Câu chuyện về gia đình Đ/tá Hồ Ngọc Cẩn

Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ

Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện.Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá.Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cả cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.Đ/tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận.Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ.Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc.Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.Giây phút cuối của Chương Thiện,Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi.Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua.Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi.Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì được. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì ít nói như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết.Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “- “Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
– “Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác: 
– “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ:
– “Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.Tôi hỏi tiếp:
– “Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
– “Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”. Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi: 
– “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
– ” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
– “Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.Bà Cẩn thật thà kể rằng:
– “Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu.Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính.Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời.Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.

Mặt Trận Xuân Lộc tháng Tư 1975

Tháng Tư, 1975 Mũ Đỏ Trịnh Ân

Lời nói đầu: Xuân Lộc là tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh được Tổng Thống Ngô Đình Diệm nền Đệ Nhất Cộng Hòa thành lập từ năm 1957, bằng cách cắt bớt phần đất của tỉnh Biên Hòa với mục đích để định cư đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3,500 cây số vuông, vùng đất đỏ phần lớn là núi thấp, đồi cao, rừng chồi thưa thớt, nhiều đồn điền cao su và vườn cây ăn trái. Long Khánh chiếm một vị trí chiến lược quân sự rất quan trọng, vì đây là ngã ba giữa hai QL1 và 20, cửa ngỏ từ Miền Trung Miền Cao Nguyên và Thủ Đô Sài Gòn chỉ cách nhau hơn 80 cây số, do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai thép, ngoài việc bảo vệ phi trường Biên Hòa, tổng kho tiếp liệu Long Bình, phi trường Tân Sơn Nhất và Thủ Đô Sài Gòn. Xuân Lộc lại nằm trên đường giao liên giửa chiến khu C và Đ của Cộng quân với các mật khu Tam giác sắt, Dương Minh Châu, Mây Tào, Cù Mi, Xuyên Mộc, Hát Dịch. Đất đỏ tỉnh Phước Tuy, là con đường huyết mạch mà Cộng quân dùng để nhận tiếp tế, bổ sung quân số và tiếp liệu chiến cụ bằng đường biển do Đoàn 759 xuất phát từ Hà Nội vận chuyển vào MIền Nam. Vì vị thế trọng yếu cho nên đại bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18BB do chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm Tư lệnh, và BCH/ Tiểu khu Long Khánh do Đ/T BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng kiêm TKT chỉ huy đã được bố trí tại đây để ngăn chận Cộng quân xâm nhập cửa ngỏ Sài gòn.

Ngày 3/1/1975, khi Đại Đoàn 301 CSBV do Thiếu tướng CS Hoàng Cầm điều khiển, gồm có các Sư đoàn 3, 7, 341/CSBV, 2 Trung đoàn Biệt lập, 1 Lữ đoàn xe tăng, 2 Trung đoàn pháo và Phòng không cùng các đơn vị Địa Phương sẵn có của QK.7 với hàng trăm xe tăng, đại pháo, phòng không đủ loại đã đồng loạt tấn kích toàn tỉnh Phước Long do SĐ5BB của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, Liên đoàn 7 BĐQ và Lực lượng ĐPQ+NQ trấn giữ, quân trú phòng đã anh dũng đánh trả quyết liệt. Nhưng qua nhiều đợt tấn công cường kích biển người “tiền pháo hậu xung” cuồn cuộn liên tiếp đến ngày 6/1 tỉnh Phước Long đã lọt vào tay CSBV, vì QLVNCH không còn quân trừ bị tiếp ứng giải cứu kiệp thời. Tối hôm sau, ngày 7/1 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban lệnh để tang 3 ngày “treo cờ rũ” cho tỉnh Phước long. Trước sự vi phạm trắng trợn hiệp định Paris “CHẤM DỨT CHIẾN TRANH và VÃN HỒI HOÀ NÌNH tại VIỆT NAM” 1973.

Hoa Kỳ cũng chỉ phản ứng lấy lệ, bằng chứng là Tổng Thống Gerald Ford đã không đề cập gì đến tình trạng nguy khốn của Nam Viẹt Nam trong bài diển văn nhậm chức đọc trước lưỡng viện Quốc Hội Hoa kỳ ngày 5/1/1975.  Với những chiến thắng lớn của Bộ Tư Lệnh “B2” Trung ương cục Miền Nam trong đợt 1, mùa khô 74-75, đặc biệt là việc đánh chiếm được quận lỵ Hưng Long ở tỉnh Sóc Trăng thuộc QK4 và tỉnh lỵ Phước long thuộc QK3 của Việt nam Cộng Hòa, đã khiến Bộ Chính Trị/TUĐ/CSBV quyết định thay đổi kế hoạch quân sự “nhảy vọt” thừa thắng xông lên Xuân Hè 1975.

Ngày ¾ Đại tướng Văn Tiến Dũng, TTMT/QĐND/CSBV và Bộ tham mưu đã vào tới Bộ tư lệnh “B2” Trung ương cục Miền Nam ở phía tây thị xã Lôc Ninh. Bốn ngày sau, Lê đức Thọ cũng tức tốc đến nơi. Ngày 8/4, dưới sự chủ toạ của Lê đức Thọ, thì kế hoạch đánh chiếm Sài gòn-Chợ lớn được đem ra bàn thảo. Đồng thời Bộ tư lệnh chiến dịch cũng được thành lập gồm có:

Đại tướng Văn tiến Dũng, UV/BCH,TTMT/QĐND/CSBV, được cử làm Tư lệnh chiến dịch.
Phạm Hùng, UV/BCH, Bí thư trung ương Cục Miền Nam, Chính ủy BTL “B2” được cử làm Chính ủy.
Thượng tướng Trần văn Trà, UV/BCH/TUĐ, Tư lệnh “B2”, giữ chức Phó Tư lệnh.
Trung tướng Lê đức Anh, UV/BCH/TƯĐ, Phó Tư lệnh “B2” giữ chức Phó Tư lệnh, kiêm chỉ huy trưởng mặt trận Tây Nam (Đoàn 322)
Trung tướng Lê trọng Tấn, UV/BCH/TƯĐ, TTM Phó, QĐND/CSBV giữ chức Phó Tư lệnh kiêm chỉ huy trưởng mặt trận Miền Đông (Quân đoàn 2 và Sư đoàn 3 “Sao vàng”)
Trung tướng Lê quang Hòa, Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị (Cục ANQĐ) của Bộ Tư lệnh chiến dịch.
Trung tướng Đinh đức Thiện, Phó Tư lệnh đặc trách hậu cần.
Thiếu tướng Lê ngọc Hiền , Tham mưu trưởng chiến dịch
Lê đức Thọ giữ vai trò “Đaị diện BCH/TƯĐ”, tức Tư lệnh mặt trận.
Và theo đề nghị của Tướng Văn tiến Dũng, ngày 14/4/75, Lê Duẫn Tổng bí thư đảng CSVN đã đồng ý chấp thuận lấy tên chiến dịch tấn chiếm Sài gòn-Chợ lớn là Chiến dịch” Hồ chí Minh”

A/-Xuân lộc nổi sóng:Để tấn công tỉnh lỵ Xuân lộc, Cộng quân đã tung vào chiến trường này Quân đoàn4/CSBV gồm có 3 Sư đoàn 6,7 và 341 tổng trừ bị và các đơn vị điạ phương thuộc Quân khu 7 cùng với xe tăng, phòng không, đại pháo. đặc công, cấp trung đoàn yểm trợ, do Thiếu tướng CS Hoàng Cầm làm Tư lệnh mặt trận, Thiếu tướng CS Hoàng thế Hiệp làm Chính ủy. Theo kế hoạch trận chiến đẫm máu xảy ra tại 3 phòng tuyến: “ngã ba Dầy Giây”, do Chiến đoàn 52 BB và 1 Thiết đoàn Kỵ binh trấn giữ, “Gia Rai và núi Chứa Chan”, do Chiến đoàn 48 BB và Liên đoàn 7 BĐQ phòng thủ và tại “thị xã Xuân Lộc”, do Chiến đoàn 43 BB và các Tiểu đoàn BĐQ bảo vệ. BTL/SĐ18BB/HQ của Chuẩn tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh; Đại tá Nguyễn xuân Mai, Tư lệnh phó; Đại tá Hứa yến Lến, Tham mưu trưởng hành quân, được đặt tại chi khu Xuân lộc, phía Nam ngã ba Tân phong-Long giao có các đơn vị trừ bị của sư đoàn như Pháo binh, Truyền tin, Lữ đoàn 3 Kỵ binh, ĐPQ+NQ do Đại tá Lê xuân Hiếu chỉ huy bảo vệ. BCH/Tiểu khu Long Khánh do Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng kiêm TKT, chỉ huy lực lượng điền điạ.

Trận chiến Xuân lộc đã khởi sự sôi động từ rạng sáng ngày 9/4. Tuy nhiên kể từ ngày 7/4, Cộng quân đã điều động lực lượng bao vây các ngỏ vào Xuân lộc. Tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm giữa hai QL1 và 20, thì các đơn vị của Sư đoàn 6 và 341/CSBV đã tung quân ra đặt các chướng ngại vật cắt đứt đường giao thông giữa Long khánh và Biên hoà, pháo kích vào tuyến phòng thủ của Chiến đoàn 52BB đang án ngữ vòng đai phía Tây Bắc thị trấn, đồng thời Cộng quân cũng triển khai lực lượng cố thủ ngăn chận trên các yếu điểm. Trong khi đó, Thiết đoàn 5 Kỵ binh thuộc Lực lượng xung kích QĐ3/QK3 đang trên đường đến tăng cường tiếp trợ bứng chốt cho mặt trận Xuân lộc.

Sáng thứ 3 ngày 8/4, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào tỉnh lỵ, đồng thời tung hai Tiểu đoàn Đặc công đột nhập thị xã. Các đơn vị địa phương sẵn có thuộc QK.7 cũng đã nhất loạt tấn kích lực lượng phòng thủ tỉnh lỵ Xuân lộc tại nhiều nơi để thăm dò phản ứng của quân phòng thủ. Tuy nhiên, tất cả các mũi đột kích này đã bị quân trú phòng bẻ gãy ngay từ đầu.

Ngày 9/4/75 lúc 5giờ 30 sáng, Cộng quân đã pháo kích vào thị trấn Xuân lộc, kéo dài liên tục trong 2 giờ đồng hồ với hơn 3000 qủa đạn pháo đủ loại, phần lớn đạn pháo đã rơi vào khu Chợ, nhà Thờ, Ty Thông tin, Doanh trại và nhà dân chúng gây nhiều đám cháy và thương vong hổn loạn. Thế rồi đến 8giờ cùng ngày, quân CSBV đã sử dụng Bộ binh và Chiến xa nhất loạt tấn công vào tỉnh Long khánh, nhưng chúng bị chận lại bởi lực lượng trú phòng của QLVNCH, đánh trả quyết liệt nên chúng đã phải chém vè về phía sau, bỏ lại tại chỗ hàng trăm xác chết và 4 chiến xa T.54 bị hạ bởi hỏa tiển M72..

Ngày 10/4, Cộng quân trở lại tấn công tỉnh lỵ Xuân lộc với 3 Sư đoàn 6, 7, 341 CSBV và các trung đoàn chiến xa, đại pháo, đặc công, hỏa tiễn phòng không.. ,khắp các mặc trận Đông, Tây, Nam, Bắc thị trấn từ nhà thờ Chính tòa, khu chợ, phòng Thông tin, Bưu điện, Doanh trại, Phi trường v.v.. nơi nào Cộng quân cũng sữ dụng quân số tham chiến cấp Tiểu đoàn. Cuộc chiến đẫm máu kéo dài giằng co trong mấy ngày, cả hai phía Quốc gia – Cộng sản dành giựt nhau từng bờ tường, ngôi nhà, làm phòng tuyến để tìm sự sống trong cái chết cận kề bên đường tơ kẻ tóc. Không quân chiến thuật của QLVNCH đã yểm trợ tích cực và đánh bom hữu hiệu cho các đơn vị dưới đất bằng các loại phản lực cơ F5E đã góp phần tiêu diệt một số lớn địch quân. Sự thiệt hại nặng nề về phía Cộng quân trong trận chiến đã được Tướng Văn tiến Dũng thú nhận trong tập hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” 1975 như sau: mặt trận Xuân lộc đã ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các Sư đoàn 6, 7, và 341 của ta đã phải tổ chức tấn công vào thị xã từng mục tiêu nhiều lần do các phản công của địch.”

Và hãy nghe O. Todd, ký gỉa người Pháp, có thiện cảm với CSBV cũng đã mô tả: “tinh thần của binh sĩ bảo vệ Xuân lộc rất cao..” Thiếu tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh mặt trận cũng đã tuyên bố trong cuộc họp báo ngắn tại Xuân lộc rằng: “tôi không cần biết phía bên kia sẽ đưa bao nhiêu Sư đoàn để đánh chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ tiêu diệt họ..”. Nhưng ý nghĩa và lời cảm động là lời báo cáo của Tướng X. Smith, Trưởng phòng tùy viên quân sự (DAO), gữi cho Tướng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa kỳ, với lương tâm của một người lính, ông không khách sáo và hào nhoáng như miệng lưỡi của các chiến khách ngồi ở Hoa Thịnh Đốn, đã gỡ lại một phần danh dự cho QLVNCH: “Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QLVNCH đã chứng tỏ quyết tâm và anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gấp nhiều lần..”.

Trong khi đó tin tức đăng trên báo Chính luận, xuất bản tại Thủ đô Sài gòn, phóng viên chiến trường của tờ báo này đã cho biết: “QLVNCH vừa đánh thắng một trận lớn trong ngày hôm qua tại tỉnh Long khánh, nhưng sáng nay Cộng quân lại mở cuộc tấn công mới vào tỉnh lỵ này, và cho đến khi báo lên khuôn, trận đánh có tính cách thử thách quyết liệt vẫn còn đang tiếp viễn..”.

Cũng trong bản tin tức chiến sự phát ngôn viên quân sự phân phát cho báo chí Việt nam và Ngoại quốc ngày 10/4 cho biết một số chi tiết: Kể từ 6 giờ 30 sáng hôm qua, quân CSBV đã pháo kích khoảng 3,000 quả đạn đủ loại vào khu vực tỉnh lỵ Xuân lộc đồng thời sau đó, chúng sử dụng Bộ binh và Chiến xa tấn công vào thị xã. Kết quả sơ khởi cho biết có khoảng 300 Cộng quân đã bị hạ và 4 tên khác bị bắt sống. Ngoài ra còn có 100 vũ khí đủ loại của địch bị ta tịch thu và 4 chiến xa T.54 bị tiêu diệt”.

Ngoài bản tin nêu trên, phát ngôn viên quân sự còn cho báo chí biết thêm, căn cứ theo tin nhật báo Chính luận rằng: “Lúc 7 giờ sáng hôm nay, ngày 10/4 Cộng quân lại pháo kích khoảng 1,000 quả đạn đủ loại, đồng thời Bộ binh và Chiến xa của địch đã nhất loạt tấn công tỉnh lỵ này, từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc. Tổn thất đôi bên chưa rõ”

B/-Lữ đoàn 1 Nhảy Dù Vào trận địa:

Vừa rời khỏi mặt trận Thượng đức và Bắc Đèo Hải Vân, Đà nẳng thuộc QĐ1/QK1 vào cuối tháng 3-1975. Sau những tháng dài quần thảo với mặt trận “B1” của quân khu 5, trực diện với các Sư đoàn 304, 320, 329B và 711 thuộc QĐ2/CSBV do Trung tướng Lê trọng Tấn, TTM Phó QĐND/CSBV chỉ huy và Thượng tướng Chu văn Mân,Tư lệnh QK.5, giữ chức Chính ủy. Khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù về đến “Hoàng Cung” tại Sài gòn được mấy ngày, chưa kịp chỉnh trang đơn vị. Điều đó hãy nghe Trung tá Đào thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND tâm sự: “Lữ đoàn 1 được bàn giao vùng trách nhiệm cho đơn vị bạn TQLC và đơn vị được di chuyển về Thủ đô bằng máy bay. Đến Sài gòn không một ngày nghỉ, binh sĩ không được một giờ phép, anh em Nhảy dù chúng tôi cùng với Thủ đô thân yêu bị đặt trong tình trạng báo động, ba Tiểu đoàn 1, 8 và 9 của LĐ1ND ứng trực thuộc quyền BTL/BKTĐ, được lệnh nằm ven đô, ứng chiến cho Bộ TTM”.

Ngày 12/4 nhận được lệnh họp hành quân khẩn cấp của BTL/HQ/QĐ3/QK3.

Sau buổi họp, thi hành ngay kế hoạch hành quân mới, kể từ ngày 12/4 Lữ đoàn 1 ND tăng phái cho BTL/SĐ18BB với nhiệm vụ tăng cường phòng thủ tỉnh Long Khánh. Sau đó toàn bộ Lữ đoàn 1ND được đưa vào trận địa bằng trực thăng của hai Sư đoàn 3,và 4 Không quân VNCH gồm hàng trăm máy bay Hu1B đã thả hơn 2,000 chiến sĩ Nhảy dù từ Trãng Bom vào khu Đồi Chuối cạnh chi khu Xuân Lộc, TĐ3PB/ND cũng được trực thăng Chinook vận chuyển đến BCH/LĐ/HQ đóng kế BTL/SĐ18BB/HQ đặt tại quận lỵ Xuân lộc.

BTL/SĐ18BB/HQ trú đóng trong một góc rừng phía Đông Nam gần ngã ba chi khu Xuân lộc cùng với Pháo binh 155 ly và bãi đáp trực thăng, cạnh trung tâm hành quân sư đoàn. Trung tá Đỉnh LĐT/LĐ1 ND đã được đích thân Chuẩn tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh SĐ18BB cho biết khái lược về tình hình địch và Bạn cũng như dân chúng trong vùng, trên tấm bản đồ hành quân cầm tay có ghi nhiều chấm đỏ như sau:

a/- Tình hình địch:

-“Quân đoàn 4/CSBV, Tư lệnh là Thượng tướng CS Trần văn Trà (vừa thay Thiếu tướng CS Hoàng Cầm) và chính ủy là Thiếu tướng Hoàng thế Thiệp, chỉ huy gồm có 3 Sư đoàn 6, 7 và 341 tổng trừ bị cùng với các Lữ đoàn 203 và 204 Xe Tăng, Đại pháo Phòng không, Đặc công, và các đơn vị điạ phương thuộc QK 7 trợ chiến, dồn hết mọi nổ lực tấn kích 4 mặt vào tỉnh lỵ Long khánh với quân số và chiến cụ nhiều hơn quân ta gấp 7 lần.

b/- Tình hình bạn:

-“Lực lượng phòng thủ tỉnh Long Khánh của SĐ18BB gồm có Chiến đoàn 52BB do Đại tá Ngô kỳ Dũng chỉ huy; trên phòng tuyến phía Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc tỉnh lỵ; Chiến đoàn 48BB do Trung tá Trần minh Công chỉ huy, bảo vệ BTL/SĐ18BB ở phía Nam cách tiểu khu Long khánh 4 km. BCH/TKLK do Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng. Trung tá Lê quang Định TKP chỉ huy, có một Tiểu đòan BĐQ và các lực lượng ĐPQ+NQ vẫn chiến đấu bảo vệ quanh tỉnh. Dân chúng trong làng có tinh thần chống Cộng cao, các ấp trong xứ Đạo như ấp Bảo định, Bảo bình, Bảo hòa đều có lực lượng Nhân dân tự vệ được trang bị vũ khí và đạn dược đầy đủ”.

Xin hãy nghe lời trích thuật của các phóng viên chiến trường ngoại quốc ca ngợi và xưng tụng về sự oai dũng anh hùng của các người chiến sĩ QLVNCH trong trận chiến Xuân lộc như sau: “Sư đoàn 18BB của tướng Lê minh Đảo, chiến đấu như cọp dữ làm quân đoàn tấn công của CSBV phải khựng lại ở Xuân lộc, song vì thiếu quân số và đã cố gắng đến kiệt sức, Tướng Đảo xin tiếp viện.. . Ngay lập tức, Lữ đoàn 1ND của Trung tá Nguyễn văn Đỉnh chỉ huy được đưa tới tăng viện cho Sư đoàn 18BB. Ngay khi chân họ vừa chạm đất, vẳng nghe đâu đây có một tiếng la lớn: “Vứt hết nón sắt, đội nón đỏ!”. Thế là bao nhiêu nón sắt vứt đầy mặt đất.. .Lính Dù với nón đỏ truyền thống trên đầu họ, họ chiến như sư tử, có những người lính bị thương rách bụng, lòi ruột, họ nhét vội ruột vào túi nhựa, tiếp tục chiến đấu với một tay ôm túi ruột của mình, một tay vẫn ghì súng bắn vào đầu giặc cho tới lúc kiệt sức gục ngã. Tinh thần chiến đấu vượt lên trên cả những câu xưng tụng thông thường: anh dũng can trường v.. v…

Phải nói các anh người lính VNCH, trong trận đánh chót này là “thần thánh” và những gục ngã tức tưởi cũng rất “thần thánh” vì chỉ có “thần thánh” mới chiến đấu được như vậy khi trong mình đang mang nhiều vết “nội thương rĩ máu. Chính các anh những người lính này, những đơn vị này đã làm cho “Tổ quốc, Danh Dự, Trách nhiệm” của QLVNCH sáng chói. Bởi vì Tổ quốc, các anh đã sẳn sàng và tự nguyện chiến đấu cho đến chết, vì Danh dự và Trách nhiệm anh đã lăn xả vào phòng chiến để chứng minh cho quân thù và thế giới: “thấy QLVNCH không hèn nhát..”.

Ngay sau khi cuộc đổ quân bằng trực thăng vận hoàn tất, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh LĐT/LĐ1ND liền khai triển lực lượng Nhảy dù tiến thẳng vào mục tiêu ấn định theo đội chân vẹt:

Tiểu đoàn 9 do Trung tá Nguyễn văn Nhỏ làm Tiểu đoàn trưởng, trách nhiệm diệt các chốt địch trên QL 1, sau đó bung quân lục soát về phía Đông, tìm phương cách giap tiếp với dân trong ấp Bảo định rồi bố trí chờ lệnh.
Sau khi xuất phát khoảng nửa giờ thì ĐD3/ND do Đại úy Đinh văn Tường làm ĐĐT, chạm địch ở phía Đông trên đường đến ấp Bảo định. Kết quả sơ khởi: địch có 12 tên nằm tại chổ, 1 súng cối 61 ly và 9 súng cá nhân bị ta tịch thu và còn một số tàn quân chạy về hướng Đông Bắc.
Trong khi của Tiểu đoàn 9ND tiến lên còn cách ấp Bảo định 500 thước thì lực lượng Dân vệ trong ấp báo động, súng các loại bắt đầu nổ kể cả súng cối 60 ly, trong ấp bắn ra như mưa, đạn bay vèo vèo về phía quân Dù, làm át cả tiếng loa kêu gọi, nên các chiến sĩ Dù lo ẩn núp chờ liên lạc giao tiếp .. Độ 15 phút sau, từ khi nổ súng ào ạt vào quân Dù nhưng thấy vẫn im lặng, không có phản ứng gì, dân trong ấp cũng ngưng bắn chờ đợi quan sát . Nhảy dù tiếp tục liên lạc loa kêu gọi khi giao tiếp được với nhau “quân – dân” tay bắt mặt mừng, buồn vui lẫn lộn. Trong lúc đó có Trung tá Nhỏ, Tiểu Đoàn Trưởng TDND và 2 binh sĩ đã bị thương vì mãnh đạn súng cối, được chuyển về phía sau chờ tản thương, Thiếu tá Lê mạnh Đường TĐP được xữ lý chức vụ TĐT.
Tiểu đoàn 9ND được TĐ1ND lên hoán đổi nhiệm vụ cho nhau. TĐ9ND về hoạt động lục soát, bung quân rộng tìm diệt địch ở phía Tây Chi khu Xuân lộc, TĐ1ND do Thiếu tá Ngô tùng Châu làm Tiểu đoàn trưởng là lực lượng trừ bị cho Lữ đoàn, được điều động lên thay cho TĐ9ND bố trí về hướng Đông ấp Bảo định ở phía Tây Liên tỉnh lộ 2 chờ lệnh.
TĐ8ND do Trung tá Đào thiện Tuyển làm Tiểu đoàn trưởng, có nhiệm vụ lục soát lên phía Bắc và Đông Bắc khu rừng chồi ở hướng Bắc QL1, bắt tay với Tiểu đoàn 82 BĐQ của Thiếu tá Dương mộng Long làm TĐT, đang bảo vệ phi trường Long khánh, sau đó bố trí quân về hướng Đông tỉnh lỵ. Tiểu đoàn 8ND xuất phát rời khỏi QL.1 khoảng 600 thước về phía Bắc thì chạm súng liên tục với các tổ tiền đồn của địch trong khu rừng chồi. Trung tá Tuyển cho tung các Đại đội trái phải thành đội hình nấc thang khép kín vòng vây tiến sát để truy diệt địch.
Trong thời gian này, BCH/LĐ1ND/HQ đóng cạnh Bộ Tư Lệnh SĐ18BB/HQ ở chi khu Xuân lộc, bị Cộng quân pháo kích 30 qủa đạn loại 130ly từ hướng Đông Bắc vào vòng đai phòng thủ, thiệt hại của các đơn vị không đáng kể. Với tư cách là LĐT/LĐ1ND Trung tá Đỉnh đã đệ trình đề nghị lên v ị Tư lệnh chiến trường Xuân lộc là C/T Lê Minh Đảo những yếu điểm của BTL/HQ tử thủ như sau:

1/BTL/HQ và Trung Tâm Hành Quân chiến thuật không nên đóng chung với đơn vị Pháo binh.

2/ Hạn chế máy bay trực thăng lên xuống gần BTL/HQ.

3/ Vị trí đặt BTL/HQ tránh các điểm nổi trên bản đồ điạ hình..

4/ Nên cho đào hầm kiên cố dưới chân đồi Chuối để đặt Trung Tâm Hành Quân Phối Hợp Sư Đoàn…

Nhưng rất tiếc đề nghị này chưa được áp dụng, có lẽ vì BTL/SĐ18BB đóng tại tĩnh lỵ Long Khánh không có nhiệm vụ “tử thủ” hoặc yếu tố thời gian không cho phép.

Trong khi đó toán truyền tin đặc biệt của Phòng 7/BTTM tăng phái đã rà tần số bắt được “mật tin, đêm nay Cộng quân cho đơn vị tới giải cứu đồng đội đang bị lực lượng Nhảy dù bao vây để tản thương”, Trung tá Đỉnh LĐT cho lệnh TĐ1ND đang ở phiá Đông ấp Bảo định được điều động ngay chiều tối hôm đó lên giăng một tuyến phòng thủ kéo dài từ Bắc xuống Nam hướng về phía Đông chờ địch. Sau lưng TĐ1ND là TĐ8ND được tăng cường ĐD3/ND đang siết chặt đám tàn quân địch còn kẹt lại bên trong hàng rào vườn cây ăn trái của cố Thống tướng Tỵ và một số ẩn núp trong khu vực nhà kho chứa hàng của Tổng Thống Thiệu.

Đồng thời TĐ3pháo binh Nhảy dù do thiếu tá Nguyễn văn Thông tức Thông gìa làm TĐT với nhiều kinh nghiệm pháo trận địa (đặc biệt món” Phở tái nạm gàu”, nếu các cháu ngoan của bác đã ăn phải là nhớ đời…) lúc nào cũng sẵn sàng hàng trăm qủa đạn pháo 105 ly để yểm trợ cận phòng tối đa cho quân bạn theo nhu cầu hỏa tập tiên liệu sẽ chụp xuống đầu địch bất cứ lúc nào.

Đúng theo kế hoạch tiên liệu, khoảng 10 giờ đêm Cộng quân xuất hiện dưới các tàng cây hầu hết trước tuyến án ngữ của TD1ND. Đợi địch đến gần.. gần thêm nữa, 150 thước.. rồi 100 thước.. Lệnh khai báo: “Ầm! Ầm! Ầm!..” chỉ mấy phút sau, có hơn 400 qủa đạn đại bác 105 ly vừa chạm nổ, vừa nổ cao chụp xuống đầu địch từ hỏa tập này chuyển sang hỏa tập khác được tiên liệu theo nhu cầu pháo yểm, thế là đơn vị của Trung đoàn 141/SĐ7/CSBV coi như bị xóa sổ hoàn toàn, vì đạn pháo đã cày nát vườn cây ăn trái, xác địch nằm la liệt tung tóe ngổn ngang. Các chiến sĩ TĐ1ND chỉ cần sử dụng vũ khí cá nhân, sau khi pháo binh ngưng tác xạ để thanh toán những tên “sinh Bắc tử Nam” cuối cùng còn sống sót cố thủ trong hầm hố chiến đấu, TĐ1ND sau khi thu dọn chiến trường tiếp tục án ngữ tại chổ chờ lệnh.

Tin chiến thắng của các Đại đội Nhảy Dù, đã tiêu diệt gần hết 2 tiểu đoàn Cộng quân được trực tiếp báo cáo về BCH/LĐ1ND/HQ, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh LĐT, mỉm cười Ông lẫm bẫm: “Cho phép tôi hãnh diện nói theo ngôn từ quân sự một chút, vì đây là trận đánh thắng cuối cùng và toàn vẹn nhất của đơn vị Nhảy Dù từ trước đến nay. Thật đáng hãnh diện về chiến công hiếm có này!!”.

Trong khi đó, nhìn về trận tuyến tại ngã ba “Dầu Giây” ngày 12/4 Cộng quân đã đồng loạt tấn công vào Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52 do Đại tá Lê kỳ Dũng chỉ huy, bằng chiến thuật biển người với chiến xa và đại pháo đủ loại .v.v.. Sau nhiều giờ giao chiến ác liệt giữa đôi bên, tuy nhiên vì bị áp lực của địch qúa mạnh cho nên lần lượt các tiền đồn án ngữ của Trung đoàn 52/BB từ xã Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu trên QL. 20 đã bị Cộng quân tràn ngập.

Ngày 15/4, cũng tại ngã ba “Dầu Giây”. Quân Đoàn 4/CSBV do Thượng tướng Trần văn Trà, tổng chỉ huy, trở lại mở ra trận đánh thí quân quyết tử đã áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung tấn công ấp đảo cứ điểm của Trung đoàn 52/BB, Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ và lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, gồm có khoảng 2,000 người trú phòng gần ngã ba QL.1 và 20. Trong trận chiến tàn bạo khủng khiếp này, một người lính VNCH phải chiến đấu chống trả với 9 người lính CSBV có chiến xa và đại pháo trợ chiến.

Sau mấy ngày ác chiến chống trả quyết liệt không ngưng nghỉ, tất cả pháo binh, thiết giáp, đạn dược, người hầu như đều bị ủy diệt cho đến khi hầm chỉ huy của Chiến Đoàn Trưởng bị pháo kích bắn sụp Đại tá Ngô kỳ Dũng mới cho lệnh rút quân thì còn có khoảng 200 người được sống sót.

Ngay khi nhận được tin cứ điểm phòng thủ của Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52 bị Cộng quân tràn ngập. Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh QĐ3/QK3 xin quyết định sử dụng 2 qủa bom “Daisy Cutter” còn gọi là “CBU.82” tại mặt trận “Ngã Ba Dầu Giây”. Sau này Tướng Toàn cho biết, khi có quyết định của Bộ TTM, “Ông đã ra lệnh cho Không quân, Tân Sơn Nhất, sử dụng 2 vận tải cơ c.130 để thà 2 quả bom “Daisy Cutter” xuống ngã ba Dầu Giây trong đêm 15/4, vào vùng tập trung quân của QĐ4/CSBV để chuẩn bị tiến về Thủ Đô Sài Gòn. Nơi đây có gần 10,000 Cộng quân cùng với chiến xa T.54 và đại pháo các loại đang di chuyển trên QL.20 vừa tới ngã ba Dầu Giây đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

“Daisy Cutter” là loại bom nặng có trọng lượng 15,000lbs, dùng để khai hoang hay mở bải đổ quân cho đơn vị cấp Sư đoàn hoặc Lộ Quân ở bất cứ địa thế nào và có tầm sát hại trong vòng đường kính 5 dặm, đã làm cho đại quân của Tướng Võ nguyên Giáp rối loạn hàng ngũ trong 3 ngày liền, tại Hà Nội CSBV lại la ó ầm ĩ cho rằng Mỹ đã vi phạm Hiệp Định Paris, đưa pháo đài B.52 trở lại chiến trường và sử dụng bom nguyên tử trong cuộc chiến Việt nam.

Ngày 16/4 trở lại LĐ1ND ở mặt trận Xuân Lộc, sau 4 ngày quần thảo với lực lượng Cộng quân trong vùng trách nhiệm các đơn vị Nhảy Dù vẫn giữ vững được tuyến phòng thủ và còn tạo được nhiều chiến thắng oai hùng mặc dầu bị quân số địch rất đông áp đảo. Sáng nay, dân chúng trong ấp Bảo Bình báo cho biết hiện Cộng quân còn một số đông khỏe mạnh với đủ loại cáng khiêng và có khoảng 200 tên khác bị thương nặng đang nằm băng bó trong ấp. Họ còn cho biết thêm là dân trong ấp Bảo Định đã bỏ nhà chạy hết sang trú ngụ bên ấp Bảo Bình ở phía Nam cách đó khỏang 1 cây số.

Vậy thì tốt, Pháo binh Nhảy Dù lại được dịp “bán Phở”, ngay sau khi Sĩ quan Tiền sát Pháo binh leo lên được tháp chuông nhà thờ Bảo Bình quan sát và điều chỉnh yếu tố lấy “thực đơn”. Thế là 200 qủa đạn đại bác 105 ly đủ loại được liên tục gửi tới chụp xuống đầu những tên “sinh Bắc tử Nam” vừa mới chạy thoát khỏi trận chiến đêm qua. TĐ1ND đang bố trí ở phiá Đông ấp Bảo Định tương đối yên tỉnh, đã được lệnh cho một đứa con lên lục soát mục tiêu pháo binh vừa tác xạ.

Ngày 18/4, Trung tá Đỉnh Lữ đoàn trưởng cho lệnh TĐ9ND đưa một đứa con vào vùng do Đại Đội Trinh Sát báo cáo, lục soát như thường lệ. Đại đội 94/ND trên trục tiến quân Trung Úy Thăng cho biết về hướng Đông gần cuối rừng cao su có thấy bóng nhiều xe vận tải Molotova. Khi rời vị trí đóng quân được khoảng 1,000 thước thì Đại đội 94/ND chạm địch khá mạnh, cấp tiểu đoàn dưới hầm hố ngụy trang cây lá, vũ khí cá nhân và cộng đồng bắn ra xối xả. Một khám phá mới Cộng quân còn làm ổ phục kích cả trên các ngọn cây cao su để bắn tỉa. Quả thật bọn chúng có nhiều lợi thế, nên rất hung hản “bu” xung quanh như muốn ào tới để đè bẹp lực lượng Dù.

Thấy Đại đội của mình có thể bị kẹp trong vòng vây nguy hiểm. Trung úy Thăng ĐĐT liền cho lệnh binh sĩ đào hố cá nhân chiến đấu tại chỗ và lập tức xin yểm trợ. Được phi pháo yểm trợ vòng ngoài vì thời tiết quá xấu hơn nữa quân ta và địch qúa gần không có khoảng cách an toàn.

Ngay chiều hôm đó mặc dầu trời mưa tầm tã. Đại đội 93/ND do Đại úy Đinh văn Tường, đã xuất phát lúc 5 giờ để kịp giao tiếp với với ĐĐ4/ND. Dưới quyền điều động của Đại úy Trần ngọc Chỉ tân Tiểu đoàn Phó TD9/ND, nhưng khi đại đội 93/ND mới vượt qua khỏi trảng trống vừa bám được vào bìa rừng cao su với Đại đội 94/ND thì chạm địch rất mạnh. Lại chơi trò “công đồn, đã viện” nữa đây chăng. Lúc bây giờ trời về chiều lại có mưa nên trong rừng cây tối đen. Ta và địch bắn nhau qua lại, lúc mạnh khi yếu, cầm chừng suốt đêm, vì bên này sợ bên kia mò tới.. Tình hình trở nên giằng co căng thẳng, bất phân thắng bại. Còn Pháo binh Nhảy dù cũng chỉ can thiệp yểm trợ vòng ngoài thôi vì quân hai bên gần như lẫn lộn nhau không còn khoảng cách an toàn cho pháo yểm.

Trung Tá Đĩnh, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 ND, cũng vừa nhận được lệnh của Chuẩn tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh chiến trường Xuân lộc báo cho LĐ1ND chuẩn bị triệt thoái toàn bộ của đơn vị ra khỏi Long Khánh, đây là lệnh của Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệng QĐ3/QK3 để bảo toàn lực lượng về phòng thủ Sài gòn”. Ông hết sức ngạc nhiên: “đơn vị mình vẫn vững vàng, tại sao lại bỏ Long Khánh?. Ông liên tưởng đến những cuộc rút quân, triệt thoái, di tản chiến thuật, tái phối trí lực lượng v.v.. trước đây ở QĐ1” cửa biển Thuận An, Tư Hiền” và ở QĐ2 “Liên tỉnh lộ 7B, Phú Bổn, Tuy Hoà”, Trung tá Đĩnh đứng lặng người nghĩ nhiều đến những chiến hữu thân thương, bạn bè đã hy sinh, đã nằm xuống trong các trận đánh để đời này. Vì Ông cho rằng chiến thuật đúng, chiến lược sai thì trận chiến có thể thắng nhưng cuộc chiến sẽ thất bại..”. Vậy xin Chuẩn tướng trình lại với Trung tướng..”.

Trung tá Đào thiện Tuyển TĐT/TĐ8ND với quyết tâm của một người lính Nhảy dù, thề đổ máu để bảo vệ quê hương mẹ Việt nam. Ông nói: “mặt trận Xuân lộc, niềm hy vọng cuối.. Các đơn vị ta ở Long Khánh vẫn còn vững vàng đang chiến đấu và xiết chặt vòng vây suốt sáu ngày qua, đạn đã lên nòng, mũi súng hướng vào đầu địch. Chỉ còn giờ hay phút để “bắt bọn chúng phải giơ tay lên ở mãnh đất Long Khánh rực lửa căm hờn này”. Vậy các anh không được ngã gục. Các anh không được quy hàng. Các anh không được tan rã ra từng mãnh. Trong tan rã của một đơn vị, các anh là người lính Mũ Đỏ, những anh em Biệt Động Quân, những chiến sĩ Bộ binh, những anh em Điạ Phương Quân, Nghĩa Quân, sẽ không chỉ là sự tan rã của một đơn vị, mà chính là sự tan rã của hy vọng, là sự ngã đổ của Thủ Đô Sài Gòn và từ đó có thể là sự nằm xuống dài hạn của một thân thể lớn quí tuyệt vời mà chúng ta thân yêu gọi là “Tổ Quốc”.

“Không, anh em chúng tôi, Nhảy Dù và các Quân Binh Chủng bạn. Chúng tôi không ngã gục ở Xuân Lộc, chúng tôi không tan rã, hơn thế nữa chúng tôi phải chiến thắng. Chúng tôi chỉa thẳng súng vào đầu địch hét lớn: ”Bỏ súng xuống, giơ tay lên không thì chết”. Nhưng chính Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh QĐ3/QK3, không cho chúng tôi có thời gian và phương tiện để làm điều đó. Ông đã hướng về phía chúng tôi và hạ lệnh: “Các anh phải ngưng bắn, các anh phải rút lui ra khỏi mặt trận Xuân Lộc”. Quân thù đang qùy gối liền đứng dậy, kéo theo ngọn cờ chiến thắng. Còn anh em chúng tôi thì gạt nước mắt lui quân.. Trung tướng Toàn ra lệnh cho Chuẩn tướng Đảo, Tư lệnh Sư Đoàn 18BB kiêm tư lệnh chiến trường Xuân Lộc – Long Khánh. Quân lệnh, được Ông lập lại “Đây là lệnh của thượng cấp..”.

Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long khánh, người chiến sĩ BĐQ can trường thề da ngưạ bọc thây, chấp nhận nhỏ máu xuống làm sống tốt tươi đất đai quê mẹ chớ không hèn. Ông nói: ”tôi phải ở lại bảo vệ Long Khánh đến cuối cùng, nếu tôi bỏ chạy xin anh em bắn chết tôi”.

Sáng hôm sau ngày 19/4, theo lời yêu cầu của Trung tá Đỉnh, LĐT/LĐ1ND, được một Chi đoàn Thiết vận xa M.113 tăng phái đặt thuộc quyền sử dụng trực tiếp của ĐĐ93/ND tiếp viện để thanh toán chiến trường nhanh gọn. Có được đoàn “cua sắt” trong tay Đại úy Tường, tung hoành ngang dọc như cọp được về rừng có thêm bánh. Với những khẩu đại liên 50 của Thiết vận xa M.113 cùng đại liên M.60, phóng lựu M.79 và M.16 của chiến sĩ Nhảy dù thi nhau nổ như pháo tết đêm giao thừa. Cây lá bị đạn chém tả tơi, mấy con chim “người VC” làm tổ ẩn núp trên những cành cây làm sao chịu nổi, phải rơi rụng như sung chín.

Rồi đến lựu đạn M.26 được ném ra cùng M.72 phá tung các cụm cây ngụy trang ở a thì trên miệng hầm trú ẩn. Vừa bắn ầm! ầm!, anh em chiến sĩ Đại đội 93/ND vừa bám theo Thiết vận xa M.113 tiến tới như thát đổ.. Tiếng Trung úy Thăng la bai bãi qua máy truyền tin: ”Coi chừng, đạn bắn gần quá, qua đầu tụi tui rồi đấy”. Có tiếng của Đại úy Tường đáp lại: “Bung ra chứ, bộ đợi tao cõng ra nữa hay sao?.

Thực ra thì Đại đội 94/ND kẹt ở hướng Nam vẫn cầm cự suốt hai ngày qua với quân số của địch đông gấp 3,4 lần. Nhưng bây giờ, thì đội hình bao vây của địch bị bể rồi, 2 Đại đội mới giao tiếp được với nhau. Đại úy tường liền cho đoàn Thiết vận xa chuyển xạ về hướng Đông Nam, thanh toán nốt đám tàn quân đang tháo chạy về cuối rừng cao su.

Địch quân bị ở thế gọng kềm trong bung ra, ngoài ép vào, thêm hỏa lực đại liên 50 trên Thiết vận xa M.113 bắn rà sát truy diệt, địch quân đã bỏ lại tại chỗ khoảng 200 tên “sinh Bắc tử Nam” không còn “Nguyên Giáp”.

Quân ta tổn thất: ”Thiếu úy Thoại và 2 binh sĩ hy sinh, 8 binh sĩ khác bị thương và 1 Thiết vận xa bị đứt xích”.

Sau đó, Chi đoàn Thiết vận xa M.113 được rời vùng, 2 đại đội Nhảy dù được lệnh đóng quân tại chổ, thiết lập một tuyến an ninh xa cho BTL/SĐ18/BB/HQ, tình hình chiến trận trên thực tế chưa hẳn êm ả hoàn toàn. Vì còn rất nhiều địch quân trong khu rừng cao su bát ngát mênh mông. Đêm về chúng có những toán trinh sát bám theo các Đại đội Nhảy dù và thường tác xạ trao đổi qua lại để thăm dò.

Sáng ngày 20/4, Trung tá Đĩnh lại được lệnh từ Tướng Đảo cho biết: “Đây là lệnh chuyển từ Sài Gòn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phải bỏ mặt trận Long Khánh..” Lại chiến lược đầu bé, đít to” đưa đến các cuộc triệt thoái ấm ức xảy ra tại QĐI và QĐII trước đây. Một buổi họp khẩn cấp được mở ra tại Trung tâm hành quân BTL/SĐ18BB/HQ, lệnh triệt thoái được Tướng Đảo, với tư cách Tư lệnh chiến trường Long Khánh, ban ra vắn tắt nhưng tương đối đầy đủ, tóm lược các điểm chính như sau:

Liên tỉnh lộ 2 nối liền giữa Long Khánh – Phước Tuy sẽ được sử dụng làm lộ trình rút quân về hướng Nam (Phước Tuy). LTL này đã từ lâu không sử dụng, hy vọng sẽ đạt được yếu tố bất ngờ. Nhưng còn mấy chục cây số đường rừng bị bỏ hoang phế trên LTL. 2 từ Tân Phong cho đến Đức Thạnh, Long Lể về Bà Riạ không phải là việc bình thường của một cuộc rút đoàn quân di tản có cả dân chúng người gìa, trẻ con lẫn lộn.
Trên đường rút quân có căn cứ Long Giao cách chi khu Xuân Lộc 8 cây số về hướng Nam, hiện là hậu cứ của Trung đoàn 48/BB, được coi như còn an toàn.
Từ đó tiến về hướng Nam khoảng 4 cây số là xã Cảm Mỹ được ghi nhận là có một tiểu đoàn VC cơ động trong vùng lân cận.
Lệnh tổng quát và thứ tự rút quân:

BTL/SĐ18BB và các đơn vị trực thuộc.
BCH/Tiểu khu Long Khánh và các đơn vị ĐPQ+NQ.
BCH/Lữ Đoàn 1Nhảy Dù.
Cuộc rút quân được khai triển ngay chiều tối ngày 20/4 với SĐ18BB mở đường và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đoạn hậu.

Đội hình chuẩn bị di chuyển chiến thuật của LĐ1ND lúc đó như sau:

Tiểu đoàn 1 ND đóng ở phía Đông ấp Bảo Định xa nhất, không chạm địch.
Tiểu đoàn 8 ND ở trong khu rừng chồi phía Bắc QL.1 đang bao vây đám tàng quân địch tại khu nhà kho của Tổng Thống Thiệu, ĐĐ1 CBND chuẩn bị chất nổ để cắt phá hàng rào.
Tiểu đoàn 9ND(-) làm trừ bị phía Tây LTL.2, còn 2 ĐĐ 93/ND và 94/ND vẫn giăng ngang làm tuyến án ngữ phía Đông Nam BTL/SĐ18BB/HQ. Hai Đại đội này tiếp tục chạm địch ngăn chận không cho chúng tiến ra LTL.2 để gài chốt chận.
Kế hoạch rút quân của Trung tá Đỉnh LĐT theo chiến thuật di quân “giương Đông, kích Tây”. Lợi dụng thành phần tiền phong của BTL/SĐ18BB di chuyển trước an toàn:

Tiểu đoàn 3PB/ND được chia ra làm 2 thành phần sử dụng quân xa kéo súng đại bác đi trước Lữ đoàn 1 Nhảy dù, theo đội hình “chân vẹt” để luôn luôn duy trì được hỏa lực yểm trợ liên tục cho các tiểu đoàn tác chiến đồng thời hổ tương yểm trợ lẫn nhau giưã các pháo đội trong lúc di chuyển.
Sơ khởi thành phần thứ 1, di chuyển bằng xe kéo pháo đến đóng tại căn cứ Long Giao sẵn sàng. Thành phần thứ 2, kế tiếp di chuyển qua khỏi Long Giao xuống phiá Nam khoảng 4, 5 cây số vào điạ thế sẳn sàng.. Khi cánh quân bạn đến trong tầm yểm trợ của thành phần 2, thì lập tức thành phần 1 xếp càng, kéo súng vượt qua thành phần 2, đến một vị trí xa hơn 4, 5 cây số về phiá Nam. Và cứ như thế mà thi hành luân chuyển. Mỗi thành phần được một trung đội Trinh sát Nhảy dù đi theo bảo vệ.
Thứ tự di chuyển:TĐ8ND, BCH/LD và các đơn vị yểm trợ, TĐ1ND, TĐ9ND(-) cuối cùng là hai Đại đội Nhảy dù đang chạm địch, đến giờ phút rút lui phải cho nổ mìn Claymore và súng tác xạ vờ xung phong phản công nghi binh rồi im lặng đoạn chiến. Hỏa lực pháo binh ưu tiên yểm trợ cho hai Đại đội này, chỉ có TĐ3PB/ND mới được di chuyển trên đường lộ cái.
Các đơn vị được thẩm quyền được thông báo tường tận về địch và bạn trong vùng tiếp cận. Tình hình mỗi lúc một thay đổi khác. Tôi cũng lưu ý anh em luôn luôn cẩn thận đề cao cảnh giác. Bộ chỉ huy LĐ1ND(+) do Trung tá Lê Hồng, Lữ đoàn phó chỉ huy.

Có thể nhờ vào yếu tố bất ngờ lúc đầu, nên các thành phần của BTL/SĐ18BB/HQ kể cả Thiết giáp rút đi an toàn. Lúc bấy giờ trời đã tối, tại ngã ba chi khu Xuân lộc, đông nghẹt người chen chúc đủ mọi thành phần: quân nhân thuộc các quân binh chủng, ĐPQ+NQ và gia đình, các nhà tu hành, dân chúng v.v.. Ngoại trừ các đơn vị Nhảy dù vẫn đóng quân tại chổ chờ lệnh, còn các thành phần khác mạnh ai nấy đi, không theo thứ tự như đã quy định trong lệnh di chuyển. Đoàn người chạy trốn “thần chết” nhưng cũng không thoát khỏi bởi cái gọi ‘quân đội nhân dân của CS” pháo kích truy đuổi đòi nợ máu dân tộc , cái thảm cảnh máu đổ thịt rơi như hồi Mùa Hè Đỏ Lửa 72, đại lộ kinh hoàng ở Quảng trị lại tái diễn..?

Khi đến Long Giao thì BCH/LĐ1ND(-) tạm dừng quân. 2 pháo đội 105 ly đã bố trí tại đây sẵn sàng yểm trợ cho thành phần rút chót của Lữ đoàn. Đồng thời 2 pháo đội khác cũng đã có mặt tại vùng xã Cẫm Mỹ. Trong khi đó, trên đỉnh đồi trọc bên kia đường phía Đông đối diện với căn cứ Long Giao địch quân đặt một khẩu thượng liên 12,7 ly để chế ngự cầm chân quân ta, mỗi vài phút thì chúng lại bắn trực xạ vào cổng căn cứ. Trung Tá Đỉnh liền quyết định làm câm họng khẩu thượng liên này bằng một loạt đại pháo với đầu nổ cao bắn đi từ 2 pháo đội ở xã Cẫm Mỹ.

TĐ8ND được lệnh khởi hành vào lúc 10 giờ đêm, gồm các thành phần thuộc LĐ1ND, kéo theo các đơn vị địa phương, gia đình và dân chúng chạy loạn. Các đơn vị Nhảy dù khai triển và phải luôn giữ đúng đội hình tác chiến và sẵn sàng phản ứng kịp thời khi chạm địch. TĐ9ND còn 2 Đại đội đang chạm địch rút đi đoạn hậu. Khi BCH/TĐ rút đồi Chuối sẽ có ĐĐ 94/ND của Trung úy Thăng tháp tùng. Khoảng 2 giờ sáng, Đại úy Tường cho lệnh ĐĐ 93/ND bấm mìn Claymore tấn công nghi binh, rồi đoạn chiến. Tiếng nổ vang ‘ầm! ầm!’ rồi ‘ầm! ầm!’ làm rung chuyễn cả một góc rừng trong đêm vắng, sau đó lặng lẽ lui quân.

Bây giờ Tướng Đảo, Tư lệnh chiến trường và Tướng Lưỡng, Tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù nhận được báo cáo thành phần Nhảy Dù sau cùng đã rời khỏi mặt trận Xuân Lộc – Long Khánh an toàn, lúc 2 giờ sáng 21/4. Nhưng đây mới là giai đoạn đầu, vì trên đường về khu tập trung làng Bình Gĩa, quận Đức Thạnh tỉnh Phước Tuy còn dài, sẽ còn rất nhiều bất trắc và lắm gian nguy trên LTL.2.

“Tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, trên nguyên tắc và định nghĩa là người chỉ huy trực tiếp Binh Chủng Nhảy Dù, nhưng trên thực tế kể từ ngày SĐND được bốc ra khỏi vùnh hỏa tuyến QĐ1/QK1, thì Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH đã xé nát Sư Đoàn Nhảy Dù ra từng mãnh, đẩy đi khắp các mặt trận. Do đó quyền chỉ huy chiến thuật trong Binh Chủng Nhảy Dù và việc điều động anh em trong đơn vị Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh Nhảy Dù có nhiều mưu lượt khả kính. Khi Ông nhìn thấy những chiến hữu đã từng “vào sinh ra tử” đang bị hiểm nguy trên trận địa, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng đã phải chạy ngược chạy xuôi, can thiệp phối hợp điều động lất TĐ7ND do Trung Tá Nguyễn Lô, Tiểu Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Nguyễn văn Qúy làm Tiểu Đoàn Phó chỉ huy cùng 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 thuộc Lực Lượng Xung Kích QĐ3/QK3, trừ bị tại tỉnh Biên Hòa, di chuyển gấp rút để tiếp ứng cho các thành phần của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đang trên đường rút quân từ căn cứ Long Giao về làng Bình Gỉa, Phước Tuy.

Đến khoảng 5 giờ sáng, đơn vị đoạn hậu của LĐ1ND đã đến căn cứ Long Giao, thì BCH/LĐ(-) đang đến với thành phần 2 pháo đội ở xã Cẫm Mỹ, trong khi đó thành phần 1 pháo đội ở Long Giao xếp càng, để di chuển vượt qua xã Cẫm Mỹ về vị trí mới ở phía Nam đúng theo kế hoạch. BCH/LĐ tiếp tục di chuyển trên LTL.2 ngang xã Cẫm Mỹ, hai bên đường phần lớn là những vạc rừng rậm, rừng tre gai xen lẫn rừng chồi cao thấp qúa đầu người, đi được khoảng 3,4 cây số thì trời vừa sáng, nghe có nhiều tiếng súng nổ liên hồi và đám bụi mù ở phía trước. BCH/LĐ dừng lại bố trí tạm bên lề đường quan sát, độ 30 phút sau có một số ĐPQ+NQ và gia đình chạy ngược lại, một sĩ quan ĐPQ cho biết:

Bộ Chỉ Huy Tiểu khu vừa tới khúc quẹo dưới dốc thì bị Cộng quân phục kích tấn công. Chúng trên đồi đông lắm, tràn ngập đoàn xe đang di chuyển. Trung tá Lê Quang Định, TKP bị đạn B.40 chết tại chổ, còn Đại tá Phúc Tỉnh trưởng, cũng bị thương nặng và bọn chúng đã kéo đi rồi..
Trung tá Đỉnh, quyết định cho Pháo Binh Nhảy Dù yểm trợ giải cứu, nhưng Ông nhận được báo cáo của sĩ quan Tiền Sát:
Thành phần pháo binh ở phía Nam chưa vào được vị trí sẵn sàng tác xạ.
Pháo đội ở phía Bắc đang bị địch tấn công biển người tràn ngập, Đại úy Điệp PĐT bị địch bắt đã dùng súng lục ‘tự sát’
Thế là BCH/LĐ cùng một số ĐPQ và gia đình đang bị kẹt giữa trận chiến: “phiá trước là BCH/Tiểu khu bị phục kích, sau lưng là Pháo Đội và Trung Đội Trinh sát Nhảy Dù bị tấn công tràn ngập”. Ông liền tung TĐ8ND lên tiếp ứng.
Trung tá Đào Thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND cho một đại đội lục soát đến vị trí của Pháo Đội, phần còn lại của Tiểu đoàn đánh bọc sườn phía Tây ngọn đồi chận địch. Cộng quân chỉ đánh chớp nhoáng lướt qua vị trí Pháo Binh, phá hủy 4 khẩu đại bác 105 ly, bắt một số quân nhân Nhảy Dù rồi rút chạy vội về hướng Đông. Đại đội Nhảy Dù lục soát đã tìm thấy 5 thương binh của ta, mau lẹ dìu họ theo. Có 12 chiến hữu hy sinh đành phải bỏ lại.
Khi tiếp giáp được với TĐ8ND, BCH/LĐ tiếp tục di chuyển về hướng Nam theo đội hình cũ, nhưng lộ trình thay đổi: “toàn bộ rời LTL.2, đi vào trong bìa rừng cách đường từ 500 đến 1000 thước tùy theo tình hình và địa thế “. Một đại đội của TĐ8ND cũng đến lục soát qua khu vực BCH/Tiểu khu Long Khánh vừa bị Cộng quân phục kích.

Kết qủa bi thảm, không còn gì..!.. Ngoài bãi chiến trường tang thương đẫm máu.. Xác Trung tá Lê Quang Định cùng một số quân nhân khác và gia đình tử thương cũng đành để nằm lại vĩnh viễn trên mãnh đất quê hương mà họ đã từng chiến đấu bảo vệ khi còn sống..

Toàn bộ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cũng không di chuyển được liên kết nối đuôi nhau. Từ Long Giao trở đi nhiệm vụ của từng đơn vị, cũng khác nhau tùy theo tình hình. Nhất là TĐ9ND có hai Đại đội chận địch phải đoạn chiến đi sau cùng.

Ngày 21/4, lúc này trời đã sáng hẳn, TĐ9ND dừng lại để lấy nước, sau khi đã điều động Đại Đội 92/ND do Đại úy Lê đình Ruân chỉ huy vượt qua Suối Cả, bố trí dọc theo ven rừng dọc sau ấp Suối Cả, sát ranh giới giữa hai tỉnh Long Khánh – Phước Tuy. Còn ĐPQ+NQ gia đình và dân chúng thì nằm ngồi nghỉ ngỗn ngang trên mặt lộ.

Thành phần đầu tiên của TĐ9ND vừa xuống đến mé suối, thì hàng loạt súng cối 61 ly và thượng liên của địch từ phía Tây trong rừng tre lá bắn ra xối xả. Phần đuôi của TĐ9ND cùng ĐPQ+NQ tạt ngang sang bên phải đường. Đại đội 91/ND có nhiệm vụ thanh toán chốt này. Tất cả các loại vũ khí của Đại Đội được tập trung bắn như mưa bão vào khu rừng tre, chỉ một lát sau là tiếng súng của địch đã câm họng. Thiếu tá Lê Mạnh Đường cho TĐ9ND rời đường lộ ép sang bên phải, đi sâu vào bìa rừng để tránh lọt vào ổ phục kích của Cộng quân. Đội hình di chuyển của TĐ9ND lúc bấy giờ: “Đại Đội 93/ND đi chuẩn, Đại Đội 92/ND đi bên trái và Đại Đội 94/ND đi bên phải, nhắm thẳng về hướng Nam dựa theo LTL.2.

Đặc biệt trong cuộc hành quân triệt thoái ra khỏi tỉnh Long Khánh, cấp trên lúc đó cảm thấy những khó khăn, đói khát, hiểm nguy đang chờ họ trên đoạn đường dài mà mọi quân nhân các cấp thuộc LĐ1ND đang phải hứng chịu, nên đã xin điều động TĐ7ND, do Trung Tá Nguyễn Lô, TĐT và Thiếu tá Nguyễn văn Qúy, TĐP thuộc lực lượng trừ bị tại tỉnh Biên Hòa với 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113, TĐ7ND được chia ra làm 2 đoàn quân, cánh bên phải do Trung tá Lô chỉ huy, cánh trái do Thiếu tá Qúy chỉ huy cùng di chuyển thần tốc càn rừng, leo đồi, vượt suối như Đức Phù Đổng Thiên Vương đuổi giặc để bảo vệ hai bên sườn cho LĐ1ND trên đường rút quân về đến khu rừng cao su phía Bắc làng Bình Giã cách chi khu Đức Thạnh khoảng 10 cây số thuộc tỉnh Phước Tuy được an toàn.

Khi giao tiếp được với TĐ7ND, Trung tá Đỉnh tâm tình: “khi bắt tay hay nói đúng hơn là được TĐ7ND cùng 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 đến yểm trợ giải nguy kịp thời, đúng chỗ, đúng lúc, anh em LĐ1ND như đang khát nước khô cả cổ trên sa mạc được gặp con sông nước mát chảy ngọt ngào tình “huynh đệ chi binh”. Vì khi LĐ1ND di chuyển đoạn hậu thì quân địch có đủ thời giờ để bu lại truy đuổi, do đó các đơn vị Nhảy Dù càng lúc càng chạm địch tứ tung trên đoạn đường rút quân..”.

 Các đơn vị Nhảy Dù về đến quận Đức Thạnh lúc 4 giờ chiều, trể nhất là thành phần đoạn hậu sau chót của TĐ9ND khoảng 6 giờ tối ngày 22/4.

Toàn bộ LĐ1ND quay thành một vòng đai lớn quanh Chi Khu Đức Thạnh với TĐ8ND và TĐ1ND chiếm 2/3 vị thế hướng về phía Bắc, TĐ9ND vượt qua đơn vị bạn chiếm đóng phía Nam.

Sáng ngày 23/4, tổ tiền đồn của TĐ1ND đã bắn cháy 2 xe Molotova chở đầy đạn dược và chất nổ tại ngã ba Bình Giã, khi chúng định chạy rẽ về “mật khu Hát Dịch” hướng Tây Bắc tỉnh Phước Tuy.

Ngày 24/4, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SĐ3BB được giao trách nhiệm lập tuyến phòng thủ khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu với lực lượng tăng cường gồm có 1 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 thuộc Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù..

BTL/SĐ 3BB/HQ đóng tại BCH/ Tiểu Khu Phước Tuy bên trong Thị Xã Bà Rịa. Để thực hiện kế hoạch điều phối trách nhiệm phòng thủ giữa các đơn vị: 2 Tiểu Đoàn thuộc SĐ3BB, LĐ1ND và một Chi Đoàn Thiết Vận Xa M.113 giữ phòng tuyến để bảo vệ QL.15 từ Long Thành về Bà Rịa. Theo lời của Thiếu tướng Hinh, thì quân số của các tiểu đoàn tác chiến thuộc LĐ1ND ở mức thấp, mỗi tiểu đoàn còn có khoảng trên dước 400 chiến sĩ.

BCH/LD1ND trấn đóng bên ngoài quanh thị xã Bà Rịa, ở đây LĐ1ND được thỏa mái một vài ngày với nhiệm vụ hành quân tương đối nhẹ nhàng hơn khi ở tỉnh Long Khánh. Trung Tá Đào Thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND được lệnh bổ nhiệm làm quyền Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh TĐP, được chỉ định xử lý chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ8ND.

Sáng 27/4 trên QL. 15 Sài Gòn – Vũng Tàu bị cắt đứt và Cộng quân đang hung hản tiến về Tổng Kho Long Bình. Trong khi đó , các đơn vị của SĐ18BB, SĐ3BB, LĐ1ND, TQLC.. đang tổ chức hệ thống phòng thủ ở phía Đông Sài Gòn và khu vực Bà Rịa.

Ngày 28/4, khi Đại quân của CSBV đã ào ạt tấn công vào tỉnh Phước Tuy, các đơn vị Nhảy Dù chống trả quyết liệt giữ vững tuyến phòng thủ đến chiều tối cùng ngày, LĐ1ND được lệnh rút về Vũng Tàu trước khi đơn vị Công binh và TQLC bảo vệ cho phá hủy cầu Cỏ May trong đêm 28 rạng ngày 29/4.

Nhìn lại lịch sử cuộc chiến Việt nam, từ những đỉnh cao có thể sẽ bị ghi nhận một cách thiên lệch hồ đồ bất xứng, nhằm mục đích để cố tình chôn lấp tinh thần và ý chí chiến đấu “chống cộng” của QLVNCH nói chung. Hay của một thế hệ thanh niên Miền Nam Việt nam đã đứng trong hàng ngũ chống xâm lăng của Cộng sản Quốc tế, đội lốt cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc bởi Hồ Chí Minh chủ đạo. Nhưng Quân sử của Binh Chủng Nhảy Dù QLVNCH nói riêng, chắc chắn sẽ đặt những sự kiện lịch sử oai hùng đó vào một chổ đứng đúng đắn xứng đáng và trang trọng của nó. Vì người chiến sĩ!. “Người Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đời đời không bao giờ chết”, mà “Tổ Quốc mãi mãi ghi ơn”..

Sự thật đó là: “Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù chưa bao giờ thua trận Xuân Lộc – Long Khánh”. Nhưng sự thử thách mà phóng viên chiến trường của nhật báo Chính Luận đề cập đến bên trên qủa thật đã còn tiếp diễn và kết qủa qúa rõ rệt “ LĐ1ND đã không bị đối phương quật ngã”. Hơn thế nữa LĐ1ND đã buộc đại quân của Tướng CS Võ văn Giáp dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tướng CS Trần Văn Trà với quân số và chiến cụ đông hơn gấp 10 lần, hung hản tiến ào ào như thác đổ cũng phải khựng lại ở cửa ngõ Sài Gòn để được sống còn.

Và theo ghi nhận của Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT/QLVNCH trong Hồi ký viết cho Trung Tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ, sản xuất: “.. sau hai tuần kịch chiến (với quân Cộng sản BV), SĐ18BB bị thiệt hại 30% quân số, Trung đoàn 52BB bị tổn thất nặng, ĐPQ và NQ tỉnh Long Khánh cũng bị thiệt hại rất nặng, hầu như không còn khả năng chiến đấu, chỉ có ‘Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù’ là ít bị thiệt hại..”.

Trận đánh Xuân Lộc đã kết thúc, xin qúy chiến hữu hãy nghe những lời tâm tình của Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù. Ông là vị Tư lệnh sau cùng của Binh Chủng Nhảy Dù, thân thương gởi về Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh LĐT/LĐ1 Nhảy Dù, người hùng trực tiếp trận đánh cuối cùng trong chiến sử của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt trận Xuân Lộc – Long Khánh, tháng 4/1975.

“Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tăng phái Quân Đoàn III, trấn giữ Xuân Lộc, tăng cường hành quân cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là chận đứng bước tiến quân của Việt cộng vào Sài Gòn. Anh em Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đã oai hùng làm tròn nhiệm vụ. Địch quân không chiếm thêm được một tấc đất. Đoàn quân viễn chinh của Tuớng CS Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng ngay ở cửa Sài gòn.
Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên rồi phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều anh em Nhảy Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Sư Đoàn 18BB được lệnh rút về Biên Hòa. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu đến cuối. Sau chót, đến đêm 28 rạng 29 tháng 4, bộ đội Cộng sản tấn công Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù ở Láng Cạn, Bà Rịa. Đánh đến giờ phút chót, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi có lệnh trực tiếp cho Trung tá Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, mà anh Nhảy Dù chúng tôi âu yếm gọi là Đỉnh “tây lai” đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những đứa con lên tàu.. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, luôn dành sự an toàn cho từng đứa con yêu qúy. “Đỉnh tây lai” là một trong những “thiên thần” lẫm liệt đó..”.
30/4/1975, ngày kết thúc cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”, trận chiến ý thức hệ giữa hai phe phái Quốc gia – Cộng sản đã trải dài trên quê hương Mẹ Việt Nam hơn 20 năm qua. ‘Ngày Quốc tang của nước Việt Nam Cộng Hòa’. Chiến tranh là thế đó, tàn khốc hơn giông bão, hủy diệt hơn cơn hồng thủy.. bẩn thiểu! Bần tiện…!!.

Thế rồi cũng từ đó, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đã trải qua một giai đoạn lịch sử của cuộc chiến khốc liệt để đưa đến việc chấm dứt đời binh nghiệp phục vụ cho Tổ quốc của anh em Nhảy Dù với những ‘người lính tình nguyện đem thân mình thề quyết bảo vệ Giang sơn của tiền nhân đã để lại..’ trước khúc quanh lịch sử dân tộc uất nghẹn không ngờ ..!. Và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được TAN HÀNG không có điệp khúc “Nhảy Dù Cố Gắng” trên ĐẠI DƯƠNG sau khi nghe lệnh buông súng đầu hàng quân CSBV “vô điều kiện” của Tổng Thống Dương Văn Minh, được tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975..!!. Mẹ Việt Nam ơi! Quê hương mình đã chết thật rồi Mẹ ơi..!!!.

XUÂN LỘC TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG,

TIẾC THƯƠNG CHIẾN SĨ ANH HÙNG HY SINH!

Viết đến đây để hồi tưởng lại, những người sống cũng như những người chết oan nghiệt, chiến hữu, bạn bè thân hữu đã hy sinh vì chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, tôi xin được một phút để kính cẩn nghiêng mình ngã mũ tưởng nhớ vinh danh những chiến sĩ Mũ Đỏ đã hy sinh xương máu để “bảo quốc an dân”, và thắp lên nén hương lòng để tri ân những “Thiên Thần Mũ Đỏ” đã vĩnh viễn nằm xuống để bảo vệ Tổ Quốc trong Danh Dự và Trách Nhiệm của người chiến sĩ QLVNCH nói chung. Việc đoàn chiến xa của Cộng quân tiến vào dinh Độc Lập, là việc tất nhiên khi đã có lệnh

QLVNCH phải buông súng xuống chân.

Sau cùng, người viết xin trân trọng cảm ơn các tác gỉa, nhà xuất bản, Đặc san Mũ Đỏ, Nguyệt báo KBC, Việt báo Online. Đặc biệt là bài viết về “Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong những ngày cuối tại Miền Nam Việt Nam” của Trung Tá Lê Văn Đỉnh Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong việc tham khảo trích dẫn các tài liệu và bài viết nói trên. Nếu có những lỗi lầm hoặc thiếu sót. Trân trọng kính xin qúy vị đại xá cho.

Một lần nữa tôi thành thật xin đa tạ./

Mũ Đỏ Trịnh Ân

Người Lính Già Phương Nam

Chiến Tranh Việt Nam, Từ Chủ Nghĩa Be-Bờ của Hoa Kỳ

THE VIETNAM WAR– Chiến Tuyến Việt Nam, Từ Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) của Hoa Kỳ với Chiến Lược Không “Đánh Thực”, “Không-Cốt-Thắng” Tới Ngày QUỐC HẬN Việt Nam.

GS TS Lưu Nguyễn Đạt, Ph.D., J.D., LL.M.

I. Căn Bản của Chủ Nghĩa Be-bờ

Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1]là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2] ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo.  Chính sách này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt.  Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947[5] và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6] 

Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau:[7]

    Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
    Xôviết cộng sản tìm mọi cách kết tác với thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
    Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;
    Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.

Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9]  Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:

    hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2,  song song với việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quý Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund];
    cảnh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới hình thức liên minh quân sự Bắc Âu  [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
    Thu thập tin tức cẩn mật từ  quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]

Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].  Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự, MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13] 

1. Khai mở Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam      

Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa ky tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.

TT Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO] trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông Dương.  

TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản…[14] Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:

    tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
    Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương;
    Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến..

Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ.  Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.

2. Việt Nam Thành Thí Điểm Chủ Nghĩa Be-Bờ     

TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia.  Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.

Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:

Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.

Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đãi của một thiểu số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo.  Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng v.v., các nhà trí thức độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v.  đã mất cơ hội tham dự vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến Tuyến này.  Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá trên đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất đáng tiếc.  Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự do.

Sau hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963.  Nhiều tài liệu lịch sử [mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn của CIA Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17] dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở.  Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và  ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô.. Ngô Đình Nhu.[18]

Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu là do [a] tình trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và [c] phần nào vì Ngô Đình Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đình Diệm v.v. với ý định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]

3. Biến Hoá Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam    

TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô.  Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:

— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22]để lấy cớ  trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney;

— Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận để đưa tới thảo luận ngưng chiến;

— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy] tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh phòng chung quanh các phi trường và các địa điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.  

TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đòi hoà bình của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng]  phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử.  Đó là lý do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt.  Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến. 

Về phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân quản” với 10 biến cố chính trị gồm những cuộc đảo chính hụt và những cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia, Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là  Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó.  Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các nơi sôi động.

Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:

    về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại. 
    Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN.  Biến cố Tết Mậu Thân đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích.  Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”.  Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[23]  Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30, 000 binh si tử thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện hằng ngày trên Ti Vi Hoa Kỳ.   

4 Chấm Dứt Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam    

Khi thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ.  Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger đếu thấy rõ cuộc chiến không thể thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng không thể kéo dài tình trạng cầm cự này lâu dài thêm.

Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi” [“Détente”][24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms Limitation Talks],[25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”[26]tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.

Trong tinh thần đó, Nixon quyết định giảm thiểu quân số tác chiến từ  537,000 xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,[27]bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho Quân Đội VNCH.  Trong giai đoạn này đã xẩy ra những chiến cuộc ác liệt như sau:

    Cuộc Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc hành quân nầy, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham chiến.  Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch.  Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn.  
    Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972.  Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt [QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lần nầy QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn 3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại.   Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công.  Sau 81 ngày đêm tranh đấu, các binh chủng Nhẩy Dù, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
    Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54 ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt hại khoảng 30 ngàn binh sĩ.  QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh và Biệt động quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô tiến đánh Thủ Đô Sài Gòn.  Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.

Sau nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng đồng minh và nhiều điều cam kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973, giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].

Năm 1973, Tổng trưởng Quốc Phòng Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ đem quân đánh lớn tại Miền Nam.  Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để cấm việc thả bom này.[28] Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với TT NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu không muốn gọi là lừa đảo.

Trong khi đó,  QBV thao túng dùng đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng tiếp viện để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới 1976.  Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà đã đem lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà Nội.  Sau khi Ban Mê Thuột bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975.  Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]  

    hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàng tật]. 

    khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
    khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong;
    Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.

II. Phản Diện Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam: Ai Thắng, Ai Thua? 

1. Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn: [A] Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower, [B] xác định vị trí “be-bờ“ do TT JK Kennedy & Co Vấn Bundy, [C] biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson, [D] để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30] với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger.  

Sự thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản.   Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :

    vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
    vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[31]
    vừa vận chuyển guồng máy sản xuất chiến cụ “phòng thủ chiến lược” do tư bản ứng vốn, thu lời. 

Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[32] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng: “This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience…In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist. We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33]

Quyền lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực của dân chúng.  Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111 Tỷ Mỹ Kim [tương đương 900 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2016], dù hạn chế vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ.  Dân sẽ chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một.

2. Với cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”, nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc chiến lẫn định mệnh sống còn.  Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt vô cảm.  Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt.  Nhưng chúng ta vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng minh kém vế.

Trong cuộc “Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính thể Quốc gia lẫn nhân dân Miền Nam đều thất bại.

3. Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập. Quân đội và Nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng.  Quân đội CS Băc Việt thực sự đánh cho Nga, đánh cho Tầu.  Họ là kẻ thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ đã chiếm được Sài Gòn, nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất Nước trong “hoà bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán đảo, bán dân.

VẬY AI LÀ LÀ PHE THẮNG TRONG (QUA) CHIẾN TRANH VIỆT NAM?

“Đồng Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất thành cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết Be Bờ/Chiến tranh lạnh/” đã tháo chặy với hội chứng “Vietnam Syndrome” trên đài truyền hình và tại hậu phương Hoa Kỳ, nhưng thực sự đã “thắng cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch] thế giới, tạm cho tới ngày nay. 

Tuy nhiên, Hoa Kỳ vì đảm nhận vai vế “hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối với nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác trên thế giớ, nhất là tại Trung Đông, Bắc phi, phần nào để duy trì kho bạc “petro dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ đại) phát triển kỹ nghệ chiến cụ –“Military Industrial Complex”, cánh tay phải của uy lực tư bản Hoa Kỳ.

Song song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung Cộng.  Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi Tây, đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu “ping pong/coca cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War] với các chính thể Nixon-Kissinger và kế nhiệm, đế quốc cộng sản này đã trở thành “phó chủ” toàn cầu [với kỳ vọng trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam, Biển Đông, và bất cứ nơi nào thèm “tiền xì dâu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay thấy bắt buộc [chẳng đặng đừng] phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc “made in China”. 

Phải chăng Trung Cộng đang trở thành con khủng long thế kỷ 21, và  Việt  Nam là cái đuôi xã hội mafia của nó?

TẠM KẾT:

Cuộc chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng là bài học chung cho những thế hệ sau. Đất nước là của chung, phải định đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại nhân, vì họ có mục tiêu và quyền lợi của họ.  Cái khôn là biết hợp tác để trao đổi thế lực, trí tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc, từng  thể chế tác động nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền lợi của đảng phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt.  Không ai sống hộ chúng ta và cũng không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu chúng ta.  Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi theo đuổi, thực hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương tự.

Chúng ta, con cháu chúng ta hãy tránh là nạn nhân lẫn tòng phạm của những cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng thế hệ này sang thế hệ khác.  Hãy lật ngược những trang bi sử đó và nhất quyết trở thành sáng lập viên chung của một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững bền, tích cực, trọng sinh, trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo trọng, thân thương.  Việt Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn bị vĩnh viễn xoá bỏ.

Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân dân Việt Nam, toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những Người Việt thực sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây giờ và tiếp nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc tài. 

Dù là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít, hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ quyền lợi và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó, cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây dựng và bảo trọng một Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy.  

Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM 
Michigan State University

Cập nhật March 7, 2019

www.vietthuc.org

CHÚ THÍCH

[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for acordon sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease.

[3] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.

[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[5] Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.

Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and intellectual respectability.”

[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine”Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727

[7] At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…

[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402

[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press

[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and the Triumph of Democracy. (1993).  Gimbel, John, The origins of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).

[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives

[12] Amy B. Zegart,  Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC

[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy

[14] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.”

[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)

[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia

[17] Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963 that “Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they will mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem, he should also be sent outside Southeast Asia.”  He further went on to anticipate what he termed a “Gưtterdämmerung in the palace”. We should encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the Nhus should be banished to France or any other country willing to receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer, Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.

[18] According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese found themselves.”

[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.

[20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”

[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”

[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The New York Times, 1970-06-25

[23] Television brought the brutality of war into the comfort of the living room. Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.

[24] Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard University Press (2003).

[25] SALT [Strategic Arms Limitation Talk]

[26] With honor

[27] Vietnamization or Nixon Doctrine

[28] Senate passed the Case-Church Amendment to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam Syndrome. Karnow, Stanley (1991)

[29]  Battlefield:Vietnam | Timeline

20 Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech University.

R.J. Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources & Calculations”. web site. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved 2010-01-01. 

Tran Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site.http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm. Retrieved 2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF

Kevin Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.

[30] Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon & Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam’

[31] Effect of the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen Western institutions in order to render them invulnerable to the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet regime.

[32] Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.

[33] President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961

Sự Thật và Dối Trá.

Đây là bức tranh nổi tiếng của Họa sĩ người Pháp Jean Leon Gerome (1824-1904), mang tên “The Truth Coming Out Of Her Well“ – Tạm dịch là Sự Thật nơi đáy giếng.

Bức tranh này được vẽ năm 1894 dựa trên một câu chuyện dân gian như sau:

Chuyện kể rằng có một ngày Hè, Sự Thật và Dối Trá tình cờ gặp nhau.

Dối Trá nói: “Hôm nay trời đẹp quá!”.

Sự Thật ngước nhìn lên và đúng như lời Dối Trá đã nói: Trời rất trong xanh, tràn ngập nắng vàng, từng cụm mây trắng lững lờ trôi thật đẹp…

Rồi cả hai lại đến bên một cái giếng.

Dối Trá nói: “Giếng trong mát quá. Chúng mình hãy tắm đi!”.

Sự Thật mới đầu còn nghi ngại, nhưng khi nhìn xuống giếng, thấy nước trong mát thật, bèn trút bỏ bộ quần áo đẹp và nhảy xuống giếng tắm cùng Dối Trá.

Chỉ chờ có thế,

Dối Trá leo nhanh lên khỏi miệng giếng, khoát vào người bộ y phục đẹp đẽ của Sự Thật rồi bỏ chạy thật nhanh.

Sự Thật hốt hoảng leo lên miệng giếng, bối rối đuổi theo để giành lại bộ quần áo. Nhưng nàng đuổi tới đâu cũng có đám đông hai bên đường túa ra chỉ trỏ, cười nhạo vì nàng hoàn toàn lõa thể. Sự Thật trần trụi thấy xấu hổ quá nên không đuổi theo Dối Trá nữa, mà chỉ bưng mặt trèo lại xuống đáy giếng, lặn trốn mất tăm.

Kể từ đó, loài người không còn ai nhìn thấy được Sự Thật nữa.

Họ chỉ thấy Dối Trá ung dung hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc. Họ luôn tán dương nó, vuốt ve nó, say mê nó, học đòi theo nó, chỉ vì vẻ ngoài hào nhoáng và đẹp đẽ mà nó đã ăn cắp từ Sự Thật.

Sự Thật dẫu có tốt thì vẫn luôn là trần trụi,

Dối Trá dẫu xấu xa nhưng lại vô cùng quyến rũ!

Chừng nào loài người còn say mê trước những ngọt ngào và kiều diễm, thì chừng nấy Sự Thật còn lặn rất sâu.

Nguồn: Học làm người.  ./.

Câu chuyện tình bi thương của cô gái Nhật Bản cùng nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn – tác giả bài “Nắng Chiều”

Một bài hát nhưng lại có 2 giai thoại hoàn toàn khác nhau, được kể lại bởi những người đều rất có uy tín. Sự thật như thế nào vẫn chưa được rõ, xin phép để bạn đọc tự xem xét….

“Nắng Chiều” là bài hát nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn. Đằng sau bài hát này có các giai thoại về hoàn cảnh ra đời được kể lại. Xin đăng 2 giai thoại này được viết bởi nhà thơ Du Tử Lê và nhà báo Hà Đình Nguyên. Một điều kỳ lạ là 2 giai thoại này có nội dung hoàn toàn khác nhau.

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn

Những người theo dõi sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào giữa thập niên 1960, hẳn chưa quên rằng trong chương trình nhạc FM, thỉnh thoảng, người nghe lại bắt gặp một nhạc phẩm rất quen thuộc, bài “Nắng Chiều” của Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, được hòa tấu bởi một dàn nhạc Mỹ là Synphony of the New York City.

Có thể nói, đó là một trong vài nhạc phẩm Việt Nam đầu tiên, cất cánh, bay lên và ra khỏi không gian hạn hẹp của đất nước. Nhạc phẩm hòa tấu này, hôm nay, trên vòm trời quốc tế, giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, thỉnh thoảng, người ta vẫn còn được nghe lại.

Tuy nhiên, có thể không nhiều người lắm, biết được lai lịch hay cái sinh phần hoặc định mệnh khốc liệt, nếu có thể nói được như vậy, về nhạc phẩm đó.

Sinh thời, nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương, một người bạn rất thân với Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, hơn một lần kể rằng, nhạc phẩm “Nắng Chiều” là ca khúc đầu tay của Lê Trọng Nguyễn.

Gọi là ca khúc đầu tay bởi vì Lê Trọng Nguyễn viết nhạc từ những năm giữa thập niên 40, nhưng ông chỉ viết những nhạc phẩm không lời. Lê Trọng Nguyễn không hề viết ca khúc, hiểu theo nghĩa một nhạc phẩm có lời hát đi kèm.

Mãi tới đầu năm 1952, khi Lê Trọng Nguyễn gặp một thiếu nữ Nhật Bản lúc đó đang làm việc cho tòa lãnh sự Nhật Bản ở Saigon. Khi hai người yêu nhau, Lê Trọng Nguyễn mới viết nhạc có lời. Và ca khúc đầu tiên đó là “Nắng Chiều”, ghi lại cuộc tình của hai người. Giữa thập niên 50, khi hết nhiệm kỳ, người con gái xứ Mặt Trời Mọc này mang nhạc phẩm “Nắng Chiều” về nước, chuyển sang lời Nhật.

Chỉ một sớm một chiều, nhạc phẩm “Nắng Chiều” nổi tiếng khắp xứ Phù Tang. Đó là lần đầu tiên dân Nhật biết tới nền tân nhạc Việt.

Đầu thập niên 60, Shoshi Koe, tên tạm chỉ người con gái Nhật Bản này, vận động với bộ ngoại giao Nhật, xin trở lại Saigon.

Năm 1961, Shoshi được toại nguyện. Cuộc tình giữa một nhạc sĩ Việt Nam và một cô gái Nhật được nối tiếp. Ở thời điểm 1963, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn sáng tác thêm hai ca khúc, đó là các bài “Sao Đêm” và “Chiều Bên Giáo Đường”. Cả hai ca khúc này đều được những người làm nhạc và yêu nhạc ở Saigòn đón nhận như những hạt ngọc trân quý nhất của tân nhạc Việt Nam thời gian này.

Nhưng cuộc tình của dị biệt chủng tộc kia chỉ kéo dài thêm được 3 năm thì thình lình đứt đoạn. Cuối năm 1963, Shoshi bị chính phủ Nhật gọi về nước.

Trước khi chia tay người yêu, Shoshi nói cô sẽ vận động để trở lại Việt Nam hoặc đưa nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn qua Nhật Bản để chính thức thành hôn. Nếu không làm được điều ấy, cô sẽ tự chấm dứt đời sống của mình.

Một năm sau, năm 1964, các báo ở Tokyo đồng loạt đăng tải về cái chết của Shoshi, đồng thời chuyện tình giữa cô và một nhạc sĩ Việt Nam được tường thuật tỉ mỉ.

Một lần nữa, ca khúc “Nắng Chiều” lại thắp lên những ngọn lửa rát bỏng đau đớn, chia lìa trong tâm hồn dân Nhật. Và giới làm nhạc Hoa kỳ chú ý tới ca khúc “Nắng Chiều” của Lê Trọng Nguyễn, cũng khởi từ cái kết thúc bi thảm của cuộc tình dị chủng đó.

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn sinh ngày mồng 1 tháng 5, 1927 tại Quảng Nam. Ông đã sống với mối tình khốc liệt của mình tới năm 1985, khi đã 58 tuổi, ông mới lập gia đình.

Lê Trọng Nguyễn định cư tại Hoa kỳ năm 1981, cư ngụ tại thành phố Glendale, thuộc quận hạt Los Angeles cho đến khi qua đời năm 2004.

Câu chuyện bên trên được nhà thơ Du Tử Lê – người sinh sống cùng thời với Lê Trọng Nguyễn kể lại trong một bài viết.

Tuy nhiên chuyện tình trong bài hát Nắng Chiều này lại được nhà báo Hà Đình Nguyên kể một câu chuyện hoàn toàn khác. Xin trích nguyên văn bài này đăng trên báo Thanh Niên hồi năm 2011 như sau:

Có thể nói nhạc phẩm “Nắng Chiều” của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là một trong những bài nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy – rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này…

Lê Trọng Nguyễn sinh năm 1926 tại Điện Bàn (Quảng Nam). Ông tên thật là Lê Trọng, còn chữ Nguyễn là họ của mẹ (sau này vợ ông cũng ghép tên ông vào trước tên mình: Lê Trọng Nguyễn Thị Nga). Cha mất sớm, bà mẹ trẻ chấp nhận ở góa để nuôi ông và người em gái cho đến lúc trưởng thành… Có lẽ cơ duyên để ông đến với âm nhạc là do có một thời kỳ (1942-1945) ông sống ở Hà Nội và làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Sau này, ông học hàm thụ Trường École Universelle (Pháp) và trở thành hội viên Hội Nhạc sĩ Pháp SACEM (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique). Ca khúc đầu tay “Ngày mai trời lại sáng” được viết năm 1946. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh (Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà giang, Sao đêm…). Tuy nhiên, nói đến Lê Trọng Nguyễn là người ta nghĩ ngay đến ca khúc“Nắng chiều”.

Hai bóng hồng trong một bản nhạc

Chất “bột” để “gột nên hồ” đầu tiên cho “Nắng chiều” là trong thời kỳ Nhật đảo chính Pháp (1945), có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tá túc ở Hội An, gần nhà của Lê Trọng Nguyễn. Gia đình này chỉ có duy nhất cô con gái đang tuổi xuân thì. Tình yêu giữa đôi bạn trẻ chớm nở, đẹp và mong manh như cánh hoa trong thời ly loạn. Chỉ ít lâu sau, gia đình nàng lại rời bỏ Hội An.

Một thời gian sau, Lê Trọng Nguyễn cũng bỏ Hội An ra Huế. Ở đây anh có người bạn thân Vũ Đức Duy, anh này là cháu họ bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại). Anh bạn này thường rủ Lê Trọng Nguyễn đến thăm bà Từ Cung ở cung An Định (cung này không nằm trong thành nội mà ở sát bờ sông An Cựu) vừa ngắm cảnh. Chính từ những chuyến đi chơi này mà Lê Trọng Nguyễn gặp được “chất bột” thứ hai: nàng thiếu nữ họ Hoàng, hoa khôi của đất thần kinh.

Một chiều ngồi bên hồ sen, bất chợt cô gái ấy đi qua. Bóng dáng thướt tha ấy “ngược sáng” trong ánh tà dương. Nhìn “cô này”, bất giác Nguyễn… nhớ “cô kia” quá đỗi! Thế là bật lên tứ nhạc:

Qua bến nước xưa lá hoa về chiều. 
Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa. 
Khi đến cuối thôn chân bước không hồn. 
Nhớ sao là nhớ, bóng người ngày xưa…

Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Lê Trọng Nguyễn đã viết xong “Nắng chiều” (1952). Ở Huế, Lê Trọng Nguyễn còn chơi thân với nhóm bạn văn nghệ (Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hiền, Kim Tước…) nên khi bản Nắng Chiềuđược xuất bản, chính Minh Trang là người hát và thu âm đầu tiên. Bản thu âm được phát thường xuyên trên hai đài phát thanh Huế và Sài Gòn từ năm 1953 trở về sau khiến Nắng chiều lan tỏa khắp Trung – Nam.

“Nắng chiều” và hai bóng hồng… ngoại

Năm 1957 ban nhạc Toho Geino (Nhật Bản) sang Việt Nam lưu diễn, và họ đã nhờ phía Việt Nam chọn 12 ca khúc đang nổi tiếng trong nước để tập và sẽ hát “giao lưu” với khán giả. Duyên trời đã đưa đẩy nữ ca sĩ Midori Satsuki chọn hát “Nắng Chiều” và cô đã được khán giả ở Hội chợ Thị Nghè hoan hô nhiệt liệt.. Thích quá, Midori Satsuki quyết định chuyển soạn cho “Nắng chiều” có cả lời Nhật lẫn lời Anh (với tựa Evening sunshine hoặc Afternoon sun), và cô đã thể hiện rất thành công trên đài phát thanh Sài Gòn và Tokyo trong suốt nhiều năm với bản nhạc “tủ” này.

Vậy là “Nắng Chiều” không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang vọng khắp xứ Phù Tang… Từ cái “duyên” do “Nắng Chiều” đem tới, tác giả ca khúc và người thể hiện đã gặp gỡ nhau, rồi tỏ ra rất “tâm đầu ý hợp”. Họ đã có một thời gian bên nhau thật đẹp khi ở Việt Nam và khi Midori Satsuki về nước họ vẫn giữ liên lạc qua thư từ (năm 2004, gia đình cố nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và những người thực hiện CD Lê Trọng Nguyễn Collection ở California (Mỹ) đã liên lạc được với bà Midori Satsuki. Bà vẫn còn làm việc ở Đài truyền hình Tokyo và xác nhận là mình vẫn còn nhớ bản “Nắng Chiều“).

Chưa hết, năm 1960 cô ca sĩ Đài Loan tên Kỷ Lộ Hà đến Đà Nẵng trình diễn và đã làm khán giả Việt Nam bất ngờ khi cô hát “Nắng Chiều” bằng tiếng Hoa do Thận Chi đặt lời. Thận Chi (1928-1988) là một tên tuổi lớn của Đài Loan trong lĩnh vực biên kịch và soạn nhạc. Ông cũng thành công trong việc đặt lời Hoa cho nhiều ca khúc quốc tế, trong đó có Nắng chiều…

Khi biết tác giả của “Nắng Chiều” đang ở Hội An, Kỷ Lộ Hà đã đến gặp để xin phép về mặt tác quyền. Tuy Lê Trọng Nguyễn không chính thức thừa nhận nhưng nhiều người trong giới, cùng thời với Lê Trọng Nguyễn đã tiết lộ rằng ngay trong cuộc gặp ấy, “Đài ca nương” đã bị “Việt nhạc lang”… hớp hồn bởi nét hào hoa, lịch thiệp – thậm chí nàng còn viết thư cho chàng.

Nghĩ cũng… ngộ, Nắng Chiều được hình thành từ cảm hứng do hai giai nhân “nội” mà tác giả thoáng gặp, thoáng yêu đem lại. Rồi “Nắng Chiều” nổi tiếng lan ra hải ngoại lại cũng do hai bóng hồng “ngoại” đến với nhạc sĩ: gặp một thoáng, yêu một thoáng. Thoáng tụ, thoáng tan như vạt nắng chiều.

Như vậy, chỉ với 1 bài hát nhưng lại có 2 giai thoại hoàn toàn khác nhau, được kể lại bởi những người đều rất có uy tín. Sự thật như thế nào vẫn chưa được rõ, xin phép để bạn đọc tự xem xét.

nhacxua.vn

TỪNG NGƯỜI HÃY GÓP SỨC

TỪNG NGƯỜI HÃY GÓP SỨC!*Nghe hòa thượng T.H.V. thuyết trình 17-11-2012.*Trích tuyển tập LỆ MẸ VN*

Đồng hồ tích tắc nhắc đều:

Chúng ta tích tắc ít nhiều già đi

Bình minh tiếp nối tà huy

Hoa niên vừa chớm đã thì lão niên. 

Góp gom cho lắm hão huyền

Mai về cát bụi chẳng chuyên chở gì!

Không chi hợp nhất bất ly

Khổ chi KIẾN, MẠN, ÁI, SI đua đòi?

*Thời gian không đứng, vẫn trôi

Tuổi đời giới hạn mỗi người mỗi trăm!

Việt Nam: địa ngục tối tăm

Thiên đàng sướng nhất chẳng lầm là đây: 

Tự do ta hưởng từng ngày!

Đừng quên dân bị đọa đày cố hương!

Ý Nga17-11-2012

4 phiền não = ngã = kiến, mạn, ái, si.

NHỮNG MẢNH ĐỜI ĐÁNG THƯƠNG

Đọc báo Việt Cộng phỏng vấn các em gái nhỏ làm nghề Nhậu Thuê và “Nhảy Mồi”*Trích tuyển tập THƯA CHỊ

*Máu pha bia rượu, “nhậu mồi

Đánh rơi nhân cách cho đời mua vui

Nhảy, mồi đưa đẩy gọi mờiNghề chi?

Bóng gió xa xôi: -“Giang hồ!Cho bao cán bộ phất phơ

Ngày xưa nhếch nhác, xác xơ trong rừng

Chúng ăn chơi, không điểm dừng,

Cụng ly canh cách tưng bừng ăn chia. 

Cộng Tàu hau háu chầu rìa“Má mì”

* dắt gái càng khuya càng nhiều

Dư “cung”: “heo” nhịn cám treo

Mức “cầu” đánh thức quá nhiều giác quan. 

Đêm đua đòi, đêm không tàn

Nhờ tài ăn cướp dân oan an toàn!

Ngày bia, rắn, chuột… đầy bàn

Phong bì tham nhũng, đô vàng đổi trao. 

Nên em mới phải khổ đau

Mặt non choẹt, rủ lừa nhau vô tròng”

*Lún sâu số phận long đong

Gái tơ hư hỏng, trả công gia đình: 

-Mẹ già, cha yếu một mình

Dưới ghe tạm trú, bờ kinh hái bần!

Biết đâu con trẻ bán thân

Đêm về nhơ nhuốc, phong trần giọt châu. 

Oằn thân uốn éo cho lâu

Vòng tay dang rộng, lún sâu hóa liều

Nhạc rung lồng ngực bao nhiêu

Tấm thân con gái mỹ miều càng nhăn. 

Miệng nhai bọ cạp, thằn lằn

Áo quần tứ hở: đảng, đoàn mới khen!

*Ánh đèn, sàn nhảy nồng men

Ai người nhắc nhở vận đen san hà?

 Ý Nga24-6-2012
*Nhảy mồi và nhậu mồi là 2 nghề ở vũ trường và nhà hàng VNCS**Mommy = tú bà thời đại XHCN

HÌNH NGAY BÓNG THẲNG

Trích tuyển tập EM HỌC SỬ

*Phải chăng chỉ ở ngục tù?

Phải chăng chinh phụ, chinh phu mới thù?

*Thanh niên cả nước say nhừ:

Người hư, kẻ “lắc”*, vô tư tiệc tùng

Kẻ thù phương Bắc, thù chung

Ai người thúc trống Quang Trung thời này? 

Đảng, Đoàn yến ẩm vui say

Chị ơi! Lời hịch xin bày sáng gương:

Trần Hưng Đạo, Trưng Nữ Vương,Ngô Quyền,

Nguyễn Trãi vang lừng sử Nam! 

Giữ thành: Hoàng Diệu quyết tâm!

“Thành nhân!” Nguyễn Thái Học, âm lẫy lừng!

Lý Thường Kiệt, Hưng Đạo Vương …v.v…

Lòng yêu nước, chí quật cường vì ai?

*Đừng nuôi dưỡng kẻ hàng hai

Cũng đừng vỗ béo thêm loài Việt gian!

Ý Nga14.11.2012

Hồ sơ quý hiếm An táng hai Ông Ngô-Đình-Diệm và Ngô-Đình-Nhu

Nguồn: Hoàng Sa Paracel

Những điều chưa biết về Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưaNghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ của giới ‘quý tộc’ Sài Gòn trước khi thành phố đổi tên, nơi đây nhiều nhân vật nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ “đã từng” yên nghỉ, tôi dùng chữ “đã từng” vì tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám ngày nay.
Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, còn được gọi qua tên Đất thánh Tây, là một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm uất của Sài Gòn xưa. Vì là nghĩa trang của giới quý tộc nên một khoảnh đất nhỏ trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài Gòn.Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với dòng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lý “Hãy nhớ mình là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đã chết”… Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đã lo cho ‘người đã chết’ bằng những mộ phần hào nhoáng
Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông 
hình hộp, áo quan của ông Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu.
Mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai ngôi mộ nằm lọt thỏm, đìu hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố, những kẻ cơ hội quay lưng với gia đình họ Ngô đã đành, những người thân cũng ngại đến thăm viếng vì sợ chính quyền thời đó dòm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí còn không người đưa tiễn!Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn còn cứng. Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập.Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu (Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương). Mộ ông Ngô Đình Cẩn (được chôn tại nghĩa trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu.Trong khu đất rộng hàng nghìn hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ gia đình họ Ngô nằm cùng một dãy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh) và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quãng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc Jean Baptiste Cẩn.Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu còn có mộ thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng nghìn nhân vật tên tuổi trong chính quyền. Trước năm 1975, một số người vì muốn thân nhân đã khuất được danh giá, bản thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nguồn: Sài Gòn Xưa.

MỘT NGÀY VỚI MÙA XUÂN HÀ NỘI

kim thanh

Portland, Sun. July 14, 2019

Thưa quý vị, quý bạn,

Nhân nghe những ca sĩ Hà Nội bây giờ trình diễn, qua youtube do một netizen chuyển đến kèm theo lời bình phẩm khá nặng nề, nhưng đúng, tiện nhân muốn gửi quý vị, đặc biệt chánh gốc Hà Nội 36 phố phường, một bài tiện nhân đã viết, cũng về Hà Nội, cách đây ba năm. Nếu có điều chi vô tình làm phật lòng quý vị, xin quý vị bỏ quá cho. KT

1. Tôi sinh ra, và lớn lên, tại Nha Trang. Gia đình bên ngoại gốc “Nhe Treng” rặt, và bên nội, gốc Quảng Trị, cũng rặt. Bởi vậy, anh em tôi trong nhà nói một thứ tiếng lai căng, ở trường học không nói tiếng Việt, thành thử ra ngoài không có cái giọng, kiểu “chu che bữ nê mềnh lợi eng cuôm dí ké nữ” (dịch nghĩa: Chu cha bữa nay mình lại ăn cơm với cá nữa) cố hữu của dân địa phương thứ thiệt, như mấy đứa bạn cùng xóm. Rồi sau năm 1954, người Bắc di cư vô Nam nói, ôi thôi, đủ thứ tiếng Bắc kỳ, nghe rất mệt tai. Trong số, tôi chỉ chấm, và mê, tiếng hát mượt mà, đài các, phát âm chuẩn xác của những nữ ca sĩ chính gốc Hà Nội, như Kim Tước, Thái Thanh, Mộc Lan, Tâm Vấn, và những minh tinh, như Kiều Chinh, Mai Trâm. Tất cả những mỹ nhân một thời ấy đã mang theo vào Miền Nam dáng vẻ thanh lịch và giọng nói quý phái từ Hà Nội cổ kính, và cố đô Thăng Long ngàn năm văn vật.

      Hà Nội mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng biết qua thơ văn nhờ hồi đi lính bắt đầu đọc những tiểu thuyết tiền chiến và những tạp chí của mấy ông nhà văn, nhà thơ Bắc kỳ di cư. Nhất là nghe những ca khúc đương thời thương về Hà Nội. Trong đó có một câu, trong một bài, mà ông cậu ruột mười sáu tuổi, em út của mẹ tôi, nghĩa là dân Nhe Treng đặc sệt, cứ âm ư mãi, riết rồi thành lố bịch: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu…” Lố bịch là phải, bởi lẽ không ai có thể gây xúc động mạnh lên trái tim thính giả trong những bài hát nhớ Hà Nội cho bằng những nhạc sĩ, ca sĩ di cư chánh hiệu Hà Nội của thời trước 1975.

      Quả vậy, Trịnh Công Sơn, gốc Huế, một thời là bạn học cùng lớp Philo tại J.J. Rousseau, một tên nằm vùng phản chiến, sau 1975, muốn lấy điểm với chế độ mới, cũng bắt chước viết hai ca khúc về Hà Nội, nhưng không hay bằng, vì cảm xúc, nguồn hứng rất giả tạo, và hình ảnh rất ước lệ, khuôn sáo, mặc dù cũng vẫn là Hồ Tây, cũng mùa thu mây bay, cũng mùi hoa sữa, cũng cây bàng lá đỏ… Chưa kể, câu kết, trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội / Nhớ đến một người để nhớ mọi người”, muốn nhắn gửi gì đây? Chưa vội chụp nón cối, người ta phải thắc mắc: Mùa thu nào? Tổng khởi nghĩa 1945 ư? Một người nào? Đồ tể Hồ Chí Minh, với khẩu hiệu “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, mà các tù binh cải tạo đã phải nghe lải nhải hoài, phát ớn đến tận cổ?

      2. Hà Nội, tôi đã thấy, đã nghe, đã gặp một lần, vào tháng 4 năm 1983. Cách đây ba mươi hai năm. Không như một du khách, hay một Việt Kiều yêu nước. Mà là một tù binh cải tạo. Đúng ra gặp hai lần.       

      Lần đầu, cuối năm 1975, một cách chớp nhoáng, bất đắc dĩ. Tại bến cảng Hải Phòng, tôi được bốc từ tàu Sông Hương ra và tống lên xe lửa, chực sẵn để chở, cùng với hàng trăm ngàn đồng đội, lần lượt, đến các trại giam vùng biên giới, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cổng Trời… Khi đoàn tàu đi ngang Hà Nội, chắc quá nửa đêm, tôi cố nhướng mắt nhìn ra bên ngoài, từ song cửa sổ hẹp. Tàu chạy nhanh, trời lại tối, và đèn đường leo lét, chỗ có chỗ không, nên tôi không thấy gì cả, ngoài một Hà Nội còn đang ngủ say, phố xá lặng thinh, sương rơi lả tả, và những hàng cờ đỏ sao vàng giăng mắc, ủ rũ, trên những góc phố. Làm nhớ đến hai câu thơ oan nghiệt –đã bóp chết đời tác gỉả, Trần Dần: Tôi bước đi, không thấy phố, thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ… Rồi tàu rẽ lên cầu Long Biên, khá dài. Tôi thấy hai bên đường sắt vài người dân đi bộ hay đạp xe, không biết về đâu, co ro trong chiếc áo tơi thô sơ. Trên sông, vài chiếc thuyền câu đậu bến im lìm.

      Lần thứ hai, lần này, tám năm sau, được tiếp xúc với Hà Nội lâu hơn, đúng một ngày, nghĩa là mười hai tiếng đồng hồ. Quả thế, một buổi sáng đẹp trời, tại trại giam Vĩnh Phú, K1, đang chuẩn bị đi lao động, tôi nghe đọc tên mình được thả –áp chót trong danh sách một trăm mười người thuộc tất cả các trại Miền Bắc, mà Vĩnh Phú chiếm nhiều nhất: có bốn mươi tên trúng số độc đắc, trên toàn năm K, trong khi ở một số trại, nhỏ hơn, chỉ có vài mạng thôi. Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao mình lại được thả, nhưng chắc chắn không phải vì công đức cải tạo tốt, trái lại. Thây kệ, tôi tự nhủ, thắc mắc làm chi. Vội vàng về “buồng” (phòng), vì chỉ được mười phút sửa soạn tư trang. Không có gì, ngoài bộ đồ tù đang mặc trên người, và mùng, mền, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một bịch đường táng đen, một gói bánh mì khô, hai hộp sữa đặc, và một mớ thuốc cảm, đau đầu, đầu bụng, để dành từ những lần thăm nuôi trước. Tôi tặng hết đồ ăn và thuốc men cho những anh em, lúc ấy, khai bệnh nằm nhà.

      Rồi tất cả lội bộ xuống K5, tức K chỉ huy, cách khoảng 15 km, để làm thủ tục xuất trại. Tại đây, được trả lại quần áo “dân sự”, đồng hồ, và tiền bạc bị “đăng ký” để “Cách mạng giữ hộ” khi bước chân vào trại tù đầu tiên, ở Miền Nam. Không biết đủ, thiếu thế nào, vì sau tám năm, không nhớ và điều đó không quan trọng nữa. Tù binh được thả sinh hoạt tại một buồng riêng, không được “quan hệ linh tinh” với các cải tạo viên khác.

      Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi trút bỏ bộ đồ tù, mặc lại quần áo cũ, có anh diện giày da thay cho dép râu. Ai nấy mặt mày tươi rói, đẹp trai hẳn ra, như dưới chiếc đũa thần của một bà tiên, không còn hốc hác, bèo nhèo như dạo nào, nhất là sau mấy ngày được vỗ béo, ăn no ngủ kỹ. Được xe trâu chở ra tận bến phà trên sông Hồng. Sau hơn nửa giờ, cập bờ Ấm Thượng. Ở đây, phải chờ đến 10 giờ đêm mới có chuyến xe lửa từ Lào Cai đến “rước” về Hà Nội. Đi theo có hai cán bộ. Hai tên này, bình thường thuộc loại hắc ám, bữa nay có vẻ dễ dãi, chắc vì được dịp đi chơi Hà Nội hoặc tin rằng không thằng tù binh nào được thả lại dại dột âm mưu làm điều “phản động”. Để giúp thời gian qua mau, chúng tôi tụm năm tụm ba nói chuyện, cười đùa rổn rảng, hoặc mua bún, bắp luộc, xôi vò và bánh gai của các bà và em bé bán hàng rong tại chỗ –đã quá quen thuộc với những đợt thả tù binh. Nghe nói Ấm Thượng có đền thờ Hùng Vương, tôi và một anh bạn xin phép đi viếng, nhưng cán bộ bảo xa lắm, không cho. Trời hơi nóng, tôi bèn cởi áo quần nhảy xuống sông tắm. Nước phù sa đỏ ngầu, nhuộm cả ra quần đùi mới, trắng tinh. Lội ra xa, thấy sóng lớn quá, sợ bị cuốn đi, chết uổng mạng, tôi bơi vào, lên bờ nằm nghỉ, phơi nắng, đợi xe lửa.

      3. Ấm Thượng không xa Hà Nội bao nhiêu, trên dưới 100km, mà ì ạch mãi đến 8 giờ sáng hôm sau, tàu mới đến ga Hàng Cỏ, sau khi dừng lại nhiều trạm dọc đường. Đám tù phải đợi đến 8 giờ tối mới có chuyến tàu Thống Nhất vào Sài Gòn. Hai tên cán bộ điểm danh, và bắt tất cả “tập trung” ở một góc nhà ga, dặn không được đi đâu xa, “vì các anh chưa được phát giấy ra trại”. Ga tấp nập hành khách và bộ đội chờ đi các tỉnh phía Bắc, và rất đông “gian thương” (buôn bán chui) lượn tới lượn lui, rình mồi, nhiều nhất là những người mua đi bán lại quần áo, vai vác bao tải to kềnh, trông như một cảnh chợ trời, sau 30 tháng 4, 1975 tại Sài Gòn. Tất cả đều quay nhìn chúng tôi, biết ngay là đám sĩ quan tù binh cải tạo từ biên giới được thả về Nam, với cặp mắt tò mò, hoặc cảm thông. Một vài thanh niên, thiếu nữ còn dạn dĩ, đến bắt chuyện, hỏi về “quân hàm” (cấp bậc) của anh em, và xuýt xoa với nhau: “Ghê nhỉ! Trông trẻ thế mà đã là đại úy, thiếu tá cả, gần mười năm trước cơ đấy!”

      a) Các cô, các bà mua bán chui thấy một số tù binh, trong đó có tôi, mặc quần jeans, mà họ gọi là “quần bò”, liền sà đến, gạ mua. Một cô, khá xinh, mồm dẻo kẹo, chỉ vào cái quần xanh, bạc màu, bụi đời (càng bụi càng có giá, cô nói) của tôi, và bắt đầu dụ, ngon lành:

      – Ông anh bán cái quần bò này cho em nhá!

      Tôi giật mình, khoát tay:  

      – Đâu được cô! Hiện giờ tôi chỉ có mỗi cái quần này trên người, bán cho cô, lấy gì mặc?

      Cô vẫn nài nỉ:

– Thì em đổi rẻ cho anh cái quần tây thường khác.        

      Tôi vẫn lắc đầu. Rồi cặp mắt thiện nghệ của cô bỗng rà lên khắp châu thân tôi, như radar, ngừng trên chiếc áo pull trắng, cổ cao, tôi đang mặc, tuy còn mới, nhưng sau tám năm “biệt giam” trong nhà kho kín mít, đã ngả sang màu vàng nhạt, và thoang thoảng có mùi mốc, pha lẫn với hương nách cũ, chưa kịp giặt, bay ra… khá nồng. Cô lên tiếng tán, ngọt xớt:

– Hay là ông anh bán cái áo này cho em!

      Trong túi xách tôi còn một áo sơ mi xanh, nên đồng ý bán. Cô ta trả giá 3 đồng. Tôi ngồi im re. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ đến nay, tôi có đem áo quần đi bán bao giờ đâu, làm sao biết giá cả? Một bà già, hàm răng đen láy, ngồi cạnh cô bỗng lớn tiếng nói: “Ối giời, chỉ có quân ăn cướp ngày mới giả cái giá đó. Tôi giả 5 đồng đấy, cậu bán, tôi lấy ngay!” Tôi lại càng phân vân, chưa biết xử trí thế nào thì cô nọ liếc xéo bà kia: “Tôi tăng lên 10, mụ già nhà quê Quảng Ninh có theo nổi không nào?” Nghe hai người sừng sộ với nhau, đám tù binh và cả tên cán bộ xúm lại, xem màn bán đấu giá “đột xuất”, càng lúc càng hấp dẫn. Một anh thiếu tá đồng tù đập đập tay xuống thềm xi măng, hỏi: “Mại dô, mại dô. Có ai trả thêm nữa không?” Bà già cười khẩy: “Tôi giả 12 đồng đấy, con nặc nô Hà Tĩnh có ý kiến gì không nhỉ?” Cô gái tức khí, đáp lễ: “Tôi trả thêm 3 đồng, tổng cộng 15, mụ già nhà quê Quảng Ninh thấy thế nào?” Cả đám vỗ tay rào rào, tên cán bộ cũng cười. “Mụ già nhà quê Quảng Ninh”, cuối cùng, chịu không thấu, bỏ cuộc. Anh thiếu tá chỉ vào “con nặc nô Hà Tĩnh”, phán: “Không ai trả thêm nữa, tôi khóa sổ nè và long trọng tuyên bố rằng cô em gái Hà Tĩnh này được trúng tuyển mua áo pull của anh trai đại úy tù binh ngụy Vĩnh Phú, với giá 15 đồng chẵn, không bớt xu nào”. Cả đám, tù cũng như dân, ôm bụng cười lăn. Tiền trao áo múc, tôi bèn cởi ra ngay tại chỗ, giao tận tay cho cô. Vào thời điểm đó, 15 đồng là món tiền phải chăng, vì giá một tô phở khoảng 7 đồng, một ly bia 3 đồng. Tổng kết, có hai mươi tù binh “bị” mua áo, mua quần trong buổi sáng đó. Đủ tiền bát phố Hà Nội trong một ngày.

      b) Bất ngờ có tiền phụ trội trên trời rớt xuống, cộng vào món tiền khiêm tốn được trại trả lại, tôi bỗng nổi hứng, đóng vai trưởng giả học làm sang: tắm nước nóng. Phòng tắm kế bên sân ga, thấp, nhỏ, mái tôn và vách lợp bằng tre đan. Trên cửa, viết nguệch ngoạc ba chữ bằng vôi trắng: Tắm lước lóng. Phòng chỉ có một lối ra vào. Giá vé là 2 đồng, trả trước cho một chị sồn sồn, hô răng, ngồi gác bên ngoài. Vừa lom khom chui vào, đóng cửa lại, chưa kịp làm gì, tôi nghe có tiếng nước xối ở gian trong, và dưới ánh nắng lùa qua khe hở, thấy vắt ngang trên tấm liếp ngăn hai gian một quần tây xanh đậm, và một áo lụa vàng, có thêu chim cò, kèm theo hai mảnh đồ lót, trên trắng, dưới hồng, rất “hiện đại”, rất khêu gợi mà, tôi đoán nhanh, chủ nhân chắc chắn không thể là một trong những “mụ già nhà quê Quảng Ninh” khi nãy. Tôi đang đứng lóng ngóng, chưa biết phải làm gì, thì từ phía trong vọng ra một giọng Bắc còn trẻ, nhưng không phải âm hưởng Hà Nội, của một cô chắc đã nhìn thấy tôi qua khe liếp, trong gian ngoài đầy ánh sáng: “Anh là tù cải tạo hả? Đừng ngại, cứ vô tư cởi quần áo ra, phòng tắm công cộng, ai cũng làm như thế cả!” Tôi im lặng, vì sợ gặp phải thứ dữ, chứ có gái nhà lành nào cả gan dám tắm truồng chung đụng như thế, chưa kể tắm xong, làm sao đi ra, nếu gian ngoài đang có người? Tôi đứng bất động như người trúng gió, căng mắt dòm vào, nhưng bị bóng tối ghen tuông che kín, không cho thấy chi hết. Sau tám năm thiếu đàn bà, trí tưởng tượng vụt bay lên, bay cao, bay xa, rạo rực, nhưng cố dằn xuống kịp thời.

      Tôi múc, bằng gáo, nước từ trong hai cái vò sành, bắt đầu súc miệng. Nước quá lạnh, buốt thấu răng, và óc, làm tê liệt giây thần kinh thèm muốn. Tôi mở hé cửa ngoài, thò đầu ra, khiếu nại với chị bán vé. Chị ta trả lời, đúng bài bản, như quá quen với “sự cố” này: “Bữa lay, nhiều khách tắm quá, bác ạ, đến nượt bác thì lước lóng hết đột xuất, em đun không kịp, bác cố gắng khắc phục tắm bằng lước nạnh hộ em!” Tôi đành rửa mặt, và nhúng khăn lau sơ phần trên, rồi mặc lại áo, đi ra. Xong một buổi tắm “lước lóng”. Tại thủ đô nước CHXHCNVN, năm 1983. Không biết bây giờ phòng tắm dã chiến bên hông ga Hàng Cỏ ngày ấy có còn không.

     c) Vì thời gian chờ xe lửa quá lâu, theo đề nghị của anh em, trưởng đoàn tù binh, trung úy người Huế –được bầu một cách “khẩn trương” do nhu cầu công vụ– xin cán bộ cho phép anh em đi “tham quan” Hà Nội mùa xuân. Hai cán bộ “hội ý” với nhau, và chấp thuận, với điều kiện không đi xa và phải trở lại ga trước 7 giờ tối, ai trễ sẽ bị bỏ lại, ráng chịu. Lúc đó mới 11 giờ trưa. Tất cả hồ hởi phấn khởi xuất quân. Một vài anh em già, yếu, bệnh, mệt, ở lại nhà ga, và tình nguyện giữ hộ các túi xách với lời bảo đảm sẽ được “đền ơn bội hậu” khi anh em đi chơi về.

      Tôi rủ ba người bạn khá thân cùng đội tù K1 đi chung, trong số có một ông Thiếu tá già Tiếp Liệu Bộ Tổng Tham Mưu, cởi mở, chính gốc Hà Nội, nói năng lúc nào cũng từ tốn, chậm rãi, rề rà, nghe sốt cả ruột. Vừa rời sân ga, ông Thiếu tá bỗng dừng lại, vẻ mặt đăm chiêu, mắt ngó ngang ngó dọc, chỉ chỏ cho ba chúng tôi, không phải dân Bắc kỳ, và nói:

      – Hồi năm 1954, nhà tớ ở gần ga Hàng Cỏ này, trong khu Hàng Bông –  Thợ Nhuộm, tức phía Cửa Nam. Không biết căn nhà có còn đấy không.

      Rồi ông dẫn cả bọn đi loanh quanh, và cuối cùng chui vào một dãy phố, đối diện ga. Những túp nhà chạy dọc theo con phố đều cũ mèm, mái đã rêu phong với những viên ngói lung lay, như răng bà lão, không biết bay theo gió lúc nào, tường vôi lâu ngày loang lổ thành màu trắng đục, có chỗ lòi ra một lớp gạch xám xịt. Phía trước là những hiệu buôn, được ông thiếu tá gọi là “hàng”, thấp lè tè, bước vào sơ ý là bị đụng vỡ đầu, nối liền với những “căn hộ” phía sau, cao hơn, lớn hơn. Sau một phút lưỡng lự, ông bước vô một gian “hàng”, không biết tên gọi là gì, có lẽ hàng Giày, vì bán toàn giày dép. Nghe ông kể, khi cả gia đình ông leo lên tàu há mồm vào Nam, thì, dĩ nhiên, cửa hiệu bán guốc và nhà ở của gia đình ông bị tịch thu, và đổi chủ. Chủ mới, không biết mấy đời rồi, là một anh trung niên, nói tiếng Quảng Bình giả giọng Bắc, lịch sự hỏi: “Các bác muốn gì ạ?” Ông thiếu tá già cười, mà như mếu, theo nghĩa hoàn toàn đen, vì tám năm dài đằng đẵng trong tù bạn bè đã bẻ giùm ông, bằng những sợi chỉ bện lại, mất hết năm răng cửa và hai răng hàm: “Trước năm 1954, tôi đã ở nhà này”, ông trả lời. Rồi xin ra phía sau để nhìn lại nó, và kể hết đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong thiên tình sử, anh chủ mới mủi lòng, ân cần mời ông chủ cũ lên cầu thang gỗ thăm lại căn nhà của chính ông.  

      d) Ba thằng chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà Nội, hay tàu há mồm, xin rút lui, để mặc ông thiếu tá già thoải mái đi tìm thời gian đã mất, như văn sĩ Pháp Marcel Proust. Lúc ấy có hai đồng tù trẻ, khác K, xin nhập bọn. Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn. Hay lãng mạn, hư cấu hơn, những nữ nhân vật có học, duyên dáng trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng –mà khung cảnh đều là Hà Nội của những thập niên 30, 40. Và, trên hết, các công chúa Mỵ Châu, Lý Chiêu Hoàng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân của Thăng Long nghìn tuổi, mang kiếp hồng nhan bạc phận trong thực tại lịch sử, đã làm ngây ngất trí tưởng nơi người hậu thế “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (Kiều), như những giấc mơ huyền thoại quyến rũ, dị kỳ.

      Những cô gái, gọi là Hà Nội, dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc, không bao giờ được học và nói hai chữ “cám ơn” và “xin lỗi”. Mặc áo sơ mi nhét trong quần tây, theo mốt hiện hành, bỏ chiếc áo dài cổ truyền, và chân đi “sa-bô” (sabot?), danh từ tôi mới nghe lần đầu, tức loại giày nhựa, bịt kín phía mũi, gót để trống, đế rất cao, như một thứ dép tân thời, thay cho “thanh bình tiếng guốc reo vui” ngày xưa của nhạc sĩ Hoàng Dương. Lại còn giọng nói nữa. Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như pha với giọng Nghệ An của “Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè, còn hơn giấm. Bởi thế, khi giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi đời, người dân Sài Gòn nhận ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ lớ, chói tai, của những ca sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây giờ, thừa thắng xông lên, xâm nhập luôn những Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ, vô tình hay hữu ý thực hiện chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC, tiếp tay bởi tên nhà văn MC thò lò hai mặt. Về dung nhan, các ca sĩ ấy vượt trội những cô gái mà tôi đã gặp tại Hà Nội năm 1983. Nhưng giọng nói “2 nút” chua lè thì vẫn y chang.

      e) Lang thang mãi, mỏi chân, và đói bụng, chúng tôi tắp vào một quán phở, không xa ga Hàng Cỏ là bao. Ba cô gái “phục vụ” (chạy bàn), mặc đồng phục, sơ mi và quần tây, đứng ở quầy hàng, thấy năm ông khách quý bước vào, trơ mắt ngó, không thèm chào mời. Và phớt lờ, tiếp tục trò chuyện với nhau. Quán lúc ấy không có ai ngoài năm đứa tôi.       

      Chờ lâu, một anh, cựu trung úy Biệt Động Quân, người Nam hiền khô, nhưng tướng rất ngầu, da ngăm ngăm đen, nói năng bạt mạng, lại ngọng nữa, sốt ruột, lớn tiếng hỏi:     

      – Nè, bộ mấy bà chê tụi tui không tiền hay sao mà không ai ga (ra) tiếp dzậy?

      Một cô trả lời, giọng Bắc the thé như lai tiếng Thanh Hóa, Nghệ An:

      – Ăn gì thì đến quầy mà gọi.     

      Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:    

      – Cho tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?

       Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:

      – Đây là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?

      Anh quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:

      – Gõ gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi.  Và năm chai bia.

      – Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.

      Anh lại hỏi:

– Bia “bốc” là bia gì dzậy?        

– Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì nữa?

Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho tình hình bớt căng thẳng:

– Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi” bay đi hết, phải không cô?  

      Nhưng cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.

      Hai thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:

       – Sao lâu quá gồi (rồi) mà không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?

      Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:

      – Đến đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!

      Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.       

      Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul Sartre trên vỉa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều cà chớn gáo (ráo) trọi”.         

      Ra đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.

      4. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn nhiều thời gian để mà giết. Làm gì cho hết nửa ngày nữa?

      Tôi nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:    

      – Anh chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?

      Anh mau mắn đáp:

– Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy anh ạ…

      Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:

      – Còn một loài hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa… Đấy, anh ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa…

       Tôi hỏi lại:

      – Hoa sưa hay hoa sữa?

      – Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.

      Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lừa và lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”… Nên chúng chưa có kế hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.

      Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ, rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu, lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau. Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.

      Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài. Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo, bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần, của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris…”, nhưng bây giờ, đứng đấy, tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires (thuyền thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu Thăng và giặc Minh…

      Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố” (thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng… mà tại mọi góc đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.

      Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:

      – Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ…

       Tôi cắt ngang:

      – Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.

       Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn, với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng thiết tha gọi về từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn… những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài, đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay…

      5. Từ giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut  hay Romeo and Juliet. Tứ đáp:

      – Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ lên xe lửa đâu.       

      Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định. Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do “trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.

      Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm, để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1, không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:

      – Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh một chuyến.

      Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:

       – Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc chắn em sẽ ra thăm ảnh. 

      Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.

      Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải, tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng… Bởi một nơi không đến bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt. 

      Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt, biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ…

      Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang, lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em tiếp viên Air Vietnam kiều diễm của tôi, sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà biết rằng em, qua dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi, đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại tù đã đi qua… Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.

      6. Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không hai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua, quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay  –tất cả đều là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

      Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền, tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.

      Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.     

      7. Khát vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng,  khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trong Inferno, thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni speranza voi ch’entrate (Hãy vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).

Portland, 28 tháng 1, 2016

Kim Thanh

……………………………………………………………………….

From: ANGIE NGUYEN <…………..@gmail.com>
Date: Sun, Jul 14, 2019 at 12:29 PM
Subject: [hoaihuong] Liên khúc Hà Nội – do một lũ khỉ hát
To:

Coi rồi muốn bỏ Hà Nội vào sọt rác.

Đúng là văn hóa “Gào sĩ” được phát minh từ Xã Hội Chủ Nghĩa.Nhạc với Nhảm, tên nào gọi cho đúng đây????D.H

Liên khúc Hà Nội – Divas’ Night ‘Ngày Xanh’ – VPBank – Thanh Lam – Hồng Nhung – Mỹ Linh – Hà Trần

https://www.youtube.com/watch?v=dSmymnBvldw