CHỊ MÈ

Nguyễn Đại Thuật

Đầu năm tôi vào học lớp nhất trường tiểu học, gia-đình tôi có thêm một người giúp việc. Lúc bấy giờ gia đình tôi đã có một chị giúp việc lớn tuổi chuyên lo về công việc đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, lo giữ nhà cửa sạch-sẽ.

Cha mẹ tôi có tất cả năm người con, và trong tương lai gần mẹ tôi sẽ có thêm một đứa con nữa. Có lẽ vì vậy mẹ tôi đã thuê thêm chị Mè. Cha mẹ tôi có một cơ-sở làm ăn tương đối lớn, bận rộn công chuyện suốt ngày, mấy anh chị em chúng tôi thiếu người săn sóc, nên chị Mè được giao cho công việc nầy.

Chị Mè còn trẻ lắm, chị khá đep, tóc ngắn ngang vai, kiểu tóc mà thời bấy giờ người ta gọi là tóc thề. Chị gốc người làng Trà-Kiệu, thuộc tỉnh Quảng-nam, cả làng theo đạo Thiên-chúa, nơi người ta nói đã có lần Đức Mẹ hiện ra.

Hàng ngày chị Mè tắm rửa, thay quần áo, lo cho ăn uống và đưa đón anh chị em tôi đi học.

Chị Mè không biết chữ, nhưng chị thuộc kinh Chúa, đêm nào chị cũng đọc kinh trước khi ngũ. Cha mẹ tôi gốc đạo Phật, nhưng tôi chưa có dịp đi chùa lần nào, cũng chưa biết ông Phật là ai, nhưng qua chị Mè, tuổi thơ tôi thấm nhuần rất nhiều về đạo lý của Thiên-chúa do chị kể. Chị đã dạy cho tôi thuộc kinh Kính Mừng, Kinh Lạy cha và tôi đã được nghe chuyện rước mình Thánh chúa, nếu ai nhận mình Thánh chúa không để tụ tan trong miệng, nuốt liền vô bụng thì mình Thánh chúa sẽ biến thành lửa đố cháy ruột để trừng phạt. Chị khuyên tôi làm điều tốt, không nên làm điều ác, làm điều tốt sẽ được lên Thiên-đàng gặp Đức-chúa Trời, làm điều ác sẽbị đọa vào Hỏa-ngục, bị quỷ ăn thịt, bị đốt thành lửa.

Mỗi sáng Chúa-nhật, chị được cha mẹ tôi cho phép đi dự thánh lễ ở nhà thờ Con gà. Khi trở về nhà, chị thường kể lại cho tôi nghe những gì chị được nghe cha xứ đã giảng. Có một buổi sáng Chúa nhật chị chuẩn bị đi lễ nhà thờ, lúc bước xuống cầu thang thì guốc chị bị đứt quai, chị không có guốc khác thay thế, chị không đi dự lễ nhà thờ được, chị ngồi khóc bên chân cầu thang.Tôi phải xin phép mẹ tôi cho chị mượn guốc thay thế. Chị mừng quá, ôm tôi hôn rất nhiều lần vào má và không quên lắp bắp lời cám ơn. Có lẽ nhìn cảnh chị mừng rỡ khi có guốc tạm thay thế vào buổi sáng hôm đó nên vào lúc chị từ nhà thờ về nhà, cha tôi bảo mẹ tôi cho tiền chị mua đôi guốc mới. Tôi nghe cha tôi nói với mẹ:

– Mình cho con Mè tiền mua đôi guốc mới, guốc nó mòn và đứt quai không đi được”.

Tôi nghe tiếng mẹ tôi:

– Cứ sáu tháng tôi trả tiền công cho nó một lần, tôi mới trả cho nó chưa tới năm ngày, nói nó lấy tiền đó mua”. 

Cha tôi cười, nói:
– Bà nầy hay thật, tiền đó nó nhờ tôi gởi hết về cho cha mẹ nó rồi, bà biết mà”.

Tôi không nghe mẹ tôi nói gì thêm. Chiều hôm đó, mẹ tôi dẫn chị ra chợ mua guốc. Đôi guốc sơn màu đen rất đẹp. Khi chị đem đôi guốc bằng gỗ vông của chị vứt đi, tôi nhìn thấy đôi guốc của chị mòn đến nổi không có đủ bề dày để giữ chiếc đinh khi đóng quai.

Chị Mè không biết chữ, thời đó chính quyền của ông Ngô-đình-Diệm khuyến khích dân chúng đi học trong kế khoạch xóa nạn mù chữ, vì vậy có những lớp học Bình-dân giáo-dục mở ban đêm cho dân chúng không biết chữ,bận công việc ban ngày,đêm có thời giờ đi học. Cha mẹ tôi cho chị đi học lớp Bình-dân giáo-dục trong đình của khu phố. Lúc đầu chị không chịu đi, tôi hỏi, chị nói:”chị lớn cái đầu rồi mà còn đi học, mắc cỡ chết đi dược”.

Rồi trước tết năm đó mấy ngày, cha mẹ tôi cho chị về quê thăm gia-đình và phải trở ra làm việc những ngày tết. Sau tết, chị xin được đi hoc lại lớp bình dân giáo dục. Cha mẹ tôi cũng không hỏi lý do tại sao trước đây chị từ chối nay lại đòi đi. Nhưng sau tối đầu tiên đi học trở về nhà, tôi cắc cớ hỏi chị: “Hôm nay chị Mè vào lớp có mắc cỡ không?” 

Chị đập khẽ vào đầu tôi nói: “Có mà ít ít thôi, không bằng hôm trước Tết chị về quê, khi vào làng, bị mấy thanh thiếu niên giăng giây chận đường xem giấy tờ, bắt đọc chữ trước khi cho vào làng. Chị đâu có đọc được, mấy đứa đó đưa chị vào trụ sở hội-đồng xã, họ bắt chị làm ký giấy cam kết phải đi học cho biết đọc biết viết. Nếu kỳ sau chị về làng mà bị kiểm soát, không đọc được chữ thì họ không cho vào làng. Hôm đó chị mắc cỡ muốn chun đầu xuống đất luôn. Gặp toàn mấy thanh niên thiếu nữ và người quen trong làng, họ khuyên chị nên theo lớp Bình-dân học vụ. Kỳ sau về làng, bị kiểm soát, không đọc chữ được chắc là họ không cho vô làng quá, xấu hổ lắm ! “. 

Bên cạnh nhà tôi có một hẽm nhỏ, đầu hẻm có một tiệm hớt tóc. Người hớt tóc thuê mái hiên của một căn nhà để mở tiệm. Mấy anh em trai tôi là thân chủ của anh chủ tiệm hớt tóc nầy. Mỗi một tháng rưỡi, anh em tôi được chị Mè dẫn ra đây giao cho anh chủ tiệm, rồi trở lại trả tiền để đón về. Chủ tiệm là anh Cường, người ta gọi anh Cường chay, bởi vì anh ăn chay, không ăn thịt cá. Theo lời của một bà bán rong bún ốc kể cho mẹ tôi nghe nhân một buổi sáng cả nhà tôi ăn bún của bà. Anh Cường chay ngoài việc hớt tóc anh còn biết nghề xem chỉ tay, được nhiều người tin cậy, trong đó có bà. Anh xem chỉ tay chứ không nhận tiền của một ai. Anh là người cùng làng với bà ở An-cựu thành phố Huế.

Anh Cường chay có một người cậu đi tu ở chùa Từ Hiếu. Anh học hết năm đệ lục trường Quốc-học thì bỏ học vì nhà quá nghèo. Anh là con trai một nên không bị đi lính. Anh học nghề hớt tóc của người cậu và được người dì em của mẹ đem vào Đà nẵng hành nghề, vì ở An-cựu có nhiều người làm nghề hớt tóc nên khó kiếm sống. Do tiết lộ của bà bán bún, thỉnh thoảng mẹ tôi mời anh Cường qua nhà nhờ xem chỉ tay. Mẹ tôi thường khen anh Cường chay với cha tôi:

– Thằng Cường chay xem chỉ tay hay thật, nó nói tôi trúng như gần hết”.

Tôi không nghe mẹ tôi nói anh Cường chay đã nói đúng những gì, nhưng mỗi lần nghe mẹ tôi nói như vậy cha tôi “hừ” lên một tiếng:

– Bà toàn tin những điều nhảm nhí”.

Mẹ tôi còn nhanh nhẩu mời mấy bà bạn đến nhà để nhờ anh Cường chay xem chỉ tay nữa. Những lúc như vậy, cha tôi không vui, mặt ông nhăn nhó, bỏ đi khỏi cửa hàng đang buôn bán. Tuy nhiên, những lúc cha tôi đi Sài-gòn mua hàng trở về đều có quà cho anh Cường chay, có lẽ để trả ơn những lúc anh đã xem chỉ tay cho mẹ tôi.

Khi tôi bắt đầu vào năm học lớp đệ thất, chị Mè cũng đã biết đọc. Không biết ai cho chị quyển Thánh kinh, chị nâng niu, giữ gìn rất kỹ. Chị để quyển Thánh kinh trên đầu tủ, buổi tối, trước khi đi ngủ, chị rửa tay rồi mới lấy xuống đọc. Có lúc tò mò muốn biết trong Thánh kinh viết những gì, tôi hỏi mượn để xem, chị đồng ý cho mượn nhưng bất tôi phải rửa tay và nhiều lần nhắc tôi không được để sách trên ghế ngồi, như vậy sẽ bị Chúa phạt.

Rồi có một thời gian, tự nhiên tôi nghe mẹ tôi hay la rầy chị Mè; mỗi lần bị la như vậy tôi thấy chị Mè đúng trong góc nhà bếp khóc, hai mắt đỏ hoe. 

Mẹ tôi la chị:
– Sao lúc nầy mi cứ dở dở ương ương, y như người trên mặt trăng, làm trước quên sau, làm gì hư nấy, lúc nào cũng thẩn thờ như bị ai hớp hồn. Chỉ việc pha sữa tới giờ cho em bú mà cũng quên để cho thằng nhỏ khóc ầm cả lên.” 

Tôi chưa bao giờ nghe chị trả lời mẹ tôi khi bị la mắng như vậy. Chỉ im lặng và khóc. Khác với những kỳ đi hớt tóc trước, kỳ nầy chị Mè tự nhiên nhắc tôi đi hớt tóc từ ba ngày trước. Đến hôm chị dẫn tôi vừa ra đến cửa thì cha tôi bảo: 

“Nó lớn rồi tự đi hớt tóc một mình, khỏi cần đưa đi.”

Chị Mè quay lui vào nhà, mặt chị xịu xuống và buồn. Khi tôi bước vào tiệm hớt tóc, anh Cường chay thay vì chào tôi như trước đây, anh bước ra khỏi tiệm nhìn trước nhìn sau con hẽm rồi đi trở vào hỏi tôi:
– Sao nay chị Mè không đưa em đi?” 

Tôi trả lời: 

       – Cha em nói em lớn rồi không cần chị Mè đưa đi.. 

Tôi nghe anh Cường thở dài. Suốt buổi hớt tóc hôm đó, anh Cường không nói thêm với tôi một lờI nào.. Khi từ tiệm hớt tóc về nhà, chị Mè gội đầu cho tôi, chị hỏi:

– Anh Cường có hỏi gì chị không? . Tôi lắc đầu. Chị lại hỏi lần nữa:
 
– Bộ anh ấy không hỏi gì chị sao?”.

Tôi lại lắc đầu.Tôi lại nghe chị thở dài và chờ mãi không thấy chị dội nước lên đầu khiến tôi phải nhắc chị. Mãi đến tối hôm đó tự nhiên tôi nhớ lại lời anh Cường có hỏi tôi vừa luc tôi đến hớt tóc. Tôi xuống bếp tìm chị. Chị đang đọc quyển kinh thánh. 

Tôi nói với chị:
– Bữa ni anh Cường có hỏi, sao chị Mè không dẫn em đến hớt tóc, em trả lời cha em nói em lớn rồi đi một mình được, không cần chị Mè đưa đi

Tôi thấy mặt chị rạng rỡ lên, chị nâng quyển Thánh-kinh lên hôn. Lúc tôi ra khỏi bếp, tôi nghe chị nói vọng theo:
– Lần sau đừng quên như vậy nghe em, tội chị lắm!.

Mấy hôm sau, ngày Chúa-nhật, sau khi chơi đá banh trở về, lúc đi ngang nhà thờ Con Gà, chen lẫn giữa những người dự Thánh lễ ra về, trên đường đi, tôi nhìn thấy anh Cưỡng chở chị Mè sau xe đạp. Buổi trưa khi chị Mè gọi cửa để vô nhà, tôi mở cửa. Chị vừa vào trong cửa, tôi cười và nói lớn:

– Lúc nãy, em thấy anh Cường chở chị sau xe đạp !”.

 Chị nhào tới đưa tay bịt miệng tôi, nhưng cha mẹ tôi đã nghe và đã thấy. Mặt chị đỏ gay, cúi đầu đi một mạch vào trong. Vừa lúc đó mẹ tôi nói với cha tôi:

– Hèn chi mấy tháng ni nó cứ thẩn thờ, quên trước, quên sau, nó thương thằng Cường chay rồi…mới có bấy nhiêu tuổi!

Cha tôi cắt ngang lời mẹ tôi, nói diễu:

– Hay ghê! chớ bà yêu tôi lúc bao nhiêu tuổi ? Con Mè năm ni nó mười bảy tuổi rồi, lúc đó bà còn nhỏ thua nó một tuổi..bộ quên rồi sao ?

Tôi chỉ nghe mẹ tôi “hừ” một tiếng rồi bỏ lên lầu.

Chuyện anh Cường chay và chị Mè thương nhau những ai ở trong hẽm gần tiệm hớt tóc của anh Cường đều biết. Bà chủ nhà cho anh Cường thuê mái hiên trước nhà để làm tiệm hớt tóc đã có lần kể cho mẹ tôi nghe lúc đó có tôi bên cạnh. Mấy ngày trước đó, ông thầy tu, cậu anh Cường ngoài Huế vào thăm anh Cường, có đến tiêm hớt tóc chơi, bà nghe người cậu nói chuyện với anh Cường: “Cậu và có thể cả mẹ cháu cũng không chấp nhận cuộc hôn nhân nầy. Cháu, con nhà thờ Phật bao nhiêu đời nay rồi mà cưới con Mè gốc đạo Thiên chúa đến khi cháu chết thì ai cúng cơm cho, bộ cháu muốn làm ma đói?”

Anh Cường phân trần:
– Đâu có sao, lấy chồng thì phải theo đạo chồng, cùng quá thì đạo ai nấy giữ, cậu nói giúp cháu để bà chấp thuận hai cháu cưới nhau”. 

Người cậu lắc đầu lia lịa:
– Cậu biết là không được đâu, nhưng cậu sẽ cố nói giúp cho cháu, được hay không thì cậu chưa biết. Rồi ông gằn giọng:

– Hết người thương sao lại thương con nhà theo đạo Chúa!. 

Ông hỏi anh Cường tuổi của chị Mè, bấm đốt ngón tay, miệng lẩm nhẩm: “Tuổi hai đứa không có gì xung khắc, nhưng cái đạo của ông Chúa và ông Phật xung khắc…không biết tính sao đây ?”

Không bao lâu sau khi nghe lõm được chuyện anh Cường chay muốn cưới chị Mè, chị xin phép cha mẹ tôi nghỉ vài hôm để về Trà-kiệu chờ ngày gia-đình anh Cường từ Huế vào xin lẽ hỏi. Thời gian đó anh Cường cũng nghỉ hớt tóc. 

Ngày trở lại làm việc, chị Mè buồn thiu, chị không nói chuyện với ai, ngay cả tôi chị cũng không nói một lời. Ngày Chúa-nhật chị cũng không đi lễ nhà thờ. Càng ngày chị càng thẩn thờ hơn.Mẹ tôi cũng la rầy chị nhiều hơn vì chị lơ là công việc hàng ngày, đến nổi cha tôi phải ngăn mẹ tôi nặng lời với chị:

“Mình hãy thông cảm cho con Mè, gia-đình nó không cho thằng Cường chay cưới nó vì thằng Cường chay không chấp nhận bỏ Phật theo Chúa, nó mất tinh thần nên sao lãng công việc nhà, lần hồi tinh thần nó sẽ ổn định, làm việc bình thường trở lại.

Định kỳ hớt tóc của tôi tháng đó bị gián đoạn, anh Cường chay đóng cửa tiệm không rõ lý do. Ngày anh mở cửa làm việc trở lại cũng là ngày bà chủ nhà cho anh Cường chay thuê mái hiên làm tiệm hớt tóc qua nhà nói chuyện với mẹ tôi và tối hôm đó mẹ tôi kể lại cho cha tôi trong bữa cơm: “Thằng Cường chay đã đổi ý, chịu bỏ Phật theo Chúa để được cưới con Mè. Mẹ thằng Cường chay không chịu, đòi cắn lưỡi tự tử và bà ta đã làm thật. Gia-đình thằng Cường chay phải chở bà vào nhà thương Huế cấp cứu, may mà cứu kịp.”

Rồi không hiểu sao, chị Mè vui vẻ trở lại,công việc nhà chị làm không còn bị mẹ tôi quở trách nửa. Chị tiếp tục đi lễ nhà thờ mỗi Chúa nhật, anh Cường chay chở chị đi lễ và đón chị trở về bằng chiếc xe đạp đầm mới mua. Chị Mè tiết lộ cho tôi biết, buổi tối hết công việc, chị sẽ xin phép cha mẹ tôi tập đi xe đạp, chị nhờ tôi: “Tối nào chị tập đi xe đạp, em giúp chị đóng của và mở cửa cho chị được không ?” 

Tôi đồng-ý, hỏi chị: “Xe đạp đâu mà chị tập ?”

Chị trả lời không đắn đo: “Xe đạp anh Cường mới mua”. 

Biết được chuyện chị Mè được anh Cường chay đưa đón đi lễ nhà thờ mỗi sáng chúa nhật bằng xe đạp, mẹ tôi nói với cha tôi:

      – Từ đây ra nhà thờ Con gà chỉ có hai trăm thước mà đưa với đón, bày đặt! 

Cha tôi lại cười: 

     – Nguời ta yêu nhau mà em !”

Tôi học chưa hết năm đệ lục, chị Mè xin nghỉ việc vì giao ước làm việc ba năm chấm dứt. Cha mẹ tôi đồng ý.

Lúc bấy giờ mấy anh chị em tôi đã lớn, đứa em nhỏ nhất ba tuối đã có chi hai tôi săn sóc những khi nghỉ học hay những lúc rảnh rổi. Cha mẹ tôi cũng không còn cần chị Mè. Mùa hè năm đó tôi lang thang cũng lũ bạn nơi họ đạo Tam-tòa, tình cờ tôi gặp chị Mè, chị cho tôi biết đang cùng chung với người bạn mở một tiệm may quần áo tại đây. Chị đưa tôi và lũ bạn về tiệm may của chị và pha nước chanh cho uống. Đang uống thì anh Cường chay đạp xe đến, vứt xe bên vệ đường, đi nhanh vào tiệm may, mặt anh cau có có vẻ bực bội.

Anh nắm tay chị Mè kéo vào sau nhà.Thấy không khí lúc đó không vui, tôi và lũ bạn im lặng rời tiệm may. 

Về gần đến nhà, ngang qua hẻm có tiệm hớt tóc của anh Cường chay, nhìn thấy có vài người tụ tập trước tiệm hớt tóc, tò mò tôi dừng lại, tôi biết anh Cường chay không có trong tiệm, anh đang ở tiệm may của chị Mè.

Một người đàn bà tóc đã bạc đang ngồi bệt dưới đất trong tiệm hớt tóc, mặt mày bơ phờ, tóc tai rũ rượi, hai tay đập vào nền đất, miêng rên ư ử : “Con ơi là con ! Mè ơi là Mè ! con ở đâu mà mấy tháng ni không về với cha mẹ? Cường ơi là Cường ! mi giấu con gái tau ở mô ? hãy đem nó trả lại cho tau…không thì tau đập đầu chết ở đây cho mi hả dạ…”

Mấy người hiếu kỳ đứng xem nói với nhau:
“Cường chay với con Mè thương nhau, xin cưới nhau nhưng hai bên cha mẹ không thuận vì khác đạo nên hai đứa nó lén lút sống chung. Bữa ni mẹ con Mè từ quê ra tìm nó, đến đây nằm vạ đòi con gái.”

Tôi rời đám đông, ra đến đầu hẽm thì vừa lúc anh Cường chay đạp xe chở chị Mè chạy vào hẽm.

Tối hôm đó chị Mè đưa mẹ qua xin phép cha mẹ tôi cho ngủ nhờ để sáng hôm sau trở lại quê. Anh Cường chay đứng ngoài cửa, tôi nghe anh thở dài, còn chị Mè hai mắt đỏ hoe. 

Mấy ngày liên tiếp sau đó tiệm hớt tóc của anh Cường chay đóng cửa, bà chủ nhà lại qua nói chuyện với mẹ tôi:

“Hôm con Mè đưa mẹ về quê, khi qua đò, con Mè nhảy sông tự tử, nhờ nước sông cạn nên con Mè được vớt lên, chở vô bịnh xá quận Điện-bàn cứu chữa. Bác sĩ nói cái thai trong bụng con Mè không bị ảnh hưởng gì. Thằng Cường chay không làm việc mấy bữa ni, nó đi thăm con Mè ở bịnh xá.” 

Bà lại thở ra: “Trai gái thời nầy loạn rồi, chưa thành vợ thành chồng mà đã ăn nằm với nhau để có chửa!”.

Từ đó, tôi không còn được gặp hay được nghe tin tức nào liên hệ đến anh Cường chay và chị Mè. 

*****

Sau những năm tháng chiến tranh ác liệt Quốc Cọng, miền Nam Việt-nam thua cuộc. Chiến tranh chấm dứt, nhưng lòng người lại ly-tán. Đất nước như nồi canh chay bị vỡ, người dân xông xáo khắp nơi, tìm đường ra khỏi biên giới, làm người Do-Thái lang-thang, tạo lập cuộc sống mới nơi xứ người. Trong dòng người nầy có gia-đình tôi. Qua những năm tháng tạo lập đời sống mới, lần lượt cha mẹ tôi qua đời, linh-vị được thờ tại một ngôi chùa nhỏ phía Nam thành phố Paris nước Pháp. Chùa có tên là Tây-Phương. Vị sư Trụ-trì chùa, Thượng-tọa Như-Hóa mới đây đã viên-tịch, một thầy khác, Thuợng Toạ Giác-Miên, được mời từ Népal qua thay thế, nhưng tôi chưa có dịp diện-kiến. 

Rằm tháng bảy âm-lịch trong năm 2000, tôi điện thoại đến chùa xin ghi danh lễ cầu siêu cho cha mẹ nhân ngày xá tội vong nhân. Hôm đó, tôi vừa đến chùa thì lễ cũng đã bắt đầu.Tiêng đọc kinh, tiếng chuông mõ hòa quyện cùng khói nhang thơm làm tâm thần tôi thanh-thản, tôi cố lắng nghe âm thanh tên, tuổi cùng pháp-danh của cha mẹ tôi sẽ được đọc lên trong buổi lễ..tôi đang chờ…tên của cha mẹ cùng Pháp-danh của một phật-tử nào đó được đọc lên, kế tiếp …và kế tiếp…

Tôi giật mình, không tin vào tai tôi..Théresa Hứa-thị Mè, sinh ngày 12 tháng ba năm 1943 tại làng Trà-kiệu tỉnh Quảng năm, tạ thế ngày 10 tháng 2 năm 1999 tại thành phố Marseilles nước Pháp… thầy chủ trì chánh lễ vừa đọc đến đây thì tiếng chuông mõ bổng ngừng lại, hàng Phật-tử dự lễ sát chánh điện ngơ ngác, lao xao. Một tăng sinh còn trẻ nhưng vốn quen việc nghi lễ trong chùa vội vàng thay thế Thầy đọc tiếp danh sách cầu siêu trong tiếng xì xào mất trật tự…rồi có tiếng yêu cầu gọi xe cấp cứu.

Khi biết thầy Giác-Miên bị ngất xỉu, phản ứng theo thói quen của một bác-sĩ, tôi bước nhanh đến bàn thờ Phật. Thượng-tọa Giác-Miên đang quỳ, nhưng cả phần thân người bên trên gục xuống hàng chuông mõ phía trước. Tôi nâng mặt thầy lên, quàng tay sau lưng thầy, đỡ nhẹ thầy nằm xuống mặt thảm trước chánh-điện. Tôi thực hiện những tác động cấp cứu dành cho một người bị ngất xiủ. Vài phút sau thầy bắt đầu tỉnh lại. Một vài Phật-tử giúp tôi dìu thầy về phòng riêng. Tôi tiếp tục theo dõi huyết áp và nhịp tim của Thầy. Tôi nghe hơi thở của thầy dần dần bình thường trở lại, nhưng hai mắt của thầy vẫn nhắm như ngủ. Tôi căn dặn vị thị-giả những điều cần thiết phải săn sóc khi thầy tỉnh hẳn. Vừa quay người định ra khỏi phòng, tôi nghe tiếng thầy Giác-Miên thều thào: “Bác sĩ, bác sĩ có phải là chú Kính ở Đà Nẳng không?” 

Tôi quay người lại, thầy thều thào tiếp:

– Chú không nhớ thầy sao ? Nghe cái giọng đặc biệt Quảng-nam Đà-nẵng của chú, thầy nhận ra ngay…Thầy là Cường chay, ngày xưa hớt tóc cho chú đó .

Tôi cúi xuống nhìn kỹ mặt thầy: hai mắt đã mở, hai bên khóe mắt có vài giọt nước chảy dọc theo hai bên sóng mũi. Tôi nhận ra được thầy Giác-Miên là anh Cường chay. Tôi ngối xuống bên cạnh thầy, hai tay nắm tay của thầy. Xúc động làm tôi ứa nước mắt…mới đó mà đă hơn hai mươi lăm năm. Cái âm thanh Theresa Hứa thị-Mè vừa được đọc lên trong lễ cầu siêu lại hiện trong đầu tôi..và tôi chợt hiểu, có thể đó là lý do thầy Giác-Miên ngất xỉu!

Những tháng năm sau đó tôi viếng chùa Tây-Phương thường xuyên hơn, có lẽ vì anh Cường chay là Thuợng Toạ Giác-Miên trụ trì. Một hôm, tôi gặp thầy xin nhận một lễ quy-y cho toàn gia-đình của tôi. Nhân lúc trong phòng làm việc chỉ còn mình thầy, tôi đánh bạo hỏi:
 
– Chắc thầy còn nghĩ đến chị Mè phải không? 

Thầy không trả lời, mặt trở nên suy-tư, xa vắng. Tôi hỏi tiếp:

– Hồi đó, sau khi chị Mè nhảy sông tự-tử, thầy có găp được chị ấy không? 

Thầy bối rối và do dự khá lâu rồi mới bắt đầu nói chuyện của thầy với giọng buồn rầu:

– Mô Phật! Mấy mươi năm nay thầy đã chôn quá khứ của thầy trong lời kinh, tiếng chuông tiêng mõ mà hình như nghiệp vẫn chưa dứt được, còn theo mãi cho đến ngày nay……
 
… Trước khi Mè nhảy sông tự vẫn, thầy và Mè đã chuẩn bị sẵn sàng vào Lâm-đồng sinh-sống. Lúc bấy giờ Mè đã có thai. Chú biết, thầy và Mè thương nhau. Sự ngăn cản của hai bên gia-đình không cho hai đứa cưới nhau càng quyết liệt thì hai đứa càng bất chấp tai tiếng. Sau khi được cứu chữa bình-phục, Mè trở về quê. Hai đứa đã quyết định ngày giờ gặp nhau để bỏ xứ ra đi. Ngày hẹn đã đến, thầy chờ không gặp được Mè. 

Ngày hôm đó đồng bào trong quê gồng gánh cùng gia-súc lũ lượt từ trong xóm làng xa xôi tràn ra quốc lộ. Người ta kể cho nhau nghe trận chiến đã xẩy ra đêm hôm trước ở làng Trà-kiệu. Giải-phóng quân Cộng -sản Việt-nam đã tấn công làng, đốt phá cơ sở chính-quyền địa-phương bắt dẫn đi chỉ điểm những viên chức chính quyền. Đạn pháo binh từ trong đồn địa phương quân cũng như từ quận bắn vào làng. Gần sáng, máy bay từ Đã-nẵng bay vào yểm trợ. Bom đạn quân đội hai bên làm làng Trà-kiệu tang-hoang. ..Không biết dân làng ai chết ai sống, mạnh ai nấy chạy. Cái gì lấy được thì mang theo. Cả mấy ngày tiếp theo, thầy đi đến các làng xã quanh làng Trà-kiệu, vào các bịnh-viện lớn, bịnh-xá nhỏ tìm Mè, Mè vẫn biệt tăm. Nửa tháng sau thầy theo chân dân làng được cho phép trở về đến trước nhà Mè, ngôi nhà đã bị cháy rụi. Mấy tháng chờ đợi sau đó, tin-túc về sự sống của Mè vô vọng, thầy trở về Huế và thầy xin xuất gia với người cậu…
Sau khi tốt nghiệp Phật-học viện Nha-trang năm 1970 thầy được học bỗng đi học bên Ấn-độ..rồi ở tu luôn tại bên ấy. Các đây vài tháng thượng-tọa Như-Hoá viên-tịch, thầy được chuyển về đây thay thế. 

Tôi hỏi thầy:
– Danh sách lập để được cầu siêu hôm rồi không phải do thầy lập sao?

“Không !.Do một phật-tử chuyên trách từ thời còn thầy Như-Hóa.” 

Tôi nói tiếp:
– Như vậy thì chị Mè không bị chết trong hôm làng Trà kiệu bị giặc tấn công và người xin lễ cầu siêu xưng là con gái của chị Mè.,.nhưng không rõ có phải là con chị Mè với thầy hay con sau nầy với người khác…” 

Thầy không trả lời câu hỏi của tôi, thầy chỉ gật đầu…rồi lắc đầu…rồi thở dài. 

Tôi hỏi tiếp:
– Thầy có muốn tim sự thật về chị Mè những tháng năm sau này nầy không? 

Thầy trả lời dè dặt:
– Chú Kính giúp thầy việc nầy thì quý hoá lắm. Từ hôm đó đến nay, thầy suy nghĩ hoài mà không biết làm gì và làm như thế nào. 

Tôi vừa thương thầy vừa ái-ngại cho thầy, đoán biết trong thầy con sóng tình cảm xa xưa trở về đang làm thầy giao-động.
Nhờ vào số điện-thoại lưu trong phiếu xin lễ cầu siêu, tôi liên lạc với con gái chị Mè. Không khó khăn lắm khi tôi tự giới thiệu với con gái chị Mè, ngày xưa, rằng thời chiến tranh chị Mè làm việc trong gia-đình tôi ba năm, từ khi chị Mè thôi việc, tôi không có tin tức của chị…Vừa qua, nhân dự lễ cầu-siêu tại chùa Tây phương, có nghe tên của chị Mè được đọc trong buổi lễ, nên nay liên lạc để hỏi thăm. Đầu giây, cô gái tự nhận là con gái duy nhất của chị Mè,đang cùng chồng và con cái sờn ở một làng vùng ngoại ô Bắc Paris. Qua trao đổi nhận biết nhau, con gái chị Mè mời tôi đến thăm nhà nhân dịp cuối tuần. 

Một tuần sau đó tôi đến thăm con gái chị Mè. Nhà nằm trong một trang trại nuôi gà công-nghiệp. Con gái chị Mè tự giới thiệu tên là Michelle, có chồng là người Pháp chủ trại gà và có ba con. Sau những bỡ ngỡ ban đầu hai chúng tôi trở nên thân thiện rất nhanh. Tôi đã kể cho Michelle kỷ niệm giữa tôi và chị Mè ngày xưa lúc chị giúp việc cho gia-đình tôi.Tôi cũng đã giới thiệu cuộc sống hiện tại của tôi…và cả buổi sáng ngày cuối tuần hôm đó tôi đã được nghe Michelle kể về mẹ của mình, chị Mè.

Michelle sống với mẹ vùng Chợ Đệm Thủ-Đức, mẹ có một quán may nhỏ chuyên sửa quần áo lính cho các sinh-viên sĩ quan Trường bộ binh Thủ-Đức nên cuộc sống của hai mẹ con rất ổn-định. Những năm tháng đó, Michelle không bao giờ được mẹ kể cho biết gia-đình thân thuộc có ai và ở đâu. 

Khi hỏi về cha của mình, chị được mẹ nói là thất lạc trong chiến tranh không biết chết sống thế nào. Tên cha được ghi trong giấy khai-sinh là Lê-chí-Cường, sinh-quán tại Huế. Năm 1975, khi miền Nam Việt-nam bị thay đổi chính quyền, mẹ chị vẫn sống bằng nghề may. Michelle được nhận làm tiếp-viên cho khách-sạn Caravelle nhờ thông thạo Pháp ngữ. Tại đây, Michelle quen biết với một du-khách Pháp và một năm sau hai người cưới nhau. Chồng của Michelle là đảng-viên đảng Xã-hội Pháp, làm xã trưởng của một xã nhỏ vùng ngoại ô thành-phố Marseilles. 

Michelle và mẹ cùng qua Pháp một ngày. Mẹ được nhận phụ giúp việc săn sóc các nữ tu Thiên chúa giáo về hưu tại địa phương. Năm 1999, mẹ chị bị phát hiện ra bịnh ung-thư lá lách ở giai đoạn cuối. Trong chống chọi với căn bịnh ngặt nghèo, biết là mình không thoát khỏi sự chết, mẹ đã kể lại một phần đoạn đời của mẹ…. 

Sau cái đêm làng Trà-Kiệu bị giặc tấn công chiếm đóng, gia-đình mẹ tản-cư vào tạm trú nhà một người bà con tại thị-xã Tam-kỳ. Cuộc chiến trở nên ác-liệt, gia-đình mẹ không trở về làng cũ. Cháu được mẹ sinh ra vài tháng sau đó. Cuộc sống cơ cực, hai mẹ con bị gia-đình đối xử lạnh nhạt vì mẹ sinh con trước có phép cưới. Quá đau khổ,quẩn-trí, một đêm mẹ định để cháu lại cho bà ngoại, lén ra sông tìm cái chết. Trên đường đi khi ngang qua một căn nhà trong một xóm nhỏ, mẹ nghe tiếng khóc, tiếng của một đứa trẻ: “Mẹ ơi! mẹ đâu rồi ?. Mę đi đâu rồi? Con sợ quá…” Trong đêm khuya, tiếng khóc đòi mẹ của đứa trẻ như xé lòng mẹ, đánh thức lương tâm và trách nhiệm của mẹ mà trong một phút giây nông nổi mẹ đã định làm chuyện dại dột… Và mẹ đã quay trở về nhà. 

Trong cùng cực của cuộc sống, một may mắn đến với mẹ…người bạn cùng may chung với mẹ ở Đà-nẵng trước đây, vừa có chồng là lính phục vụ trong quân-trường Sĩ-quan trừ bị Thủ-Đức, gặp lại mẹ, rủ mẹ cùng hợp tác may chung tại quán may ở Chợ Nhỏ mà bạn mẹ theo chồng dọn về đây. Cuộc sống bắt đầu ổn-định,mẹ đã nhiều lần về Đà-nẵng, về Huế tìm ba, nghe nói ba đã đi tu ở nơi xa và ba đã như một cánh chim lạc trong bốn phương trời vô-định.. 

Michelle ngừng một chốc,thở ra, kể tiếp:
“Mẹ cũng có kể cho cháu về mối tình ngang trái của mẹ…. mẹ không còn kỳ-vọng gặp ba trước khi nhắm mắt mẹ đã căn dặn cháu phải làm theo lời mẹ, sau khi mẹ chết… mẹ nói:
 
– Khi mẹ chết rồi, cháu phải thờ mẹ trong một ngôi chùa nào đó…ngày xưa, vì vấn đề tín-ngưỡng mà tình duyên của mẹ ngang trái. Ba của cháu đã xin từ bỏ đạo Phật của mình theo đạo Thiên-chúa để được cưới mẹ, nhưng gia-đình của ba không thuận, bà nội, tức mẹ của ba cháu đòi tự vẫn nếu ba con quyết định bỏ Phật. Nay vì tấm lòng của ba, ba bỏ đạo của mình để được cưới mẹ, tuy chuyện không thành. Tôn giáo thường dạy con người có linh-hồn sau khi chết sẽ về an nghỉ ở một nơi nào đó, thì như vậy, Phật sẽ che chở linh hồn mẹ và mẹ sẽ gặp được ba cháu, không còn bị giới luật của tôn giáo ràng buộc, ngăn cấm.”

“ Cháu đã làm theo lời mẹ, đem di-ảnh của mẹ thờ tại chùa Tây-Phương mấy năm nay, từ khi cha mẹ chồng cháu nghỉ hưu, giao cơ-sở chăn nuôi cho chồng cháu quản lý vừa lúc chồng cháu hết nhiệm-kỳ xã trưởng.” 

Tôi đã kể lại cho thầy Giác-Miên câu chuyện gặp gỡ Michelle ngày hôm đó. Qua điện thoại giọng thầy đầy khích-động. Tôi cho thầy biết, Michelle chưa biết thầy là thân sinh của cháu vì lý do tôi chưa xin sự chấp thuận của thầy…thầy nói: “Phải cho Michelle biết….làm thế nào để tạo sự thuận-tiện thầy cũng chưa biết..thôi chờ vài hôm nữa mình bàn tính lại.”

Sự bàn tính tạo thuận tiện cho cha con thượng-tọa Giác Miên và Michelle gặp nhau đang trong dự trù thì một buổi sáng tôi đang còn ngủ có tiếng reo điện thoại đánh thức tôi dậy. Một người nào đó từ chùa Tây-Phương báo cho biết tin thượng-tọa Giác-Miên đang công phu sáng đã bị đột quỵ, được xe cứu thương chở vô bịnh viên cấp cứu. Thay vì vào nơi làm việc, tôi lái xe chạy thẳng vào bịnh viện thăm thượng-tọa Giác Miên; nhân viên tại đây báo cho biết Thượng-tọa đã ra đi, bác-sĩ không cứu kịp.

Sau lễ an-táng thượng-tọa Giác Miên, tôi đến thăm Michelle một ngày cuối tuần.Tôi chuyển cho Michelle một bao thơ của thượng-toạ Giác Miên đã viết sẵn. Bao thơ được tìm thấy trên bàn làm việc của thầy, nhờ tôi trao lai. Michelle nhìn tôi vẻ bối rối khi nhận thơ. Tôi yên lặng ngồi nhìn Michelle e-dè mở thư ra đọc. Tôi thoáng thấy có những tấm hình đen trắng kèm theo thư cùng bản sao một thẻ căn cước… Mặt Michelle càng lúc càng trở nên căng thẩng đầy xúc động…những giọt nước mắt chảy ra từ hai khóe mát, lan dài trên má. Tôi đứng dậy đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài, tránh nhìn các hình ảnh cảm động đang diễn ra trước mặt.

Một tiếng nấc, rồi những tiêng thổn thức tiếp nối. Tôi quay lại, mặt của Michelle cúi xuống, hai tay ôm đầu, hai vai run-rẩy. 

Chờ Michelle bớt xúc động, tôi đến ngồi bên cạnh, giúp nhặt lên thư và hình ảnh bị rơi xuống đất.Trong một tấm hình, tôi nhìn thấy anh Cường chay và chị Mè chụp chung bên bờ con sông Hàn ở Đà-nẵng, hai người âu yếm choàng vai nhau… và bản sao thẻ căn-cước bằng tiếng Pháp có in hình anh Cường chay ghi: Lê-chí-Cường sinh năm 1940 tại Huế… Việt-nam…. 

Michelle nhận thư và hình ảnh từ tay tôi, ôm tất cả vào ngực..lại thổn thức: “Mẹ ơi ! Ba ơi !”.
 
Tôi từ giã ra về.

Michelle tiễn tôi ra cổng trang trại. Tôi nghe có tiếng gà gáy trong một góc nào đó từ bên trong xa.. Nắng buổi chiều vàng vọt trãi dài trên các ngọn cây. Tôi thoáng nhìn thấy anh Cường chay đang chở chị Mè trên xe đạp chạy từ nhà thờ Con Gà về xóm chùa Hải-Châu, nơi anh Cường chay có tiệm hớt tóc.


Nguyễn-đại-Thuật
Paris ngày 16/01/2019.

HOA KỲ TRẢ GIÁ ĐẮT VÌ BỎ RƠI VNCH


Adelaide Tuần Báo

Adelaide Tuần Báo – Mới đây có bài báo của ký giả Damir Sagolj thuộc hãng thông tấn Reuters viết và nhận xét về việc Mỹ hối hận và phải trả giá đắt vì đã giao nộp VNCH cho Trung cộng (Tc), mà tay sai là Việt cộng (Vc). Ông Sagolj sinh năm 1971 và là người Âu Châu gốc Bosnia. Chỉ mới 4 tuổi khi chiến tranh VN chấm dứt. Chẳng mấy khái niệm về cuộc chiến này. Thế nhưng nhận định của ông rằng Hoa Kỳ hối hận để mất miền Nam vào tay Tc và Vc là một thực tại rõ nét. Sự hối hận quá đậm, nếu không nói quá đau mà Hoa kỳ và thế giới tự do bây giờ đang phải trả giá rất đắt trên bàn cờ chiến lược và trật tự thế giới.
Trong quan điểm này chỉ nêu vài điểm chính có tính cách chiến lược, lối suy nghĩ quá thực dụng và cục bộ của một số người làm chính trị Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Hoa kỳ lãnh đạo thế giới tự do chống chủ nghĩa cs. VNCH là quốc gia ‘tiền đồn’ của mặt trận chống chủ nghĩa này. Thế nhưng 1972 Henry Kissinger, tên ngoại trưởng ‘diều hâu’ này có tư tưởng khác đi: Hoa kỳ bắt tay với Tc để đối phó Liên Xô. Con cờ VNCH được trao đổi trên bàn giấy tại Bắc Kinh vì họ nghĩ rằng Tc sẽ ra khỏi quỹ đạo cs độc tài nếu được giúp đỡ về kinh tế thì sẽ dân chủ hóa nền chính trị.
Tưởng rằng hy sinh 20 triệu dân VNCH thì Hoa kỳ sẽ có lợi lộc gấp bội. Cùng lúc dưới sự ảnh hưởng của thế giới truyền thông cánh Tả đã làm cho dư luận Mỹ thay đổi quan điểm và Kissinger đã ‘mượn gió để bẻ măng’, bán đứng VNCH và hợp tác thân thiện với Tc.

Một cố vấn Mỹ và Lính VNCH
Ván cờ này tưởng như Hoa kỳ thắng, Kissinger và Lê Đức Thọ được trao giải thưởng Hòa Bình Nobel. Thế nhưng ngày 30/4/1975 định mệnh của dân tộc VN được định đoạt và có thể nói, chủ nghĩa csTQ và csVN thắng một nước cờ. Mà nước cờ ấy bây giờ Hoa kỳ mới thấy rằng mình thua, tìm cách gỡ nhưng không phải dễ.
Dân tộc VN oán trách những tên chính trị diều hâu như Kissinger. Ông ta tưởng làm chuyện vĩ đại là chấm dứt được chiến tranh VN nhưng ông ta có nghĩ rằng sự bán đứng VNCH lúc ấy bây giờ trở thành thế bị động của Hoa Kỳ tại biển Đông ngày nay.
Sức mạnh Hoa Kỳ và Âu Châu không thể thua dưới tay Liên Xô và Trung Cộng hợp lại. Thế nhưng Kissinger chọn hy sinh VNCH. Nghĩa là chọn hy sinh cả dân tộc VN để đánh đổi một chiến lược mới, bắt tay và tham vọng đưa Tc ra khỏi quỹ đạo độc tài cs. Rồi đến năm 1979 trên đất Mỹ, Đặng Tiểu Bình van xin Hoa Kỳ đẩy mạnh đầu tư và giúp Tc vươn lên (từ lạc hậu!). Âu Châu cũng hưởng ứng và chấp nhận cho Tc vào cuộc chơi theo luật của tự do với hy vọng rằng hệ thống tự do sẽ ‘cảm hóa’ dân trí song song với mở rộng kinh tế và làn gió dân chủ tràn vào Tc chỉ là thời gian và hòa bình cho mọi quốc gia là cái chắc!
Sự tin tưởng này ngày nay đã biến thành mây khói vì tập đoàn lãnh đạo theo chủ nghĩa cs không bao giờ buông thả quyền lực, nếu không nói rằng họ tận dụng mọi kẽ hở của tự do để tiến tới một hệ thống cai trị tàn độc đối nội và gian manh đối ngoại. Hãy nhìn vào TQ và VN hôm nay. Cá nhân Tập Cận Bình đã từng du học tại Hoa Kỳ thế nhưng ông ta hiện nay sẽ làm vua muôn đời của một thể chế hung hãn và nguy hiểm nhất mà thế giới cần phải lo ngại, nếu không nói là tai hoa cho thế giới gần kề!
“Hoa kỳ và Tây phương đã nuôi cọp trong nhà, ngày nay cọp đủ nanh vuốt để ngoạm cổ Hoa Kỳ và Tây Phương” đó là nhận xét của ông Sagolj. Sự hối hận của những nhà chính trị đương thời phản ảnh một thực tại cay đắng, khó khăn, thử thách, nếu không nói là thua ván cờ mà Kissinger đã chơi với Chu Ân Lai. Giá mà tất cả phải trả 43 năm qua và còn kéo dài trong tương lai, nặng nhất là dân tộc VN. Suốt 20 năm nồi da sáo thịt với nhau để trở thành con mồi cho Tc và Hoa kỳ tiêu khiển. Lê Duẩn đã từng tuyên bố một cách rành mạch và Việt gian cs còn ghi lời ấy trên lăng tẩm của ông ta “Ta đánh Mỹ là đánh cho TQ và Liên Xô”. Không còn lời nào chính xác và phũ phàng hơn. Lê Duẩn đã nói cho chúng ta biết đảng Việt gian cs chỉ là tay sai đánh Mỹ dùm cho Tc đến người VN cuối cùng!
Một người ngoại quốc còn nhìn thấy cuộc chiến VN là nỗi ân hận đau đớn vì để thua trên quan điểm và chiến lược.Thế thì người Việt chúng ta có nhìn thấy không? Thực ra người Việt Quốc gia đã nhìn thấy từ lâu. Chúng ta oán trách những kẻ có quyền lực, oán trách những đầu óc thiên tả và lệch lạc, oán trách những người nhẹ dạ dễ tin vào sự lừa dối của Việt gian cs và oán trách chính chúng ta đã phần nào thờ ơ trước việc nước, có thể là những lý do gián tiếp đưa đẩy dân tộc vào con đường cùng hôm nay. Những kẻ đáng trách nhất là những người đem chủ nghĩa cs đến Việt Nam, đó là Hồ Chí Minh và đảng csVN, tập đoàn bán nước chứ không phải cứu nước. Họ đã lợi dụng lòng yêu nước của bao thế hệ để cướp chính quyền và xây dựng triều đại độc tài, độc tôn và bán nước VN cho TC bằng mọi cách để gọi là bảo vệ đảng của họ.

Nói tóm, người Việt quốc gia không ngạc nhiên khi đọc lời nhận xét của Sagolj. Bởi vì chúng ta là người trong cuộc, dân tộc VN là nạn nhân của cuộc chơi này. Thế giới sẽ còn bất ổn khi chế độ độc tài csTQ còn đó. Nước VN sẽ không còn khi đảng độc tài csVN còn đó. Con đường trước mắt là Hoa Kỳ và thế giới tự do cần phải liên kết chặt chẽ để đối phó với TQ và Nga. Nhân loại không thể chấp nhận những chế độ độc tài và độc tôn.

Adelaide Tuần Báo

XUÂN ĐOÀN TỤ


 Nguyễn Thành Nhơn

Cuối Đông 1980, nơi trại tù khổ sai Tân Lập, Vĩnh Phú, sau 6 tháng bặt tin nhà, không nhận được tiếp tế lại thêm bịnh nhược, tưởng chừng đi đứt, theo chân Đại tá Của, Tỉnh trưởng Bình Dương thượng đồi chè nghĩ khỏe, an giấc nghìn thu. Một buổi trưa đi lao động về, được thông báo lên Hội trường nhận quà từ gia đình gởi. Ôi! Thôi mừng như hết lớn.

Nào, xem cái gì đây! À, tới 2 bịch thuốc Lào ba số 8. Mấy tháng rồi thiếu thuốc, chạy đôn chạy đáo chớ bộ ít sao? Bụng đói, kéo vô e té mất, nhưng mà làm sao nhịn được, bèn xoe một bi nho nhỏ, kéo vô thiệt đã! Còn lon guigoz gì hấp dẫn thế nầy? Ra là thịt kho mặn, thượng phẩm nhất trần đời. Nhéo một miếng bỏ vô chén “sắn dui” là sơn hào, hải vị nhất bên Tàu. Đang khi tơ lơ mơ vì bi thuốc lào thứ hai thì nghe kẻng tập hợp đi lao động.

Mọi bửa, sắp hàng xong là ra cổng. Bửa nay sao lại dềnh dàng? Hóa ra đợi nghe đích thân Trại trưởng tuyên đọc … LỆNH THA nhân dịp Tết Nguyên Đán sắp tới!!!

Cả mười mấy đội, sáu bảy trăm nhân mạng đều nhốn nháo. Tiếng là Thiéu tá mà coi bộ đọc chữ không rành. Trong khi thiên hạ nhấp nha, nhấp nhổm, ông ê a đánh vần thật là sốt ruột. Tiếng ông thì nhỏ mà gã tù tui thì điếc lác sợ không nghe được nên mới nhờ anh bạn đứng kế bên nhắc chừng dùm. Quả nhiên lát sau bỗng thấy anh bạn nắm áo vừa giật vừa hô: có tên rồi kìa!!!

Tôi nghe rồi ngẩn ngơ như lạc vào trong mơ! Ở đời người ta thường nói: “Phước bất trùng lai”. Vậy mà gã khù khờ tui mới rồi vừa được phước lớn, giờ tiếp liền đại phước trong đời, thật là hi hữu!

Ngơ ngẩn hồi lâu mới giật mình, tỉnh lại bèn chạy u về phòng giam lo thu xếp đồ đạc. Bao nhiêu đồ dồn vô sac marin, chiếc thùng sắt để lại cho Thiếu tá Huấn, Chánh sở Tạo tác NQS như đã hứa.

Thiếu tá Tú, Thường trực thi đua mới hướng dẫn qua Khu B tạm trú qua đêm. Buổi cơm chiều mới thật là hào hứng. Trại khoản đải giả biệt bằng cơm trắng thay sắn dui. Lại gặp Anh Nguyễn Mỹ, Trưởng ty Thuế vụ Biên Hòa cùng được thả. Hai anh em chén cơm trắng thịt kho thả cửa. Nôn nao, không sao ngủ được bèn làm đêm không ngủ. Bịch thuốc lào tới sáng đã khuyết một phần tư!

Đêm dài rồi cũng lại trôi qua. Sáng lại đã thấy cán bộ tới làm thủ tục ra tù. Lần cuối cùng lăn tay, nhận lãnh giấy ra tù. Cầm tấm giấy vàng úa mà nâng niu như lịnh thiên tào tha mạng! Rồi còn được lãnh lại 12 đồng đã ký gởi khi từ Miền Nam ra. Lại còn cho thêm túi gạo vài ký để ăn đường.

Bước lên chiếc xe cam nhông decapotable, mui trần tự chúc mình thượng lộ bình an.

Lần nầy, xe không chạy ra Bến Ngọc mà lại chạy băng qua Suối A Mai về phía Sông Thao. Chạy một đổi ngang qua chiếc quán nhỏ bên đường, xe dừng lại cho đám tù mãn án sẳn tièn đó mua chút thức ăn đở dạ. Phong bánh khảo nhưn khoai lang mà tới hai đồng. Cái bánh chưng nhỏ xíu giá cũng như vậy. Thiếm xực thêm mấyđiếu Đồ Sơn hạng bét là chẳn năm đồng.

Xe xuống chiếc phà ọp ẹp trẩy Sông Thao vào lúc xế chiều. Đường ra Hà Nội chừng như còn xa lắm! Nhưng mãi rồi Cầu Thăng Long cũng thấp thoáng xa xa. Chiếc cầu mới vì chuyên viên Tàu cộng rút về trước cuộc chiến 1979 nên việc xây dựng còn dang dở. Xe cam nhông tù thả chen chúc cùng xe đạp cả người gồng gánh vượt cầu phao vào buổi chiều tà. Từ nơi rừng núi mới ra nơi nhộn nhịp lòng cũng thấy vui. Nhưng xe không vào Hà Nội mà lại chạy về hướng Tây Nam. Ủa xe chạy đi đâu vậy cà? Tối mịt xe mới dừng lại trước cổng đèn điện sáng choang, biển đề rõ ràng:Trại Cải Tạo Hà Tây. Lòng thầm hỏi: có lẽ nào cái “giấy ra trại” nầy lại là đồ dỗm!?

Phân vân bước vào cổng trại, tới trước dãy phòng giam mới tinh xem “hoành tráng”. Trại kiểu mẫu sát cạnh Thủ đô xã nghĩa do Đội trưởng Đội tù xây dựng, cựu Tướng Nguyễn Hữu Có thực hiện xem ra có khác! Người mang thùng nước chè xanh tiếp đải “khách” mới tới Hilton Hà Tây lại là Trung tá LLĐB Trần Hoàng cũng từ Tân Lập “thuyên chuyển” ra đây năm ngoái mới kề tai bỏ nhỏ: Cứ yên chí! Chỉ trọ ở đây một đêm thôi, rồi mai ra ga Hàng Cỏ xuôi Nam. Mừng cho bạn từ âm ty trở về dương thế!

Sáng hôm sau được lịnh lên đường, đến Ga xe lửa Hàng Cỏ vào lúc 9 giờ, lòng mừng khắp khởi.

Mới từ trên xe phóc xuống đã thấy ai đó níu áo hỏi: “ Cái “Giắc kết” nầy năm choạc, bán không?” Năm chục đồng khi ấy là lớn lắm vì lương công nhân mỗi tháng chỉ có $40. Gã cựu tù mới một ngày toan phát mãi, may anh bạn đi bên cạnh chận lại bảo chờ giá. Quả nhiên giá tăng gấp đôi tút suỵt, tiền trao cháo múc liền một khi! Vậy là dư sức ăn đường, lẫn cà phê, thuốc lá.

Có sẳn tiền mới tính tìm cà phê uống. Nghe nói cà phê Hợp tác xã chỉ có năm hào một tách nhưng mà nhạt như trà xanh, lại phải đứng xếp hàng mua. Dzụ nầy coi bộ không khá nên mới ngó dáo dác tìm cà phê chui. Bước lần vào ngỏ hẽm bên kia đường là thấy ngay căn phố hẹp, vừa đủ kê hai chiếc bàn thấp nhỏ xíu. Mới hừng sáng mà đã thấy bàn bên kia hai trự chắc là đại gia nên trước mặt có hai lon bia Heineken và … một gói ba số 555 vàng chóe. Gã tân thường dân thấy bắt ngợp mới rụt rè hỏi bà hàng cà phê bao nhiêu một tách. Bà cười bảo: Chỉ một đồng năm hào thôi! Thây kệ, cứ thỉnh một tách cho ngon lành. Lại thêm một điếu ba số cho nó giông giống sáu năm về trước.

Chợ Đồng Xuân chỉ cách Ga Hàng Cỏ vài trăm thước mà nghe nói cũng “phức tạp” lắm nên chẩng dám lại xem, bèn trở lại ga chực chờ cho chắc bụng. Cả ngày trôi qua suông sẻ nhưng đến khoản bảy giờ tối, cái bụng bắt đầu trở chứng, đau mướt mồ hôi. Hồi ở trong tù cùng đường nên không biết sợ, giờ sắp thượng tàu hỏa qui hồi cố quận nên thật là sợ lắm. Thầm nghĩ: Chẳng lẽ số xui tận mạng vậy sao?! Anh bạn ngồi bên thấy vậy cũng thương nên mới dúi cho hai viên thuốc, lại còn cho thêm hai ống thuốc Atropine, cẩn thận dặn: Đây là thuốc chích, tôi chắt chiu từ bấy đến nay. Chỉ khi nào đối đế lắm mới uống đại thử coi!

Đau quá nên đâu biết đã chín giờ tối, có lệnh lên tàu hỏa. Tay kéo lê chiếc sac marin, bước thấp, bước cao lê lết lên tàu. Điều kỳ lạ là mới vừa ngồi xuống, thở phào, chợt nghe cơn đau dịu xuống, rồi vong bặt. Vì quá vui mừng nên vậy chăng?

Xe lửa vừa phì phò lăn bánh, đã thấy anh Thiếu úy CSQG con nhà Nước Mía Viễn Đông lần theo các dãy ghế tìm gặp mặt anh em. Chẳng là anh nầy mắc nợ anh em đồng đội cũng nhiều. Anh khiên gỗ trên núi, té vẹo cột sống, mỗi khi đứng lên là thân mình cứ bật ngửa ra phía sau. Từ đó mà đi, mỗi khi đi lại đều phải có anh em dìu đở. Ngay trong chuyến hồi hương nầy, mỗi khi lên xuống xe đều phải có người cõng. Vậy mà giờ đây, sau một ngày được thân nhân (đặc biệt được thông báo ra Hà Nội chờ đón) đón về khách sạn săn sóc cho chỉ có một ngày là có thể tự mình lần đi được mới kỳ!Người ta thường bảo: Con người khi lâm nguy hoặc quá vui mừng thường nẫy sinh thần lực, có khi là như vậy chăng?

Trăng mười bảy tháng chạp trên bầu trời đất Bắc mờ hơi sương, vàng vọt mà trong tâm tưởng vẫn thấy huy hoàng sáng chói. Từ 1975 đến 1981, đây có lẽ là đợt thả tù đông đảo nhất bởi vì ngang qua mỗi tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, mỗi nơi đều có rước một nhóm tù được thả.

Sau một ngày, hai đêm, xế chiều ngày thứ hai thì tàu đến Ga Phan Thiết. Biết rằng phải vài ba tiếng nữa mới tới Biên Hòa, nhà ta mà vẫn cứ ràng buộc đồ đạt sẳn sàng. Xe vừa tới Trảng Bôm bỗng nghe loa phát thanh loan báo: Vì quá trễ, xe sẽ không dừng lại ở ga Biên Hòa. Vậy là tiu nghỉu, thất vọng mới bàn với ông năm Huệ, Đại úy Quân cảnh: Khi tới Ga Biên Hòa, thế nào xe cũng chạy chậm lại, mình nhảy đại xuống được không? Ông năm Huệ lắc đầu, biểu: Không được đâu! Mình yếu rồi. Nhảy như vậy nguy hiểm lắm. Chi bằng để tới Bình Triệu, đi xe Lam về hay hơn.

Nói là nói vậy nhưng khi xe ngang qua ngả ba Vườn Mít là đã thủ thế. Khi thấy hàng bực cấp dẫn lên dãy phố, nơi mái ấm sáu năm về trước là không kìm lòng được: Hấp một cái, cái bồng thảy trước. Người nhảy vọt liền theo, bất kể hàng rào kẻm gai Úc chờn vờn trước mặt. Thân mình lăn long lóc vào hàng rào phải liều mạng nắm đại vào dây kẻm gai gượng dừng lại. Mặc cho bàn tay máu tuôn, vẫn hiên ngang đứng lên, ôm cái bồng đi bươn lên bực cấp. Chỉ thấy con đường vào nhà ta trước mặt, bất cần chuyện chi khác!

Vừa quẹo vô hẽm, đã thấy người vợ yêu lầm lủi đẩy chiếc xe đạp cũ đi ra. Gã liệng đại cái bồng xuống chạy a lại. Cô giáo nhà ta chẳng biết chuyện gì. Chừng ngó lại thấy ông chồng đứng đó! Cả hai nhìn nhau như trong giấc chiêm bao.

Tỉnh hồn lại liền bảo: Mau vô nhà, bàn tay bị thương chảy máu. Bà xã buồn bả nói: Nhà ở dâu mà vô? “Mất dạy”người ta lấy căn phố lại rồi! May, tui lại dọn dẹp trả nhà mới gặp ông đây! Thôi mau về căn chòi của mình đi. Nó ở kế bên nhà Ông Một, phía sau Trường Ngô Quyền đó.

Tưởng rằng bà vợ nói ví von cho đở tức nhưng nhìn kỷ lại đúng là sự thật: Mái chòi nhà ta nửa thiếc, nửa tôn. Vách xọc xệch, nửa ván nửa cà tăng. Nhưng dẫu vậy vẫn là nhà của ta.

Vừa mở cửa rào bà xã vừa hô: Trí ơi, ba mầy đã về đó! Đây là đứa trai út, mười bốn tuổi, mới theo mẹ ra Bắc thăm ba hồi năm ngoái nên không thấy lạ. Mới hỏi gái Chi đâu thì đã nghe tiếng kêu từ phía trước nhà: Từ dưới bàu rau muống bước lên cô gái nhỏ, quần vải đen , ống thấp, ống cao. Ngày ra đi, con tôi là bé gái xinh đẹp vừa chín tuổi. Giờ đây, trước mặt là cô gái nhỏ cao kều tuổi mười lăm, giống hệt cô thiếu nữ tay lấm, chân bùn ở Làng quê Bưng Cầu thuở trước. Mãi mới thấy cậu ba Lễ đi học nghề thợ máy ỏ Saigon đạp xe về tới. Chàng nầy là đứa vóc dáng thấp nhỏ nhất nhà, nay đã là thanh niên mười bảy xem ra cũng tu mi, nam tử. Cuối cùng là cậu cả Nghĩa, mãi đi giang hồ vụn rồi cũng về tới: Ôi thôi! Nhìn không ra! Chàng thanh niên tuổi mười chín cao trên thước tám. Đúng là vai năm tấc rộng, thân mười thước cao, oai hùng như Từ Hải.

Niềm vui sum họp đơn sơ mà thấm thiết, chỉ như vậy là đủ, mặc cho sự thế xoay vần ra sao!?

QUE SERA SERA! WHAT WILL BE WILL BE!

                                           Nguyễn Thành Nhơn

                                               

CON TÀU CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi.. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra.. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
” Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng”
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v…. anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
“Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước..
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu”
Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn”, để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: “Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”
Anh lắc đầu: “Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất. “
“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.”
Người cán bộ nói tiếp: ” Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.”
Anh ấp úng: “Vâng, thưa cán bộ.”
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: ” Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn” kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày.. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi…xin lỗi chị”.
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện..
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?… Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

Phan Xuân Sinh

HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974: SAU 45 NĂM NHÌN LẠI VỚi NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT.

HQ Phạm Quốc Nam biên soạn

Lời giới thiệu
Các bài viết về trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 có quá nhiều với những cách nhìn khác nhau từ tài liệu của nhiều phía và của những nhà bình luận quân sự, chiến lược quốc tế. Đồng thời không ít những bài viết cá nhân có tách cách hư cấu hoặc diễn tả câu chuyện có nhiều chi tiết rất mâu thuẫn, bất hợp lý về diễn biến, số hiệu chiến hạm, thời điểm, chiến thuật, v.v… gây cho người đọc rơi vào trạng thái lẫn lộn, khó hiểu câu chuyện và không biết đâu là sự thật.
Đặc biệt bài viết này đồng quan điểm với những youtube với số lượng người theo dõi rất cao của Vietstar Media, Ngô Kỷ, nhằm phản đối và lên án những livestream từ Texas và Cali (như của LS Hoàng Duy Hùng, Nguyễn Phương Hùng, v.v…) qua những luận điệu xuyên tạc sự thật về trận chiến Hoàng Sa 1974 để bôi nhọ HQVNCH và QLVNCH nói chung.
Mặt khác tác giả mong muốn được thực hiện DVD về Hải Chiến Hoàng Sa, người viết đã phải nghiên cứu hàng chục tài liệu, bài viết, phim ảnh từ nhiều nguồn khác nhau và những giải mật mới nhất về trận hải chiến nhằm hệ thống lại thời gian, diễn biến, cũng như những đóng góp của Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, HQ Thiếu Tá Trần Bá Hạnh, cựu sĩ quan nghiên cứu trận liệt cuộc Hải Chiến Hoàng Sa tại BTL Hải Quân SaiGon và nhà báo Hải quân P.K., cựu sĩ quan Ban Báo Chí BTL-HQVNCH để dàn dựng thước phim lịch sử về trận Hải Chiến (sẽ ra mắt một ngày gần đây).
Hy vọng qua bài viết và thước phim này, người đọc hoặc xem phim không bị lẫn lộn, khó chịu trước những sự kiện không tuần tự và không hợp lý khi muốn tìm hiểu cặn kẽ về Hải Chiến Hoàng Sa Năm 1974.
Để nội dung bài viết và thước phim mang tính trung thực khi viết về trận Hải chiến Lịch sử này, người viết xin phép sử dụng bài viết và câu chuyện tường thuật của những nhân chứng sống từng tham dự trận hải chiến trong phạm vi trách nhiệm hay trong nhiệm sở của chính họ trên chiến hạm (PQN).

PHẦN I
NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT VỀ HCHS

Dẫn nhập:
Thiết nghĩ khi đánh giá Hải Chiến Hoàng Sa, chúng ta cần phân biệt hai sự kiện khác biệt về thời điểm:
Trận Hải Chiến Hoàng Sa (19-1-1974) và Sau Trận Hải Chiến (20-1-1974)

  • SỰ THẬT THỨ NHẤT – Hải chiến Hoàng Sa xác định lãnh hải của VNCH: Trận Hải Chiến ngày 19 tháng 1 năm 1974 kéo dài khoảng hơn 30 phút. Hải đoàn Đặc nhiệm Hoàng Sa I của Hải quân VNCH gồm HQ-4, 5, 10 và HQ-16 đã làm tê liệt lực lượng tham chiến của Hải Quân Trung Cộng gồm các chiến hạm 271, 274, 389, 396, Nam Ngư 407 và 402 ngay sau mươi phút khai chiến, khi HQVNCH bắn chìm 271, 389 và tiêu diệt trọn Bộ Chỉ huy Tham mưu của địch trên Soái hạm 274, làm tử thương một cấp tướng và nhiều cấp tá cao cấp của địch. Đây là chiến thắng của HQVNCH đối với trận Hải Chiến Hoàng Sa khi so sánh kết quả thiệt hại đôi bên. Nếu cho rằng HQVNCH thảm bại trong trận Hải chiến Hoàng Sa thì đó là cái nhìn của cá nhân và đúng hơn họ không nắm vững kỹ thuật và cấu trúc của một ‘Chiến hạm’.
    Dù nhìn ở góc độ nào hay phê phán thắng hay bại thì Hải chiến Hoàng Sa là chiến tích lịch sử VNCH xác định chủ quyền lãnh hải của mình đối với quân xâm lược Trung cộng và quốc tế. Đồng thời nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của Quân lực VNCH.
  • SỰ KIỆN THỨ HAI – Hoàng Sa thất thủ: Sau trận Hải Chiến ngày 20 tháng 1 năm 1974 Hải quân Trung Cộng hay gọi là Hải quân PLAN (Chinese People’s Liberation Army Navy – Hải Quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay Hải quân Trung Cộng, kết hợp sử dụng tàu quân đội và tàu của dân sự) xua một đội quân mạnh gấp chục lần HQVNCH gồm hải, lục, không quân, hỏa tiễn, tàu ngầm chiếm lấy Hoàng Sa khi HQVNCH rời khỏi Hoàng Sa từ ngày trước.

I. Trận Hải Chiến Lịch sử (ngày 19-1-1974) xác định chủ quyền lãnh hải của VNCH và nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của QLVNCH.

  • Theo cuộc phỏng vấn Đề đốc Lâm Ngươn Tánh và Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại của Ủy Ban Hoàng Sa tháng 10 năm 2006:
  • Đề Đốc Tánh khi đến Đà Nẵng vào chiều tối thì cuộc hải chiến đã kết thúc. Ông ở lại cùng với Đô Đốc Trần Văn Chơn đón các chiến hạm trở về từ Hoàng sa và ủy lạo các chiến sĩ hải quân từ Hoàng Sa trở về. Sau đó ông đi bệnh viện Quy Nhơn để thăm viếng, ủy lạo và gắn ‘Chiến thương Bội tinh’ cho các chiến sĩ HQ trôi dạt trên biển được cứu sống. Đề đốc Tánh ở lại Đà Nẵng từ chiếu tối ngày 19/1/1974 cho đến cuối tháng. (Đề đốc Tánh trả lời UBHS).
  • Phó Đề đốc Thoại là người nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Thiệu chỉ huy trận hải chiến Hoàng sa.
  • HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc là Hải đội trưởng Hải đội Tuần dương từ Saigon ra Đà Nẵng để quan sát tình hình xem các chiến hạm có nhu cầu gì? Khi biết Phó Đề đốc Thoại bận đón Tư Lệnh Chơn không thể theo tàu ra Hoàng Sa được nên Đại tá Ngạc theo HQ.5 ra Hoàng Sa và Đại tá Ngạc trở thành Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật (OTC – Officer in Tactical Command ) và HQ.5 trở thành Soái hạm. (Khi chưa có Đại tá Ngạc, Phó Đề đốc Thoại chỉ thị hạm trưởng HQ.4, HQ Trung tá Vũ Hữu San làm Sĩ quan OCT).
    Cũng cần biết thêm Phó Đề Đốc Thoại, Tư Lịnh HQV1DH kiêm nhiệm tư lịnh Lực lượng Đặc Nhiệm 231. Đêm 18 tháng 1,1975 PĐĐ Thoại chỉ định HQ Đại tá Hà Văn Ngạc làm OTC tức là chỉ huy trưởng Liên Đoàn Đặc Nhiệm 231.4. (Trang 109 của Bravery in Defeat)
  • Nhìn trận đánh một cách khách quan, cùng với những tài liệu, bình luận của giới quân sự quốc tế và sự thừa nhận của Trung Cộng Hải đoàn Đặc nhiệm I Hoàng Sa của Hải quân Việt Nam Cộng Hoà (HQVNCH) với các chiến hạm tham chiến: HQ4, 5, 16, và HQ10 đã gây tổn thất nặng nề cho Hải đoàn của Hải quân PLAN tham chiến gồm các chiếc hạm mang các số 271 và 274 (Lớp: tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt), 389 và 396 (Lớp tàu T-43 quét mìn 010 đại dương) và 2 tàu dân quân, vỏ sắt, trang bị hải pháo 25 ly ngụy trang tàu đánh cá mang số hiệu Nam Ngư 402 và 407.
  • “Trên đảo phía Trung Cộng nổ súng trước và trên biển HQVNCH nổ súng trước để đánh phủ đầu, chiếm ưu thế, giảm thiểu thiệt hại và chứng minh cho Trung cộng biết rằng đây là lãnh hải của VNCH”.
    Tóm lược thủ bút của Tổng thống Thiệu chỉ thị cho Phó Đề Đốc Thoại: “Thứ nhất dùng mọi biện pháp ôn hòa mời tất cả chiến hạm của Trung cộng rời khỏi lãnh hải của Việt Nam Cộng Hoà (VNCH). Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được quyền nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền xử dụng vũ khí để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ VNCH”. Đồng thời Phó Đề đốc Thoại còn dặn HQ Đại tá Hà Văn Ngạc (Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật [OTC]) ra lệnh cho các chiến hạm đồng loạt nổ súng với mục đích phân tán sự phản pháo của địch (trích trong Can Trường Trong Chiến Bại).
    Vì vậy HQVNCH nổ súng trước đã bẻ gãy chiến thuật của hải đoàn Hoàng Sa Hải quân PLAN khi chúng dùng chiến thuật “cài răng lược” và “dao chém cạnh sườn” (dùng tàu nhỏ, thấp trên mặt biển tránh né tầm đại pháo, đánh cận chiến và vận chuyển linh hoạt cắt đội hình của địch. Đây là chiến thuật dùng tàu nhỏ tấn công tàu lớn của của các nước khối cộng sản nói chung và của TC nói riêng).
  • Viên đạn 127ly của HQ-5 bắn lạc chui lọt vào hầm máy làm HQ-16 nghiêng 20 độ là sự thật. Nhưng việc lạc đạn trong lúc giao chiến đối phó với chiến thuật “cài răng lược” của địch không thể không xảy ra. Sự thật không khó để giải thích!
  • Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal” của Toshi Yoshihara – US Naval War College Review Spring 2016, Vol. 69, No. 2: “Trận hải chiến Hoàng Sa đã nổ ra tại một điểm uốn lịch sử với những chính sách hỗn loạn của Trung Quốc. Đất nước vẫn còn quay cuồng kể từ Cách mạng Văn hóa khi cuộc chiến bùng nổ. Phong trào chính trị cực đoan đã tàn phá sự nhanh nhẹn của quân đội TC đến mức mà hải quân TC gần như đã trả giá rất đắt cho điều đó, với nổi thất bại ở chiến dịch Hoàng Sa”.
    (https://cvdvn.files.wordpress.com/2018/03/the-1974-paracels-sea-battle-a-campaign-appraisal-yoshihara.pdf)
  • Cũng theo chuyên gia Toshi Yoshihara (US Naval War College Review) các thập niên 1950, 1960 và 1970, Hải quân Mỹ thường tân trang chiến hạm cũ từ Chiến tranh thế giới thứ II rồi viện trợ cho đồng minh ở châu Á như Đài Loan, Việt Nam Cộng Hòa, Philippines… Vũ khí, hệ thống điện tử, hệ thống điều khiển của tàu viện trợ đều lỗi thời. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Cộng và một số quốc gia Đông Âu đã trang bị cho hải quân họ theo quan điểm đổi tiện nghi, trang bị điện tử để lấy ưu thế về tốc độ, vũ khí và dùng những chiến thuyền nhỏ tấn công các chiến hạm lớn.
    Trận chiến Hoàng Sa diễn ra chủ yếu trong lòng của vùng đảo Nguyệt Thiềm, chiến hạm TC nhỏ, nằm sát mặt nước nên rất khó bắn trúng, đồng thời dễ dàng nâng cao độ của hải pháo, tạo thế tấn công hữu hiệu. Hải pháo của chiến hạm VNCH nằm trên cao so với hải pháo TC nên khó xoay trở ở cự ly gần, vận chuyển chậm. Hơn nữa, khi Mỹ chuyển giao các chiến hạm cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa, các trang bị tối tân như pháo 76,2 ly bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm soát (radar control) và khóa mục tiêu (lock-on system) đã bị tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được. Khẩu 127 ly trên các tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa đều phải điều chỉnh bằng tay nên nhịp bắn rất chậm, chỉ hữu hiệu trong việc yểm trợ hải pháo.
  • Đánh giá đúng đắn về cấu trúc và hỏa lực của các chiến hạm Mỹ chuyển giao cho HQVNCH vốn là những chiến hạm cũ từ thời Đệ II Thế chiến, là những loại tàu tuần duyên, hộ tống, yểm trợ, tiếp liệu, trục lôi của Hoa Kỳ chẳng hạn như các chiếc WHEC khi chuyển cho VNCH trở thành những các chiến hạm tuần dương như HQ5, HQ16. Những chiến hạm này không phải là loại tàu có khả năng hải chiến (vì các cơ quan trọng yếu, phòng hành quân, phòng truyền tin nằm trên mặt nước). HQVNCH có 2 tàu chiến (DER) có khả năng hải chiến là HQ1 và HQ4 (các cơ quan trọng yếu, phòng hành quân, phòng truyền tin nằm dưới mặt nước). Nhưng hệ thống bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm soát (radar control), khóa mục tiêu (lock-on system), các giàn phóng phi đạn trên HQ1 và HQ4 đã bị Hoa Kỳ tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được khi chuyển giao cho HQVNCH.
    Theo HQ Trương Văn Liêm, chuyên viên về cấu trúc chiến hạm, phụ tá Hạm phó HQ.5 và là sĩ quan huấn luyện của HQ.5 nhận định: “Về hoả lực và kỹ thuật, chiến hạm chúng ta thua địch nhưng so sánh kết quả trận hải chiến thì ngay vài phút đầu giao tranh, chúng ta đã bắn chìm một tàu và tiêu diệt được bộ chỉ huy trên soái hạm của địch. Kết quả này đúng mong muốn của chúng ta”.
    Tuy hải đoàn tham dự trận hải chiến của hải quân Trung Cộng có lực lượng, cấu trúc của các các chiến hạm tân tiến, có kỹ thuật và hỏa lực vượt trội hơn các chiến hạm tham chiến của HQVNCH nhưng địch phải thất bại trước sự dũng cảm và ý chí chống ngoại xâm mãnh liệt của ngưới lính VNCH (Theo Robert Gardiner – Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982).
    Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH thời ấy đã viết như sau: “Hải Quân Việt Nam được trang bị cho nhiệm vụ chính yếu là tuần tiễu các vùng sông ngòi và ngăn chặn địch quân xâm nhập vào vùng duyên hải, thực sự không phải là đối thủ của một Hải Quân tân tiến như Hải Quân Trung Cộng trong một trận Hải chiến tuy ngắn ngủi nhưng ác liệt tại Hoàng-Sa vào năm 1974”.
  • Có nhiều bài viết và sách báo quốc tế đã bênh vực cho lẽ phải chủ quyền của Việt Nam. Khi bàn luận về Hải lực Thế giới, giới quân sự tin tưởng ở những báo cáo chính xác của “Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982” vì uy tín quá lớn của Ban Biên Tập và Nhà Xuất-bản kỳ cựu hàng mấy thế kỷ qua. Họ tin vào pho sách bàn luận về chiến lược Hải lực Thế-giới “Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982” đã đề cao tinh thần kiên quyết của HQVNCH chống xâm lược. Chủ biên là Robert Gardiner viết rằng: “Không những chiến hạm Việt Nam đã dũng cảm bắn chìm hai tàu địch (271 và 389), gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác (274 và 396) của siêu cường Trung Quốc ngoài Hoàng Sa. Ðổi lại, thiệt hại của HQVNCH rất nhẹ, chỉ có Hộ Tống Hạm HQ-10 bị chìm.”
  • Lực lượng Trung Cộng có đủ hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng tham chiến. VNCH có chiến đấu cơ hiện đại nhất thời đó là loại F5E. Tuy nhiên chiến đấu cơ F5E có tầm hoạt động ngắn, đủ nhiên liệu bay ra Hoàng Sa rồi quay về mà không thể ở lại yểm trợ hoặc chiến đấu và hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa đã từ chối tiếp nhiên liệu cho phi cơ VNCH.
  • Trong bài viết của nhà báo Lữ Giang cho biết tài liệu Hoa Kỳ tiết lộ: Ngày 18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa. Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, Tham mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã hỏi Đại tá Kussan, tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi cơ chiến đấu của VNCH khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được không? Phó Đề đốc Thủy cho biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý, do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi vừa về, nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác chiến được.
    Sau khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, Đại tá Kussan đã trả lời cho Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:
    Lý do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều 4).
    Lý do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu, các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.
    Tuy nhiên, theo lời kể lại cuộc trao đổi sau này giữa Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy và Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại khi gọi điện thoại cho Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, ông Thủy hoàn toàn phủ nhận sự việc đó. Chính Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy nói:” Moa đâu có ngu đễ không biết là phi công mình đâu có đáp hàng không mẫu hạm được và phi cơ phải trang bị cơ phận đặc biệt và Hoa kỳ đời nào tham dự vào trận chiến khi đã rút hết quân khỏi miền Nam! Tôi vì lịch sự không thu lời nói của Phó Đề đốc Thuỷ lúc đó nhưng Tú Gàn và tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cần có bằng chứng hơn là chỉ nghe theo lời kể của vài sĩ quan KQVNCH.”
    Ngày 21/1/2014 trên đài BBC Tiếng Việt, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời với phóng viên nhà báo kiêm đạo diễn Trần Nhật Phong về câu hỏi có thông tin không quân VNCH lúc đó ở thế sẵn sàng để tái chiếm đảo Hoàng Sa nhưng đã không xảy ra việc này, Phó Đề đốc Thoại nói rằng ông “thực sự không nhớ có kế hoạch gì để đưa không quân VNCH ra tái chiếm” và ông cho biết thêm: “Riêng tôi thì tôi không được biết. Những gì trao đổi ở Sài Gòn, nếu có xảy ra, thì không được thông báo. Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân cũng như Tư lệnh Quân khu 1 là Trung tướng Ngô Quang Trưởng với tôi là ba người chỉ huy và chịu trách nhiệm những gì xảy ra ở Quân khu 1 thì tôi không được nghe biết và tôi cũng không nhớ rằng tôi có nghe những kế hoạch nào từ trong Sài Gòn dùng không quân để tái chiếm lại Hoàng Sa. Quyết định đó có thể có và cũng có thể không. Nhưng có một điều tôi biết là Sư đoàn 1 Không quân, phi đoàn khu trục phản lực F5 lúc nào cũng sẵn sàng ở phi trường để cất cánh khi có lệnh để bảo vệ các chiến hạm của Hải quân VNCH.”
    Theo Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh , Tư lịnh Sư đoàn 1 Không quân cho biết F-5 chỉ chiến đấu được khoảng 15 phút, nếu hơn sẽ không đủ xăng bay về khi điện đàm với Phó Đô đốc Thoại (Theo Can trường Trong Chiến Bại, xuất bản tháng 3 năm 2007)
    Tuy tương quan lực lượng bất cân xứng nhưng các chiến hạm VNCH cũng đã gây tổn thất nặng nề cho hải quân Trung Cộng khi đánh chìm 2 chiếc 271 & 389, bắn hư hại nặng 2 chiếc 274 & 396 và tiêu diệt trọn Bộ chỉ huy Tham mưu của hải quân TC trên Soái hạm 274 ngay sau vài phút khai chiến, gây tử thương cho một Đô Đốc Chính trị viên (Tư lệnh phó Phương Quang Kinh) và nhiều sĩ quan cao cấp tham mưu trên Soái hạm, gồm có 7 Đại tá, 10 Trung tá, 2 Thiếu tá, 7 sĩ quan cấp úy tử thương và hàng trăm binh sĩ chết và bị thương. Đây là chiến thắng oanh liệt của HQVNCH trong trận Hải Chiến Hoàng Sa?
  • Theo Đô đốc Kong Zhaonian, sau đó là Phó tư lệnh Hải quân Trung cộng, nguyên tắc chiến thuật không bắn phát súng đầu tiên, thể hiện nổi lo sợ về sự can thiệp của các chiến hạm Hoa Kỳ đang hướng đến quần đảo Hoàng Sa từ Philippines và sẽ làm phức tạp thêm quan hệ ngoại giao Trung-Mỹ. Cho nên Trung cộng đã dàn dựng trận chiến như là một “phản công tự vệ” khi ra lệnh các chiến hạm TC cố tình khiêu khích các chiến hạm HQVNCH. Bắc Kinh không ngờ thủ đoạn này đã làm Hải đoàn (271, 274, 389 và 396) của chúng bị tổn thất nặng nề, coi như hải quân Trung cộng PLAN bại trước hải quân VNCH. Điều này cho thấy Chính trị (quan hệ Ngoại giao) đã ảnh hưởng đến chiến lược của Trung Cộng trong trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974.

II. Sau trận Hải Chiến (ngày 20-1-1974): Dù thất thủ nhưng đã nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của QLVNCH.

  • Dù HQVNCH gây tổn thất nặng nề cho Hải đoàn Hoàng Sa của Hải quân Trung Cộng PLAN nhưng sau đó được lệnh phải rút lui rời khỏi Hoàng Sa trước khi hải quân TC xua một lực lượng hải quân hùng hậu mạnh gấp chục lần HQVNCH gồm hải lục không quân và tàu ngầm xâm chiếm Hoàng Sa. Các hạm đội của TC kéo đến ngay sau khi trận hải chiến chấm dứt và ngày hôm sau đã bắn phá lên các đảo và đổ bộ nhiều đại đội dân quân chiếm một số đảo tại Hoàng Sa (đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa và Quang Ánh). Đội tàu đầu tiên được tập hợp lại trước đảo Hửu Nhật vào sáng 20 tháng Giêng. (Tài liệu của Trung Cộng).
    Lực lượng chiếm Hoàng Sa gồm có hạm đội Hải quân Nam Hải với 2 tàu săn tàu ngầm lớp Hải Nam mang số 281 và 282 thuộc sư đoàn đồn trú ven biển ở Sán Đầu (Shantou), cách gần 9 km tính từ Hải Nam đã tăng tốc đến Đảo Phú Lâm, tiếp nhiên liệu trên dọc đường đi ở Trạm Giang (Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin) để nhanh chóng có mặt tại Hoàng Sa và bắn chìm HQ-10 (trước đó chỉ còn một máy) thành bất khiển dụng và đang bốc cháy.
    Ngoài hạm đội Nam Hải, còn có tàu ngầm lớp Romeo loại 033, bao gồm 157, 158, và 159 có căn cứ tại Ngọc Lâm, Hạm đội phương Đông tăng cường, trang bị SY-1 tên lửa dẫn đường Loại 01 lớp Chengdu và Mao Trạch Đông đích thân ra lệnh cho ba khu trục hạm từ eo biển Đài Loan đến quần đảo Hoàng Sa. (Theo tài liệu của Trung Cộng).
  • Sau khi thăm dò thấy Hoa Kỳ hoàn toàn không can thiệp vào trận hải chiến, Bắc Kinh liền xua quân tiến chiếm Hoàng Sa.
    Quyết tâm chiếm lấy Hoàng Sa vì Bắc Kinh từng nhấn mạnh giá trị chiến lược của quần đảo Hoàng Sa, với “ngồi chắn ngang tuyến thông tin liên lạc đường biển quan trọng”.
    Theo bộ sách bách khoa toàn thư chính thức của hải quân Trung Cộng PLAN “Quần đảo Hoàng Sa phục vụ như là tấm bình phong của thiên nhiên bảo vệ Trung Quốc và cũng là một tiền đồn. Những tuyến đường biển và đường hàng không hướng tới Singapore và Jakarta từ bờ biển Trung Quốc phải đi qua khu vực này, tạo cho nó một vị trí vô cùng quan trọng”. Cách đảo Đông Sa khoảng 660 cây số về phía tây nam, cách bãi ngầm Scarborough 550 km về phía tây, và cách chừng 700 km về phía tây bắc của quần đảo Trường Sa, quần đảo có vị trí quan trọng được xem như một bước đệm cần thiết đối với những hòn đảo khác do Trung quốc tuyên bố chủ quyền trên khắp Biển Đông, mở đường cho “Đường lưỡi bò” (Từ thời Mao trạch Đông và đang được tổng thống không ngai Tập Cận Bình tiếp nối).
  • Sự chênh lệch về sức mạnh hải quân dường như giới quân sự quốc tế ủng hộ VNCH đã gây cho các nhà bình luận Trung Quốc ra sức thần thoại hóa cuộc chiến thắng của Hải Chiến Hoàng Sa. (Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal” của Toshi Yoshihara).
  • Đặc biệt giới quân sự quốc tế quan tâm đến những ký ức khác hẳn những phiên bản Trung cộng về các sự kiện Hải Chiến Hoàng Sa. Hơn nữa, những mâu thuẫn cũng đã tồn tại giữa những tường thuật, mô tả khác nhau của những người lính Trung Cộng từng tham chiến trận đánh đã gây cho giới bình luận đánh giá thấp tài liệu về Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 của Trung Quốc.
    Hải chiến Hoàng Sa 1974 là cuộc chiến do Bắc Kinh kích động nhằm thăm dò phản ứng của Washington đối với biển Đông để đặt nền móng ‘Đường lưỡi bò’ của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình thi hành và Tập Cận Bình đang tiếp tục tiến hành mộng bá quyền trên biển Đông.
    Washington đứng ngoài Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 đã sai lầm trong chính sách về biển Đông thời đó, đưa đến sự lấn áp của một nước lớn (Trung Quốc) đối với các nước nhỏ quanh vùng, dẫn đến những căng thẳng tranh chấp chủ quyền lãnh hải tại biển Đông ngày nay.

III. Kết luận:
Qua những sự thật về Hải chiến Hoàng Sa 1974 được trình bày ở trên cho thấy HQVNCH đã chiến thắng trong trận ‘Hoàng Sa Hải Chiến’ tuy nhiên sau đó không thể bảo vệ được Hoàng Sa trước lực lượng khổng lồ của hải quân Trung Cộng đang kéo đến xâm lược Hoàng Sa.
Kịp thời ra lệnh triệt thoái các chiến hạm VNCH đang tham chiến tại Hoàng Sa về lại Đà Nẵng của Đô Đốc Tư Lệnh HQ Trần Văn Chơn để bảo tồn lực lượng là một quyết định thật sáng suốt và đúng binh pháp.
Các Tử sĩ Hoàng Sa với HQ10 Nhựt Tảo chìm vào lòng đại dương như cột mốc đánh dấu lãnh hải ngàn đời của nước Việt.


PHẦN II

HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974 Đi Vào Lịch Sử Hào Hùng Chống Ngoại Xâm

Như đã trình bày nơi lời tựa Phần I để bài viết mang tính trung thật khi viết về trận hải chiến, người viết mạn phép sử dụng bài viết hay câu chuyện tường thuật của những nhân chứng sống từng tham dự trận hải chiến trong phạm vi trách nhiệm hay trong nhiệm sở của chính họ trên chiến hạm trong lúc giao tranh như của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (sách, bài phỏng vấn, youtube), HQ Đại úy Lê Văn Thự (Trung tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân của BTL vùng 1 Duyên Hải), Thiếu Tá Bộ binh Phạm Văn Hồng (Trưởng toán Công binh của Quân đoàn 1 ra Hoàng Sa), HQ Tr/úy Phạm Ngọc Roa (HQ4), ThS/ GL Lữ Công Bảy (HQ4), HQ Th/úy Nguyễn Văn Qúy (HQ5), HQ Th/úy Phạm Công Minh (HQ5), HQ Tr/úy Hà Đăng Ngân (HQ10), HQ Th/úy Phạm Thế Hùng (HQ10), HQ Tr/úy Nguyễn Đông Mai (HQ10), HQ Th/úy Tất Ngưu (HQ10), HQ Đặng Quốc Tuấn (GL/HQ16) và Nhật ký Hải hành của HQ10 do một nhân viên HQ10 đào thoát gửi cho cô Thanh Thảo, con gái của cố HQ Thiếu tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí (HQ10).

.
I. Diễn biến khởi đầu trận hải chiến

Mùa hè năm 1973, một loạt sự kiện tranh chấp một số đảo tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa VNCH và Trung cộng xảy ra.
Vào tháng Mười, hai tàu đánh cá của Trung cộng (TC), mang số hiệu Nam Ngư 402 và 407, xuất hiện gần nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) và bắt đầu hoạt động ở đó. Các thuyền viên cắm cờ TC trên các đảo mà ở đó VNCH đã kiểm soát từ nhiều thập niên trước.
Tại quần đảo Hoàng Sa (HS) TC cũng đặt một căn cứ tiếp liệu trên đảo Quang Hòa (Duncan), nơi mà VNCH đã đuổi họ hơn một thập kỷ trước.
Ngày 10 Tháng 1 năm 1974, thuỷ thủ đoàn của hai tàu đánh cá TC xây dựng một nhà máy chế biến hải sản trên đảo Hữu Nhật (Robert).
Ngày 11/1/1974, Trung cộng tuyên bố quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa) và bãi cạn Macclesfield thuộc chủ quyền của TC. Ngay lập tức, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Vương Văn Bắc lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ và lên án hành động gây hấn của TC.
Và sau đó hải quân TC liên tiếp xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khi đổ bộ chiếm đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam Tuyền dẫn đến leo thang căng thẳng tại Hoàng Sa lẫn mặt trận ngoại giao cho đến khi cuộc hải chiến bùng nổ.

.
II. Diễn biến những ngày trước trận Hải Chiến

  • Ngày 15-1-1974:
    Sáng sớm ngày 15-1, Tuần Dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 (Trung tá Hạm trưởng Lê Văn Thự) được lệnh rời cảng Tiên Sa – Đà Nẵng đưa phái đoàn Công Binh của Quân Đoàn I ra HS khảo sát và nghiên cứu xây một phi trường trên đảo HS (Pattle) cho loại phi cơ vận tải loại nhỏ có thể đáp và cất cánh như C-130. Trên đảo này có một Trung đội Địa Phương Quân của Tiểu khu Quảng Nam trấn giữ và nhân viên đài Khí Tượng HS. Phái đoàn công binh gồm có Thiếu tá Phạm Văn Hồng, Sĩ quan Lãnh Thổ Phòng 3, Quân đoàn I, làm trưởng phái đoàn, một người Mỹ tên Gerald Kosh, nhân viên Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng, 2 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan công binh. Tổng cộng 6 người.
    HQ16 đến Hoàng Sa vào chiều tối ngày 15-1-1974.
    Khi HQ.16 vừa khởi hành từ Đà Nẵng thì tiểu khu Quãng Nam cho hay địa phương trên đảo báo cáo có vài ghe đánh cá gần bờ đảo Pattle. Tư lịnh V1ZH, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại chuyển ngay tin tức đó đế HQ.16 và chỉ thị HQ.16 khi đến nơi phải đi tuần chung quanh các đảo và báo cáo chi tiết.
    Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal, của Toshi Yoshihara (US Naval War College Review Spring 2016, Vol. 69)” lấy từ tài liệu của TC cho biết TC đã ngụy tạo nguyên nhân dẫn đến trận hải chiến, cho rằng: Ngày 15-1, HQ16 tuần tiễu tại nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) bắt gặp các thuyền đánh cá số hiệu 402 và 407 của TC gần đảo Hữu Nhật (Robert Island), HQ16 ra lệnh cho hai tàu đó rời khỏi khu vực. Sau đó, HQ16 bắn cảnh cáo họ và nã pháo vào đảo Hữu Nhật, làm nổ tung cờ của TC cắm ở đó”.
  • Ngày 16-1-1974:
    Sáng sớm sau khi đưa toán Công Binh lên đảo, HQ16 theo chỉ thị của Phó Đề đốc Thoại đi tuần quan sát quanh các đảo và báo cáo tình hình chi tiết tại Hoàng Sa khi tiểu khu Quãng Nam cho hay địa phương trên đảo báo cáo có vài ghe đánh cá gần bờ đảo Pattle.
    Khoảng 10 giờ sáng ngày 18-1, HQ16 phát hiện trên màn ảnh radar 1 vệt nhỏ đang di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan). HQ16 theo dõi và phát hiện đó là tàu TC ngụy trang đánh cá, sơn mầu xanh lá cây đậm, vỏ bằng sắt, trang bị đại bác 25 ly, HQ16 dùng quang hiệu yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi lãnh hải VNCH, tàu này không trả lời, HQ16 tiến lại gần thì tàu cá TC mới rời khỏi hải phận Hoàng Sa, chạy về hướng Đông-Bắc đảo Quang Hòa. HQ16 quan sát trên đảo Quang Hòa phát hiện đảo này đã bị chiếm đóng, trên đảo có mấy dãy nhà gỗ, có chòi canh vọng gác cao, cắm cờ Trung Cộng, rất nhiều người di chuyển qua lại, đang xây cất thêm doanh trại.
    HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải (BTL/HQ/V1ZH) tình hình tại đảo Quang Hòa như kể trên và nhận được chỉ thị từ BTL/HQ/V1ZH tiếp tục quan sát các đảo khác trong quần đảo HS, ghi nhận các sự kiện sau:
  • Đảo Vĩnh Lạc (Money) vì có nhiều rừng cây cao nên HQ16 quan sát từ phía Tây không thấy được suốt bờ phía Đông của đảo, do đó HQ16 phải đi vòng qua bờ phía Đông của đảo, HQ16 thấy trên đảo cắm nhiều cờ TC.
  • Đảo Duy Mộng (Drummond) và Đảo Cam Tuyền (Robert) không có người, nhưng có cắm cờ Trung Cộng. Riêng đảo Duy Mộng (Drummond) có 2 tàu nhỏ số hiệu Nam Ngư 402 và 407, từ mũi đến lái có trang bị 3 giàn súng, tất cả được phủ lên bằng lưới đánh cá để ngụy trang đang bỏ neo sát bờ. Trên tàu đánh cá ngụy trang có nhiều người mặc áo thun quần đùi và quân phục lính TC. HQ16 dùng đèn quang hiệu, loa phóng thanh cầm tay và cờ hiệu yêu cầu họ rời khỏi hải phận của VNCH, chẳng những họ không tuân hành lại có nhiều hành động khiêu khích.
    HQ16 tiếp tục báo cáo về TTHQ/BTL/HQ/V1ZH và xin chỉ thị. Lập tức Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh HQ/V1ZH) chỉ thị Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 (Trung tá Hạm Trưởng Vũ Hữu San) đang đi tuần vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) lập tức cho tàu về ngay Đà Nẵng để đưa toán Biệt hải và Hải kích (người Nhái của Hải Quân) ra Hoàng Sa, đồng thời HQ-4 tăng cường cho HQ-16.
    9h00 tối, HQ4 rời cảng Tiên Sa-Đà Nẵng đi Hoàng Sa.
    Cùng ngày 16-1-1974 về mặt ngoại giao Ngoại trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để lưu ý tình hình đang căng thẳng nghiêm trọng có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh Việt Nam cũng như quốc tế, xảy ra bởi lời tuyên bố chủ quyền và hành động của Trung Quốc đang diễn ra tại Hoàng Sa.
  • Ngày 17-1-1974:
    Chính phủ VNCH tiếp tục gửi công hàm cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đề nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để ổn định tình hình.
    HQ4 đến Hoàng Sa vào lúc 14h00 ngày 17-1-1974.
    15h00 cùng ngày, HQ16 đến đảo Cam Tuyền, án ngữ tại phía Đông Nam để yểm trợ cho HQ4 đổ bộ 27 biệt hải lên phía Tây đảo Cam Tuyền trong khi hai tàu Trung Quốc 402 và 407 đang ở phía Nam đảo Cam Tuyền.
  • Cùng ngày, sáng ngày 17-1, Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu viếng thăm BTL/V1ZH. Ngoài Tổng Thống Thiệu còn có sự hiện diện của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I và Trung tướng Lê Nguyên Khang, đại diện Bộ Tổng Tham Mưu đã được Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại TL/V1ZH thuyết trình khoảng 45 phút về tình hình bất thường tại quần đảo Hoàng Sa: “Sự xuất hiện tàu TC và dân quân TC trên một số đảo”. Trước khi rời BTL/V1ZH để tiếp tục chương trình thăm viếng Vùng II Chiến Thuật Tổng thống Thiệu ra lệnh cố gắng ban đầu dùng thái độ ôn hòa yêu cầu các tàu và người của TC trên các đảo lập tức rời khỏi lãnh hải của VNCH, nếu cần, có thể dùng cả vũ lực đánh đuổi chúng.
  • Sau khi nhận được báo cáo từ các tàu số 402 và 407 về các hoạt động của Hải Quân VNCH, TC bắt đầu xuất kích lực lượng của mình. Ngày 16-1, hạm đội Nam Hải ra lệnh cho hai tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt số 271 và 274, đến Đảo Phú Lâm càng sớm càng tốt. Hai chiếc tàu này vội vã đến đích của chúng từ căn cứ hải quân Ngọc Lâm (Yulin) trên đảo Hải Nam. Sau khi đón nhận lực lượng dân quân hàng hải vũ trang, đạn dược, tiếp liệu tại đảo Phú Lâm. Vào ngày hôm sau, hai tàu số 271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm. Có 2 phi cơ chiến đấu J-6 (MiG-19, phiên bản Trung Quốc) yểm trợ.
    18h00, HQ4 phát hiện hai tàu Trung Quốc mang số 271 và 274 từ đảo Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu các tàu này rời khỏi lãnh hải VNCH, tàu TC cũng dùng quang hiệu trả lời rằng các đảo này thuộc chủ quyền của họ và yêu cầu chiến hạm VNCH rút lui. Tiếp đó, các tàu này chạy quanh và di chuyển chặn đầu HQ4, bất chấp quy tắc hàng hải quốc tế.
    Trước sự ngoan cố và khiêu khích của tàu Trung cộng, HQ4 dùng mũi ủi ngang hông tàu địch ra xa. Thấy sự quyết liệt của HQ16 & HQ4, tàu địch bỏ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa và thả trôi tại đó.
    Chiều ngày 17/1/1974, HQ 4 cho đổ bộ 20 chiến sĩ Người Nhái lên đảo Vĩnh Lạc (Money), thu dọn cờ Trung Cộng, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa.
    Tối 17-1 (theo Lời kể của HQ Đặng Quốc Tuần, Giám Lộ Tuần Dương Hạm HQ16):
    “HQ16 dùng xuồng đổ bộ 10 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc (đảo Money), do HQ Trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy để phá hủy và gom góp các chứng cớ ngụy tạo, nhổ cờ Trung Cộng và cấm lại cờ VNCH, tổ chức phòng thủ trên đảo. Sau trận hải chiến HQ16, HQ4 và HQ5 nhận được lệnh từ BTL/HQ/V1ZH rời vùng trở về Đà Nẵng bỏ lại toán công binh của Thiếu tá Bộ Binh Phạm Văn Hồng tại đảo HS và 10 nhân viên cơ hữu của HQ16 trên đảo Vĩnh Lạc….”
    (Xem lý do vì sao HQ16 bỏ lại 10 nhân viên cơ hữu trên đảo Vịnh Lạc và cuộc đào thoát 10 ngày đêm gian nguy trên biển trong “Phần 3. Cuộc tấn công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa” phía cuối bài viết).
    Ngày 16-1, chiến hạm HQ5 Trần Bình Trọng (HQ Trung tá Hạm trưởng Phạm Trọng Quỳnh) đang ở Vũng Tàu thì được lệnh ra Ðà Nẵng. HQ5 cập cầu quân cảng Tiên Sa chiều ngày 17-1 và Hạm Trưởng Phạm Trọng Quỳnh lên BTL/HQ/V1ZH họp hành quân và sau đó Hạm trưởng Quỳnh trở về tàu với lệnh Hành Quân Trần Hưng Ðạo 47 do HQ Đại tá Hà Văn Ngạc (Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật trận Hoàng Sa) chỉ huy 2 Hải đoàn Đặc nhiệm và các toán Biệt Hải và Hải Kích của HQVNCH, gồm:
  • Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm I: HQ4, HQ16, HQ5 và HQ10.
  • Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm II: HQ1, HQ6, HQ17, HQ11 (ghi chú: Trận hải chiến xảy ra và kết thúc nhanh chóng trong khi các chiến hạm của ĐN -II còn ở xa, chưa đến Ðà Nẵng, cho nên Hải đoàn này ít được nhắc đến trong trận Hải chiến Hoàng Sa [CHHS]).
  • Và lực lượng Biệt Hải cùng toán người Nhái Hải quân gồm 49 người do HQ Trung úy Nguyễn Minh Cảnh làm trưởng toán.
    Giữa khuya ngày 17-1, HQ10 Nhật Tảo (HQ Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy Văn Thà) và HQ5 Trần Bình Trọng nhận lệnh từ Tư lịnh HQ/V1ZH (Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại) rời quân cảng Tiên Sa đi Hoàng Sa. Trên HQ5 có HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc, HQ5 trở thành Soái hạm. HQ5 ra đến Hoàng Sa vào khoảng 3 giờ chiều ngày 18-1.
  • Về phía Trung cộng, 2 tàu săn tàu ngầm K271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm vào tối 17-1 và đổ bộ bốn tiểu đội dân quân vũ trang (mỗi tiểu đội mười thành viên) vào các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, và Quang Hòa Tây vào lúc xế nửa đêm rạn ngày 18 tháng 1. Đồng thời, hai tàu quét mìn xa bờ Loại 010 có căn cứ ở Quảng Châu, số hiệu 389 và 396, chạy đến quần đảo Hoàng Sa để tăng cường cho 2 chiếc 271 và 274 (Theo tài liệu của TC)
    Ngày 18-1
  • Sáng 18-1 theo yêu cầu của Đại Tá Ngạc toán công binh trên HQ16 được chuyển sang HQ5. Đến chiều tối 18-1, toán công binh lại được đưa lên đảo Hoàng Sa để tránh cuộc hải chiến có thể xảy ra bất cứ lúc nào (Theo Thiếu tá Phạm văn Hồng, trưởng toán công binh cho biết sự kiện đưa toán công binh trở lên đảo HS là yêu cầu của Gerald Kosh, nhân viên Sứ quán người Mỹ? Và khoảng 1 giờ trưa ngày 19-1, toán công binh cùng các nhân viên đài khí tượng và trung đội Địa Phương quân bị quân Trung cộng bắt làm tù binh đưa về Quảng Châu. Trong toán bị bắt về có HQ Trung úy Lê văn Dũng, trưởng toán Hải kích bị bắt trên đảo Cam Tuyền khi đổ bộ từ HQ4 lên đảo. Sau đó chúng chuyển tù binh VNCH về trại tù Thu Dung, huyện Huyền Hóa tỉnh Quảng Châu…).
  • Lúc 4h30 một trong bốn tàu Trung Quốc rời đảo Quang Hòa tiến về HQ4. Nhưng sau khi HQ4 tăng tốc tiến đến chặn đầu tàu địch thì tàu này rút lui về phía đảo Quang Hòa. (Theo tài liệu TC)
  • 8h45, HQ16 phát hiện thêm một tàu TC di chuyển phía Đông Nam đảo Duy Mộng. Trên đảo đã thấy cờ Trung Quốc.
    Khoảng 10h sáng, 4 chiến hạm TC lại xuất hiện, gồm 2 chiếc Kronstadt 271 và 274 và 2 chiếc khác mang số 389 và 396. Cả 4 chiến hạm TC đều di chuyển cản đường và chia cắt đội hình vận chuyển của các chiến hạm VNCH. Hành động khiêu khích này của các tàu TC đã gây ra những va chạm thân tàu của hai bên:
  • HQ16 và K-271 va chạm 2 hông tàu với nhau.
  • HQ4 đụng mũi vào hông sau của tàu T-389, làm gãy mấy trụ giây an toàn của tàu này.
    Sau sự va chạm các chiến hạm của ta và địch, 4 chiến hạm TC cùng di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan) và thả trôi ở đó, nơi có 2 tàu cá ngụy trang NG-402 và 407.
  • 10h30, HQ4 hoàn tất đổ bộ toán 15 nhân viên cơ hữu lên tăng cường giữ đảo Cam Tuyền và rút tất cả toán biệt hải trở về chiến hạm. Trong khi tàu TC mang số hiệu 407 tiến đến khiêu khích HQ16.
  • 15h00 cùng ngày, Đại tá Hà Văn Ngạc và HQ5 đến Hoàng Sa. Sau đó Hải đoàn gồm HQ4, HQ5 và HQ16 tiến về Quang Hòa với hy vọng có thể đổ bộ toán hải kích lên đảo thì gặp hai tàu K-271 và K-274 tiến tới chặn đường. Hai bên liên lạc quang hiệu, xác nhận Hoàng Sa là lãnh hải của mình và yêu cầu phía đối phương phải rời ngay lập tức. Với hành động cố tình khiêu khích, chặn đường có thể gây nguy hiểm đụng tàu, các chiến hạm VNCH tạm thời lui về phía Nam đảo Hoàng Sa chờ HQ10 nhập vùng và tiếp tục theo dõi các chiến hạm TC.
  • 19h15, HQ5 phát hiện thêm hai chiến hạm TC loại T43 cải biến mang số 389 và 396.
  • 20h00, HQ10 Nhật Tảo nhập vùng (HQ10 và HQ5 cùng khởi hành từ cảng Tiên Sa – Đà Nẵng đi HS vào giữa khuya 17-1. Nhưng HQ10 trong tình trạng chiến hạm đang chuẩn bị về Saigon sau chuyến công tác dài hạn tại vùng 1 duyên hải và HQ10 chỉ còn một máy chánh (còn một giò) nên tốc độ vận chuyển rất chậm, phỏng định khoảng 10 knots/g, cho nên HQ10 đến Hoàng Sa vào lúc 10 giờ tối ngày 18-1.
  • 23h00 HQ Đại tá Hà Văn Ngạc nhận lệnh từ trung tâm Hành quân (TTHQ) tái chiếm đảo Quang Hòa một cách ôn hòa. Đại tá Ngạc liền chia hải đoàn ra làm hai Phân đoàn đặc nhiệm chuẩn bị hành quân vào sáng 19-1: Phân đoàn 1 gồm HQ4 và HQ5 có mặt tại phía Nam và Tây Nam đảo Quang Hòa để đổ bộ hai toán hải kích và biệt hải. Phân đoàn 2 gồm HQ10 và HQ16 do HQ Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy với nhiệm vụ giữ nguyên vị trí trong lòng vùng đảo Nguyệt Thiềm để yểm trợ cho việc đổ quân của HQ4 và HQ5. Lệnh còn nhấn mạnh rằng: “Nếu cuộc đổ bộ không thành thì các chiến hạm sẽ dùng hỏa lực tiêu diệt các chiến hạm của địch trước khi đổ bộ thanh toán quân TC trên các đảo”.
    Đêm 18-01-1974 các chiến hạm VNCH nhận lệnh làm tối chiến hạm (darken ship) chờ sáng sớm hôm sau (19-1) xuất quân. Một đêm trôi qua một cách yên lặng.


III. Ngày 19-1 – Trận hải chiến bùng nổ

  • 1. Tình hình vài giờ trước khi hải chiến bùng nổ:
    Khoảng gần sáng có hai lần 2 phi cơ địch (MiG 19, theo tài liệu của TC) bay ngang vùng HS (Theo HQ Trung úy Nguyễn Đông Mai và HQ Thiếu úy Tất Ngưu, sĩ quan của HQ10 xác nhận trong bài viết của hai tác giả).
  • Sáng ngày 19-1, HQ4 đổ biệt hải và Người Nhái hải quân lên đảo Duy Mộng.
  • 7h30 sáng, 30 hải kích trên HQ5 đã đổ bộ lên đảo Quang Hòa và tiến sâu vào đảo khoảng vài chục mét thì bị lính TC trên đảo dàn ngang chận lại. Hai bên dằn co gần cả tiếng đồng hồ. Càng lúc lính TC càng đông và đẩy lùi toán hải kích VNCH trở lui về bờ biển, nơi vừa đổ bộ. Thấy tình hình gay go trên đảo, Đại tá Ngạc ra lệnh toán Người Nhái của Trung úy Lê Văn Đơn đổ bộ lên phía bờ Đông của đảo. Toán người Nhái của Trung úy Đơn đang khó khăn vượt qua cái đầm để tiến vào bãi biển thì lính TC trên đảo nổ súng làm HQ Trung úy Lê Văn Đơn và Hạ sĩ Nhất người Nhái Đỗ Văn Long (Long Sandwich) trúng đạn tử thương tại chỗ và 3 Người Nhái khác bị thương. Đại tá Ngạc thấy tình hình đổ bộ Biệt hải và người Nhái lên đảo trở thành tấm bia đạn cho lính TC tác xạ từ trên đảo, cho nên ông báo cáo về TTHQ xin lệnh rút Biệt Hải và Người Nhái trở về chiến hạm, ngoại trừ xác của hạ sĩ Nhất Đỗ Văn Long không mang được về tàu. (Theo lời kể của Thượng sĩ Giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ4)
    Trong khi từ phía Bắc đảo, lính TQ ồ ạt đổ quân lên đảo, trong khi HQ4 và HQ16 báo cáo không thể đổ bộ quân lên đảo được.
    Trên mặt biển đã thấy HQ16 và HQ10 đang tiến về phía Tây Nam đảo Quang Hòa, theo sau là 4 tàu chiến TC đang tiến vào đội hình chiến hạm của HQVNCH.
  • Khoảng 9h45 hai tàu 271 và 274 tiến đến HQ4. Các nòng súng đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly của tàu địch trực thẳng vào HQ4.
    Theo tường thuật của HQ Đại úy Lê Văn Thự, Trung tâm Trưởng trung tâm Hành quân BTL/HQ/V1ZH:
    “Cũng trong lúc này, từ Đà Lạt Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại về TTHQ/HQ/VIDH hỏi :
  • Tình hình Hoàng Sa như thế nào?
    Tư Lệnh HQ/V1ZH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trực tiếp với Tổng Thống Thiệu:
  • Chúng ta đổ bộ lên đảo có quân TC đã bị địch kích trên đảo nổ súng làm cho 2 chiến sĩ Người Nhái tử thương.
    Nghe tin xấu này Tổng Thống Thiệu hỏi tiếp:
  • Như vậy Hải Quân đã phản ứng gì chưa?
    Tổng thống ra lệnh cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại toàn quyền dùng tất cả biện pháp cứng rắn thích ứng đối với địch (TC). Nếu cần, dùng cả vũ lực để chứng minh cho Trung cộng biết rằng đây là lãnh hải của VNCH và nhất định không để mất một tấc đất vào tay giặc.”
    Theo Phó Đề đốc Thoại cho biết với câu hỏi ngắn gọn và lệnh sau cùng của Tổng Thống Thiệu như trên đã đưa Phó Đề đốc Thoại đến quyết định khai hỏa, mặc dù ông nhìn thấy được tương quan bất cân xứng giữa hai lực lượng tham chiến: phía VNCH chỉ có 4 chiến hạm tham chiến và 4 chiến hạm khác đang trên đường ra HS tiếp ứng phải đương đầu với lực lượng hùng hậu của Trung cộng có đủ tất cả lực lượng hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng tham chiến của Hạm đội Nam Hải.
    Do đó, đúng 10 giờ sáng ngày 19-1-1974 Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho Đại Tá Ngạc nổ súng trước để đánh phủ đầu địch, chiếm ưu thế và tránh nhiều tổn thất . (Lệnh này đã đưa đến kết qủa Hải quân VNCH đánh bại 4 chiến hạm TC sau 30 phút giao chiến và kịp thời rút lui trước khi Hạm đội Nam Hải kéo đến).
    Nhận được lệnh khai hỏa từ Tư lịnh Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại Tá Ngạc lập tức khai triển chiến thuật tấn công phủ đầu: HQ 10 sẽ tác xạ lên đảo Quang Hòa có quân TC để làm hiệu lệnh cho HQ4, 5 và HQ16 tác xạ thẳng vào các chiến hạm địch.
    Đúng 10h25, Đại tá Ngạc ban lệnh khai hỏa. Trận hải chiến bùng nổ ác liệt…..
  1. Cuộc tấn công của Phân đoàn 1 gồm HQ5, HQ4 diễn ra ở phía Tây Nam đảo Quang Hòa:
    Tàu của VNCH đã tìm cách giữ khoảng cách, nhưng tàu TC nhanh chóng tiến đến từ vài ngàn mét đến hàng trăm mét. Tàu địch 271 và 274 tập trung hỏa lực vào HQ-4, trong khi hai chiếc 396 và 389 tấn công HQ-16. Các đơn vị hải quân TC (PLAN) nhắm vào các thiết bị thông tin liên lạc, radar và đài chỉ huy nhằm bịt mắt và phá hoại những liên lạc của đối phương. Trong hỏa lực dử dội bắn lẫn nhau, HQ-4 bắt đầu bốc khói… (Theo tài liệu TC)
  • HQ4 trong khoảnh khắc tử chiến hạm, Hạm trưởng Vũ Hữu San cho tàu vận chuyển linh hoạt theo hình chữ chi (Z) nên tránh được nhiều loạt hải pháo của địch. Tuy nhiên có một trái đạn 100 ly của tàu địch bay lọt vào ống khói nổ tung làm mảnh đạn văng vào đài chỉ huy làm HQ Trung úy Roa bị thương nơi chân. Các mảnh đạn khác phá sập màn hình radar. Dây liên lạc các ổ hải pháo bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được. (Theo HQ Nguyễn Đông Mai trên HQ10 tường thuật)
    Phía tàu chiến TC cũng bị thiệt hại nặng. Trong làn đạn 76,2 ly của HQ4 và 127 ly của HQ5, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội và chìm. (Tuy Trung cộng lúc bấy giờ dấu diếm thiệt hại nhưng gần đây có vài youtube từ Trung cộng tiết lộ vài sự thật khi lvài đài truyền hình làm các cuộc phỏng vấn nhân chứng sống, từng là những người lính TC tham chiến HCHS)
    Sau ít phút giao tranh, hải pháo 76,2 ly của HQ4 ở sân mũi gặp trở ngại và phải chờ sửa chữa. Tuy vậy, HQ4 vẫn tận dụng hỏa lực còn lại, tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm đại liên.
  • 10h40, khẩu 76,2 ly của HQ4 ở sân lái sau bị hỏng bộ phận tự động nên phải điều chỉnh bằng tay, bắn từng phát một nặng nề và chậm chạp. Lập tức Đại tá Ngạc đã ra lệnh cho HQ4 rút lui khỏi vòng chiến để sửa chữa và chỉ thị HQ5 yểm trợ cho HQ4 rút ra xa. Thấy hoả lực chính của HQ4 bị trở ngại tác xạ, tàu TC 274 bám theo HQ4 thì bị HQ5 cắt đuôi HQ4 chận tàu 274 của địch.
    Những khối cầu lửa từ mũi HQ 5 bắn ra từ đại bác 127 ly bay thẳng vào 274. Ngoài chiếc 271 đang bốc cháy, đang chìm lại thêm chiếc 274 trúng đạn sau lái làm 274 loay hoay rồi quay ngang lãnh đủ hàng loạt đạn đại liên từ HQ4, 274 bốc cháy và dạt vào bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa. (Theo HQ Lữ Công Bảy, ThS Giám lộ trên HQ4 kể)
    HQ4 tuy bị trúng nhiều đạn nhưng máy móc chính và hệ thống truyền tin vẫn điều khiển tốt.
    Phòng truyền tin của HQ5 bị trúng 2 trái đạn 100 ly làm hư hại máy siêu tần số không còn liên lạc được và máy truyền tin trên đài chỉ huy cũng bị trúng đạn bể nát, Đại tá Ngạc phải vào Trung tâm chiến báo (CIC) dùng máy VRC46 để chỉ huy.
  • 11h00, chiếc 274 của TC được chiếc 389 tiếp trợ, hợp lực quay lại tấn công HQ5. Một mình đối đầu với 2 tàu địch (274 và 389), HQ5 bị “thương” nặng, ụ tháp hải pháo 127 ly bị trúng đạn. Tuy HQ5 bị trúng nhiều đạn nhưng phản công dữ dội khiến tàu địch thiệt hại nặng phải chùn lại. Soái hạm K-274 bị hư hại nặng, toàn bộ Bộ Chỉ huy Mặt trận của TC bị tử thương (Trong đó có Phong Songbai, Tư lệnh phó Mặt trận, kiêm Chính trị viên thiệt mạng).
    Trong khi đó, chiếc 389 sau những đòn bị bắn trúng trực diện, 389 rơi vào tình trạng nguy ngập. Con tàu bị đánh cho tơi tả, lật nghiêng một cách nặng nề và thuỷ thủ đoàn của nó không thể dập tắt lửa. Bất chấp nguy cơ của một vụ nổ, hai tàu đánh cá 402 và 407 với sự yểm trợ hỏa lực yếu ớt giúp tàu quét thủy lôi 389 bị hư hại nặng ủi vào bãi đảo Vĩnh Lạc. (Theo vài video tài liệu của Trung cộng)
    Nhận được lệnh rút lui từ Trung tâm Hành quân, với tình trạng HQ10 bất kiển dụng, HQ16 bị nước vào hầm máy, tàu nghiêng, HQ4 và HQ5 trúng nhiều đạn chỉ còn hỏa lực rất hạn chế, Chỉ huy trưởng Hải đội Đặc nhiệm Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 cùng HQ4 rút về hướng Đông Nam. HQ4 có 2 nhân viên tử thương: HQ Th/úy Nguyễn Phúc Xá (Trưởng khẩu 20 ly), HS1/VC Bùi Quốc Danh (Xạ thủ) và Biệt hải Nguyễn Văn Vượng (Xung phong tiếp đạn). Và HQ5 cũng có 3 nhân viên thương vong: HQ Tr/uy Nguyễn Văn Đồng, ThS/TP Nguyễn Phú Hào và TS1/TP Vũ Đình Quang.
  1. Cuộc tấn công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa:
    Đúng 10h25, HQ Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải quân TC tại Hoàng Sa. HQ16 và HQ10 đứng yên, mọi ổ súng lớn, nhỏ từ mũi tàu ra sau lái đều nhắm bắn vào tàu địch. Hải pháo giữa chiến hạm hai bên nã đạn trực tiếp không ngừng.
    Sau một hồi giao tranh, hai chiếc 396 và 389 bỏ chạy khỏi HQ-16 và sau đó quay vào tấn công HQ10.
    HQ-16 đối đầu rất ác liệt với tàu địch. Hạm trưởng Thự cho chiến hạm quay ngang đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba tàu địch để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Tuy nhiên bị bất lợi là HQ16 hứng nhiều đạn của đối phương. Sau một hồi giao tranh ác liệt HQ16 bị trúng đạn ở hầm đạn 127 ly phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống. Hỏa lực chính bất khiển dụng. Sau đó từ hầm máy HQ16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu phía hầm máy bên hữu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu. HQ16 bị nghiêng 15 độ đến 20 độ. (Do trái đạn 127 ly từ HQ5 bắn lạc xuyên qua lườn và chui vào hầm máy. May mắn viên đạn không nổ). Từ lúc này, HQ-16 chỉ còn một máy, sức mạnh tác chiến yếu hẳn. Hệ thống vô tuyến cũng tê liệt vì máy phát điện hư. Nhận thấy HQ16 mất khả năng chiến đấu, Hạm trưởng Thự cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo với 2 chiến sĩ thương vong: TS/ĐK Trần Văn Xuân và HS/QK Nguyễn Văn Duyên.
    HQ16 bi hư hại nặng và nghiêng 20 độ nên không thể tiến vào đảo đón toán công binh của Thiếu tá Hồng trên đảo Hoàng sa và 10 nhân viên cơ hữu của HQ16 đổ bộ lên đảo, nên Hạm trưởng HQ16 Lê Văn Thự lên máy truyền tin PRC-25 giao toàn quyền quyết định toán nhân viên cơ hữu HQ16 còn kẹt trên đảo cho trưởng toán HQ Trung úy Liêm. Trước hỏa lực qúa mạnh của tàu địch bắn phá vào đảo để dọn đường cho bộ binh đổ bộ chiếm đảo, tối ngày 20-1 trung úy Liêm quyết định rời khỏi đảo trên xuồng cao su. Sau 10 ngày trôi trên biển được ngư phủ người Việt vớt tại Mũi Yến ở Qui Nhơn đưa vào quân cảng Qui Nhơn và được chuyển đến Quân Y viện Qui Nhơn cấp cứu. Lúc 3h00 chiều quản kho Nguyễn văn Duyên đã từ trần khi được ngư phủ Đà Nẵng cứu vớt lên ghe.
    HQ10 (dựa theo tường thuật của HQ Trung úy Nguyễn Đông Mai và HQ Thiếu úy Tất Ngưu thuộc nhân viên HQ10):
  • 3h50 sáng ngày 19-1, nhân viên đã sẵn sàng và đầy đủ ở nhiệm sở tác chiến.
  • 4h30 và 5h30 có 2 phi cơ bay ngang vùng ở cao độ và lúc 6h00 lại có 2 phi cơ bay ngang, nhưng lần này bay thật thấp (MiG 19 của TC). Tất cả các họng súng 76.2ly, bô-pho 40ly, 20ly, đại liên 30 trên HQ10 bám sát 2 phi cơ lạ cho đến khi chúng mất hút ở xa tầm nhìn.
    Khoảng thời gian từ 4 giờ khuya đến 6 giờ sáng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời chưa sáng hẳn, hải đoàn của VNCH lập thành đội hình. Bên địch (Trung Cộng) gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại khiêu khích, có lúc tàu địch như muốn đâm thẳng vào chiến hạm của VNCH. Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để tấn công nhau.
    Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng từ xa, các tầu đánh cá ngụy trang di chuyển về phía Bắc và bốn chiến đỉnh của địch vận chuyển song song để bảo vệ.
    Bấy giờ các ổ súng trên HQ10 nhận được lệnh chuẩn bị tác xạ vào các tàu địch từ hạm trưởng. Lệnh của hạm trưởng Thà: “Bất kể nơi nào, thấy tàu địch nào trong tầm thì cứ bắn”, mục tiêu chính của HQ10 là chiếc T-396. Những chiếc hạm của ta và địch tiếp tục quần thảo nhau trong tư thế sẵn sàng tác xạ.
  • 10h25 nhận được lệnh khai hỏa từ Đại Tá Ngạc, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà HQ10 lập tức ra lệnh các ổ súng trên tàu tác xạ tới tấp vào tàu địch. Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch. Một chiến hạm của địch bốc cháy.
  • HQ16 rút xa ra khơi, chiếc 396 quay trở lại dồn nỗ lực để tấn công HQ10. Lợi dụng sự bất lợi về vận chuyển và hỏa lực yếu của HQ10, 396 và 389 của TC tấn công tới tấp vào HQ10. Mười phút sau Đài chỉ huy và phòng lái của HQ10 trúng đạn làm Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và hầu hết các sĩ quan, hạ sĩ quan và nhân viên ngành giám lộ và vận chuyển có mặt trên đài chỉ huy và phòng lái đều tử trận, ngoại trừ Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
    Ngoài đài chỉ huy và phòng lái, hầm máy và kho đạn cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen bốc mịt mù khắp con tàu. Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, không bỏ lỡ cơ hội HQ10 bị “trọng thương”, 389 của TC tiến vào phía sau lái phải của tàu HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào mình, HSI/VC Lê Văn Tây (xạ thủ pháo 20ly) và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn) không nao núng, tiếp tục ghì nồng súng 20 ly bắn xối xả vào 389.
    HQ10 và 389 sát với nhau rơi vào tình trạng cận chiến. Lính TC trên tàu T-389 ném lựu đạn, bắn tiểu liên cầm tay tới tấp vào HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại.
    Tuy trúng nhiều đạn và thiệt hại nặng nhưng HQ10 không nao núng dùng hải pháo 20 ly, đại liên, phóng lựu M79 và M16 nã đạn ác liệt vào tàu 389 của địch làm nó bốc cháy, khói đen mù mịt.
    “Rầm!!!” HQ10 đâm mạnh mũi tàu vào sau lái 389 của tàu địch làm nó loay hoay dạt ra xa không điều khiển được. Đồng thời bị trúng thêm đạn, 389 bốc cháy, xoay vài vòng rồi dạt vào bãi san hô Tây Bắc đảo Duy Mộng. HQ10 cũng bị thiệt hại nặng nề, hai máy bất khiển dụng, tàu bốc cháy và trôi lình bình trên biển…
    11h10, HQ16 trong tình trạng nguy kịch được lệnh rời khỏi vùng. Vì tàu trúng nhiều đạn và tàu nghiêng 20 độ có cơ nguy bị chìm nên không thể tiếp cứu HQ10 được, đành bỏ lại HQ10. Trong khi hầm máy HQ10 đang bốc cháy, kho đạn nổ, tàu vô nước sắp chìm. Hạm phó Nguyễn Thành Trí ra lệnh cho nhân viên đào thoát trước khi hai chiếc 281 và 282 của TC đến từ hạm đội Hải Nam tấn công HQ10 ba lần cho đến khi HQ10 chìm hẳn vào lúc 3 giờ chiều, mang theo thân xác của Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và 54 chiến sĩ hải quân VNCH chìm vào lòng đại dương. (28 người đào thoát và sau đó Hạm phó Nguyễn Thành Trí và 8 nhân viên lần lượt qua đời trên bè đào thoát hoặc trên Tầu Hòa Lan.
    Sau 4 ngày 3 đêm nằm bè trôi dạt trên biển được thương thuyền Kopionella của Hoà Lan cứu vớt và đã thực hiện nghi thức thủy táng Hạm phó Nguyễn Thành Trí).
  • Theo tài liệu TC: Hải quân PLAN – Hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân (Hải đoàn đang tham chiến) đã phải cầu viện đến Hạm đội Nam Hải với hai tàu săn tàu ngầm lớp Hải Nam, số 281 và 282, thuộc sư đoàn đồn trú ven biển ở Sán Đầu (Shantou), cách gần chín trăm cây số tính từ Hải Nam. Hai chiến hạm này tăng tốc đến Đảo Phú Lâm, tiếp nhiên liệu trên dọc đường đi ở Trạm Giang (Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin) để nhanh chóng có mặt tại Hoàng Sa trước khi hạm đội Nam Hải đến sau đó.
  • Có bài viết HQ10 đâm vào tàu địch 389 là do Hạm phó Nguyễn Thành Trí, mặc dù ông đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên khi đoán được ý định của giặc muốn tràn lên tàu. Từ phòng lái, Hạm phó Trí đã dùng M16 nhả một loạt đạn vào tàu địch và chờ tàu địch vào đúng vị trí mong muốn, Hạm Phó Trí cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm mạnh vào hông lái của T-389. Quá bất ngờ trước hành động quyết tử của HQ10, chiếc 389 không kịp phản ứng tránh né nên bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu huyệt của chiến hạm là phần sau lái.
    Tàu địch T-389 bị HQ10 đâm mạnh làm cho nó ngã nghiêng, cộng thêm những hư hại do đại pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy khốn, tàu bất khiển dụng, bốc cháy, sắp chìm, khiến 396 của địch phải ngưng đối đầu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu 389. Bị hoả lực tập trung của HQ16 và HQ10 đã đưa 396 rơi vào tình trạng hư hại nặng và bốc cháy. Vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang Nam Ngư 402 và 407 phía sau bất chấp 389 đang bốc cháy, có thể nổ tung đã chạy đến tiếp cứu, đưa 389 ủi vào bãi Vĩnh Lạc dưới sự yểm trợ hỏa lực yếu ớt của 396.
  • Theo Hồi ký của HQ Đại úy Lê Văn Thự – Trung tâm Trưởng Hành quân Vùng I Duyên Hải:
    “Vào lúc giữa trưa ngày 19-1, Tư Lịnh Hải Quân Đề Đốc Trần Văn Chơn vào TTHQ/VIZH nghe HQ5 báo cáo kết qủa sơ khởi ngay khi HQ10 bốc cháy. Đồng thời cũng trong thời gian này, Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Đà Nẵng gọi qua TTHQ khuyến cáo nên ra chỉ thị cho các chiến hạm của VNCH trở về Đà Nẵng lập tức vì hạm đội hải quân của Trung cộng đang kéo đến có cả tàu ngầm, hỏa tiễn, phi cơ MIG 19 đang cất cánh từ đảo Hải Nam.
    Được tin này và để tránh tổn thất vô ích cho HQVNCH Đề Đốc TL/HQ Trần Văn Chơn ra lịnh HQ4, HQ5 và HQ16 rời HS trở về Đà Nẵng”.
  • Dưới đây là những diễn biến chính của HQ10 được trích từ bài viết HQ Th/úy Tất Ngưu, Sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20ly và súng cối 81ly ở sân sau HQ10:
    “Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết cháy dưới hầm máy. Những nhân viên bị thương, sống sót được đưa lên boong tàu.
    Tình trạng HQ10 lúc này lâm vào tình trạng vô cùng bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có HQ Trung úy Huỳnh Duy Thạch, cơ khí trưởng của HQ10, hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, hai máy chính và máy điện cũng như hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không còn sử dụng được.
    Lúc này nhân viên Phòng Tai báo cáo không dập tắt nổi ngọn lửa và nước đang vào các hầm máy. Trước tình trạng tuyệt vọng của HQ10 Hạm phó Trí từ đài chỉ huy bò xuống sân tàu ra lệnh cho nhân viên đào thoát. Ông lết đến từng ụ súng thúc giục nhân viên xuống bè. Khi tất cả nhân viên đã xuống 5 bè, đại úy Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại tàu cùng với những nhân viên khác từ chối đào thoát ở lại quyết tử với tàu địch. Trong số nhân viên cương quyết ở lại tàu không chịu đào thoát có HSI/VC Lê Văn Tây (xạ thủ) và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn). Hai anh đang ghì hải pháo 20 ly sau lái bắn xối xả vào tàu địch.
    Bất chấp từ chối đào thoát của Hạm phó Trí, hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long nhất định cặp và lôi ông xuống bè.
    Tình trạng các bè cũng rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của đại úy Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng đại úy Trí vẫn còn tỉnh táo, ông ra lệnh kết các bè lại với nhau để các bè tựa nhau nổi trên mặt biển và tránh bị trôi dạt xa nhau. Tổng số nhân viên đào thoát trên 5 chiếc phao có 28 người cho đến khi được tầu Hòa Lan vớt.
    Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói mù mịt. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong. HQ16 cách HQ10 không xa lắm, nhưng HQ16 nghiêng một bên và đang cố gắng vận chuyển thật chậm rời khỏi lòng chảo. Tình huống nguy ngập của HQ16 khó lòng tiếp cứu HQ10 hay vớt người được. Về phía Trung cộng, 271 chìm ngay phút đầu nổ súng và 3 chiếc hạm còn lại cũng đang bốc cháy, hư hại nặng phải ủi bãi.
    Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi chúng đến gần thì ra là hai tàu chiến TC mang số 281, 282 của TQ tăng viện. Khi 281 và 282 đến nơi thì 271 đã chìm, 3 chiến hạm của TC còn lại đang bốc cháy và vô nước sắp chìm, ủi bãi cạn.
    12h12 khi 281 và 282 tiến gần HQ10 thì khẩu hải pháo 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ lại nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly của HQ10 im bặt. Có lẽ HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã tử thương.
    14h52 mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng 281 và 282 vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh trên biển cho đến khi HQ10 chìm hẳn tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope Reef) khoảng 2.5 km.
    Bắn chìm HQ 10 xong, hai chiếc 281 và 282 quay lại tiến gần đến các bè đào thoát, chúng chạy quanh các bè 2 vòng rồi bỏ đi.
    Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có đại úy Trí bị đứt dây tách ra khỏi nhóm.
    Tiếp theo sau Hạm phó Trí hy sinh, có thêm 8 chiến sĩ lần lượt hy sinh ngay trên bè vì vết thương quá nặng hoặc đuối sức vì thiếu nước và thực phẩm trước khi được tàu Hoà Lan cứu. Tất cả đều được đồng đội làm lễ Thủy táng.
  • Ngày 22-1 lúc 6h30 chiều khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì đúng lúc tàu dầu Kopionella của hãng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã phát hiện các bè đào thoát và vớt tất cả 19 người thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông. (Vì hành động nhân đạo này, vị Thuyền Trưởng và thủy thủ đoàn đã được chính phủ VNCH trao tặng huy chương Nhân Dũng Bội Tinh)
    Như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển 4 ngày 3 đêm và họ đã đón giao thừa Tết Giáp Dần 1974 trong cơn sốt mê man vì kiệt sức trên thương thuyền Kopionella của Hoà Lan”. (HQ Thiếu úy Tất Ngưu)

Tưởng Niệm Tử Sĩ Hải Chiến Hoàng Sa năm thứ 45,
Portland, ngày 10 tháng 01 năm 2019
HQ. Phạm Quốc Nam









2018 Portland Veterans Day Parade – 44th Annual

HÌNH ẢNH CQN VNCH DIỄN HÀNH LỄ C ỰU CHIẾN BINH HOA KỲ TẠI PORTLAND OREGON

.

Slide show

………………………………….

More Photos By Mary Nguyen 

MORE PHOTOS AT MARY NGUYEN’S ALBUM

Cách tự sát của con rồng dậy non

Nguyễn Vĩnh Long Hồ
Một ngày cuối tuần, lang thang trên các trang WEB, tôi tình cờ đọc được bài viết với tựa đề: “Cách tự sát của một siêu cường” (This is how a superpower commits suicide) đăng trên báo Washington Post ngày 13/11/2017. Người dịch Huỳnh Hoa, nguồn viet-studies.net.

VIET-STUDIES | Trần Hữu Dũng
Tran Huu Dung; Trần Hữu Dũng; Nguyễn Ngọc Tư; Phan Khôi; Trần Đức Thảo; viet-studies.org; viet-studies.info

Richard Javad Heydarian là một tên tuổi lớn là cây bút chuyên về địa lý chính trị châu Á. Ông từng dạy khoa học chính trị tại ĐH De La Salle và Ateneo De Manila, đồng thời là nhà tư vấn chính sách cho Hạ viện Philippines. Ông cho rằng: “Trong chuyến công du chính thức đầu tiên của TT Donald Trump tại châu Á, sự giảm sút nhanh chóng quyền bá chủ kéo dài nhiều thập niên của Hoa Kỳ ở khu vực này đã trở nên rõ ràng…tác động có tính chất phá hoại vị thế của Hoa kỳ ở châu Á trong nhiệm kỳ tổng thống đầy giông bão của ông Trump. Cả các đồng minh và đối thủ trong khu vực đều bị xáo trộn bởi chính sách đối ngoại “tân biệt lập” (neo-isolationist) theo mô hình “Nước Mỹ trên hết” của ông Trump và sự hấp tấp rút khỏi “Hiệp định thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã làm cho Mỹ bị cô lập ngay cả với các đồng minh gần gũi nhất.”

Hồi đầu năm nay, một quan chức từ một “đối tác” quan trọng của Mỹ nói với Richard J. Heydarian rằng: “Liệu có phải đây là một cách siêu cường tự sát hay không?” Câu trả lời coi như là “PHẢI”.
Nhưng, tôi cho là “KHÔNG PHẢI!”. Vì vậy, tôi viết bài này: “Cách tự sát của con rồng dậy non” để phản bác bài viết kể trên của ông Riachard J. Heydarian.

Nói theo “Kinh dịch”, Tập Cận Bình” hiện đang rơi vào quẻ “Khang Long Hữu Hối” mà nghĩa của nó là “Khi con rồng bay quá cao chỉ còn một nước là rơi xuống đất. Ở ngôi cao chính là lúc con người chính trị lâm nguy nhất. Nếu không đủ khả năng tài trí lèo lái đất nước thì chẳng khác nào con rồng dậy non mà cuộn mình bay cao vượt qua sức của nó, tất sẽ rơi xuống đất.” Tập Cận Bình sẽ thất bại, giống như thất bại cay đắng của Hitler chính là kết quả của những thắng lợi quá nhanh của ông ta. Họ Tập quá tự phụ, kiêu căng, ngạo mạn và quá tham lam chỉ biết thừa thắng xông lên phía trước, bất chấp lời dạy của sư phụ Đặng Tiểu Bình trong sách lược “Thao quang dưỡng hối” với các quan điểm chiến lược như:
· Bình tĩnh quan sát.
· Che dấu khả năng.
· Chờ đợi thời thế.
· Ẩn mình
· Không bao giờ nắm vị trí dẫn đầu.

Tập Cận Bình không biết chính xác con đường mình đang đi như Bismack nói: “Trong chính trị, tôi áp dụng bài bản hệt như một người đi săn vịt trong vũng lầy. Tôi không bao giờ bước, nếu không biết chắc trước mặt tôi là một khoảng đất tốt, tôi có thể bước tới mà không ngã”. Chính vì Tập Cân Bình không biết củng cố từng bước những thắng lợi để tiến lên những thành công khác thì trước sau gì họ Tập cũng lâm vào quẻ “Khang long hữu hối” là “cách tự sát của con rồng dậy non” chính vì không biết tự lượng sức mình…Hiện nay, PLA hoàn toàn không có khả năng nếu xảy ra xung đột vũ trang trực diện với Mỹ trên Biển Đông, người chiến thắng cuối cùng không phải là PLA.

CHIẾN LƯỢC “CHỐNG LẠI CẢ THẾ GIỚI” CỦA TẬP CẬN BÌNH:
Báo Forbe ngày 3/7 đã đăng bài viết của chuyên gia Panos Mourdoukoutas nhận định, Bắc Kinh không giấu diếm tham vọng độc chiếm Biển Đông và đó là lý do họ có thể thất bại vào một thời điểm nào đó.. Bắc Kinh thể hiện quan điểm cứng rắn sẵn sàng đối đầu với Hải Quân Mỹ, Nhật, Ấn, Australia, Anh, Pháp và ASEAN đang phối hợp nhiệm vụ tuần tra trên Biển Đông đảm bảo “tự do hàng không, hàng hải” trên tuyến đường biển có tổng giao dịch trên 5.000 tỷ USD/ năm.
· Đối với Bắc Kinh, tuyến đường trên Biển Đông rất quan trọng sống còn, nằm trong tham vọng trở thành nền kinh tế mạnh nhất thế giới của Bắc Kinh, Biển Đông cũng là điểm xuất phát của “Một vành đai – một con đường” do sáng kiến của Tập Cận Bình phát động.
· Tập Cận Bình còn muốn độc chiếm tài nguyên dầu hỏa nằm dưới Biển Đông và coi những nguồn lợi này là của riêng Đại Lục.
Chính vì vậy, Bắc Kinh đã bất chấp Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, Hòa Lan đã ra phán quyết vào ngày 12/7/2016 rằng, các “chủ quyền lịch sử” hay “đường lưỡi bò 9 đoạn” mà Bắc Kinh ngụy tạo không có cơ sở pháp lý. Nhưng, một học giả TC là Yan Yan, chuyên gia “Luật biển Quốc tế” của Viện Nghiên cứu Nam Hải (TC), thừa nhận rằng: “Mặc dù Bộ Ngoại giao TC tuyên bố phủ nhận giá trị pháp lý và tính ràng buộc pháp lý của Tòa trọng tài Thường trực Quốc tế (PCA), nhưng chính phủ Bắc Kinh vẫn không phớt lờ phán quyết,” Bà Yan Yan nói. “Trên thực tế, Bắc Kinh vẫn quan tâm phán quyết của tòa PCA, vẫn chú ý đến áp lực từ bên ngoài, nhất là từ Mỹ để có đối sách và ứng phó thích hợp bảo vệ lợi ích của nước này.” Trong khi đó, Giáo sư Herman J. Kraft, Khoa Quan hệ Quốc tế ĐH Philippines, khẳng định rằng: “Không nước nào có thể phớt lờ phán quyết của PCA và phán quyết đó đã trở thành một phần của Luật Quốc tế”.

Hai năm sau phán quyết, Bắc Kinh vẫn nỗ lực sử dụng sức mạnh quân sự chống lại cả thế giới nhằm phá hủy luật pháp quốc tế dành cho các quốc gia láng giềng, đe dọa đến hòa bình và an ninh thế giới. Bắc Kinh vẫn tiếp tục gây áp lực lên các nước Philippines và Việt Nam từ bỏ quyền khai thác dầu mỏ, khí đốt và hải sản. Bất chấp áp lực của Bắc Kinh, không nước nào chấp nhận tham gia kế hoạch “phát triển chung” của TC. Những nước này khẳng định các quyền lợi của họ trong phạm vi của UNCLOS.
UNCLOS cung cấp một cơ chế trung lập để phân bố những nguồn tài nguyên biển trên thế giới, nhưng những gì Bắc Kinh đang hành động ở Biển Đông là mục đích nhằm lật đổ thể chế đó. Trên thực tế, TC đang liên tục triển khai sức mạnh quân sự để ngăn chận các quốc gia liên quan tại khu vực Biển Đông thực thi những quyền lợi bất hợp pháp của nước này.

WASHINGTON CAM KẾT THỰC THI LUẬT PHÁP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG:
Phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ 51 đang diễn ra tại Singapore. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo nhấn mạnh rằng, ASEAN là điểm chiến lược hàng đầu cho các nhà đầu tư Mỹ tại khu vực Châu Á. Ngoại trưởng Mỹ cam kết Washington sẽ hỗ trợ hết mình cho những nỗ lực của ASEAN để thúc đẩy bảo vệ hòa bình an ninh và ổn định trong khu vực này và áp lực TC phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế trên Biển Đông

Đa Chiều ngày 2/4 bình luận việc Mỹ thường xuyên cho phóng viên các hãng tin lớn theo tàu chiến, máy bay Mỹ tuần tra trên Biển Đông, thực ra là đang tiến hành một cuộc chiến tuyên truyền để gây ảnh hưởng trong dư luận thế giới giúp Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối trong cuộc chiến dư luận ở Biển Đông.
Phát biểu trên của Ngoại trưởng Mỹ được đưa ra trong bối cảnh Washington và Bắc Kinh đang nổ ra cuộc chiến tranh thương mại đang căng thẳng mà phần thắng lợi đang nghiêng về phía Mỹ. TT Trump đang cân nhắc kế hoạch tăng gấp đôi thuế đối với hàng hóa 200 tỷ USD nhập cảng từ Tàu Cộng.
Washington cũng đang đẩy mạnh chiến lược quân sự, song song với chiến tranh thương mại. Thượng viện Mỹ đã thông qua ngân sách quốc phòng 716 tỷ USD nhằm chống lại sự gia tăng quân sự của TC tại Châu Á, đặc biệt là các hoạt động quân sự của Hải quân TC trên Biển Đông.

TẬP CẬN BÌNH LƯỠNG ĐẦU THỌ ĐỊCH:
ĐỐI NGOẠI – BỊ CÔ LẬP:
Diễn biến leo thang, hậu quả của cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ, khiến chứng khoán Tàu Cộng đỏ lửa. Tính đến ngày thứ năm 02/8/2018, tại thị trường Đại Lục, chỉ số CSI 300 giảm sút có lúc giảm 3,6% xuống gần mức thấp nhất một năm rưỡi thiết lập 6/7, trước khi đóng cửa với mức giảm 2,2%. Trong đó, nhóm cổ phiếu các doanh nghiệp phụ thuộc vào xuất cảng hàng điện tử “bốc hơi” 4,1%. Mặt quan trọng khác của chứng khoán Đại Lục là Shanghai Composite Index mất trắng 2%.
Chỉ số Hang Seng của chứng khoán Hong Kong giảm 2%, xuống mức thấp nhất 10 tháng. Một chỉ số đo giá cổ phiếu của các công ty khởi nghiệp (starup) TC niêm yết tại Hong Kong sụt 3,5% chạm đáy từ tháng 1/2015.

Nhà phân tích Zhang Quan thuộc Securities nhận định: “Tâm lý thị trường đang tác động tiêu cực của những nỗi lo âu mới về chiến tranh thương mại Mỹ – Trung”. Trước đó một ngày, chính quyền TT D. Trump gia tăng sức ép đòi Bắc Kinh nhượng bộ trong thương mại bằng cách đề xuất áp thuế 25% lên 200 tỷ USD hàng hóa TC, thay vì thuế suất 10% như dự định ban đầu. Bắc Kinh gọi động thái này của Mỹ là “tống tiền” và tuyên bố sẽ đáp trả tương xứng.

Hãng tin Reuters cho hay, trong tuần này, chỉ số MSCI All Country World Index của chứng khoán toàn cầu đã giảm 0,5% đảo ngược xu hướng tăng của 4 tuần trước đó. Trong đó, chứng khoán TC chiếm phần lớn trong mức giảm này. Phiên giảm ngày thứ năm khiến chỉ số CSI 300 của chứng khoán TC gần như bốc hơi hết thành quả tăng kể từ cuối tháng 7 sau khi Bắc Kinh công bố các biện pháp hỗ trợ tăng trưởng

Theo tờ Financial, nỗi lo về hàng rào thuế quan mà Mỹ áp đặt đối với hàng hóa TC cho thấy nền kinh tế TC giảm tốc đã khiến CSI giảm 17% từ đầu năm nay. Và tỷ giá đồng NDT so với đồng USD đã giảm hơn 8%, vào cuối giờ thứ năm 02/8/2018, 01 USD đổi ra được 6,8373 NDT.

Tập Cận Bình bó tay, thúc thủ trước tin Bloomberg vào ngày 05/8/2018, thị trường chứng khoán TC đã tụt xuống vị trí thứ 3 thế giới về tổng giá trị vốn hóa, khi chỉ còn 6.090 tỷ USD, sau khi lao dốc ngày 03/8. Trong khi đó, thị trường chứng khoán Nhật Bản vươn lên vị trí thứ hai với tổng giá trị vốn hóa đạt 6.170 tỷ USD. Hoa Kỳ vẫn là thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới với hơn 31.000 tỷ USD.

Chiến lược của Bắc Kinh ép EU hợp tác chống Mỹ đã thất bại ê chề. Một quan chức EU nói về việc từ chối thẳng thừng ý tưởng hợp tác trong vấn đề Bắc Kinh kêu gọi EU liên minh cùng Bắc Kinh chống Washington. Tờ Russia Today dẫn lời các nhà ngoại giao EU cho biết Liên minh châu Âu (EU) đã bác bỏ đề xuất hợp tác với Bắc Kinh chống lại việc tăng thuế quan thương mại mà Washington áp đặt lên hàng hóa châu Âu và Tàu Cộng.

Sau cuộc hợp thượng đỉnh giữa Trump – Putin ngày 16/7 tại Helsinki, Phần Lan, quan hệ Nga – Trung bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, mặc dù Nga & Trung vốn là đối tác chiến lược lâu năm trước đây. Tầm nhìn chiến lược của Trump và Putin để cùng chuẩn bị đối phó với một địch thủ đáng gờm hơn nhiều và có tham vọng lấn chiếm lãnh thổ của Nga ở vùng Viễn Đông & Siberia, đó chính là Tàu Cộng. Theo nhận định của nhà nghiên cứu Harry J. Kazianis, Giám đốc các vấn đề Quốc phòng, Hoa Kỳ, nhận định: “Tham vọng trở thành siêu cường số 1 thế giới của Bắc Kinh đe dọa cả Mỹ lẫn Nga sô.”

Với tuyên bố “Tầm nhìn kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” do Mỹ lãnh đạo nhằm đối phó với sáng kiến “Một vành đai – Một con đường” của TC, chính sách đối ngoại của TT D. Trump đang nổ lực cô lập Tàu Cộng trên mặt trận kinh tế và ngoại giao. Trung tâm nghiên cứu Pew (Mỹ) cho thấy: “Không một quốc gia châu Á nào muốn sống trong thế giới bị Tàu Cộng chi phối”.

ĐỐI NỘI – TRANH GIÀNH QUYỀN LỰC: Gần đây bùng nổ thông tin về cuộc đảo chính tại Trung Nam Hải, cho rằng Tập Cận Bình đã thất thế sau khi bị các nguyên lão truy cứu trách nhiệm, mặc dù hầu hết các quan điểm cho rằng, Tập Cận Bình đang thao túng quyền lực và không ai đủ khả năng thách thức quyền lực của nhà lãnh đạo ĐCSTQ này. Một nhóm nguyên lão do Giang Trạch Dân dẫn đầu đã cùng nhau truy cứu trách nhiệm Tập Cận Bình về thực trạng đối nội và đối ngoại của ĐCSTQ dưới thời Tập Cận Bình gặp khốn đốn, giờ đây lại bị tấn công trong cuộc chiến tranh thương mại Trung – Mỹ.
Sau cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung bùng nổ, mạn lưới truyền thông nhà nước TC và nhiều người dùng mạng xã hội đã đồng loạt lên tiếng chia sẻ thông tin về Tập Cận Bình bị truy cứu trách nhiệm.

Học giả Tân Tử Lăng (Xin Ziling, tác giả cuốn “Mao Trạch Đông: Ngàn năm công tội) nhận định rằng, những tin đồn này không xuất phát từ các lực lượng của cựu lãnh đạo Giang Trạch dân và Tăng Khánh Hồng mà xuất phát từ nguồn gốc khác. Ông Tân Tử Lăng nói: “Đây thực sự không phải là chỉ đạo của Giang và Tăng; dĩ nhiên, họ có ý đồ này nhưng không có điều kiện và khả năng cụ thể để thực hiện, kẻ tải lên những tin đồn này chỉ là xuất phát từ tầng dưới thuộc bộ máy ở các cơ sở”.

Các lãnh đạo ĐCSTQ có thể đang họp bí mật diễn ra tại Bắc Đới Hà là địa điểm du lịch nổi tiếng thuộc tỉnh Hà Bắc, nằm cạnh biển Bột Hải và chỉ cách Bắc Kinh 280 km về phía đông. Đây cũng là nơi các lãnh đạo ĐCSTQ đưa ra những quyết sách quan trọng trong lịch sử. Tất cả các cuộc họp này là diễn ra kín. Các thông tin ám chỉ rằng, có thể các nguyên lão sẽ thảo luận về việc thay đổi “phong cách lãnh đạo”, nổi bật là vấn đề “lãnh đạo tập thể”. Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung khiến những mâu thuẫn nội bộ gay gắt hơn, dù chưa biết những thông tin này thật hư ra sao, nhưng cho thấy tình tình xung đột nội bộ trong ĐCSTQ có thể rất gay cấn.

Họ đổ lổi nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến thương mại là do hệ thống tuyên truyền “lệch lạc tư tưởng Tập Cận Bình”. Giờ đây, nếu Trung Nam Hải trở về với nguyên tắc “lãnh đạo tập thể”, có nghĩa là nhà lãnh đạo cao cấp nhất sẽ mầt đi địa vị lãnh đạo tối cao, phe cánh của Tập Cận Bình sẽ không còn được bảo đảm an toàn chính trị, nếu họ Tập không phản đòn cuối cùng đối với phe phản đối thì tình hình của phe Tập Cận Bình sẽ lâm nguy.

Rõ ràng trên thực tế, vấn đề đấu tranh thuơng mại Mỹ – Trung, trong nội bộ ĐCSTQ vẫn luôn tồn tại đấu tranh giành quyền lực. Nội dung phát biểu của họ chủ yếu xoay quanh chủ đề như “Thuyết dung nạp Thái Bình Dương” và “Một vành đai – Một con đường” của Tập Cận Bình bị một số quan chức và một bộ phận truyền thông của ĐCSTQ giải thích lệch lạc là muốn ngồi ngang hàng với Mỹ, tự sinh ra ảo tưởng về phạm vi sức mạnh bản thân, tùy tiện tuyên truyền ĐCSTQ vùng dậy, bố cục đối ngoại khoa trương, ý đồ xưng bá thế giới…Thậm chí họ còn cho rằng, những người này (ám chỉ Tập Cận Bình và phe cánh) trong nội bộ đảng, là kẻ thù thực sự của ĐCSTQ. Họ tạo thành cục diện chiến tranh thương mại nguy hiểm lại không phải là chính phủ của ông Trump, mà là những người tác phong không đúng đắn trong nội bộ ĐCSTQ.

Truyền thông Đài Loan dẫn lời người trong cuộc của ĐCSTQ cho biết, những người thuộc phe thực tế như Vương Kỳ Sơn, Lưu Hạc, Uông Dương, Hồ Cẩm Đào đều biết rằng thực lực quốc gia không đủ khả năng chống lại chiến tranh thương mại. Tuy nhiên “những người không rành về thực tế” và “những người có dã tâm” của phe bảo thủ lại cực lực cổ súy chủ nghĩa dân tộc, cổ súy khai chiến với Mỹ

Theo nhận định của tờ The Economist, nhìn từ quan điểm toàn diện thì không thấy Tập Cận Bình sẽ thành công. Tờ báo cũng cho rằng, dường như Tập Cận Bình chỉ chú trọng là làm sao cho ĐCSTQ mạnh lên và củng cố quyền lực cho riêng mình chứ không mấy quan tâm về giàu mạnh kinh tế và một xã hội cởi mở như đa số người dân trong nước thèm khát.
Theo Ghaffar Hussain, nhà bình luận quốc tế, đã nhận xét rất đúng rằng,: “TC có thể đem lại sự giàu có, nhưng họ không mang lại hạnh phúc an ninh và trên tất cả đời sống tốt đẹp cho người dân. Đó là những lý do mà giới nhà giàu Đại Lục sử dụng tài sản của chính mình để tìm kiếm con đường thoát khỏi đất nước”. Ước mơ lớn nhất của họ là được làm công dân Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Australia…và chẳng có “Giấc mơ Trung Hoa” nào khiến mọi người dân Hoa Lục khao khát, nhận xét của học giả Simon Tay, Singapore.

“TRUNG HOA MỘNG” CỦA TẬP CẬN BÌNH SẼ KHÔNG TỒN TẠI:
Một số nhà phân tích từng cảnh báo: “Các nước lớn đang trỗi dậy, luôn có xu hướng sử dụng sức mạnh kinh tế mới của họ cho mục đích chính trị, văn hóa và quân sự rộng lớn hơn. Tuy nhiên, thậm chí ngay cả khi đánh giá này đúng với mưu đồ của TC thì Bắc Kinh cũng có khả năng quân sự để biến tham vọng đó trở thành hiện thực.
Theo giáo sư Aeron Friedberg, Đại học Princeton, nhận định: “Tôi có thể nói ngắn gọn rằng, Tàu Cộng chưa thể trở thành siêu cường,” ông thẳng thắng nói. “Một siêu cường phải hùng mạnh trên tất cả các lãnh vực: kinh tế, chính trị và quân sự với tầm ảnh hưởng toàn cầu. Đối chiếu với tất cả tiêu chuẩn này, TC chưa phải là một siêu cường. Họ có thể mạnh về kinh tế nhưng khả năng khuyếch trương “quân sự trên quy mô toàn cầu” là chưa thể”.

Theo Giáo sư David Shambaugh, giảng viên Khoa học Chính trị & Ngoại giao Quốc tế, ĐH George Washington, phải thừa nhận rằng: “TC, về bản chất là một nhà nước hẹp hòi, ích kỷ và thực dụng, chỉ tìm cách tối đa hóa lợi ích và quyền lực của riêng mình.. Xét cho cùng, TC chỉ là một quốc gia cô đơn, không có đồng minh và luôn đánh mất lòng tin và luôn tạo ra các mối quan hệ căng thẳng với phần lớn thế giới”

Theo ông Charles Onyango-Obbo, phóng viên của tờ báo Đông Phi, viết bài bình luận với tựa đề: “Sự thống trị của Trung Cộng”, ông cho rằng: “Chỉ có sức mạnh về kinh tế thì không bao giờ đủ để một quốc gia chi phối được thế giới bên ngoài biên giới của nó. Thực sự là giáo dục, công nghệ, văn hóa của nền âm nhạc, điện ảnh Hollywood, kinh doanh và thể thao đã cho phép Hoa Kỳ ngự trị khắp hành tinh. Trung Quốc đang trở thành một cường quốc rất quan trọng trên thế giới. Nhưng nó sẽ không có vai trò thống trị.”

TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ GIỮA MỸ – TRUNG:
Hải quân Hoa Kỳ tích lũy những học thuyết chiến lược quân sự của những chiến lược gia lừng danh như Alfred Thayer Mahan (Mỹ), Isoroku Yamamoto (Nhật) và Karl Doemitz (Đức) để xây lực lượng Hải quân Hoa Kỳ hùng mạnh vào thế kỷ 20 để thống trị các đại dương, đã tạo thành một sức mạnh tấn công tổng hợp rộng khắp thế giới và đã đóng vai trò quyết định trong chiến thắng của Hoa kỳ trong Thế chiến thứ II. Hải quân Hoa Kỳ bước vào thế kỷ 21 vẫn là siêu quyền lực duy nhất trên toàn thế giới.

ĐÔ ĐỐC ALFRED THAYER MAHAN, MỸ (1840 – 1914): Ông được mệnh danh là “Chiến lược gia Clausewitz của biển cả”, ông đã thiết lập chiến lược Hải quân Hoa Kỳ của thế kỷ XX và tầm ảnh hưởng đến sự phát triển hải quân của Anh, Đức và Nhật.. Những người hâm mộ ông có Tổng thống Theodore Roosevelt, người thường xuyên hỏi ông về các vấn đề thuộc về hải quân. Các lời cố vấn và bài viết của ông đã trực tiếp đóng góp vào sự bành trướng Hải Quân Hoa Kỳ của TT Roosevelt và sự khai triển một hạm đội căn cứ tàu chiến.
Quan điểm học thuyết chiến lược căn bản của ông Mahan tập trung vào một điều không có gì khác hơn là phải “chế ngự biển cả”. Ông đề nghị rằng, phòng thủ các khu vực bờ biển và hải cảng nên giao nhiệm vụ này lại cho Lục quân hơn là Hải quân. Ông Mahan bênh vực quan niệm của ông rằng: “Không một quốc gia nào có thể tự xem mình là một sức mạnh toàn cầu, nếu không có khả năng thiết lập kế hoạch sức mạnh Hải Quân trên toàn thế giới. Ngoài khả năng có một lực lượng Hải Quân có khả năng hiện diện ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào và đánh bại bất cứ kẻ thù nào,” ông cũng nhấn mạnh. “Tầm quan trọng công tác giữ gìn các tuyến đường hàng hải huyết mạch để bảo đảm an ninh cho các tàu chiến và tàu buôn.
Cùng với sự cần thiết có một hạm đội hùng mạnh to lớn khủng khiếp. Ông Mahan đã nhấn mạnh nhu cầu cần duy trì các “căn cứ hải quân” và đã đề nghị rằng các căn cứ hải quân của hạm đội Hoa kỳ nên có tại Hạ Uy Di, Phi Luật Tân và Cuba.

Ngày nay, theo số liệu của Ngũ Giác Đài, Hoa Kỳ đã duy trì một hệ thống căn cứ quân sự trên toàn thế giới lên đến 865 căn cứ, hiện diện tại 90 quốc gia. Tuy nhiên, con số thực tế có thể nhiều hơn, vì có những căn cứ hoạt động trong vòng bí mật. Điểm mặt 6 nhóm căn cứ quân sự bao vây và cô lập Tàu Cộng gồm: [1]Nhóm căn cứ Đông Bắc Á [2] Nhóm căn cứ đảo Guam [3] Nhóm căn cứ Đông nam Á [4] Nhóm căn cứ ở Trung Á [5] Nhóm căn cứ ở Ấn Độ Dương [6] Nhóm căn cứ ở Australia

Riêng TC chỉ có một vài căn cứ quan trọng như một cảng biển tại Djibouti, có vị trí chiến lược nằm ở cửa ngõ phía Nam của Biển Đỏ trên đường vào kênh đào Suez. Một căn cứ khác của TC sẽ đặt tại cảng Jiwani, khu vực Gwadar, bờ biển phía nam Pakistan và một cảng biển tại Sri Lanka đang xúc tiến xây dựng.

ĐÔ ĐỐC ISOROKU YAMAMOTO, NHẬT (1884-1943): Ông đã chỉ huy hạm đội Hải quân Hoàng gia Nhật Bản đã mở rộng Đế quốc Nhật Bản trong những ngày đầu của Thế chiến II. Việc sử dụng HKMH bậc thầy của ông đã tạo nên một chiến thắng lớn quân Mỹ tại Trân Châu Cảng năm 1941 và đã mang đến cho ông ta danh dự là một trong các nhà phát triển học thuyết quân sự về các cuộc hành quân hàng không mẫu hạm và ông đánh giá HKMH đã phục vụ như là trái tim và là sức mạnh của lực lượng Hải quân Nhật Bản.
Yamamoto đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển và sự tiến bộ của các cuộc hành quân HKMH và đã chứng tỏ khả năng của nó để tung ra sức mạnh qua khoảng cách dài. Từ trận Trân Châu Cảng, ông nói: “Không một quốc gia nào đã duy trì bất cứ một mức độ chế ngự thế giới mà không có lực lượng HKMH để đại diện quyền lực thống trị của nó quanh địa cầu.”

Hiện nay, Hải quân Hoa Kỳ có 12 HKMH có các tên là: Enterprise CVN 65, Nimitz CVN 68, Eisenhower CVN 69, Carl Vinson CVN70, Roosevelt CVN 71, Lincoln CVN 72, Washington CVN 73, Stennis CVN 74, Truman CVN 75, Ronald Regan CVN 76, Bush CVN 77 và chiến HKMH Gerald R. Ford CVN 78 là chiếc dẫn đầu lớp Gerald R, Ford thuộc nhóm siêu mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ tối tân nhất thế giới.
Ngày 24/8/2017, tại hãng đóng tàu Newport News Shipbuiding đặt ở tiểu bang Virginia diễn ra lễ khởi công đóng HKMH USS Enterprise (mới) là CVN 80. Đồng thời đến cuối tháng 8/2017, quá trình đóng tàu sân bay USS Kennedy đã hoàn thành đạt hơn 30%. Đáng chú ý, vị tổng giám đốc điều hành chương trình đóng HKMH mới của Mỹ là một phụ nữ gốc Việt là bà Giao Phan

So với Tàu Cộng, chỉ mới có 2 chiếc tàu sân bay là Liêu Ninh và một chiếc tàu sân bay mới do TC tự đóng là Type-001A, hoàn toàn dự kiến chạy thử nghiệm trong vùng biển vịnh Bột Hải vào tháng 4/2018. Điều đáng chú ý là khi nói tới cách đáp chiến đấu cơ trên HKMH trong lúc nó đang chạy là bộ phận “interlock system” mà chỉ có Mỹ mới có hệ thống này. Còn phía 02 tàu sân bay của TC, các chiến đấu cơ muốn đáp xuống thì tàu sân bay phải đứng yên vị trên biển, nó sẽ trở thành mục tiêu cố định làm mồi ngoan cho hỏa tiển. Phải còn ít nhất 20 năm nữa, TC mới ăn cắp được “moving target, interlock system” của Mỹ.
Hai tàu sân bay cuả TC cốt để hù dọa Philippines và Việt Nam vì theo James Nolt, chuyên viên của World Policy Institute (Mỹ), đánh giá: “Ngay cả trong trường hợp TC đóng xong một tàu sân bay mới, họ cũng tụt hậu mấy mươi năm so với Hoa Kỳ về mặt kiến thức vận hành và số lượng.”

ĐÔ ĐỐC KARL DOENITZ, ĐỨC (1891 – 1980): Ông là cha đẻ về học thuyết chiến tranh tàu ngầm của Đức. Tầm nhìn chiến lược của ông đã thấy sự đóng góp quan trọng của tàu ngầm đối với hải chiến trên biển. Ông nêu ra 2 các mục tiêu chiến lược:
· Mục tiêu sơ khởi của các tàu ngầm U sẽ là các tàu buôn hơn là các tàu chiến của các đồng minh để cắt đường tiếp tế của địch
· Mục tiêu thứ hai là cách mạng hóa chiến tranh tàu ngầm là các tàu ngầm U của Đức phải được điều động và chiến đấu từng đoàn hay từng toán mà ông gọi là “wolf packs” (nhóm sói).
Khi Thế chiến II bắt đầu vào 01/9/191939, ông chỉ huy chỉ có 56 chiếc tàu ngầm U, đã đánh chìm 114 tàu hàng trong 4 tháng cuối năm 1939. Tháng 08/1940, Hitler cho phép Doenitzm thực hiện “chiến tranh tàu ngầm” không bị hạn chế. Trong thời gian 4 tháng sau đó, các chiếc tàu ngầm U đã đánh chìm 285 tàu địch, tổng cộng hơn 1 triệu tấn. Trong 6 tháng đầu năm 1942, các tàu ngầm U đã đánh chìm 585 tàu chiến Mỹ sâu tận đáy Đại Tây Dương.

Ngày nay, uy lực khủng khiếp của tàu ngầm tấn công hạt nhân tối tân lớp Virginia của Mỹ, có đủ khả năng hủy diệt cả một hạm đội của đối phương, nó rất khó phát hiện vì chạy rất êm, không phát ra tiếng ồn. Tháng 7/2018, nhà máy đóng tàu Newport News của tập đoàn Huntington Ingalls Industries mới vừa bàn giao siêu tàu ngầm tấn công hạt nhân USS Indiana (SS789) thuộc lớp Virginia cho Hải quân Hoa kỳ. Đây là loại siêu tầu ngầm hiện đại nhất hiện nay của Hải quân Mỹ. Nó được thiết kế nhằm thay thế tàu ngầm lớp Los Angeles và Seawolf

Hiện nay, Hải quân Hoa Kỳ đã có 14 chiếc đã đi vào hoạt động và 4 chiếc khác đang trong quá trình thi công. Hải quân Hoa Kỳ dự định sẽ chế tạo tổng cộng 48 tàu ngầm loại này. So với tàu ngầm hiện đại của hải quân Tàu Cộng thì sao? Các chuyên gia quân sự đánh giá tàu ngầm tấn công hạt nhân, lớp Shang dài 110 mét của TC quá dễ bị phát hiện vì nó chạy “quá ồn”. Sau vụ Hải quân Nhật Bản dễ dàng phát hiện tàu ngầm này lặn gần quần đảo tranh chấp ở biển Hoa Đông vào ngày 12/1/2018 và buộc nó phải nổi lên mặt nước.

KẾT LUẬN:
Xin nhường quyền độc giá đánh giá bài viết “This is how a superpower commits suicide” (Cách tự sát của một siêu cường) của tác giả Richard Javad Heydaria. Nhưng, theo phân tích bài viết của tôi “Cách tự sát của con rồng dậy non” đã cho thấy khoảng cách thua kém về lãnh vực quân sự giữa TC với Mỹ còn một khoảng cách quá xa, ít nhất 02 thập niên nữa mới bắt kịp Hoa Kỳ, với điều kiện là Hoa Kỳ đứng yên ở vị trí hiện tại.

Những tư tưởng hiếu chiến, cực đoan quá khích, cổ súy cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan của Tập Cận Bình đã khiến Mỹ chuẩn bị kịch bản liên quân 8 nước để bao vây và cô lập Tàu Cộng. Đó là “liên minh kim cương” gồm Mỹ, Ấn, Nhật, Australia với sự tham gia của Hàn Quốc, Đài Loan và trong tháng 8/2018, Pháp sẽ tổ chức tập trận lớn ở Đông Nam Á, có sự tham gia của không quân. Trong tuần này, Pháp và Anh cũng tiến hành tuần tra chung ở Biển Đông, ngoài 2 tàu chiến Pháp, còn có 2 tàu hộ vệ Type 23 là HMS Sutherland và HMS Argyl cùng với tàu đổ bộ HMS Albion của Anh Quốc.

Rõ ràng trong vấn đề Biển Đông, Anh & Pháp đã liên kết với Mỹ và đồng minh chống Tàu Cộng bành trướng, bá quyền ở biển Đông nói riêng và Á Châu nói chung. Tập Cận Bình nên tự lượng sức mình, phải chấm dứt tham vọng thúc đẩy Tàu Cộng trở thành siêu cường số một thống trị thế giới, vì đó là cách tự sát của con rồng dậy non….

Tổng hợp & Nhận định
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
12/8/2018

Death by China

Cách đây 5 năm thì ai dám nghĩ tác giả của cuốn sách Death by China lại có thể làm cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Mỹ và có tiếng nói quan trọng tại Tòa Bạch Ốc. Nhưng điều không ngờ lại xảy ra và tác giả của cuốn sách “chết bởi Trung Quốc” đã trở thành cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump. Đây là tình huống mà giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã không ngờ tới và chắc chắn sẽ còn phải đau đầu rất nhiều với tác giả của cuốn sách Death by China.

Đọc cuốn sách Death by China thì thấy Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro đã vạch trần tất cả những mối nguy đến từ chính sách kinh tế của Trung Quốc. Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì Trung Quốc đã đưa ra chính sách gian lận thương mại, ăn cắp công nghệ, làm hàng giả, hàng kém chất lượng để phá hủy toàn bộ hệ thống kinh tế chuẩn mực của các nước tư bản giầu có trước đây như Mỹ và Châu Âu. Trung Quốc đã cố tình làm hàng giả, hàng kém chất lượng và bán phá giá để cho nhiều nhà máy, nhiều công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản.

Khi các nhà máy, các công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản thì người dân không có việc làm và người dân không có việc làm thì không có tiền lương mà không có tiền lương thì phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc. Đối với những nước giầu có như Mỹ và Châu Âu thì Trung Quốc đưa hàng giả, hàng kém chất lượng vào để giết chết các nhà máy, các công ty. Còn đối với các nước nghèo đói như Campuchia, Việt Nam, Lào và Châu Phi thì Trung Quốc đã đưa cả hàng độc hại để không chỉ giết chết các nhà máy, các công ty mà giết chết luôn cả người dân.

Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì nếu Mỹ và Châu Âu không có chính sách ngăn chặn Trung Quốc thì chỉ cần trong vòng 10 năm đến 20 năm nữa là Trung Quốc sẽ chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế toàn cầu.

Khi Trung Quốc đã chi phối được kinh tế toàn cầu thì dĩ nhiên là Trung Quốc sẽ chi phối về chính trị và đi xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia khác. Điều này thì ai cũng có thể nhìn thấy qua các chính sách của Trung Quốc đối với các nước nhỏ và nghèo trong khu vực như Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines, và Malaysia.

Giới chính trị gia salon của Mỹ và Châu Âu đã không nhận ra được mối nguy từ Trung Quốc hoặc có nhận ra nhưng đã cảm thấy bất lực nên đành phải nín nhịn Trung Quốc để được yên thân trong nhung lựa của cung điện.
Dưới thời Tổng Thống Barack Obama thì tỷ lệ thất nghiệp của người dân Mỹ ngày càng gia tăng mà không có cách giải quyết, ngân sách quốc gia thì thâm hụt và phải vay mượn tứ tung. Có 8 năm cầm quyền mà tiêu tiền ngân sách quốc gia nhiều hơn cả mấy đời Tổng Thống Mỹ cộng lại. Chính sách của Hillary Clinton thì chẳng khác gì Barack Obama nhưng vẫn có người đi ủng hộ Hillary Clinton và chống Trump thì quả là kém về chính trị và vô trách nhiệm với nước Mỹ, với Châu Âu và với thế giới.

Tổng Thống Trump là một nhà kinh tế, là một tỷ phú đã từng điều hành hàng ngàn công nhân nên ông hiểu được chính sách kinh tế của Trung Quốc. Từ sự thấu hiểu mà Tổng Thống Trump đã quyết định chọn người có điểm chung là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro để làm cố vấn kinh tế và đưa ra các biện pháp ngăn chặn Trung Quốc. Thực sự là Mỹ đã quá muộn và ngăn chặn được kinh tế Trung Quốc là một bài toán vô cùng khó.
Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, đã thâu tóm và lũng đoạn được chính trị của nhiều quốc gia. Trong khi hàng hóa Made in China thì đã tràn ngập thị trường Mỹ và Châu Âu.
Người dân thì vì không có việc làm và không có tiền nên vẫn phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc.
Mỹ và Châu Âu đã quá muộn để ngăn chặn Trung Quốc nhưng muộn mà còn có Tổng Thống Mỹ dám đứng ra ngăn chặn thì thế giới vẫn còn hy vọng. Cuộc đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là một cuộc đấu đầy khó khăn và khốc liệt. Nhưng với kinh nghiệm của thương trường, với lòng can đảm và với một quyết tâm cao thì Tổng Thống Trump đang làm cho thế giới có nhiều hy vọng vào một chiến thắng trước Trung Quốc. Nếu cuộc đấu với Trung Quốc mà thành công thì lịch sử nhân loại sẽ ghi ơn Tổng Thống Trump và người cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump và cũng là người đã có công viết cuốn sách Death by China để vạch trần chính sách gian manh của Trung Quốc là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro.

FB Đạt Tiến Nguyễn