Viết để tặng các Chiến Hữu Giang Đoàn, và đặc biệt cho các anh Huỳnh Duy Thiệp, Đỗ Quang Khanh, Lê Hữu Dõng để nhớ lại những bữa ‘khề khà’ tại các quán nhậu bên sông.
Cái danh từ quá mới lạ!
Các Cụ cứ nghe lời tôi, nhắm mắt lại và phiên âm ra tiếng Mẽo thì các Cụ sẽ vỗ đùi đánh đét một cái, cười lên hô hố mà rằng:
– A! Ta đã tìm ra chân lý.
Các Cụ nghĩ rất đúng, đó là phiên âm tiếng Việt của danh từ ‘yard sale’. Một danh từ mới quen của dân tị nạn đợt đầu và bỡ ngỡ đối với những người mới đến.
Danh từ Da-Xeo rất thông dụng, để quảng cáo việc bày bán trước sân nhà các món hàng cũ, mới, kể cả các món hàng sức càng, gãy gọng mà gia chủ, muốn vớt vát lại một tí tiền còm sau là đỡ ‘chật chội’ nhà cửa.
Ngoài danh từ da-xeo còn có nhiều danh từ khác như : gờ-rai-xeo (garage sale), pót-xeo (porch sale), bây-sơ-mân xeo (basement sale). Đại loại thì những món hàng được bày bán cũng như da-xeo nhưng những danh từ trên chỉ có mục đích ám chỉ vị trí bày bán mà thôi.
Ngoài các danh từ trên còn có danh từ “phi-mạc-kết” (flea market) hay “râm-mét-xeo” (rummage sale). Những nơi này thì các món hàng được bày bán nhiều hơn và được bán tại các Nhà Thờ hay cơ quan Từ Thiện. Tiền thu được sẽ bỏ vào quỹ sanh hoạt cho các cơ sở nầy.
Ở những nơi bày bán da-xeo cho tới phi-mạc-kết, các Cụ có thể tìm mua được từ cái muỗng cho tới dàn máy HiFi, từ bàn ghế cho tới vật liệu trang trí trong nhà. Về giá trị món hàng thì các Cụ có thể tìm thấy từ món hàng “mới tinh” chưa cắt chỉ với giá rẻ mạt (give away price) cho đến chiếc ‘bát mẻ’ của mấy mụ già Mẻo keo kiệt. Nhưng tổng quát mà nói thì tìm mua vật dụng tại các ‘chợ trời’ này là một tiết kiệm đáng kể và đặc biệt là cho những người mới định cư trên đất nước này (fresh off the boat), trong khi tiền bạc chưa được thoải mái.
Khách hàng da-xeo gồm nhiều thành phần, từ những người cố tình tiết kiệm tìm mua những vật dụng cần thiết với giá rẻ, cho đến nhà sưu tầm ‘đồ cổ’, mà những nơi này họ có thể tìm được những cái mà họ thích, có thể là những bức tranh quí giá cho đến cái ’bi đông’ rỉ sét của thời kỳ Nam Bắc phân tranh Yankee/Confederate. Cũng có người mua đi bán lại, tìm mua những hàng thật rẻ để bày bán ở một nơi khác với giá cao hơn. Còn một loại khách hàng cuối cùng rất đặc biệt, đi da-xeo không phải vì tiết kiệm, không tìm mua đồ cổ mà đi da-xeo là một ‘cái thú’ đấy các Cụ ạ.
Tôi có người bạn được xếp vào loại người sau cùng, đi da-xeo là một cái thú của ngày nghỉ cuối tuần.
Vào những buổi chiều Thứ Năm, Thứ Sáu, trên đường về từ sở, các bảng da-xeo màu xanh, màu đỏ với những mũi tên đỏ chói như mời gọi, rủ rê. Anh định hướng bản đồ, lấy ‘tọa độ’, một bảng da-xeo là một ‘chốt điểm’ mà anh cần phải thanh toán, giống như ngày nào trên sông rạch Miền Nam mà anh là một thủy thủ Giang Đoàn, anh tháo cản, khóa chốt bảo vệ cho các đoàn công voa gạo, than xuôi ngược an toàn.
Ngày Thứ Bảy đã đến, sau phần điểm tâm, anh đem bảng đồ ra nghiên cứu địa thế lần cuối. Không cần phải có Bản Ước Tính của Ban 2 (tình báo), anh vẫn nắm vững tình hình. Trục Tiến Quân đã được vạch ra trong trí. Một Đường Lối Hành Động hữu lý đã được chọn lựa và Chiến Thuật ‘diều hâu’ sẽ được áp dụng cho cuộc hành quân…..Big Bargain Operation.
Đúng 9:00 giờ sáng, anh ra xe, chị vợ chạy theo nói với:
– Anh nhớ về sớm, trưa nay có anh chị T. mời đi ăn đầy tháng cho con.
Anh chồng vẫn bước đều, tay phải cầm tấm bảng đồ phe phẩy, mắt ngời sáng nhìn về phía trước như sắp ra hiệu cho các các đứa con, Monitor, Zippo, sẵn sàng vào tuyến xung phong.
Anh rồ mày, sang số, chiếc xe hăm hở chồm lên với một sự náo nức giống như tâm trạng của chủ nó.
Sáng nay là một buổi sáng đẹp trời vào đầu mùa Hè, khí hậu mát mẻ, anh cảm thấy thoải mái vô cùng. Chị vợ nhìn theo, lắc đầu nhè nhẹ, khép cửa quay vào nhà, thở dài lẩm bẩm:
– Xong!
Chị vợ hiểu chồng mình hơn ai hết, ra khỏi nhà là là quên mất thời gian, may mà không quên đường về, hú vía!
Qua nhiều quãng đường lên đồi, xuống dốc, xa xa một tấm bảng màu mè xuất hiện, kinh nghiệm cho anh biết là sắp đến mục tiêu.
Anh khẩn trương hơn ở vị trí sẵn sàng ra lệnh cho toán Tiền-Sát-Đỉnh dồn hỏa lực đồng loạt tác xạ phủ lên đầu địch đang núp sau rừng ‘dừa nước’ ở hai bên bờ sông. Tấm bảng da-xeo rỏ dần có mũi tên chỉ vào bên trái, mắt vẫn không rời mũi tên, anh ôm tay lái quẹo liền bên trái. Mũi tên dường như có một sức hút kỳ quái, như thôi miên, điều khiển anh quẹo trái rồi quẹo phải và cứ thế tiếp diễn trên con đường ngoằn ngoèo, như đưa Giang Đoàn tiến sâu vào mật khu U-Minh, thể theo dấu chỉ điểm của các anh hùng Biệt Hải.
Mục tiêu đã bày ra trước mắt, người ra vào tấp nập, xe đậu chật cả hai bên đường. Anh tìm một chỗ trống, đậu xe và bước nhanh như sợ người đến trước ‘chớp’ mất món hàng mà có thể được anh ưa thích.
Đáp lễ lời chào mời khách của chủ nhà một cách cho qua chuyện để anh còn thì giờ táy máy mấy món hàng bày bán. Kìa, chiếc xe đạp tập thể dục còn tương đối mới (elliptical bike), xem rất ‘bắt mắt’. Anh nghĩ mình đã ở tuổi Thất Tuần, thỉnh thoảng nên múa may một chút cho máu huyết lưu thông, cho đầu gối thật ‘nhuyển’. Anh trèo lên đạp thử, tay bóp thắng, gật cần sang số, đạp nhanh như lấy trớn lên dốc Tour de France. Xe còn tốt nhưng giá tới 50 bucks, mắt quá. Rời xe đạp anh bước qua chiếc bàn bên cạnh, chất đầy vật liệu linh tinh, anh với tay cầm chiếc máy quay phim loại nhỏ đưa lên ‘bấm’ thử, tiếng máy xè xè làm anh thích thú, anh nghĩ? Mua về cho thằng con trai chắc nó thích lắm. Nhìn tiền ghi trên máy, giá 5 đô. Giá phải chăng nhưng anh vẫn kỳ kèo với bà chủ để chỉ trả cho món hàng với giá 2.50 tì, 50% off.
Rồi chiến trường đầu tiên với món ‘chiến lợi phẩm’ trên tay, anh qua mục tiêu kế tiếp.
Cảnh cũ lại tái diễn, anh đậu xe, bước vào. Một giọng chào hỏi lơ lớ (broken English) nổi lên; anh chào trả và làm bẩm trong bụng:
– Chém chết mấy cha nội Ngoại Quốc nầy bán đồ để kiếm vốn về xứ đây.
Đúng y như rằng, hàng bày bán với giá quá mắc vì ‘không phải của đổ mà là của hốt’. Anh rảo nhanh một vòng rồi đi ra xe nhưng không quên chào bà chủ một câu:
-Ô Voa! (au revoir)
Anh ra xe nối tiếp con đường còn lại để thỏa mãn trọn vẹn cái thú vui cuối tuần.
Thì giờ chậm chạp trôi qua, mười một giờ, mười hai giờ, rồi cây kim ngắn chỉ vào số 1. Chị vợ ở nhà nóng ruột ra vào không yên. Chuông điện thoại reo tới tấp. Chị vợ quýnh quáng chụp lấy ống nghe, một giọng quen thuộc nổi lên:
– Chị… đó hả? Đi chưa, anh chị H. đã đến rồi đó, đầy đủ cả rồi chỉ còn chờ hai ông bà thôi.
– Chị vợ mếu máo, ảnh chưa dìa! Cứ ăn trước đi, ảnh dìa tui lại ngay hà.
Gác ống nói, chị vợ bực mình đi tôi đi lui. Phải nói rằng, chị vợ của bạn tôi rất vui tánh, cởi mở nhưng có một yếu điểm là để bị chi phối vì ngoại cảnh, chị rất dễ bị ‘lính quýnh’ nếu một ai hối thúc hay làm áp lực.
Ba giờ chiều, tiếng xe quen thuộc rẽ vào ngõ, tiếng cửa xe đóng đánh sầm, tiếp theo là những âm thanh kỳ lạ, lỏn cỏn, lảng cảng, thỉnh thoảng lại có tiếng loong coong như có vật gì rớt trên nền xi măng .
Chị vợ nhìn ra, thấy ông chồng mặt tưoi rói, khệ nệ khiêng chiến lợi phẩm vào nhà, thôi thì đủ thứ lỉnh ca, lỉnh kỉnh. Chị vợ hối thúc chồng thu dọn chiến lợi phẩm vào một góc nhà để còn đi ăn đầy tháng cho con anh chị T.
Thời gian tuần tự trôi qua, đống chiến lợi phẩm cứ lớn dần và lớn dần. Anh cứ mua nhưng chẳng biết để làm gì, cho đến một ngày không còn lối di, chị vợ lẳng lặng cho ‘di tản chiến thuật’ vào thùng rác, cho đỡ chật nhà.
Trên đời này có nhiều cái thú, nhưng anh bạn tôi không tìm thú vui qua hình thức rượu chè để đánh vợ, chưởi con, anh không tìm vui qua canh bạc để vợ con đói rách. Thì cái thú da-xeo cũng là một hình thức tiêu khiển để tô điểm cho kỹ nghệ ‘chợ trời’ ngày một thêm phồn thịnh, phải không các Cụ?
Rời giảng đường đại học, bước chân vào lính, tôi tình nguyện vào quân chủng Hải quân, gia nhập vào đại gia đình của những chàng trai yêu sông, thích biển…
Tháng 9 năm 1969, tôi vào Khóa 21 SQHQ. Được thụ huấn quân sự và chuyên nghiệp tại các quân trường như Quang Trung (căn bản quân sự), Thủ Đức (Tác chiến bộ binh), Hải quân Nha Trang (Hải nghiệp) và Cam Ranh (Thuyền trưởng hải đội duyên phòng). Thế là con nòng nọc hai chữ CB bám trên cập cầu vai của tôi đứt đuôi để trở thành quan hai tàu thủy. Rồi từ đó cứ theo con tàu lớn nhỏ đêm ngày lênh đênh trên biển cho đến khi chiến hạm mang tên Trường Sa do tôi chỉ huy vào những ngày cuối tháng Tư Đen biến mất vào đêm 29 tháng 4 năm 1975. Tính ra thời gian làm lính của tôi chỉ tròn 6 năm một tháng. So ra thời gian đi lính ít hơn thời gian tôi đi tù cộng sản. Thật là khoảnh khắc ngắn ngũi của một người lính biển!
.
Thời gian làm lính của tôi qúa ngắn ngũi phải không các bạn? Khi mà màu áo xanh và cập cầu vai còn nhẹ trơn, chưa đủ bạc màu gió biển và vẫn còn nhát sợ khi lái con tàu một mình đối diện với những cơn cuồng nộ của biển mà chung quanh không có một chiến hạm hay chiến đĩnh bạn nào. Ngày này qua tháng nọ trên chiến đĩnh tôi quen dần với sóng gió biển khơi không như lần đầu tiên tôi bị say sóng rã nát người, tưởng như muốn chết đi khi cùng những người bạn cùng khóa mới ra trường qúa giang chiếc hạm LST của Đại Hàn từ Saigon đi An Thới (Phú Quốc) để tân đáo Vùng 4 Duyên Hải (V4ZH). Suốt cuộc hải hành trên chiến hạm LST tôi nằm lăn ra trên boong tàu, ói hết mật vàng đến mật xanh và không còn biết mình là ai và đang ở đâu?
.
Biển! Không biết có sức mạnh nào mạnh hơn sóng biển nhỉ? Bất cứ loại tàu bè lớn cỡ nào cũng sẽ trở nên nhỏ bé và yếu đuối trước những cơn thịnh nộ của đại dương. Ngày đầu đi biển mấy ai mà chẳng say sóng? Có lẽ phải có thời gian làm quen hay trở thành “người tình” của biển hoặc vì trách nhiệm đối với con tàu làm cho người lính thủy quên đi sóng gió.
.
Tuy đời lính của tôi ngắn ngũi như thế. Nhưng thời gian đó thật có gía trị cho cả một đời người. Đồng thời nó còn cho tôi cái vinh hạnh được dâng một phần tuổi trẻ phục vụ cho Tổ quốc và niềm tự hào của người lính thủy.
Thật vậy, đời lính đã dạy cho tôi biết bao nhiêu điều trong cuộc sống, nó mang đến cho tôi thật nhiều bạn bè đồng đội thân thương, nó cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên, nó đưa tôi đi đến nhiều vùng đất lạ của đầm lầy, con sông, cửa biển, hải đảo và tận đến những vùng biển xa xôi lạ lẫm của quê hương nước Việt mà tôi chưa bao giờ có một lần đi đến nếu không nhờ cái khoảnh khắc làm lính thủy đó.
.
Dù là đời lính thủy chỉ trong khoảnh khắc, nhưng tôi rất trân trọng và cám ơn cái khoảnh khắc đó. Ngoài những gì đời lính đã cho và dạy, nó còn cho tôi cái vốn liếng đi biển. Cái vốn liếng ấy có được bởi sự tiếp nối nhau qua từng đơn vị, từng loại chiến hạm, chiến đĩnh như những mắt xích của định mệnh. Nó chính là cứu cánh đã biến đổi đời sống của tôi sau khi ra tù cộng sản. Cái vốn liếng ấy đủ giúp tôi thoát khỏi ‘thiên đường cộng sản’ bằng cuộc vượt biển thành công.
.
Tôi cũng rất tự hào với bộ quân phục hải quân. Ngày nay thỉnh thoảng tôi trân trọng mang ra mặc trong những ngày lễ hội lớn. Mặc lại bộ quân phục ngày xưa, tôi không hề thấy mặc cảm của người thua trận. Màu áo của mộng hải hồ! Tôi vẫn yêu thích mặc lấy nó vì tôi đã khôn lớn từ màu áo ấy. Nó đã cho tôi đủ thứ trong qúa khứ kể cả biết thế nào là bạo lực và xảo quyệt của người cộng sản. Chính nó đã biến đổi và mang đến cho tôi mọi sự tốt đẹp, hạnh phúc của ngày hôm nay. Mục đích cuối cùng của cuộc sống là sự thành đạt của con cái mà chúng có được như hôm nay phải chăng cũng từ bộ quân phục đó. Xin cho tôi trân trọng nói một lời cảm tạ quân chủng mẹ.
.
Nhưng cái khoảnh khắc đó cũng đã đưa tôi vào nhà tù của phe thắng cuộc. Sau 30/4/75, tôi cũng như hàng trăm ngàn người lính VNCH trở thành những người tù của lũ cộng nô. Những người lính chúng tôi chấp nhận số phận của người thua cuộc nhưng không khuất phục kẻ thù. Kẻ thắng cuộc càng hành hạ chúng tôi thì càng làm tăng thêm lòng căm thù giặc Cộng trong lòng mỗi chúng tôi. Những tên cai tù từ vệ binh cho đến cán bộ trại giam là những tên cán ngố ngu xuẩn, thất học và tàn ác. Bài học đầu tiên trong trại tù là bài “Lao động là vinh quang. Lao động làm biến dạng con người….” được tên chánh trị viên giảng bài như con vẹt nhưng chúng quên nhìn lại hình dạng của chúng không khác gì loài khỉ Trường Sơn so với người miền Nam văn minh và nhân bản.
.
Gọi chúng là bên “thắng cuộc” hay kẻ “thắng cuộc” hình như là không đúng vì chúng chỉ là một băng đảng ăn cướp đang có cơ hội tung hoành trên quê hương. Chúng như loại vi trùng nguy hiểm phá hoại, đục khóet thân thể của mẹ Việt Nam. Người lính VNCH ngày nay đang sống lại trong lòng dân tộc.
Bên cạnh Người lính VNCH kiên gan và bất khuất trong các trại tù cũng có những thằng tù bội phản đồng đội, làm tay sai cho kẻ thù. Tù nhân chúng tôi gọi chúng là an-ten (antenna). Thường bọn an-ten này được trại tù sử dụng công khai với danh xưng “trực tự viên”. Bọn trật tự viên này có nhiệm vụ rình rập, thu thập tin tức người tù để báo cáo lên ban chỉ huy trại. Thậm chí chúng có quyền đánh đập tù nhân. Tại trại giam Z30A (chợ Ông Đồn-Long Khánh) vào cuối năm 1982, tôi từng bị hai thằng trực tự viên có tên là Muôn và Lành lôi tôi về phòng riêng thay phiên đánh đá hội đồng trước khi chúng giải tôi lên bộ chỉ huy trại chỉ vì quà cáp không biếu chúng khi tôi được người nhà thăm nuôi. Vành cạnh sắt bén của chiến nhẫn đeo tay của tên Muôn còn để lại mí mắt phải của tôi một vết sẹo dài cho đến ngày nay.
. Hồi tưởng lại sau 7 năm tù cộng sản, trở về gia đình với sức khoẻ tồi tệ bên trong cái thân thể gầy gò khô héo, tôi đã nhận một chuyến vượt biên với gần cả trăm thuyền nhân. Chiếc ghe vượt biên khởi hành từ vườn hoa Lạc Hồng, Mỹ Tho và ba lần chiếc ghe bé nhỏ thoát khỏi sự đuổi bắt của tàu tuần Việt Cộng trong sông và ngoài cửa biển Bình Đại. Chiếc ghe chưa ra xa khỏi bờ biển, sóng biển tuy không lớn lắm nhưng đã làm cho tất cả thuyền nhân nằm lăn ra như chết. Còn lại một mình tôi ôm tay lái ghe vượt chặng đường hải hành hai ngày ba đêm không một phút nghĩ ngơi, chợp mắt cho đến khi được chiếc tàu dầu của Hoa Kỳ vớt gần Indonesia. Phải chăng vì trách nhiệm với gần một trăm sinh mạng, trong đó có cả vợ và hai con nhỏ đã làm cho tôi có sức chịu đựng kỳ diệu đó?
.
Ở lại Việt Nam sau 30/4/1975 tôi đi tù gần 8 năm; qua nhiều trại tù khổ sai của Việt Cộng. Ra tù, tôi bôn ba trong giới vượt biên cho đến khi tôi gặp được HQ Thiếu tá Nguyễn Duy Khanh (K.12/NT) giới thiệu đến một tổ chức vượt biên. Chuyến ra đi thành công. Tôi quen biết anh Khanh ngay những ngày đầu khi còn là khóa sinh tạm trú tại trại Bạch Đằng II, lúc anh là tuỳ viên của Tư Lịnh HQ Trần Văn Chơn qua sự giới thiệu của ca sĩ Huyền Châu trong Ban Việt Nhi của cố nhạc sĩ Nguyễn Đức và anh từng là Chỉ huy phó Hải Đội 5 Duyên Phòng. Anh đưa tôi xuống làm thuyền trưởng PCF -HQ.3909.
Anh Khanh là một đàn anh hải quân đáng kính. Ông và tôi gắn bó trong suốt thời gian quân ngũ, cũng như sau này khi cả hai ra tù cho đến khi cùng có mặt trên đất Mỹ. Gia đình chúng tôi xem ông là một ân nhân…
NỖI BUỒN HAI CHỮ “TRƯỜNG SA”
Rời đại học Khoa Học Saigon, tôi gia nhập vào khóa 21 sĩ quan hải quân giữa tháng 9 năm 1969. Đầu đời thủy thủ là thời gian chúng tôi tạm trú tại Bạch Đằng II. Nơi đó đầy ấp kỷ niệm khó quên của những chàng trai trẻ xếp bút nghiêng theo tiếng gọi của Đại dương. Ngày đó chúng tôi, những tân khóa sinh trong bộ quân phục kaki vàng mới toanh (vài tuần sau đổi sang màu xanh tím), ca vang bài hát “Hải quân Hành khúc” mới của Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí (thay thế bài ca Chiến sĩ Hải quân của Văn Cao) và tập tành làm lính với những bước đi cơ bản thao diễn còn chưa quen. Tại đây, bài học đầu tiên làm lính là thi hành “quân lệnh” theo hệ thống tự chỉ huy.
.
Đơn vị đầu tiên của tôi ở tận hải đảo xa xôi có tên gọi là Hòn Khoai hay hải đảo Giáng Tiên (Duyên đoàn 41 Poulo Obi), ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ, gió biển bốn bề…Nhà thơ Giang Hữu Tuyên, người bạn cùng khóa đã có hai câu thơ bất hủ khi Tuyên cùng với tôi thuyên chuyển về ZĐ41 Poulo Obi thuộc Vùng 4 Duyên Hải vào cuối năm 1970:
“Obi gió lạnh không tình sưởi,
Rượu uống mềm môi vẫn thấy thèm”.
Rời Obi tôi được biệt phái vài tháng cho Tác Chiến Điện Tử của Hoa Kỳ có căn cứ đồn trú trong hậu cứ Duyên đoàn 44 Hà Tiên (Trưởng toán HQ Xung kích), công tác thám sát hệ thống sensors vùng biên giới Việt- Miên (Kinh Vĩnh Tế). Sau đó tiếp tục thuyên chuyển đến các đơn vị Duyên đoàn 42 (An Thới-Phú Quốc), Hải đội Duyên phòng (HĐZP) của Vùng 4 và 5 Duyên Hải. Cuối năm 1974, tôi bàn giao PCF- HQ 3909 đang tuần tiểu vùng biển Hòn Tre-Rạch Gía cho một sĩ quan thuyền trưởng khác để thuyên chuyển về BTL Hạm đội, tân đáo Tuần duyên hạm HQ-611 có tên Trường Sa.
.
Vận nước đến thời đen tối. Tôi thuyên chuyển về HQ-611 Trường Sa vào lúc miền Nam đang dần dần co cụm lại trước sự tấn công xâm lược của quân cộng sản Bắc Việt: Miền Nam mất dần từ Vùng I đến mất Vùng II…Phi trường Tân Sơn Nhất bị dội bom, Saigon giới nghiêm, Bộ Tư lịnh Hải quân Saigon từ cấm trại 100% đến báo động đỏ. Cho đến một ngày….
,
BTL Hạm đội chỉ định tôi thay thế hạm trưởng vắng mặt để chỉ huy Tuần duyên hạm HQ-611. Bấy giờ chiến hạm chúng tôi túc trực tại cầu A trước cổng BTL/HQ. Chiến hạm đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc di tản như nhiên liệu, nước ngọt, thực phẩm và danh sách thân nhân của thủy thủ đoàn được phép theo chiến hạm “Di tản ra Côn Sơn tránh Saigon bị pháo kích” (Mật lệnh của Đại tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư lịnh Hạm Đội).
Sáng sớm ngày 8/4/1975 phi cơ F5-E do giặc lái Nguyễn Thành Trung (tên thật Đinh Khắc Chung) dội bom Dinh Độc Lập. Thượng sĩ TP Nguyễn Văn Chánh, quản nội trưởng của HQ-611 và tôi đang đứng uống cà phê sáng tại ban công bên hữu hạm của đài chỉ huy. Bỗng chúng tôi thấy chiếc phi cơ F5-E chúi xuống dội bom hướng Dinh Độc Lập rồi nó bay vút lên cao để lại cột khói đen từ phía dưới bốc lên cao. Chúng tôi không biết chuyện gì đang xảy ra thì chiếc F5-E lại chúi xuống dội bom lần thứ hai, nó lại bay lên cao và đột nhiên nó hạ xuống thật thấp và lao thẳng về hướng HQ-611.
Trong chớp mắt chiếc F5 bay đến HQ.611. Tiếng gào thét của động cơ phản lực F5-E bay ngang qua đài chỉ huy HQ.611 làm rung rinh cần antenna và hai lổ tai của tôi như bị nổ tung, ù điếc. Tôi bàng hoàng, chưa kịp có phản ứng thì chiếc F5-E biến mất về hướng Thủ Thiêm trong chớp mắt. Tôi hốt hoảng ra lệnh nhiệm sở tác chiến đúng ngay lúc tiếng còi inh ỏi hỗn loạn báo động của Biệt khu Thủ đô và BTL/HQ . Sau khi F5-E bắn phá kho xăng Nhà Bè, nó bay lên thật cao hướng đông Bắc, các chiến hạm trên sông Saigon đồng loạt tác xạ đuổi theo phi cơ địch. Thân tàu HQ.611 cứ rung chuyển từng hồi do những trái đạn bofore 40 ly của ổ súng sân trước mũi bắn đi…cho đến khi BTL/HQ ra lệnh ngưng bắn. Biến cố xảy ra trong vài phút. Chiếc phi cơ dội bơm là loại phản lực F5-E của Không quân VNCH; lúc ấy tôi cứ tưởng là “đảo chánh” khi HQ Trung tá Phan Ngọc Xuân (Khóa 10/NT), Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh của BTL/HQ ra khỏi cổng BTL dùng két-pi ra dấu cho tôi lên máy truyền tin: “Nam, ngưng bắn đi. Mày muốn đi tù hả”…
.
Chuyến công tác cuối cùng của HQ-611 vận chuyển một lô hàng từ Saigon ra Vũng Tàu chuyển cho Cơ xưởng hạm HQ.802 Vĩnh Long đang bỏ neo ngoài khơi. Ngoài xa có nhiều chiến hạm lớn nhỏ khác. Trưa hôm đó biển động mạnh, HQ-611 ngã nghiêng như trứng vịt, không thể nào cập vào HQ-802. Cho nên HQ.802 phải dùng cần cẩu bốc hàng. Sau đó HQ-611 quay về Saigon. Trên đường trở về bến chúng tôi thấy những chiếc tàu hàng khổng lồ trước kia chúng thường bỏ neo giữa dòng sông Saigon; trên những chiếc tàu hàng đang đi ngược chiều với HQ-611 ra biển có hàng ngàn người chen chúc từ mũi đến sau lái. Người dân trên những chiếc tàu hàng vẫy tay, vẫy nón chào “từ biệt” chúng tôi.
.
Vào một buổi trưa nắng gắt, chúng tôi trên đài chỉ huy HQ-611 đang nằm tại Cầu A nhìn phía trước thấy chiếc sà lan gần bến đò Thủ Thiêm đang cố gắng tháo dây tách bến với hàng trăm người chen lấn trên sàn tàu. Từ trong bờ có rất đông người đang bơi ra sà lan, họ cố bám vào các trái độn, vào thành sà lan, trèo lên. Trên công viên, nhiều người đàn bà đang bán hàng rong, vội vã quăng gánh, bỏ thúng, hớt hãi chạy về hướng sà lan…Lâu lắm chiếc sà lan mới tháo được dây tách bến với dòng người còn đang cố sức bám víu thành tàu. Chiếc sà lan ì ạch ra được giữa dòng sông bỏ lại nhiều người đang cố bơi theo, bỏ lại những tiếng kêu la, hò hét cầu cứu muốn ra đi…Một thảm cảnh của tháng Tư Đen! Sau bảy năm tù cộng sản và tròn một năm sống dưới chế độ, tôi hiểu ra lúc ấy những ngày cuối tháng Tư tại sao người Saigon hốt hoảng, tháo chạy, bỏ nước ra đi như hình ảnh chiếc sà lan được kể ở trên; thì ra họ sợ Việt Cộng tiến vào Saigon. Họ sợ và không muốn sống chung với Cộng sản.
.
Chiều tối 26/4/1975 tôi tham dự buổi bàn giao Tư lịnh Hạm Đội giữa HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn và tân Tư lịnh Hạm đội HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê trên lầu hai của BTL/HQ. Buổi bàn giao diễn ra thật buồn bả trong tiếng kèn của nghi thức. Các hạm trưởng tham dự buổi lễ bàn giao với nét mặt đầy lo lắng trước lời chia tay của Đại tá Sơn thật cảm động và khó hiểu: “Những gì tôi làm sau này các anh em sẽ rõ!”…
.
Ngày 29/04/1975 quang cảnh của Saigon bổng nhốn nháo căng thẳng hẳn lên sau buổi chiều tối hôm qua Việt Cộng cướp 5 chiếc phi cơ A-37 do giặc lái VC Nguyễn Thành Trung hướng dẫn phi đội (Quyết Thắng) từ Phan Rang bay vào Saigon dội bom đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất, lửa khói bốc cháy đỏ rực một góc trời làm Saigon rung chuyển.
Buổi trưa 29/04/75 bầu trời ảm đạm, không chút nắng. Trên không, trực thăng vẫn liên tục bay về hướng Đông ra biển. Nhiều trực thăng có đàn bà, trẻ con chen chúc sau lưng những người lính ngồi thòng chân ra hai bên hông cửa. Nhiều trực thăng hạ thấp xuống bến tàu, cánh quạt trực thăng xoay bốc cát bụi mù mịt và sau đó không tìm được nơi đáp phải bay lên cao và bay đi. Ngoài đường đông đảo dòng người và xe cộ đủ loại hối hả chạy về hướng bến tàu. Công trường Mê Linh đông nghẹt người và xe…
Buổi chiều 29/4 trên bầu trời tiếng trực thăng vẫn còn tiếp nối bay ngang. Thỉnh thoảng có những tràn súng M16 nổ ở hướng nhà hàng Mỹ Cảnh càng làm cho Saigon nhốn nháo, rối loạn lên trong cơn mưa chiều lác đác rơi bốc mùi hơi đất. Trên đài chỉ huy chúng tôi nghe qua tần số truyền tin tiếng ồn ào, hối hả của những lời yêu cầu hạm trưởng dời tàu…Giặc về! Saigon đang chạy loạn…
.
Trở lại BTL/HQ Saigon, từ sáng sớm 29/04/1975 cổng Công trường Mê Linh và Cường Để, hai lối đi vào BTL/HQ đã đóng kín bằng những vòng kẽm gai, có quân cảnh hải quân bồng súng đứng gác (Nội bất xuất ngoại bất nhập). Sau khi nhận lệnh chiều tối di tản từ BTL/HQ tôi trở về tàu thì gặp HQ Trung úy Võ Trường Xuân, người bạn cùng khóa (cựu thuyền trưởng PCF HQ.3909) tại hạm kiều, từ Hải vận hạm LSM HQ-402 Lam Giang sang HQ-611 gặp tôi. Chúng tôi lập kế hoạch đưa thủy thủ đoàn HQ-402 sang HQ-611 cùng di tản vì HQ-402 bất khiển dụng. Trung úy Xuân là sĩ quan trực HQ-402 hôm đó. Hải quân cấm trại 100%, cho nên vào lúc 5 giờ chiều tôi phải ký hai sự vụ lệnh, một cho tôi và một cho Hạ sĩ CK Tô Nhật Hà để ra cổng Công trường Mê Linh. Trước khi rời tàu tôi không quên lấy khẩu colt 45 còn mới dắt vào bên hông phòng khi gặp bất trắc trên đường đi (Sau này tôi bất chấp lệnh giao nộp vũ khí của Việt Cộng và giữ nó tận đến khi vượt biên sau này mang theo). Rời tàu, tôi nhờ Hạ sĩ Hà lái xe đưa tôi về nhà tận Gia định để đưa gia đình xuống tàu…Tuy nhiên kế hoạch di tản của HQ-402 và HQ-611 không thành vì tôi gặp trở ngại trong gia đình khi đứa con gái đang bệnh nặng và người thân kẻ muốn đi, người không muốn nên tôi không kịp quay về tàu để có mặt tại điểm hẹn với Trung úy Xuân.
.
Qua bài viết “Đêm giang hành lịch sử” của Người Thủy thủ già tức niên trưởng Trần Hương (Khóa 9/NT), tôi được biết 7 giờ 30 tối ngày 29/04/1975 HQ Trung tá Trần Hương hộ tống Đô Đốc Tư Lịnh Hải quân Chung Tấn Cang, gia đình và đoàn tùy tùng xuống HQ-611 tại cầu A trước cổng BTL/HQ để ra biển. Nhưng không may HQ-611 không có hạm trưởng vì tôi không có mặt dưới tàu, nên ĐĐ Tư lịnh và đoàn tùy tùng chuyển sang chiếc tuần duyên hạm khác mang số hiệu HQ-601 Tiên Mới của Hạm trưởng Trần Minh Chánh (con trai trưởng của Cố Đô Đốc TL Trần Văn Chơn, cũng là SQHQĐB, anh K.1 và tôi K.2). Hạm trưởng Trần Minh Chánh đưa ĐĐ Tư Lịnh Cang và nhiều sĩ quan cao cấp của hải quân lên HQ-3 ngoài khơi Vũng Tàu. Sau đó HQ-601 quay trở về Saigon. Theo một bài viết trên website tài liệu hải quân của niên trưởng Trần Đỗ Cẩm (Khóa 11/NT) PGM HQ-601 được mệnh danh là “SOÁI HẠM NHỎ NHẤT” trong đêm Hải quân VNCH di tản.
.
HQ-601 rời cầu A không bao lâu thì có nhiều quân nhân của các quân binh chủng khác tràn xuống HQ-611 tại cầu A. Họ có súng và đã dùng vũ lực cưỡng ép HQ-611 rời bến. Trên đường ra Vũng Tàu, HQ-611 bị vô nước và chìm. Đó là lời kể lại của anh em thủy thủ đoàn HQ-611 khi họ tập hợp tại nhà tôi vào sáng sớm 30/04/1975 để báo tin. Vào 10 giờ 30 sáng 30/04/1975 TT. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Chúng tôi tuyệt vọng, nghẹn ngào và uất hận. Nhìn anh em thủy thủ HQ-611 rời nhà tôi trong dáng thiểu não buồu hiu, mệt mỏi, áo quần ướt nhem xốc xếch, có anh mất cả giày vớ đi chân không sau một đêm vật lộn với con tàu vô nước đã làm cho lòng tôi quặn đau như cắt.
.
Sáng 30/4/1975, BTL/HQ vắng tanh, từ cổng BTL/HQ qua đến bên kia đường sách báo, áo quần, đồ đạt, xe cộ vứt ngổn ngang như đống rác khổng lồ. Tôi đứng tần ngần tại Cầu A, nơi hạm kiều của HQ.611 hôm qua với nổi buồn của người lính thủy mất tàu, mất đồng đội và mất tất cả.
.
Tôi còn đang đứng tần ngần trên bến tàu vắng tanh; bỗng có tiếng gọi tên tôi từ một PGM đang chầm chậm cập Cầu A. Tôi bắt dây cho chiến hạm. HQ.Trung úy Trần Văn Báu (K.7/OCS), người bạn cùng Khóa 21, cùng đại đội lúc ở Quang Trung (ĐĐ.18C) và cũng cùng thời là cựu thuyền trưởng của Hải đội 5 Duyên phòng, từ đài chỉ huy Báu chạy xuống sân sau chiến hạm hỏi lớn bằng giọng Bắc kỳ quen thuộc thuở nào:
– Ê! Nam, mày đi không? Lên đi với tao.
Tôi trèo lên chiến hạm gặp Báu để giải bày lý do không thể đi với Báu vì không nỡ để lại vợ và hai con nhỏ. Giã từ Báu, tôi trèo xuống và tháo dây cho chiếc hạm của Báu tách bến. Chiến hạm lặng lẽ ra giữa dòng sông và dần dần đi xa. Lá Quốc kỳ VNCH sau lái tàu thỉnh thoảng rung nhẹ như nghẹn ngào giã biệt Saigon thân yêu. Đó là chiếc hạm cuối cùng tôi còn thấy vào sáng 30/04/75 do trung úy Báu chỉ huy ra đi.
.
Thế là hết! Mộng hải hồ tan tành. Đời binh nghiệp của tôi bỗng chốc biến mất cùng với chiến hạm mang tên Trường Sa (Hồi ký “Số phận của Tuần duyên hạm HQ-611 Trường Sa trong đêm di tản” của cùng người viết).
Cứ mỗi năm vào tháng Tư Đen là mỗi lần chiến hạm HQ.611 theo hồi ức kéo về là mỗi lần tôi nghĩ đến số phận anh em thủy thủ đoàn của HQ-611; họ phải sống ra sao dưới chế độ bạo tàn Việt Cộng?
.
Trường Sa! Hai chữ Trường Sa tên của Tuần duyên hạm HQ-611 còn mãi vấn vương ray rứt. Nhớ chiến hạm và thương lắm anh em thủy thủ đoàn, những người lính thủy trung kiên với quân chủng và thượng tôn kỷ luật đến tận giây phút cuối cùng của cuộc chiến.
Trời vừa hừng sáng, toán xung kích đã trang bị gọn gàn, đầy đủ súng đạn và tụ tập dưới bến tàu của Duyên đoàn 44 Hà Tiên. Đằng kia, chiếc PCF của Trung úy Các (K.19) đã nổ hai máy sẳn sàng. Sau khi trung úy Các điều động xong nhân viên PCF cột 3 chiếc xuồng nhỏ kéo theo sau lái. Thuyền trưởng Các gọi tôi:
– Ê! xong chưa Nam?
Tôi ra dấu cho Trung úy Các, nói lớn:
– Chờ mấy thằng Seal xuống là go.
Không đầy 5 phút sau, Đãi úy Smith và một US Navy Seal khác mang máy PRC-25 từ phía trên cầu tàu chạy lụp xụp xuống bến. Hai thằng Seal mặc bà ba đen, mang dép râu, mặt mũi bôi lọ vằn vện màu xanh đỏ, dây đạn M.16 quấn trên vai với hai khẩu M.16. Trông thấy cả hai Navy Seal thật xom tụ như các tài tử đóng phim Rambo. Lần nào đi công tác, mấy thằng Seal cứ màu mè như thế. Nhưng đến vùng, họ ở dưới tàu và chỉ có bọn chúng tôi lần vào ‘victor tango’.
Tôi ra dấu cho cả toán, vừa nhảy xuống sàn lái PCF và nói to với thuyền trưởng Các:
– OK! Let’s go.
Trung úy Các thò đầu ra cửa phòng lái:
– Đủ chưa Nam?
Tôi gật gật đầu:
– OK! Đủ rồi.
Chiếc PCF tách bến hướng mũi vào sông Giang Thành. Tôi vào phòng lái gặp thuyền trưởng, Trung úy Các:
– Niên trưởng Các. Mình ghé Trà Phô ăn sáng.
Trung uý Các:
– OK! Được Nam.
Một lát sau, tàu đến Trà Phô. Chúng tôi lên chợ và tấp vào cái quán bán hủ tiếu quen thuôc, nằm cạnh bờ sông. Sáng sớm, con sông còn đang bốc hơi mùi tanh tanh, càng làm cho mùi hủ tiếu dậy mùi hấp dẫn. Mùi thơm quen thuộc mỗi lần ghé lên Trà Phô trên bờ sông Giang Thành. Mặc dù đó là quán hủ tiếu bình dân của nhà quê như Trà Phô này, nhưng mấy mươi năm ở Mỹ, tôi chưa tìm lại được mùi thơm của hủ tiếu quyến rũ như thế, ở bất cứ nhà hàng nào. Nói chi đến hương vị của nó. Tôi thắc mắc ở Mỹ đầy đủ nguyên vật liệu để nấu hủ tiếu, nhưng không thể nào và không có quán tiệm nào nấu được một tô hủ tiếu có hương vị đặc sắc của tô hủ tiếu như ở Việt Nam, dù là hủ tiếu bình dân rẻ tiền như nơi nhà quê. Tô hủ tiếu chỉ có vài lát thịt heo mỏng, ít tép mở, một nhúm nhỏ cải bấp thảo khô và vài cọng hẹ tươi với hành lá. Thế mà ngon tuyệt!
Đớp sạch tô hủ tiếu và uống cạn ly cà phê sửa nóng. Chúng tôi no bụng, tươi tỉnh ra và kéo nhau trở về tàu. Hai thằng seal cũng no ké. Chiếc PCF tách bến chạy ra giửa dòng sông và hai máy tiến full vào vùng công tác. Hơn nữa giờ sau, tôi dò theo bản đồ và nói Trung uý Các cho PCF ủi vào lùm cây gần cửa một con rạch nhỏ, không xa lắm với con kinh Vĩnh Tế. Toán của tôi chỉ có 7 người. Tôi đã cho hai nhân viên đi phép. Chúng tôi chia nhau xuống ba chiếc xuồng nhỏ được PCF kéo theo.
Trước khi trèo xuống chiếc xuồng của Hạ sĩ Tám rổ, nhân viên mang máy truyền tin PRC-25. Tôi hỏi hai thằng navy
seal:
– Tụi mầy vào không?
Thằng Smith, rất thích đi công tác và nhậu ruợu đế ở quán cô Lệ góc cây me với tôi. Hắn lắc đầu, ra dấu ngón tay cái ‘Number one’ và đẩy ra phía chúng tôi:
– Tụi mày vào đi. Tụi tao ở ngoài. Nếu tụi mày bên trong có đụng, tao gọi yểm trợ hay trực thăng nhanh hơn.
Tôi cố ý hỏi để chọc họ chơi vậy thôi. Chứ đi nhiều chuyến công tác rồi, có khi nào mấy thàng seal này theo chúng tôi vào điểm kích.
Các chiếc xuồng bằng vật liệu thật mỏng nhẹ, rất hẹp và ngắn, chỉ ngồi được hai hoặc ba người. Chúng tôi bơi vào rạch. Chiếc xuồng di chuyển bằng cách níu các chòm cỏ dại hoặc cành cây nằm ven bờ rạch hay chống tay vào bờ đẩy xuồng tiến về phía trước. Các xuồng tiến vào sâu trong rạch. Đến vị trí kích, tôi cho xuồng trải ra xa và im lặng ngồi kích trên xuồng. Cảnh vật chung quanh thật tĩnh mịch. Thỉnh thoảng có bầy bù mắt kéo bay qua. Tiếng con cá nhỏ đớp mồi dưới mé rạch, chúng tôi cũng nghe thấy được.
Chờ đợi, rồi chờ đợi….Mặt trời đứng bóng….rồi ngã từ từ về tây….Xế trưa, mọi cảnh vật vẫn im lìm, không động tịnh. Tiếng rè rè của chiếc máy truyền tin vào xế trưa càng nghe như rỏ hơn…..Tôi nhìn đồng hồ tay thấy vừa đúng ba giờ chiều. Chúng tôi ngồi yên dưới xuồng kích đã hơn 5 tiếng đồng hồ. Không thấy bóng ma thằng kinh tài VC nào đi qua đây như tình báo đã đưa tin. Tôi báo cáo tình hình về phòng hành quân và xin lệnh rút ra tàu.
Bên kia đầu máy, Trung uý Nguyễn Văn Tràng (K.19):
– Ráng một chút nữa Nam. Đến 4 giờ không có gì thì rút.
Tôi nói ‘Ok’. Thời gian trôi qua chầm chậm như đi theo cây kim gió của chiếc đồng hồ đeo tay. Tôi nghe rỏ cả tiếng kêu tích tắc ở giửa cái không gian trầm lặng như tờ giửa rừng đước. Đúng 3:45 chiều, tôi ra dấu tập trung xuồng lại, chuẩn bị rút….
‘Xoạt’…..tiếng kêu xoạt trên bờ cách con rạch khoảng 10 mét làm chúng tôi giật mình. Cả bọn chúng tôi cùng hướng mắt vào nơi phát ra tiếng động. Với phản ứng tức thì, chúng tôi cùng đưa nòng súng vào tầm bắn. Một thằng nhỏ khoảng 10 tuổi vừa vạch bụi cây, chui lẹ ra ngoài và đâm đầu bỏ chạy vào trong rừng đước; Trung sĩ Nhàn định bóp cò nhưng tôi nhanh hơn:
– Đừng bắn! Đừng bắn! Nó là thằng con nít.
Trong nháy mắt, thằng VC con chạy biến mất trong khu rừng đước. Trung sĩ Nhàn ngạc nhiên:
– Ủa! Sao không bắn nó…Chuẩn úy?
Tôi lắc đầu:
– Mình có bắn thằng nhỏ thì bên trong mấy thằng VC nghe tiếng súng cũng đã bỏ chạy mất mẹ nó rồi. Có bắn chết hay bắt sống thằng VC con thì cũng không bắt được mấy thằng VC bên trong. Vã lại mình lại không được lệnh rời điểm kích đi sâu vào trong bờ.
Tôi tặc lưỡi:
– Cha nó. Bọn VC độc ác đến thế là cùng. Dùng thằng con nít làm bia báo động….Thôi rút về tàu anh em.
Trước khi rời điểm kích, tôi kêu Hạ sĩ nhất Châu văn Năm thẩy vào trong sâu vài trái M.79 và báo cho PCF và hai thằng seal bên ngoài biết chúng tôi đang trở ra tàu.
PCF đưa chúng tôi về đến bến tàu dưới ánh nắng buổi chiều buông.
Đó là chuyến công tác lần thứ mười một khi tôi làm trưởng toán xung kích. Đúng ra công tác của chúng tôi là đi thám sát, đổ bộ lên nơi sensor của khu vực nào có tín hiệu báo động để quan sát hay thu thập nguyên nhân làm cho sensor phát tín hiệu. Dãy sensor được cày đặt dọc biên giới Việt – Miên. Công tác bất kể ngày đêm, cứ sensor có báo động là chúng tôi được đưa đến. Tuy nhiên thỉnh thoảng phải đi công tác cho tình báo như phục kích bắt kinh tài hay cán bộ VC được kể bên trên. Không biết do tình báo của Hải quân Việt Nam hay của Hoa Kỳ yêu cầu.
Tôi và hai thằng bạn khác trong số 15 thằng mới ra trường về Vùng 4 Duyên Hải, bắt thăm về Duyên đoàn 41. Tôi không may mắn như Tuyên và Ninh được thay phiên nhau đi công tác hành quân ở Năm Căn (Vùng 5 Duyên Hải), tôi bị đơn vị trưởng là một đại úy gốc bộ binh chuyển sang hải quân đì hết sức. Nhiều lúc đối diện đấu võ mồm với ông ta làm cho tôi muốn điên lên. Tôi gần như bị ông ta giam lỏng tại hậu cứ của Duyên đoàn 41 trên hải đảo Giáng Tiên (Hòn Khoai – Poulo Obi). Ngày xưa tôi nghĩ đơn giản là tôi không họp ‘gu’ với ông ấy nên bị ‘đì’. Nhưng sau 30/4/1975 tôi được biết những vụ bất ổn xảy ra trong đơn vị chính do tên VC nằm vùng đội lớp sĩ quan hải quân của duyên đoàn gây nên mà bấy giờ tôi chỉ nghĩ hắn chỉ là tên antenna cho đơn vị trưởng mà thôi. Câu chuyện của tôi và đơn vị trưởng đã đến tay Tư lịnh vùng. Nhân chuyến thị sát bờ biển phía Nam của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và HQ Đại Tá Đỗ Kiểm, Tư Lịnh Vùng 4 Duyên Hải ghé Duyên đoàn 41, qua tin tức của Chuẩn úy Trần Công Nhuận thay thế Thiếu úy Nguyễn Phúc Kha, tùy viên Tư Lịnh Đỗ Kiểm được tháp tùng theo chuyến bay, cho tôi biết tôi đã có công điện gọi về Bộ Tư Lịnh Vùng. Biết được tin này và được TL. Đỗ Kiểm đồng ý, tôi cuốn gói lẹ theo trực thăng của Tướng Ngô Quang Trưởng, gĩa từ hải đảo Giáng Tiên trở về Bộ tư Lịnh vùng. Ngày hôm sau, tôi trình diện TL. Đổ Kiễm để lảnh 8 ngày trọng cấm. Một tháng sau, tôi được biệt phái cho đơn vị Tác Chiến Điện Tử của Hoa Kỳ tại Hà Tiên.
Chuyến công tác đầu tiên của tôi khi được biệt phái đến đây là dẫn toán xung kích thám sát một khu vực sensor báo động nằm sâu trong bờ, gần biên giới Việt – Miên vào giửa đêm khuya. Chúng tôi đến nơi và ghi nhận có một đơn vị của VC đang di chuyển. Chúng tôi được lệnh theo dõi đoàn quân của VC đang di chuyển này. Khi đoàn quân của địch biến mất vào sâu trong lãnh thổ của Miên, chúng tôi được lệnh rút về tàu. Mặt tôi vài nơi sưng vù vì bù mắt cắn, mặc dù tôi có mang theo thuốc thoa da và lưới trùm kín mặt.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại được đưa trở lại điểm kích khuya hôm qua để thám sát và ước tính quân số của địch quân di chuyển. Nhân dịp này, chúng tôi đi sâu vào lãnh thổ của Miên. Dọc biên giới, xa xa mới có một căn nhà lá. Bấy giờ trời nắng gắt, cả bọn khát nước nên chúng tôi ghé tạt vào một ngôi nhà gần nhất, có vách bằng đất và mái nhà lợp bằng lá dừa. Sân nhà thật rộng, có hàng cây dừa cao thẳng tắp và nhiều cây xoài đang độ xum xuê, đầy trái chín (xoài mọi nhỏ trái nhưng rất ngọt). Vừa vào đến giửa sân, có một ông gìa người Miên trong nhà lom khom đi ra chào đón. Ông ta không nói được tiếng Việt. Chúng tôi ra dấu bằng tay, ông ta hiểu ý chúng tôi muốn xin vài trái dừa tươi để uống và ít trái xoài mọi ăn giải khát. Ông già vui vẻ chỉ trỏ như muốn nói tự nhiên hái lấy mà ăn. Tuy nhiên, chúng tôi biết xâm nhập qua đất Miên là trái phép, nên tôi bày kế cho Hạ sĩ Lưu Ban, nhân viên người Việt lai Miên trong toán xung kích biết nghe và nói được tiếng Miên sành sỏi:
– Lưu Ban. Anh nói tụi mình là lính Pôn Pốt nha. Đừng cho ông ta biết tụi mình là hải quân dưới tàu.
Không biết Lưu Ban nói gì với ông gìa. Chúng tôi thấy ông ta nhe hàm răng rụng gần hết, cười và quơ bàn tay như không tin lời Lưu Ban, miệng cứ nói: “Marine…Marine…”. Tay kia ông ta chỉ về hướng tàu đang ủi bên dưới bờ sông ngoài kia.
Tôi hiểu ra mấy tiếng ‘Marine…Marine” của ông cụ:
– Thôi Lưu Ban. Ông gìa biết mình là hải quân rồi. Không gạt được ổng đâu.
Lưu Ban không gạt ông lão nữa và cả hai quay ra nói chuyện chi đó. Một hồi ông gìa chỉ bầy gà đang kiếm mồi trước cửa nhà. Chúng tôi hiểu ông gìa cho Lưu Ban con gà. Lưu Ban chạy lẹ khom người xuống chụp một con gà trong bầy. Nhưng Lưu Ban chụp hụt làm bầy gà bỏ chạy tứ tán. Có một con gà mái chạy thẳng vào bên trong nhà. Lưu Ban rượt theo. Ông gìa như hốt hoảng chạy theo sau. Thấy phản ứng lạ lùng của ông gìa, tôi đi nhanh theo vào nhà. Vừa vào đến phòng bên trong, ông gìa thấy tôi xuất hiện, ông ta quỳ sụp xuống và lạy lia lịa làm tôi càng sanh nghi, nhìn quanh:
– Lưu Ban đừng bắt gà nữa. Khám xét mấy cái khạp lớn coi bên trong có cái gì không?
Ông gìa hình như hiểu lời tôi nói. Ông ta càng lạy và miệng nói lấp bắp như van xin điều chi đó. Sát vách nhà có mấy cái khạp to đậy nấp ván. Các khạp đựng nước uống và có cái đựng thóc, lúa. Lưu Ban đến giở nấp cái khạp cuối …một cô gái trẻ trong khạp đứng thẳng lên làm tôi và Lưu Ban giực nẩy người. Cô gái Miên độ chừng 16 hay 17 tuổi đứng thẳng, hai tay che trước ngực run lẩy bẩy. Mặt cô bé tái xanh không còn chút máu, như muốn khóc, trong khi ông gìa cứ hướng về phía tôi sụp lạy như tế sao.
Bấy giờ tôi và Lưu Ban hiểu ra cử chỉ van xin của ông gìa Miên. Tôi nói:
– Lưu Ban nói với ông gìa tụi mình không có làm bậy bạ gì cô gái kia đâu. Đừng sợ!
Lưu Ban thông dịch lại. Ông gìa mừng qúa. Ông ta hướng về tôi xá thêm vài xá và kéo tay Lưu Ban ra phía sau nhà. Tôi nhìn theo. Sau nhà là cái chuồng heo. Tôi trở ra ngoài ngồi với mấy anh em ngoài sân. Chúng tôi đợi Lưu Ban. Chưa đốt xong nữa điếu thuốc captain, Lưu Ban từ cửa nhà bước ra với một con heo mọi nhỏ xíu (heo con) kẹp bên hông. Ông gìa vui vẽ và trở nên thân thiện hơn, đi theo phía sau Lưu Ban nói liên tu, mà chúng tôi chẳng hiểu gì cả.
Lưu Ban hí hửng:
– Chuẩn úy ơi! Ông gìa cho con heo sữa.
Vài anh em khoái chí:
– Thiệt hả Lưu Ban?
Lưu Ban ra dấu chắc ăn và chỉ ông già đi sau đang cười toe toét, gật gật đầu:
– Thiệt mà.
Nắng trưa cũng đã đứng bóng. Chúng tôi cám ơn ông gìa Miên và kéo nhau trở về tàu. PCF về đến bến. Chúng tôi rời bến tàu và trở về bản doanh. Chiều tối hôm đó, chúng tôi có một chầu nhậu đã đời với thịt heo quay, da mỏng dòn rụm và lòng heo luộc chấm nước mấm cay, dầm me. Tuyệt cú mèo!
Đơn vị Tác chiến Điện Tử của Hoa Kỳ tại Hà Tiên được đặt trong căn cứ của Duyên đoàn 44. Toán xung kích của chúng tôi không trực thuộc Duyên đoàn. Lúc ấy CHT Duyên đoàn 44 là HQ Thiếu Tá Nguyễn Khoa Lô (K.13), CHP là HQ. Trung úy Phạm Xuân Kha (K.14) và Trung úy Tình báo Nguyễn Văn Lang (Lang say – K.16). Giửa cố HQ Thiếu tá Nguyễn Dinh K.13, Cựu Liên đoàn Trưởng LĐ/SVSQ/HQ/NT, niên trưởng Lang và tôi có nhiều gắn bó ở trại tỵ nạn Bataan – Philippines vào đầu năm 1986. Nhất là niên trưởng Lang và tôi có một thời với lắm kỷ niệm vui. Tại Duyên đoàn 44, tôi còn gặp số bạn cùng khóa.
Toán xung kích của chúng tôi biệt lập với Duyên đoàn 44 nên Thiếu tá Nguyễn Khoa Lô, Chỉ huy trưởng Duyên đoàn không có ý kiến gì khi chúng tôi muốn ở bên ngoài căn cứ. Chúng tôi thuê nhà riêng cách chợ Hà Tiên một con đường và gần bến ghe đánh cá. Đương nhiên lính tráng được ở ngoài căn cứ thì được tự do, thoải mái qúa đi chứ. Chúng tôi còn thuê một căn nhà cho nhân viên ở chung và dùng nơi đó làm bản doanh để tập họp, cất vũ khí và máy truyền tin. Dân Hà Tiên cũng như các thứ lính khác như Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Cảnh Sát v.v…, có thể họ biết chúng tôi là hải quân nhưng không biết chúng tôi thuộc đơn vị nào. Chúng tôi thích gì mặc nấy khi đi công tác. Phần lớn anh em thích mặc đồ rằn ri nylon vì có nhiều chuyến công tác phải lội qua những con rạch lớn hay ngâm mình dưới đầm lầy nhiều giờ. Với vải nylon khi lên bờ chỉ một chút có gió và nắng là áo quần khô ngay. Súng ống thì đủ loại như M16, phóng lựu M.79, trung liên M.60, lựu đạn K3, lựu đạn mãng cầu (miểng), trái khói v.v…Anh em vác vũ khí đi lờ ngờ giửa đường, giửa chợ khi chuẩn đi công tác hay lúc trở về từ vùng hành quân. Hình ảnh ‘kiêu binh’ đó không có gì lạ, vì Hà Tiên gần như là một thành phố của nhiều sắc lính tác chiến. Có lúc tôi phải nổ súng giửa chợ để ra mật hiệu tập họp nhân viên đi công tác bất thường. Cơm nước thì khỏe re. Tôi ăn cơm tháng tại nơi mướn nhà trọ. Vài nhân viên của tôi quen biết ngư dân có ghe đi biển nên chúng tôi tha hồ có đồ biển ăn hàng ngày. Tôi thích nhất món cá sống làm gỏi với nước chấm đặc biệt có nước cốt dừa và lẩu chua cá nháp hay cá đuối. Nhậu hết biết, do đầu bếp Tám rổ ra tay.
Thời gian công tác tại Hà Tiên, toán xung kích chúng tôi rất gắn bó và có thật nhiều kỷ niệm khó quên với nếp sống tự do, bụi đời và ngang tàng của những người lính trẻ. Sau hai tháng, tôi được thuyên chuyển về Duyên Đoàn 42 An Thới – Phú Quốc. HQ. Chuẩn úy Nguyễn Tấn Phát thay tôi làm trưởng toán xung kích. Sau đó không lâu tôi được tin trong một chuyến công tác, Chuẩn úy Phát bị thương nơi đùi trái và Thủy thủ Thạch, xạ thủ M.60 bị VC bắn sẻ, viên đạn Ak47 oái oăm trúng đầu làm Thạch tử trận ngay tại chổ, trên kinh Vĩnh Tế. Tội nghiệp một thằng em dễ thương! Xin đốt một nén hương lòng tưởng niệm một Thủy thủ xung kích đã vĩnh viễn nằm xuống.
Chúng tôi nhận thấy thời gian gần đây trong các buổi lễ do Hải Quân tổ chức cũng như trên các website có 2 bài Hải Quân Hành Khúc (HQHK). Điều này gây tranh cãi trong hải quân và làm không ít quý vị gia nhập Hải Quân trước năm 1969 thắc mắc.
– Một bài khởi bằng lời (trước kia) :”Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay…..Bờ nước Nam….”
Tôi gia nhập vào Khóa 21/SQHQ vào giửa năm 1969. Tại Bạch Đằng II, chúng tôi đã được học thuộc bài ca HQHK bằng lời khởi đầu: “ Bao người con trai..kiêu hùng……cùng nhau tách bến….”. Mỗi sáng sớm sang bên đường đối diện Bạch Đằng II tập cơ bản thao diễn đi đều bước cũng hát bài hải HQHK: “Bao ngươì con trai…”.
Cuối tháng 12 năm 1969, tài nguyên K.21/SQHQ cộng thêm khoảng 2 trung đội của Khóa 22/SQHQ, nâng tổng số trên 530 SVSQ/HQ được BTL/HQ đưa lên Quang Trung thụ huấn Căn bản Quân sự. Thời gian chúng tôi tại Quang Trung, khi di chuyển ra bải tập chúng tôi cũng hát bài ca HQHK: “Bao người con trai….”. Chúng tôi có biết bài HQHK: “ Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay…..Bờ nước Nam….”, nhưng KHÔNG được hát bài này. Không biết bản HQHK “Bao người con trai…kiêu hùng…” này đã áp dụng từ Khóa 20/SQHQ hay không?
Sau này, chúng tôi được biết bài hát HQHK: “Bao người con trai…kiêu hùng….cùng nhau tách bến…” do Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí (tức nhà thơ Hữu Phương) sáng tác để thay thế bài HQHK của Văn Cao: “ Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay…..Bờ nước Nam….”, bắt đầu vào năm 1969, thời điểm BTL/HQ đang tuyển Khóa 21 và 22/SQHQ. Do đó từ năm 1969 trở về sau, Hải Quân VNCH sử dụng bài hát HQHK của ĐĐ Nguyễn Hữu Chí. Sở dĩ tôi dài dòng như vậy để làm nhân chứng cho một sự kiện. Tin hay không thì tùy quý vị tìm hiểu riêng.
Dưới đây tôi xin mượn bài phân tích hai bài HQHK của HQ. Nguyễn Trần Đàm (K.6/OCS, Hội Trưởng Hội Hải Quân Houston, TX), là bạn cùng tài nguyên Khóa 21SQHQ với tôi:
1- Bản:
“Bao người con trai kiêu hùng cùng nhau tách bến
Ra khơi mênh mông sóng to gió mưa không sờn
Ta là chiến sĩ của trùng dương muôn sức sống
Hiên ngang ra khơi giữ vững cõi bờ Việt Nam
Làm trai gắng noi theo dấu anh hùng cường quyết một lòng
Đường trường xa bền tay lái
Một lòng tin, tin tương lai
Trùng dương xanh bao la
Trời cao mây vương xa
Hồn theo sóng với nước tới chân trời xa”
Toàn bản nói lên sự oai hùng, lòng yêu nước, hy vọng một ngày mai tươi sáng.
2- Bài “Toán chiến sĩ hải quân ra khơi……” do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác khoảng năm 1945, khi đó chưa có Hải Quân VNCH, cũng chưa có Hải Quân Quân Đội Nhân Dân Việt Cộng.
Toán chiến sĩ thủy quân ra khơi hôm nay
Bờ nước Nam gió khơi nồng máu say
Ra đi không vương thê nhi
Miền Bắc núi tuyết rét mướt
Quen vui trong muôn phân ly
Sống trên ngàn trùng sóng
Thân phơi trên Nam Băng Dương
Nước xanh hồn Thái Bình Dương
ÐK:
Xa khơi sóng vang dạt dào
Mênh mông sóng va thân tàu
Nghe âm u … u …. u ….
Át tiếng máy rầm rầm
Quân ca theo trầm trầm, tàu nhấp nhô
Mờ mờ xa mây mù
Dần dần xa mây mù
Ði cho quên bến bờ
Xa khơi trùng dương bát ngát
Ngày về tổ quốc ghi tên
Hướng tới ánh hải đăng soi trong đêm sương
Ðoàn chúng ta chí tang bồng bốn phương
Thi gan trong cơn phong ba
Tàu thét khói lướt gió tiến
Khi trăng trên boong in phơi
Giấc mơ người ngàn ngàn bến
Xông pha chung quên đau thương
Với gia đình lớn Trùng Dương
(trở lại ÐK)
Quyết chiến thắng thủy binh ngăn quân xâm lăng
Hồn Yết Kiêu, máu sông Ðằng nhớ chăng ?
Say men năm châu tha phương
Ðời khát máu, khát gió mới
Tay tung bao thây yêu thương
Xuống chôn vùi mồ cá !
Hy sinh sao nêu cao gương
Nước Nam miền Thái Bình Dương
– “Bờ nước Nam gió khơi nồng máu say”
Hải Quân VNCH sao lại say máu?
– “Miền Bắc núi tuyết rét mướt”
Hải Quân VNCH sao lại từ miền Bắc núi tuyết rét mướt?
– “Thân phơi trên Nam Băng Dương”
Có quý vị nào đã tới nam băng dương?
– “Đời khát máu, khát gió mới”
Hải Quân VNCH khát máu?
Nói tóm lại, bản “Toán chiến sĩ thủy quân ra khơi” nên để cho Hải quân Việt cộng hát thì đúng hơn. Họ từ miền Bắc núi tuyết rét mướt xâm nhập xuống miền Nam, say máu, khát máu, láo khoét, đi chiến đấu phơi thây tận Nam Băng Dương. (HQ Nguyễn Trần Đàm – Houston ngày 23 tháng 9 năm 2015).
Thật vậy, xin mời quý vị nghe “Bài ca chiến sĩ Hải Quân” trong một website của Việt cộng như là bài hát mà quý chiến hữu Hải quân VNCH của chúng ta vẫn thường hát:
Cơn bảo tuyết mùa đông năm nay (2016) thật lớn. Tuyết phủ dầy cả Portland, Vancouver và Longview. Bảo tuyết đã ngưng từ sáng thứ Năm, nhưng kéo theo những ngày sau đó nhiệt độ vẫn còn dưới 33 độ F. Tuyết không tan và phủ đầy lối đi, đường xe hơi chạy vẫn còn nhiều nguy hiểm, trơn trợt. Tuy thời tiết khắc nghiệt như vậy nhưng buổi tiệc Tất Niên của Hải quân Oregon, Vancouver và Long View vẫn được diễn ra thật ấm áp và thân tình bên trong nhà hàng HK Café với nhiều chiến hữu HQ và gia đình lội tuyết đến tham dự (có 8 người ghi danh nhưng phải gọi phone cho biết không thể lái xe đến tham dự được).
.
Tôi đến khá trể vì phải di chuyển bằng xe bus. Sau này nghe HQ Nguyễn văn Đông kể lại buổi tiệc được khai mạc với lời cám ơn của anh Đông, trưởng ban tổ chức đến qúy hải quân và gia đình hiện diện. Tiếp theo, Niên trưởng Trương Hữu Quýnh đại diện mọi người trong bàn tiệc cám ơn ban tổ chức đã tạo điều kiện cho gia đình hải quân có dịp gặp gở và hàn huyên vào dịp cuối năm. Niên trưởng Quýnh cũng không quên thực hiện một phút im lặng để tưởng niệm các chiến sĩ hải quân và những chiến binh VNCH khác đã hy sinh trong trận Hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974, trận chiến oai hùng và bất khuất chống quân xâm lược trong lịch sử cận đại của dân tộc Việt.
.
Đề cử Tân Hội trưởng và Hội phó:
Thức ăn được dọn ra, HQ Trương Hữu Quýnh, HQ Võ Văn Á và HQ Hà Đức Bảng kêu gọi tôi và HQ Nguyễn văn Đông cố gắng duy trì sinh hoạt của hải quân Oregon và vùng phụ cận thường xuyên hơn. Qúy vị này cho biết sẽ sẳn sàng cố vấn và yễm trợ mọi sinh hoạt của hải quân hết mình.
. Tuy nhiên, tôi đã từ chối làm đại diện cho Hải Quân Oregon và vùng phụ cận và sẽ tiếp tục hổ trợ hải quân hết mình. Đồng thời tôi cũng thông báo là tôi cũng đã từ nhiệm làm đại diện Hải Quân vùng Tây Bắc Hoa Kỳ vì lý do những năm gần đây Ban Chấp Hành Tổng Hội Hải Quân VNCH gần như không còn hoạt động. Vã lại tôi rất bận cho các công tác của Ban Chấp Hành Cộng Việt Nam Oregon, Hội Cựu Quân Cán Chính VNCH/ Oregon và nhiều hoạt động khác.
. Sau đó, tôi đã đề cử HQ Nguyễn văn Đông là Hội Trưởng và HQ Huỳnh Văn Nguơn là Hội Phó. Tôi sẽ sẳn sàng phụ giúp hội khi cần. Đề nghị của tôi đã được mọi người chấp nhận.
. Như vậy kể từ ngày 14 tháng 1 năm 2017, Hội Hải quân Oregon và vùng phụ cận có: – Tân Hội Trưởng: HQ Nguyễn Văn Đông Xin chúc mừng qúy vị tân cử và tôi sẽ thông báo kết qủa chánh thức này đến Cộng Đồng và các Hội đoàn tại tiểu bang Oregon.
.
Buổi tiệc kéo dài đến tận 11 giờ đêm trong men tình kỷ niệm và gắn bó của những chàng trai nước Việt với một thời làm lính thủy.
.
Tài chánh:
– Chị Đông cho biết số tiền của các HQ tham dự tiệc Tất Niên đóng góp, sau khi trừ chi phí nhà hàng còn dư lại $ 220.
– Tôi sẽ chuyển giao cho Tân Hội trưởng Nguyễn văn Đông số tiền $270 còn lại trong kỳ quyên góp “đăng báo Phân Ưu” Thân Mẫu của HQ Huỳnh văn Nguơn. Như vậy quỹ của Hội HQ hiện tại là $ 490.00
Xuất thân trong một dòng họ ba đời binh nghiệp danh tiếng khi có ông nội và cha là những Đô Đốc Hải Quân Hoa Kỳ, Thượng Nghị Sĩ John McCain là một trong các chính khách đương thời có những kinh nghiệm cá nhân sâu đậm với cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong một phi vụ oanh tạc Hà Nội vào ngày 26 Tháng 10 năm 1967, phi cơ của Thiếu tá Không quân lực lượng Hải quân Hoa Kỳ John McCain, 31 tuổi, bị bắn hạ ngay trên bầu trời Hà Nội. Bị bắt sống, bị tra tấn và cầm tù trong hơn 5 năm trời, TNS McCainđược trao trả tù binh vào Tháng 3 năm 1973 và đã viết về những năm tháng tù tội tại Hỏa Lò Hà Nội ngay sau khi được trả tự do. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên tờ US News & World Report vào Tháng 5 năm 1973 và được đưa lên trang mạng này vào năm 2008.
****
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot ( 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20.Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một hơi không khí và bắt đầu chìm xuống lại. Tất nhiên là vậy vì tôi đang mang đồ bay và các thiết bị trên người nặng ít nhất cũng 50lbs. Tôi chìm xuống và cố gắng chòi lên mặt nước lần nữa. Tôi không thể hiểu tại sao tôi không thể sử dụng chân phải hay tay của mình. Tôi choáng váng, trồi lên lần nữa và lại bị chìm xuống. Lần này thì tôi không thể trồi lên lại mặt nước. Mang chiếc áo phao cứu sinh trên người, tôi cúi xuống dùng miệng kéo dây và cuối cùng cũng nổi lên lại mặt nước.
Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ và ngay lập tức họ bắt đầu lột đồ tôi ra, theo như thủ tục chung của họ. Tất nhiên vì đây là ngay trung tâm thành phố nên có đông người tụ tập, và tất cả bọn họ đã hò reo, gào hét, chửi rủa, phun nước miếng và đá tôi túi bụi. Khi họ đã cởi gần hết quần áo của tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy đau nhói nơi đầu gối phải. Tôi gượng dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân phải nằm xéo lên đầu gối trái của tôi, gần như vuông góc. Tôi thốt lên, “Chúa ơi! Chân tôi”. Dường như điều này làm họ điên tiết dù tôi không biết lý do tại sao. Một kẻ trong số họ dộng báng súng trường xuống vai tôi một cú khá nặng. Một kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. Đám đông này thực sự đang nổi cuồng. Ngay lúc đó, một thanh niên xuất hiện và hét nạt đám đông dạt ra. Một người phụ nữ khác đỡ tôi dậy và kề lên miệng tôi tách trà, trong lúc có mấy tay chụp hình bấm vài pô hình. Điều này làm đám đông dịu lại một chút. Thế rồi họ đưa tôi lên cáng, khiêng vào một chiếc xe tải và chở thẳng đến nhà tù chính của Hà Nội. Tôi được đưa vào một xà lim và đặt xuống sàn nhà. Tôi vẫn còn nằm trên cáng, chỉ mặc đồ lót và có khoác cho một tấm chăn lên người.
Trong ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại vài lần giữa cơn mê man bất tỉnh. Dù vậy tôi cũng bị đưa ra khảo cung nhiều lần – điều mà chúng tôi gọi là một cuộc “kiểm tra vấn đáp”. Đó là những lúc tôi bị đánh với đủ gán ghép về tội phạm chiến tranh. Bắt đầu bị đánh ngay ngày đầu tiên. Tôi không thèm khai bất cứ điều gì ngoại trừ họ tên ,cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh.
Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa:
“Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng”.
Tôi không tin lắm. Tôi nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh viện. Tôi được tên lính canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút nước… Nước thì tôi còn nuốt được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. Lúc đó, bọn họ chỉ muốn khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức chính trị. Nhưng mỗi khi họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ khai tên họ, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh chừng đó. Tôi nghĩ đến đâu ngày thứ tư gì đó thì có hai tên bước vào, thay vì chỉ một. Một tên kéo tấm chăn để chỉ cho tên kia vết thương của tôi. Tôi nhìn xuống đầu gối. Kích thước, hình dạng và màu sắc của trái banh sao thì nó cũng y vậy. Tôi còn nhớ khi tôi còn là một sĩ quan huấn luyện bay thì một đồng ngũ của tôi cũng đã bị đẩy ra khỏi máy bay của anh và bị gãy đùi. Chân bị tụ máu và rồi anh bị chết, một điều khá bất ngờ đối với chúng tôi – khi có người chết vì bị gãy chân… Tôi nhận ra rằng tôi cũng đang bị y hệt như vậy.
Khi tôi nhìn thấy vậy,tôi nói với người lính canh, “OK, cho tôi gặp cấp trên các anh”. Chỉ dăm phút,một sĩ quan tới, đó là người mà chúng ta sẽ còn biết rõ về sau, tạm gọi là “Con Rệp”. Hắn ta là một kẻ tra tấn tâm thần, một trong những quái vật tồi tệ nhất mà chúng tôi phải đối phó. Tôi nói:
“OK, tôi sẽ cung cấp cho anh tin tức quân sự nếu anh đưa tôi đến bịnh viện”.
Hắn rời phòng và trở lại với một bác sĩ, một gã mà chúng ta gọi là “Zorba”, một tên hoàn toàn không có khả năng.
Hắn cúi xuống bắt mạch. Hắn không nói được tiếng Anh, nhưng lắc đầu và lúng búng gì đó với“Con Rệp”.
Tôi hỏi: “Các anh có đưa tôi đến bệnh viện không?”
“Con Rệp” trả lời, “Trễ rồi”.
Tôi nói, “Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện, tôi sẽ hồi phục”.
“Zorba” bắt mạch tôi lần nữa, và lập đi lập lại, “Đã quá trễ”.
Họ đứng dậy và bỏ đi, để tôi nằm lại bất tỉnh. Chỉ một lúc sau, “Con Rệp” ập vào phòng hét toáng lên:
” Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày đến bịnh viện”.
Tù nhân đang ở ” Khách sạn Hilton Hà nội”
Tôi kể lại chuyện này để nói lên điều này: Khó mà có tù nhân cụt tay chân nào còn sống sót trở về vì bọn Bắc Việt sẽ chẳng mất thì giờ chữa trị cho những ai bị trọng thương. Chỉ riêng việc chuyển từ kiểu đời sống tại Mỹ sang chốn lao tù bẩn thỉu, bụi bặm và nhiễm trùng, cũng đã khó cho ai còn sống sót. Trong thực tế,nội việc chữa trị tôi trong bệnh viện cũng đã xém làm tôi mất mạng.
Tôi thức dậy một vài lần trong ba bốn ngày sau. Huyết thanh và máu đang được truyền cho tôi. Tôi trở nên khá tỉnh táo. Căn phòng mà tôi nằm không đến nỗi nhỏ lắm, khoảng đâu 15×15feet, nhưng dơ dáy bẩn thỉu và bị trũng, mỗi khi trời mưa thì nước ngập sàn cũng từ nửa đến một inch. Tôi chẳng được tắm rửa lấy một lần trong bệnh viện.Tôi cũng gần như không hề thấy bóng dáng một bác sĩ hoặc một y tá nào, ngoại trừ bác sĩ có ghé liếc sơ tôi vài lần. Họ nói tiếng Pháp chớ không phải tiếng Anh.
Người canh tôi là thằng bé 16 tuổi, chắc vừa lên khỏi ruộng lúa. Trò tiêu khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một cuốn truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, đang ngồi trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ.Thằng bé chỉ trỏ gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách đầy khoái trá… Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi. Các xương sụn rất khó nhai.
Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi nuốt trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.
Tôi nằm đó đâu khoảng 10 ngày, thì một buổi sáng có một tên “gook”- kiểu chúng ta gọi bọn Bắc Việt –đến.
Gã này nói tiếng Anh rất giỏi. Hắn hỏi thăm tôi rồi bảo:
“Chúng tôi có một người Pháp đến thăm Hà Nội và muốn mang tin tức về cho gia đình của anh”.
Đóng chút ngây ngô vào lúc đó – vì cần phải khôn ngoan hơn với những loại người này– tôi hình dung chuyện này cũng chẳng thiệt thòi gì, nếu anh chàng này đến gặp tôi và quay về thông báo cho gia đình tôi rằng tôi vẫn còn sống sót. Khi đó tôi chưa biết được rằng tên của tôi đã được công bố trong chiến dịch tuyên truyền rầm rộ của Bắc Việt và bọn họ rất hí hửng vì đã bắt được tôi.
Họ nói với một số bạn của tôi khi tôi bị bắt rằng
“Chúng tôi đang nắm thái tử trong tay”, làm tôi cũng mắc cười.
Họ bảo tay người Pháp sẽ tới thăm tôi tối đó .Khoảng trưa,tôi được đặt lên chiếc xe lăn và đưa vào phòng mổ để băng bột tay phải cho tôi.Họ rất vất vả để nối xương lại với nhau, bởi vì cánh tay tôi đã bị gãy ba nơi, có hai khúc bị trôi dật dờ.
Tôi phải chứng kiến cảnh một gã vật lộn để sắp lại xương tay cho mình trong khoảng một giờ rưỡi đồng hồ mà không có thuốc tê. Sự đau đớn tột độ làm tôi xỉu đi nhiều lần. Cuối cùng hắn ta đành bỏ cuộc và gắn cái ngực băng bột vào tôi.
Điều này làm tôi kiệt sức và đó là lý do tại sao sau này, khi một số phim truyền hình được quay, nhiều người xem thấy tôi như thể đang bị say thuốc vậy. Khi mọi chuyện đã xong, họ đưa tôi vào một căn phòng lớn với một chiếc giường ra trắng tươm tất.
Tôi nghĩ, “Boy, mọi thứ coi bộ thực sự khá hơn”. Tay lính canh nói với tôi:
“Bây giờ mày sẽ ở trong căn phòng mới này”.
Khoảng một giờ thì một gã đàn ông được gọi là “Mèo” đến. Về sau tôi mới biết rằng hắn ta là người đã phụ trách tất cả các trại tù binh tại Hà Nội cho đến cuối năm1969. Hắn khá lanh lợi, một loại trí thức đang nắm quyền Bắc Việt. Hắn nằm trong Cục Chính trị của Đảng Lao động Việt Nam.
Điều đầu tiên hắn làm là đưa tôi nhận diện thẻ quân của Đại tá John Flynn – tức tướng John Flynn bây giờ – viên chỉ huy cao cấp của chúng tôi. Ông cũng bị bắn hạ trong cùng một ngày với tôi. “Mèo” nói qua một thông dịch viên, hắn không nói tiếng Anh lúc đó.
“Người của truyền hình Pháp đang đến”…
Tôi nói:
“Tôi không nghĩ rằng tôi muốn được quay phim”.
Hắn xẵng giọng:
“Anh cần hai cuộc giải phẫu, và nếu anh không nói chuyện với anh ta thì chúng tôi sẽ lấy lớp băng bột ở ngực anh ra và anh sẽ không được giải phẫu gì thêm nữa”.
Hắn tiếp:
“Anh phải nói rằng anh biết ơn nhân dân Việt Nam và xin lỗi về những tội ác của mình”.
Tôi nói với hắn ta là tôi sẽ không làm điều đó.
Cuối cùng, một người Pháp tên là Chalais bước vào, một tay cộng sản, như tôi biết ra sau đó, cùng với hai phóng viên ảnh khác.
Ông ta hỏi tôi về sự đối xử và tôi nói với ông là thỏa đáng. “Mèo” và “Chihuahua”, một tên thẩm vấn khác, nhắc sau lưng tôi để nói theo rằng, tôi rất biết ơn cho việc chữa trị khoan hồng và nhân đạo của họ.Tôi từ chối, và khi chúng ép tôi, Chalais nói:
“Tôi nghĩ rằng những gì ông nói với tôi cũng đủ rồi”
Sau đó Chalais hỏi tôi có nhắn tin gì về cho gia đình…Tôi bảo với ông là hãy nhắn vợ và những người khác trong gia đình là tôi đang hồi phục và rất yêu thương họ.Một lần nữa, từ đàng sau, “Mèo” khăng khăng bắt tôi nói thêm đại loại là hy vọng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc để tôi có thể được về nhà.
Chalais cứng rắn cắt ngang lời hắn ta, bảo rằng ông đã hài lòng với câu trả lời của tôi. Ông đã giúp tôi thoát khỏi một tình huống đầy khó khăn… Chalais ở ngay Paris. Vợ tôi sau đó đã bay sang đó gặp ông ta và ông đã cho cô ấy một bản sao đoạn phim, về sau được chiếu trên đài truyền hình CBS tại Mỹ. Ngay khi ông vừa đi khỏi, bọn chúng lập tức đưa tôi lên xe đẩy và tống về lại căn phòng bẩn thỉu trước đó.
Sau đó, đã có nhiều người đã đến nói chuyện với tôi. Không phải ai trong họ cũng đến để thẩm vấn. Có lần một nhà văn già có chòm râu dài như Hồ Chí Minh và nổi tiếng của Bắc Việt đến phòng của tôi, muốn trò chuyện về Ernest Hemingway. (Chú thich: Đó là Nhà Văn Nguyễn Tuân, người đã đưa cuộc nói chuyện này vào tập bút ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” theo chỉ thị đảng để ca ngợi chính sách “nhân đạo” (!?)của đảng với tù binh chiến tranh).
Tôi nói với ông ta rằng Ernest Hemingway chống Cộng bằng vũ lực. Nó cho ông ta một điều gì đó để suy nghĩ. Những người khác đến để tìm hiểu về đời sống ở Mỹ. Họ hình dung rằng cha tôi cấp bậc quân sự cao như vậy, tất tôi phải được nhiều đặc quyền và trong vòng quyền lực. Họ không có khái niệm gì hết về cách vận hành dân chủ của chúng ta.
Một trong những người đàn ông đến gặp tôi là tướng Võ Nguyên Giáp, được gọi là người hùng của Điện Biên Phủ mà tôi nhận biết qua ảnh sau này. Ông đến xem tôi ra sao, mà không nói gì. Ông là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và nằm trong Trung Ương Đảng Cộng sản Bắc Việt.
Khoảng hai tuần sau, tôi đã được đưa vào giải phẩu chân có quay phim. Họ chẳng hề chữa trị gì cánh tay trái bị gãy của tôi… Nó tự lành. Họ bảo chân tôi cần hai cuộc giải phẩu, nhưng vì tôi đã có một ” thái độ xấu” nên họ sẽ không cho làm cuộc thứ hai. Tôi cũng chẳng biết họ đã làm cái quỷ gì trên chân tôi. Nhưng bây giờ quay về Mỹ,một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình sẽ mổ và xem xét lại. Chưa gì ông đã báo với tôi rằng họ đã rạch sai đường mổ và cắt hết gân chằng ở một bên.
Tôi ở trong bệnh viện khoảng đâu sáu tuần, sau đó được đưa đến một trại giam ở Hà Nội tạm gọi là “Đồn Điền”. Nó là vào cuối Tháng 12 năm 1967. Tôi được đưa vào chung một xà lim với hai người khác là George Day và Norris Overly, cả hai cùng là Thiếu tá Không quân. Tôi nằm trên cáng, chân còn cứng đơ và bộ ngực băng bột mà tôi đã mang được khoảng hai tháng. Từ trọng lượng bình thường 155 lbs, tôi tụt xuống còn khoảng 100 lbs. Sau này, Thiếu Tá Day kể họ không nghĩ tôi sống thêm quá một tuần. Tôi cố gượng ngồi dậy được. Mỗi ngày tôi ngủ mê man khoảng 18 giờ, 20 giờ. Họ đã phải chăm sóc mọi thứ cho tôi.
Họ được phép xách một xô nước để thỉnh thoảng rửa ráy cho tôi. Họ đút tôi ăn và chăm sóc tận tụy, và tôi hồi phục rất nhanh.
Chúng tôi chuyển đến một căn phòng khác ngay sau lễ Giáng sinh…
Vào đầu Tháng Hai năm 1968, Thiếu Tá Overly được đưa ra khỏi phòng của chúng tôi và được trả tự do cùng với David Matheny và John Black. Họ là ba người tù binh đầu tiên được Bắc Việt trao trả. Tôi hiểu họ đã được khuyến dụ là không nên nói gì về việc đối xử tù nhân, để không gây nguy hiểm cho những người của chúng ta vẫn còn đang bị giam cầm. Chỉ còn lại Day và tôi một mình với nhau. Ông còn bó bột tay phải vì bị bắn sau lần ông đã bị bắt tận phía Nam, định vượt trốn và bị bắt lại lần nữa.
Ngay sau khi tôi đã có thể đi được, vào khoảng Tháng 3 năm 1968, thì Thiếu Tá Day bị chuyển đi.
Tôi bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi không được phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân đồng ngũ nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải -khoảng 10×10 -, có cửa ra vào chắc chắn mà không có cửa sổ. Hệ thống thông gió là hai lỗ nhỏ ở trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà bằng thiếc nên phòng nóng như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày, nhưng họ luôn bật một bóng đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt trong đó suốt hai năm.
Điêu khắc tội ác CS trong Chiến tranh Việt Nam. Cảnh tù nhân trong Hỏa Lò
Theo cái kiểu bị biệt giam này thì điều quan trọng nhất để tồn tại là liên lạc được với một ai đó, đôi khi nó chỉ là cái vẫy tay hoặc một cái nháy mắt, gõ vào tường, hoặc có ai đưa ngón tay ra hiệu cũng làm mọi chuyện khác đi. Nó cũng rất là quan trọng để giữ cho đầu óc mình làm việc và tất cả chúng tôi đều làm việc này. Một số người thích toán học nên họ nhẩm các phép toán phức tạp trong đầu vì chúng tôi chưa bao giờ được phép có giấy bút.
Vài người khác thì xây nhà trong đầu, xây từ tầng hầm lên trên. Tôi thì thiên về triết học. Tôi từng đọc rất nhiều sách về lịch sử nên đã dành hết ngày này đến ngày khác để ôn lại trong đầu những cuốn sách lịch sử này, suy diễn nơi nào nước này hay nước khác đã sai đường, hay Mỹ nên làm gì trong lĩnh vực đối ngoại. Tôi cũng suy niệm rất nhiều về ý nghĩa của đời sống. Cũng dễ dàng rơi vào sự tưởng tượng. Tôi đã từng viết sách và kịch trong tâm trí mình, nhưng tôi nghi ngờ rằng trong số này chẳng có cuốn nào hơn được mức tiểu thuyết rẻ tiền nhất.
Người ta đã hỏi tôi làm cách nào mà chúng tôi có thể nhớ được những chi tiết như mật mã, con số, tên họ cùng mọi thứ khác. Thực tế là, khi anh không có bất cứ điều gì khác để suy nghĩ, không bị chia trí thì nó thật dễ dàng. Kể từ khi tôi đã quay lại đây thì lại rất khó cho tôi để nhớ cả những điều đơn giản, ví dụ như tên của một người mà tôi vừa mới gặp. Trong thời gian bị biệt giam, tôi nhớ tên của tất cả 335 tù nhân chiến tranh ở Bắc Việt. Tôi vẫn còn nhớ chúng. Điều bạn phải chống chọi với nó là nỗi lo lắng. Nội tình trạng thể chất mình cũng dễ gây căng thẳng. Một lần tôi bị trĩ và đầu óc tôi bị chết dính vào nó khoảng ba ngày. Cuối cùng, tôi nhủ, “Coi, McCain, mày có từng biết thằng nào chết vì bệnh trĩ chưa?”. Vì vậy tôi bỏ mặc không nghĩ ngợi nữa và sau vài tháng thì nó tự khỏi.
Câu chuyện của Ernie Brace minh họa cho việc liên lạc là quan trọng với chúng tôi thế nào. Lúc tôi đang bị nhốt tại “Đồn Điền” vào tháng 10 năm 1968, có một căn phòng phía sau phòng tôi. Tôi nghe vài tiếng động bên đó vì vậy tôi bắt đầu gõ nhẹ vào tường. Tín hiệu mà chúng tôi gọi là “cạo râu và cắt tóc” để anh chàng khác sẽ gõ lại hai tiếng. Trong hai tuần, tôi không nghe động tĩnh, nhưng cuối cùng thì có hai tiếng gõ. Tôi bắt đầu gõ theo bảng chữ cái – một cái là “a”, hai cái là ” b ”và cứ vậy. Rồi tôi bảo: “Áp tai vào tường”. Cuối cùng anh ta đến và tôi áp cái ly vào tường, nói cho anh ta nghe được. Tôi chỉ cho anh mã gõ và các thông tin khác. Anh nói tên mình là Ernie Brace. Ngay lúc đó thì có tên lính canh lai vãng, tôi nói với Ernie:
“Thôi, ngày mai tôi gọi lại cho anh”.
Cũng mất vài ngày anh ta mới quay lại bức tường. Anh chỉ nói được “Tôi là Ernie Brace” rồi bắt đầu khóc nức nở. Sau khoảng hai ngày thì anh dằn được cảm xúc của mình, và trong vòng một tuần anh chàng này đã biết cách gõ, giao tiếp, nhắn tin và làm rất tốt về sau. Ernie là một phi công dân sự bị bắn rơi ở Lào. Anh bị cùm chân trong một cái lồng tre trong rừng, cổ bị xích lại trong ba năm rưỡi, hầu như chẳng sử dụng đến đôi chân. Anh trốn thoát ba lần và sau lần thứ ba bị bắt lại,anh bị chôn đứng xuống đất, chỉ chừa lại cái đầu.
Trong những ngày đó, vẫn vào năm 1968, theo lẽ là chúng tôi được phép tắm cách ngày. Nhưng cái trại này thiếu nước nên đôi khi hai ba tuần, cả tháng cũng không được tắm. Tôi có một tên “chuột cống” canh ngục, lúc nào cũng đưa tôi ra sau chót. Bồn tắm kiểu cái chuồng ngựa đổ bê-tông. Sau khi tất cả mọi người tắm, thường là không còn nước dư nhưng tôi cũng bị tống vào đứng không năm phút “tiêu chuẩn tắm” rồi bị đưa về lại phòng. Chuyện vệ sinh thì tôi được phát cho cái xô có nắp đậy không vừa miệng. Ngày nào cũng phải đổ nhưng có người khác xách giùm vì tôi còn đi chưa nổi. Từ lúc Day và Overly rời tôi, Day rời vào tháng 2 còn Overly thì tháng 3 năm 1968, việc đối xử căn bản là có đỡ. Khi tôi bị bắt gặp đang gõ tín hiệu liên lạc với người phòng khác hay đại loại vậy thì chỉ bị tặc lưỡi :
“Tắc, tắc! Không được thế, không được thế”.
Thật vậy, tôi nghĩ cũng không đến nỗi nào.
Ngày 15 tháng 6 năm 1968, một đêm tôi bị đưa lên phòng thẩm vấn. “Mèo” và một gã đàn ông khác mà chúng tôi gọi là “Thỏ” đang ở đó. “Thỏ” nói tiếng Anh rất giỏi. “Mèo” là chỉ huy của tất cả các trại tù tại thời điểm đó. Với tôi, hắn làm như không nói được tiếng Anh, mặc dù rõ ràng theo tôi thì hắn biết, vì trong các cuộc trò chuyện, hắn đặt câu hỏi hoặc nói chuyện trước khi “Thỏ” dịch những gì tôi nói. Như bạn biết, người phương Đông hay nói vòng vo một chút. Đêm đầu tiên, “Mèo” nói chuyện với tôi khoảng hai tiếng. Tôi không biết ý hắn ra sao nhưng đại loại hắn nói với tôi là hắn từng quản các trại tù binh Pháp trong những năm 1950 và đã tha cho một vài người, và rằng gần đây hắn gặp lại thì họ đã cám ơn về lòng tốt của hắn. Hắn bảo Overly đã về nhà “với danh dự “.
Tôi thực sự không biết phải nghĩ gì, bởi vì tôi đã từng có những cuộc thẩm vấn khác mà tôi chẳng khai báo.Lần này thì họ không tra tấn tôi. Họ chỉ nói rằng tôi sẽ không bao giờ được về nhà và sẽ bị xét xử như một tội phạm chiến tranh. Đó là đề tài thường xuyên của họ trong nhiều tháng. Đột nhiên “Mèo” hỏi tôi:
– Anh có muốn về nhà không?
Tôi sững người và tôi nói với bạn rất thẳng thắn rằng, tôi đã trả lời rằng tôi phải suy nghĩ về nó.Tôi trở về phòng và nghĩ ngợi khá lâu. Tôi đâu liên lạc được các sĩ quan cấp trên để có thể nhận được lời khuyên. Tôi lo liệu tôi có còn sống hay không bởi vì tôi đang ở trong tình trạng khá xấu. Tôi vừa bị kiết lỵ khoảng một năm rưỡi nay, bị sụt cân lần nữa. Nhưng tôi hiểu quân cách sĩ quan rằng “không chấp nhậ nân huệ hoặc ân xá ” và “sẽ không chấp nhận ưu đãi đặc biệt nào”, vì đối với ai đó được về nhà trước đó là một đặc ân đặc biệt. Không thể phá quân cách này. Ba đêm sau tôi được đưa trở lại. Hắn hỏi lại:
“Anh có muốn về nhà không?”.
Tôi nói: “Không”.
Hắn ta muốn biết lý do, và tôi trả lời lý do. Tôi nói rằng:
-Alvarez (người Mỹ đầu tiên bị bắt) cần được thả đầu tiên, sau đó là các binh lính.
“Mèo” nói với tôi rằng Tổng thống Lyndon Johnson đã ra lệnh cho tôi về nhà. Hắn đưa cho tôi một lá thư từ vợ tôi, trong đó cô đã viết: “Em ước chi anh là một trong ba người đã trở về nhà”. Tất nhiên, cô không cách nào hiểu được những phức tạp phía sau.
“Mèo” cho biết rằng các bác sĩ đã nói với hắn rằng tôi không thể sống nổi trừ khi tôi được chữa trị tại Mỹ. Chúng tôi cứ vờn nhau điều này và tôi vẫn mực nói “Không”. Ba đêm tiếp sau đó cũng cứ như vậy. Trong sang lễ Độc Lập 4 tháng 7 năm 1968, cùng một ngày cha tôi được thăng quyền Tổng Tư Lịnh Thái Bình Dương các lực lượng Hoa Kỳ, tôi được dẫn vào một căn phòng thẩm tra khác. “Thỏ” và “Mèo” đã ngồi ở đó. Tôi bước vào và ngồi xuống. “Thỏ” nói:
– Cấp trên chúng tôi muốn biết câu trả lời cuối cùng của anh.
– Câu trả lời cuối cùng của tôi cũng vậy. Đó là “Không”.
– Câu trả lời cuối cùng của anh phải không?
– Đó là câu trả lời cuối cùng của tôi.
“Mèo” đang ngồi với một đống giấy tờ trước mặt và một cây viết trong tay, hắn bẻ đôi cây viết, mực văng tung tóe. Hắn đứng lên, đá sầm cái ghế phía sau và nói:
“Bây giờ, McCain, chuyện sẽ rất xấu cho anh đó. Về lại phòng”.
Giai đoạn Bắc Việt liên tục đối xử tàn nhẫn với tù binh Mỹ kéo dài đến khoảng Tháng Mười năm 69. Họ muốn tôi gặp các nhóm phản chiến đến Hà Nội, trong đó có rất nhiều người nướcngoài như Cuba, Nga. Tôi nghĩ lúc đó chưa có nhiều người Mỹ “phản chiến” sớm vậy, dù các năm sau đó thì nhiều hơn. Tôi từ chối gặp bất kỳ nhóm nào. Với họ thì giá trị tuyên truyền sẽ rất lớn khi cha tôi là Tổng tư lệnh Thái Bình Dương.
Nhóm David Dellinger đến. Nhóm Tom Hayden đến. Ba nhóm tù nhân được thả, trên thực tế, dưới sự bảo trợ của các “nhóm hòa bình” này. Những người đầu tiên được thả về với một trong nhóm anh em Berrigan. Nhóm tiếp theo là toàn bộ một phi hành đoàn, có James Johnson , một trong những bộ ba FortHood (Nhóm 3 Binh Nhất Mỹ phản đối việc bị đưa sang Việt Nam) về cùng vợ của chủ biên tạp chí “Ramparts” và Rennie Davis. Nói chung, tôi nghĩ có tám hoặc chín người về kiểu đó… Sau đó là một nhóm thứ ba. Bắc Việt muốn tôi gặp tất cả các nhóm này, nhưng tôi đã có thể né được. Nhiều khi không thể làm họ mất mặt, vì vậy bạn phải cố gắng để đu đưa với nó. Bạn biết là “mặt mũi” là chuyện lớn với loại người này, và nếu bạn để họ có thể giữ thể diện thì được dễ dàng hơn rất nhiều. Ví dụ họ đánh tôi tàn nhẫn và bắt tôi phải gặp một phái đoàn, tôi trả lời
“Được, tôi muốn gặp một nhóm vậy, nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và tôi cũng không nói bất cứ điều gì về việc đối xử với tôi, nhưng nếu được hỏi, tôi sẽ kể sự thật về các điều kiện tôi đang bị giam giữ”.
Họ bảo:
“Anh đồng ý gặp một phái đoàn nên chúng tôi sẽ cho anh gặp”.
Nhưng như mọi người thấy, họ chưa bao giờ cho tôi gặp. Một lần, họ muốn tôi viết vài hàng cho các tù nhân chiến hữu của tôi nhân dịp Giáng sinh. Tôi viết thế này:
“Gởi đến các tù nhân chiến hữu mà tôi không được phép gặp mặt hay nói chuyện, tôi cầu mong gia đình các chiến hữu được tốt lành và hạnh phúc, và tôi hy vọng rằng các chiến hữu được phép viết và nhận thư gia đình theo Công ước Geneva năm 1949 mà những người đang giam cầm các bạn không cho phép. Xin Thiên Chúa ban phước lành đến các chiến hữu”.
Họ nhận thư nhưng tất nhiên là không bao giờ công bố nó. Nói cách khác, đôi khi viết cái gì đó ca ngợi chính phủ mình hoặc chống lại họ thì tốt hơn chuyện cứ nói “Tôi sẽ không viết bất cứ điều gì”- vì đó cũng có thể là cách câu giờ khi các điều viết ra này phải được thông lên đủ loại cấp trên của chúng.
Bây giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của đại úy Dick Stratton. Anh bị bắn rơi vào Tháng Năm 1967, lúc vài nhóm phản chiến Mỹ đã nhao nhao la làng rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội dù chúng tôi chưa làm vào thời điểm đó. Dick bị bắn rơi phía ngoài Hà Nội, nhưng họ muốn có một lời thú tội nhân lúc một ký giả Mỹ đang có mặt. Đó là vào mùa Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc mọi người còn nhớ những câu chuyện rất giật gân về những thiệt hại do bom Mỹ?
“Thỏ” và những tên khác thẩm vấn Dick Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các vết hằn dây thừng đã bị nhiễm trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có được một lời thú nhận rằng, anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng sống. Chúng rút móng tay và gí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức không thể nói “không”… Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm một hành động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi chào 90 độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám “gooks” thì không phải điều gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy.
Nhưng bất kỳ người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến thắt lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có điều gì đó đã xảy ra với anh ta. Đó là lý do tại sao Dick làm những gì anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục tạo áp lực để anh ta nói rằng anh ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh để buộc phải nói rằng anh không bị tra tấn. Dick vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một vài tuần trước ở đây rằng anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội phạm chiến tranh. Anh ấy là một người cao quý. Anh và tôi đã ở chung trại “Đồn Điền” với nhau trong một thời gian dài và anh rất cang cường trong đó. Anh là một sĩ quan Hải quân xuất sắc, một người Mỹ cống hiến hết mình và có đức tin sâu sắc. Tôi nghĩ đến Dick Stratton rất nhiều. Anh rất, rất là xui bị nhận những đối xử tàn tệ nhất mà đám“gook” có thể nặn ra.
Chúng tôi đã trải qua một mùa Xuân và Hè 1969 đặc biệt xấu vì có một cuộc vượt ngục tại một trong những trại tù. Hai người của ta là Ed Atterberry và John Dramesi lên kế hoạch chuẩn bị rất tốt nhưng đã bị bắt lại. Atterberry bị đánh đến chết sau cuộc vượt ngục bất thành này. Chẳng nghi ngờ gì về điều này khi Dramesi thấy Atterberrybị đưa vào một căn phòng và nghe tiếng đánh đập rồi bị biệt tăm từ đó. Còn Dramesi, nếu anh không phải là một người lì đòn thì cũng có thể đã bị đánh chết. Anh có thể là một trong những người gai góc nhất mà tôi từng gặp. Anh là dân từ Nam Philly, từng là một võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp và là một đô vật khi còn trong đại học. Các đòn thù lây sang tất cả các trại khác. Họ bắt đầu tra khảo chúng tôi về các kế hoạch vượt ngục. Thức ăn trở nên tồi tệ. Việc kiểm tra phòng trở nên rất nghiêm ngặt. Anh không thể có bất cứ điều gì trong phòng mình, không có gì. Họ không cho cả thuốc i-ốt xức ghẻ như trước vì Dramesi và Atterberry đã bôi i-ốt cho sậm da như người Việt Nam trước khi vượt ngục.
Mùa hè năm đó, từ Tháng Năm đến khoảng Tháng Chín thì cứ ngày hai lần, tuần sáu ngày,tất cả chúng tôi được cho ăn chỉ là canh bí đỏ và bánh mì tại trại mình. Đó là một chế độ ăn uống rất kham khổ, đầu tiên là ngán tận cổ thứ canh bí đỏ đó, kế đến là nó không có bất kỳ giá trị dinh dưỡng thực sự nào. Điều duy nhất để có thể giữ cho năng lượng trong người là bánh mì, một cục bột nhão nhoét. Ngày Chủ Nhật, chúng tôi được cho ăn món chè đậu, đậu nấu với đường. Rất nhiều người chúng tôi ốm tong teo và hốc hác.
Tôi xui xẻo bị bắt gặp đang liên lạc bạn tù bốn lần trong Tháng Năm năm 1969. Tôi bị tống vào một phòng trừng phạt đối diện với xà lim của tôi nhiều lần. Cũng Tháng Năm 1969 đó, họ muốn tôi viết, như tôi còn nhớ, một lá thư cho các phi công Mỹ đang bay trên Bắc Việt để yêu cầu họ đừng làm điều đó nữa. Tôi đã bị buộc phải đứng liên tục– đôi khi chúng phạt mình đứng yên hay ngồi trên một chiếc ghế suốt một thời gian dài. Tôi bị bắt đứng vậy cũng mấy ngày, chỉ được nghỉ vài tiếng khi một lính canh – một người thực sự là con người duy nhất mà tôi từng gặp ở trong đó– cho tôi nằm xuống cho một vài giờ khi anh gác trong một đêm khuya. Một trong những thủ thuật chúng tôi đối phó để chúng chẳng hủy được mình là nếu cảm thấy đứng mệt quá thì tự ngồi xuống, để chúng buộc đứng lên lại. Vì vậy, tôi ngồi xuống và bị một tên lính canh bé choắt đặc biệt đáng căm ghét xông vào, nhảy giậm lên xuống đầu gối tôi. Vì chuyện này mà tôi đã phải mang nạng trở lại cả một năm rưỡi sau đó.
Đó là một mùa Hè dài đăng đẳng và khó khăn nhưng đến Tháng Mười năm 1969, đột nhiên có những thay đổi lớn trong trại. Sự tra tấn ngừng lại. Một ngày kia, gã “Công tử” đến phòng của tôi và thông báo tôi sẽ có được một người bạn tù ở chung phòng. Thức ăn đỡ hơn và phần ăn cũng nhiều hơn, còn đám lính canh ra vẻ thân thiện. Tôi cho rằng tất cả điều này trực tiếp nhờ vào các nỗ lực vận động của chính phủ và người dân ở Hoa Kỳ vào năm 1969. Em trai tôi là Joe rất tích cực trong Liên Đoàn Quốc gia những gia đình các tù nhân chiến tranh và mất tích người Mỹ tại Đông Nam Á.Tổ chức này bao trùm tất cả các nhóm gia đình tù binh chiến tranh POW. Joe đã giải thích cho tôi biết lý do tại sao thái độ Bắc Việt Nam đối với tù binh Mỹ lại thay đổi vậy.
Vào khoảng những năm 1965, 1966 trước đó, khi việc ném bom miền Bắc tăng dần, Hà Nội trình diễn màn tuyên truyền đầu tiên của mình bằng cách điệu các phi công Mỹ bị đánh đập diễn hành qua các đường phố. Đáng ngạc nhiên với họ là phản ứng của truyền thông thế giới nói chung là tiêu cực. Kế đó Bắc Việt đã cố gắng chiến thuật buộc Thiếu tá Dick Stratton xuất hiện và xin lỗi vì những tội ác chiến tranh. Nhưng rõ ràng là ông đã bị ngược đãi và buộc phải làm điều này chỉ dưới sự cưỡng ép.
Điều đó chỉ phản tác dụng. Họ làm tiếp việc trả tự do hai nhóm ba tù binh vào Tháng Hai và Tháng Mười năm 1968. Những tù binh này bị bắt dưới sáu tháng, chưa bị giảm cân đáng kể và nhìn còn khỏe mạnh.
McCain đang chuẩn lên xe bus ra phi trường sau khi thoát khỏi trại giam
Cho đến khi Nixon lên nắm chính phủ đầu năm 1969 thì trước đó chính phủ ở nhà còn giữ thái độ: “Không nói về tình trạng tù binh chiến tranh vì e rằng sẽ làm nguy hại tù binh Mỹ đang bị giam”. Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird, đầu năm 1969, đã có các cuộc đàm phán hòa bình với Bắc Việt và Việt Cộng tại Paris (đàm phán đã bắt đầu dưới thời Tổng thống Johnson vào cuối năm 1968). Laird đem hình ảnh của những tù binh bị đánh đập tàn nhẫn mà các hãng tin nước ngoài chụp được, chẳng hạn như Frishman, Stratton, Hegdahl – tất cả đều bị xuống ký trầm trọng. Ông nói với Bắc Việt: “Công ước Geneva nói rằng các ông phải thả tất cả các tù binh bị bệnh và bị thương. Những người này đang bị bệnh và bị thương, tại sao họ không được trả tự do?”.
Tháng Tám năm 1969, Hà Nội thả Frishman. Anh không còn khuỷu tay, chỉ được gắn cánh tay cao su khập khiễng và sụt mất 65 lbs. Hegdahl ra tù và sụt 75lbs. Wes Rumbull cũng được thả, phải bó bột vì gãy sống lưng. Frishman được phép tổ chức một cuộc họp báo và kể ra các chi tiết sự tra tấn và ngược đãi.
Tin tức này xuất hiện trên toàn thế giới, và từ đó, bắt đầu từ mùa Thu năm 1969, việc đối xử tù binh đỡ hơn.
Chúng tôi nghĩ tác động trực tiếp là đến từ thực tế Frishman là một nhân chứng sống thực về sự ngược đãi tù binh Mỹ của Bắc Việt.
Tôi tự hào về các hoạt động tranh đấu cho tù nhân chiến tranh của em trai tôi là Joe và Carol-vợ tôi, bên nhà. Sự khao khát của những người vợ có chồng tù tội theo thời gian thường là “Lạy Chúa, bất kể sao cũng được, con chỉ muốn chồng con được về”.
Với Carol thì câu trả lời của cô ấy là, “Chỉ cần có được chồng tôi trở về không đủ đối với tôi và không đủ với John, mà tôi muốn anh ấy đứng thẳng người trở về”.
Tôi được nhận khá ít thư từ Carol. Chỉ có ba thư trong bốn tháng đầu tiên tôi bị bắn hạ. Đám “gook” cho tôi nhận chỉ một lá thư trong bốn năm tù cuối. Gói quà đầu tiên được nhận vào Tháng Năm 1969, sau đó họ cho mỗi năm một lần.
Lý do tôi nhận rất ít thư từ Carol vì cô khăng khăng chỉ sử dụng các tổ chức hoạt động theo Công ước Geneva về việc đối xử với tù nhân chiến tranh, mà từ chối gửi thư thông qua Ủy ban liên lạc với các gia đình tù nhân do các nhóm phản chiến điều hành. Điều này mang lại cho tôi vài điều cần nói chi tiết hơn.
Như mọi người biết, trở lại thời điểm 1954, Bắc Việt đã ở thế tay trên trong việc lật đổ chính phủ Pháp tại Paris vì các cử tri Pháp đã chẳng còn quan tâm đến cuộcchiến Việt Nam mà chính phủ của họ đã dự phần. Đó là cách Bắc Việt chiến thắng vào năm 1954, thắng ngay tại Pháp chớ không phải tại Việt Nam. Pháp đồng ý rút khỏi Đông Dương mà không đặt vấn đề gì khác khi ký thỏa thuận và kết quả là họ chỉ nhận lại một phần ba số tù binh chiến tranh của mình. Tôi tin rằng Hà Nội cũng hy vọng sẽ giành chiến thắng trong trường hợp chúng ta bằng cách làm suy giảm tinh thần dân Mỹ như vậy. Họ phải dẫn đưa dư luận thế giới về phía họ…
Tôi nhớ vào năm 1968 hoặc 69, trong bài phát biểu của Phạm Văn Đồng với Quốc Hội VN,chúng ta bị banh tai với diễn văn có tiêu đề “Cả thế giới ủng hộ chúng ta” chớ không phải kiểu “Chúng ta đã đánh bại quân Mỹ xâm lược” hoặc bất cứ điều tương tự vậy.
Năm 1969, sau khi ba tù nhân được trả tự do về đến Mỹ và kể lại sự tàn bạo trong các trại tù binh chiến tranh thì Tổng Thống Nixon đã bật đèn xanh cho công bố điều này. Nó tác động mạnh đến việc đối xử với chúng tôi. Cảm tạ Chúa cho điều này, bởi nếu không phải vậy thì rất nhiều người trong chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội sống sót trở về.
Một ví dụ nhỏ về cách thay đổi như sau: trên cửa xà lim tôi là các chấn song sắt, thường bị che bởi một tấm ván để tôi khỏi nhìn ra ngoài và để chặn sự thông gió. Một đêm, vào khoảng cuối Tháng Chín năm 1969,“Đầu Lệch”-tên trưởng trại tù đích thân đến và lấy nó ra để tôi bắt đầu có chút thoáng gió. Tôi chẳng tin vào mắt mình. Từ đó, mỗi đêm họ hé ô cửa trên để tôi có được chút thông gió… Chúng tôi bắt đầu được tắm thường xuyên hơn. Thiệt hết sức là ngạc nhiên.
Vào Tháng 12 năm 1969, tôi được chuyển từ “Ngũ Giác Đài” sang “LasVegas”, là một khu vực nhỏ tại Hỏa Lò do người Pháp xây năm1945. Người Mỹ thì gọi nó là “Hà NộiHilton”. “Khách Sạn Tan Tác” cũng là ở đó – đó là nơi đầu tiên mà ai cũng bị đưa đến thẩm vấn mở màn và sau đó bị đưa đến các trại khác. Toàn bộ nhà tù này có diện tích khoảng hai block đường.
Tại “Las Vegas “, tôi bị đưa vào một nhà nhỏ gọi là “Gold Nugget” có ba phòng giam. Chúng tôi đặt tên cho các ngôi nhà theo tên các khách sạn tại Las Vegas như “Thunderbird”,“Stardust”, “Riviera”, ” Gold Nugget” và “Desert Inn “.
Bị chuyển đến “GoldNugget” và ngay lập tức tôi có thể tạo sự liên lạc với những tù nhân quanh trại, vì khu vực tắm ở ngay cửa sổ phòng tôi nên tôi có thể nhìn qua kẽ trên cửa phòng tắm và liên lạc với nhau. Tôi bị biệt giam ở đó cho đến Tháng Ba năm 1970.
Họ ép tôi gặp các đoàn phản chiến Mỹ đã bắt đầu tăng dần nhưng không bị bất kỳ sự tra tấn nào để ép buộc.
Vào Tháng Giêng năm 1970, tôi được đưa đến“Mèo” để thẩm vấn. Hắn nói với tôi rằng, hắn muốn tôi gặp một khách nước ngoài.
Tôi lặp lại điều đã luôn nói với hắn trước đó rằng, tôi sẽ gặp họ nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và nếu được hỏi về việc đối xử, tôi sẽ kể với họ về sự khắc nghiệt của nó.
Rất ngạc nhiên cho tôi, hắn nói: “Tốt, anh không cần phải nói bất cứ điều gì”. Tôi nói với hắn tôi sẽ suy nghĩ về đề nghị này.
Tôi trở về phòng và tìm cố vấn từ một sĩ quan cấp trên trong khu vực tù của mình và ông khuyên tôi cứ đi gặp. Vì thế tôi đã gặp một tay nói rằng hắn đến từ Tây Ban Nha, nhưng sau này tôi nghe được là đến từ Cuba. Hắn chẳng hỏi tôi bất kỳ câu hỏi nào về các vấn đề gây tranh cãi hoặc chuyện đối xử hay suy nghĩ của tôi về cuộc chiến. Tôi nói với hắn là tôi chẳng hối hận gì về những gì tôi đã làm và nếu có xảy ra lần nữa, tôi cũng sẽ làm lại y vậy. Điều đó dường như làm hắn nổi giận vì hắn là một cảm tình viên của Bắc Việt. Giữa lúc đó, một phóng viên bước vào chụp vài tấm hình.Tôi đã nói với “Mèo” trước đó là tôi không muốn có bất cứ sự công bố hình ảnh nào của tôi, vì vậy khi tôi về phòng sau cuộc phỏng vấn kéo dài khoảng 15, 20 phút gì đó, tôi nói với hắn là tôi sẽ không gặp khách nào khác vì hắn đã không giữ lời hứa.
Sau đó Đại úy Jeremiah Denton, người đang điều hành khu tù chúng tôi lúc đó đưa ra đường lối là chúng tôi không nên gặp bất kỳ đoàn nào khác. Tới Tháng Ba, tôi có được một bạn tù chung phòng là Đại tá Không quân John Finley. Ông và tôi sống chung được khoảng hai tháng. Một tháng sau khi ông nhập phòng, “Mèo” đến gặp tôi và bắt phải gặp một phái đoàn khác.
Tôi từ chối nên bị phạt ngồi ghế ngoài trời trong ba ngày đêm liên tục. Sự ép buộc lên chúng tôi liên tục để phải gặp các phái đoàn phản chiến. Đầu tháng Sáu tôi bị tách khỏi Đại tá Finley và bị đưa vào một xà lim gọi là “Calcutta”, cách xa các tù nhân gần nhất cũng khoảng 50 mét. Nó rộng chỉ 6×2 feet, không có lỗ thông gió và rất, rất là nóng.
Suốt mùa hè tôi bị lả nhiệt vài ba lần và bị bệnh kiết lỵ. Sức khỏe tồi tệ hẳn, tôi không được tắm rửa và khẩu phần bị cắt giảm xuống còn một nửa, thỉnh thoảng lại bị bỏ đói một ngày hay hơn. Suốt thời gian này tôi bị đưa đi thẩm vấn và bị ép phải gặp những người phản chiến nhưng tôi từ chối.
Tháng Chín tôi bị chuyển đến khu gọi là “Riviera” nằm tách biệt sau trại. Tôi ở đó cho đến khi tháng Mười Hai năm 1970. Ở đó tôi có thể liên lạc với bạn tù khá tốt vì có một cánh cửa có lỗ thông gió quay ra ngoài. Tôi đứng lên cái xô rồi dùng bàn chải đánh răng để quơ tín hiệu cho các tù nhân khác và họ sẽ quơ lại cho tôi. Tháng Mười Hai tôi bị chuyển đến “Thunderbird”, một trong những ngôi nhà lớn với khoảng 15 phòng giam. Việc liên lạc với bạn tù rất tốt ở đây khi chúng tôi gõ tín hiệu lên vách giữa các phòng giam với nhau. Tôi học được rất nhiều về âm học trong thời gian này, vì nếu bạn biết gõ đúng chỗ trên vách thì có thể nghe được người khác ở cách xa bốn năm phòng. Cuối tháng 12 năm 1970, tôi đoán là khoảng ngày 20, tôi được cho ra ngoài vào ban ngày với bốn người khác. Vào đêm Giáng Sinh,chúng tôi được đưa ra khỏi phòng mình và chuyển đến “Trại Thống nhất “, một phần khác của Hỏa Lò. Khoảng 45 người, chủ yếu bị đưa từ “Vegas” bị nhốt chungvào một phòng lớn. Có bảy phòng lớn như vậy và mỗi phòng giam 45 hoặc 50 tù nhân. Chúng tôi có tổng cộng 335 tù nhân tại thời điểm đó. Có bốn hoặc năm người không trong tình trạng tốt nên bị nhốt riêng. Các Đại Tá Flynn, Wynn, Bean và Caddis cũng bị nhốt riêng biệt, không được chuyển vào với chúng tôi lúc đó.
Tên giám thị của chúng tôi lại là “Con Rệp” mà chúng tôi rất căm ghét. Hắn hành hạ chúng tôi đủ điều, không cho chúng tôi tụ tập hơn ba người cùng lúc. Chúng sợ chúng tôi sẽ thiết lập sự truyền bá chính trị cho nhau. Chúng không cho chúng tôi được làm Thánh lễ. Tháng Ba năm 1971, các sĩ quan cấp trên quyết định rằng chúng tôi sẽ tổ chức một Thánh lễ.. Đó là điều quan trọng với chúng tôi và cũng là điều đúng để tranh đấu. Chúng tôi tiến hành và tổ chức lễ. Những người chủ Thánh lễ ngay lập tức bị đưa ra khỏi phòng. Chúng tôi bắt đầu hát vang những bài Thánh ca và Quốc ca.
Đám “gook” nghĩ đó là một cuộc nổi loan nên mang dây thừng và dùng judo vật trói chúng tôi. Sau khoảng một hoặc hai tuần họ bắt đầu đưa các sĩ quan cấp trên ra khỏi phòng chúng tôi đến nơi khác. Cuối tháng Ba chúng lại đưa thêm ba hay bốn người mỗi một trong bảy phòng ra, tổng cộng là 36 người. Chúng tôi bị đưa đến một trại chúng tôi gọi là “Skid Row”, một trại trừng phạt từ tháng Ba đến tháng Tám, được trở về khoảng bốn tuần khi có ngập lụt quanh Hà Nội, rồi sau đó chúng tôi lại bị đưa ra đó lại cho đến tháng Mười.
Ở đó chúng không đối xử tệ lắm với chúng tôi. Đám lính canh được phép đánh chúng tôi chỉ khi chúng tôi ngang ngạnh nhưng không được phép tra tấn chúng tôi để có được các tuyên bố mang tính tuyên truyền. Các xà lim đều rất nhỏ, khoảng 6×4 feet và chúng tôi bị biệt giam lần nữa. Đó là điều khó chịu nhất vì cứ làm mình nghĩ đến tất cả bạn bè đã từng bị giam chung một phòng lớn với nhau. Nhưng so với những năm 69 và trước đó thì chẳng đáng gì. Lợi thế lớn nhất khi bị giam chung phòng lớn là chỉ cần vài ba người trong nhóm phải đối phó với đám “gook” còn khi bị biệt giam thì lúc nào cũng phải tự mình đối phó với chúng, mà lúc nào chẳng có chuyện lục đục với chúng..
Lẽ ra mình được phép có 15 phút để tắm nhưng mới năm phút thì tên “gook” đã bắt về lại phòng, vì vậy phải cãi với hắn và thế là bị hắn nhốt lại, không cho tắm một tuần. Nhưng khi ở trong một phòng lớn với những người khác, chẳng thèm dòm ngó đến chúng sẽ làm mình dễ chịu hơn rất nhiều..
Suốt giai đoạn này, bọn“gook” tấn công chúng tôi bằng các phát biểu phản chiến từ một số nhân vật cao cấp ngay Washington DC. Đây là cách tuyên truyền hữu hiệu nhất để tấn công chúng tôi khi dùng chính phát biểu, tuyên bố của vài người nói chung là được trọng vọng tại Hoa Kỳ.. Chúng dùng nhiều lời lẽ củaThượng Nghị Sĩ Fulbright, rồi TNS Brooke. Chúng lặp đi lặp lại lời của TNS Ted Kennedy, cũng như Averell Harriman. Chúng cũng thích Clark Clifford, ngay sau khi ông trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Tổng Thống Johnson. Đến khi Ramsey Clark vào cuộc thì họ xem đó là bước tuyệt vời cho mục tiêu của họ
(Chú thích: Ramsey Clark, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp thời TT Johnson, người phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt Nam và năm 1972 đã sang Hà Nội để phản đối việc ném bom Hà Nội).
Khi công luận ồn ào sau vụ công bố Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Chú thich: Pentagon Paperslà tài liệu nghiên cứu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về sự can dự chính trị và quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến năm 1967, đã bị một nhân vật phản chiến trong nhóm nghiên cứu tiết lộ cho báo New York Times vào năm 1971) thì đây là một bước đệm lớn lao cho Hà Nội để tận dụng nó như một bằng chứng về những “âm mưu đen tối của đế quốc” mà họ vẫn thường rêu rao trong nhiều năm.
Tháng 11 năm 1971, BắcViệt chuyển chúng tôi từ trại trừng phạt “Skid Row” về lại trại giam chung“Thống Nhất” trong phạm vi Hỏa Lò. Từ đó về sau thì hầu như chúng tôi bị nhốt chung với những người khác, kể cả những người được đưa vào sau, cũng khoảng 40 tù binh.
Tháng 5 năm 1972, khi Mỹ bắt đầu oanh tạc mạnh sau khi Tổng Thống Nixon ra lịnh ném bom Bắc Việt và thả mìn các cảng, họ chuyển hầu như tất cả các sĩ quan cấp nhỏ lên trại “Dogpatch”- Trại Chó Vá – gần biên giới Trung Cộng, chừa lại các sĩ quan cao cấp và nhóm chúng tôi. Tôi nghĩ rằng họ sợ Hà Nội sẽ bị đánh bom và nếu nhốt chung tất cả chúng tôi cùng một trại thì chỉ một quả bom rơi trúng cũng có thể xóa sổ tất cả.
Vào thời điểm này, đám “gook” rất cộc cằn, hung dữ. Chúng từng kéo một tù binh ra khỏi phòng chúng tôi và đánh anh ta một trận bán sống bán chết vì anh đã làm lá cờ Mỹ trên lưng áo một tù binh khác. Anh là một thanh niên tốt, có tên là Mike Christian. Chúng thoi anh túi bụi ngay ngoài cửa phòng giam chúng tôi, sau đó cứ kéo lê vài feet lại đánh anh tàn nhẫn hết cả vòng quanh sân trại.
Anh bị bể một bên màng nhĩ và gãy xương sườn. Nó là một bài học dằn mặt tất cả chúng tôi.
Cuối cùng đến cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được là ngày 18 tháng 12 năm 1972. Khắp nơi rền tiếng bom theo lịnh ném bom dịp Giáng Sinh của Tổng Thống Nixon. Hà Nội bị đánh bom tức thời.
Từ khung cửa sổ phòng giam nhìn ra trời, đó là cảnh tượng ngoạn mục nhất tôi đã từng chứng kiến và tất nhiên, nhìn rõ những ánh chớp trong đêm. Bom thả rất gần làm rung chuyển cả tòa nhà. Hỏa tiễn SAM đất-đối-không đan chéo bầu trời giữa tiếng còi hụ báo động inh tai quả thực là một cảnh tượng dữ dội. Khi một chiếc B-52 trúng đạn, ở độ cao hơn 30,000 feet, nó nổ sáng rực cả bầu trời , rồi ánh đỏ như ban ngày khá lâu vì rơi xuống từ trên không rất cao. Vào thời điểm đó chúng tôi biết là chúng tôi sẽ không bao giờ được trả tự do trừ khi chính phủ có hành động gì đó rất quyết liệt.
Chúng tôi bị giam ba năm rưỡi trời mà không có vụ ném bom nào xảy ra nên nhận thức khá rõ cách duy nhất để chúng tôi được thả là chính phủ phải mạnh tay với Hà Nội. Vì vậy chúng tôi rất vui mừng, hò reo cổ vũ. Đám “gook” thì không thích điều đó chút nào, nhưng chúng tôi cóc để ý. Với chúng tôi thì rõ ràng là đàm phán sẽ không giải quyết được vấn đề.
Lý do duy nhất tại sao Bắc Việt bắt đầu chịu đàm phán vào tháng 10 năm 1972 bởi vì họ cũng có thể đọc được các thăm dò và biết rằng Nixon sẽ chiến thắng áp đảo trong việc tái tranh cử nên họ muốn đàm phán Hiệp định đình chiến trước bầu cử.
Tôi ngưỡng mộ sự dũng lược của Tổng Thống Nixon. Có thể có chỉ trích ông trong vài điều, như vụ Watergate chẳng hạn. Nhưng ông phải đưa ra những quyết định không được ủng hộ lắm mà tôi có thể tưởng tượng như thả mìn, phong tỏa, ném bom. Tôi biết làm điều đó rất, rất là khó khăn cho ông nhưng đó là điều để kết thúc chiến tranh.
Tôi nghĩ lý do ông hiểu điều này vì ông có kinh nghiệm đối phó với Cộng sản.. Ông biết sử dụng chiến thuật cây gậy và củ cà rốt. Chuyến công du của ông tới Trung Cộng và khi ký Hiệp ước Giới hạn Vũ khí Chiến lược với Nga được dựa trên thực tế là chúng ta mạnh hơn Cộng sản nên họ mới đàm phán. Họ chỉ hiểu khi dùng vũ lực. Và đó là lý do tại sao bây giờ tôi vẫn còn khó hiểu là trong khi mọi người đều biết rằng việc ném bom cuối cùng đã dẫn đến thỏa thuận ngừng bắn, thì tại sao mọi người vẫn chỉ trích chính sách đối ngoại của ông? Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt lên mặt hẳn.
Họ biết Tổng Thống Johnson sẽ ngừng thả bom trước cuộc bầu cử 1968. Tháng Năm 1968, hai tướng Bắc Việt thẩm vấn tôi trong hai lần riêng biệt thì cả hai đều nói hầu như giống nhau từng chữ rằng:
“Sau khi chúng tôi giải phóng miền Nam thì sẽ sang giải phóng Campuchia. Sau Campuchia sẽ đến Lào và sau Lào, chúng tôi sẽ giải phóng sang Thái Lan, Malaysia, Miến Điện. Chúng tôi sẽ giải phóng hết cả khu vực Đông Nam Á”.
Họ làm tôi chẳng còn nghi ngờ gì nữa về âm mưu của họ không chỉ riêng với Nam Việt Nam.. Một số người cười cợt bác bỏ “lý thuyết domino” nhưng Bắc Việt tin vào nó, chưa bao giờ chối bỏ nó. Hồ Chí Minh đã phát biểu nhiều, rất nhiều lần rằng:
“Chúng ta tự hào ở tuyến đầu trong cuộc đấu tranh vũ trang giữa phe Xã hội Chủ nghĩa và bọn đế quốc Mỹ xâm lược”.
Nó hiện hình không còn là cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giành độc lập cho miền Nam Việt Nam mà mang đúng nghĩa những gì ông ta đã nói. Đó là tất cả những gì chủ nghĩa cộng sản nhắm tới: một cuộc đấu tranh vũ trang để lật đổ các nước Tư bản Chủ nghĩa. Tôi đọc nhiều sách lịch sử của họ. Họ đưa chúng tôi khá các loại sách tuyên truyền. Tại thời điểm sau Tết Mậu Thân này, Bắc Việt nghĩ rằng họ đã thắng cuộc chiến. Họ nghĩ họ làm tướng Westmoreland mất chức. Họ tin rằng họ làm đắm cơ hội để Johnson tái đắc cử. Và họ nghĩ rằng đa số người dân Mỹ đứng về phía họ. Đó là lý do tại sao họ oang oang tham vọng của mình quá sớm vì đánh giá sai bản lĩnh của Tổng Thống Nixon.
Quay trở lại vụ đánh bom tháng 12 thì thoạt đầu, Bắc Việt có lẽ có rất nhiều hỏa tiễn SAM trong tay nhưng ngày càng thấy bắn ít dần, có nghĩa họ đã xài gần hết. Ngoài ra, trong vài ngày đầu tiên thì B-52 thả bom chủ yếu ngay quanh Hà Nội, sau đó trải ra xa thành phố thì theo tôi nghĩ, ta đã phá hủy được tất cả các mục tiêu quân sự trong Hà Nội. Tôi không biết số lượng phi hành đoàn B-52 bị bắn rơi bởi vì họ chỉ đưa các phi công bị thương vào trại của chúng tôi. Thái độ của các phi công chúng ta rất tốt. Tôi hỏi một phi công trẻ khóa West Point 70 rằng
“Anh nghĩ sao khi nhận lịnh ném bom Hà Nội?”.
Anh trả lời, “Tinh thần chúng tôi tăng vọt”.
Tôi cũng nghe có một phi công B-52 khước từ nhiệm vụ trong vụ đánh bom Giáng sinh. Bạn luôn gặp chuyện kiểu đó, gặp những người khi khó khăn thì họ bị lương tâm cắn rứt. Tôi muốn nói điều này với bất cứ ai trong quân đội rằng, nếu anh không biết quốc gia mình đang làm cái gì thì nên tìm hiểu chúng và nếu thấy mình không thích điều quốc gia mình đang làm thì hãy đứng ngoài trước khi mọi chuyện được quyết định.
Một khi trở thành một tù binh chiến tranh, anh không có quyền bất đồng chính kiến, bởi vì những gì anh làm sẽ tổn hại đến quốc gia của mình. Anh không còn nói với tư cách cá nhân, mà nói như một quân nhân của quân đội Hoa Kỳ và mang trách nhiệm trung thành với Tổng Tư Lệnh chứ không phải với lương tâm của mình. Vài bạn tù của tôi đã không làm vậy nhưng chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Tôi tự hỏi họ có nên bị truy tố không và thấy chẳng dễ dàng để trả lời chút nào. Nó có thể phá hủy hình ảnh đẹp của phần lớn chúng tôi mang về từ địa ngục đó. Hãy nhớ rằng, một số kẻ thay lòng đổi dạ sau chiến tranh Triều Tiên đã làm phần lớn dân Mỹ nghĩ rằng hầu hết các tù binh trong cuộc chiến này cũng là những kẻ phản bội. Nếu họ có bị xét xử thì không phải vì lập trường chống chiến tranh của họ, mà vì họ đã hợp tác với Bắc Việt đến mức độ gây nguy hại cho các tù binh khác. Và có điều này cần xem xét: Hoa Kỳ sẽ có những cuộc chiến tranh khác để chiến đấu cho đến khi Cộng Sản từ bỏ chủ thuyết bạo lực lật đổ chúng ta, những người này phải chịu sự lên án để sẽ không gây tiền lệ cho thái độ làm tổn hại quốc gia trong những cuộc chiến tương lai .
Vào cuối Tháng Giêng năm 1973, chúng tôi biết việc kết thúc chiến tranh đã đến gần. Tôi bị chuyển đến “Đồn Điền” và được cho ở chung theo nhóm được phân loại theo thời gian bị bắn hạ. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng để trả tù binh theo nhóm. Đó là ngày 20 ThángGiêng. Kể từ đó, mọi chuyện trở nên dễ chịu, họ chẳng sách nhiễu chúng tôi nữa. Nhưng theo kiểu của họ thì chúng tôi vẫn bị ăn uống kham khổ trong khoảng hai tuần, chỉ đêm trước khi được trao trả mới được ăn một bữa no nê ngon lành. Có một điều rất thú vị là sau khi tôi trở về, Henry Kissinger có kể với tôi rằng khi ông ở Hà Nội để ký thỏa thuận cuối cùng, Bắc Việt có đề nghị cho phép ông ta có thể mang một người cùng theo về Washington và đó là tôi.. Tất nhiên là ông từ chối và tôi đã cảm ơn ông về điều đó rất nhiều, vì tôi không muốn là biệt lệ. Hầu hết mọi người đều cá cược rằng tôi là người cuối cùng được thả, nhưng bạn không bao giờ có thể hiểu được bọn “gook”.
Không có nghi lễ đặc biệt gì khi chúng tôi rời trại. Ủy ban Kiểm soát Quốc tế đến và chúng tôi được phép nhìn quanh trại lần cuối. Có rất nhiều phóng viên ảnh, nhưng chẳng có gì trịnh trọng. Chúng tôi lên xe buýt và được đưa ra sân bay Gia Lâm. Người bạn cũcủa tôi là “Thỏ” đã ở đó. Hắn đứng phía trước và bảo chúng tôi:
“Khi nghe tôi đọc tên, các anh lên máy bay và về nhà”.
Đó là ngày 15 tháng 3. Cho đến tận lúc đó, tôi cũng không cho phép bản thân mình có nhiều hơn một cảm giác hy vọng đầy thận trọng. Chúng tôi đã mừng hụt rất nhiều lần trước đó đến độ tôi quyết định rằng mình sẽ không được phấn khích cho đến khi nào bắt tay được với một người Mỹ mang quân phục. Điều đó đã xảy ra tại Gia Lâm và tôi biết nó đã kết thúc thật sự. Tôi chẳng thể nào diễn tả được cảm xúc của mình khi đi về chiếc phi cơ Không Quân Hoa Kỳ..
Bây giờ khi về nhà, tôi thấy có rất nhiều cuộc tranh cãi về quốc gia chúng ta. Tôi không đồng ý lắm. Tôi nghĩ nước Mỹ ngày nay là một quốc gia tốt đẹp hơn so với khi tôi rời nó sáu năm trước. Bắc Việt cung cấp cho chúng tôi rất ít tin tức, ngoại trừ các tin xấu về Hoa Kỳ. Chúng tôi không biết cuộc đổ bộ thành công lên mặt trăng đầu tiên năm 1969 cho đến khi nó được đề cập trong bài phát biểu của George McGovern rằng, “Nixon có thể đưa con người lên mặt trăng nhưng ông không thể kết thúc chiến tranh Việt Nam.”
Họ dội lên chúng tôi những tin tức về cái chết của Martin Luther King và các cuộc bạo loạn sau đó. Thông tin như vậy cứ liên tục nhả ra khỏi loa. Tôi nghĩ Hoa Kỳ bây giờ là một quốc gia tốt đẹp hơn vì chúng tôi đã trải qua một quá trình thanh lọc, tái thẩm định chính mình. Tôi thấy một tinh thần tri ân về đời sống của chúng ta nhiều hơn, thấy tinh thần ái quốc cao hơn và nhìn thấy Quốc kỳ tung bay khắp mọi nơi. Tôi nghe thấy những giá trị mới đang được nhấn mạnh, như mối quan tâm về môi trường chẳng hạn.
Tôi nhận được rất nhiều thư từ các bạn trẻ và nhiều người đã gửi tặng tôi những chiếc vòng đeo tay POW có tên tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta. Những tình cảm tuôn tràn này làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn có thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu thuật chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi.
Nếu tôi phải rời Hải Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho Chính phủ trong khả năng của mình, tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình .
Để nhớ về Hạm trưởng, Hạm phó, quý chiến hữu thủy thủ đoàn Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ 3 (WHEC).
Mỗi lần đi tầu du lịch (Cruise), tôi có cái thú buổi sáng ngồi uống cà phê, ngắm trời nước mênh mông. Nhìn những bọt nước trắng xóa để lại sau con tầu. Tôi chợt nhớ về những chiến hữu với bao kỷ niệm vui buồn, những nhọc nhằn của đời lính biển, những ngày xa gia đình. Bù lại, chúng tôi được chúng tôi tìm được niềm vui đơn sơ qua những chuyến hải hành quần đảo Trường Sa.
Sau biến cố Hoàng Sa rơi vào tay Trung cộng tháng 01 – 1974, vùng biển Trường Sa trở nên sôi động. Trước nguy cơ xâm lăng của kẻ thù, Việt Nam Cộng Hòa điều động thêm quân đội trấn giữ các đảo. Nhiều chiến hạm như Hải vận hạm (LSM), Dương vận hạm (LST), Tuần dương hạm (WHEC)… chở Địa phưong quân Phước Tuy (Bà Rịa), đặc biệt Tiểu đoàn Trinh sát Mãnh Sư 371, ra bảo vệ đảo và dựng bia chủ quyền quốc gia. Chiến hạm chúng tôi –Trần Nhật Duật HQ3- thuộc loại tầu chiến, không chở tiếp liệu và binh sĩ nhiều như như các tầu Hải và Dương vận hạm. Tuy nhiên, sự hiện diện của các chiến hạm có hỏa lực mạnh như Khu trục hạm, Tuần dương hạm chứng tỏ quyết tâm bảo vệ biển đảo của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài những nguy hiểm bão tố hàng năm, hải hành trong vùng biển Trường Sa đòi hỏi sự thận trọng, vì có nhiều bãi đá ngầm, san hô. Rải rác trong vùng, đôi khi chúng tôi còn bắt gặp những xác tầu chìm.
Chiến hạm chúng tôi thường công tác đến các đảo: Song Tử Tây, Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, An Bang, Sinh Tồn (Gạc Ma)… Đảo Nam Yết nằm giữa các đảo nhỏ, nên ở đây đặt hậu cứ gồm Trung tâm truyền tin và trạm y tế. Riêng Bộ chỉ huy tiền phương đặt ở Song Tử Tây. Từ đảo này, bằng mắt thường có thể nhìn thấy đảo Song Tử Đông của Phi Luật Tân và đảo Itu-Aba (Ba Bình), do Đài Loan chiếm giữ. Đảo Ba Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa và có nước ngọt (fresh-water).
Song Tử Tây có gì lạ?
Theo khảo cứu địa chất, đảo này giầu tài nguyên khoáng sản. Đảo trơ trọi, chỉ có cây dừa không đủ bóng mát che cái lều lớn binh sĩ đồn trú tại đây. Anh em trông khỏe mạnh, đa số để tóc dài, nước da đen sậm vì nắng cháy. Nếu không nghe họ nói tiếng Việt, bạn có thể tưởng họ là thổ dân trên đảo. Vì tầu lớn mà đảo không có cầu tầu nên anh em lái ca nô ra nhận tiếp liệu hay thay thế binh sĩ mãn hạn công tác. Câu hỏi quen thuộc của anh em là có mang thuốc lá, cà phê? Đặc biệt rượu “Ông già chống gậy” để chúng tôi nhậu lai rai các món hải sản anh em trên đảo tự nấu.
Chim biển
Đảo có hàng ngàn chim biển về làm tổ, đẻ trứng. Bạn có bao giờ ăn thịt chim biển? Mùi vị hơi tanh khi chưa quen. Nếu có thêm gia vị thì không đến nỗi nào! Anh em trên đảo bắt chim, rùa biển phơi khô. Mùa giông bão, tầu tiếp liệu không đến kịp, anh em có thức ăn dự trữ.
Trứng chim
Trên đảo có vô số trứng. Tha hồ nhặt. Đàn chim la hét, bay vần vũ trên đầu mình tỏ vẻ “phẫn nộ” với kẻ ăn cắp trứng. Có con nhào xuống mổ đầu mình. Không đau. Nhưng nhớ đội mũ, đeo kính cho an toàn. Đi biển lâu ngày, thiếu đồ ăn tươi. Buổi sáng uống ly sữa đặc Ông thọ, bỏ thêm vài trứng chim (thay cho trứng gà). Cơ thể như thêm sức.
Quà của lính biển mang về cho người thân hoặc người yêu, không huyền thoại như mang “hoa biển” về tặng em. Thực tế chỉ có hải sản: Thịt chim biển phơi khô ư? Tanh quá nuốt hổng vô! Thịt rùa biển ư? Ăn vô ngứa thấy bà tổ! Tóm lại chỉ có trứng chim được ưa chuộng nhất.
Ốc tai tượng
Tôi có vài lần theo các chiến sĩ người nhái lặn bắt tôm hùm, ghẹ, ốc ở các đảo Cam Ranh, Bình Ba, Nha Trang. Tôi chưa bao giờ thấy ốc tai tượng to đến hai ba gang tay như ở đây. Có lần đi bơi ở Song Tử Tây, khi đứng dưới nước, tôi cảm thấy có vật gì động đậy dưới chân. Theo phản xạ, tôi giật chân lên và lặn xem con gì? Quá đỗi ngạc nhiên, tôi thấy vô số ốc tai tượng. Tôi định bắt vài con về xào hay nấu cháo. Tôi nhặt nhánh cây khô đặt vào miệng ốc, chờ khép lại và kéo ra khỏi cát. Trái như tôi nghĩ, thân ốc nằm trong đá san hô. Dùng hết sức, tôi không thể nào rút cành cây ra khỏi miệng ốc, đừng nói đến đem ốc lên bờ. Chợt nghĩ nếu chẳng may, tay hoặc chân bị ốc kẹp, thì chỉ có nước đi chầu Long vương Hải thần. Lạnh cẳng, tôi bỏ lên bờ, không dám nghĩ đến… nồi cháo ốc.
Rùa biển
Có nhiều loại như: ba ba, đồi mồi… trên đảo mọi người gọi là vít. Họ đi bắt về ban đêm, nhất là mùa đẻ trứng. Tha hồ đào cát lượm trứng. Trứng có vỏ mềm, luộc ăn rất ngon. Thịt vít có người ăn không bị phản ứng. Có người ăn bị ngứa, không ngủ được. Dù sao món hải sản này cũng góp phần thực phẩm cho binh sĩ trấn đảo.
Cá chuồn
Trên biển, thỉnh thoảng thấy vài con cá chuồn bay trên mặt nước như “thủy phi cơ”. Trông rất ngoạn mục. Đôi lúc từng đàn cá mập, nhiều nhất là cá heo, bơi đuổi theo tầu. Một niềm vui bất chợt, vì giữa đại dương bao la không phải chỉ mình ta dong ruổi…
Có lần chiến hạm neo tại đảo Nam Yết, gặp mùa cá chuồn. Ban đêm, xung quanh chiến hạm thường thắp điện sáng trưng. Cá chuồn theo ánh sáng bay lên boong, đụng thành tầu sắt, nằm lăn dẫy đành đạch. Chúng tôi lâu lâu đi quanh tầu, lượm cá vô nấu cháo khuya. Cháo cá chuồn vào mùa có trứng thật tuyệt vời. Ăn tô cháo cá, cam đoan tối ngủ không… mộng mị.
Đối diện với cá mập
Chiến hạm neo tại đảo Sơn Ca, gần một vùng vịnh hình tròn, xung quanh nhấp nhô san hô, chính giữa là một vùng nước trong xanh. Trông thật thanh bình. Sau cơn mưa tối hôm qua, sáng nay bầu trời trong vắt, nắng đẹp. Tầu đi công tác lâu ngày, thiếu đồ ăn tươi. Anh em đề nghị hạm trưởng Nguyễn Kim Triệu cho thả ca nô đi bắt cá. Hạm trưởng thông cảm, vui vẻ chấp thuận. Xuồng nhỏ hạ xuống, từ từ chạy vào vùng vịnh trong xanh phẳng lặng như gương. Hai quả lựu đạn chống người nhái (MK.3) ném xuống biển. Sau tiếng nổ, vài con cá chết từ từ nổi lên mặt nước.
Anh em nhanh nhẹn lặn xuống bắt những con cá còn chìm phía dưới. Đột nhiên từ dưới nước anh em bắn mình lên hốt hoảng la to: cá mập! cá mập! Thì ra mấy con cá mập đánh hơi máu cá chết, phóng vào tranh ăn. Cá mập vùng này da rằn ri, trông rất dữ tợn. Muốn vớt vài con cá nổi trên mặt nước nhưng không có vợt lưới. Định dùng tay vớt cá nhưng thấy vài vi cá mập nổi lên mặt nước, lượn vòng vòng ung dung đớp cá của mình. Chúng tôi hậm hực trở về tay không.
Tắm mưa
Những chuyến công tác xa bờ lâu ngày, việc sử dụng nước ngọt rất giới hạn. Đi biển không nói đến tắm mưa thật là thiếu. Cấu trúc của tầu tuần dương hạm, cho chúng tôi hứng được nhiều nước mưa trên các sàn tầu đổ xuống. Những cơn mưa ngoài đại dương thật thú vị. Mưa đem đến sự tươi mát, tắm rửa, giặt quần áo dơ bẩn theo những chuyến hải hành. Nước ngọt chứa trong hầm tầu vào những ngày sắp cạn, mà vẫn còn phải “vượt bao hải lý, chưa nghe vừa ý, lắc lư con tầu đi”… Làm cho nước có màu vẩn đục vì chất sét thân tàu, chúng tôi vẫn phải dùng và gọi đùa là vitamin iron. Giữ một thùng nước mưa để sau khi tắm nước biển, tưới khắp thân thể bằng hai, ba cốc nước mưa cho sạch chất mặn, hạnh phúc không gì bằng! Lạy trời mưa xuống, có nước tôi uống, có nước nấu mì (gói)…
Quần đảo Trường Sa ngày nay trở thành pháo đài, phi trường quân sự của các quốc gia chiếm đóng. Đặc biệt Trung cộng. Sự nạo vét đất cát, san hô để xây dựng đảo nhân tạo đã phá hủy nguồn hải sản, tài nguyên Biển Đông. Vẻ đẹp thiên nhiên của Trường Sa, thú vui bình dị của người Lính Biển ngày xưa có lẽ bây giờ chỉ là những kỷ niệm…
Chuyện thật xảy ra vào trung tuần Tháng Giêng năm 1974
Phó thịnh Đường
Lời Giới Thiệu:
Tất Ngưu là người bạn cùng lớp (Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) – Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Việt Nam. Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà thất điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh. Mộng tìm việc làm trên các thương thuyền tan theo mây khói. Cùng một số bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa ,… chúng tôi đành lên đường nhập ngũ tòng chinh. Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải hành hấp thụ được ở trường HHTT. Thế rồi trong một trận hải chiến, chiến hạm bị đánh đắm. Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn ngày không thực phẩm và nước uống, Tất Ngưu đã chết đi rồi sống lại.
Là người may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn thận giữ gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng tải nguyên văn.
Xin nói thêm là đối với một người đã một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi chỉ là chuyện phù phiếm. Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài ý muốn của anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi, anh đã đồng ý. Dẫu sao đây cũng là một dịp để xác nhận chiến công của những chiến sĩ vô danh và các đồng đội mà anh còn nhớ tên trong đó có Trung Sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ Sĩ Nhất Vận Chuyển (HS1VC) Tây, Hạ Sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa…
Cũng nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm kích chiến công của HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc khóa 13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã đi theo chiến hạm vào lòng đại dương.
Xin độc giả dành cho anh Tất Ngưu và các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất. Riêng tôi, xin “thẩm quyền nước Việt” trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và hằng mong Thượng Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.
Phó Thịnh Đường (nguyên Hải Quân Thiếu Úy Hàng Hải Thương Thuyền)
Florida, Spring 2006
Bổ túc chi tiết:
Trước trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng. Lúc trận chiến diễn ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10. Khi rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10. Giữa đường đến quần đảo Hoàng Sa, để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng, HQ11 đã được lệnh gọi quay trở về. Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết. Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau:
(E-mail ngày 30 tháng 3 năm 2006)
Không biết là Tất Ngưu có biết (hay có nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh sách các chiến sĩ của HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên …
Hôm đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11, khi anh hạ sĩ trực máy truyền tin nhận được tín hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên tầu …
Tớ không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên của Chuẩn úy Tất Ngưu được đọc lên trong máy …
Ký tên,
Nguyễn văn Kết.
Sau đây là tên các chiến sĩ sống sót được chép lại từ quyển nhật ký của Tất Ngưu:
Danh sách thủy thủ đoàn thuộc Hộ Tống Hạm NHẬT TẢO HQ10 đã trở về sau trận hải chiến Hoàng Sa:
1 Trung sĩ Bí Thư TSBT Võ văn Bằng
2 Trung sĩ Tiếp Vụ TSTV Đỗ kim Hoàng
3 Hạ sĩ 1 Trọng Pháo HS1TP Nguyễn văn Tám
4 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Trần ngọc Sơn
5 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Phạm văn Lợi
6 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Võ văn Tuấn
7 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Lê tấn Hưng
8 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Vương văn Và
9 Hạ sĩ 1 Cơ Khí HS1CK Lưu tố Nữ
10 Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Nguyễn hồng Cứng
11 Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Huỳnh văn Hòa
12 Hạ sĩ Tiếp Vụ HSTV Nguyễn văn A
13 Thủy thủ 1 Cơ Khí TT1CK Trần văn Hà
14 Hạ sĩ Bí Thư HSBT Đỗ văn Thành
15 Thủy thủ 1 Thám Xuất TT1TX Trương văn Long
16 HQ Trung úy K8/OCS Hà đăng Ngân
17 HQ Trung úy K20/NT Phạm văn Thì
18 HQ Trung úy K1/70 ĐB Ngô văn Hòa
19 HQ Trung úy K25/VBĐL Nguyễn đông Mai
20 HQ Thiếu úy K24/NT Phạm thế Hùng
21 HQ Chuẩn úy K1/IOCS Tất Ngưu
TRẬN HOÀNG SA
Nhật Ký của
Tất Ngưu
Sài Gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,
Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai. Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi không còn một tia hy vọng trong trí não. Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.
Hạm trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ huy ra lệnh tháo giây. Một số anh em khấp khiểng chạy về chiến hạm. Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân viên trên tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.
“Nhanh lên, tầu rời bến, nhanh lên !”
“Tủm !”
“Ối !”
Anh HS1TP Tám chếnh choáng rơi tùm xuống nước. Tôi thấy hạm kiều náo động, nghe tiếng hối thúc:
“Thả phao”, “Vớt người”, …
Đó phải chăng là một điềm chẳng lành.
Chiến hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm lình bình tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh theo HQ 5 trực chỉ quần đảo Hoàng Sa. Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các thuyền đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa (Duncan).
“Chuẩn Úy, Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”. Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn đồng hồ. Đã 2345H (11 giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ. Thời tiết tháng Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm một chiếc áo choàng mầu navy blue. Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả trôi tại quần đảo Hoàng Sa. Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai tuần dương hạm HQ5, và HQ16.
Trong suốt ca trực từ 2400H đến 0400H, tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau. Anh này vừa mới tân đáo và đây là chuyến công tác đầu. Tôi nghe anh ta kể lại những ngày huy hoàng sống ở giang đoàn. Nào là bắt những con tôm càng, thịt, bánh mì sandwich, v.v… Nghĩ mà thú nhỉ !
Vào khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị – không đúng – một công điện khẩn thì đúng hơn: “0600H GIỜ THI HÀNH”. Tôi trình công điện lên hạm trưởng. Đêm đó hạm trưởng an giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy. Thời gian đi như chợp mắt, mới đó mà đã đến gần 0400H rồi. Tôi gọi:
“Anh Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên đổi ca giùm đi!”
Thế rồi hạm trưởng thức giấc. Đứng trên đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để quan sát vị thế, rồi ra lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Một hồi còi rợn người nổi lên: “ Tít … Tít … Tít … Tít … Tít … Tít…” Tiếng của hạm trưởng vang trên hệ thống nội thông :
“Đây là Hạm Trưởng”
“Nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”
“Nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”. “Tít … Tít … Tít … Tít … ……”
Tất cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức giấc. Ai nấy vào nhiệm sở của mình. Riêng tôi, vừa đi xong ca cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ. Ngay sau đó:
“Nhiệm sở phòng không” “Nhiệm sở phòng không”
Tôi thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45 độ, nào là các đại bác 76 ly 2, bô-pho 40 ly, 20 ly, đại liên 30, súng cối 81 ly.
“Đài chỉ huy, đây sân mũi, 76 ly, 2 cò điện bất khiển dụng”
“Thôi được, cho dùng cò chân”
“Đài chỉ huy, đây 41, 42 tôi phát hiện một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta, hướng 3 giờ.”
“Đài chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu hướng về hướng 3 giờ”
“Đài chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất dạng”
Toàn thể nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng. Chắc hẳn mọi người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ xảy ra. Có lẽ cũng giống như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một ngày về với bộ tiểu lễ trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy những huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc chiến: thương vong.
Khoảng thời gian từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh dương, hải đội của ta lập thành một đội hình. Bên địch (Trung Cộng) cũng gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại có vẻ như muốn khiêu khích. Lắm lúc như muốn đâm thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta. Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để công kích nhau.
Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng, từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía Bắc, di tản, và bốn chiến đỉnh của họ vận chuyển song song để bảo vệ.
Thế rồi anh em trên chiến hạm thoáng nét vui mừng.
Ồ! họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta. Nào ngờ sau khi bốn tầu đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu trở lại với lối vận chuyển đầy khiêu khích. Chiến hạm lại nhận được lệnh chuẩn bị tác chiến. Tất cả nòng súng hướng vào phiá đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trên tầu anh em xôn xao căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn vô tri này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu nhân mạng trên đảo sẽ bị chôn vùi dưới lòng đại dương.
Trông chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần nản chí, không còn vẻ hăng say của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò đùa. Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch và ta, bẵng đi việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến. Một số nhỏ hớ hênh để súng cá nhân xuống sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa với nhau. Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ không có gì lót dạ, anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò trong bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để dùng cháo.
“Th/úy Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”
Khi Th/úy Mai vừa dùng diểm tâm xong, chúng tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các chiến hạm địch: Bất kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu chính yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.
Và rồi những nòng súng nay đã được hướng vào chiến hạm địch. Rồi những chiến hạm của địch và ta lại tiếp tục quần thảo nhau.
Vào khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN” được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc headphone. Riêng tôi, trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20 ly và súng cối 81 ly ở sân sau. Tôi vội vã hô to:
“Bắn, bắn nhanh lên”.
Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch.
TSTP Xuân hiên ngang đưa khẩu 20 ly qua lại, bắn liên hồi.
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Ối ! sao khẩu 20 ly không bắn nữa ?”
“Thưa Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”
“Trở ngại thế nào ?”
“Kẹt đạn”
“Bắn một nòng”
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Hết đạn”
“Nằm xuống, để tao”, Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20 ly.
“Tạch … Tạch …Tạch ..”
Trong khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua chạy lại lấy đạn 81 ly nạp vào khẩu súng cối.
“Ầm!” “Ầm!”
Tầu địch bốc cháy. Tôi thấy những viên đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu địch.
“Rầm !!!”
Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn:
“Tàu Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.
Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của ta đâm vào tầu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh.
Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy. Những anh còn tỉnh thì được kéo lên boong chánh. Trung úy Huỳnh Duy Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10, chẳng may đã tử trận trong hầm máy. Ôi ! tiếng rên la áo não ngần nào. Đài chỉ huy hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy cũng bay mất một góc.
Phòng y tá hoàn toàn thiêu trụi. Trong phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm phòng tai), sĩ quan phòng tai HQ Thiếu Úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên la với một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến sân sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng. Các anh em bị thương khác không có thuốc men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.
“Ồ ! HQ16 , anh Thương hãy đánh SOS cho họ đến tiếp cứu!”
Chúng tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16 đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn toàn của chúng tôi. Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên tàu. Chính lúc này Thiếu Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh trên đài chỉ huy. Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê liệt hoàn toàn đã ra lệnh cho chúng tôi đào thoát. Những giòng tư tưởng quay cuồng trong tôi. Thế còn tàu? và nếu có đào thoát, chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ quay lại cứu mình.
Những tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn. Nhìn ra phía sau, hai chiến hạm địch lù lù tiến đến, hướng về phía mình. HQ16 di tản càng ngày càng xa. Trên boong thây xác ngổn ngang, chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa. Trên mặt biển, đồng đội lô nhô trên những bè cấp cứu. Ôi thay! tôi tự hỏi mình có nên đào thoát hay không.
Hạ sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng rung rung:
“Ch/úy. Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé!”
“Rồi cứ nhẩy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”
“Ch/úy, phao này cho hơi vào cách nào ?”
Tôi bèn kéo chốt cho hơi vào phao và nói anh ấy nhẩy đi. Một chốc sau ngó xuống nước tôi lại không thấy anh ta đâu nữa. Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt vào thành tàu. Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy đến:
TSVC Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy xuống. Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại to, ngẩm không biết mình có thể bơi ra đến nơi không.
Xin mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhẩy, nhưng anh ta trả lời rằng: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ nhẩy đi.”
Thật đúng y như câu nói của người xưa: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Chẳng biết HS1VC Tây có được đến trường để học và thấu hiểu câu nói thâm thúy này không? Anh có nghe ai bàn về câu nói ấy không? !! Thế mà anh đã thực hiện được sự việc đó mới là hay chứ. Việc mà chỉ có những đại anh hùng, các bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm được. Thật là anh hùng. Tôi xin ngã mũ.
Lớp ngớp trên mặt biển, bơi mãi vẫn không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối ! phải biết ở lại tàu còn hơn!” Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong phao cá nhân của tôi đã được bật ra,. Thuốc hòa lẫn với nước biển biến thành một vũng mầu xanh lá cây. Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt xa. Mỗi lần sóng đánh đến, nước biển lại tràn vào miệng cùng với thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay cay, Ôi ! hơi sức nào để ý đến nữa, mục đích là sự sống. Chỉ làm cách nào bám vào được bè, mạng sống mới có thể vãn hồi. Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa mà bơi ra bè. Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không cho phép tôi ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn thấy mặt anh em, tôi ngất đi trong giây lát. Phải chăng lực tiềm tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm thấy sự sống nên lực đó không cần thiết nữa. Khi được kéo lên bè, người tôi lã đi vì đói khát mệt mỏi.
Thật là “họa bất đơn hành”, sau khi ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về hướng tàu, trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới, khẩu 20 ly trên HQ10 cứ nổ vang. Hai chiến hạm của TC cũng không vừa, cứ vừa tiến vừa tác xạ, thế rồi khẩu 20 ly đành im bặt. Những tiếng súng sau cùng đó… Hỡi ơi ! anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ bất tử của HQ10. Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ có những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu. Nói đến sự hy sinh chiến đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan niệm của mỗi con người. Có người cho rằng: “Quân tử phục thù, thập niên vị vãn”. Nhưng theo tôi, các anh là những tấm gương anh dũng rạng ngời. Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với dòng chữ xâm trên tay “Mặc Thế Nhân”. Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi dưới đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10. Ước gì tên tuổi của hai anh HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử xanh.
Hai chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông tha một chiến thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển. Chúng cứ luân phiên nhau vây đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu tiến đến bè của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ là nếu họ tác xạ mình thì anh em lại đào thoát lần thứ hai. Mắt Thượng Đế vẫn còn đây, bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn. Tôi tự nhủ hãy phó thác mạng sống mình cho Trời Phật. Số đã sống thì không thể chết, số chết thì không sao cứu vãn được. May thay họ lại bỏ đi. (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo – cộng sản làm gì có nhân đạo – lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông. Họ chẳng cần vớt người làm chi cho nhọc công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang tiếng với quốc tế.)
Qua cơn bỉ cực đầu tiên, tôi phải đương đầu với đại dương trùng sóng và đói khát. Người đã mệt lã đi, lại cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ. Tôi say sóng cũng thường rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập, tôi ói ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy người không còn chút sức lực nào.
Nhìn lại xung quanh, tôi thấy tất cả có năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã bị bắn thủng. Chúng tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn, một cái bè bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không thể lại gần nó được. Bè đông người và được cột chum nhau, chìm xuống mặt nước. Chúng tôi không có một dụng cụ nào khác để chèo ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến chiều hôm đó (ngày 19 tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối. Mắt trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần đảo được, vì hôm đó sóng quả rất to.
Sau khi kiểm điểm lại chúng tôi chia làm bốn bè:
Bè số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa, Th/úy Mai, HSBT Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.
Bè số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A, HSTP Lợi, HSTP Tuấn và TT1CK Hà.
Bè số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP Châu, TSĐT Thọ.
Bè số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân có thể nằm cho không ướt người. Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.
Riêng về bè trôi dạt không thể cột chùm được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK Nữ, HSTP Sơn, HSCK Cứng, TT1TX Long.
Bầu trời đã tối mịt, sóng lại to hơn. Anh em mệt lã người phần vì đói khát, phần vì mệt nhọc sợ hãi. Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi vào đảo được. Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng. Thân xác Hạm Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.
Suốt đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột. Anh em cứ ôm gồng lấy nhau mà rung rẩy chờ đêm qua. Đêm sao qua chậm thế! Giờ này mới ba giờ đêm, bốn giờ, năm giờ, … trời bắt đầu sáng. Thật là quái dị. Đêm vừa qua lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc. Phải chăng ông Trời cũng không dám diện kiến một cảnh tượng thê lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?
Thân mệt nhừ, tôi quay qua quay lại nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:
“Ủa ! đảo hôm qua đâu ?! Thôi rồi anh em ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?!”
Ai nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì chúng tôi mới hỡi ơi là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc, nếu muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.
Cơn đói khát lại hành hạ. Sau khi kiểm điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm nào cả dù rằng dây buộc vẫn còn đó. Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa 20 lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng kẹo. Thế rồi phải lấy ra gom lại chia đều ra. Trong đó có 6 bao kẹo không thể sử dụng được, nhưng cũng để dành lại đó. Chúng tôi khui những lon nước, mỗi người hớp một ít, và ăn một miếng kẹo.
Những người bị thương nặng như TS1GL Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu nên họ cứ đòi nước mãi. Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của ta ra cứu vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế. Nhất là nghe các anh bị mất nhiều máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi không đành nên cho họ uống cả lon. Khoảng 9 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời trối trăn, mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát, khát quá…. Ý thức được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết, chúng tôi tự hạn chế trong việc sử dụng nước ngọt và kẹo. Bè cứ mặc cho dòng nước đưa trôi. Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang. Chúng tôi thắc mắc phải chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải chiến lại tiếp diễn?
“Anh em hãy gắng sức chèo về hướng Tây Nam, đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo hôm qua ta tranh giành.”…
“Cố lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn.”…
Khoát nước, chèo mãi vẫn không đi tới đâu.
“Thôi chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo hướng Tây Nam sẽ đến đảo ngay.”
“Anh em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay, nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng đến gìờ coi như hoang phí. Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”…
Bè nay đã được cột chùm vào nhau; lúc đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các bè cứ va đập vào nhau. Bè lật, vỡ bể thêm ra. Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối đuôi nhau. Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ. Những bè sau đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì, Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa, HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để chèo. Đêm đó cứ luân phiên nhau mà chèo. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn, nhưng trong đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để chèo. Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.
Khoảng sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa châu lóe lên rồi mất hẳn. Tôi mới hô to:“Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm ta, hai là lính địa phương quân trên đảo. Anh em hãy chèo về hướng đó nhanh lên!”
Nhưng trời chưa tha bọn người hoạn nạn như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa lại phải chèo ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ. Buồn thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt – TS1GL Thương. Buổi chiều, thêm TSĐT Thọ từ giã anh em. Xin được mỹ miều chua xót ghi là “Sáng, thủy thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm người theo hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”
Có lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng vẳng bên tai một cách yếu ớt “Khát quá … khát quá …” Tinh thần của anh em lúc này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên mình, nghĩ đến những bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói là mọi người như sắp điên loạn. Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:
“Đây cách Đà Nẵng bao xa?”.
“Khoảng trăm mấy, hai trăm hải lý.”, tôi nói.
Thế là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu không ông sẽ đi một mình! Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên bè xuống biển. Thế rồi chúng tôi lại phải thất công lần lượt kéo từng người lên. Thượng Sĩ Châu đã mất trí !!
Ban ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có đảo. Nhưng nhìn dáo dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả. Kẹo và nước ngọt đều dùng cạn. Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha nước tiểu với nước biển để uống. Lúc bấy gìờ không ai để ý đến đói, nhưng cơn khát hoành hành cảm thấy thấm thía. Đêm đó ai nấy đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè lại với nhau đứt hồi nào không hay.
Sáng hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy một bè nào cột bên cạnh bè mình. Nhìn về trước, một bè trôi khá xa. Ngó về phía phải cũng thấy một bè, nhưng cố gắng chèo mãi mà không sao tới nổi. Dần dần những bè đó khuất dần ngoài tầm mắt của tôi Trưa rồi lại chiều. Chân tôi giờ này sưng thủng, không sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát quá … khát quá”. Mắt, miệng đã sưng vù lên. Th/úy Mai đã nói lâm râm:
“Ch/úy Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”
Tai tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó, đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào thoát khỏi tử thần trong đêm nay – có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình có đủ điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?
Chiều hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt. Thình lình HSCK Hòa thét lên: “Có tàu!”
“Ôi ! tàu đâu, tàu đâu?”
Một cứu tinh hiện trước mặt. Lúc đó tự dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ áo phao đỏ mà phất. Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu tinh còn cách bè mấy hải lý.
“Phải rồi ! Chúng ta đã sống, tàu đang ngừng!”
“Có lẽ họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên, nếu đêm tối họ sẽ không nhìn thấy để cứt vớt ta, la lớn lên anh em.”
“ Một hai ba… Ô!” “ Một hai ba… Ô!” “123…Ah!” “123… Ah!”, một mặt lo chèo, mặt khác la to lên.
“Hình như bè không tiến tới chút nào cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”
“Anh em ơi, nhẩy xuống bơi!”
Nhưng hơi sức đâu mà bơi nữa. nhất là vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại không còn.
“Ô kìa! tàu quay đi đâu? thôi chết rồi, hết hy vọng rồi, cố lên anh em!”
Hy vọng xen lẫn thất vọng. Màn đêm đang dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng đèn tàu rực lên. Ôi chao! Trông chiếc tàu dễ thương biết bao! Sau đó một ánh đèn pha rọi sáng và từ từ di chuyển.
“À ! họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng ta. Sao họ chạy đường kia?”
“Có lẽ họ đang vớt đồng đội mình. Kìa, họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”
“Ah ! Oh ! help us sir, please help us.”
“Okey, take it easy, be careful. Are there any wounded ?”
“Yes sir, most of us are wounded.”
“All right …”
Chiếc dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp về tàu. Trên dzu dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên lạc với thuyền trưởng,. Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu. Trên tàu, các thủy thủ người Hồng Kông đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu. Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên. Khi thành của dzu dzu ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ hai nhân viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.
Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi tất cả quần áo ướt ra, đắp cho mỗi người một tấm chăn, rồi cho chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm. Cùng lúc đó họ đem cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá. Sau đó thuyền phó hỏi tôi là hình như trong nhóm có một lieutenant. Tôi đáp lại rằng chỉ có Lieutenant Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ Tr/úy Thì. Ông đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa và lên phòng ông để liên lạc với Hải Quân Việt Nam.
Chúng tôi đã thật sự sống lại. Ngay khi đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô to lên với anh em:
“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”…
Ghi chú: Th/úy Nguyễn đông Mai là một sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trước khi xảy ra trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày đeo lon Trung Úy; sau khi trở về, Tr/úy Mai được đặc cách thăng cấp lên chức Đại Úy.
Tác giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10
Bổ túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11
Sửa kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim
Giới thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường
Yêu cầu: Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS
Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ CIA vừa công bố 2.500 báo cáo thường nhật về hoạt động tình báo nước ngoài trình cho Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford trong thập niên 70 vốn được bảo mật trước đây. Động thái này làm sáng tỏ về một kỷ nguyên quan trọng của thời Chiến tranh Lạnh cùng các biến cố Đệ tam thế giới.
Trong số 28.000 trang tài liệu là những tin tức quý giá hấp dẫn về những vấn đề thế giới, trong đó có cuộc chiến Việt Nam gây nhiều tranh cãi đã khiến hơn 58.000 binh sĩ Mỹ thiệt mạng.
Các báo cáo này được đệ trình lên Tổng thống Nixon và Tổng thống Ford trong 8 năm hai ông ngụ tại Tòa Bạch Ốc bắt đầu từ ngày 20 tháng 1 năm 1969. Các tài liệu này cho thấy rõ nội dung các sự kiện như chuyến thăm lịch sử đầu tiên của Tổng thống Nixon tới Trung Quốc và Liên Xô, và chuyện ông Nixon bị thất sủng đưa đến việc từ chức.
Các báo cáo trong thời gian ông Ford làm Tổng thống nêu lên chi tiết các diễn tiến lịch sử như kết thúc chiến tranh Việt Nam và cái chết của Mao Trạch Đông, người sáng lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Khi Tổng thống Nixon tới Bắc Kinh ngày 21 tháng 2 năm 1972, báo cáo ghi chép tỉ mỉ các giới chức Trung Quốc nào tham dự các sự kiện nào, một nỗ lực để hiểu rõ hơn hoạt động của Bộ Chính trị Trung Quốc mà cho đến nay vẫn còn được quan sát chặt chẽ.
Các báo cáo vừa kể, dài khoảng 10 trang, cho thấy CIA biết rất ít về Trung Quốc, nước đông dân nhất thế giới vừa bắt đầu tái lập sự hiện diện trên thế giới sau hơn hai thập niên cô lập.
Báo cáo của CIA sau đó thông báo cho Tổng thống Nixon rằng chuyến thăm của ông tới Trung Quốc gây rúng động Liên Xô và Nhật Bản, đồng thời thúc đẩy các nước châu Âu giao tiếp với Trung Quốc. Phúc trình ghi nhận là Trung Quốc ‘nhìn chung hài lòng’ về chuyến công du của Tổng thống Nixon.
Ông Salvador Allende (trái) thuộc liên minh cánh tả của chủ nghĩa Mác được ứng cử viên Đảng Dân chủ Cơ đốc Radomiro Tomic chúc mừng chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Chile tại tư gia của ông Allende ở Santiago, ngày 5 tháng 9 năm 1970.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 1974, một ngày sau khi Tổng thống Nixon từ chức, báo cáo trình cho Tổng thống Ford vừa lên tuyên thệ nhậm chức cung cấp những chi tiết về phản ứng của thế giới đối với việc Tổng thống Nixon rời khỏi nhiệm sở.
Báo cáo nói ‘những nhân vật có khả năng gây chuyện lùm xùm không một ai đưa ra một lời bàn tán nào.’
Trong một báo cáo cách đó một năm rưỡi, Tổng thống Ford được thông báo về cái chết của Mao Trạch Đông, người được mô tả là một ‘thế lực chế ngự chính trị Trung Quốc.’
Qua các báo cáo cao cấp của CIA công bố hôm thứ Tư tuần rồi, không thấy được mức độ ảnh hưởng của chúng ra sao đến những quyết định của Tổng thống Nixon, vì ông Nixon có khuynh hướng tách biệt và biệt lập. Tổng thống Nixon không trực tiếp nghe các giới chức CIA thuyết trình, mà thay vào đó, nhận báo cáo từ cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger.
Một câu chuyện về CIA cũng được công bố hôm thứ Tư cho thấy các giới chức CIA nản lòng vì không được tiếp cận với Tổng thống Nixon, người có ác cảm với cơ quan tình báo này trong thất bại trước Tổng thống John F. Kennedy ở cuộc bầu cử năm 1960. Ông Nixon cho là CIA đã không bất tín hóa ông Kennedy trong quyết đoán sai lầm của ông Kennedy rằng Mỹ đã để mất vị trí lãnh đạo về công nghệ phi đạn đạn đạo xuyên lục địa vào tay Liên Xô.
Trong một bản báo cáo năm 1973, ông Nixon được thuyết trình về cuộc họp sắp diễn ra vào ngày 26 tháng 5 của những nhà lãnh đạo Tổ chức Đoàn kết châu Phi. Phúc trình cho biết sự hiện diện của Israel tại châu Phi sẽ là một vấn đề chính của hội nghị, thúc đẩy bởi đòi hỏi từ Tổng thống Libya, Moammar Gadhafi, rằng “Các quốc gia châu Phi phải cắt đứt các mối quan hệ với Israel hoặc phải đối mặt với việc Libya cắt viện trợ dành cho các nước này cùng những tổ chức giải phóng châu Phi.”
Tại Chilê, một quốc gia Nam Mỹ, việc ông Salvador Allende đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1970 khiến Tổng thống Nixon lo ngại vì ông cho rằng Chile có thể trở thành một nước Cuba thứ hai, một nước cộng sản ở Tây Bán cầu.
Trong 3 năm kế tiếp, Tổng thống Nixon và ông Kissinger dùng CIA để bí mật ủng hộ cho các đối thủ của ông Allende với ý định đẩy ông ra khỏi chức vụ hay kích động đảo chính. Ông Allende bị giết trong cuộc đảo chính tháng 9 năm 1973 do tư lệnh quân đội Augusto Pinochet thực hiện. Việc này đã gây ra các cuộc tranh cãi nhiều thập niên về vai trò của CIA trong cuộc đảo chính. Các bản báo cáo vừa công bố không xác nhận là CIA trực tiếp ủng hộ việc lật đổ chính phủ Chilê.
Các báo cáo chú trọng nhiều đến những diễn tiến tại Đông Dương, nơi Hoa Kỳ có ý muốn rút khỏi cuộc chiến Việt Nam và ủng hộ các chính phủ yếu kém ở hai nước lân cận là Lào và Campuchia.
Không phải tất cả các thông tin của CIA đều chính xác. Lúc cuộc chiến Việt Nam đến gần hồi kết, một bản phân tích trình cho Tổng thống Ford vào ngày 28 tháng 3 năm 1975 dự đoán là quân đội miền Nam Việt Nam do Mỹ huấn luyện sẽ có thể duy trì ổn định cho đến “đầu năm 1976.” Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, quân đội cộng sản Bắc Việt đã chiếm được Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam.
Tổng thống Ford tiếp nhận các báo cáo thường nhật của CIA khác với cách của Tổng thống Nixon. Ông Ford là tổng thống đầu tiên yêu cầu một giới chức CIA hằng ngày thuyết trình các báo cáo này.
Việc công bố các bản báo cáo này nằm trong khuôn khổ nỗ lực tiếp tục công khai hóa các phúc trình tình báo cho Tổng thống Mỹ. Các tài liệu mới nhất này do Giám đốc CIA John Brennan và Giám đốc Tình báo Quốc gia James Clapper công bố tại Thư viện Tổng thống Richard Nixon ở Yorba Linda, bang California.