300 ngày, chiếu theo Hiệp Ðịnh Genève 54, các đơn vị cuối cùng của Việt Minh đã lần lượt triệt thối khỏi bờ Nam sông Vệ, thuộc quận Mộ đức, tỉnh Quảng Ngãi, để xuống các tầu Ba Lan tại hải cảng Quy Nhơn, tập kết ra miền Bắc. Khoảng đầu hè năm Ất Mùi (1955) – ngày đó tôi là Tham mưu trưởng Tiểu khu Quảng Ngãi có một bữa Thiếu Tá Tôn thất Xứng, chỉ huy trưởng Tiểu khu, chỉ thị cho tôi vào Bình Ðịnh, nhận lãnh một nghi can, tại bản doanh ông Ðính, mang về và sau đó có người chuyển tiếp ra ngoài Huế.

Ðược biết anh này là cán bộ Cao Ðài ly khai, được gửi từ trong Nam ra hoạt động, tại miệt đất vừa đựơc tiếp thu, không ngờ bị phản phé, lộ sao đó, nên bị chặn bắt. Tôi lái xe vào sân Vận động Tam quan, gặp Trung Tá Tôn thất Ðính lần đầu tiên. Ông mặc áo sơ mi ngắn tay kaki vàng, nhưng lại kèm theo quần sau rằn ri của nhẩy dù! Tôi trình Sự vụ lệnh. Ông ngoáy bút máy phê luôn vào mặt trái: “Người mang giấy này phải được toàn quyền tự do di chuyển qua mọi trạm kiểm soát. Ký tên: Trung tá Tôn thất Ðính, Tư lệnh Quân dân chính Bắc Bình Ðịnh”.

Tôi có nghe đồn là – vào thời gian này, ông ngang tàng, hách xì xằng lắm, ưa dùng gậy chỉ huy đập thuộc cấp, giống như ông Vĩnh – mang hỗn danh là Vĩnh hèo vì thường hay dùng hèo, để quất binh sỹ! Mỗi khi ông xuống xe, lội bộ trên các đường phố Quy nhơn, vừa được tái chiếm trong mùa Xuân Ất Mão, là thể nào cũng có một đoàn cận vệ đi giật lùi ngay phía trước ông. Dăm sáu binh sỹ này được tuyển lựa. Cao, to, vận chiến phục rằn ri (áo đuôi khỉ) của lính dù, lăm lăm tiểu liên Thompson đã được tháo báng gỗ, mặt mày bặm trợn, sát khí đằng đằng. Chả khác chi cảnh tướng phường chèo, như nữ tướng Phàn lê Huê của ông Năm Soái, thời trước Genève 54 ở Cái Vồn (Cần thơ vậy!)

Trước khi tôi dẫn can phạm lên xe ra về, ông còn cẩn thận dặn dò thêm là khi đi ngang Sa huỳnh (nơi đặt bản doanh của Bộ Tư lệnh Hành quân Giải phóng Liên Khu V, nằm sát ranh giới hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Ðịnh), cần phải cảnh giác đề phòng, ngộ nhỡ Ðại tá Lê văn Kim mà biết được, sẽ cho người ra đánh tháo, cướp mất can phạm! Ngày đó ông Kim là Tư lệnh Hành quân Giải phóng Liên khu V (mà Việt Minh vẫn chiếm giữ cho tới khi có HÐ Genève).

Trong trang 55, thấy có kể là vào đầu năm Ất Mão (55), ông đã được Thủ tướng Diệm đặc cách thăng cấp Ðại tá thực thụ, để ông có đủ tư thế chỉ huy các đơn vị Quân lực Quốc gia Việt Nam, tại Liên khu V. Và Ðại tá Lê văn Kim, chỉ đặc trách về hành chánh, chính trị mà thôi, chứ không phải là Tư lệnh Hành quân. Tất cả những điều trên đây hoàn toàn sai. Vì lúc tôi gặp ông Ðính vài tháng sau đó, ông vẫn còn đeo lon trắng Trung Tá Thiết Giáp trên cầu vai, vì đã từng tốt nghiệp từ Học viện Thiết giáp Saumur của Pháp, đồng khóa cùng ông Lâm văn Phát. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đòi binh nghiệp, cả hai chưa từng có dịp mang số vốn học chuyên môn ra xử dụng, nghĩa là chưa hề chỉ huy bất cứ một đơn vị Thiết giáp nào bao giờ cả! Ông Ðính chỉ mới là Trung tá, vào giữa năm 55. Không phải là Ðại tá! Saumur tiếng Tây còn có nghĩa là nước mắm! Khắm như nước mắm, vì dân Saumur đã tự sáng chế ra lối chào xòe năm đầu ngón tay, như bàn tay ếch (không kẹp sát lại theo đúng quân kỷ, quân phong), lập dị, cho khác bàn dân thiên hạ.

Cũng cho ông hay là đừng nhận vơ, nhận ẩu! Vì vào cuối năm Giáp Ngọ (54), Tiểu Ðoàn 51 chúng tôi, khi vào tới thị xã Quảng Ngãi, đã được lệnh giải tán để thành lập Trung Ðoàn 31 và Tiểu khu Quảng Ngãi. Phần đất này cũng thuộc Liên khu V, nhưng vào thời gian này, chúng tôi trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 2, mà không bao giờ bị đặt dưới quyền chỉ huy của ông cả! Cuối trang 49, ông Ðính có kể là trong bữa trình diện Tướng Hinh trước khi lên đường ra Nha Trang, đã có sự hiện diện của 2 Ðại tá Trần văn Ðôn và Trần đình Lan. Lan, Giám Ðốc Phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu, chưa bao giờ là Ðại tá. Chỉ là Trung tá, rồi theo Hinh, lưu vong sang bên Tây! (Anh này là con Bác sỹ Trần đình Quế ở Dalat. Khi mang Pháp tịch, tên được phiên âm na ná sang tiếng Tây, thành Henry Ceuille!) Nhưng chính Lan mới là cánh tay mặt của loạn tướng Nguyễn văn Hinh. Lan đã sáng lập ra cái gọi là Phong trào Giải phóng miền Nam, tức là Ðảng Con Ó (bất cứ Sỹ quan nào được kết nạp vào Ðảng này cũng đều đeo một con ó nhỏ ở ve áo, để dễ nhận diện lẫn nhau, là cùng thuộc thành phần tuyệt đối trung thành với Hinh, quyết tâm chống Thủ tướng Diệm).

Phòng 6 Tổng tham mưu có 3 Sở (32, 42 và 52). Khi Lan lưu vong thì Trung tá Lê văn Lung (bà con cùng Tướng Lê văn Tỵ), Chánh Sở 32 lên thay thế. 32 là SRO (Service de Renseignements Opérationnels), còn được ngụy hóa là Sở Liên lạc, đảm trách về Tình Báo. Bộ phận này xài phần lớn số quỹ đen 1 triệu bạc cấp phát hàng tháng cho Phòng 6. Phải hiểu ngày đó một cuốc taxi chỉ có 6 đồng bạc, mới thấy số tiền mật quỹ 1 triệu bạc hàng tháng là nhiều như thế nào! Kể từ đầu năm 56, Phòng 6 đổi tên là Nha Tổng Nghiên Huấn, trực thuộc Bộ Quốc phòng. Vì là Ủy viên Ðặc vụ của Quân ủy Lê Lợi, nên ở trên sắp xếp cho tôi về làm Phó Giám Ðốc Nha Tổng nghiên huấn cho Trung tá Lung, ngay từ đầu năm 56, do đó mà biết rõ cội nguồn của những sự kiện trên đây. Ông Kim là em rể ông Ðôn, cũng được tiếng là rất thân cận với Hinh. Vì vậy, ông Ðính muốn cho mọi người hiểu ngầm là hai ông Ðôn và Kim thuộc Ðảng Con Ó! Nhưng ai cũng rõ chính ông Ðính mới thực là thuộc Ðảng Con Ó. Ðúng là cảnh “Gái đĩ già mồm!” Chính ông cũng đã từng thú nhận trong trang 55 là Hinh, trước khi bắt buộc phải rời Saigon, lưu vong sang Pháp, đã cho một tùy viên thân tín mang một phong thư tới. Ông Ðính mở đọc: “Ðính thân, tôi hoàn toàn tin tưởng và trông cậy ở Ðính!” Có người thạo tin cho biết là lá thư trên đây chỉ mang vẻn vẹn vài chữ viết tay của Hinh: “À bientôt!” (có thể hiểu là: rồi đây sẽ còn gặp nhau, hoặc: ngày mai trời lại sáng! v.v…). Thế mà bây giờ ông đã xoay ngay được 180 độ, dám kháng chế, nghi ngờ ngay cả ông Kim. Không rõ ông đã tiếp xúc được với Ðại diện của ông Cậu để gia nhập Ðảng Cần Lao vào lúc nào? Nhưng chỉ ít tháng sau (vào dạo cuối năm 55), ông đã là đại biểu tham dự khoáng Ðại hội Nghị Quân Ủy Cần Lao, tổ chức tại Bộ Chỉ huy Phân khu Duyên hải Nha Trang.

Cọp chết để da!

Tháng trước đây có nghe Tướng Mai hữu Xuân vừa qua đời âm thầm tại miền Ðông. Ông được biết đến nhiều, khi đã thực hiện thành công vụ thảm sát 2 anh em nhà Ngô. Hoàn thành mỹ mãn nhiệm vụ, ông trở về đứng nghiêm chào, báo cáo cùng ông Minh Dương: “Mission accomplie!” Ðời sống của những bậc già lão gần đất xa trời ở miền đất tạm dung này thật là cô đơn. Không lái được xe, cả ngày ru rú ở trong căn chung cư mà con cháu đã mướn cho để ở. Năm thì mười họa mới có con cháu, người quen kẻ thuộc tới thăm viếng, truyện trò. Nghe đâu ông cựu tướng nhà tình báo lỗi lạc một thời đã chết và mãi hàng tuần sau xóm giềng, thân quyến mới khám phá ra. Tại miền Nam trước đây lúc người Pháp ra đi sau HÐ Genève 54 chỉ có 4 bậc đại thụ coi như có đẳng cấp cao nhất trong ngành An ninh Tình Báo, vì là Kiểm tra Công an (contrôleur des Suretés). Dưới thấp nhất là inspecteur (thẩm sát viên), rồi dến rédacteur (biên tập viên); kế nữa là commissaire (quận trưởng); trên cùng mói là contrôleur! 4 ông này là: Mai hữu Xuân, Tôn ngọc Chắc, Trần bá Thành và ông (tôi quên mất tên) làm Trưởng Ty CSCA Khánh hội vào năm 56. Ông Mai hữu Xuân còn là Giám Ðốc An ninh Quân Ðội ngay thời 55 và đã chứng tỏ hết sức hữu hiệu trong suốt thời kỳ Bình xuyên gây hấn tại Ðô thành. Ngày đó An ninh Quân Ðội có Tiểu đoàn 530 và Phòng 6 có Tiểu đoàn 531. Ðây là 2 Tiểu đoàn hết sức đặc biệt, vì bao gồm các tay phiêu lưu quốc tế, những thông tín viên, mật hộ viên, băng đảng, du đãng, mã thầu dậu, anh chị đâm thuê chém mướn, dân đứng bến, v.v… Một khi mà kiểm soát được đừng để họ đi quá trớn thì lực lượng trên đây đúng là khắc tinh của cái xã hội đen, cặn bã (les bas fonds de la ville), mà bất cứ đô thị nào trên khắp thế giới cũng có. Nhưng chủ trương này không được tán đồng dưới thời Ðệ Nhất Cộng hòa, đặt nặng trên căn bản đạo đức. Hơn nữa, ông Diệm lại rất nghi ngờ những thành phần an ninh mật vụ do Pháp đào tạo và để lại. Nên ông Xuân bị cất chức Giám Ðốc An ninh Quân đội (mà không hề cho biết lý do) và điều sang miền Ðông chỉ huy chiến dịch Trương tấn Bửu, chuyên đi truy kích các Ðảng cướp Bời Lời, Rừng Xanh ăn hàng dọc theo Quộc lộ l3. Kế tiếp là về chỉ huy Trung tâm huấn luyện Quang Trung (Quán tre), một cương vị không mấy quan trọng trong thời chiến tranh chưa leo thang. Giấc mơ của ông Xuân là chỉ huy ngành Mật vụ (như nhiệm vụ của ông Tung hay là của Bác sỹ Tuyến sau này) bị tan thành mây khói.

Ông (Mai hữu Xuân) cho là ông Diệm kỳ thị, bất công, nên nén căm hờn suốt 7, 8 năm, chờ thời cơ thuận tiện vào ngày 2.11.63 mới hạ chiêu độc thủ! Nếu động cơ dẫn đến việc tham gia đảo chính 1.11.63 để giết ông Diệm của ông Mai hữu Xuân là có thể hiểu được, thì sự tham dự của hai ông Tôn thất Ðính và Ðỗ Mậu hai Ðảng viên Cần Lao đã từng huyết thệ, thề trung thành với Ðảng và Ngô lãnh tụ trong Ðại hội Quân ủy Lê lợi cuối năm 55 tại Nha trang là hết sức phi lý, vô luân, vô đạo, phản trắc! Tháng trước có nghe tin ông Ðỗ Mậu trở về thăm viếng Việt Nam, đã ngồi xe lăn lên Ðài Truyền hình Hà Nội trả lời phỏng vấn để ca tụng chế độ Xã Nghĩa. Cuốn sách VNMLQHT đã được bầy bán ở Saigon, ngay từ năm 95. Không thể lấy bút mực nào mà ghi cho hết những hành vi phản bội này. Ðành phải mượn tạm một bài thơ đã từng được báo Văn Nghệ Tiền Phong đăng tải:

TƯỚNG TÀI VÕ LẠY!

“Lạy Trung tá xin tha mạng sống.”

Trả lời di! Có đúng hay không?

Hay là lời nói trôi sông.

Khẩu từ vô chứng lạy xong chối dài!

“Sinh vi tướng” tướng tài võ lạy.

Năm sáu ba võ ấy dở ra,

Làm cho tan cửa nát nhà.

Ðất bằng bỗng nổi phong ba ngất trời!

Quân cẩu tặc, mặt người dạ thú,

Sách in ra “mợ nó” nhục lây,

Cháu con nội ngoại một bầy,

Ngàn năm bia miệng lỗi này tại ai?

Bài thơ này do Trung tá Phúc làm khi thấy cuốn sách VNMLQHT được xuất bản. Ông cho biết định bắn chết Ðỗ Mậu khi lên tầu nhỏ. Ðỗ Mậu phải quỳ xuống chắp tay lạy ông, mới được toàn mạng. Ðỗ Mậu huênh hoang tự khoe trong VNMLQHT là mạng “Sinh vi tướng, tử vi thần!” Kể từ ngày chính thể hợp pháp, hợp hiến Ðệ Nhất Cộng hòa cáo chung, không ai xa lạ gì với những vụ lon cách mạng, lon lèo, lon phường chèo! Ngay như một tên lơ xe đò cũng con được tấn phong ngang xương là Ðại Tá Thanh Tùng, thì có nghĩa lý gì cái lon tướng cách mạng? Còn Thần, Thần nào? Thần ngành nanh đỏ mỏ, hay là thần ông bình vôi ở các gốc cây đa trước đình miếu? Tục truyền rằng những kẻ phản trắc quá ác nhân ác đức, mà chết lại gặp giờ trùng, thì khó có thể siêu thoát, trở thành cô hồn. Ở quê hương ta, cúng cô hồn là vào ngày Rằm tháng Bẩy, cúng cháo lá đa (cháo nấu đặc đựng trong các bù đài uốn tròn bằng lá đa xếp đầy mâm):

Trên đất Mỹ này cúng cô hồn lại được tổ chức vào ngày đầu tháng 11. Không cúng bằng cháo lú mà cúng bằng kẹo bánh. Trong ngày lễ Halloween các nhà phải chuẩn bị sẵn kẹo để phân phát khi các cô hồn (hóa trang ma, quỷ, tiên nữ, phù thủy, thần Chết) lũ lượt tới xin. Nếu không cho, chúng sẽ lật sấp những thùng đựng rác! Bữa sau ngày lễ Halloween là lễ Cầu Hồn (Fête des Morts) vào sáng ngày mồng 2 tháng 11. Cũng lại là ngày giỗ Tổng thống Ngô đình Diệm và bào đệ Ngô đình Nhu. Cái mốc để ghi nhớ và khó có thể quên được bàn tay vấy máu lãnh tụ của tên phản bội,

50 năm Hải chiến Hoàng Sa: ‘Việt Nam Cộng Hòa đã bị hy sinh’

Tác giả Huyền Trân               

NguồnBBC                             

Ngày đăng: 2024-01-15

.Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa năm 2016

Từ Hoa Kỳ, Đại tá Carl Schuster lý giải vì sao Việt Nam Cộng Hòa bại trận trong Hải chiến Hoàng Sa 1974 và bài học lịch sử rút ra từ biến cố này.

“Tôi đã nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa,” Đại tá Carl Schuster chia sẻ trong cuộc trao đổi với BBC News Tiếng Việt trước thời điểm 50 năm Hải chiến Hoàng Sa.

Ông Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ trong Hải quân Mỹ. Ông từng cộng tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt động của Hải quân Trung Quốc.

Vị trí cuối cùng mà ông đảm trách trước khi rời quân ngũ vào năm 1999 là chủ nhiệm Phòng Tác chiến thuộc Trung tâm Tình báo hỗn hợp Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương.

Thời gian còn là chuyên gia phân tích tình báo, ông có thể tiếp cận các tài liệu được giải mật từ phía Mỹ.

Hiện ông đang giảng dạy quan hệ quốc tế, lịch sử và nhân văn tại Đại học Hawaii Pacific.

Tháng 6/2017, ông có bài viết “Cuộc chiến giành quần đảo Hoàng Sa” (Battle for Paracel Islands) gây chú ý trên tờ Vietnam Magazine.

Hạm đội 7 không hành động

Trả lời BBC News Tiếng Việt, Đại tá Schuster đã giải thích bối cảnh lịch sử xảy ra trận hải chiến khiến Việt Nam mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.

Theo ông, cần phải nhắc đến cuộc Cách mạng Văn hóa do Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng vào tháng 5/1966 và kết thúc sau khi ông qua đời năm 1976.

Trung Quốc đã trải qua một thập kỷ hỗn loạn với chiến dịch thanh trừng nhằm trừ khử các đối thủ chính trị của Mao trong nội bộ Đảng Cộng sản.

Hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào thời điểm Cách mạng Văn hóa gần kết thúc và Đại tá Schuster đánh giá hải quân Trung Quốc khi đó “hầu như không thể ra biển”.

“Cách mạng Văn hóa hầu như đã khiến Trung Quốc đánh mất năng lực hậu cần. Do thiếu hụt phụ tùng, chỉ khoảng 10% số tàu của họ có thể đi biển và đa số gặp các vấn đề về trang thiết bị. Mao chỉ có thể dựa vào dân quân biển.”

“Đây là những nhóm bán quân sự, được bộ phận quân huấn huấn luyện chút ít và có thể nhận lệnh từ Hải quân. Thời điểm đó, lực lượng dân quân biển đã bắt đầu hoạt động quanh quần đảo Hoàng Sa,” ông nói.

Ông đã nhắc lại việc Mỹ và Trung Quốc “bắt tay để hy sinh” Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến như thế nào và ông đánh giá Chủ tịch Mao Trạch Đông “hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa”.

“Khi tìm hiểu kỹ Hải chiến Hoàng Sa, tôi nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.”

“Các tàu chiến Nam Việt Nam đã gửi yêu cầu trợ giúp đến Hạm đội 7. Nhưng Hạm đội 7 được lệnh không can dự gì với Trung Quốc. Thế nên Hạm đội 7 đã từ chối.”

Hình ảnh Hạm đội 7 của Hoa Kỳ vào năm 1968 khi chuẩn bị các cuộc không kích nhằm vào Bắc Việt

Theo thông tin từ Hạm đội 7, trong Chiến tranh Việt Nam, hạm đội này thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu như điều máy bay không kích, bắn yểm trợ, đổ bộ, tuần tra và tác chiến sử dụng mìn.

Sau Hiệp định Paris 1973, Hạm đội 7 thực hiện các hoạt động chống mìn trên vùng biển gần bờ ở Bắc Việt.

“Không có sự hỗ trợ của Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đánh cận chiến nhưng binh lính lại không được huấn luyện tốt, kỹ năng tác xạ rất kém. Họ chịu tổn thất lớn và nhiều binh sĩ bỏ mạng. Nam Việt Nam để mất nhóm đảo Lưỡi Liềm và nước Mỹ đã không phản đối,” ông nói với BBC.

Có 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19/1/1974.

Ông Schuster đánh giá rằng nếu Hạm đội 7 có mặt thì tình hình đã khác. “Nhưng do đã hứa [với Trung Quốc], nước Mỹ chọn đứng ngoài cuộc,” ông nói.

Vai trò của Kissinger

Đại tá Schuster cũng đề cập đến vai trò của Henry Kissinger, người giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 – 1977 và Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng 11/1975.

Với vai trò Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng, ông này đã theo đuổi mạnh mẽ chính sách hòa hoãn (détente), giúp làm tan băng quan hệ giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc.

Ngày 9/7/1971, Henry Kissinger đã gặp Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai để sắp xếp chuyến viếng thăm lịch sử đến Bắc Kinh của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2/1972.

Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ về cuộc trao đổi giữa ông Kissinger với Đại sứ Hàn Tự, Quyền Trưởng Văn phòng liên lạc Trung Quốc, có ghi rõ đoạn này. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức chỉ vài ngày sau Hải chiến Hoàng Sa.

“Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi cũng muốn nói rõ điều đó,” Kissinger trấn an Hàn Tự.

Phát biểu tại Thượng đỉnh Chiến tranh Việt Nam tại Thư viện LBJ ở Austin, Texas vào ngày 26/4/2016, ông Kissinger cũng nói Hoàng Sa không quan trọng bằng các vấn đề khác vào thời điểm ấy.

Ông Kissinger đã trả lời như sau trước câu hỏi từ một nhà báo VOA rằng có phải Hoa Kỳ đã đồng ý để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 hay không:

“Lập trường của Mỹ liên quan đến quần đảo ấy là chúng tôi không giữ lập trường về chủ quyền đối với những đảo này. Vào năm 1974, trong tâm điểm vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có thể nói rõ với quý vị là quần đảo Hoàng Sa không phải là ưu tiên trên hết trong tâm trí chúng tôi. Nhưng không có thỏa thuận nào được ký mà trong đó chúng tôi trao quyền cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cả, người Trung Quốc cũng chưa từng tuyên bố như vậy.”

Henry Kissinger đã giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 – 1977 và Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng 11/1975

Bình luận về vai trò của Kissinger, Đại tá Schuster nói, “Chúng ta không biết được Kissinger đã đưa ra những đảm bảo gì vì ông ấy không bao giờ thừa nhận. Kissinger nhận ra rằng Quốc hội Mỹ sẽ không ủng hộ việc tiếp tục nỗ lực chiến tranh và tâm lý của dân Mỹ khi đó là hãy chấm dứt tổn thất và thoát ra.”

“Tôi nghĩ Mao Trạch Đông nắm được điều đó. Ông ta không phải là một nhà chiến lược quân sự giỏi nhưng ông ta hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa. Hãy nhớ rằng Kissinger đã bỏ rơi Đài Loan bởi ông ấy nghĩ Mỹ cần một Trung Quốc mạnh để đối phó với Liên Xô.”

“Và kết quả là chính quyền Nam Việt Nam đã bị hy sinh cho mục tiêu lớn hơn của Kissinger, cho việc thiết lập một Trung Quốc thịnh vượng và mạnh mẽ mà Kissinger cho rằng sẽ trở thành đồng minh của Mỹ trong thế kỷ 20,” Đại tá Schuster nói.

Henry Kissinger: Người định hình thế giới đầy tranh cãi

Bài học lịch sử

Sau năm 1974, Hải chiến Hoàng Sa và vai trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong sự kiện này ít được đề cập trên các kênh thông tin chính thống của nhà nước tại Việt Nam. Phải đến năm 2014, nhân dịp kỷ niệm 40 năm, Hải chiến Hoàng sa mới được báo chí chính thống đề cập rầm rộ.

Tiếp đó là sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động trong vùng biển gần Hoàng Sa gây căng thẳng trầm trọng với Việt Nam.

Lúc bấy giờ, các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đã nổ ra nhiều nơi, lớn nhất là tại Hà Nội và quanh TP HCM. Bạo loạn tại một số khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương vào tháng 5/2014 đã gây thiệt hại cho các công ty không chỉ của Trung Quốc mà còn của Đài Loan và Singapore.

Giới quan sát trong nước đánh giá rằng Trung Quốc luôn chớp thời cơ tốt để hành động, như 19/1/1974 tấn công Hoàng Sa, 17/2/1979 tấn công biên giới phía bắc Việt Nam và 14/3/1988 tấn công cụm đá Gạc Ma tại Trường Sa. Đấy là các thời điểm Việt Nam mất cảnh giác và suy yếu nhất. Đây là một bài học quan trọng cho Việt Nam trước sự bành trướng ngày càng mạnh mẽ của Bắc Kinh.

Về ý này, Đại tá Schuster gợi ý rằng để đối phó, Việt Nam cần phải có càng nhiều đối tác càng tốt.

“Tôi nghĩ lý do Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra nhiều lợi ích kinh tế cho Việt Nam trong chuyến thăm vừa qua là bởi ông ấy lo ngại việc Mỹ cũng đưa ra giống như vậy cho Việt Nam.”

“Càng nhiều đối tác thì càng tốt. Đừng bao giờ phụ thuộc vào một đối tác để làm đối trọng vì bạn không bao giờ biết nó có thể biến mất lúc nào.”

“Nếu là lãnh đạo quốc gia, bạn có dám đặt cược vận mệnh tương lai quốc gia mình vào một người nào đó không?”

Chuyên gia về an ninh quốc phòng này cho rằng Ấn Độ sẽ là đối tác quan trọng cho Việt Nam trong công nghệ quốc phòng và Nhật Bản cũng là “đồng minh tự nhiên”.

“Tôi nghĩ việc củng cố quan hệ với Ấn Độ là điều mà Việt Nam có thể cân nhắc đưa vào bài toán. Công nghiệp quốc phòng Ấn Độ rất phát triển.”

VNCH: Ông Kissinger đã nói và làm gì với hai tổng thống Nixon và Nguyễn Văn Thiệu?

‘Sau mùa hè 2025’

Về viễn cảnh nào cho tình hình Biển Đông và những điểm nóng nào có thể bùng phát, Đại tá Carl Schuster nói với BBC rằng ông Tập Cận Bình sẽ muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát súng nào, đồng thời dự đoán nếu xảy ra sự kiện lớn nào đó thì phải sau mùa hè năm 2025.

“Tôi nghĩ Tập Cận Bình phải cân nhắc rất kỹ về sức mạnh ý chí của nước Mỹ.

Có nhiều người Mỹ, tinh hoa chính trị và doanh nhân, nghĩ là nước Mỹ nên thỏa hiệp với Trung Quốc bởi hai nền kinh tế đã có sự gắn kết. Tôi nghĩ Tập Cận Bình coi điều đó là có lợi. Ông ta xem nỗ lực dàn xếp của Mỹ với Trung Quốc là một điểm có thể khai thác.”

“Tập Cận Bình sẽ càng thể hiện rõ hơn ý chí của mình. Nhưng tôi không nghĩ điều đó sẽ diễn ra trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2024 vì có thể bất lợi cho Trung Quốc. Nhưng sau 2024, Tập sẽ có dịp thử phản ứng của tân tổng thống và tân quốc hội. Nếu ông Joe Biden tái đắc cử thì Tập Cận Bình sẽ tiếp tục lợi dụng điều mà ông ta xem là ‘điểm mù’ của Biden, người tin rằng đối thoại là biện pháp tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề. Vấn đề là với những kẻ áp bức và độc tài, họ xem đối thoại là biểu hiện của yếu đuối. Tôi nghĩ vấn đề lớn có xảy ra thì phải sau mùa hè năm 2025.”

“Năm 2027, theo tôi, cũng là một năm khó khăn. Tập Cận Bình có thể muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát súng nào.”

Trung Quốc: Đô đốc Đổng Quân làm bộ trưởng để lo về ‘ngoại giao quốc phòng’

Năm 2027 là mốc thời gian mà các lãnh đạo quân sự và tình báo Mỹ cho rằng Trung Quốc có thể xâm lược Đài Loan. Lý do là khi đó quân đội Trung Quốc đã đủ sức mạnh sau quá trình hiện đại hóa.

Người ta cũng dùng khái niệm “luộc ếch”, tức đun nóng từ từ, để mô tả cách mà Bắc Kinh thực hiện chiến lược Đài Loan. Nói cách khác, Bắc Kinh chọn kế “bất chiến tự nhiên thành”, theo binh pháp Tôn Tử, là không cần ra quân mà Đài Loan cuối cùng sẽ về theo Trung Quốc sau vài chục năm chịu sức ép.

Về phía Mỹ, chuyên gia Schuster cho rằng chính quyền sắp tới tại Washington phải “mạnh tay” hơn trước sự bành trướng của Trung Quốc.

“Từ góc độ chính sách ngoại giao, hành động mạnh, phòng vệ ngăn chặn bằng quân sự, hành động kinh tế và ngoại giao mạnh, để Trung Quốc biết là phải trả giá thì sẽ khiến họ tính toán lại, còn nếu chỉ có nói thôi thì Trung Quốc sẽ leo thang, sẽ đẩy và giật cho đến khi nào đạt được mục đích thì thôi.”

“Nếu Mỹ để Trung Quốc bắt nạt Philippines thì tiếp theo sẽ là Việt Nam, Indonesia và Malaysia… Khi con voi chĩa vòi vào lều của bạn, nếu bạn chỉ vỗ nhẹ vào vòi thì sau đó nó sẽ chui hẳn vào căn lều,” ông ví von.

Biển Đông: Mỹ tuyên bố thách thức các hạn chế ‘phi pháp’ của Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan

Ông Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ trong Hải quân Mỹ. Ông từng công tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt động của Hải quân Trung Quốc

Tưởng Niệm50 nămHải Chiến Hoàng Sa

.

Nguyễn Tường Tuấn phỏng vấn Điệp Mỹ Linh

NTT.– Sau năm 1974, hằng năm, đến ngày 19 tháng Giêng, dù bất cứ nơi đâu hoặc hoàn cảnh
khó khăn đến thế nào, người Việt Nam cũng nghĩ đến hoặc cầu nguyện/thắp nhang hay viết đôi
dòng về những trang sử đẩm máu trong cuộc hải chiến không cân sức giữa Hải Quân Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) và sự xâm lăng có chủ mưu của Trung cộng tại quần đảo Hoàng Sa!
Để kỷ niệm trang lịch sử rất hào hùng nhưng đầy đau thương của dân tộc Việt Nam – tại quần
đảo Hoàng Sa, 50 năm trước – năm nay, 2024, Diễn Đàn KBC của Nguyễn Tường Tuấn xin
gửi đến quý vị chương trình Tưởng Niệm 50 năm Hải Chiến Hoàng Sa, với sự hợp tác của
nhà văn Điệp Mỹ Linh, một người thuộc vào đại gia đình Hải Quân VNCH.
Chào chị ĐML. Mời chị gửi lời chào đến quý thính giả.
ĐML.- ĐML xin trân trọng kính chào quý thính giả của diễn đàn KBC và kính chào anh
Nguyễn Tường Tuấn.
NTT.– Thưa chị, là một người thuộc vào gia đình Hải Quân VNCH, chị có thể cho biết nguyên
nhân nào đưa đến ngày lịch sử 19 tháng Giêng 1974, tại Hoàng Sa, hay không ạ?
ĐML.– Kính thưa quý thính giả, tôi thuộc vào đại gia đình Hải Quân VNCH và tôi từng tháp
tùng nhiều cuộc hành quân hỗn hợp trên sông rạch thuộc vùng IV Sông Ngòi – để viết tường
thuật. Nhưng, ít ai biết được rằng tôi hoàn toàn không được biết bất cứ điều gì về bí mật quân
sự của Hải Quân VNCH. Do đó, tôi không thể biết được nguyên nhân đích thực của trận Hải
chiến Hoàng Sa.

Tuy nhiên, dư luận thời 1974 cho rằng sự xung đột giữa VNCH và Trung cộng khơi nguồn từ
sự việc mỏ dầu hỏa đã được tìm thấy trong vùng Thái Bình Dương. Trung cộng muốn độc
chiếm mỏ dầu đó.
Riêng tôi, ngay sau khi cuộc hải chiến tại Hoàng Sa giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung
cộng bùng nổ, tôi đã nghĩ rằng những cuộc cường tập quy mô do cộng sản Việt Nam (csVN)
gây ra liên tục tại miền Nam Việt Nam – trước ngày 19/01/1974 – là sự giao ước “ngầm” giữa
csVN và Trung cộng để csVN trả món nợ vũ khí và quân dụng mà Trung cộng đã cung cấp cho
người csVN để người csVN đánh Mỹ, tạo điều kiện cho Trung cộng dễ chiếm Hoàng Sa; csVN
cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam; Trung cộng chiếm trọn Biển Đông.
NTT.- Chị có thể nói rõ hơn hoặc dẫn chứng những thí dụ cụ thể về sự giao ước “ngầm” giữa
csVN và Trung cộng hay không ạ?
ĐML.- Vâng, tôi xin được giải thích về suy luận của tôi, theo thứ tự thời gian:
1.- Ngày 21/01/1968, csVN tấn công Khê Sanh để đánh lạc hướng Quân Lực VNCH!
2.- Ngày 30/01/1968, csVN đã – xâm phạm Hiệp Ước Đình Chiến – đồng loạt pháo kích và tấn
công dữ dội vào các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam! Huế bị thiệt hại nặng nhất, với
nhiều ngôi mộ tập thể!
3.- Hamberger Hill – tên gọi khác là Hill 937 – tại Ấp Bia, từ ngày 10 đến ngày 20/05/1969.
4.- Mặt trận Nam Lào, đường số 9, 1971.
5.- Chiến dịch Bắc Tây Nguyên, 1972.
6.- Mặt trận Cổ Thành Quảng Trị, 1972.
7.- Chiến dịch Trị Thiên từ 30/03/1972 đến 31/01/1973.
Người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, 29/03/1973.
Mỗi khi csVN mở mặt trận nơi nào, Hải Quân VNCH cũng phải chuyển vũ khí/đạn dược/quân
xa/quân dụng/quân nhân, v.v. đến vùng đó. Khi csVN mở 07 cuộc tấn công – như đã kể trên –
các chiến hạm hữu dụng của Hải Quân VNCH đều bị trưng dụng; chỉ còn tại Hải Quân Công
Xưởng vài chiến hạm cần phải “đại kỳ/tiểu kỳ”, nghĩa là thay thế, sửa chữa những bộ phận quan
trọng hoặc những hư hại khác.
Thời điểm này, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, chỉ còn 01 máy hữu dụng. Thế mà HQ10 cũng
phải bị trưng dụng để tham chiến trận Hoàng Sa!
NTT.– Thưa chị, chị vui lòng cho biết – ngoài chiến hạm Nhật Tảo – có tất cả bao nhiêu chiến
hạm của Hải Quân VNCH tham chiến trận Hoàng Sa?

ĐML.– Kính thưa quý thính giả, lực lược Hải Quân VNCH đã tham chiến trận Hải Chiến
Hoàng Sa gồm có:
1.- Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ16, và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ5 đều
có cùng đặc tính kỹ thuật và hỏa lực. Mỗi chiến hạm được trang bị: 01 hải pháo 127 ly; 02 hải
pháo 40 ly đơn; 01 hải pháo 40 ly đôi; 02 trọng pháo 20 ly.
Trong chuyến hải hành đến Hoàng Sa HQ5 đem theo 49 Biệt Hải – dưới quyền chỉ huy của Hải
Quân Đại úy Nguyễn Minh Cảnh.
2.- Khu trục hạm Trần Khánh Dư, HQ4, được trang bị: 02 hải pháo 76,2 ly; 03 trọng pháo 20 ly.
3.- Hộ tống hạm Nhật Tảo, HQ10, được trang bị: 01 hải pháo 76,2 ly; 02 hải pháo 40 ly; hệ
thống chống tàu ngầm.
NTT.- Còn lực lượng Hải Quân của Trung cộng xâm lăng Hoàng Sa thì như thế nào, thưa chị?
ĐML.- Kính thưa quý thính giả, lực lượng Hải Quân Trung cộng xâm lăng Hoàng Sa gồm có:
1.- Hai hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274. Hỏa lực mỗi chiến hạm gồm có 01 hải pháo 100 ly;
02 trọng pháo 37 ly.

2.- Hai trục lôi hạm cải biến T43, số hiệu 389 và 396, được thiết kế dựa theo trục lôi hạm T43
của Liên Xô và được trang bị: 01 hải pháo 100 ly; 04 trọng pháo 37 ly.
3.- Hai tàu đánh cá, số hiệu 402 và 407, được trang bị trọng pháo 25 ly.
4.- Hai chiến hạm hộ tống loại Hainan 281 và 282 . Vũ khí trên mỗi chiến hạm gồm có: Hai hải
pháo 57 ly đôi và hai trọng pháo 25 ly đôi; 4 dàn phóng rocket, mỗi dàn 05 ống phóng loại 81
(RBU-1200) gồm 50 rocket tầm xa 1.200m.
NTT.- Lực lượng Hải Quân của Trung cộng trội hơn lực lượng Hải Quân VNCH nhiều quá!
ĐML.- Thưa anh, lý do lực lượng hai bên chênh lệch quá nhiều là vì – như lúc nãy tôi đã trình
bày – Lực lượng Hải Quân VNCH đã bị csVN chi phối rất nhiều khi csVN tạo ra những cuộc
cường tập khốc liệt, tại miền Nam Việt Nam, trước khi cuộc hải chiến Hoàng Sa bùng nổ!
NTT.- Đúng là csVN “cõng rắn cắn gà nhà!”

ĐML.- Chứ còn “ai trồng khoai đất này”! Bây giờ, tôi xin nói về chi tiết của trận hải chiến đẩm
máu tại Hoàng Sa.
Kính thưa quý thính giả, những điều sắp trình bày hôm nay, tôi căn cứ vào Hồi Ký của Hải
Quân đại tá Hà Văn Ngạc, Hải Sử tuyển tập, Hồi Ký của Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và vài
nhân chứng sống. Tôi cũng đọc bài viết về Hoàng Sa của vài tác giả khác nhau – trên internet;
nhưng, thành thật xin lỗi, tôi không thể nhớ được tên tác giả!
Đại tá Ngạc là sĩ quan chỉ huy chiến thuật (OTC – Officer in Tactical Command) trận hải chiến
Hoàng Sa. Đại tá Ngạc cũng là sĩ quan trực tiếp ra lệnh cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm của Hải Quân
VNCH tại Hoàng Sa “khai hỏa”, để khởi đầu cuộc Hải Chiến bi hùng tại Hoàng Sa.
NTT.- Cuộc Hải Chiến bi hùng đó khởi đầu từ ngày nào và diễn tiến như thế nào, thưa chị?
ĐML.- Kính thưa quý thính giả, những diễn tiến đưa đến cuộc hải chiến đẫm máu tại Hoàng Sa
khởi đầu từ:
Ngày 11/01/1974.- Chỉ vài ngày sau khi ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger rời Trung cộng, đột
nhiên Ngoại trưởng Trung cộng tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên các quần đảo Hoàng
sa và Trường Sa. Sau khi tuyên bố một cách vô căn cứ, Trung cộng đưa nhiều chiến hạm và tàu
đánh cá – được trang bị vũ khí – xâm nhập hải phận Hoàng Sa.
Vì Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc đang bận công cán tại ngoại quốc, cho nên, phát ngôn
viên Bộ Ngoại Giao của VNCH bác bỏ luận cứ của Trung cộng.
Ngày 12/01/1974.- Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc cực lực bác bỏ luận điệu vô căn cứ
và lên án hành động xâm lăng của Trung cộng; đồng thời Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cũng
tái xác nhận chủ quyền của VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 15/01/1974.- Theo Hồi Ký của cựu phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư Lệnh Hải
Quân vùng I Duyên Hải, thì: “…Vào ngày 15/01/1974, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt,
HQ16, Hạm Trưởng là Hải Quân trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa Địa Phương Quân thuộc
tiểu khu Quảng Nam và nhân viên Khí Tượng ra Hoàng Sa để thay thế toán Địa Phương Quân
đã hết nhiệm kỳ ở Hoàng Sa. Chuyến hải hành này có hai sĩ quan Công Binh tháp tùng để
nghiên cứu việc tu sửa hai cầu tàu tại Hoàng Sa; một người Mỹ tên Gerald Kosh cũng xin tháp
tùng. Khi chiến hạm vừa khởi hành tôi được báo cáo từ Hoàng Sa là một vài ghe đánh cá xuất
hiện rất gần bờ tại đảo Pattle. Tôi liền chuyển tin đó cho HQ16”. (Hết trích)
Trong thời gian này, Trung cộng đổ bộ/chiếm đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam
Tuyền.

Sáng 16/01/1974.- Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ Tịch Hội Đồng Bảo
An Liên Hiệp Quốc để lưu ý tình hình căng thẳng nghiêm trọng, có khả năng đe dọa hòa bình
và an ninh thế giới, bởi lời tuyên bố chủ quyền của Trung cộng.
Cũng thời điểm này, HQ16 đến Hoàng Sa. Trong khi tuần hành, HQ16 phát hiện trên đảo
Quang Hòa có chòi canh, vọng gác cao, gắn cờ Trung cộng và một chiến hạm của Trung cộng
đang di chuyển quanh đảo. HQ16 yêu cầu chiến hạm Trung cộng rời vùng lãnh hải của Việt
Nam. Không có tín hiệu trả lời từ chiến hạm Trung cộng. HQ16 thấy 02 tàu nhỏ của Trung cộng
ở gần bờ đảo Duy Mộng.
Trưa 16/01/1974.- Bộ Tư Lệnh Hải Quân và Bộ Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển Hải
Quân VNCH nhận được công điện của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ thông báo: Một hạm đội gồm
41 chiến hạm và 02 tiềm thủy đỉnh của Trung cộng đang tiến về Hoàng Sa.
Tại Hoàng Sa, HQ16 thấy một tàu lạ xuất hiện trong vùng. Trung úy Đào Dân – sĩ quan của
HQ16 – ra lệnh gửi tín hiệu. Tàu lạ im lặng. Hạm Trưởng HQ16 ra lệnh khai hỏa trọng pháo 20
ly, chỉ với mục đích đuổi tàu lạ ra khỏi vùng đảo, nhưng tàu lạ vẫn không phản ứng. HQ16 tiến
gần đến tàu lạ thì nhận ra lá cờ Trung cộng.
Sau đó, HQ 16 phát hiện – về hướng Tây Nam đảo Cam Tuyền – có hai tàu đánh cá Trung
cộng, mang số 402 và 407.
HQ16 đưa 16 nhân viên cơ hữu dùng xuồng chở 06 người trong đoàn Công Binh lên đảo, do
thiếu tá Hồng chỉ huy.
Trong khi chờ đoàn Công Binh trở lại chiến hạm, Hạm Trưởng HQ16 thấy trên đảo Quang Hòa
bốn năm người ăn mặc như thường dân, có người ở trần, gần một dãy nhà đang xây cất dở dang.
Hạm Trưởng HQ16 thông báo sự việc về Bộ Chỉ Huy. Bộ Chỉ Huy cho biết trên đảo này không
có quân của VNCH.
HQ16 dùng cờ/loa phóng thanh tiếng Tàu, yêu cầu người Trung cộng rời khỏi hải phận Việt
Nam. Im lặng. Một lúc lâu, nhóm người Trung cộng yêu cầu HQ16 rời vùng tranh chấp.
Vừa khi đó, nhiều tàu đánh cá xuất hiện cạnh đảo Cam Tuyền và hằng trăm lá cờ Trung cộng
cắm dọc bờ cát.

Trước tình hình nghiêm trọng như thế, Hạm Trưởng HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân,
xin được tăng viện.

Hải Quân trung tá Vũ Hữu San được lệnh khẩn cấp đưa HQ4 ra Hoàng Sa.
Tối 16/01/1974.- HQ4 rời Đà Nẵng, tiến ra Hoàng Sa, đem theo một trung đội Biệt Hải do đại
úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy.
Ngày 17/01/1974.- Chính phủ VNCH gửi công hàm đến Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đề
nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để cải thiện tình hình.
09:00 giờ sáng 17/01/1974.- Từ Saigon, Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc đến Đà Nẵng. Khi đến
Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải đại tá Ngạc được biết Tuần Dương Hạm Trần Bình
Trong, HQ5, với biệt đội Hải Kích, cũng sẽ đến Đà Nẵng vào tối hôm đó.
Trưa 17/01/1974.- HQ4 đến Hoàng Sa, nhập đoàn với HQ16. Vừa nhập vùng, HQ4 từ phía
Nam đảo Vĩnh Lạc (Money) chạy lên; HQ16 từ đảo Pattle chạy xuống, kèm hai chiến hạm của
Trung cộng vào giữa. Hạm Trưởng HQ4 ra lệnh dùng cờ/quang hiệu/loa phóng thanh tiếng
Việt/tiếng Anh/tiếng Tàu để đuổi chiến hạm của Trung cộng ra khỏi lãnh hải của Việt Nam.
Chiến hạm của Trung cộng cũng yêu cầu chiến hạm Việt Nam rời vùng lãnh hải thuộc chủ
quyền của Trung cộng.

Không giải quyết được vấn đề một cách ôn hòa, Hạm Trưởng HQ4 cảnh báo rồi ra lệnh cho
HQ4 bẻ lái, “ủi” thẳng vào chiến hạm ngụy trang tàu đánh cá 407 của Trung cộng, với mục đích
đẩy chiến hạm ngụy trang của Trung cộng ra xa đảo.
Trước thái độ quyết liệt của HQ4, chiến hạm Trung cộng ngụy trang 407 và một chiến hạm
khác của Trung cộng, gần đó, bỏ chạy về phía Nam của đảo Duy Mộng và đảo Quang Hòa.
Sau khi đuổi hai chiến hạm Trung cộng, HQ4 cho toán Người Nhái đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc dẹp
cờ Trung cộng, cắm Quốc Kỳ VNCH.
Thượng sĩ giám lộ Lý Công Bảy trên HQ4 kể lại: “Toán Biệt Hải đổ bộ lên đảo không phát
hiện được gì ngoài vài nấm mộ mới đắp, chỉ có bảng gỗ đóng trước mộ, ghi chữ Tàu với ngày
sinh/ngày chết từ rất lâu. Toán Biệt Hải được lệnh đào lên vài nấm mộ để giảo nghiệm; nhưng
không thấy gì cả. Đây là mộ ngụy tạo”!
03:00 giờ chiều 17/01/1974.- HQ16 đến đảo Cam Tuyền, án ngữ phía Đông Nam để yễm trợ
cho HQ4 đổ bộ 27 Biệt Hải lên phía Tây đảo Cam Tuyền, trong khi 02 chiến hạm 402 và 407
của Trung cộng đang ở phía Nam đảo Cam Tuyền.
Sau đó, HQ16 chuẩn bị đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu – do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy – lên
đảo Cam Tuyền.

NTT.- Tình hình găng quá!
ĐML.- Vâng! Còn nhiều chi tiết rất bi hùng, kính mời quý thính giả theo dõi.
06:00 giờ chiều 17/01/1974.- HQ4 phát hiện hai chiến hạm Kronstadt 271, 274 của Trung cộng
từ đảo Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu 02 chiến hạm
Kronstadt 271, 274 rời hải phận của Việt Nam. Hai chiến hạm 271 và 274 cũng dùng quang
hiệu, đáp rằng các đảo này thuộc chủ quyền của Trung cộng, yêu cầu chiến hạm VNCH rút lui.
Không thấy HQ4 rút lui, hai chiến hạm Kronstadt 271, 274 chạy quanh HQ4. Một trong hai
chiếc Kronstadt chận đầu HQ4!
08:00 giờ tối 17/01/1974.- Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, rời hải cảng Tiên Sa, trực chỉ
Hoàng Sa.
09:00 giờ tối 17/01/1974.- HQ5 cũng rời Đà Nẵng, hải hành ra Hoàng Sa.
Trung cộng tiếp tục tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích. Các chiến hạm của Trung
cộng tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. HQ4 và HQ16 dùng tín hiệu cảnh cáo: “Đây là lãnh hải
của Việt Nam Cộng Hòa. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay!” Trung cộng đáp rằnh Hoàng
Sa là của Trung cộng.
04:30 giờ sáng 18/01/1974, một trong 04 chiến hạm của Trung cộng tiến về HQ4. Nhưng, khi
HQ4 tiến sát chiến hạm của Trung cộng thì chiến hạm của Trung cộng chuyển hướng về đảo
Quang Hòa.

Sáng 18/01/1974, theo cựu sĩ quan Hải Quân Trần Đỗ Cẩm: “HQ16 quay lại đảo Hữu Nhật,
thấy hai chiến hạm của Trung cộng vẫn còn đó. Gần đảo Money cũng có chiến hạm của Trung
cộng với hằng trăm lá cờ Trung cộng cắm rải rác dọc bãi cát.” Hạm trưởng HQ16 báo cáo sự
việc về Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải.
Nhận được báo cáo của HQ16, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh HQ16 đổ bộ nhân viên cơ
hữu lên đảo Vĩnh Lạc để triệt hạ cờ Trung cộng.
Hạm Trưởng HQ16 cho một trung úy và 14 đoàn viên – được trang bị M79 và súng cá nhân –
đổ bộ bằng xuồng cao su với mục đích nhổ hết cờ Trung cộng, cắm cờ VNCH.
08:45 giờ sáng 18/01/1974, HQ16 phát hiện thêm một chiến hạm của Trung cộng di chuyển về
hướng Đông Nam đảo Duy Mộng; trên đảo đã thấy cờ của Trung cộng.

10:30 giờ sáng 18/01/1974, trong khi HQ4 rút Biệt Hải trở về chiến hạm thì chiến hạm 407 của
Trung cộng tiến về HQ16.
03:00 giờ chiều 18/01/1974, HQ5 và đại tá Ngạc đến Hoàng Sa.
Sau đó không lâu, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, cũng đến Hoàng Sa.
Đại tá Ngạc chia Hải Đoàn Đặc Nhiệm thành hai Phân Đoàn Đặc Nhiệm:
*.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm I gồm có Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ4 và Tuần Dương Hạm
Trần Bình Trọng, HQ5; do Hạm Trưởng HQ4 chỉ huy.
Đại tá Hà Văn Ngạc trực tiếp chỉ huy từ HQ5.
*.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm II gồm có Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ16 và Hộ Tống
Hạm Nhật Tảo, HQ10; do Hạm Trưởng HQ16 chỉ huy.
Nhóm quân nhân thuộc HQ16 và HQ4 đổ bộ và trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam
Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money) và Duy Mộng (Drummond).
Từ phía Nam đảo Hoàng Sa, 02 phân Đoàn Đặc Nhiệm tiến về đảo Quang Hòa theo thứ tự:
HQ4, HQ5, HQ16 và HQ10.

Khi 02 Hải Đoàn Đặc Nhiệm tiến về đảo Quang Hòa để Hải Kích đổ bộ thì bị hai chiến hạm
Kronstadt 271 và 274 của Trung cộng chận hướng hải hành. Hai Phân Đoàn Đặc Nhiệm vẫn giữ
nguyên tốc độ. Hai chiến hạm 389 và 396 của Trung cộng vẫn giữ nguyên vị trí sát bờ bắc đảo
Quang Hòa.
Chiếc Kronstadt 271 dùng quang hiệu chuyển công điện: “These islands belong to the People
Republic of China since Ming dynasty STOP Nobody can deny”. Hải Đoàn Đặc Nhiệm đáp
bằng quang hiệu: “Please leave our territorial water immediately!”
07:15 giờ chiều 18/01/1974, HQ5 phát hiện hai chiến hạm 389 và 396 của Trung cộng.
08:00 giờ tối 18/01/1974, HQ16 chuyển phái đoàn Công Binh, do thiếu tá Hồng hướng dẫn,
sang HQ5 bằng xuồng. Phái đoàn Công Binh cùng ông Gerald Kosh – thuộc cơ quan DAO Hoa
Kỳ tại Đà Nẵng – vào gặp đại tá Ngạc.

10:00 giờ tối 18/01/1974, đại tá Ngạc liên lạc vô tuyến với bốn Hạm Trưởng để thông báo tình
hình quân sự rất phức tạp trong vùng, yêu cầu bốn vị Hạm Trưởng chuẩn bị chiến hạm và huy
động tinh thần nhân viên, sẵn sàng chiến đấu.
11:00 giờ đêm 18/01/1974, lệnh hành quân từ Vùng I Duyên Hải được chuyển mã hóa trên
băng tần SSB – single side band – ghi rõ: “Tái chiếm một cách ôn hòa đảo Quang Hòa”.
NTT.- Lực lượng Hải Quân của Trung cộng vượt xa lực lượng Hải Quân VNCH thì làm thế nào
Hải Quân VNCH có thể tái chiếm đảo Quang Hòa một cách ôn hòa được?
ĐML.- Nhận xét của anh rất chính xác! Nhưng, chính người csVN đã âm thầm hậu thuẫn Trung
cộng bằng những cuộc tấn công tàn bạo vào miền Nam Việt Nam ngay trước khi Trung cộng
tiến chiếm Hoàng Sa thì làm thế nào Hải Quân VNCH có thể bảo vệ được lãnh hải khi mà Hoa
Kỳ không còn viện trợ vũ khí và quân dụng cho VNCH nữa?
Tình trạng bi đác cho đến nỗi Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, khi rời hải cảng Tiên Sa để trực
chỉ Hoàng Sa thì một máy chính của HQ10 không xử dụng được, rada bị trục trặc, hỏa lực đối
hạm phải chỉnh bằng tay!

NTT.- Quả là một cuộc hải chiến hào hùng nhưng đầy bi thảm! Theo tài liệu chị đã trình bày,
tôi đồng ý rằng: Sự bi thảm này có sự “góp sức” rất đắc lực của người csVN. Đó là điều rất
đáng buồn! Nhưng thôi, chúng ta chỉ biết nói lên sự thật của lịch sử để các thế hệ trẻ biết được
rằng VNCH đã thật sự đánh đuổi quân ngoại xâm Trung cộng. Mời chị trình bày tiếp.
ĐML.- Khuya 18/01/1974, HQ10, HQ4, HQ5 và HQ16 chuẩn bị tác chiến. Hạm Trưởng Ngụy
Văn Thà ra lệnh làm tối HQ10 để tránh bị theo dõi.
02:00 giờ sáng 19-01-1974.- Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà triệu tập cuộc họp khẩn cấp và chỉ
thị: Tất cả chuẩn bị tác chiến để bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc.
06:00 giờ sáng 19/01/1974.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm I có mặt tại Tây Nam đảo Quang Hòa, rồi
tiến sát đảo Quang Hòa. HQ5 nằm gần bờ hơn để thuận tiện cho Hải Kích đổ bộ.
Hai chiến hạm của Trung cộng – Kronstadt 271 và 274 – bị bất ngờ, vận chuyển một cách lúng
túng, luồn ra khỏi khu lòng chảo.
Trong lúc Biệt Đội Hải Kích xuống xuồng cao-su để đổ bộ, đại tá Ngạc đích thân đến cầu thang
căn dặn và nhấn mạnh về việc đổ bộ mà không được nổ súng. Khi bắt được liên lạc với quân của Trung cộng, hãy yêu cầu họ rời khỏi đảo.

Theo báo cáo của Chỉ Huy Trưởng Biệt Đội Hải Kích – Hải Quân đại úy Nguyễn Minh Cảnh –
Hải Kích Đỗ Văn Long là người đầu tiên đổ bộ lên đảo; vừa nổ súng vừa tiến vào bờ, liền bị
hỏa lực từ trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển.
Trung úy Lê Văn Đơn – xuất thân từ Bộ Binh – tiến vào để thu hồi tử thi của Hải Kích Đỗ Văn
Long cũng bị tử thương ngay gần xuồng. Tử thi của trung úy Đơn được thu hồi ngay.
7:00 giờ sáng 19/01/1974.- Sau khi quan sát tình hình chiến trận một lần nữa, Hạm Trưởng
Ngụy Văn Thà dăn dò các pháo thủ phải cố gắng bắn chính xác ngay loạt đạn đầu tiên để phá
vỡ lợi thế của đối phương.
HQ5 đổ bộ 22 Hải Kích lên bờ Tây Nam. HQ4 đổ bộ 27 Biệt Hải lên bờ Nam để tái chiếm đảo
Quang Hòa.
Cả 02 cuộc đổ bộ đều thất bại trước hỏa lực quá mạnh của Trung cộng!
Cũng thời điểm này, hai chiến hạm 402 và 407 của Trung cộng tăng cường khoảng 02 đại đội
lên bờ Đông Bắc đảo Quang Hòa.

8:50 giờ sáng 19/01/1974.- Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải chỉ thị đại tá Ngạc cho tấn
công tối đa vào các đảo; phải dùng mọi khả năng để chống trả
9:30 giờ sáng 19/01/1974.- đích thân Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải ra lệnh “khai hỏa”,
bằng bạch văn, qua siêu tần số SSB, cho đại tá Ngạc.
10 giờ sáng 19/01/1974.- Biệt đội Hải Kích trở về HQ5 với tử thi của trung úy Lê Văn Đơn.
Đại tá Ngạc chỉ thị mỗi chiến hạm của VNCH tấn công một chiến hạm địch và bám sát địch
trong tầm hải pháo 40 ly. Tất cả chiến hạm của Hải Quân VNCH phải đồng loạt khai hỏa theo
lệnh của đại tá Ngạc để tạo yếu tố bất ngờ và gây thiệt hại trước cho các chiến hạm của Trung
cộng.
Vì tầm quan sát – từ HQ5 – rất hạn chế, đại tá Ngạc không thể quan sát được những biến động
của HQ4/HQ16/HQ10 cũng như các chiến hạm và hai ngư thuyền ngụy trang của Trung cộng.
10 giờ 24 sáng 19/01/1974.- Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh “khai hỏa”!
Vào thời điểm bi hùng đó, Hải Quân trung úy Phạm Ngọc Roa đang trực chiến tại đài ra-đa của
HQ4. Trung úy Roa thấy Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, khai hỏa trước tiên. Tiếp theo, cả bốn
chiến hạm của Hải Quân VNCH đồng loạt nổ súng.

Sau đó, cũng chính trung úy Phạm Ngọc Roa thấy đài chỉ huy của Hộ Tống Hạm Nhật Tảo,
HQ10, lóe sáng vì bị trúng đạn!
Đài chỉ huy HQ4 cũng bị trúng đạn. Trung úy Roa bị thương. HQ4 bị trúng gần 70 phát đạn.
Hai quân nhân tử thương. Nhiều quân nhân bị thương.
Chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn, vận chuyển rất chậm, trở thành mục tiêu của HQ5. Hỏa lực
của Kronstadt 271 không gây thiệt hại nhiều cho HQ5; nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho
HQ10 nằm về phía Bắc.
HQ4 nằm về phía Tây Nam của HQ5 đặt mục tiêu là Kronstadt 274 nằm về phía Bắc. Nhưng,
chẳng may, HQ4 bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên, phải chờ sửa chữa. Tuy nhiên, HQ4
vẫn phải tiếp tục bám sát Krondstadt 274, cho nên, HQ4 bị thiệt hại nặng bởi hỏa lực của
Kronstadt 274.
Tại đài chỉ huy của HQ5, máy truyền tin PRC-25 để đại tá Ngạc chỉ huy và liên lạc với các
chiến hạm trực thuộc, được đặt trước ghế Hạm Trưởng. Đại tá Ngạc vừa bước ra ngoài quan sát
thì đài chỉ huy bị trúng đạn; máy PRC- 25 nát tan!
10:39 giờ sáng 19/01/1974.- HQ16 báo cáo hầm máy bị trúng đạn, chiến hạm bị nghiêng, khả
năng vận chuyển giảm, buộc phải lui ra khỏi vòng chiến; cũng không còn liên lạc được với
HQ10; không biết rõ tình trạng, chỉ thấy nhân viên HQ10 đang đào thoát.

Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ4 lui ra khỏi vòng chiến ngay; HQ5 yểm trợ cho HQ4 tiến ra xa.
Chiếc Kronstadt 274 của Trung cộng tấn công HQ5 với mục đích tiếp cứu chiếc Krondstadt 271
đang bị tê liệt.
HQ5 bị trúng đạn. Sĩ quan trưởng khẩu 127 ly tử thương và hải pháo bất khiển dụng. Máy siêu
tần số SSB không còn liên lạc được. Khẩu hải pháo 40 ly đơn phía tả hạm cũng bị hư hại.
11:25 giờ sáng 19/01/1974.- Cách xa khoảng 8 đến 10 hải lý, về phía Đông, xuất hiện một
chiến hạm của Trung cộng, loại được trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiễn loại hải hải,
đang tiến vào vùng giao tranh với tốc độ cao, quan sát được bằng viễn vọng kính.
Đại tá Ngạc ra lệnh HQ4 và HQ5 rời vùng Hoàng Sa, tiến về hướng Subic Bay.

01:00 giờ trưa 19/01/1974.- HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng Sa khoảng 10 hải lý. Tư Lệnh Hải
Quân đích thân ra lệnh cho HQ4 và HQ5 phải trở lại Hoàng Sa, đánh chìm chiến hạm của
Trung cộng.
Lệnh được thi hành ngay.
Từ HQ5, đại tá Ngạc được thông báo rằng HQ16 đã được HQ6, hộ tống về Căn Cứ Hải Quân
Đà Nẵng.
2:30 giờ chiều 19-01-1974, HQ4 và HQ5 đang hải hành trở lại Hoàng Sa. Ngang Hòn Tri Tôn
– cách Hoàng Sa khoảng 01 giờ rưỡi hải hành – HQ4 và HQ5 nhận được phản lệnh, phải trở về
Đà Nẵng.
07:00 giờ sáng 20-01-1974, HQ4 và HQ5 về tới Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng.
Theo trung sĩ Trịnh Văn Quý – thuộc lực lượng đổ bộ lên đảo Hữu Nhật – khoảng 08 giờ sáng
20/01/1974 trung sĩ Trịnh Văn Quý vẫn thấy từng cụm khói nhỏ vươn lên từ đài chỉ huy của
HQ10 trong khi phần cuối cùng của Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, vẫn từ từ chìm vào lòng
Biển Mẹ!

NTT .- Một hình ảnh thật là bi hùng!
Kính thưa quý thính giả, chương trình Tưởng Niệm 50 năm Hải Chiến Hoàng Sa – do Diễn
Đàn KBC của Nguyễn Tường Tuấn thực hiện – đến đây xin tạm ngưng. Xin hẹn cùng quý thính
giả vào một chương trình khác.
Kính chào.

BA TÔI LÀ “VIỆT CỘNG NẰM VÙNG”

.

Nhà Báo Nguyễn Ngọc Già.

Như đã viết rải rác trong nhiều bài trước đây, tôi sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, trong một gia đình trung lưu với việc làm ăn phát đạt, dần dẫn đến giàu có hơn.

Thật ra, sau này tôi mới biết ba tôi là “Việt Cộng nằm vùng”, do đó có thể nói, gia đình tôi là gia đình “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Cách đây vài chục năm, khi nghe câu này, tôi khá giận dữ và cảm thấy bị sỉ nhục. Cảm giác đó dễ hiểu bởi sự thật chưa được phơi bày như sau này.

Tuy nhiên, cũng nhờ đó mà tôi tự tìm tòi. Tôi nghĩ, không có cách gì thuyết phục nhất cho mỗi người, nếu như tự thân mình không chủ động tìm hiểu và can đảm nhìn thẳng vào Sự Thật.

Nhìn một cách thẳng thắn, không hề né tránh là điều chưa bao giờ dễ dàng, cho bất kỳ ai, cho bất kỳ điều gì, không riêng lãnh vực chính trị.

Ít nhất, cho đến nay, tôi có thể nói, tôi đã nhìn thẳng vào Sự Thật mà tôi biết, tôi tin một cách có căn cứ.

Từ cảm giác giận dữ, dần dần tôi chuyển qua cảm giác nhục nhã. Nhục nhã vì sự vong ân bội nghĩa của gia đình mình đối với Quốc Gia mà từ đó gia đình tôi làm ăn khá giả một cách chân chính, còn bản thân tôi lớn lên từ đó.

Tôi không có ý định chạy tội cho ba tôi hay những người thân khác. Suy cho cùng, gia đình tôi vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của cộng sản. Đó là sự thật. Ba tôi chưa bao giờ giết bất kỳ một ai.

Ba tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có muốn báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì người cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự “ân sủng” dành cho ông – một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính nào, cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự “ban ơn” nào từ người cộng sản.

Một cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng sản gây ra. Có thể đó là một niềm an ủi cho tôi. Cũng có thể đó là một ơn huệ của Ơn Trên, đã sắp đặt cho ba tôi một cái chết không hề nhơ nhuốc mà nhuốm màu thê lương trong một con người thơ ngây và chơn chất. Nhưng đó là câu chuyện quá vãng của gần 20 năm về trước, không phải những gì tôi muốn viết hôm nay.

Tôi có ba người chú ruột đều được “phong liệt sĩ”. Cả ba người đều chết thời Pháp. Bà nội tôi được “tặng” “bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Tôi có hai người cậu ruột, trốn ngoại tôi để đi tập kết năm 1954. Hai người cậu ruột khác lại làm trong chế độ VNCH. Hai người cậu này đều có chức phận vào thời bấy giờ. Tôi có một người chị ruột làm trong nhà thương và “thân cộng” lúc đó.

Một người anh ruột là sĩ quan thuộc quân lực VNCH (nhưng thật ra là VC nằm vùng), một người anh ruột khác là hạ sĩ quan cũng thuộc quân lực VNCH (thuần túy là lính, không quan tâm và tham gia vào chính trị, cũng như không phải VC nằm vùng). Tôi có vài người anh, chị ruột nữa, họ là dạng “cách mạng 30/4”. Một số bà con thân thuộc nội ngoại khác, người thì ở trong “khu”, người lại chống Cộng triệt để. Vài người khác, người thì là quân nhân, người nữa lại là công chức của VNCH v.v…

Hồi trước 1975, đa số gia đình đều đông con. Ít thì ba, bốn; nhiều thì chín, mười. Có gia đình lên đến mười hai – mười bốn người con, đều bình thường trong nếp sống lúc bấy giờ. Một đời sống sung túc, hầu hết gia đình khá giả, đều giống nhau suy nghĩ: nhiều con là phúc lộc Trời cho. Chế độ VNCH cũng không có việc “sinh đẻ có kế hoạch”. Mắn đẻ lại là điều tốt mà phụ nữ thời xưa luôn tự hào. Cuộc sống dung dị như thế. Không chỉ riêng những gia đình giàu có mà có thể nói hầu hết đều tương tự như vậy.

Dông dài như thế, để nói rằng giòng tộc nội ngoại của tôi khá phức tạp. Giá như…

Vâng, chính cái “giá như” nó đã làm hầu hết giòng tộc, anh chị em đại gia đình tôi “tan đàn xẻ nghé” từ dạo ấy. Dạo mà “rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài Gòn” với ngày 30/4/1975 (!)

Một giòng tộc như thế mà nói đến “đoàn kết” (như CSVN đang kêu gọi) thì quả là…hài kịch.

Ba tôi và anh chị tôi đã từng đi tù dưới chế độ VNCH. Ba tôi ra tù sớm, chị tôi thì được tha bổng sau vài tuần tạm giam, vì không đủ chứng cớ kết tội.

Riêng anh tôi nhận án “20 năm khổ sai” và bị đày đi Côn Đảo cho đến (tất nhiên) 1975.

Điều tôi cám ơn Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa thật giản dị:

*- Ngày ba tôi ra tù, ông vẫn mạnh khỏe. Về đến nhà chỉ một tuần sau là ông có thể bắt tay trở lại công việc làm ăn.- Suốt thời gian ba và anh chị tôi bị điều tra cho đến lúc kết án chính thức, gia đình tôi (những người không liên quan) không hề bị săn đuổi, bắt bớ vô pháp, hành hung, sách nhiễu v.v…

Má tôi đã gánh vác mọi việc làm ăn vào lúc đó. Chúng tôi vẫn đi học bình thường và sống trong môi trường không hề bị kỳ thị của bất kỳ thầy cô hay bạn bè nào. Hàng xóm láng giềng cũng không vì thế mà ghẻ lạnh, hắt hủi hay tiếp tay như kiểu bây giờ mà người ta gọi là “đấu tố thời đại mới”. – Anh tôi – người ở tù Côn Đảo, ngày trở về đất liền vẫn mạnh khỏe, dù ốm o đen đúa, nhưng không hề mang thương tật gì cả.

*Cá nhân tôi*

Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã hội – có thể chưa phải là tốt đẹp nhất – nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng sản 39 năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục, có thể nói, cho đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng “cải cách” giáo dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút tiến bộ nào khả dĩ.

Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam.

Nền giáo dục trước 1975 mà tôi hấp thụ, dù ngắn ngủi, nó thật sự là nền giáo dục nhân bản và khai phóng. Trung thực và hiền lương. Ganh đua nhưng không đố kỵ. Biết phẫn nộ nhưng không tàn ác. Đặc biệt nền giáo dục đó giúp cho hầu hết học trò luôn biết dừng lại đúng lúc trước cái sai với nỗi xấu hổ và tính liêm sỉ – tựa như “hàng rào nhân cách” được kiểm soát kịp thời.

Chính xác hơn, tôi cám ơn Thầy – Cô của tôi, có lẽ bây giờ hầu hết đã qua đời, nếu còn sống chắc cũng đã nghễnh ngãng hay quá già yếu.

Tôi biết ơn các Giáo sư. Tôi muốn nói rõ: Tôi không hề có danh vị, bằng cấp gì cả.

Tôi biết ơn Thầy – Cô của tôi, vì nhiều độc giả thương mến (có lẽ qua những bài viết), họ ngỡ tôi là: giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, nhà văn, nhà giáo v.v… nhưng tôi thưa thật, tôi chỉ là một người “tay ngang” trong viết lách. Qua từng bài viết, tôi rút ra kinh nghiệm. Đặc biệt, tôi luôn cố gắng viết cẩn trọng và khách quan nhất để thuyết phục độc giả. Tính cách này, tôi đã học từ Thầy – Cô tôi, ngày xưa. Dù môn Văn Chương ngày ấy, tôi luôn nhận điểm thấp tệ.

Tôi biết ơn Thầy – Cô của tôi cũng vì, sau 1975, cả nước rơi vào đói kém, làm cho “tính người” trong xã hội cũng mai một dần và tôi không là ngoại lệ. Thảm trạng xã hội lúc đó biến tôi trở nên chai lỳ, mất cảm xúc và lạnh lùng.

Đặc biệt “chữ nghĩa” hầu như trôi sạch hết cùng những “tem phiếu”, “xếp sổ mua gạo”, chầu chực “mua nhu yếu phẩm” v.v… ngày xưa.

Về sau này, khi cuộc sống đỡ hơn, tôi có thời gian hơn cùng với thời cuộc đảo điên, dần dần, tôi cảm nhận tôi “trầm mình” trong nỗi đau của bản thân, gia đình, từ đó tôi mới thấu hiểu những điều ngày xưa tôi học và tôi giật mình vì sự lãng quên đáng trách đó.

Tôi tìm lại được “tính Người” mà bấy lâu nay tôi đánh mất.

Một lần nữa, tôi cám ơn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và các Thầy – Cô của ngày xưa.

Nhà Báo Nguyễn Ngọc Già.

(Nhà báo Nguyễn Ngọc Già từng bị CSVN kết án theo điều 88 của Bộ luật hình sự cũ, với mức án ba năm tù giam và ba năm quản chế từ ngày 27 tháng 12 năm 2014. Ngày ra tù là ngày 27 tháng 12 năm 2017. Từ đó đến hôm nay, bị quản chế ba năm tức đến 27 tháng 12 năm 2020)

Thuở ban đầu Nam – Bắc gặp nhau 

Lần đầu gặp người miền Nam
Tôi còn nhớ máy bay cargo chở chúng tôi đến phi trường Tân Sơn Nhất lúc khoảng 9, 10 giờ một đêm mưa tầm tã, Từ đó chúng tôi được đưa đến trại Liêu Tây chờ định cư. Thú thật lúc đó tôi không để ý gì đến khung cảnh chung quanh, vì đang chìm ngập trong tâm trạng hoảng sợ của một cô gái 16 tuổi mồ côi mẹ, chợt nhận biết từ đây mình không còn ở trong mái nhà quen thuộc, không còn anh, không còn bố, là hai người thân duy nhất bên cạnh. Các thiếu nữ 16 tuổi thời nay thì trưởng thành lắm rồi, nhưng thời đó, chúng tôi hiền và khờ khạo lắm, từ trước đến giờ chưa bao giờ đi máy bay, chưa bao giờ ra khỏi nhà một mình. Mới hôm trước, ba cha con chúng tôi còn chuẩn bị hành lý vào Nam, thì đùng một cái người anh quyết định ở lại đi vào bưng, còn bố thì đưa tôi ra phi trường, đẩy tôi vào dòng người đang lên máy bay, rồi bảo, “Con đi trước đi, bố ở lại tìm anh, sẽ gặp con trước hạn 300 ngày.” Miền Nam trong thời gian đầu tiên với tôi đồng nghĩa với buồn bã và lo sợ.
Nữ tài tử Kiều Chinh


Lúc mới di cư vào Sài Gòn tôi là một sinh viên 20 tuổi. Cảm nhận đầu tiên là sự thanh bình và thịnh vượng của miền Nam so với cái điêu tàn đổ nát vì chiến tranh của miền Bắc. Lúc đó sinh viên vào Nam được chính phủ chăm sóc khá chu đáo, nên tôi cảm thấy lạc quan với tương lai. Nhìn xung quanh thì thấy rõ hơn là người miền Nam tính tình dễ dãi và có lồi sinh hoạt rất lè phè, tiêu xài thoải mái, không cần kiệm như người Bắc. Sau này mới hiểu là vì đời sống ở đây không khó khăn như ngoài Bắc.
Luật Sư Ðoàn Thanh Liêm


Ồ, lúc đó tôi mới có 7 tuổi. Không nhớ gì nhiều, chỉ nhớ là vui lắm vì lúc đó gia đình ở một trại tạm trú gần Sở Thú, và đang từ đời sống rất trật tự, quy củ, tự nhiên như được sổ lồng. Lúc đó sáu, bảy anh chị em chúng tôi cứ kéo nhau đi chơi suốt ngày, mà thường là vào Sở Thú. Chưa bao giờ được đi Sở Thú nhiều như thế, nên với chúng tôi lúc đó Sài Gòn là một chỗ thần tiên. Tiếc thay thời gian đó cũng không lâu, chỉ được vài tháng…
Luật Sư Phan Huy Ðạt


Nhắc đến những ngày mới vào Nam, tôi chỉ nhớ nhận xét đầu tiên là sao đường ở đây nhiều cứt ngựa thế, cứ ra đường là toàn thấy cứt ngựa. Dĩ nhiên đó là nhận xét của cậu bé 8 tuổi. Hình như gia đình tôi lúc đó ở trại tạm trú Phú Thọ. Sau khi ra khỏi trại rồi, đi học thì chỉ nhớ hay vật nhau với mấy thằng bạn cùng trường. Hễ tụi nó cứ: “ê, ê, thằng Bắc kỳ ăn cá rô cây” là tụi tôi tức lắm, sau mấy hôm im lặng không biết nói gì, một hôm tôi bỗng xuất khẩu thành thơ, nói lại: “Còn tụi mày Nam kỳ thì ăn mì khô cứt ngựa.” Thế là cả đám nhào vào vật nhau ra đất.
Bác Sĩ Minh Bùi


Lúc mới vào Nam gia đình tôi định cư ở gần đường Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. Lúc đó tôi vừa lập gia đình nên quan tâm lớn nhất là làm sao kiếm việc làm để ổn định đời sống. Ðiều tôi nhớ nhất là thấy người miền Nam sung sướng và có lối sống hồn nhiên quá. Ở gần nhà tôi có gia đình người đạp xích lô. Buổi sáng ông chồng chở cả vợ lẫn con ra đầu chợ ăn sáng, chở con đi học, rồi chở vợ về, buổi trưa về mua cơm chở về cho vợ ăn rồi ngủ trưa xong mới đạp xe tiếp. Buổi tối lại về đón vợ con chở đi ăn tối. Ra chợ thì nếu mình mua cái gì một đồng mà đưa giấy hai đồng thì người bán hàng xé tiền ra làm đôi, đưa lại một nửa. Rất thoải mái!
Bà Phạm Thị Hậu

Lần đầu thấy người miền Bắc

Tôi còn nhớ buổi phát thanh cuối cùng của Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội trước khi từ giã đất Bắc để vào Nam, nghe xong lòng tôi buồn như muốn khóc. Thế rồi một ngày đầu Thu năm ấy, thành phố Hội An nhỏ bé và cổ kính của chúng tôi bắt đầu đón tiếp người Bắc di cư, mấy cái lều lớn được dựng lên trong khu vực sân quần vợt đầy ắp người ở. Niên khóa mới 1954-1955 trường Trần Quý Cáp chúng tôi có thêm một số bạn học mới nói tiếng Bắc, trong đó có những “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ” rất duyên dáng. Và, một tiệm phở được khai trương một cách tạm bợ ở một con đường gần chợ. Tiêm phở này tôi cho là nét văn hóa ẩm thực Bắc Kỳ đầu tiên xuất hiện một cách rõ rệt tại thành phố Hội An.
Nhà văn Phạm Xuân Ðài

Lúc người miền Bắc di cư vào Nam tôi vừa lên trung học, ở một trường trung học gần Gia Ðịnh. Trường toàn học trò người Bắc. Nhận xét đầu tiên của tôi là họ học rất giỏi và rất chịu khó, lại rất tằn tiện. Ở gần trường có một quán bán thức ăn, nhưng buổi trưa thấy bạn bè người Bắc toàn ăn cơm gia đình gói cho. Họ không xài tiền. Tôi cũng nhớ mình ngưỡng mộ tài ăn nói khéo léo của người Bắc, nhất là giọng nói của các cô gái Bắc, nghe thật ngọt ngào. Còn nữa, người Bắc rất mộ đạo, gần trường có một cái nhà thờ, giờ ra chơi nào cũng thấy họ rủ nhau vào nhà thờ cầu nguyện…
Ký giả Kiều Mỹ Duyên

Tôi ở miền Trung, nhà ở gần một nhà thờ. Cuối năm 1954, một buổi sáng Chủ Nhật, tự nhiên có một đoàn người rất đông, ăn mặc rất lạ lùng đi ngang qua nhà tôi. Cha tôi giải thích đó là người Bắc di cư, họ rất sùng đạo nên chắc kéo nhau đến nhà thờ cầu nguyện. Và phì cười khi tôi hỏi, “Bắc ở đâu, người Bắc có phải là người Việt không?” Cha tôi bảo họ là đồng bào của mình, họ bỏ nhà cửa vào đây vì không muốn sống chung với cộng sản, và được đưa đến đây định cư. Lúc đó tính tò mò của đứa trẻ khoảng 12, 13 tuổi khiến tôi tìm cớ đến nhà thờ gần giờ tan lễ để lén nhìn những “người Việt lạ lùng” này. Họ ăn mặc lạ quá. Phụ nữ đa số người nào cũng bịt khăn trên đầu, có người vấn khăn, và đặc biệt là răng của người già đen như than khiến tôi sờ sợ. Tiếng nói của họ nghe cũng được, nhưng sau này nghe thêm thì tôi lại thấy thích cách phát âm giọng Bắc.
Ông Nguyễn Văn Nam 

Với tôi, kỷ niệm với người Bắc di cư gắn liền với mấy cọng rau muống. Hồi mấy người Bắc vào Nam, nhà tôi ở Biên Hòa. Tôi nhớ lúc đó giữa họ với người Việt mình có một cái gì thật xa lạ. Một hôm thấy mấy bà mặc quần áo lạ lùng này đi vào các xóm tìm mua rau muống, tôi để ý thì biết họ mang về bán lại cho mấy người Bắc khác mua về ăn. Rau muống miền Nam hồi đó mọc hoang ở ruộng, người ta hái về băm ra trộn cám cho heo ăn, nên tụi tôi thấy lạ lắm. Nhưng họ thích ăn thì kệ. Từ từ, các ruộng rau muống trong vùng đều được người Bắc đến mua sạch, và tụi tôi đặt cho họ cái tên là “dân rau muống.” Lâu dần tôi thấy người Bắc bắt đầu đào ao thả cá, và thả luôn rau muống ở ao. Rau muống ở ao lớn và dài cọng ăn mềm hơn. Ðến khi một bà người Bắc hàng xóm gần nhà mang qua cho má tôi một thố canh bún, tụi tôi ăn thử mới biết mê cái món này, mê luôn mấy cọng rau muống. 
Bà Trần Thị Huệ

Thú thật, hồi mới gặp mấy người Bắc di cư tôi không mấy thiện cảm. Mấy bà lớn tuổi răng đen thui, quấn khăn kín mít trên đầu, còn mấy ông thì đi đâu cũng mang theo cái điếu cầy, hút thuốc kêu sòng sọc. Nói năng thì khách sáo, giữ kẽ. Ở trường, gặp mấy cô em Bắc Kỳ, thì dù xinh đẹp tới mấy tụi tôi cũng đứng cho thật xa, nhìn mặt thôi cũng biết là khó tính, và cái tính (không) xài tiền của dân Bắc thì khỏi nói. Vậy mà tôi có người bạn thân là ông Bắc Kỳ di cư hồi nào không hay, mà còn lấy cô em gái của bạn mình làm vợ. Giờ tôi nói còn bị lây giọng Bắc nữa mới chết…
Ông Hoàng Văn Lượng

Như mưa thấm đất

Trần Mộng Tú

Gia đình chúng tôi tới Tân Sơn Nhất vào một buổi chiều cuối Tháng Tám năm 1954. Phi cảng Tân Sơn Nhứt đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213,635 người (Wikepidia).

Hình bìa ấn bản Tháng Sáu, 1955 của tạp chí National Geographic, với phóng sự có tên “Passage to Freedom in Vietnam” của ký giả Gertrude Samuels. (Hình: Người Việt)

Thử tưởng tượng ngần ấy con người với hành lý trút xuống sân bay, sau đó được phân tán, trú ngụ tạm mấy ngày trong những lều vải, trước khi tìm được nơi chốn cư trú lâu dài.
Cha mẹ, vợ chồng, con cái chen chúc trong đám đông đó. Thất lạc nhưng rồi cũng tìm ra nhau.
Hành lý cá nhân mới là một chuyện khó lòng kiểm soát. Có người di tản với gánh nặng ngàn cân trong lòng nhưng hành trang nhẹ hẫng, chỉ là một cái túi vải trên vai. Có người đem theo tối đa những gì họ có thể đem được. Trên một khoảng đất rộng mấy trăm thước vuông: va-li, thùng giấy, thùng gỗ, bao tải, túi vải, đủ các cỡ lớn, nhỏ, vuông, tròn, dài, ngắn, được tháo đổ xuống. Mọi người tự tìm hành lý của mình. Tôi và em tôi còn nhỏ, mọi việc đều do mẹ tôi và anh chị lớn hơn lo.
Mẹ tôi tìm mãi vẫn thấy thiếu bốn cái thùng sữa đựng quần áo của chúng tôi. Ði tới đi lui cả ngày xem ai có lấy nhầm sẽ đem trả. Ðến tối cả nhà lại kéo nhau ra bãi thả đồ đạc để tìm mấy cái thùng sữa của nhà mình. 
Vẫn chẳng thấy cái nào cả chỉ có mấy cái bao vải bố, loại bao đựng một tạ gạo nằm chơ vơ còn lại. Mẹ tôi bảo:
– Thử xem trong này có gì mà người ta không lấy, lại lấy cái thùng của mình.
Cả nhà xúm lại, mở ra, bên trong toàn là sách cũ. Cả ba cái bao to tướng chất đầy sách. Cái bao đầu tiên mẹ tôi lôi ra được cuốn Tam Quốc Chí, mẹ nói: 
– Mang về lều đọc, họ lấy quần áo của mình, vứt lại ba cái bao này, không ai nhận thì mình nhận vậy.
Thế là ba bao sách to bằng ba bao gạo được cả nhà hì hục kéo về lều. Sáng hôm sau mẹ tôi lên Phòng Ðiều Hành báo cáo về bốn thùng quần áo thất lạc và ba bao sách kéo về lều. Cho đến khi gia đình chúng tôi xuất trại, bốn thùng quần áo vẫn ở trong tình trạng mất luôn và ba bao tải sách vẫn vô thừa nhận.
Từ đó ba bao tải sách di tản cùng chúng tôi qua những ngôi nhà ở tạm, ở nhờ, ở thuê. Từ trung tâm thành phố đến ngoại ô. Ba bao sách đương nhiên được coi như hành lý cần thiết được mang vác theo. Hữu ích lắm, cả năm sau, người lớn, trẻ con trong nhà cho đến cả chị giúp việc, cũng thấy được hưởng những cuốn sách đó. Có cuốn còn rất mới, nhưng có cuốn rất cũ, giấy ố vàng, mỏng mảnh, dễ rách. Như cha mẹ tôi thì tối tối đọc lại Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Ðông Chu Liệt Quốc, Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Gia Huấn Ca (Các cụ chắc biết mấy truyện này lâu rồi). Tôi thì sáng trưa chiều gì cũng có một cuốn cầm tay, quên cả ăn. 
Giữa những năm ở tuổi tóc chưa dài tới lưng, tôi đã đọc không biết bao nhiêu cuốn sách: Sách của Tự Lực Văn Ðoàn, của Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng; Sách dịch như: Tâm Hồn Cao Thượng, Những Kẻ Khốn Cùng…
Thơ Nguyễn Bính thì tôi thuộc nằm lòng không thiếu bài nào. Tôi thuộc cả tập Ðồi Thông Hai Mộ nữa. (Một số sách vẫn được giữ lại cả mấy năm sau).
Cả ngày cứ ê a đọc: Anh Ðinh Lăng giờ đây đâu nhỉ/Anh của em yêu quý nhất đời. Rồi: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn.
Trong nhà có ai cần hỏi câu gì về chữ nghĩa thơ văn là có tôi “hướng dẫn” ngay.
Chị giúp việc nhà tôi thì mỗi lần nhóm bếp là xé ngay một quyển sách, không cần biết sách mới hay cũ, Tây, Tàu hay Việt gì cả. Có lần tôi xuống bếp gặp chị đang xé tập truyện ngắn mỏng của Thạch Lam, tôi hốt hoảng giật ra khỏi tay chị thì cuốn sách đã bị thần hỏa thiêu hết một nửa rồi, đành ngậm ngùi đưa trả lại chị, vì giữ cũng chẳng làm gì được nữa.

Mấy anh chị em tôi, chỉ có tôi là người mê sách, thích chạm tay vào chữ từ hồi còn rất bé, nên tôi được hưởng hết những lợi lộc từ ba cái bao gạo đựng sách di tản vào nhà tôi, Các anh chị, chỉ cầm lên, bỏ xuống, hoặc họa hoằn lắm mới đọc một nửa quyển. Người thứ hai được lợi là chị giúp việc nhà, cứ vớ đại quyển nào mong mỏng dễ xé giấy làm mồi nhóm bếp là chị xé. Chị còn kéo hẳn một bao vào trong bếp cho tiện tay.

Trái: Mỗi người di cư đều mang theo một hình tượng nào đó về niềm tin tôn giáo của họ. Niềm tin này cho họ sức mạnh trên đường trốn chạy. 

Phải: Nấu ăn kiểu miền Bắc Việt Nam, mắt chim, cánh dơi, đầu cá, tất cả nấu thành một loại nước lèo để ăn bún. (Hình Người Việt, chụp từ cuốn “Deliver Us From Evil” của Bác Sĩ Tom Dooley) 

Nhờ có ba bao tải sách đó mà tôi đã được thấm vào tâm hồn tuổi thơ của mình những tinh túy của văn chương sách vở. Nó thấm một cách tự nhiên, như mưa rơi xuống mặt đất và lúc đó bé quá tôi nào có biết mình được lợi lộc như vậy.
Những tinh tế trong văn chương của Nhất Linh, lãng mạn dịu dàng của Thạch Lam đến nổi loạn của Vũ Trọng Phụng. Những cuốn sách mà những đứa trẻ ở tuổi tôi lúc đó không có cơ hội được đọc.
Tôi học được sự giáo dục về lòng nhân ái, tấm lòng cao cả của người nghèo và đạo đức trong Tâm Hồn Cao Thượng, do Hà Mai Anh dịch; chuyện người đàn ông ăn cắp một mẩu bánh mì cho cháu bị 19 năm tù, rồi bị theo dõi suốt một đời cho đến chết trong Những Kẻ Khốn Cùng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch.
Bâng khuâng, thương xót hay cảm động, hồi hộp, phân biệt giữa xấu và tốt, tôi cũng điều được hưởng từ tuổi thơ qua văn chương.
Tất cả lần lượt chất vào tâm hồn tôi như người ta xếp những món nữ trang quý giá vào một cái hộp bí mật, rồi cất đi. Tôi không hề biết tâm hồn tôi chính là cái hộp quý đó cho đến khi trưởng thành, được học, được thầy giáo dạy văn chương. Tôi mới biết là mình may mắn được đọc những áng văn chương đó trước tuổi.
Càng lớn tuổi tôi càng hiểu: văn chương là một phần đời sống của mình, không tách rời ra được. 
Sáu mươi năm rồi, mỗi lần nhớ lại những ngày đầu tản cư. Mỗi buổi trưa, đi học về, lục một cuốn sách trong cái bao tải đó, kiếm một chỗ vắng người ngồi đọc. Chao ôi là thích! 
Những thế giới kỳ bí mở tung từng cánh cửa bằng giấy cho một cô bé lên 10. 
Tôi cám ơn biết bao, người nào đó đã để lại ba cái bao tải sách đó trên bãi hành lý của cả mấy trăm gia đình, mà chỉ có nhà tôi kéo về.
Mưa đã thấm xuống đất, đất mềm mại, đất hiền hòa và đất cho những hạt giống nẩy mầm, sinh hoa kết trái.

Trần Mộng Tú

Đi lại ‘Hành Trình Sang Phía Tự Do’

Hà Giang

Hà Nội những ngày cuối năm 1954 im lìm, ảm đạm giữa mùa Ðông lạnh giá.
Hà Nội những ngày ấy đã vắng hẳn một lớp người; thay vào đó là sự xuất hiện của những khuôn mặt lạ – đầu đội nón cối làm bằng nan tre, chân mang dép “Bình Trị Thiên.” 

Bốn thủy thủ của chiến hạm USS Bayfield cầm biểu ngữ đón chào người dân di cư lên tàu vào Nam tại Hải Phòng, 3 Tháng Chín, 1954. (Hình: US Navy Department)

Không còn những tiếng guốc reo vui, người Hà Nội giờ đây rón rén rỉ tai nhau về những “chính sách” mới được ban hành. “Cán bộ” ngập tràn đường phố, nhìn mọi người với cặp mắt soi mói, dò xét. Chiếc áo dài duyên dáng và khăn san thướt tha của thiếu nữ Hà Nội cùng những khuôn mặt tươi cười đột nhiên biến mất, thay vào đó là một loạt phụ nữ trong đồng phục mới, áo sơ mi, quần đen, và nét mặt đăm chiêu khép kín.

“Hành Trình Tới Tự Do”
Chỉ trước đó không lâu, trên một chiến hạm ở đâu đó phía Tây Thái Bình Dương, Ðô Ðốc Lorenzo S. Sabin của Hải Quân Hoa Kỳ nhận một mệnh lệnh bất ngờ: Chỉ huy Lực Lượng Ðặc Nhiệm 90, thi hành “Chiến Dịch Hành Trình Tới Tự Do” – Operation Passage to Freedom.

Một thủy thủy đỡ hộ quang gánh cho một người đàn bà di cư đang lên chiến hạm USS Bayfield để được đưa vào Sài Gòn, 3 Tháng Chín, 1954, tại Hải Phòng. (Hình: US Navy Department)

Ðô Ðốc Sabin không có nhiều thời gian chuẩn bị, Hành Trình Tới Tự Do bắt đầu từ ngày 8 Tháng Tám, 1954, với nhiệm vụ: Vận chuyển an toàn nhất, nhanh nhất, và nhiều nhất số người Việt Nam muốn di cư vào miền Nam.
Phản ứng tức thời, Ðô Ðốc Sabin yêu cầu sự hỗ trợ của tình báo Hoa Kỳ (lúc đó chưa đầu tư nhiều vào Việt Nam) và tình báo Pháp (vốn không còn thiết tha lắm trong việc hỗ trợ người Mỹ) để tìm hiểu tối đa về một đất nước mà trước đó ông không hề dính líu.
Tin tình báo cho biết, dù đã ký Hiệp Ðịnh Geneve, Việt Minh không muốn đồng bào miền Bắc bỏ đi, và sẽ tìm đủ mọi cách để ngăn cản. Tin tức nói rằng, Việt Minh có thể sẽ đặt mìn ngầm gần các cảng nơi người di cư sẽ được Hoa Kỳ đưa lên tàu chở vào Sài Gòn; quan trọng hơn, quân đội Trung Cộng rất có thể sẽ giúp người cộng sản cản trở đoàn người di cư.
Theo Ronald B. Frankum, tác giả cuốn “Operation Passage to Freedom, The US Navy in Vietnam, 1954-1955,” chỉ trong vòng hơn một tuần lễ, Ðô Ðốc Sabin đã soạn xong chương trình hành động và chỉ thị dài hơn một trăm trang, phân phối ngay cho các đơn vị liên quan để mọi nơi bắt đầu thi hành.
Ở miền Bắc, Hải Phòng được cho là cảng lý tưởng để đón người di cư. Ðơn Vị Kiểm Soát (Control Unit) được lệnh nghiên cứu lòng biển và bãi biển gần nơi Hoa Kỳ sẽ cho neo tàu “há mồm” đón đoàn người di cư. Ở miền Nam, họ được lệnh rà soát và phá mìn gần sông Bạch Ðằng, nơi các chiến hạm Hoa Kỳ sẽ cập bến, đổ người xuống lòng thành phố Sài Gòn. 
Trên khắp Biển Ðông, thuyền trưởng của hơn 110 chiến hạm lớn nhỏ nhận lệnh khẩn cấp: Trong thời gian ngắn nhất, tự lo liệu để điều chỉnh tàu của mình thành tàu chuyên chở, có khả năng vận chuyển và săn sóc sức khỏe cho hàng ngàn người, chuẩn bị cho một nhiệm vụ bí mật mang tên gọi “Chiến Dịch Hành Trình Tới Tự Do.”
Chiến Dịch Hành Trình Tới Tự Do của Hải Quân Hoa Kỳ được hoạch định chu đáo đến nỗi, mỗi một chiếc tàu đến Hải Phòng đều phải có đầy đủ nhân viên y tế, và phải có ít nhất một người nói lưu loát tiếng Việt, thêm một người nói lưu loát tiếng Pháp. Tất cả thủy thủ đoàn được dặn dò kỹ lưỡng, phải đối xử tử tế ân cần với người di cư, để “làm nổi bật lòng nhân đạo của quân đội Hoa Kỳ trước sự tàn ác của cộng sản.”
Từ chiến hạm USS Montague đang lênh đênh ở Philippines, một bác sĩ quân y viết trong hồi ký: “Chúng tôi được lệnh phải đến Hải Phòng, Việt Nam, vào ngày 12 Tháng Tám, cắm sào ở đó, chờ nhận chỉ thị về Chiến Dịch Hành Trình Tự Do, và được dặn đây là một công tác mật, không được tiết lộ. Việc giữ bí mật thật ra không khó, vì chẳng một ai biết tí gì về chiến dịch này, càng không biết mình phải đưa ai đi tìm tự do, đi từ đâu, và tại sao.”
Hồi ký của Bác Sĩ Tom Dooley, “Deliver Us From Evil” ố “Xin Cứu Chúng Con Khỏi Mọi Sự Dữ” – xuất bản năm 1961, viết rằng, tuy chưa nhận chỉ thị, Thuyền Trưởng William Cox xem ra hiểu rất rõ mình sẽ phải làm gì. Ông ra lệnh cho thủy thủ đoàn, trong vòng vài ngày phải biến USS Montague thành tàu chở người, và phải chứa được 2,000 hành khách, con số được lệnh trên đưa xuống, tính theo sức chứa của tàu.
USS Montague dài 460 feet, có 5 kho chứa hàng lớn, mỗi kho cao 3 tầng. Các kho này dùng để chứa xe vận tải, bình chứa nhiên liệu, và những loại xe khác dùng cho việc đổ bộ, vì thế không có lỗ thông hơi.
Trong vòng một tuần lễ, toàn bộ thủy thủ đoàn bận rộn với tiếng búa, tiếng cưa và tiếng người chỉ huy. Tất cả mọi tài sáng tạo của thủy thủ đoàn được vận dụng vào việc tạo môi trường thoải mái nhất cho “hành khách.” 

Tuyên Úy Hải Quân Hoa Kỳ, Francis J. Fitzpatrick, giúp phiên dịch cho một phụ nữ di cư trên tàu USS Bayfield, trong cuộc hành trình từ Hải Phòng vào Sài Gòn, Tháng Chín, 1954. (Hình: US Navy Department)


Bác Sĩ Tom Dooley hài hước: “Tác phẩm đặc sắc nhất của Thuyền Trưởng Cox là hệ thống nhà vệ sinh: những thùng chứa dầu được chẻ dọc làm đôi, hai đầu hàn lại với nhau, trên đó là chỗ ngồi bằng gỗ với những lỗ tròn được khoét cho vừa mông người ngồi. Sau khi chỗ ngồi được cắt xong, ông thuyền trưởng đi một vòng kiểm soát, và ra lệnh nhân viên dùng giấy nhám làm cho mịn để người ngồi khỏi bị dằm đâm vào. 
Nếu lúc đó ông biết kiểu ngồi xổm khi đi đại tiện của người Á Ðông thì có lẽ đã không nhọc công như thế.”
USS Montague đến vịnh Hạ Long vào ngày 14 Tháng Tám, 1954. Vài chiếc tàu khác thả neo cùng ngày. Sáng sớm 15 Tháng Tám, có năm chiến hạm xếp hàng. USS Montague đứng đầu, và USS Menard đứng vị trí thứ 5. Với bảng hiệu sẵn sàng, chúng tôi hồi hộp chờ đón đoàn người di cư đầu tiên bước chân lên tàu.

Vượt thoát
Trên nguyên tắc, Hiệp Ðịnh Geneve quy định rằng mọi người được tự do chọn thể chế nơi mình sẽ sinh sống, và bất cứ ai muốn di cư vào Nam sẽ được ung dung ra đi cho đến hết đến Tháng Năm, 1955.
Trên thực tế, khắp các nẻo đường, nhất là những thành phố nhỏ, nơi không có sự hiện diện của các quan sát viên quốc tế, Việt Minh luôn lén lút tìm cách ngăn cản, ruồng bắt người muốn ra đi, khiến họ phải liều chết tìm đường lẩn trốn.
Ðể tránh bị dòm ngó, theo dõi và ngăn cản, rất nhiều gia đình phải chia nhau ra thành từng nhóm nhỏ mà đi. Chẳng hạn, trong trường hợp mình, nhà văn Mặc Giao kể lại trong bài viết “Cuộc Trốn Chạy của Gia Ðình Tôi:” “Gia đình tôi phải đi Hải Phòng làm hai đợt. Ðợt đầu bố tôi dẫn tôi và hai em trai đi theo. Mẹ tôi, chị họ tôi và hai em nhỏ phải đợi đi đợt sau. Chúng tôi đi xe hàng lên Hà Nội rồi từ đó đi xe hỏa xuống Hải Phòng. Hà Nội đã được Việt Minh tiếp thu từ tháng 10. Muốn đi Hải Phòng phải có giấy phép vì là đi vào vùng địch còn kiểm soát.”
Ông kể lại cảnh người di cư bị trấn lột tại ranh giới giữa hai vùng kiểm soát: “Ðịa điểm ranh giới giữa hai vùng kiểm soát là ga Ðỗ Xá thuộc tỉnh Hải Dương trên quốc lộ số 5. Tại ga này, trước khi sang vùng địch kiểm soát, mọi hành khách đều bị lục xét tỉ mỉ. Nhiều phụ nữ và trẻ em bị lột quần áo để khám xem có dấu vàng và tiền Ðông Dương Ngân Hàng trong người hay không. Vàng và tiền Ðông Dương bị tịch thu hết. Nhiều người khi bị lột hết vàng và tiền đã khóc lóc quay về, không dám đi Nam khi chỉ có hai bàn tay trắng.”
Cảnh Việt Minh tìm cách ngăn cản người di cư ở các nhà ga cũng được Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức viết lại trong bài “Từ Bắc Kỳ Di Cư tới Tỵ Nạn Chính Trị,” phổ biến Tháng Tư, 2004: “Ngày ngồi trên xe lửa từ Hải Dương xuống Hải Phòng tôi mới thực vất vả, và chứng kiến nhiều bi hài kịch. Tàu đậu ở nhiều ga dọc theo đường số 5 để lấy thêm khách, mà hầu hết là xuống Hải Phòng để vào Nam bằng tàu biển há mồm. Cán bộ địa phương được tung ra để gây trở ngại cho người di cư. Thôi thì họ khóc lóc, níu kéo ở lại, ngăn cản người ta lên tầu. Cũng có những người lớn tiếng chửi mắng “đi liếm chân đế quốc, đi làm Việt gian cho giặc Pháp.” Rồi lôi kéo đồ đạc đánh đập cho bõ ghét.
Nhưng những người may mắn cũng đã vượt thoát được đến Hải Phòng.
Bác Sĩ Tom Dooley kể lại trong hồi ký của mình, rằng ông cùng nhiều thủy thủ khác “hết sức sửng sốt khi đón đoàn người di cư đầu tiên.” “Một ‘tàu đổ bộ xe tăng’ của Pháp đang từ từ đến gần. Nhìn vào trong, tôi giật mình hãi hùng: hơn 1,000 người đứng dúm vào nhau trên boong, chồng chất lên nhau như gà vịt trong một cái chuồng chật hẹp. Họ ướt mèm, say sóng và ngất ngư vì nắng. Họ câm nín vì sợ hãi, con nít ngồi chen chúc giữa lòng người lớn.” 
“Tàu Pháp đến cạnh tàu chúng tôi, một chiếc cầu thang được thả xuống boong. Người ta bảo người di cư bước lên, tôi thấy họ do dự vì sợ hãi. Sau này hỏi ra mới biết là họ đã bị tuyên truyền rằng người Mỹ man rợ và vô nhân đạo, rằng người Mỹ sẽ mang họ ra khơi để xô hết xuống biển.”
Bác Sĩ Dooley kể tiếp: “Một cụ già, có lẽ là đoàn trưởng, phản ứng trước. Cụ đứng dậy một cách khó khăn. Cụ đội nón lá và cầm một cái điếu cày. Tay kia, cụ ôm chặt một khung hình đức Mẹ Maria đã sứt mẻ. Hiển nhiên đây là hai thứ rất quý giá, và có lẽ là tài sản duy nhất cụ mang theo. Cụ bước đi vài bước đầu, rất quả quyết, nhưng sau khi nhìn qua khe thang xuống mặt biển, cụ khựng lại, chân như bị đóng băng. Khi ngước lên, nét mặt nhăn nheo của cụ tỏ lộ biết bao nhiêu điều: Ðói lả, sợ hãi trước biển cả mênh mông, và hoảng sợ với tương lai bất định trước mắt. Lưng cụ còng xuống như đã phải chịu đựng một gánh nặng lâu đời, khi cụ lo lắng ngả nón ra, trên đầu cụ có từng đám chốc lở. Xương cụ giơ ra, một hình ảnh thảm hại mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy trên đời. Việt Nam là thế này ư?”
Thế rồi, đoàn người ngập ngừng bước theo, lên boong: “Trên những con thuyền chỉ chở tối đa 25 người, đêm nay chúng tôi chất cả hàng trăm người. Thuyền chúng tôi lặng lẽ rời bờ, hướng về biển Ðông, im lặng như màn đêm. Chuyến đi kéo dài năm ngày năm đêm. Không thể đốt lửa vì củi quá ướt, chúng tôi buộc phải ăn cơm sống. Trà thì bị ngập nước biển không còn uống được nữa. Không ai uống nước trong suốt mấy ngày, nhiều trẻ con và phụ nữ chết lả vì đói và khát.” 

Một thủy thủ trên chiến hạm USS Bayfield chia nước uống cho dân di cư trong cuộc hành trình từ Hải Phòng vào Sài Gòn, Tháng Chín, 1954. (Hình: US Navy Department)

Ký giả Gertrude Samuels viết trong phóng sự đặc biệt trên tạp chí National Geographic xuất bản Tháng Sáu, 1955, rằng, “Bệnh sốt rét và tình trạng suy yếu sức khỏe nói chung đã khiến nhiều người thiệt mạng. Tình trạng sức khỏe của nhiều người Việt Nam khi lên đến tàu há mồm của Mỹ được mô tả là thảm hại. Nhiều người đã phải liều mạng vượt những chặng đường dài rất nguy hiểm và gian nan để đến được trung tâm tiếp cư.”

Trên tàu há mồm
Với người di cư, lên đến được tàu há mồm là đã vượt được hơn 2/3 chặng đường gian khổ. Với nhiều thủy thủ Hoa Kỳ phục vụ trong những chiếc tàu này, tham gia chiến dịch Passage to Freedom là một “kinh nghiệm nhớ đời.”
Thủy thủ Warren Carara, phục vụ trên chiến hạm USS Skagit, kể lại: “Tôi còn nhớ mãi cái nóng kinh khủng, những con người đói lả, mùi hôi nồng nặc của khu nhà vệ sinh, và mỗi chuyến ra Hải Phòng hay vào Sài Gòn là một kinh nghiệm mới tinh khôi. Tôi nhớ đã dẫn mấy em bé trai vào nhà tắm, giúp các em tắm rửa, rồi thưởng cho các kẹo chewing gum sau khi tắm xong. Chưa thấy chewing gum bao giờ, có em nhai cả giấy.”
“Nhưng nhớ nhất là khi tôi giúp một bà cụ với đôi quang gánh và hai thúng rất nặng leo lên tàu. Cụ chắc không nặng tới 36 ký, trong khi đó tôi nặng 84 ký và tự hào là mình rất lực sĩ. Nhưng đến lúc tôi cúi xuống tìm cách nâng đôi gánh lên cho cụ và xiểng liểng vì quá nặng thì mới bị… quê mặt. Dĩ nhiên hôm đó tôi bị các bạn cười cho một trận quá xá.”
Một người di cư trên USS Skagit năm xưa, ký tên là Henry Ðỗ, viết: “Tôi không thể quên được giây phút đầu tiên bước lên một chiếc tàu Mỹ để vào Nam. Một thủy thủ cho tôi viên kẹo. Lúc ấy, tôi không cám ơn được bằng tiếng Anh. Trời ơi! Sao mà ngon thế. Viên kẹo ngon nhất trần đời. Hai mươi mốt năm sau, giây phút cảm động là khi tôi nhìn thấy lại viên kẹo ấy ở… đất Mỹ. Giờ đây tôi tha hồ ăn kẹo, nhưng tôi không ăn nhiều. Tôi ăn lại viên kẹo ấy chỉ vì muốn nhớ đến người thủy thủ và chiếc tàu đã đưa tôi và gia đình đến vùng đất tự do.”
Ký giả Gertrude Samuels kể lại cảnh chiến hạm USS Mountrail đón người ở Hải Phòng: “Gần tàu, những biểu ngữ lớn đón chào đoàn người di cư bằng 3 thứ tiếng: “Good luck on your passage to freedom.” Chúc bạn may mắn trên đường tìm tự do. Thiện nguyện viên trao cho mỗi gia đình một gói quà đón mừng, gồm xà phòng, khăn tắm, kem đánh răng và những hộp sữa có dòng chữ ‘Món quà từ người dân Hoa Kỳ đến người dân Việt Nam.’ Nhưng chẳng ai có vẻ để ý đến biểu ngữ, họ nhận món quà mà không phản ứng gì, như thể những gì xảy ra trong thời gian qua đã làm họ mất hết cảm xúc.”
Bác Sĩ Tom Dooley, với ngòi bút tỉ mỉ của người viết nhật ký, ghi lại từng chi tiết hành trình vào Sài Gòn của chiến hạm USS Montague: “Nhiều người trong số họ mang trên vai quang gánh bằng tre với hai chiếc thúng lớn chứa đầy đồ. Toàn bộ tài sản của họ được chứa trong quang gánh ấy. Thường là một ít quần áo, bát ăn cơm, đũa, một vài bức tượng, hay hình ảnh tôn giáo. Nhiều người sợ đến nỗi không giám nhìn thẳng vào mặt chúng tôi. Có người vừa gánh quang gánh vừa cõng con trên lưng, ngay cả trẻ em cũng đứa lớn bồng đứa bé. Trẻ em trông thật hồn nhiên, nhưng cũng thoáng nét sợ hãi.”
“Hiểu được hành trình nguy hiểm và khó khăn họ vừa vượt qua, chúng tôi không ngạc nhiên khi thấy chẳng ai cười. Già trẻ theo nhau leo cầu thang, rồi lọt thỏm vào bụng khổng lồ của chiến hạm với những gánh hành lý tội nghiệp. Khó mà diễn tả được nỗi ấm lòng, khi vài giờ đồng hồ sau, chúng tôi bắt đầu nhìn thấy được lác đác những nụ cười e thẹn, trước tiên là ở trẻ em, rồi sau đó cả những người lớn tuổi. Dường như hành khách của USS Montague đang bắt đầu bình tâm.”
“Chúng tôi báo cho nhà bếp biết họ hân hạnh được nấu cơm cho hơn 2,000 hành khách. Một số thanh niên Việt Nam trông khỏe mạnh và tươm tất được chọn để phụ dọn thức ăn. Chúng tôi dự định chỉ phục vụ ngày hai bữa ăn, nhưng bữa ăn nọ dính vào bữa kia, thành thử hàng người đứng chờ lấy phần ăn dài liên tục suốt ngày.”
“Thoạt tiên nhà bếp nấu cơm theo kiểu Mỹ, tức là cơm rời từng hạt, nhưng hơi ngượng khi thấy không người Việt Nam nào thích ăn cơm nấu như vậy. Chúng tôi nhanh chóng mời một hai người Việt vào bếp phụ nấu cơm, và từ những bữa ăn sau đó, họ ăn một cách thích thú, và sau khi no nê, còn nắm thành từng nắm bỏ vào túi xách, để dành.”
Cái nóng như thiêu đốt của Việt Nam, cộng thêm số lượng người quá lớn trên tàu, gây nên nhiều cảnh thương tâm trên hành trình đi về phương Nam.

Người di cư lên tàu há mồm tại Hải Phòng để được đưa vào Nam theo chiến dịch ‘Passage to Freedom’ của Hải Quân Hoa Kỳ năm 1954. (Hình: US Navy Department)

Bác Sĩ Dooley kể: “Cái nóng làm chúng tôi khó thở, và mùi hôi xông lên nồng nặc. Mọi người ói mửa khắp nơi trên tàu. Không ai biết dùng hệ thống nhà vệ sinh mà Thuyền Trưởng Cox đã khổ công sáng chế. Kéo tôi qua một bên, Thuyền Trưởng Cox chỉ vào những nhóm người đang ngồi xổm thay vì đặt mông vào những vòng tròn mà ông đã bắt các thủ thủy cắt đóng, và dùng giấy nhám làm cho nhẵn. Quên mất cấp bậc của mình, tôi bật lên cười ngặt nghẽo. Ðó là thói quen của họ, chúng tôi không thể làm gì được.”
“Tôi săn sóc bệnh nhân gần như đằng đẵng suốt ngày. Chẳng bao lâu, tôi tuyển mộ được vài em trẻ tuổi giúp mình, và sau một vài chỉ dẫn đơn giản, các em đã trở thành những phụ tá đắc lực, nhanh nhẹn trong việc phát thuốc, lau vết thương, thậm chí cả bôi thuốc đỏ vào đúng chỗ.”
Sự khác biệt văn hóa cũng là một vấn đề của chuyến hải hành. Vẫn theo Bác Sĩ Dooley, “thuyền đi chưa được bao lâu, một binh sĩ hải quân cho tôi biết ở khu thứ 5 (kho chứa thứ 5) có một em bé sắp chết, hình như vì bị dịch tả. Em qua đời trước khi tôi kịp xác định đúng là em bị dịch tả. Ðể giữ an toàn cho mọi người, chúng tôi quyết định cử hành thủy táng ngay lập tức, và quyết định này suýt nữa khiến hành khách trên tàu nổi loạn. Thân nhân của bé thi nhau đòi nhảy xuống biển theo xác con em. Phải mất ba bốn người thủ thủy lực lưỡng mới giữ họ lại được. Tôi nhờ người thuyết phục họ uống trà, và chỉ vài phút sau họ ngủ gục thanh bình trên boong tàu. Tôi đã lén bỏ vào trà của họ một ít thuốc an thần.”
“Ðể cuộc hành trình bớt phần tẻ nhạt, chúng tôi tổ chức cuộc thi hoa hậu, rồi thuyền trưởng chọn một bà di cư làm “Hoa Hậu của Hành Trình Tự Do.” Hoa hậu được mặc áo choàng trắng lấy từ phòng y tế, đội vương miện do các chàng trai trong toán kỹ thuật sáng chế, ngồi trên ngai vàng do toán thợ mộc đóng, và được nhà bếp tặng thêm một phần trái cây. Tất cả những ưu đãi này làm hoa hậu đẹp lòng, và hoa hậu thưởng chúng tôi bằng nụ cười tươi, khoe hàm răng đen nhánh và đôi môi đỏ rực vì vôi ăn trầu.”
“Sau vài ngày thì hầu như các em đều bu lấy các thủ thủy trẻ và nhìn mọi việc làm với những đôi mắt vừa tò mò vừa thích thú và những tràng cười giòn giã. Nếu quên đi hoàn cảnh của các em, chúng tôi ngỡ đã có lúc thoáng thấy hạnh phúc trên những khuôn mặt non trẻ. Tại sao không nhỉ? Cả đời các em chưa bao giờ được những người thủ thủy to lớn mặt đỏ gay vì nắng, ra sức cưng chiều.”
“Rồi tự nhiên có một hiện tượng lạ, bánh mì, kẹo, nước ngọt không biết ở đâu xuất hiện. Hóa ra các thủ thủy thi nhau vào nhà kho xin thực phẩm để săn sóc các em của mình. Hình ảnh một người thủ thủy nổi tiếng là nóng tính và cộc cằn đang bồng một đứa bé khoảng bốn năm tuổi, tung em lên không cho em cười ngặt nghẽo, rồi đút một cây kẹo Baby Ruth vào cái miệng đầy răng sún của em, khiến tôi xúc động. Tình người vượt được mọi biên giới.”
“Mỗi buổi sáng sớm trong hành trình ba ngày của chúng tôi, một vị linh mục làm lễ, và tự nhiên nhìn cảnh những người tị nạn đáng thương quỳ gối làm dấu, cầu nguyện rồi cất tiếng hát để cám ơn Thiên Chúa của họ, tôi chảy nước mắt. Chúa của họ có lẽ lúc này đang bận rộn ở đâu nên mới để họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn này. Nhưng niềm tin tôn giáo mãnh liệt của họ làm chúng tôi thấy mình nhỏ bé trước thượng đế.”

Cập bến tự do
“Gần trưa của ngày thứ ba lênh đênh trên biển, chúng tôi đã đến sông Sài Gòn. Vài giờ sau, USS Montague cập bến.”
“Chia tay thủ thủy đoàn đã chinh phục được cảm tình của họ chỉ trong hành trình ba ngày ngắn ngủi, đoàn người tị nạn mệt mỏi nhưng có vẻ tỉnh táo hơn trước đây, líu ríu theo chân nhau xuống thuyền. Chúng tôi lại giúp đưa quang gánh và thúng mủng của họ xuống. Nhiều bà mẹ chuyền con xuống trước. Nhưng đa số các trẻ em ôm chặt lấy người thủ thủy ưa thích của mình đến giây phút cuối cùng. Chúng tôi chờ cho hành khách tị nạn được phái đoàn giúp định cư đến đón rồi mới chuẩn bị quay tàu trở lại hướng Hải Phòng. Hành trình ba ngày vừa đủ thời gian cần thiết để thủy thủ đoàn tổng vệ sinh tàu trước khi đón loạt hành khách thứ hai.”

Bác Sĩ Tom Dooley săn sóc các người tị nạn trong một trại tị nạn tại Hải Phòng, 1954. (Hình Người Việt, chụp từ cuốn “Deliver Us From Evil” của Bác Sĩ Tom Dooley)

“Hơn 2,000 hành khách đầu tiên của USS Montague đã đến bờ tự do. Giây phút lịch sử này, của đời họ, và của Việt Nam, chỉ có đám thủ thủy chúng tôi và bờ sông Sài Gòn chứng kiến.”
Ngày 13 Tháng Năm, 1955, thành phố Hải Phòng bị Việt Minh tiếp thu. Khi những người lính Pháp cuối cùng rời vịnh Hạ Long ngày 22 Tháng Năm, 1955, Việt Minh hoàn toàn làm chủ miền Bắc.
Ðó cũng là thời điểm chấm dứt thời hạn 300 ngày mà người miền Bắc có thể tự do vào Nam. (H.G.)

Hà Giang

68 năm nhìn lại cuộc di cư 1954- Vĩnh Biệt Hải Phòng

Kính dâng hương hồn Cậu Mợ, với lòng tri ân sâu xa. 

Trùng Dương

 Hiệu đính tháng 7/2022

Khi cuộc Di Cư 1954 diễn ra, tôi vừa lên 10 tuổi, đang sống với gia đình ở Hải phòng, cái thành phố hải cảng đã trở thành chặng cuối cùng đối với hàng trăm ngàn người Việt miền Bắc muốn di cư vào Nam thay vì ở lại sống dưới sự cai trị hà khắc phi nhân bản của Việt Minh, tên gọi của những người cộng sản hồi ấy. 
Cũng cái thành phố hải cảng này đã là nơi Bác sĩ Trung úy Hải quân Mỹ, Thomas A. Dooley, và vài quân nhân Mỹ đã làm việc trong suốt 11 tháng, từ giữa tháng 8 năm 1954 tới giữa tháng 5 năm 1955, để giúp dân tị nạn ổn định sức khỏe trước khi gửi họ lên tầu Mỹ di cư vào Nam. Kết quả của thời gian hoạt động này đã được Bác sĩ Dooley ghi lại trong cuốn hồi ký “Deliver Us From Evil” (“Xin cứu chúng tôi khỏi mọi sự dữ”, trích từ một câu trong Kinh Lạy Cha của tín đồ Thiên Chúa giáo) xuất bản vào năm 1956.(*) Cuốn sách, mô tả, với sự quan tâm chân thực, xót xa của một vị lương y mới ra trường, những giao tiếp của ông với dân di cư từ các vùng quê đổ về, phần lớn là những giáo dân thuộc đạo Thiên Chúa, đói rách và bệnh hoạn, và nghe kể về những cảnh huống tàn bạo ngoài sức tưởng tượng mà những người dân quê phải gánh chịu do những người cộng sản cuồng tín gây ra. 

Cha mẹ tôi không có ý định di cư vào Nam. Cha mẹ tôi nguyên là con nhà nông thuộc giới điền chủ. Ông bà cùng sinh ra vào khoảng năm 1910, và lớn lên ở làng Trình Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Cha tôi là con trai duy nhất trong một gia đình gồm năm chị em. Ông học lực chỉ xong được bằng tiểu học, và với tí vốn liếng học thức đó, ông được bầu làm lý trưởng, hay xã trưởng, thời vua chúa xưa là hương mục, có trách nhiệm trông coi tài sản công và tư của làng. Hồi còn nhỏ tôi nghe mẹ tôi kể chuyện là, vì ông có máu mê cờ bạc, nên có cái triện để đóng dấu trên những giấy tờ sang nhượng ruộng đất bà nội tôi nắm giữ luôn, còn cẩn thận cuốn trong ruột tượng quấn quanh bụng suốt ngày đêm cho chắc ăn, để ông không tự do bán ruộng đất của gia đình. Do đấy, mỗi lần có ai tới xin ông lý trưởng đóng nhận một sang nhượng bất động sản nào đó, ông lại phải nói với mẹ cho mượn cái triện. Có lẽ cái say mê nhất của ông là xe hơi và máy móc mà những lần ra tỉnh chơi ông đã thấy, và có để ý theo dõi việc làm ăn của một ông chú của tôi, chủ một hãng xe đò ở Hà Nội. 


Tôi không nhớ ông bà quyết định dọn ra tỉnh vào năm nào, vì chỉ có ở tỉnh ông mới được thoả mãn lòng say mê máy móc xe hơi, song căn cứ vào năm và nơi sinh, là tỉnh Sơn Tây, của các anh chị kế tôi, thì có lẽ vào khoảng năm 1940 hay trước đó đôi năm. Tóm lại trong đám anh chị em 11 đứa tụi tôi thì ba người đầu sinh ở quê, năm người, trong đó có tôi là thứ bẩy, ra đời ở Sơn Tây, và ba đứa em cuối cùng sinh ở Hải Phòng. Thoạt đầu cha tôi làm công cho người ta. Dần dà ông tậu được một cái xe chở hành khách, dậy anh Cả và vài người cháu trai đồng lứa học lái, sửa xe và đi theo làm lơ xe. Có lần, mẹ tôi kể, chiếc xe đò của ông bị quân đội Pháp trưng dụng đi sang tận bên Miên, Lào mà mẹ tôi không được tin tức gì tới hai tuần, cuối cùng ông vể kể chuyện bà mới hay. Ông làm ăn vất vả nuôi một bầy con lúc nhúc. Cũng nhờ sự chịu khó cần cù của ông mà hồi xẩy ra nạn đói năm 1945 giết chết cả triệu người miền Bắc, gia đình tôi lớn bé không có ai bị thiếu ăn cả. 
Trí nhớ của tôi bắt đầu ghi nhận được là lúc gia đình tôi đã dọn xuống Hải Phòng, có lẽ vào cuối thập niên 1940. Nhỏ nên không biết gì về tình hình chiến sự sôi động hồi ấy, nhưng tôi nhớ có lần anh lơ xe hớt hải chạy về giữa ban ngay, nói không ra hơi, báo với cha tôi, vỏn vẹn, “Ông ơi, xe bị mìn lật rồi!” Cha tôi lặng người chết đứng, mẹ tôi ngưng mọi việc đang làm thất thần nhìn cha tôi, trong khi lũ nhỏ chúng tôi biết đã tới lúc đi chỗ khác chơi. 


Cha tôi, như nhiều người Việt khác, là người có khả năng sinh tồn mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại và bất hạnh của đời sống để lo cho gia đình. Vào các năm trước cái gọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi tiếp theo là việc ký kết Hiệp định Genève vào mùa hè năm 1954 giữa Pháp, chính phủ Bắc Việt của Hồ Chí Minh, Lào, Trung Cộng, Liên Xô và Anh (Hoa Kỳ từ chối không ký, còn chính phủ Nam Việt Nam không nằm trong những phe ký nên không chấp nhận Hiệp định đình chiến này) được ký kết, cha tôi đã làm chủ một hãng xe chở hành khách gồm cả xe đò và xe nhỏ, hình như hiệu Citroen, không rõ tại sao gọi là xe lô-ca-xông, tôi đoán từ chữ “location”, ngược xuôi các tuyến đường Hà Nội – Hải Dương – Kiến An – Hải Phòng và Hải Phòng – Đồ Sơn, tôi nhớ đại khái thế. Hãng xe của cha tôi tên là Đông Bình, nên nguời ta hay gọi cha mẹ tôi là Ông Bà Đông Bình, chúng tôi là con Ông Bà Đông Bình. Tôi không bao giờ có dịp hỏi tại sao ông chọn tên đó, nhưng nghĩ có lẽ đó là do khao khát được nhìn thấy hoà bình trên giải đất dọc theo bờ biển Thái Bình Dương lâu nay chiến tranh triền miên này. Hai người anh họ con mấy bà bác ruột của tôi cũng mỗi người được cha tôi nâng đỡ tậu được một hay hai xe chở hành khách, tự đặt tên là Bắc Bình và Nam Bình. Tôi không rõ vì sao cha tôi không nghĩ tới việc mua bất động sản, mà suốt thời gian sống ở Hải Phòng ông thuê nhà chứ không mua. Tôi còn nhớ ngôi nhà chúng tôi ở trước khi di cư vào Nam là ở số 3 Ngõ Nghĩa Lợi, một đầu ngõ gặp đường Cát Dài, và đầu bên kia đụng một đường rầy xe lửa nằm bên cạnh một hồ sen mà hình ảnh vẫn còn in trong trí nhớ tôi, mà loài sen là hoa tôi rất thích. Không mua nhà đất có lẽ vì cha tôi thấy không cần thiết vì ông chắc chắn sẽ thừa hưởng nhiều ruộng đất để lại của bà Nội tôi khi bà qua đời. 

Vào những ngày trước khi kết thúc cuộc chiến mà sách vở gọi là Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) và nhiều người trong chúng ta cho là không cần thiết vì sau Đệ nhị Thế chiến đa số các nước thuộc địa đều lần lượt trước sau lấy lại được độc lập mà không cần đổ máu, tin dữ từ nhà quê ra: Bà Nội tôi bị chết sau khi bị trúng một mảnh mợc chê vào đầu trong khi đang trốn dưới một cái phản gỗ vào một đêm nọ. Bà tôi chết khi được 84 tuổi, tuy già nua nhưng cụ còn khá minh mẫn. Mỗi lần nhớ đến Bà Nội thì tôi không thể không nhớ tới một lần về quê ăn Tết, tôi ở miết bên nhà ông cậu ruột vì ở đó có các người em họ cỡ tuổi tôi hay lớn hơn. Đến giờ đi ngủ, bà tôi lụm cụm tay xách cây đèn dầu tay chống gậy sang đón về nhưng tôi không chịu về. Tôi sợ những nét già nua nhăn nheo của bà một phần, nhưng sợ nhất là cái quan tài bằng gỗ sơn đỏ bà sắm sẵn để trong cái gian đầu nhà chuyên để chứa thóc gạo và các đồ lỉnh kỉnh khác. 

Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, chia cắt Việt Nam làm hai, miền Bắc do Việt Minh cai trị, miền Nam sau đó trở thành một quốc gia mới. Người dân hai miền có 300 ngày để chọn nơi mình muốn sinh sống. Quê tôi là một trong những vùng được Việt Minh tiếp thu sớm nhất vào cuối năm 1954. Cha tôi quyết định gửi vợ chồng anh Cả và đứa con gái đầu lòng mới được mấy tháng về nhà quê sống. Cùng đi với anh chị Cả là anh Sáu, tôi và thằng em Chín. Như nhiều chủ gia đình Việt xưa, cha tôi ít khi giải thích lý do ông có một quyết định nào đó, hoặc có thì ông cũng chỉ bàn với anh Cả, vì khi viết bài này tôi hỏi Chị Năm, người chị kế tôi, chị cũng nói không rõ tại sao cha tôi quyết định gửi một số con về quê ngay sau khi đình chiến. Tôi suy đoán là thứ nhất, anh Cả hồi ấy bị động viên, đã mặc đồ lính (tôi còn nhớ, mặc dù hồi ấy chỉ mới 9, 10 tuổi, đã trố mắt trước vẻ đẹp trai khác thường của ông anh trong bộ quân phục mầu rêu khít khao với thân hình và cái nón chào mào cùng mầu), có lẽ là bỏ ngũ về quê sống, có thể là do ý muốn của cha mẹ tôi vì lo cho cậu con cả. Ngoài ra, có thể cha tôi, cũng như đa số người Việt ở thành thị hồi ấy chưa biết gì về hậu quả của các cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu đã và đang diễn ra ở các làng quê nhưng chưa về tới làng tôi, nên ông gửi một số con về quê để tiện thể trông nom ruộng đất chăng. 

Chúng tôi về quê sống được vài tháng vào cuối hè và đầu thu, thì một bữa chị Năm, hồi ấy mới 14 tuổi song tính nhanh nhẹn nên được cha tôi tin cậy giao phó việc đi đi về về đem tiền bạc và thông tin, được cha tôi gửi về bảo thu xếp về Hải Phòng để đi Nam. Để tránh nghi ngờ là có ý định đi Nam và có thể bị bao vây giữ lại, khi ra tới Hànội, lúc ấy cũng đã được tiếp thu, chúng tôi phải giả bộ như sẽ sinh sống ở đó, bằng cách thuê một căn phòng nguyên là lớp học ở trong một nữ tu viện và trường học mà hầu hết nhân sự đã di cư, nằm trên đường Hai Bà Trưng, để ở ít tuần. Anh Sáu và thằng Chín thì đã theo chị Năm về Hải Phòng trước, còn tôi ở lại với gia đình anh chị Cả để giúp trông con cho chị. Để cho màn trình diễn có vẻ thực hơn, tôi còn được ghi danh đi học lớp ba hay tư ở một trường công tại đây. Tất nhiên vì là con nít nên tôi không được cho biết các mưu tính đó của các người lớn. 

Khi chúng tôi chuẩn bị đi Hải Phòng thì tôi được người lớn dặn dò là nếu có ai hỏi đi Hải Phòng làm gì thì nói là đi thăm người nhà sắp đi Nam để khuyên họ ở lại, đừng đi Nam nữa vì nước nhà đã độc lập tự do. Ngoài ra, riêng tôi còn được giao thêm một việc nữa, đó là khi các cán bộ Việt Minh sắp khám đến chị Cả đang bế cháu bé thì tôi phải tìm cách… cấu vào đùi con bé thật mạnh để nó phải khóc ré lên và chị Cả sẽ đưa nó cho tôi bảo bế ra ngoài. Thế nhưng chính việc đó lại làm cho người nữ cán bộ khám chị Cả càng sinh nghi, túm tôi lại và lột lấy hai chiếc giầy trên chân con cháu, lôi ra và tịch thu hai cọc giấy bạc tiền Đông Dương còn mới tinh. Tuy thế, chúng tôi sau đó cũng được phép lên xe đi Hải Phòng, chỉ có mớ tiền ở lại. Của đi thay người, chị tôi ứa nước mắt suýt xoa tiếc của song tự an ủi. Lúc ấy chúng tôi hoàn toàn không biết tới những cảnh tìm đường vượt thoát vô cùng thương tâm của bao nhiêu ngàn con người muốn tìm đường tới Hải Phòng, một thành phố đang hấp hối song vẫn còn là nơi còn cho họ cái hy vọng tới được Đường tới Tự Do – Passage to Freedom – như tên Chiến dịch Đường Tới Tự Do do Hải Quân Hoa Kỳ đảm trách, bên cạnh Pháp và Anh lo phần chuyên chở người vào Nam bằng máy bay.(**) 

Nếu trong cuộc Di cư 1975 và sau đó, câu hỏi của hầu hết người Việt ở Miền Nam, trong một cái xã hội vô vọng mà “đến cả cái cột đèn nếu biết đi thì cũng tìm cách đi”, là làm sao để đi; thì ở thời điểm 1954 tình thế phức tạp hơn, và câu hỏi lớn nhất của họ là nên đi hay ở. Trước hết, một trong những điều khoản của Hiệp định Genève là hai năm nữa, vào năm 1956, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và người dân hai miền Nam Bắc tự định đọat lấy thể chế chính trị thích hợp. Đây chính là điều đã, theo tôi, khiến nhiều người dân miền Bắc quyết định ở lại để chờ cái ngày không bao giờ đến đó, một phần cũng vì quá mệt mỏi với chiến tranh và muốn thấy hoà bình bằng mọi giá, và cũng vì tiếc của, bên cạnh ảnh hưởng bởi một chiến dịch tuyên truyền ráo riết của Việt Minh. Tuyên truyền và cả dọa nạt, nhất là đối với dân quê, rằng tầu “há mồm” của Mỹ sẽ đưa họ ra biển rồi mở cái cổng mồm đó và trút họ xuống biển, hoặc thủy thủ Mỹ sẽ nướng con nít ăn thịt nếu đến với họ, vv. Và thứ hai là dạo ấy chỉ có một số ít nghe biết, chứng nhân thì lại càng ít hơn, được những cuộc tàn sát giết hại và đầy đọa những người không cùng chính kiến của người cộng sản. 


Cha tôi, tôi nghĩ, thuộc loại người đã quá mệt mỏi với chiến tranh, muốn tin vào cái viễn ảnh tổng tuyển cử năm 1956, và nhất là tiếc của, của do ông đã tốn bao mồ hôi nước mắt tạo dựng nên và đất đai mà ông tưởng là sẽ được thừa hưởng của bà tôi. Tuy vậy, ông cũng còn bán tín bán nghi, chưa quyết sẽ có di cư hay không. Và có lẽ để cho dễ dàng quyết định vào phút chót, cha tôi bảo anh Cả đem gia đình anh và một số các em vào Nam, trong đó có chị Ba, chị Năm, anh Sáu và tôi. 
Nghe biết sẽ phải đi Nam với chúng tôi, chị Ba khóc lóc thú nhận đang yêu anh Tuấn và muốn được cha tôi chấp thuận cho lấy anh, mà gia đình anh Tuấn thì đã nhất định ở lại. Chị Ba là người đẹp nhất trong đám sáu chị em gái chúng tôi, và khá tân tiến: chị là người đầu tiên trong gia đình tôi đi uốn tóc, và chị còn học chơi đàn guitar nữa. Tôi hay ngồi xem chị gẩy đàn và hát bài “Dư âm”, có lẽ là bài chị chọn để học đánh đàn, nên tôi rất nhớ bài đó vì nghe tới nghe lui. Cha tôi tất nhiên là rất tức giận vì bị đẩy vào một trường hợp khó xử: trước khi chấp thuận cho chị Ba lấy anh Tuấn, ông lại còn phải xin từ hôn với gia đình anh Nhân, là người đã làm đám hỏi với chị Ba, chỉ chờ ngày cưới. Việc chị Ba từ hôn vậy mà cũng thành một tin trên một tờ báo địa phương, tôi còn nhớ đã đọc được. Dù vậy, chị Ba cuối cùng cũng được toại nguyện: lấy chồng trong một đám cưới chạy tang rất đơn sơ, vì bên gia đình chồng đang có tang. Nghe nói chị bị mẹ chồng đối xử không tốt. Nhiều năm tháng sau đó, tôi được đọc mấy cái bưu thiếp chị gửi vào xin một chiếc xe đạp. Tôi không nhớ lời yêu cầu của chị có được đáp ứng. Chị đã qua đời vì bệnh tiểu đường cách đây gần hai thập niên. 

Khác với đa số người di cư 1954 đáp tầu Mỹ, chúng tôi được di tản bằng máy bay do Pháp cung cấp. Đó là vào một ngày tháng 3 năm 1955, và đấy là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên bụng dạ làm reo, ói lên ói xuống, ngồi trên xe GMC chở từ phi trường Tân Sơn Nhất đến nhà ông chú ở đường Phan Đình Phùng để tá túc tạm, tôi vẫn còn ói. Chúng tôi vừa mới ổn định chỗ ở ở một căn nhà gỗ, không có cầu tiêu riêng, thuê được ở bên Khánh Hội chưa được bao lâu thì có thư của cha tôi nói ông đã quyết định ở lại, bảo mấy anh em ở trong Nam tự lo liệu lấy. Tôi khóc xưng cả mắt, nghĩ từ đây sẽ không còn gặp lại cha mẹ và các em, nhất là Tám, cô em thua tôi hai tuổi song hai đứa rất gần nhau từ hồi nhỏ. Chị Năm mới 15 tuổi, phải khai gian lên hai tuổi để xin đi làm sau khi học lấy được cái bằng đánh máy, rồi sau đó vừa đi làm vừa đi học thêm tiếng Anh. Anh Cả thì mướn xe taxi chở khách, trong khi chị Cả đi buôn quần áo từ trong Chợ Lớn rồi thuê sạp ở chợ bán lại. Anh Sáu và tôi còn nhỏ, 12 và 10 tuổi, nên được đi học. 


Tôi làm quen với đời sống của vùng đất mới có tên là Sàigòn, thấy cái gì cũng lạ. Một vài chi tiết mà tôi thấy ngộ nghĩnh, nói lên đặc tính dễ dãi và sởi lởi của người Miền Nam: Đi mua đồ giá năm cắc, tức 50 xu, đưa tờ giấy một đồng, người bán hàng thản nhiên xé tờ giấy bạc làm đôi cái rẹt, đưa trả lại mình một nửa. Tôi thích lối làm bánh mì của miền Nam, đầy tính sáng tạo: ngoài thịt nguội hay ba tê còn có đồ chua, ngò và dưa leo, mà bên Mỹ bây giờ chúng ta gọi là Vietnamese Sandwich. 

image1.jpeg
image1.gif
image7.gif
image6.png


Gió đã đổi chiều? Câu chuyện 48 năm sau… 

Cách đây 48 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30 chục chiến hạm đủ loại của hạm đội 7 đang đậu ở ngoài khơi bờ biển VN, cách Vũng Tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối.

GS. Nguyễn Văn Lục

Họ đang chờ đợi để đón lính Mỹ và người Việt từ đất liền. Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.

Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, David Halberstam, Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người khác v.v… Dầu vậy được biết còn 125 người nhà báo trong số họ, đủ quốc tịch tình nguyện ở lại để chứng kiến cơn hấp hối của miền Nam Việt Nam.

Bên cạnh đó còn có phụ tá Trùm mật vụ là Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ sau khi hộ tống ông cựu tổng thống NVT ra đi trước đó mấy ngày. F. Snepp đến đây để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất- đại diện cho nước Mỹ- trong giờ phút này:

Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ. Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ đã không còn ở đó nữa.

Ngay khi vừa đặt chân lên boong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sàigòn, ông đại sứ nhận được một điện tín chúc mừng của H.Kissinger với nội dung như sau: Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!

 Nhìn từ trên boong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì.

 Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi.

Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy. Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:

 Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.

Nhận xét trên ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời đệ nhất cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngày 23 tháng 3.1975 như sau: “Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ… Cuộc triệt thoái của người Mỹ khỏi Đông Dương là cuộc rút lui lớn nhất mà thế giới nhìn thấy từ khi Napoléon rút lui khỏi Moscow”.

Cuộc rút lui chiến lược ấy lôi kéo hàng trăm ngàn người Việt đi theo. Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng ở giờ thứ 25 từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..

Nhìn cảnh tượng đó,- cảnh tượng quá bi tráng- Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói một cách mỉa mai: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay, chúng ta như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam, tôi nghĩ rằng trong đó có phần đóng góp của ông đấỵ!

Haberstam trả lời:

– Ông nói không sai, nhưng chỉ xin xác định cho rõ tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây hẳn mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh. Ông cũng đồng ý chứ, ông bạn của tôi? Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!

– Như thế chắc là ông hãnh diện lắm.

– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia như màn chót của tấn bi kịch mà chúng ta đã dựng lên, tốn kém hằng trăm tỉ đô la.

Ông cứ tưởng tượng, trong số hằng trăm ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên. Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.

Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có nữa phần đầu của câu chuyện.

Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh VN vừa đáp trực thăng của ông xuống boong tàu muốn được gặp. Vị đô đốc ra lệnh một cách gắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục, lột bỏ lon của ông ấy ra và không được tuyên bố điều gì.

Đây là nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.

Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên: Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về… Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về.

Ông đã về theo cái cách mà Phạm Duy đã về!!

Vấn đề không phải là cởi bỏ bộ quân phục, cởi bỏ lon chậu vốn chỉ là cái bề ngoài. Câu chuyện viết về ông tướng có thể chỉ là một câu chuyện hư cấu. Vấn đề hôm nay, chính là nhiều người đã cởi bỏ cái danh xưng người Việt Quốc gia- cái biểu tượng của 48 năm nay -.

Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài. Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách tàn bạo và trả thù của Hànội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều.

Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.

Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể

những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết.

Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng khuây khoa, người Việt đến được xứ người đều quyết tâm cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?

 Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần “rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự” (Orderly Departure Program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme) (*1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về ?

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó: Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.

Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Huỳnh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.

Giấy tờ xuất cảnh có thể chỉ là tấm giấy nhỏ viết tay nguệch ngoạc mấy chữ là: Nhà này do nhà nước quản lý!! Quản lý là trông coi, giữ dùm mà thật ra là tịch thu, là hôi của! Cả miền Nam, hai triệu người bỏ nước ra đi đã bị “quản lý” như thế. Nói toạc ra là đã “bị cạo lông” sạch như thế .

 Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Bán được bao nhiêu nhà nước thu cả. Cho mãi đến năm 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 13 tỉ đô la. 13 tỉ đô la!

Không phải chỉ 13 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước. Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù. Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo.

Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội Bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra.

Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này thì cùng lắm chỉ là những người đàn bà làm vợ, làm mẹ, là nội trợ bình thường trong gia đình.

Nhưng kể làm gì đến những chuyện nhỏ nhoi đó.

Đã có rất nhiều thay đổi mà không ai tiên đoán trước được- những thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản-nhất là nơi người trẻ.

Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học”.

Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.

Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà chưa thuộc hết phần cuối.

Đó là những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù của những kẻ bất đồng chính kiến cũng bị bỏ quên lãng.

Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời? Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ? Quá khứ là chính họ là cái làm nên bản thân họ. Họ bị coi như loài “củi mục” trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.

Nhưng chắc hẳn nhiều người như tôi không nghĩ như thế. Bản thân tôi cũng thế- không chấp nhận được lối xếp loại ấy -.

Trong 48 năm qua, chúng ta- những người Việt di tản- đã không ngừng tranh đấu không ngơi nghỉ cho điều mà tôi gọi là trận chiến cho một biểu tượng, trận chiến cho một hình ảnh (bataille de l’image) là người Quốc Gia.

Bao nhiêu công sức đã bỏ vào đấy!! Bao nhiêu thời giờ còm cõi ngồi trơ trọi một mình trên bàn máy điện tử để viết!!

Mặc dầu thâm tín và phải nhìn nhận rằng quá khứ định hình và làm nên người Việt di tản thế hệ thứ nhất thì tương lai sẽ định hình thế hệ người việt thứ hai, thứ ba, nghĩa là con cháu chúng ta!!

Còn lại vấn đề kế thừa là vấn đề bi quan nhất của người Việt hiện nay!!

Nhưng cho dù bi quan đến đâu, cho dù vứt bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Và lúc ấy cho thấy rằng: Củi mục thì cũng vẫn là củi.

Người khác cho rằng nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì?

Họ nghĩ rằng thà là như anh thuyền chài, thà là như chị X, Y nói tiếng Mỹ oe éo. Thà là như thế. Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.

Tháng tư đen thật ra chính là tháng hy vọng!!

Hành lý quá khứ mang đi càng nhẹ thì họ về VN càng nhanh .

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra.

Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.

 Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.
10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra. Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với hàng trăm dự án được chấp nhận với số vốn lên đến trên một tỉ đô la..

Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước.

Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.

 Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”

 “Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.
Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam” “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” – bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.

Kiều bào năm 1960 thì không phải là người di tản!! Thật rõ chán.

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 48 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.

Nhưng còn những người như tôi sẽ không quên. Never. Never!!!

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay.

Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:

– chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội loạn đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.

Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?
Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sàigòn, Hànội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.

Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn “tiến bộ” nay trở thành thứ “Chim hót trong lồng”.

Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng, quên cái trận chiến biểu tượng, hình ảnh.

Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.

Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 48 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern California cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Linda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án “thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về; nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali”, “tiểu Fairfax” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói :
– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.
Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hóa Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Salát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.
Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sững sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.

Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng.

Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.

 Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.

Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh.

Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là “địt”. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.
Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ ?

Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ trêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.

Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!! Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đến VN với mục đích gì? 37 năm trước và 37 năm sau có điều gì khác biệt?

Gió đã đổi chiều. Gió nữa lên …

—————–

(1*) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.

Hồi ký người Cận Vệ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

 NN Lê Đình An

Đây là đoạn hồi ký của tôi trong những ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, và 2 lần vượt ngục tù cải tạo trong 3 năm sống với chế độ Cộng Sản. Hồi ký nầy tôi viết tại trại tỵ nạn Mã Lai, Tiểu bang Kelantan, Tỉnh Kotabaru.

Dĩ vãng hiện lên đầu óc tôi như cơn ác mộng bi thương buồn thảm!

… Ngày 21-4-75, tôi được báo cho biết có cuộc họp báo nơi phòng Khánh Tiết (trong Dinh Độc Lập). Nội dung cuộc họp báo tôi chưa được biết, đó cũng là việc làm bảo mật thường ngày của khối Cận Vệ chúng tôi…. Cuộc họp báo lúc 19 giờ đêm 21-4-75.
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bàn giao chức vụ lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương làm Tổng Thống theo Hiến Pháp do Lưỡng Viện Quốc Hội chỉ định.

Trong lúc chiến sự gay go nguy hiểm, Cộng quân đã chiếm toàn miền Trung và đang bao vây Tỉnh Long Khánh. Tin Tổng Thống Thiệu từ chức đã làm cho toàn thể Quân Lực đang chiến đấu với Cộng quân trên khắp các mặt trận bị giao động hoang mang mất hẳn tinh thần.

Đến chiều ngày 28-4-75. Tổng Thống Trần Văn Hương họp báo giao quyền Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh theo yêu cầu của Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH.
Ngày 29-4-75. Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ.

Cảnh tao loạn đã diễn ra khắp nơi trong đô thành, trong khi các phái bộ Hoa Kỳ cấp tốc rời khỏi VN do cuộc không vận khổng lồ từ các căn cứ ở Thái Lan, Phi Luật Tân và Hàng Không Mẫu Hạm Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi. Trong lúc đó người dân VN cũng được không vận ra đi với các gia đình nhân viên làm việc cho Mỹ, cũng trong số đó có cả quân nhân, công chức cùng thoát đi.

Tình hình chiến sự càng lúc càng thêm nguy ngập, Cộng quân đã cắt hẳn các con đường vào thành phố và đang tập trung quân để bao vây đô thành….

Về phần tôi, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 2 ngày sau tôi được lệnh hộ tống đưa Tổng Thống phu nhân lên phi trường để đi Đài Loan.
Anh em Cận Vệ chúng tôi vẫn túc trực ứng chiến 24/24 tại Dinh Độc Lập.
Tôi được biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi từ chức vẫn còn ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến đêm 25-4-75. Phái bộ Hoa kỳ vào Dinh rước đi cùng lúc với thành phần Nội Các chánh phủ của Ông.

Khối Cận Vệ lúc bấy giờ do Trung Tá Võ Trung Thứ điều hành, và tất cả Cận Vệ Viên từ Sĩ Quan, hạ Sĩ Quan và Binh sĩ vẫn còn túc trực., vì nhiệm vụ của khối Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia . Khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi, chúng tôi lại có nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ đương nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương và rồi đến Tổng Thống Dương Văn Minh…

Đối với Ông Trần Văn Hương thì tôi là một trong số những Người Nhái có nhiệm vụ bảo vệ cho Ông từ khi đang giữ chức vụ Thủ Tướng, Đại Tướng Nguyễn Khánh giải nhiệm Ông Trần Văn Hương vào năm 1965. Cộng Sản đã lên 7 bản án tử hình, BTL/HQ chỉ thị cho toán Người Nhái bảo vệ an ninh cho Ông.
Ông cụ mỗi đêm thường gọi tôi đến bên Ông ngồi chung trên chiếc võng đong đưa trong tiền đình của ngôi nhà Santa Maria tại Vũng Tàu..

Ông kể cho tôi nghe những mẩu chuyện trong đời Ông từ thời kháng chiến chống Pháp trong bưng biền và cho đến lúc Ông ra làm Đô Trưởng đô thành Sài Gòn Chợ Lớn, rồi đến chức vụ Thủ Tướng cho đến lúc bị giải nhiệm…Ông thân thiết và thường khuyên bảo tôi như con cháu trong nhà.

Được vài tháng sau tôi và một số NN trở về BTL/HQ để nhận công tác đo nước lập thủy đạo, cập nhật hải đồ các bãi đổ bộ cho toàn miền Nam, từ Bến Hải đến Đảo Phú Quốc suốt mấy tháng trường.. Mải đến năm 1971, Ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng Thống chung liên danh với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống đề cử tôi làm Sĩ Quan trưởng toán Cận Vệ để bảo vệ cho Ông trong suốt thời gian Ông cụ đi vận động tranh cử cho đến khi đắc cử.

Sau lễ Đăng Quang nhậm chức Phó Tổng Thống, toán Cận Vệ chúng tôi trở về nhiệm sở khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống, Ông cụ gọi tôi vào và ngỏ ý muốn tôi ở lại làm việc cho Ông, tôi cám ơn Ông cụ và từ chối..Vì nhiệm vụ của toán Cận Vệ chúng tôi là bảo vệ cho Ông cụ và cùng lúc huấn luyện cho toán Vệ Sĩ của Phủ Phó Tổng Thống về các phương pháp bảo vệ an ninh cho yếu nhân do Đại Úy Cương (cháu ruột của Ông cụ) làm Trưởng Toán.

Vì có những liên hệ như trên nên khi Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống VNCH do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao, tôi lại nhận trách nhiệm Sĩ Quan Cận Vệ cho Ông cụ.

Đến ngày 28-4-75.Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức vụ Tổng Thống VNCH do Lưỡng Viện Quốc Hội yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao..

Đại Úy Trần Bá Huệ (cháu ruột của Tổng Thống Dương Văn Minh) giữ chức vụ Trưởng Phòng Cận Vệ, lại giao cho tôi và Chuẩn Úy Trang Đức cận sát để bảo vệ cho TT Dương Văn Minh. Đại Úy Huệ biết rõ và tin tưởng khả năng võ thuật và tác xạ của tôi vì Đại Úy Huệ phục vụ bên Võ Phòng Phủ Tổng Thống lúc trước, nên Đại Úy Huệ thường thao dượt luyện võ với tôi. cũng vì vậy mà tôi phải túc trực 24/24 .

Tối đêm 29-4-75. Cộng quân pháo kích vào đô thành khắp nơi, tôi và Thiếu Tá Trần Cchí Đức Trưởng Toán 4 Cận Vệ, đang phân phối điểm gác tại tư dinh số 3 đường Trần Qquý Cáp, Đại Úy Huệ giao cho tôi tấm vải trắng để xé ra đeo trên cánh tay trái để làm ám hiệu, tôi nghi ngờ hỏi Đại Úy Huệ : Tại sao lại dùng vải màu trắng làm ám hiệu ? Đại Úy Huệ không trả lời. Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 liền lên xe Jeep bỏ đi mất.

Một lúc sau thấy không an toàn vì pháo kích nên Tổng Thống Minh và Nội Các chánh phủ cùng gia đình vào dinh Độc Lập nghỉ đêm..

Trung Tá Võ Trung Thứ họp Sĩ Quan chúng tôi lại và rưng rưng nước mắt : Có lệnh cấp trên, các Anh Em hãy nghe tôi..Hãy nghĩ đến gia đình các anh .. mà theo lệnh cấp trên. Buông súng xuống!Tất cả nhục nhã nầy tôi xin gánh chịu..các anh đừng nên chống lại nữa vô ích…

Trung Tá Thứ còn nói nhiều nữa…Nhưng tôi không còn nghe gì được nữa cả..uất hận tuôn trào.. Tôi cảm thấy chơi vơi..nhục nhã ..đau đớn ê chề.. Tôi nghĩ nếu chúng tôi thật sự chống trả thì dầu cho Cộng quân có bao vây dinh Độc Lập bằng chiến xa, pháo binh hay tấn công bằng phi cơ, thì chúng tôi cũng có thể giữ được ít nhứt là nửa tháng…Chúng tôi căm tức nhưng biết mình cũng không xoay sở được gì..!

Sau khi suy tính cùng các anh em Cận Vệ, tôi và một số anh em cùng lên xe Jeep chạy đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ với hy vọng được rời khỏi Việt Nam trong những chuyến trực thăng di tản cuối cùng, chớ không thể bó tay đầu hàng Cộng Sản được..
Nhưng chúng tôi không thoát được định mạng đã an bài, vì khi đến Tòa Đại Sứ Mỹ nhìn thấy dân chúng đang chờ đợi ngoài vòng rào đông quá, không thể nào trực thăng chở đi hết được vì đúng 12 giờ đêm 29-4-75 là hết thời hạn di tản. Chúng tôi chờ mãi đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75…

Thất vọng và chán nản quá.. chúng tôi đành quay trở về dinh Độc Lập ..Đầu óc tôi cứ quay cuồng câu Nước Mất, Nhà Tan

6 giờ sáng ngày 30-4-75.Chúng tôi hộ tống Tổng Thống Dương Văn Minh qua dinh Thủ Tướng để họp Nội Các. Cộng quân bắt đầu pháo kích mạnh hơn vào thành phố, dân chúng chạy loạn khắp nơi… 9 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng dành riêng cho Tổng Thống cất cánh rời khỏi dinh Độc Lập do các Sĩ Quan phi công bỏ đi đúng như dự tính, nhưng vì tôi không có mặt nên đành lỡ chuyến..Dự đinh của chúng tôi sẽ đi khuya đêm 29-4-75, nhưng sợ cất cánh ban đêm sẽ bị bắn vì có lịnh giới nghiêm, nên phải đợi đến sáng.

Trung Tá Lân- Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự, Thiếu Tá Hậu- Trưởng Khối An Ninh Phủ Thủ Tướng và tôi cùng bàn thảo nên thoát đi bằng cách nào, nhưng vẫn vô kế, vì đường về miền Đông và miền Tây đều bị cô lập..Chúng tôi nhìn nhau mà lòng buồn man mác..

Tiếng súng vẫn nổ vang rền trên các đường phố, máy truyền tin bên cạnh chúng tôi vẫn vang lên lời báo cáo khắp nơi về..Cộng quân đang giao chiến tại Gò Vấp..Ngã Tư Bảy Hiền đã thấy bóng Việt Cộng…Cầu Nhị Thiên Đường đang đánh…Tiểu Đoàn Dù đang đụng độ dọc theo các chốt đóng trên xa lộ..v.v…..

10 giờ 30, chúng tôi hộ tống TT Minh về dinh Độc Lập, trên tay chúng tôi khẩu súng đã trở thành vô dụng, vì không được nổ súng trong mọi trường hợp…Anh em chúng tôi đưa mắt nhìn nhau mà không nói được lời nào…Rồi việc phải đến đã đến..Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, đúng như sự nghi ngờ về ám hiệu màu trắng tôi đã nêu trên..

Đầu hàng.. Đầu hàng à… Trời ơi!! Chúng tôi phải chịu nhục nhã như vầy sao?? Tổ Quốc quấn khăn tang, mây che phủ đầu trên thành phố thân yêu…Hàng vạn nhà ra tro ra khói bốc cao trời..
Bài ca “Vuốt Mặt” như vang lên đâu đây…Làm cho tôi tê tái..giọng ca uất hờn..như tiếng nấc nghẹn ngào của Quê hương… VIỆT NAM ƠI!! VIỆT NAM ƠI!!

Thật không còn gì đau đớn cho bằng việc tôi nhìn thấy cảnh mất nước do một số người ham tranh giành ngôi vị..để rồi giờ đây đứng cúi đầu rước quân thù trên thềm dinh Độc Lập..nơi mà cả thế giới nhìn vào trên bốn ngàn năm lịch sử oai hùng của dân tộc..

******

Bắt đầu các tên Việt Cộng nằm vùng tiềm phục trong các cơ quan lộ mặt trong dinh Độc Lập thì do tên thợ điện đứng ra tiếp thu rồi giao lại cho đơn vị bộ đội Hương Giang chiếm giữ.

Sau 5 ngày bị quản thúc tại dinh Độc Lập, chúng tôi được thả về để chờ lịnh tập trung cải tạo…Lòng tôi tan nát không còn nghĩ suy gì được nữa cả..Tôi lang thang trên đường phố hết ngày nầy sang ngày khác. Từ thuở nhỏ cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ rơi nước mắt vì bị thương tích của thể xác, nhưng sao bây giờ nước mắt tôi cứ tuôn ra không sao cầm lại được..!

Đến ngày chúng gọi tất cả Sĩ Quan đi trình diện học tập cải tạo mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để hoạt động chống lại bọn Cộng Sản vì thời gian phải trình diện quá ngắn và còn quá rối loạn, nên đành phải đi trình diện học tập, mong nếu chúng giữ lời hứa là Sĩ Quan cấp Úy chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày, sau đó mới có cơ hội hoạt động được.

Ngày 28-6-75 là thời hạn cuối cùng, tôi đến trình diện tại trường Sơn Hà (Dakao). Đến 2 giờ sáng ngày 29-6-75, chúng điểm danh và đưa chúng tôi lên xe Molotova bỏ mui bố phủ kín lại trong khi di chuyển. Khoảng 4 giờ sáng đến nơi, có người biết nơi đây là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 5 Công Binh (Thành Ông Năm) căn cứ nầy còn nguyên vẹn. Khoảng 9 giờ sáng bọn chúng ra lịnh chúng tôi đi thâu dọn tất cả đạn dược rơi rải khắp nơi trong trại để giao lại cho chúng. Riêng tôi vẫn nghi ngờ bọn chúng không thật sự giữ lời hứa, nên tôi lén đem giấu 5 trái lựu đạn M 26 nơi đốóng cát trước dãy trại của tôi ở.

Bắt đầu bọn chúng tổ chức chia chúng tôi ra từng khu vực, mỗi khu khoảng 150 người, mỗi đội gồm 5 hoặc 6 tổ, mỗi tổ 12 người. Tổ chức nhà bếp, nhà cầu và đào giếng nước. Tôi càng nghi ngờ hơn về chánh sách của bọn chúng, vì nếu chỉ đi học tập trong vòng 10 ngày thì bọn chúng bắt chúng tôi phải làm tiện nghi có tánh cách dài hạn để làm chi?
Đến ngày thứ 3, chúng bắt đầu thâu tiền cơm 10 ngày, bọn chúng cho chúng tôi uống thuốc ngừa sốt rét ?, trong 5 ngày và phải uống trước mặt của chúng nó, tôi không tin vì nghi ngờ nên chỉ ngậm trong miệng đem ra ngoài bỏ đi.

Lần lựa ngày nầy sang ngày khác, đã đến 10 ngày rồi mà bọn chúng không nói năng chi cả, có người hỏi thì chúng trả lời các anh chưa học tập bài nào cả nên chưa về được. Rồi một tháng trôi qua chúng vẫn im lìm..

BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC VƯỢT TRẠI
Lợi dụng ban ngày còn đi qua lại các trại khác được, tôi qua khu trại kế bên để tìm người đồng tâm ý để sắp đặt kế hoạch từ trong trại nầy thoát ra rồi phải làm thế nào v.v.. Khoảng 2 tuần sau, tôi đãtổ chức được 2 tổ, mỗi tổ là 2 người, tổ 1 tên Nam và Dũng, Nam là cháu của Giám Đốc Quan Thuế phi cảng Tân Sơn Nhứt, còn Dũng thì có nhà thuốc Tây ở đường Bùi Viện Quận Nhì Sài Gòn, gia đình của 2 anh có ghe tàu sẵn, đang chờ 2 anh ra để vượt biên.

Tổ 2 Hoàng Trinh, Sĩ Quan Đại Đội Biệt kích Dù đã từng nhảy xuống Hạ Lào, và Nguyễn Hoành, Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân. Anh Hoành biết được 2 thứ tiếng Thượng phổ thông. Dự tính tổ 2 khi ra khỏi trại sẽ vượt biên giới qua Thái Lan để tìm đường giây kháng chiến trở về giải phóng đất nước…Trong 2 tổ, tôi thích tổ 2 hơn vì đồng quan điểm là chúng tôi phải làm gì cho quê hương đất nước chớ không thể khoanh tay.. Nhưng vẫn phải chờ cơ hội, vì các anh đều còn hy vọng là được bọn CS thả về rồi mới xoay xở về sau.

Tháng thứ 2 đã trôi qua, bọn chúng bắt đầu cho học tập 10 bài chánh trị trong tháng thứ 3. Nội dung các bài có tánh cách phỉ báng chế độ VNCH, và ngụ ý tất cả người dân miền Nam đều có tội với cách mạng của bọn chúng qua nhiều hình thức khác nhau… Tháng thứ 4, sau khi học xong 10 bài, bọn chúng bắt tất cả phải khai tội đối với cách mạng, và dụ dỗ phải khai cho thật, chúng sẽ khoan hồng. v.v.

Tôi rất nóng lòng vì biết bọn chúng chẳng bao giờ thả tôi ra. Tôi giấu nhẹm không khai thành tích diệt Cộng Sản khi còn ở đơn vị Người Nhái đã từng tiêu diệt VC trong những lần phục kích và đột kích vào mật khu của chúng trong vùng Rừng Sát Nhà Bè, trong suốt mấy tháng hành quân phối hợp cùng với Seal Team Hoa Kỳ .. Nhưng tôi vẫn lo không biết là hồ sơ trong đơn vị còn nguyên hay đã được tiêu hủy trước khi chúng vào..

Tôi tổ chức một người bạn ngày trước làm việc tại BTL/HQ/P4. ở gần phòng tắm của bọn cán bộ để lấy tin tức tình hình ở ngoài như thế nào, sau mấy tuần tôi được biết ở ngoài đã có biểu tình đòi chồng con đang đi học tập, và có đụng độ ở Đèo Cheo Reo và Đèo An Khê, Ban Mê Thuột có pháo kích do phần tử ly khai của Quân Đội VNCH thực hiện..

Những tin nầy càng làm cho tôi tin chắc các Sĩ Quan sẽ khó mà được chúng thả về. Tôi đem tin nầy bàn với tổ 1, Nam và Dũng đều không dám vượt rào, tôi đành phải nói xuôi theo là cùng chờ đợi..Tôi bàn với tổ 2 , Hoành và Trinh hơi ngần ngại, nhưng tôi khích động nên 2 anh đồng ý vượt rào, kế hoạch từ trong ra ngoài thì bên của ai nấy lo, và hẹn điểm gặp nhau ngoài vòng rào là bãi tha ma cách vòng rào phía Đông chừng 700 thước.

Tôi đem những điều đã nghiên cứu như sau cho Hoành và Trinh biết:
– Hệ thống phòng thủ: Cô lập từng khu; an ninh mật báo từng tổ(vì thế mà tôi không tổ chức vượt rào trong đội của tôi); giới hạn đi lại qua con đường nhựa; ban đêm có lính gác đôi lưu động có đèn rọi sáng cả con đường nhựa; bờ đê cao 2 thước; 6 lớp Consertina;4 lớp rào kẽm gai, rào đứng, xiêng, ngang và hào chống chiến xa sâu 4 thước, rộng 5 thước; 2 giờ đổi gác 1 lần;ở ngoài vòng rào khoảng 2 giờ có toán tuần tiễu (đoán theo tiếng chó sủa).

Khi thoát ra đến điểm hẹn ngoài vòng rào nơi bãi tha ma, nếu quá 2 tiếng đồng hồ không gặp nhau thì tự tìm về Sài Gòn, qua ngày sau sẽ gặp nhau tại điểm hẹn ở xa lộ Biên Hòa, trễ nhứt là ngày thứ 3 sau khi ra được phải gặp nhau để bàn tính thêm kế hoạch vượt biên giới…Bây giờ chúng tôi chỉ còn chờ cơ hội và thời tiết thuận tiện.

Đời sống của các Sĩ Quan VNCH trong các trại giam cầm mà bọn CS gọi danh từ thật hoa mỹ là “Học tập cải tạo” thực ra chỉ để trả thù tập thể Quân Đội VNCH, giết lần mòn vì đói thiếu dinh dưỡng, bịnh tật vì không có thuốc men. Trong tổ của tôi có anh bạn Trần Văn Hồ bị bịnh tiêu chảy suốt 1 tuần lễ mà phòng Y Tế không cho một giọt thuốc nào cả, đến tuần lễ thứ 2 thì bịnh biến chuyển qua kiết lỵ, anh em cùng tổ lo cho nhau chớ phòng Y Tế không ngó ngàng gì đến.. Ăn uống quá thiếu dinh dưỡng, chỉ trong vòng 2 tháng mà trại đã có khoảng 40% bị liệt bại.

.

Tôi nghi ngờ là bị chúng đầu độc bằng thuốc mà bọn chúng đã cho uống khi mới vào trại, từ khi uống thuốc vào, khoảng chừng 2 tháng rưởi sau, đang đứng mà té lúc nào chẳng hay.

Trong suốt gần 4 tháng mà chúng tôi chỉ ăn được mỗi tháng một lần thịt heo, mỗi người được khoảng 8 gram thịt, mỡ lẩn da . Tôi nghĩ may là trại nầy còn được mấy con heo do trại gia binh quân đội VNCH bỏ lại, nên bây giờ chúng tôi mới được ăn thừa của bọn chúng bỏ ra cho.. Thèm thịt, thiếu mỡ, không đường, nên chúng tôi bắt tất cả con gì ăn được mà ăn như chim chóc, rắn rết,chuột, ếch, cóc nhái, ảnh ương .v.v.

Còn về tinh thần anh em Sĩ Quan thì lụn bại thê thảm, tất cả đều bi quan về cuộc chiến thảm bại vừa qua, ý nghĩ của họ mong mỏi được CS khoan hồng mà thả họ về với gia và đình phục hồi đời sống cũ …Cũng trong trại tôi có gặp 2 người bạn ở trại kế bên , một anh lúc trước chỉ huy toán phòng không dinh Độc Lập, thuộc Toán 4, khi chiếc phản lực cơ do tên phản nghịch Nguyễn Thành Trung, mang bom dội vào dinh Độc Lập, anh đã kịp thời bắn chận nên lần thứ 2 bom thả đãlệch ra ngoài vì không còn chính xác , và anh Trưởng Toán gác dinh Độc Lập. Tôi đem ý định vượt rào thì anh nào cũng không dám thực hành mà cũng chỉ mong được thả về đoàn tụ với gia đình…

Thời cơ đã đến do việc chúng nó phát động phải tích cực lao động nặng. Tôi suy đoán là chúng nó sắp chuyển chúng tôi đến trại khác xa xôi và làm việc nặng nhọc hơn. Tôi bàn tính với Hoành và Trinh nếu để chúng đưa đi trại khác thì chúng ta không thể biết được tình hình nơi đó, nếu muốn vượt trại chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tôi đề nghị vượt trại vào ngày 16-9 âm lịch là ngày 21-10-75. Hoành và Trinh hỏi tôi tại sao lại chọn ngày trăng tròn mà ra ? Tôi trả lời :
“Mình chọn ngày đó là vì yếu tố bất ngờ, bọn chúng nghĩ chúng ta không dám ra trong những đêm có trăng sáng, chúng sẽ chểnh mảng hơn, và kế hoạch tôi là sẽ vượt ra lúc 8 giờ tối, sau 7.30 giờ điểm danh thì bọn chúng thay vọng gác mà đi tuần dưới đất, và trước 9 giờ giới nghiêm, và giờ đó trăng chưa mọc. Còn thoát ra thì 2 anh nghiên cứu như thế nào thì hãy cố gắng vượt ra, còn tôi thì đã có cách riêng. Chúng ta phải đi riêng rẽ, chúng nó khó phát giác hơn. “

Tôi khích động tinh thần :
“Chúng ta toàn là tay thiện chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù và Người Nhái, chúng ta phải chứng tỏ cho chúng nó biết khả năng của chúng ta”.
Tôi tiếp:
“Tôi nói thật với các anh, nếu ngày mai nầy chúng nó thả tôi ra mà ngày hôm nay có cơ hội tôi cũng thoát ra trước khi chúng nó thả..”

Tôi khích động tinh thần và danh dự Binh Chủng của các anh nên 2 anh đồng ý theo chương trình đã hoạch định cho ngày 21-10-75.

Vượt trại.! Vượt trại !! Tiếp theo có tiếng súng nổ và tiếng kẻng đánh liên hồi…và lịnh tập họp điểm danh lúc 2 giờ khuya đêm 14-10-75. Tập họp điểm danh, báo cáo quân số xong, chúng tôi được biết có 2 Sĩ Quan cấp Đại Úy đã vượt rào bị phát giác và bị bắn chết 1 anh tại hàng rào và 1 anh bị thương nơi chân, chúng kéo lôi anh nầy vào để tại hội trường để cảnh cáo chúng tôi hãy xem đó làm gương…Sáng ngày các anh em bó chiếu xác anh đã chết và chôn tại chỗ, còn anh bị thương thì chúng mang đi đến các trại khác để cảnh cáo.

Sự việc xảy ra đã làm cho Hoành và Trinh mất tinh thần không ít. tôi cố gây niềm tin cho 2 anh, phân tách kỹ những lỗi lầm của nạn nhân cho Hoành và Trinh thấy : Các anh đó chọn thời điểm không đúng, 2 giờ khuya thanh vắng quá, nhằm ngày mồng 9 âm lịch, giờ đó có trăng non, và mặc đồ màu xanh lợt nên dễ bị phát giác, và còn nhiều chi tiết mà tôi không biết rõ..

Chúng tôi cùng kiểm soát lại kế hoạch xem coi có cần bổ khuyết hay không ?! Và chúng tôi cương quyết vượt trại giam, với tinh thần bất khuất, bất chấp mọi nguy hiểm sẽ xảy ra cho mình. Tôi rất tin tưởng mình sẽ vượt ra an toàn..Chúng tôi chờ đợi chỉ còn đúng 1 tuần là đến ngày quyết định với cảnh giác căng thẳng tột độ..

21-10-75 – Ngày, giờ quyết định đã đến, lúc 7giờ tối tôi mang qua trại của 2 anh Hoành và Trinh 3 trái lựu đạn M 26 (tôi đã giấu trong đống cát như đã kể trên) còn tôi giữ lại 2 trái. 2 anh ngạc nhiên, tôi giải thích cho 2 anh biết và căn dặn, nếu lỡ bị phát giác khi trốn ra thì phải hy sinh chớ đừng để chúng nó bắt lại.

.. Chúng tôi cùng kiểm điểm lại lần cuối cùng kế hoạch đào thoát. Hoành là người hoạt bát và nhờ thế nên Hoành đã nhờ cán bộ mua giùm 100 gr café và đường cách nay hơn một tháng, tôi đã dặn Hoành để dành lại cho ngày hôm nay 3 ly café đặc. Chúng tôi vừa uống vừa tính toán, khi xong hết, Hoành nói là cần mang theo mền và mùng vì đó là kỷ niệm đời binh nghiệp của anh. Tôi không đồng ý nên ngăn cản .

Trong lúc đó lại thấy gió thổi mạnh và mây đen kéo đến làm cho anh em chúng tôi lên tinh thần vô cùng, tôi thầm nhủ “Trời thương anh em chúng con rồi !”.

19giờ 30 là giờ tập họp điểm danh, tôi từ giã Hoành và Trinh hẹn đúng 20 giờ vượt trại và gặp nhau ngoài điểm hẹn tại bãi tha ma. Tôi lần ra hàng rào kẽm gai cô lập trở về trại mình. Tôi đã tạo thói quen là cứ đến khoảng 19 giờ là tôi giăng mùng sẵn để các người cùng tổ không để ý tới tôi, hôm nay cũng vậy. Ttôi từ bên trại của Hoành và Trinh về, tập họp điểm danh xong tôi liền vào mùng nằm, chừng 20 phút sau, tôi ra đi tiểu, lúc nầy gió thổi rất mạnh, mưa bắt đầu rơi, trại chúng tôi cũng như trại của vệ binh VC đều lo đóng cửa sổ, thừa lúc lộn xộn đó tôi vội bước qua hàng rào kẽm gai lọt qua khu vực của vệ binh VC, đi nhanh ra bờ đê và lăn nhanh qua bờ đê, tôi nằm im để nghe động tịnh và móc ra 2 miếng cao su,

(Tôi lấy ruột xe mà bọn VC bỏ lại khi chúng cắt các vỏ xe máy ủi đất để làm dép, tôi đã cắt lỗ để xỏ mấy ngón tay và đem cất giấu) tôi mang 2 bao tay giã vào và bò đến hướng đã định, dùng bao tay giả đó để nâng đỡ kẽm gai, lách mình chui qua, tôi làm rất thận trọng, nhanh nhẹn và chính xác, vì tôi đã nghiên cứu thật kỹ từ loại kẽm gai và cách thức rào ra sao như rào đứng thì bợ lách như thế nào, rào xiên thì phải nâng đẩy và đưa chân nào ra trước, rào thấp ngang mặt đất thì phải nằm ngửa và đỡ từng sợi kẽm gai, rào consertina phải lách và chun qua làm sao…Vì thế nên vượt qua 10 lớp kẽm gai hàng rào và hào chống chiến xa, chỉ trong vòng 15 phút đến 20 phút thì tôi đã có mặt ngoài hàng rào rồi, tôi tiến nhanh vào lũy tre cách hàng rào khoảng 50 thước ẩn mình vào bóng tối của lũy tre để tránh đường chân trời..

Mưa bắt đầu nặng hột, tôi thu mình dưới lũy tre cố giương mắt nhìn về hướng điểm hẹn bãi tha ma cách đó khoảng 100 thước, vì đề phòng 2 anh bạn bị lộ có thể chỉ điểm cho cán bộ bao vây.

Cơn mưa kéo dài đến khoảng 11 giờ đêm, vẫn không thấy bóng dáng của Hoành và Trinh, còn ở trong khu trại giam cũng không nghe báo động. Mưa đã tạnh lần, tôi di chuyển ngược lên hướng đào thoát của Hoành và Trinh để đón cũng không thấy tăm hơi chi cả. Tôi nóng lòng, suy nghĩ không lẽ 2 anh bạn nầy không dám vượt ra ?. Càng về khuya càng cảm thấy nhiều nguy hiểm !

Nhưng tôi vẫn cố gắng đợi chờ, câu hỏi tại sao, tại sao cứ loanh quanh trong đầu óc của tôi. Cảnh đêm khuya hoang vắng cạnh bãi tha ma trong rừng chồi nó âm u làm sao !. Tôi cố chờ mãi đến khoảng 2 giờ khuya, bầu trời lại bắt đầu vần vũ, mây đen kéo đến mờ mịt. Biết sắp có trận mưa to, tôi lo ngại quá, vì điểm hẹn chỉ cách hàng rào trại giam có khoảng 700 thước..Trời mưa mà tôi đổ mồ hôi hột vì lo cho 2 bạn của mình, tôi không nở bỏ đi. . Nhưng ở lại thì thập phần nguy hiểm có thể bị chúng bao vây bắt lại..

Tôi đang suy tính bỗng nghe có tiếng nói và tiếng chân người đi tới, tôi cấp tốc nép mình vào bụi cây, lòng hoang mang hồi hộp chờ đợi.. Khi đoàn người đến gần, tôi lắng nghe tiếng nói chuyện … À ! thì ra là những người dân trong thôn xóm đang gánh rau cải ra chợ bán.! Ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu tôi, mình phải rời khỏi nơi nguy hiểm nầy trước, về Sài Gòn rồi sẽ gặp nhau tại điểm thứ 2 an toàn hơn, vì địa thế nơi đây tôi không biết nên sẵn dịp nầy tôi nương theo những người gánh hàng để tránh các chốt chận khám xét của VC.

Và tôi đã ra đến chợ Hốc Môn, tôi đón chuyến xe đò sớm nhứt và về đến Sài Gòn lúc 7 giờ sáng. Tôi đến nhà người bà con bên vợ để hỏi thăm tin tức và liên lạc với vợ con , tôi và vợ con gặp lại nhau sau 6 tháng qua người bà con nầy, tôi ở tạm đây vài hôm để liên lạc với Hoành và Trinh, nhưng suốt mấy ngày liền tôi đến điểm hẹn đều không có tin tức của 2 anh. Thế là chương trình dự tính vượt biên giới qua Thái Lan không thành.!

Sau mấy ngày ở tạm nhà người bà con, tôi từ giã và di chuyển qua nhà anh Nguyễn Thành Nhơn ở tạm phía sau để liên lạc lại với các anh em đồng chí hướng.

Trước năm 1975. Anh Nguyễn Thành Nhơn, là Chủ Tịch Tổng Cuộc Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ Việt Nam và cũng là Chủ Tịch Tổng Cuộc Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN. Giám Đốc Chương Trình Sức Khỏe Giống Nòi ,trên Đài truyền hình VN.. Đối với tôi, anh Nguyễn Thành Nhơn là người Thầy và cũng là người Anh tinh thần của tôi, vì trước khi nhập ngủ vào Quân Đội tôi đã được anh huấn luyện trở thành Huấn Luyện Viên của phòng tập Trung Ương, và tôi cũng là hội viên của Hội Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN..

Tôi ở ẩn trong nhà anh và thường xuyên liên lạc với các anh em cùng đơn vị (Xin tạm dấu tên vì các anh em còn đang ở VN). đang chờ đợi những đường dây yểm trợ từ ngoài về để cùng nhau hoạt động lật đổ chế độ Cộng Sản bạo tàn nầy..

NGÀY ĐỊNH MẠNG ĐƯA TÔI VÀO TÙ LẦN THỨ NHÌ
Ngày 9-4-76-Sau 6 tháng vượt trại tù Thành Ông Năm.

Vào lúc 7 giờ tối, tôi đang đứng chờ vợ tôi làm việc ở tòa soạn báo Tin Sáng, mãn việc ra về, tôi đón nàng để đưa lại chiếc xe velo solex cũ (không có gắn máy) Vì thương con sợ con bị kẹt chân vào bánh xe làm con đau vì nó đã bị kẹt một lần rồi nên tôi vừa gắn chiếc yên nhỏ để cho vợ tôi chở con tôi..Vì thân phận vượt tù nên tôi phải trốn tránh không thể để cho bà con thân thuộc biết được. Tôi đang đứng chờ đợi ở trước trụ sở Khóm mà tôi không biết vì chúng không có treo bảng, khoảng chừng 15 phút, tôi thấy 2 tên Công An trong trụ sở đi đến hỏi giấy tờ của tôi, tôi lo sợ nhưng không còn tránh né được nữa đành phải đưa giấy tờ ra, chúng giữ giấy tờ của tôi và mời tôi vào trụ sở, tới lúc đó tôi mới biết là đang đứng trước hang cọp. Vừa lúc đó vợ tôi nghỉ việc ra về vừa đi tới, tôi vội trao chiếc xe cho vợ tôi và dặn “Anh đang bị theo dõi em hãy đi nhanh đi..hãy lo cho con..”

Rồi tôi theo Công An vào trụ sở. Sau khi xem giấy tờ tên Công An nghi ngờ giấy tờ của tôi là giả, nên giữ tôi lại để chờ điều tra lại địa chỉ. Lòng tôi lúc đó như lửa đốt vì tôi biết sẽ không thoát được, giấy tờ của tôi toàn là giả thì làm sao chứng minh được?

Tôi nghĩ hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc, nên có ý định hạ tên Công An đang canh gác. Tôi xin đi tiểu để xem địa thế. Xung quanh tòa trụ sở nầy tường cao khoảng 2 thước phía trên đầu tường có gắn miểng chai lại còn 1 vòng kẽm Consertina, phía sau có dãy nhà bếp, phòng chứa củi và nhà cầu, trên nóc nhà cũng có vòng kẽm gai Consertina. Tôi vào phòng tiểu, suy tính chỉ có phía sau là hy vọng nếu nhảy qua được phía bên nhà khác…Tôi nghĩỉ đã đến đường cùng rồi nên quyết định hy sinh nếu không thoát được thì thôi !.

Tôi ra khỏi nhà cầu và bước theo tên Công An bất thần tung ra một quả đấm vào hàm hạ của tên nầy, nhưng rủi thay, tên nầy trước khi bị ngất xỉu đã la lên một tiếng, tôi chạy nhanh lấy đà đạp lên thành tường nhảy lên nóc nhà phía sau, chạy dọc theo đường kẽm gai, trong lúc đó bọn Công An túa ra và bắn theo tôi, tôi vẫn cố chạy trên nóc nhà,dự tính nhảy qua nóc nhà khác, bỗng tôi bị trượt chân vì miếng ngói tróc xi măng nên đành nhảy trở xuống đất.. Thôi rồi ! Mặc tình cho bọn Công An xúm lại còng tay tréo ra sau rồi chúng thi nhau đấm đá vào thân thể tôi, chúng treo tôi lên cửa sắt với chiếc còng sắt, sức nặng của thân hình trên 60 ký lô mà bị treo hỏng chân tréo tay như thế, nên tôi không còn sức chịu đựng với những trận đòn như mưa bấc..Thân mình tôi gục xuống như tàu lá rủ..

Sáng hôm sau chúng đưa tôi lên khẩu cung, Để tránh liên lụy cho anh Nguyễn Thành Nhơn, tôi khai theo lời sắp sẵn là “sĩ quan trốn trại học tập về thăm nhà, nhưng không dám về nhà vì biết Công An canh chừng nên phải lang thang ngoài chợ trời, đêm đến thì mướn chiếu ngủ ngoài nhà ga xe lửa. v.v”. Sau đó bọn chúng giải tôi qua phòng giam Quận Nhì, trên đường đi tôi có ý định nhảy xuống xe nhưng không có cơ hội vì chúng nó còng tay tôi chung với ông ký giả Trần Hhồng Thu.

Đến Quận Nhì, sau khi làm thủ tục, chúng đem tôi và ông Thu vào phòng giam…
Nơi đây thật đúng là địa ngục ở trần gian! Chúng vừa mở 2 lớp cửa sắt ra, mùi hôi nồng nặc, chúng xô tôi vào trong rồi khóa cửa lại. Cảm tưởng cửa tôi nơi đây như là nhà thương điên…Trong ánh sáng âm u tôi thấy không biết là bao nhiêu người, thân hình gầy guộc trần truồng như nhộng. Lớp thì bất động miệng thều thào..Còn những người mạnh hơn thì bao quanh tôi, xô đẩy nhau dành được đến gần tôi, thật là một cảnh tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Tên đại diện trại giam phải đánh đập la thét những người nầy mới chịu dang ra khỏi tôi, tên đại diện hỏi tôi có mang theo thuốc lá không ? Tôi trả lời không có vì tôi không biết hút thuốc. Tốp người vây quanh tôi mới thở dài chán nản. À ! thì ra các người tưởng tôi mới vào có đem theo thuốc lá nên mới tranh nhau để xin thuốc lá. Tên đại diện trại giam đưa tôi vào trong một phòng giam phía trong nữa rồi khóa lại. Các người vây quanh hỏi thăm tôi đủ chuyện , tôi chán nản ngồi bó gối không muốn trả lời, vì biết có trả lời cũng không xuể.

Đời sống trong trại giam nầy chắc không có ai tưởng tượng được, phòng còn để bảng phòng giam rộng 8 thước vuông , phạm nhân giam chứa tối đa là 40 người, nhưng bọn CS đang giam gần 300 người. Nơi đây nếu người nào đứng lên thì mất chỗ ngồi, và không đủ không khí để thở, vì vậy mà đêm ngày gì phạm nhân cũng mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, ăn uống không có dinh dưỡng, một bữa ăn là 2 chén cơm lường bằng chén nhỏ cho mỗi người, đổ chung vào cái thau nhôm với 4 giá canh rau muống nấu với muối hột, 6 người ăn chung với 3 chiếc muỗng chia nhau múc ăn, vì tranh ăn nên bữa ăn nào cũng cãi vã, đánh đấm nhau , ồn ào suốt ngày đêm..Ban đêm thì nằm sắp chồng lên nhau, tới lỗ cầu tiêu cũng được nhét giẻ lại để nằm, các song sắt trong hai phòng giam riêng cũng được chia nhau đeo vào song bằng chiếc áo lót cột ngang lưng để ngủ.

Vì tình trạng nêu trên nên những người bị bắt vào đây chỉ trong vòng 2 tháng là bắt đầu bị ghẻ, loại ghẻ thiếu dinh dưỡng nầy nổi lên thành vành chính giữa thì lõm sâu và chảy nước vàng. Nước vàng nầy chảy đến đâu thì ghẻ lở chỗ đó, và sau đó bị liệt bại, ban đêm bị ghẻ lở hành hạ, bịnh nhân la khóc vang trời..Tôi có cảm tưởng như đang ở Địa ngục, thỉnh thoảng có người chết vì liệt bại, thân xác nạn nhân dược lôi ra khỏi phòng.

Tôi cố gắng giữ sức khỏe, hàng ngày đều tập thể dục, chạy bộ 400 bước, hít đất 100 cái, tập tay mỗi bên 60 cái. Chịu đựng được đến tháng thứ 5, tôi cảm thấy yếu lần.

Dự tính phá trại giam Quận Nhì
Tôi đã có ý nghĩ phải phá trại giam nầy từ ngày đầu khi đặt chân vào đây nhưng chưa tìm được người thích hợp nên phải chờ đến bây giờ.
Trong thời gian ở đây tôi quen với một ông Trưởng Ty Xã Hội tại Tỉnh ở Cao Nguyên (Xin tạm dấu tên vì còn đang ở Việt Nam) Ông là đảng viên của Đại Việt. Ông thường kể cho nghe về quá trình hoạt động của Đảng và về cá nhân của Ông.

Vào khoảng một tháng nay, tôi để ý theo dõi một người bị bắt về tội tư sản mại bản, vì tồn trữ 60 tấn café sống mà không khai báo, tên là Hồ Ngọc Ẩn …Nhà ở đường Tự Do ..,Mỗi tuần đều phải lên phòng Điều Tra lấy khẩu cung , tôi làm quen và hỏi thăm ý định sau nầy của anh, anh cho biết là không thể chịu đựng nổi ở nơi đây, và anh có ý định trốn ..Tôi gợi ý hỏi Ẩn, nếu muốn thoát ra , anh phải làm sao?. Ẩn nói về cách trốn của Ẩn, tôi thỉnh thoảng bổ túc cho Ẩn, tôi thấy Ẩn có vẻ vui mừng..

Vì tôi nóng lòng tìm người để thực hiện kế hoạch của tôi nên tạm chọn Ẩn, nhưng tôi chưa cho Ẩn biết ý định của tôi. Ngày hôm sau Ẩn được gọi lên lấy khẩu cung lúc 8 giờ sáng thì khoảng 9 giờ có tiếng gọi tên tôi và Ông Trưởng Ty , khi tôi và Ông vừa ra khỏi phòng giam thì đã có tên Cán Bộ Trưởng trại và 2 tên Công An ôm súng AK, tên Cán Bộ ra lịnh còng tay tôi và ông Trưởng Ty rồi day qua chỉ mặt và nói với tôi : “Tao đã biết kế hoạch của chúng mày rồi, dự định chúa nhựt nầy sẽ giết Cán Bộ, cướp vũ khí, phá trại giam”, rồi quay lại bảo 2 tên Công An đem chúng tôi qua trại giam đặc biệt. Phòng giam đặc biệt bề dài 3 thước, bề ngang rộng 1. thước, nhốt 10 người, tiêu tiểu tại chỗ, lỗ thông hơi để thở thì vừa lọt bàn tay, và đến giờ cơm được bọn cán bộ đưa vào mỗi tù nhân là một chén cơm đút vào vừa lọt cái lỗ thông hơi..Sự việc xảy ra tôi nghĩ là do tên Hồ Ngọc Ẩn phản bội đã báo cáo với Công An để lập công .

Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại! Ngày ở trong tù sao mà dài lê thê, ngột ngạt, nặng nề ghê gớm vô cùng…!

Ngồi bó gối, tôi ôn lại những chuỗi ngày trong tù cải tạo lần trước, tôi đã nghe người bạn khác trại kể về một Kha Văn..G.. Sĩ Quan Bộ Binh, sau khi mãn khóa trường Sĩ Quan BB Thủ Đức, anh được biệt phái về Bộ Kinh Tế hay Bộ Tài Chánh chi đó! Khi vào trại cải tạo,anh vỡ mộng vì anh là cháu ruột của 2 tên cán bộ cao cấp, hiện đang giữ chức vụ lớn trong bộ Văn Hóa ở Sài Gòn. Anh ỷ lại vào 2 tên cán bộ cao cấp là chú và bác của mình, và theo lời bác chú nên đi học tập tốt để được chú bác lãnh về..

Nào hay đâu 2 tên tập kết chú bác đó chẳng dám đứng ra bảo lãnh.. Vỡ mộng, anh đâm ra liều lĩnh, sau 3 tháng cải tạo và học xong 10 bài chính trị, chúng dụ dỗ tất cả phải khai cho thật để được khoan hồng, anh chỉ ghi lên các bài học là mình chẳng có tội gì đối với cách mạng cả..Cho đến một buổi chiều, anh được ban quản giáo gọi lên phòng cán bộ… Và một lúc sau có tiếng súng nổ.. Đến sáng hôm sau, anh em không còn thấy anh ở chung trại.. Và khoảng 1 tuần sau, anh em lại thấy một Kha văn .G. thân hình tiều tụy đang bị còng tay chân lại bỏ ngồi trước sân cờ, nơi chân anh bị vết đạn lên mủ lở loét, ruồi nhặng bu đen..

Tôi ở xa trại anh nên không hiểu chuyện gì.. Và đêm hôm sau tôi được bạn kể lại…Anh tự biết mình không thể sống được, nên đã chửi và nói lên những ẩn ức của anh đối với người thân là Cộng Sản..Trong đêm được gọi lên phòng quản giáo, anh đã thẳng thắn đấu lý với tên quản giáo và tên quản giáo đuối lý tức giận móc súng ra bắn anh bị thương nơi bắp chân..,rồi giam anh vào phòng, không đếm xỉa gì đến vết thương của anh. Sau vài ngày vết thương lỡ ra và có giòi.. Anh chửi,.. chửi vang vang.. kết quả mà anh mong muốn đã được như ý…Một cách tàn nhẫn phũ phàng.. là anh đã lãnh mấy nhát búa đóng đinh đập vào đầu..! Kha văn G….. đã vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất mẹ đầy đau đớn tủi hờn..!!

– Thiếu Úy Trần Tấn Mao, Sĩ Quan Tiếp Liệu Người Nhái đã buồn rầu, khóc thương cho gia đình 14 đứa con đói khổ của mình, tôi thường khuyên và gợi ý vượt trại với anh. Nhưng biết mình già yếu, không đủ can đảm vượt trại..Anh chỉ mong được Cộng Sản giữ lời khoan hồng thả anh về đoàn tụ với gia đình.. Anh khóc mãi.. Khóc đến mù đôi mắt..!

Tôi buồn ..Tôi suy tư, những hình ảnh sắt máu gớm ghê chẳng bao giờ tôi quên được.! Tôi căm thù, uất hận. Tôi nguyện sẽ đem hết sức mình để làm những gì mà tôi có thể làm được, để đóng góp cho ngày lật đổ Cộng Sản, giải phóng quê hương được trở lại ngày tự do tươi sáng..Nước mắt tôi rơi.. Đúng tôi khóc chứ ! tôi khóc vì căm thù, vì uất hận, hổ thẹn lớp người chúng tôi đã để mất nước…Việt Nam ơi ! ! Việt Nam ơi !! Chúng con phải làm sao ? phải làm gì cho tổ quốc ?!. Rồi bây giờ tôi lại đang sa vào lao lý, biết bao giờ tôi thoát được nơi đây ??!

Sau 10 ngày giam tôi nơi biệt phòng để chúng điều tra lại, nhưng không ra manh mối, nhưng chúng không dám trả tôi về phòng giam cũ, chúng chuyển tôi qua phòng giam Quận Nhứt kiên cố hơn. Tôi vừa vào phòng giam thì đã thấy 2 người bị giam bên quận 2 là anh Tiến, Trung úy Cảnh Sát và Ông Trưởng Ty. Chúng tôi chào mừng nhau và với các bạn tù mới, trong phòng giam nầy có một băng đảng cướp có súng nổi tiếng trước năm 75, là băng đảng Đà Lạt. Trong khoảng thời gian trước năm 75, băng đảng nầy đã từng tranh giành ảnh hưởng khu vực làm ăn của nhau với băng đảng Đại Cathay ở vùng Sài Gòn ..Bằng đại diện cho 4 anh em trong băng đảng, đến gặp tôi chào hỏi và ngỏ lời nhờ tôi đứng ra sắp xếp kế hoạch phá trại giam nầy, Bằng nói : “Tụi em đã nghe tiếng anh đã từng vượt trại tù cải tạo, và vừa rồi lại bị bể kế hoạch phá trại giam ở Quận Nhì .v.v”. Tôi chỉ cười mà không trả lời.

Mỗi ngày Bằng và các anh em đều đến ngồi chung và tâm sự. Bằng kể lại chuyện xưa và nói : “Chúng em ngày trước chỉ biết ăn chơi du đãng du thực, phá phách .. trốn tránh không chịu đi lính để bây giờ chúng nó chiếm miền Nam tất cả đều đói khổ .Bây giờ tụi em hối hận quá! Mong nếu tụi em ra được lần nầy, tụi em nhứt định phải tìm cách phá tụi nó..”

Vì tôi vừa bị phản bởi tên Ẩn, nên thận trọng hơn, tôi đã nghĩ cách phá chỗ nầy rồi nhưng còn giữ kín. Tôi hỏi Bằng và anh em có được thăm nuôi không ? Bằng đáp hàng tuần đều được thăm nuôi, tôi nói với Bằng hãy bảo người thăm nuôi gởi vào một típ kem đánh răng chứa Acid nguyên chất, khi nào có rồi thì cho tôi hay và tôi dặn Bằng đừng hỏi tại sao, Bằng thấy tôi đã chịu giúp thì rất vui mừng, hứa sẽ làm theo lời dặn của tôi.

Sắp đặt kế hoạch phá trại giam Quận Nhứt
Nhưng đêm 4-10-76, cán bộ vào thông báo ngày mai tôi và một số người sẽ chuyển trại trong đó có ông Trưởng Ty và Tiến. Tin nầy làm cho Bằng và các anh em trong băng đảng lo buồn, Bằng nói : “Anh rời khỏi nơi đây tụi em không biết làm sao!”. Tôi bèn họp các anh em Bằng lại và nói : “Trước khi tôi đi, tôi sẽ chỉ kế hoạch lại cho các anh, bây giờ các anh em cho tôi biết trong phòng giam nầy chỗ nào yếu nhứt ?”. Anh em Bằng nói : “Tụi em ở đây gần một năm rồi mà vẫn không nghĩ ra vì tường dầy 2 tấc, song sắt to bằng cườm tay, nóc và nền đúc xi măng, cửa sắt phải 2 người mở, đóng mới nổi..” Tôi nói : “Tất cả đều kiên cố, các anh thấy cánh cửa sắt dầy và nặng nhưng 2 cái bản lề là chỗ yếu nhứt, các anh em vẫn chưa hiểu?” .Tôi bắt đầu chỉ kế hoạch dự tính phá trại giam nầy. Khi có típ acid nguyên chất rồi thì mới lo các phần khác như dưới đây:

• Chọn ngày giờ cho thích hợp
• Chuẩn bị một người giỏi võ .
• Một chiếc xe đậu sẵn vào giờ đó tại đường gần nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi.

Bắt đầu vào kế hoạch:
– Chọn đêm Chúa Nhựt, lúc 1 giờ khuya (chúng đổi gác lúc 12 giờ khuya , chọn 1 giờ khuya là lúc tên gác buồn ngủ.)

Đúng giờ đã định, đem típ acid nguyên chất đổ vào 2 bản lề cửa sắt, khoảng 15 phút sau, 2 người khiên cánh cửa sắt qua một bên, người giỏi võ chạy nhanh ra hạ tên lính gác cướp lấy súng, cách phòng giam 2 tấm vách tường, trong lúc đó tất cả các anh em đồng chạy lên phòng trực, hạ sát 3 tên đang ngủ và lấy súng đạn rồi chạy xuống đánh thức tất cả tù nhân cho họ hay là Phục Quốc Qquân đến giải vây và chỉ cho tất cả chạy ra cổng chánh, còn các anh em thì phải vượt tường rào phía nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi để lên xe đậu sẵn nơi điểm hẹn .

Điểm quan trọng là phải nhanh lẹ chính xác và cố gắng làm thật im lặng và đừng nổ súng nếu thấy không cần thiết. Vì khi đó mà bị náo động thì rất nguy hiểm, các điểm gác khác sẽ báo động, các anh em sẽ khó thoát thân.. Các anh em phải xem lại thật kỹ để biết rõ nhiệm vụ của mỗi người mà làm cho thật gọn..Các anh em phải nghĩtrong đầu mình là chỉ được thành công chớ không được thất bại..
Sau khi nghe tôi trình bày sắp xếp kế hoạch, anh em của Bằng rất vui mừng, ôm vai tôi tỏ lòng biết ơn…

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi- những người có tên trong danh sách chuyển trại- chúng còng tay chúng tôi lại với nhau đưa lên xe Molotova phủ mui bố xuống, xe chạy đưa chúng tôi lên Gia Định (BCH/Tiểu khu VNCH cũ) để tập trung tù nhân trong 14 Quận của Thành Phố tại đây , sau đó đoàn xe trực chỉ ra ngoại ô, vì xe bỏ mui bố che lại hết nên chúng tôi không biết bọn chúng chở đi đâu, khoảng 4 giờ di chuyển xe ngừng lại, chúng tôi lần lượt xuống xe. Tôi vươn mình hít dài một hơi thở không khí trong lành của vùng rừng núi cho thoải mái, vì suốt 6 tháng bị giam, tôi chưa được thấy ánh sáng mặt trời và thở được không khí trong lành..

Chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi, san sát các dãy nhà tole và có rất đông bọn Công An.. Các người bị nhốt ở đây cho chúng tôi biết nơi đây là đồi là Phượng Vĩ căn cứ của Trung Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tại Ngã 3 Ông Đồn, dưới chân núi Chứa Chan..

Tập họp điểm danh, 120 người chúng tôi được đưa vào 2 dãy nhà lợp tole vách ván , trong tổng số 20 dãy, xung quanh các dãy trại gồm có nhiều lớp kẽm gai bao bọc có gắn lon thiếc. Tất cả 120 người “tù phản động” nầy hầu hết đều liệt bại nên phải khiêng vào..Vừa yên chỗ, một tên cán bộ quản giáo vào “sinh hoạt” cho biết đây là Trường K3 . .Hôm nay các anh đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm học tập cải tạo..v.v. Nơi đây các anh được liên lạc về gia đình để thăm nuôi, mỗi lần thăm nuôi15 phút. Các anh hãy nhớ viết thơ thế nào mà có lợi cho cách mạng, cho gia đình và cho bản thân các anh thì các anh viết.. Tên cán bộ quản giáo tuyên truyền một lúc rồi kết thúc : Vì các anh mới nhập trại nên ban quản giáo cho các anh được nghỉ “Bồi Dưỡng” vài hôm. Chúng tôi đều hiểu, vì tất cả bị liệt bại nên chúng nó để cho chúng tôi hồi phục rồi mới bắt đầu mang cày vào cổ chớ có tốt lành gì đâu.

Nghiên cứu kế hoạch vượt trại tù lần thứ 2 tại đây trong vòng 20 ngày.
Một đêm ngủ thoải mái với không khí trong lành của miền rừng núi Chứa Chan, tỉnh Long Khánh.

Ngày hôm sau tôi đi vòng quanh các dãy trại, tôi gặp anh Dũng Mặt đỏ của phòng An Ninh Đặc Tra Phủ Tổng Thống. Tôi gặp Dũng sau giờ lao động, anh mừng rỡ chạy lại ôm tôi, tôi dặn nhỏ Dũng đừng nói với ai vì tôi không có khai thật là Sĩ Quan Cận Vệ. Tôi hỏi thăm Dũng tình hình nơi đây và tại sao Dũng không vượt trại ? Dũng cho biết hiện giờ đội công tác của anh đã được bọn chúng tin tưởng nên cho đi làm xa tận trong rừng để cưa cây gỗ. Còn trốn thì Dũng không dám vì sợ bị bắt lại và sợ về không có chỗ an thân.

Dũng cho tôi biết: Dũng bị đưa lên đây từ ngày đầu, chúng lấy trại nầy dự định chỉ giam thành phần trình diện học tập thuộc đơn vị tỉnh Biên Hòa. Sau một thời gian chúng bố phòng chắc chắn hơn, chúng đưa thêm về đây các tù “phản động” gồm nhiều thành phần từ cấp Tá đến binh sĩ và tù chính trị luôn cả phụ nữ phản động. Phụ nữ thì chúng ngăn riêng khu vực, và nguy hiểm nhứt là dọc theo triền đồi, trong các lớp kẽm gai có chôn mìn 3 râu (loại mìn chống cá nhân có 3 ngòi nổ) hiện giờ thỉnh thoảng gió thổi lay động cây dại mìn cũng nổ, vì vậy mà suốt 16 tháng rồi mà không có ai dám vượt trại trốn ra.!

• Tôi gặp anh Thiếu Úy Hoa, Cảnh Sát Dã Chiến Biệt Đoàn 222, Võ sư Thái Cực Đạo, Huấn luyện viên của Đại Đội Đặc Nhiệm bảo vệ Phủ Tổng Thống. Hoa cho biết anh đã tổ chức trong đội anh được gần 20 người ở đội 16 của anh.
• Anh Thượng Sĩ Truyền Tin Võ Phòng phủ Tổng Thống là anh Quốc, anh bị bắt vì hoạt động trong lực lượng Dân Quân Phục Quốc, anh cũng đã tổ chức ở đội 15 gần 20 người.
• Anh Ba Hương, là vệ sĩ cho Ông Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu (Anh ruột của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) anh Ba Hương thuộc toán Bảo Vệ yếu nhân của Cảnh Sát, anh cũng cho biết có tổ chức ở đội 17, gần 20 người.

Tôi được biết Đại Tá Nguyễn văn .P… Tỉnh Trưởng Long Khánh, bị bắt ngoài mặt trận trước ngày 30-4-75 đang bị nhốt ở đây. Tôi nhờ anh Tiến, trước năm 75, Tiến là đệ tử của Đại Tá .P..liên lạc với ông để biết thêm tin tức, thì được Đ/T P.. cho biết, ông vẫn thường xuyên l/l với Lực lượng Phục Quốc ở bên ngoài. Tôi đề nghị với Đ/T qua anh Tiến . Nếu Đ/T thấy cần đánh phá trại giam nầy thì tôi xin trách nhiệm một lực lượng xung kích khoảng 50 người giỏi võ thuật. Anh Tiến chuyển lời tôi đến Đ/T, sau đó Tiến cho tôi biết Đ/T bảo đừng lo, vì ông đã được lực lượng bên ngoài cho biết sẽ giải thoát trại giam trong tuần nầy hoặc tuần tới ? Nhưng đã qua hơn tuần mà không thấy động tịnh gì cả , Tiến hỏi lại Đ/T thì tôi được biết là trong tuần nầy ?.

Tôi cảm thấy bất ổn vì tôi đã nghe tin nầy đã xầm xì trong một vài trại, tôi nghi ngờ tin nầy đã bị lộ.! Vì tôi đã theo dõi trong mỗi đội tù đều có nhiều an ninh chìm của Công An. Tôi nghĩ hậu quả rất ghê gớm, nhưng tại sao chúng biết mà vẫn làm ngơ ? Có lẽ chúng đã có chuẩn bị rồi.Trong đêm thỉnh thoảng chúng thực tập báo động – Chúng thổi còi và đánh kẻng báo hiệu, trong vòng 10 phút tất cả 20 dãy trại đều bị phong tỏa-. Mỗi dãy trại đều có 1 tiểu đội cầm AK 47, trung liên Tiệp Khắc và B 40, chỉa thẳng vào trại…

Tôi lo chọn trong số những người trong trại để tính việc đào thoát, vì tôi không tin tưởng khả năng của LL phục Quốc do Đ/T P… cho biết.

Trong số các anh em quen thân đều ngại vượt tù, chỉ mong được CS tha tội trở về sống với gia đình, tôi chỉ chọn được một người là:
* Trung Úy Kỹ sư Điện Tử Trần Quang, đặc trách Đài Radar Phú Lâm. Can đảm chịu đựng, bị bắt do tên Hạ Sĩ Quan dưới quyền điềm chỉ, Quang vẫn cương quyết không nhận làm lại cho CS để được tha tội. Quang cũng thường ngỏ ý với tôi nếu có tổ chức thì xin cho anh tham gia, và anh hứa sẽ làm bất cứ việc gì do tôi sắp đặt, vì đã nghe tôi đã có thành tích tổ chức vượt tù.
Tôi chọn anh Trần Quang là vì thích hợp cho kế hoạch của tôi và cùng ở chung dãy với tôi, khổ người của anh nhỏ nhắn, trầm tĩnh nhưng linh hoạt…

Tôi quyết định theo kế hoạch trù liệu để vượt trại. Tôi và Quang mỗi sáng thức dậy và đi “viếng lăng bác Hồ”, tiếng lóng để chỉ việc giải quyết vệ sinh. Vừa đi vừa bàn tính, tôi cho Quang biết ý định vượt rào và dặn Quang chỉ làm theo những gì tôi cần chớ đừng hỏi tại sao và phải ngăn cách đừng tỏ ra thân thiện để chúng không nghi ngờ, Quang đồng ý vì Quang tin tưởng nơi thành tích của tôi.

Sau 2 tuần lễ, tôi đã thâu thập hệ thống phòng thủ và nghiên cứu thận trọng như sau:

• 20 dãy tole, vách ván, mỗi miếng chiều dài 3 thước có đóng nẹp chận đầu.
• Sau khi điểm danh, 18.giờ 30, tất cả các cửa sổ, cửa chánh đều khóa lại.
• Bên ngoài phòng, Hàng rào 4 lớp kẽm gai cao 2 thước có treo lon, nhiều hàng rào kẽm gai dọc theo triền đồi, có khoảng 3 lớp consettina cuối cùng dưới chân đồi.
• Bãi Mìn do Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH thiếp lập lẩn trong các lớp hàng rào, Trung Tá Đức Chỉ Huy Trưởng Hậu cứ của Trung Đoàn 52 hiện đang bị giam tại đây, xác nhận là đúng.

• Quân số canh gác và phân công dẫn tù đi lao động là khoảng 200 tên công an.
• 4 vọng gác cao 5 thước, khoảng 2 giờ đổi phiên 24/24, ban đêm khoảng giữa phiên đổi gác, có toán tuần tra võ trang lẻn vào nghe lén từng dãy trại.
• Hệ thống bố phòng xung quanh đồi

Trung Đoàn Bộ Đội đóng quân toàn diện từ hướng Đông qua Nam đến hướng Tây. Nằm sâu trong rừng và đặc trách núi Chứa Chan, ước tính chiều dầy khoảng chừng 3 cây số, bao trùm mặt tiền của trại giam. Mặt hậu từ hướng Tây Bắc đến Bắc qua Đông, do cán bộ, thanh niên xung phong và khu kinh tế mới, cán bộ nằm vùng lẫn lộn có thể Trung Đoàn Bộ Đội cũng đảm trách vùng nầy. Nhìn chung mặt nầy có vẽ lỏng lẻo nhưng là tử địa vì khi thoát ra mặt nầy thì chỉ có thể đi về phía rừng lá, không còn đường trốn.

• Hệ thống an ninh chìm là nguy hiểm nhứt, riêng đội 18 của tôi 60 người đã có 5 tên chìm đội lớp tù, (do sự điều tra của Quang), chúng kiểm soát từ lời nói và hành động của mỗi người, khi ăn,khi ngủ, khi đi lao động v.v…..
Bây giờ tôi chỉ còn chờ chúng đưa đi lao động ở ngoài để quan sát và tìm hướng đi…

Sau hai tuần nghỉ dưỡng sức, các người bị liệt bại đã khá hơn. Tối Chúa Nhựt, trước giờ điểm danh, cán bộ đem xuống một danh sách biên chế chỉ định tôi làm đội trưởng 18 K, đúng như suy đoán của tôi, vì chúng muốn kiểm soát tôi chặt chẽ, sắp xếp đánh số chỗ ngủ, không được ngủ khác chỗ. Tôi phải chịu trách nhiệm mọi sự xảy ra trong đội, báo cáo quân số trước khi đi và khi về, lao động, nghỉ bịnh, công tác nhẹ, và trước khi đi ngủ, tối đến sau khi điểm danh tôi phải điều hành sinh hoạt, phê bình, sửa sai, đề nghị, đọc báo và văn nghệ..

Mục đích của chúng là làm cho tôi phải bận rộn trong công việc và an ninh chìm của chúng dễ theo dõi tôi.(Tôi đã đề phòng việc nầy nên đã chọn Quang giúp tôi trong việc đào thoát, vì chúng không để ý đến Quang). Xung quanh các dãy trại đều đóng ván chiều dài 3 thước và đóng chận nẹp. Tôi giao cho Quang một miếng sắt mỏng nhỏ và dẫn Quang đi ngang qua chỗ miếng ván thiếu chiều dài, chúng thêm vào một miếng ngắn mà không có đóng chận nẹp, tôi chỉ cho Quang và dặn mỗi đêm đi tiểu, Quang bò xuống dưới sàn ngủ, đến chỗ đó long đinh, từ bây giờ cho đến thứ sáu phải xong nghĩa là mình có thể đẩy ra nhẹ nhàng không bị động, sau khi xong báo cho tôi hay. Quang nhận lời…

Ông Trưởng Ty T.. và tôi vẫn thường ngày lãnh cơm và ăn chung, tôi rất mến ông là người học thức qua tư cách, rất trầm tĩnh. trong tuần lễ vừa qua ông có thăm nuôi, ông được người cháu ruột đem đồ ăn, gồm muối sả, café, sữa đặc, đường và vài trăm gram thịt kho. Được gia đình báo cho biết, trước ngày đi thăm ông, có người anh bà con của ông tập kết về cấp Trung Tá VC . Người nầy coi đồ thăm nuôi đã rầy là gởi đồ thăm nuôi cho tù nhân ăn ngon sẽ bị đưa ra Bắc vì trại nầy là trại phản động ! Tôi nhìn thấy ông có vẻ lo buồn, nhưng tôi vẫn chưa cho ông biết tôi đã chuẩn bị vượt trại mà trong đó có ông..

Hôm nay là tuần lễ thứ ba, đội 18K của chúng tôi bắt đầu mang cày vào cổ, đội chúng tôi dẫy cỏ và nhổ cây bắp khô.. Đến chiều hết giờ lao động, chúng tôi đến ao tưới rau để tắm, nước ao tù nầy do nước mưa đọng lại gồm cả nước phân do ban trồng hoa màu phụ gánh từ trong trại tưới, nước phân chảy xuống ao. Vì thế đêm đó đội chúng tôi bị ngứa gãi muốn rách da….

Ngày thứ ba, vun vồng trồng khoai. Ngày thứ tư, khiêng đá đắp đập ngăn dòng suối. Ngày thứ năm , tiếp tục khiêng đá đắp đập..đến 11 giờ. Nghỉ việc, tất cả tập họp điểm danh về trại ăn trưa. Khi điểm danh thiếu mất người, tôi vội báo cáo cho tên cán bộ, tên nầy bình tĩnh đưa súng AK lên bắn chỉ thiên 3 phát một, và khoảng 1 phút sau có tiếng súng AK đáp lại khắp nơi.. (Cũng nhờ việc nầy xảy ra nên tôi biết được hướng các chốt bọn chúng đang đóng dọc theo bìa rừng từ hướng Tây qua đến hướng Bắc..)

Tên cán bộ ra lịnh cho tôi dẫn tù nhân về trại, trên đường về chúng tôi đi ngang qua các chốt của bọn công an, chúng chĩa súng vào đội chúng tôi và chửi nhiều câu thô tục… Tôi căm hận dẫn đội mình về trại. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, chúng bắt lại được tên trốn và đem về nhốt bên dãy trại của chúng. Tên phó thủ trưởng gọi tôi lên lấy khẩu cung cùng với vài người trong đội. Tôi được biết tên trốn là an ninh chìm, do Quang báo lại cho tôi, buổi chiều hôm trước tên Hậu nầy đã đứng nói chuyện với cán bộ ở gần hàng rào…, tôi nghỉ đây là màn dàn cảnh để cảnh cáo chúng tôi..

Sáng ngày Thứ Sáu, Chúng tập họp tất cả 20 dãy trại. Tên Phó thủ trưởng đọc bản án và đem trình diện tên Hậu. Tiếp theo chúng cảnh cáo chúng tôi “hãy yên tâm học tập cải tạo. Ngày mà các anh đặt chân đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm. Các anh đừng mong trốn thoát nơi đây, dù một con kiến cũng thể rời khỏi nơi nầy ?..Bằng chứng là suốt 16 tháng qua chẳng ai có ý nghĩ đó. Anh Hậu vì mới đến nên chưa hiểu, nên anh sẽ lãnh phạt 15 ngày quản chế nơi hầm tối…”

Hôm nay đội tôi được lịnh tháo kẽm gai vòng rào tiền đồn hình tam giác án ngữ căn cứ của Trung Đoàn 52/18. Tôi mừng thầm vì hướng đào thoát của chúng tôi sẽ ở chỗ nầy.. Tôi đôn đốc anh em tháo gỡ cho nhanh kịp trong ngày Thứ Bảy., vì tối Chúa Nhựt là ngày, giờ quyết định.

Trong giờ cơm, bắt đầu tôi báo cho ông Trưởng Ty biết để chuẩn bị thoát khỏi chỗ nầy, ông ngạc nhiên hỏi lại, tôi nói :
“Bác hãy chuẩn bị sẵn bộ đồ đen để mặc khi rời khỏi nơi đây, và một bộ đồ khác bỏ vào túi nylon rồi bỏ vào bao cát để đem theo”.
Tôi nói tiếp:
“Bác phải rời khỏi nơi nầy nếu không Bác sẽ bị đưa ra Bắc”.

Tôi nói tránh vì ông thường ngày ngồi ăn cơm với tôi, nếu ông không đi ông sẽ bị liên lụy. Tôi nhìn thấy nét mặt đăm chiêu của ông, tôi hơi lo ngại, ông hỏi:
“An tính chừng nào ?”.
Tôi đáp:
“Có thể đêm mai, nếu thời tiết tốt”.
Ông hỏi tiếp:
“Làm sao ra từ đây?”.
Tôi đáp:
“Sẽ chun ra dưới gầm chỗ của bác nằm đó!”
Ông giựt mình:
“Sao ? ở dưới chỗ tôi nằm à ?”
Tôi đáp:
“Dạ phải, miếng ván dưới chỗ bác nằm tôi đã long đinh rồi ! Vì chỉ có chỗ nằm của Bác là có lối ra thôi”.

Tôi kể rõ kế hoạch cho ông nghe:
“Sau khi từ đây chun ra, tôi chạy nhanh ra hàng rào treo lon, tôi ngồi xuống, Quang sẽ chạy ra và leo lên vai tôi, tôi đứng lên, Quang bước qua phía bên kia hàng rào và đứng chờ, Bác chạy ra bước lên vai tôi, tôi đứng lên, bác bước qua vai của Quang, Quang ngồi xuống để Bác xuống đất.. và tiếp tục đến hết các hàng rào treo lon, và sau đó Bác và Quang phải theo bên tôi, đừng bước sai nguy hiểm……. vì Bãi Mìn dọc theo triền đồi.

Ông lo lắng hỏi :
” An có chắc mình sẽ thoát được Bãi Mìn hay không ?”
Tôi đáp :
“Bác đừng lo, tôi đã tìm ra điểm chuẩn của Bãi Mìn rồi!”
Tôi nói để cho ông an lòng, và kể rõ hướng đi của kế hoạch.

Nghiên cứu cách thức vượt Bãi Mìn
Về phần Bãi Mìn tôi đã suy nghĩ nhiều ngày đêm, tôi đem ra so sánh các cách gài mìn bẫy của Người Nhái chúng tôi và của Việt Cộng, mà vẫn chưa tìm ra manh mối.. (Vì lúc phối hợp công tác với Người Nhái Hoa Kỳ, tôi đã từng tháo gỡ mìn bẫy của VC).
Vì chuyên viên Mìn Bẫy khi gài Bãi Mìn thì chỉ có đơn vị trưởng và người gài biết sơ đồ mà thôi..

Sau cùng , tôi suy ra từ 2 chữ Phòng Thủ . Tôi lập sa bàn để định vị trí, các hàng rào cách khoảng với nhau đều đặn, và các trụ cột thì đều đặt so le hay nói cách khác là hình chữ Z. Vậy PhòngThủ thì khi chuyên viên đặt mìn bẫy phải đặt Mìn ở chỗ an toàn cho các trụ cột hàng rào, để khi mìn nổ không làm sụp đổ các hàng rào để còn giữ được phần nào các kẽm gai, vì hàng rào phòng thủ mục đích là chống xâm nhập chiến thuật biển người của VC..Theo sa bàn, tôi sẽ vượt ra theo hình chi (Z) theo hướng các trụ cột, tránh các khoảng trống mà tôi nghĩ là có đặt Mìn, và sẽ lần ra gần phòng trực cổng chánh của bọn công an, vì trụ cột chuẩn tôi chọn gần cổng chánh, chính xác hơn mấy trụ cột ở khoảng giữa…

Tôi đã xem xét rất kỹ giữa khoảng cách 2 hàng rào, chỉ rào kẽm gai chạy dọc, song song với các hàng rào khác và từ hàng nầy qua hàng kia bằng các đường kẽm gai giăng ngang với 2 đường chéo góc, còn phía cuối chân đồi có 3 vòng rào loại Consertina, báo hiệu là đã hết bãi Mìn. (Vì rào loại Consertina cuốn vòng tròn, không thể rào trong vùng có mìn bẫy, vì có thể bị gió thổi rung động mà chạm ngòi nổ, vì loại mìn chống cá nhân có 3 ngòi nổ rất nhạy thường gọi là Mìn 3 râu).

Tôi vui mừng lẫn lo âu mặc dầu không dám tin chính xác 100/100. Nhưng tôi đã quyết lòng tìm cái Sống trong cái Chết , bất chấp mọi hiểm nguy…..

Đêm Thứ Bảy 24-10-76 khoảng 8 giờ tối, trời mưa thật lớn, kéo dài đến 2 giờ khuya, tôi thầm cầu nguyện cho đêm mai cũng có mưa to thì sẽ là giờ quyết định đào thoát của chúng tôi, vì theo kinh nghiệm của tôi, nếu hôm nay có mưa thì ngày hôm sau cũng sẽ có mưa trễ hơn hôm nay, và sẽ mưa liên tiếp vài hôm, (Lần trước tôi đào thoát trại tù Thành Ông Năm, cũng có mưa giống như ngày hôm nay ở đây).

Ngày Chúa Nhựt, từ sáng đến 5 giờ chiều, vợ con tôi mới gặp được tôi sau 6 tháng tù, tôi hàn huyên với vợ con trong 15 phút. Vợ tôi đem đồ ăn thăm nuôi, tôi chỉ lấy café, đường, sữa đặc và mấy đòn bánh tét nhỏ,và túi trái cây, còn các thức ăn khác tôi đưa lại để vợ tôi đem về, vì tôi biết vợ con của tôi rất thiếu thốn, khi đi thăm nuôi chắc lại phải bán bớt vật dụng trong nhà. Vì có tên công an dòm ngó, tôi chờ khi vợ tôi cúi xuống gần tôi khẽ nói : “Đêm nào trời mưa thì cầu nguyện cho anh”. Vợ tôi nghe tôi nói giựt mình lo sợ, vì vợ tôi hiểu ý câu nói của tôi… Hết giờ thăm nuôi, vợ con tôi phải rời khỏi trại thăm nuôi để đến nhà ga Gia Rây, đón xe lửa về Sài Gòn. Còn tôi và đoàn tù được thăm nuôi trở lại trại giam..

Cũng như thường lệ, tên cán bộ điểm danh xong, chúng lo khóa lại các cửa cẩn thận. Khoảng 8 giờ tối, mây đen kéo đến và trận mưa bắt đầu đổ hột lúc 9 giờ, Tôi đã cho Quang biết chuẩn bị các chi tiết như ông Trưởng Ty, dặn Quang lược café lấy nước đậm pha với sữa, đường, rồi cất vào bình nylon nhựa, chung với các đòn bánh tét, còn café nước nhì thì đãi các anh em không có gia đình thăm nuôi, với chút ít bánh trái .. vì sợ các anh em uống café đậm sẽ khó ngủ, sẽ tạo khó khăn cho chúng tôi..

Tôi và Quang bình tĩnh chờ đợi, tôi chỉ lo cho ông Trưởng Ty, vì sau khi nghe tôi thông báo vượt trại, tôi thấy ông không ngủ mà ngồi hút thuốc suốt đêm qua. Tôi mến ông vì đã ở chung qua nhiều lần chuyển trại, và cùng ăn cơm chung..

Mưa càng lúc càng to, 9 giờ tắt đèn, tất cả đều về chỗ nằm, nhưng vì hôm nay có thăm nuôi, họ thức thì thầm kể chuyện gia đình cho nhau nghe trong bóng đêm.
11 giờ đêm, tôi cố giương mắt thật to nhìn qua kẻ vách theo dõi 4 chiếc bóng đen mặc áo mưa đi đổi vọng gác qua các lằn ánh sáng của sấm chớp.-Khoảng 1/2 giờ sau, 1 tiểu đội tuần tra mang vũ khí đi kiểm soát 20 dãy trại rồi chúng trở ra phòng trực ở cổng chánh. .

Giờ đào thoát đã đến..
Tôi nhẹ nhàng rời khỏi chỗ nằm đến chỗ Quang bấm nhẹ. Quang bước theo tôi trong bóng đêm dến chỗ ông Trưởng Ty nằm tôi kéo nhẹ ông xuống đất nhưng ông không chịu xuống, ông kéo tôi sát lại và khẽ nói:
“Xung quanh họ còn thức!”.

Tôi trả lời :
“Không sao đâu bác, bác cứ chun xuống gầm sàn là xong”
Ông không chịu, bảo tôi phải chờ cho ông 1 tiếng đồng hồ nữa.

Tôi sợ động mấy người nằm gần nên đành lui về với Quang trở lại đầu dãy trại để tiếp tục theo dõi các toán lính gác qua kẽ hở. Quang nóng lòng thì thầm qua tai tôi : “Ông làm như vậy là chết mình rồi anh.” Tôi cố trấn tĩnh Quang: “Không sao.” Nhưng lòng tôi như lửa đốt. khoảng nửa giờ sau, bên ngoài bớt mưa.

Tôi quyết định kéo nhẹ Quang đến chỗ ông. Tôi kéo hẳn ông xuống đất và đẩy ông chun xuống gầm sàn dưới chỗ ông nằm ông ta cứ dùng dằng không chịu chun, Quang chun vào trước đẩy nhẹ miếng ván đã long đinh và chun ra ngoài, tôi liền đẩy ông chun ra tiếp, ông không chịu lại đẩy tôi ra, trong lúc dằn co đó làm cho người nằm kế bên ông lên tiếng : “Không biết cái gì kêu lụp cụp vậy ?”. Liền lúc đó nghe có tiếng diêm quẹt, tôi cấp tốc chun ra ngoài, nhìn lại không thấy ông chun theo, Quang kéo tôi thúc giục :” Đi anh để chết đó!”. Tôi cố rướn mình lên nhìn vào trong không thấy được vì tối. Tôi chạy nhanh theo Quang và ngồi xuống cho Quang leo lên vai, tôi đứng lên Quang bước qua bên kia rào tuột xuống đất chờ .

Tôi dặn Quang chờ tôi một chút, vì lúc đó tôi vẫn còn nghĩ đến ông. Tôi nhanh nhẹn chạy trở lại lỗ trống hy vọng ông đã chun ra, nhưng tôi không thấy, tôi dán mắt vào kẽ hở, qua diêm quẹt mồi đèn, bóng ông ta đang ngồi bó gối hút thuốc lá trên sàn nơi chỗ ông nằm. Thôi rồi !!…Tôi không còn hy vọng gì để cứu ông được nữa..!! Tôi chạy thật nhanh trở ra hàng rào kẽm gai, không thấy bóng của Quang, tôi vội trèo qua 4 lớp hàng rào kẽm gai mà vẫn không thấy bóng của Quang đâu cả , tôi cúi rạp người xuống nhìn theo đường chân trời , bổng thấy bụi cây bên phải của tôi lay động, tôi vội bò ngay lại đó gặp Quang, thì ra Quang không dám chờ tôi tại chỗ vì là đường đi tuần của bọn lính gác. Tôi nắm tay Quang : “Đi theo tôi!”

Tôi dẫn Quang bò đến trụ hàng rào điểm chuẩn, gần trạm canh cổng chánh. tôi nhắm theo các trụ cột hàng rào và bò lách kẽm gai, thận trọng theo hình chữ Z Quang bò theo sát tôi, độ chừng 15 phút, tôi và Quang đã xuống tới dưới triền đồi thoát khỏi Bãi Mìn, chúng tôi khom người chạy nhanh qua khoảng đất trống, băng qua tiền đồn hình tam giác, nơi đó là chỗ đội của tôi vừa tháo hết kẽm gai hôm thứ bảy, nên tôi và Quang đã vượt qua chỗ nầy dễ dàng, chạy thêm một đoạn thẳng vào bìa rừng , chúng tôi lọt vào vùng gai mắc cỡ tây cao phủ đầu, chúng tôi bị gai đâm vào mình không biết bao nhiêu mà kể, chúng tôi đang vạch gai để tìm đường đi, bỗng chúng tôi bị lọt xuống dòng suối, tôi rất mừng vì trong dự tính kế hoạch của tôi không biết có dòng suối nầy, tôi biết chắc chắn theo con suối nầy sẽ xuống được nhà ga Gia Rây,(vì tôi đã nhìn thấy từ trên trại giam chiếc cầu xe lửa gần chợ Gia Rây).

Tôi bảo Quang tắm cho sạch và đồng thời di chuyển theo dòng suối, khi đến gần nhà ga Gia Rây, tôi kéo Quang bò lên cầu để vào hướng núi Chứa Chan, nhưng khi qua ngang đường rầy xe lửa, bổng tôi nghĩ ra một phương pháp vội kéo Quang đứng lên đường rầy, mỗi người một bên, tôi quàng tay qua vai Quang và Quang làm ngược lại, bây giờ tôi và Quang đã vững trên đường rầy, chúng tôi bắt đầu chạy trên đường rầy dễ dàng không sợ vấp ngã, chúng tôi tiếp tục chạy khoảng 2 giờ đồng hồ nữa rồi ngồi trên đường rầy mà nghỉ mệt, vì chúng tôi biết là đã thoát vòng kiểm soát của khu vực trại giam khá xa…

Tôi đang nghỉ đến Ông Trưởng Ty, có lẻ ông biết mình già yếu không còn đủ sức chạy bộ, ông lo sẽ làm vướng bận chúng tôi nên đành ở lại?. Khi còn ở quận 2, ông có tặng một bài thơ cho tôi và bảo tôi học thuộc lòng bài thơ như sau:

Tự Thán!
Đời là chi ?
Ta là gì ?
Dòng đời vẫn chảy,
Ta cứ mải đi !
Ta là một cội thông hiu quạnh
Đứng chọc trời xanh dưới nắng tà
Sớm chiều vi vút tiếng thông reo
Ẻo lã cành theo ngọn gió vèo
Giông tố bao lần lay lá cội
Sớm chiều vẫn vút tiếng thông reo
Tiếng thông reo, tiếng thông reo
Trải bao giông tố vẫn reo gió chiều.

Nguyễn văn T? …


Vừa ngồi nghỉ mệt trên đường rầy xe lửa vừa ăn bánh tét và thưởng thức café sữa ngon lành…Quang quàng tay qua vai tôi giọng cảm động:
“Anh An, anh là người cứu mạng của tôi, nên tôi xin nói thật cho anh biết, – giọng Quang trầm lại – Tôi là đảng viên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, tôi tên thật là Lai Minh Quang, cháu ruột của Trung Tướng Lai Minh Kiên, hiện bác tôi đang ở Đài Loan, tôi có nhiệm vụ nằm trong Quân Đội VNCH, và tên Trần Quang là tên giả, tôi học và tốt nghiệp Kỹ sư Điện Tử tại Okinawa Nhật Bản. Khi về Việt Nam, tôi phụ trách Trưởng Đài Radar Phú Lâm, mục đích là để theo dõi bên Trung Cộng, các máy bay bên Trung Cộng cất cánh thì ở Đài Radar Phú Lâm đều nhận biết… .Khi miền Nam sụp đổ , tôi đã được báo trước nên đã cho vợ con rời khỏi Việt Nam hiện đang ở Tân Gia Ba, vì tôi còn công tác nên phải ở lại Việt Nam .. Bây giờ việc trước mắt là về Sài gòn, tôi bắt liên lạc với các điểm rồi chúng mình cùng tìm đường qua Đài Loan, khi ra được ngoại quốc rồi sẽ tính sau..”

Chúng tôi tiếp tục chạy , khi đến nhà ga Bảo Chánh thì trời gần sáng. Chúng tôi vào rừng chồi thay bộ đồ khô mang theo trong bao nylon bỏ trong bao cát, nhờ lọt xuống suối nên chúng tôi đã tắm sạch đất đỏ, bây giờ thay bộ đồ khô vào trông cũng sạch sẽ. Chúng tôi vẫn tiếp tục chạy trên đường sắt hướng về Long Khánh cho kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang vào. Khi tới những nơi có người ở thì chúng tôi đi bộ, còn những chỗ không người thì chạy tiếp. Những dân cư ở dọc theo con đường xe lửa từ nhà ga Bảo Chánh vào đến Long Khánh chúng tôi thấy phần nhiều là người Thượng. Khi đến nhà ga Long khánh khoảng 8 giờ sáng, con đường dài 35 cây số. Tôi lấy trong lai quần ra 5 đồng tiền VC (Vì đã có kinh nghiệm vượt tù lần trước.) tôi đã dấu từ lúc mới bị bắt, tôi đưa tiền cho Quang vào mua vé, được trạm bán vé cho biết 9 giờ xe lửa tới, tôi và Quang vào quán café gần đó ngồi uống café và bàn chuyện về Sài Gòn mua hột giống để đem về vùng kinh tế mới trồng trọt .v.v . Trong quán cũng có vài tên cán bộ công an VC đang ngồi uống Café.

Tiếng còi hú từ xa của chuyến xe lửa từ Nha Trang vào Sài Gòn đã gần đến , tôi và Quang đều cảnh giác. Chúng tôi chia nhau mỗi người một đầu toa để tránh sự theo dõi của bọn công an. Và chúng tôi đã về đến Sài Gòn lúc 12 giờ trưa, nhưng Quang lại bị sưng vù cả 2 chân không đi được nữa,(vì Quang chưa bao giờ chạy xa như vậy, còn đối với tôi đã được huấn luyện qua khóa Người Nhái thì chạy bộ 35 cây số không có gì trở ngại.), tôi gọi xe xích lô đạp chở chúng tôi về Chợ Lớn, nhưng khi đi ngang qua quán phở 79, đường võ Tánh, chúng tôi cảm thấy thèm quá nên xuống xe vào tiệm gọi phở ăn một bữa thật ngon.

Vì thấy chúng tôi nước da sạm đen ông chủ tiệm phở hỏi : “Các anh ở đâu về mà đen quá vậy.?”. Tôi trả lời là chúng tôi từ vùng Kinh Tế mới về Sài Gòn để mua hột giống trồng trọt … Sau đó chúng tôi gọi xe xích lô chở Quang đến một địa điểm riêng của Quang. Chúng tôi từ giã và hẹn gặp lại tại một quán café ở ngả 7 Chợ lớn, nhưng tôi đã đến điểm hẹn liên tiếp mấy ngày mà không gặp Quang. Tôi nghỉ có thể điểm liên lạc của Quang không muốn tiếp xúc với tôi vì sợ bị lộ, và tôi mất liên lạc với Quang từ đó..!

Tôi đến thăm anh Nguyễn Thành Nhơn trong đêm mới trở về Sài Gòn, tôi nhảy rào vào nhà gặp anh chị. Anh chị rất vui mừng. Tôi kể chuyện lại cho anh chị nghe . Anh Nhơn cho tôi hay là phòng tập Thể Dục của anh đã bị bọn công an phường tịch thâu rồi, anh bảo tôi ở lại ngủ một đêm rồi sáng mai sẽ đi, tôi cám ơn anh chị và từ giã trước vì sáng sớm tôi đã rời khỏi nhà của anh chị…..

Tôi cố liên lạc lại với các bạn thân ngày trước, nhưng có người thấy tôi từ xa thì đã vội vào nhà khóa cửa lánh mặt..Cũng may được một người bạn cho mượn chiếc xe đạp, và nhờ đó tôi di chuyển khắp nơi trong thành phố, dự định tìm vào các lực lượng kháng chiến trong rừng. Tôi gặp một đại diện của một giáo phái (xin tạm giấu tên) sau một tháng, ông gặp lại cho và cho hay :
“Chắc em không có phần vào trong với anh em, là vì tôi đã liên lạc và ở trong đã gởi 3 lần liên lạc viên ra để đưa em vào nhưng đều đổ bể cả.. Và ở trong đã quyết định hủy bỏ công tác đón em rồi!..”

Thêm một lần thoát nạn….
Người bạn thân Mai Văn Lương (hiện đang sống tại Cali) cùng đơn vị phủ Tổng Thống, đã giúp tôi thật nhiều trong lúc cùng cực. Anh đãgiúp tôi liên lạc với một lực lượng vùng Hậu giang, có cơ sở mua bán phân bón, văn phòng tại đường Trần Hưng Đạo, đối diện với Tổng Nha Công An thành phố. Đêm đó tôi ở lại ngủ tại cơ sở suốt đêm trò chuyện cùng anh Hoàng (Hoàng cấp bậc Đại Úy Sĩ Quan Đà Lạt trốn trình diện đi tù cải tạo.) cho biết cơ sở nầy được quyền giữ 20 nhân viên ngủ lại đêm, anh khuyên tôi yên tâm ở lại đây để chờ liên lạc viên từ Hậu Giang lên đón tôi…

Sáng sớm hôm sau tôi và anh Hoàng ra ăn sáng ở tại quán café vỉa hè gần đó, Lương cũng vừa tới. Ttrong quán có rất đông bọn Công An đang uống café. Tôi có linh cảm như có việc gì sắp xảy ra nên sau khi ăn sáng xong tôi nói với Lương đưa tôi về chỗ ẩn trú của tôi và khi nào có liên lạc viên ở Hậu Giang lên thì đến đón tôi, vì ở đây tôi cảm thấy có nhiều nguy hiểm. Lương đồng ý và đưa tôi về chỗ ẩn rồi ra đi.. Nhưng khoảng 12 giờ trưa, Lương trở lại kiếm tôi và cho hay tất cả cơ sở đó đã bị Công An thành phố hốt hết rồi..! Thật may cho tôi, tôi chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc.

Có nhiều ngày tôi lang thang đạp xe từ 6 giờ sáng khắp nơi trong thành phố cho tới 9 giờ tối mà tôi chưa biết đêm nay phải ngủ ở đâu ?.. Có hôm tôi chỉ ăn vài trái chuối qua ngày vì không tiền. Có nhiều hôm được tin bọn công an bố ráp ở các bến xe đò Xa Cảng Miền Tây, nhà ga xe lửa là những nơi tôi thường mướn chiếu để ngủ nên phải tìm vào nhà các bạn để trốn..

Tôi bị bắt hụt lần thứ 2……
Có lần tôi đang ẩn trong nhà một người bạn ở quận 11, Sài Gòn, khoảng 1 giờ khuya, bọn Công An Phường tông cửa ập vào nhà, tên Công An trưởng ra lệnh tất cả phải đứng yên tại chỗ và cho biết là chúng được tin trong nhà bạn tôi có làm lò nướng bánh mì lậu . Chúng bắt đầu lục soát..T rong lúc đó tôi đang ở trong phòng ngủ của bà mẹ anh bạn vì bà về thăm quê ở Thốt Nốt, nên anh bạn cho tôi ngủ tạm, vì tôi cũng đề phòng trường hợp nầy có thể xảy ra nên tôi không nằm ngủ trên giường mà chỉ trải tấm mền lót để nằm dưới đất, còn trên giường thì mùng,mền, nệm gối đều xếp ngay ngắn, cửa phòng khi vào tôi đã khóa lại phía trong, khi nghe tiếng bọn Công An vào tôi liền kéo tấm mền đẩy vào gầm giường rồi chung vào trốn trong tủ áo vì quá cấp tốc nên tôi không còn đường nào để thoát..

Tiếng tên Công An trưởng hỏi bạn tôi :
“Ai ở trong phòng nầy?”
Bạn tôi trả lời :
“Đây là phòng ngủ của má tôi hôm nay bà đã về quê ở Thốt Nốt thăm bà con, không có ai ở trong đó hết”

Tên Công An ra lệnh bạn tôi lấy chìa khóa mở cửa phòng để chúng khám xét. Tôi lo sợ nghĩ rằng lần nầy hết phương thoát khỏi. Sau khi cửa phòng đã mở tôi nghe tiếng chân của tên Công An bước vào phòng, tôi hé nhìn kẹt cửa tủ áo thấy tên nầy ngó dáo dác trên giường rồi bước đến bàn đèn chộp lấy chiếc đồng hồ đeo tay của tôi đang để trên bàn rồi vội bước ra và ra lệnh cho mấy tên khác lên gác lục soát để tìm tang vật về việc làm bánh mì lậu như bột mì, bàn cân bột .v.v. Khi bọn Công An lên gác anh bạn vội mở cửa sau cho tôi tẩu thoát. Tôi thoát nạn lần nầy là nhờ vào chiếc đồng hồ “Hai cửa sổ, ba người lái” (Tiếng của bộ đội CS khi mới vào Nam) của tôi, vì tên Công An lấy được nên vội bỏ đi ra ngay…

Lần thứ 3 bị bắt hụt…..
Trong gần dịp lễ Giáng Sinh năm 1977, được tin bọn Công An sẽ bố ráp ở các nơi công cộng, bến xe đò, nhà ga xe lửa, nên tôi đến xin bạn tôi cho ngủ nhờ.. Khoảng 12 giờ khuya có tiếng đập cửa và tiếng bọn Công An kêu gọi mở cửa phía trước lẫn phía sau.. Trong lúc bạn tôi đi mở cửa, tôi chạy lên gác lầu và mở cửa sổ leo lên nóc nhà và bò rạp mình theo bóng tối qua 2-3 nóc nhà và nằm nép mình xuống máng xối giữa 2 mái nhà của phòng bán thực phẩm do cán bộ VC quản lý. Chúng lục xét khắp nơi rồi lên gác mở cửa sổ nơi tôi vừa thoát ra.. Chúng nhìn qua mấy nóc nhà nhưng vì tối quá nên chúng nó không thấy tôi nên chúng xuống lầu rồi bỏ đi… Kể từ đó anh bạn tôi không còn muốn thấy mặt tôi nữa vì anh đã quá sợ. Còn về phần tôi thì cũng ngại ngùng không muốn liên lụy đến anh bạn nữa nên tôi tránh xa khu nhà của anh..!

Tôi được một anh bạn khác giới thiệu cho tôi gặp một người đại diện cho một tổ chức kháng chiến chống Cộng ở miền Tây,(xin được giữ kín) lúc đó tôi cũng có trách nhiệm cố vấn tham mưu, đại diện cho một lực lượng tại đô thành Sài Gòn gồm nhiều thành phần hỗn hợp, tôn giáo, quân nhân, công chức của Việt Nam Cộng Hoà . Vì lúc nầy tất cả Sĩ Quan đều bị đi tù cải tạo. .còn lại thành phần quân nhân từ Hạ Sĩ Quan trở xuống . Anh bạn Người Nhái của chúng tôi cấp bậc là Thượng Sĩ đã họp cùng một số anh em quân nhân và vài đoàn thể Tôn Giáo khác tổ chức ra một lực lượng trong đô thành. Khi anh gặp được tôi trốn trại lần thứ 2 , anh ngỏ ý nhờ tôi giúp trong phần điều hành nhân sự vì trong tổ chức nhân sự đã vượt quá khả năng Hạ Sĩ Quan của anh .

Tôi cũng cho anh biết là khả năng của tôi cũng hạn hẹp. Không thể lộ mặt được vì đang lẩn trốn, tạm thời tôi xin nhận phần Chìm đại diện cho tổ chức để tìm các tổ chức khác để kết hợp.v.v. Trong phần vụ đó tôi đã dấn thân cùng với một tổ chức khác đi về miền Tây để liên lạc với các cánh quân ly khai vùng Sóc Trăng và Cờ Đỏ.., và sau buổi họp tại khách sạn ở Cần Thơ, tôi đã bí mật mang về Sài Gòn những số nhà của các địa điểm cần được phối kiểm để tiếp tế khi cần. Nhưng chỉ vài tuần sau thì tổ chức tôi đang hơp tác bị bể.. Chúng tôi đành phải nằm yên..

Nhờ người bạn thân giới thiệu tôi với một đại diện một cánh quân ở Miền Tây, tổ chức của anh đang bị động ở miền Tây nên anh lánh về Sài Gòn..Tôi và anh bàn thảo trong tinh thần cởi mở thân mật vì chúng tôi đều đang đi tìm những đường dây tiếp tế thật sự từ ngoại quốc về và hứa sẽ giúp đỡ cho nhau khi cần với khả năng mà mình có..

Sắp đến Tết Nguyên Đán ở đô thành lại bị bố ráp, tôi đến gặp anh Trần (xin tạm gọi là anh Trần…) nhờ anh giúp đưa tôi tạm lánh nạn về miền Tây ở vùng Cái Răng..Anh giới thiệu tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn đi tìm việc làm với ông chủ vườn cây ăn trái và nhờ ông giúp đỡ.. Ông chủ vườn đưa tôi vào vườn cây của ông cách mặt lộ khoảng 3 cây số.. Vì là vùng đất Bưng (đất sét đen) nên chỉ đi bằng chân không, vì bùn sình lún sâu không thể mang giày dép được .Tôi ở chung với vợ chồng người cháu.

Tôi tạm gọi là anh Ba, anh là HSQ Truyền Tin, anh tự làm cho mù mắt để được miễn dịch, sau khi VC chiếm miền Nam, vợ chồng anh bần khổ nên về đây ở tạm. Anh cũng thường tự trách mình mỗi khi tâm sự với tôi là ngày trước anh đã hèn nhát, đã tự hủy hoại thân thể để cầu an..bây giờ VC vào rồi anh mới thấy hối hận.. Anh cũng hỏi thăm dò tôi thuộc thành phần nào nhưng tôi giấu nhẹm chỉ cho anh biết tôi là người Tàu lai tên là Hứa Gia Ân..

Vườn cây ăn trái có khoảng 300 gốc, ban ngày tôi tưới nước và lặn xuống dòng rạch để móc sình non lên vun gốc. Ban đêm khi chiều xuống , tôi và anh Ba chèo xuồng đi giăng câu ở những nơi hoang vắng để tránh tai mắt bọn Công An vùng.. Có nhiều đêm mưa tầm tã chúng tôi quần áo ướt sũng co ro trên xuồng, hoặc tìm vào các ngôi miễu hoang mà trú ẩn cho qua cơn mưa, gần sáng chúng tôi mới chèo xuồng về. Vợ anh Ba, chị đem cá câu được đem ra chợ Cái Răng bán và mua lại gạo muối về dùng..Thỉnh thoảng một vài tuần anh Trần vào thăm tôi và tiếp tế chút ít tiền đưa cho anh chị Ba lo giúp phần ăn uống cho tôi vì ông chủ vườn cũng không có dư dả nên vợ chồng anh Ba và tôi điều phải tự túc..

Thoát nạn lần thứ 4…..
Tôi ở đây gần 3 tuần, tôi đã gặp NN Nguyễn Văn Cao chung khóa 2 NN với tôi,trong lúc tôi ra mặt lộ để hớt tóc. Cao gặp tôi vui mừng, tôi vội kéo Cao ra ngoài để tránh mọi người để ý và cho anh Cao biết là tôi đang lẩn trốn vì đã vượt tù cải tạo hiện giờ thân phận tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn thất nghiệp nên xuống đây làm vườn để sống….Cao khẽ nói với tôi :
“Chú Ba T..(Ông chủ vườn) ngày xưa đã tiếp tế VC. Nếu anh ở nhà ông thì tạm là an toàn vì Công An phường khóm đều quen biết ông.”

.Nhưng vài hôm sau ông chủ vườn cho tôi hay là Công An nói giấy tờ của tôi đã gần hết hạn và muốn gặp mặt tôi vào ngày mai. Tôi cảm thấy nguy hiểm nên khoảng 3 giờ sáng sớm hôm sau tôi lén rời khỏi Cái Răng đi xe đò trở về Sài Gòn…
Sau đó có lúc tôi ở Cai Lậy, Cần Thơ, Cái Răng, Bò Ót, Ô Môn, Thất Sơn, Châu Đốc…Tôi cố tìm vào các nơi bưng biền, nhưng khi biết ra thì các anh em chỉ có ngọn mà không có gốc. Tôi đành phải vượt biên, sau khi đã bị VC bắt hụt mấy lần. Cuối cùng tôi được một người bạn thân giúp cho tôi đem vợ và đứa con trai vừa hơn 3 tuổi.

NGÀY VƯỢT BIÊN
Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên! Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ rồi chạy ra cửa biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG- 0660 đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, vì trên ghe có người đã vượt biên 5 lần 7 lượt mà vẫn không thoát, lần nầy ghe lại mắc cạn, nên mọi người đều lo sợ.

Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hãy bình tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và khi nào tìm được chỗ nước sâu tới ngực thì kêu lên. Tất cả đều làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước thì máy bơm nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.

Tôi nghi ngờ anh tài công nầy, tôi lên phòng lái hỏi anh tài công : “Anh chở theo bao nhiêu lít dầu ?”
Tài công trả lời : “400 lít”.
Tôi hỏi :” Ghe nầy chạy bao nhiêu cây số giờ ?”
Tài công : “không biết!”
Tôi hỏi: “Bây giờ anh đang chạy đi đâu ?”
Tài công : “Cứ chạy rồi sáng vô Hòn Khoai tính lại”
Tôi biết tên tài công nầy có mưu đồ, tôi tức giận thét lớn lên :
“Anh rời khỏi phòng lái ngay, kể từ bây giờ tôi lái chiếc ghe nầy!”

Tôi kéo cổ tên tài công ra khỏi phòng lái và dặn các anh trưởng toán coi chừng tên tài công, còn tôi vào phòng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn Sơn và Hòn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nhìn về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế.

Tôi được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ý định vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. Còn ghe thì không có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đã vào theo kẽ hở tróc chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, còn máy cũng hư, chỉ còn máy tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong phòng lái mà thôi. Tôi đem tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mả Lai, tỷ lệ 1/40.triệu, nhìn vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út, dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh,(Tôi đem theo tấm bản đồ và địa bàn nầy trong mình là dự tính vượt biên bằng đường bộ.) tôi đo và xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru,của Mã Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.

.

Tôi lái ghe đổi hướng trực chỉ.. chúng tôi đã đi 2 đêm 2 ngày, mỗi ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗg thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều , chiếc tàu chạy tốc độ rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan. Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập vào, vì ghe không có máy lùi nên kêu tất cả thanh niên khoảng gần 30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào thì đỡ lại, và tôi lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu, nhưng tàu Thái Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên Thái rớt xuống biển. Tôi vòng ghe lại vớt tên nầy lên, tên thủy thủ lên ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan vòng lại và ra dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi.

Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước ngọt, (vì khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đã đổ bớt nước ngọt đem theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt.) Sau đó tàu Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, còn chúng tôi tiếp tục đi. Bà con trên ghe bàn tán, có lẻ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi..?!

Đến chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các anh biết là tình trạng chiếc ghe không còn an toàn nữa, vì chất chai trét đã bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang cứu giúp. Tất cả đều lo lắng.. Khoảng 6 giờ chiều, bổng thấy ánh sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỷ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe rã ra và chìm xuống nước, 59 người lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mã Lai..

Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG – 0660 đã làm tròn trách nhiệm của mình đưa người tới bến bờ TỰ DO và đãtrở về với lòng Đại Dương ngàn đời.!.Còn Chúng ta ..những đứa con vì 2 chữ TỰ DO đã bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm châu.. Biết đến bao giờ những đứa con nầy mang 2 chữ TỰ DO về cho đất mẹ ?..!!

NN Lê Đình An
Mã Lai, Mùa Thu 1978

Xem thêm: Những bài viết của NN Lê Đình An

Đường Pasteur – Nhớ người không quen

PHẠM CÔNG LUẬN

Đối với tôi, đường Pasteur là con đường rất đẹp, với lề đường rộng và cây xanh chen lẫn các ngôi biệt thự xây từ thời thuộc địa vẫn còn tồn tại. Đây là con đường sang trọng và tao nhã, với cây cao bóng cả thả nắng vàng xuống mặt đường mỗi ngày.

Thật khó hình dung con đường này, vốn lộ giới chỉ khoảng 20 – 25m, thời Pháp thuộc thực chất là hai con đường chạy dọc hai bên một con rạch nước chảy, có lẽ đổ ra rạch Nhiêu Lộc, đều mang số 24. Năm 1865, khi người Pháp đã ổn định chế độ thuộc địa, họ đặt tên đường bên trái là Olivier còn đường bên phải là Pellerin. Sau con rạch được lấp đi và hai đường nhập làm một, thành đường Pellerin.

Năm 1955, chính quyền TT Ngô Đình Diệm đổi thành đường Pasteur. Tháng 8.1975, đường đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai nhưng cho đến năm 1991, lấy lại tên Pasteur. Đường chạy từ đường Võ Văn Kiệt cho đến Trần Quốc Toản khoảng 2,5 cây số.

Có lẽ sự kiện đầu tiên mang tầm vóc lớn nhất mà cư dân dọc hai bên đường chứng kiến là sự kiện nhà yêu nước Phan Châu Trinh mất năm 1926. Linh cữu của cụ được quàn trên con đường này, nhà Bá Huê Lầu của ông Huỳnh Đình Điển ở số 54. Tang lễ được thân hào nhân sĩ Sài Gòn tổ chức cử hành như nghi thức quốc tang. Từ tờ mờ sáng, người người từ khắp thành phố và vùng phụ cận đổ về đường Pellerin để đưa tang.

Đám tang đi theo lộ trình từ nhà 54 qua đại lộ Norodom (nay là đường Lê Duẩn), đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) rồi đi thẳng xuống Phú Nhuận đến nghĩa trang Gò Công tương tế ở Tân Sơn Nhứt. Đó là một sự kiện chấn động vì lễ tang của cụ lớn chưa từng có ở Sài Gòn, với hơn 6 vạn người tham dự đưa linh cữu đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Sự kiện lớn đó khuấy động không khí yên tĩnh của con đường toàn biệt thự kín cổng cao tường này. Dù vậy, đoạn đường Pellerin phía trung tâm Sài Gòn thuộc quận 1, mé Hàm Nghi vẫn sôi động hơn do hoạt động buôn bán so với hai bên dãy phố từ ngã tư giáp đường Lê Duẩn ngày nay đi xuống phía đường Trần Quốc Toản với đa số biệt thự.

Người đi xe đạp trên đường Pellerin khoảng 1950. Trong hình là chỗ gãy góc của đường Pasteur, đó chính là ngã tư Pasteur – Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng). Ảnh: TL

Một nhà sưu tầm dĩa nhạc cho biết thời thập niên 1920 – 1930, trên đường này có đại lý hiệu dĩa Béka là hãng Société indochinoise d’ Importation ở số 40-44 rue Pellerin, vừa bán máy vừa bán dĩa mà anh thỉnh thoảng thấy in trên bao bì dĩa hát xưa. Anh kể khi tò mò lục báo Phụ Nữ Tân Văn xuất bản thời đó tìm tung tích hãng dĩa mới biết ngay góc Pasteur và Hàm Nghi bây giờ từng có dinh lãnh sự Trung Hoa mới được dời về năm 1936, là sự kiện long trọng đối với người Hoa ngụ cư nên họ kéo nhau đi xem chật đường. Sau này, đây là tòa đại sứ Đài Loan cũ trước khi dời về đường Hai Bà Trưng trước năm 1975. 

Báo chí xưa thuật lại: đầu hè năm 1937, ngã tư Pellerin và Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) có một vụ đụng xe đáng nhớ. Buổi chiều, một chiếc xe tracteur kéo theo chiếc rờ mọt trên đường này chạy xuống đến ngã tư nói trên thình lình thấy một chiếc xe đạp ba bánh của chú Lý Yên chở vài chục tĩn nước mắm từ chợ Bến Thành định đưa lên Phú Nhuận bán.

Anh tài xế xe tracteur thấy chiếc xe đạp đó liền bẻ tay lái qua bên phải để tránh nên chạy lủi xuống mé sông. Thình lình, có một chiếc xe mui kiếng của bà Phạm Thị Vân ở dưới đường Pellerin chạy lên bị chiếc tracteur đụng ngay phía hông trái rất mạnh. Anh lái xe mui kiếng thấy xe mình bị đụng liền lấy tay lái qua phải, ủi chiếc xe nước mắm lật ngang, bao nhiêu nước mắm bể hết ráo.

Cuối cùng, chiếc tracteur vẹo bánh trước, chiếc xe mui kiếng bị móp hông trái và xe đạp ba bánh hư nát. Nước mắm bốc mùi khiến dân khu phố chung quanh bị ám ảnh đâu cũng có mùi nước mắm mất mấy ngày. 

Trang báo quảng cáo một nhà buôn trên đường Pasteur. Ảnh: T

Lúc đó, nhà số 2-4 là Ngân hàng Indochine. Số 25 là quán cà phê kiêm nhà hàng Yeng Yeng, hiện nay là một cơ sở của Saigon Tourist. Số 93 Pasteur là dưỡng đường của bác sĩ Trần Văn Đỗ, được quảng cáo có nhiều phòng rộng rãi để nuôi bệnh và sản phụ; có cả nhà mổ và sinh khó, có cả rọi kiếng (X quang), chụp hình phổi tim bao tử, trị bệnh bằng tia cực tím.

Bên kia đường, số nhà 80, thời gian sau xuất hiện thêm một ông “y khoa học sĩ bào chế” tên Nguyễn Văn Cung gần Chợ Cũ chuyên trị bệnh hậu như nhức mỏi, phong thấp, bại xụi, tê thấp, lao phổi, máu huyết, tê bại, phong đơn, phong tình… Số nhà 162 trước đây là nhà Đốc phủ Hải, hiện nay là một tòa nhà lớn cho thuê làm văn phòng.

Trước năm 1975, khi tôi còn nhỏ đã có nhiều dịp đi ngang con đường xinh đẹp này, nhưng kỷ niệm lại không vui vì phải đi chích thuốc ngừa phong đòn gánh (bây giờ gọi là bệnh uốn ván) ở Viện Pasteur cuối đường. Lúc đó, nhớ mang máng chỗ phở Hòa bây giờ chỉ là xe phở bán trên lề đường mà tôi được ăn sau khi chích ngừa.

Gần đó là nhà may Thiết Lập rất nổi tiếng ở Sài thành thường quảng cáo trên báo, mà nhà tôi thường có tờ tuần báo Thẩm Mỹ Tân Tiến để chị tôi đọc mục dạy cắt may của bà Nguyễn Thị Bắc, chủ nhân. Thời đó, áo dài kiểu tay raglan đang thịnh hành. Nhìn vào tiệm may thấy thợ ngồi đông đúc, nghe nói tới 50 thợ may. Báo chí đăng trung bình mỗi ngày tiệm giao khoảng 100 áo dài cho khách, các ngày gần lễ Giáng sinh hay Tết còn nhiều hơn. 

Tiệm may Thiết Lập. Ảnh: TL

Trên con đường này, lưu dấu một hình ảnh mà những người lớp tuổi bảy mươi sống ở Sài Gòn trước năm 1975 trở lên còn nhớ. Trong cuốn Hồi ký của Nguyên Sa, ông kể một kỷ niệm về thời còn làm báo ở Sài Gòn, thỉnh thoảng ông đi chơi cùng nhà văn Mai Thảo trên chiếc xe Fiat hiệu Austin, lòng vòng các đại lộ Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ… Mai Thảo lái xe đến một căn nhà gần bờ sông Sài Gòn, cả hai ngồi trong phòng khách nhà một thiếu nữ mắt rất đen và to mà Mai Thảo quen biết. Cô  ta đến sau bức bình phong, thay bộ đồ để đi chơi cùng hai ông. Phía sau bức bình phong chỉ ló ra đầu và hai chân, cô ta nhìn Nguyên Sa cười có vẻ e thẹn. Sau đó, cả ba lên xe đi chơi tối, có khi đi chơi ở nhà hàng – vũ trường Arc en Ciel.

Lần cuối cùng Nguyên Sa gặp cô gái ấy là trên đường Pasteur. Ông kể khi đang yên vị trên xe thì “Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích”. Cả hai xuống xe, băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.

Nguyên Sa thấy: “Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm dị dạng. Hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn. Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất. Dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”. Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói bằng xúc giác, không có âm thanh nào được cất lên”. 

Khi trở lại xe, Nguyên Sa nói ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung, tên người phụ nữ thay áo sau tấm bình phong mỗi lần hai ông đến đưa nàng đi làm, đi ăn hay ra hóng mát. Cô bị tạt axít trong một trận đòn ghen mà báo chí đưa rất nhiều. Nguyên Sa nhìn bạn ngậm ngùi: “Cẩm Nhung!” và Mai Thảo nhìn về phía trước, như nói một mình “Nhung đấy!”.

Con đường không quá dài, nhưng mỗi đoạn đường mang đến một cảm giác khác. Nhớ hồi nhỏ, ra Lê Lợi mua sách cùng với anh thì thế nào cũng phải ghé góc Lê Lợi – Pasteur ăn gỏi khô bò và uống nước mía. Xuôi xuống, qua công viên trước dinh Độc Lập thì biệt thự và cây xanh nối tiếp, đến gần cuối đường, đi qua viện Pasteur ngay góc Trần Quốc Toản có một bô rác nhỏ làm xấu con đường xinh đẹp này. Rồi lớn lên, đi làm. Thỉnh thoảng tôi ngồi uống cà phê trên vỉa hè gần cổng trường Đại học Kiến trúc ở số 196 Pasteur.

Ở đó, tôi nghe một đàn anh hành nghề kiến trúc sư tốt nghiệp từ trước năm 1975 kể câu chuyện khó tin trong trường. Anh kể trường này có nhiều… ma mà sinh viên ở lại trường làm bài khuya thường “thấy”. Ma là phụ nữ ngồi ru con ở đầu tường gần khu nhà vệ sinh. Ma cụt giò chiếm phòng chấm bài. Cuối họa thất 1 có cô nữ sinh mặc áo dài trắng ôm cặp ngồi trên bàn vẽ đung đưa chân, khu khác còn chàng thanh niên thường thơ thẩn.

Bài viết đăng trên một diễn đàn cựu sinh viên kiến trúc kể rằng hồi lính Nhật chiếm Sài Gòn trước năm 1945 có đóng trụ sở ở đây, phía dãy nhà văn phòng và họa thất là khu chuồng ngựa, gần đó là phòng giam người. Người dân gần đó chứng kiến lính phát xít Nhật giết nhiều người ở đây nên có oan hồn uổng tử đi lởn vởn. 

Điều đáng tiếc nuối nhất với tôi là vườn hoa Vạn Xuân đối diện Đại học Kiến trúc phía bên trái ngay góc ngã tư Pasteur – Trần Quý Cáp mà những năm 1980 tôi còn thấy. Trước năm 1975, đối diện vườn hoa này ngoài Đại học Kiến trúc còn có trường tiểu học Trần Quý Cáp, phòng đọc sách thiếu niên Trung tâm Sài Gòn. Vạn Xuân là vườn hoa nhỏ, một trong hai vườn hoa đẹp ở Sài Gòn cùng vườn hoa Chi Lăng. Vườn có cây cối xanh tươi, phía xa có ngôi nhà kiểu thuộc địa sơn vôi màu vàng, được dân quanh đó gọi là Nhà đèn, cảnh trông như một vườn hoa ở nước Pháp trong tranh vẽ.

Trước năm 1975, đây là nơi nam sinh các trường  Lasan Taberd, Võ Trường Toản hay nữ sinh Marie Curie, Gia Long, Trưng Vương thích đến dạo chơi, có nhiều kỷ niệm thuở học trò. Từ thập niên 1980, vườn hoa này nhập vào khuôn viên nhà thi đấu thể thao Phan Đình Phùng nên bị xóa sổ. 

Vườn hoa Vạn Xuân nay không còn. Ảnh: TL

Tôi vẫn đi con đường này hằng ngày, thỉnh thoảng nhìn vào trụ sở Hội Mỹ thuật thành phố, ở ngôi nhà 218A. Ở đó, bỗng nhớ những dòng chữ của họa sĩ Hà Cẩm Tâm, học trường Mỹ thuật Gia Định ra, vẽ đẹp và viết nhiều bài rất hay trên trang Gió O. Tháng 4.1997, về thăm nhà sau 20 năm ở xứ người, ông sẵn dịp làm một cuộc triển lãm cá nhân tại Hội Mỹ thuật thành phố. Cuộc triển lãm kéo dài trong mươi ngày đầu tháng 6.1997 với 45 bức tranh sơn dầu vẽ tại Sài Gòn trong một tháng.

Trong bài Tưởng mất mà còn, ông nhắc đến nhà văn Dương Trữ La là bạn thân thiết: “Dương Trữ La ở phòng tranh chơi với tôi suốt buổi chiều. Ra ngồi uống cà phê vỉa hè đường Pasteur, tôi ngước mắt nhìn hai hàng cây trẻ thơ hai bên đường năm nào mà hôm nay đã thành những cổ thụ già như trong Ai xuôi vạn lý của Lê Thương. Chẳng nói nhiều với nhau, thỉnh thoảng chỉ nhắc lại kỷ niệm, bạn bè kẻ còn người mất, người chết kiểu này, kẻ sống kiểu kia, người ở lại, kẻ ra đi mịt mờ sương khói. Trong tâm thức, cả hai đều chung một con đường tuần cảm, một chấn động đầy vơi, một nỗi bàng hoàng, một niềm chua xót…”. Vài câu lay động lòng kẻ hậu sinh, tuy chưa bao giờ hân hạnh gặp và nay ông cũng đã mất. 

Kỷ niệm vụn về con đường nhắc lại mà thấy hơn 60 năm vèo qua quá nhanh trên thành phố này. 

Phạm Công Luận