Những điều chưa biết về Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưaNghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ của giới ‘quý tộc’ Sài Gòn trước khi thành phố đổi tên, nơi đây nhiều nhân vật nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ “đã từng” yên nghỉ, tôi dùng chữ “đã từng” vì tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám ngày nay.
Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, còn được gọi qua tên Đất thánh Tây, là một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm uất của Sài Gòn xưa. Vì là nghĩa trang của giới quý tộc nên một khoảnh đất nhỏ trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài Gòn.Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với dòng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lý “Hãy nhớ mình là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đã chết”… Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đã lo cho ‘người đã chết’ bằng những mộ phần hào nhoáng
Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông
hình hộp, áo quan của ông Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu.
Mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai ngôi mộ nằm lọt thỏm, đìu hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố, những kẻ cơ hội quay lưng với gia đình họ Ngô đã đành, những người thân cũng ngại đến thăm viếng vì sợ chính quyền thời đó dòm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí còn không người đưa tiễn!Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn còn cứng. Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập.Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu (Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương). Mộ ông Ngô Đình Cẩn (được chôn tại nghĩa trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu.Trong khu đất rộng hàng nghìn hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ gia đình họ Ngô nằm cùng một dãy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh) và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quãng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc Jean Baptiste Cẩn.Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu còn có mộ thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng nghìn nhân vật tên tuổi trong chính quyền. Trước năm 1975, một số người vì muốn thân nhân đã khuất được danh giá, bản thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nguồn: Sài Gòn Xưa.
Author: admin
MỘT NGÀY VỚI MÙA XUÂN HÀ NỘI
kim thanh
Portland, Sun. July 14, 2019
Thưa quý vị, quý bạn,
Nhân nghe những ca sĩ Hà Nội bây giờ trình diễn, qua youtube do một netizen chuyển đến kèm theo lời bình phẩm khá nặng nề, nhưng đúng, tiện nhân muốn gửi quý vị, đặc biệt chánh gốc Hà Nội 36 phố phường, một bài tiện nhân đã viết, cũng về Hà Nội, cách đây ba năm. Nếu có điều chi vô tình làm phật lòng quý vị, xin quý vị bỏ quá cho. KT
1. Tôi sinh ra, và lớn lên, tại Nha Trang. Gia đình bên ngoại gốc “Nhe Treng” rặt, và bên nội, gốc Quảng Trị, cũng rặt. Bởi vậy, anh em tôi trong nhà nói một thứ tiếng lai căng, ở trường học không nói tiếng Việt, thành thử ra ngoài không có cái giọng, kiểu “chu che bữ nê mềnh lợi eng cuôm dí ké nữ” (dịch nghĩa: Chu cha bữa nay mình lại ăn cơm với cá nữa) cố hữu của dân địa phương thứ thiệt, như mấy đứa bạn cùng xóm. Rồi sau năm 1954, người Bắc di cư vô Nam nói, ôi thôi, đủ thứ tiếng Bắc kỳ, nghe rất mệt tai. Trong số, tôi chỉ chấm, và mê, tiếng hát mượt mà, đài các, phát âm chuẩn xác của những nữ ca sĩ chính gốc Hà Nội, như Kim Tước, Thái Thanh, Mộc Lan, Tâm Vấn, và những minh tinh, như Kiều Chinh, Mai Trâm. Tất cả những mỹ nhân một thời ấy đã mang theo vào Miền Nam dáng vẻ thanh lịch và giọng nói quý phái từ Hà Nội cổ kính, và cố đô Thăng Long ngàn năm văn vật.
Hà Nội mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng biết qua thơ văn nhờ hồi đi lính bắt đầu đọc những tiểu thuyết tiền chiến và những tạp chí của mấy ông nhà văn, nhà thơ Bắc kỳ di cư. Nhất là nghe những ca khúc đương thời thương về Hà Nội. Trong đó có một câu, trong một bài, mà ông cậu ruột mười sáu tuổi, em út của mẹ tôi, nghĩa là dân Nhe Treng đặc sệt, cứ âm ư mãi, riết rồi thành lố bịch: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu…” Lố bịch là phải, bởi lẽ không ai có thể gây xúc động mạnh lên trái tim thính giả trong những bài hát nhớ Hà Nội cho bằng những nhạc sĩ, ca sĩ di cư chánh hiệu Hà Nội của thời trước 1975.
Quả vậy, Trịnh Công Sơn, gốc Huế, một thời là bạn học cùng lớp Philo tại J.J. Rousseau, một tên nằm vùng phản chiến, sau 1975, muốn lấy điểm với chế độ mới, cũng bắt chước viết hai ca khúc về Hà Nội, nhưng không hay bằng, vì cảm xúc, nguồn hứng rất giả tạo, và hình ảnh rất ước lệ, khuôn sáo, mặc dù cũng vẫn là Hồ Tây, cũng mùa thu mây bay, cũng mùi hoa sữa, cũng cây bàng lá đỏ… Chưa kể, câu kết, trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội / Nhớ đến một người để nhớ mọi người”, muốn nhắn gửi gì đây? Chưa vội chụp nón cối, người ta phải thắc mắc: Mùa thu nào? Tổng khởi nghĩa 1945 ư? Một người nào? Đồ tể Hồ Chí Minh, với khẩu hiệu “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, mà các tù binh cải tạo đã phải nghe lải nhải hoài, phát ớn đến tận cổ?
2. Hà Nội, tôi đã thấy, đã nghe, đã gặp một lần, vào tháng 4 năm 1983. Cách đây ba mươi hai năm. Không như một du khách, hay một Việt Kiều yêu nước. Mà là một tù binh cải tạo. Đúng ra gặp hai lần.
Lần đầu, cuối năm 1975, một cách chớp nhoáng, bất đắc dĩ. Tại bến cảng Hải Phòng, tôi được bốc từ tàu Sông Hương ra và tống lên xe lửa, chực sẵn để chở, cùng với hàng trăm ngàn đồng đội, lần lượt, đến các trại giam vùng biên giới, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cổng Trời… Khi đoàn tàu đi ngang Hà Nội, chắc quá nửa đêm, tôi cố nhướng mắt nhìn ra bên ngoài, từ song cửa sổ hẹp. Tàu chạy nhanh, trời lại tối, và đèn đường leo lét, chỗ có chỗ không, nên tôi không thấy gì cả, ngoài một Hà Nội còn đang ngủ say, phố xá lặng thinh, sương rơi lả tả, và những hàng cờ đỏ sao vàng giăng mắc, ủ rũ, trên những góc phố. Làm nhớ đến hai câu thơ oan nghiệt –đã bóp chết đời tác gỉả, Trần Dần: Tôi bước đi, không thấy phố, thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ… Rồi tàu rẽ lên cầu Long Biên, khá dài. Tôi thấy hai bên đường sắt vài người dân đi bộ hay đạp xe, không biết về đâu, co ro trong chiếc áo tơi thô sơ. Trên sông, vài chiếc thuyền câu đậu bến im lìm.
Lần thứ hai, lần này, tám năm sau, được tiếp xúc với Hà Nội lâu hơn, đúng một ngày, nghĩa là mười hai tiếng đồng hồ. Quả thế, một buổi sáng đẹp trời, tại trại giam Vĩnh Phú, K1, đang chuẩn bị đi lao động, tôi nghe đọc tên mình được thả –áp chót trong danh sách một trăm mười người thuộc tất cả các trại Miền Bắc, mà Vĩnh Phú chiếm nhiều nhất: có bốn mươi tên trúng số độc đắc, trên toàn năm K, trong khi ở một số trại, nhỏ hơn, chỉ có vài mạng thôi. Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao mình lại được thả, nhưng chắc chắn không phải vì công đức cải tạo tốt, trái lại. Thây kệ, tôi tự nhủ, thắc mắc làm chi. Vội vàng về “buồng” (phòng), vì chỉ được mười phút sửa soạn tư trang. Không có gì, ngoài bộ đồ tù đang mặc trên người, và mùng, mền, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một bịch đường táng đen, một gói bánh mì khô, hai hộp sữa đặc, và một mớ thuốc cảm, đau đầu, đầu bụng, để dành từ những lần thăm nuôi trước. Tôi tặng hết đồ ăn và thuốc men cho những anh em, lúc ấy, khai bệnh nằm nhà.
Rồi tất cả lội bộ xuống K5, tức K chỉ huy, cách khoảng 15 km, để làm thủ tục xuất trại. Tại đây, được trả lại quần áo “dân sự”, đồng hồ, và tiền bạc bị “đăng ký” để “Cách mạng giữ hộ” khi bước chân vào trại tù đầu tiên, ở Miền Nam. Không biết đủ, thiếu thế nào, vì sau tám năm, không nhớ và điều đó không quan trọng nữa. Tù binh được thả sinh hoạt tại một buồng riêng, không được “quan hệ linh tinh” với các cải tạo viên khác.
Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi trút bỏ bộ đồ tù, mặc lại quần áo cũ, có anh diện giày da thay cho dép râu. Ai nấy mặt mày tươi rói, đẹp trai hẳn ra, như dưới chiếc đũa thần của một bà tiên, không còn hốc hác, bèo nhèo như dạo nào, nhất là sau mấy ngày được vỗ béo, ăn no ngủ kỹ. Được xe trâu chở ra tận bến phà trên sông Hồng. Sau hơn nửa giờ, cập bờ Ấm Thượng. Ở đây, phải chờ đến 10 giờ đêm mới có chuyến xe lửa từ Lào Cai đến “rước” về Hà Nội. Đi theo có hai cán bộ. Hai tên này, bình thường thuộc loại hắc ám, bữa nay có vẻ dễ dãi, chắc vì được dịp đi chơi Hà Nội hoặc tin rằng không thằng tù binh nào được thả lại dại dột âm mưu làm điều “phản động”. Để giúp thời gian qua mau, chúng tôi tụm năm tụm ba nói chuyện, cười đùa rổn rảng, hoặc mua bún, bắp luộc, xôi vò và bánh gai của các bà và em bé bán hàng rong tại chỗ –đã quá quen thuộc với những đợt thả tù binh. Nghe nói Ấm Thượng có đền thờ Hùng Vương, tôi và một anh bạn xin phép đi viếng, nhưng cán bộ bảo xa lắm, không cho. Trời hơi nóng, tôi bèn cởi áo quần nhảy xuống sông tắm. Nước phù sa đỏ ngầu, nhuộm cả ra quần đùi mới, trắng tinh. Lội ra xa, thấy sóng lớn quá, sợ bị cuốn đi, chết uổng mạng, tôi bơi vào, lên bờ nằm nghỉ, phơi nắng, đợi xe lửa.
3. Ấm Thượng không xa Hà Nội bao nhiêu, trên dưới 100km, mà ì ạch mãi đến 8 giờ sáng hôm sau, tàu mới đến ga Hàng Cỏ, sau khi dừng lại nhiều trạm dọc đường. Đám tù phải đợi đến 8 giờ tối mới có chuyến tàu Thống Nhất vào Sài Gòn. Hai tên cán bộ điểm danh, và bắt tất cả “tập trung” ở một góc nhà ga, dặn không được đi đâu xa, “vì các anh chưa được phát giấy ra trại”. Ga tấp nập hành khách và bộ đội chờ đi các tỉnh phía Bắc, và rất đông “gian thương” (buôn bán chui) lượn tới lượn lui, rình mồi, nhiều nhất là những người mua đi bán lại quần áo, vai vác bao tải to kềnh, trông như một cảnh chợ trời, sau 30 tháng 4, 1975 tại Sài Gòn. Tất cả đều quay nhìn chúng tôi, biết ngay là đám sĩ quan tù binh cải tạo từ biên giới được thả về Nam, với cặp mắt tò mò, hoặc cảm thông. Một vài thanh niên, thiếu nữ còn dạn dĩ, đến bắt chuyện, hỏi về “quân hàm” (cấp bậc) của anh em, và xuýt xoa với nhau: “Ghê nhỉ! Trông trẻ thế mà đã là đại úy, thiếu tá cả, gần mười năm trước cơ đấy!”
a) Các cô, các bà mua bán chui thấy một số tù binh, trong đó có tôi, mặc quần jeans, mà họ gọi là “quần bò”, liền sà đến, gạ mua. Một cô, khá xinh, mồm dẻo kẹo, chỉ vào cái quần xanh, bạc màu, bụi đời (càng bụi càng có giá, cô nói) của tôi, và bắt đầu dụ, ngon lành:
– Ông anh bán cái quần bò này cho em nhá!
Tôi giật mình, khoát tay:
– Đâu được cô! Hiện giờ tôi chỉ có mỗi cái quần này trên người, bán cho cô, lấy gì mặc?
Cô vẫn nài nỉ:
– Thì em đổi rẻ cho anh cái quần tây thường khác.
Tôi vẫn lắc đầu. Rồi cặp mắt thiện nghệ của cô bỗng rà lên khắp châu thân tôi, như radar, ngừng trên chiếc áo pull trắng, cổ cao, tôi đang mặc, tuy còn mới, nhưng sau tám năm “biệt giam” trong nhà kho kín mít, đã ngả sang màu vàng nhạt, và thoang thoảng có mùi mốc, pha lẫn với hương nách cũ, chưa kịp giặt, bay ra… khá nồng. Cô lên tiếng tán, ngọt xớt:
– Hay là ông anh bán cái áo này cho em!
Trong túi xách tôi còn một áo sơ mi xanh, nên đồng ý bán. Cô ta trả giá 3 đồng. Tôi ngồi im re. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ đến nay, tôi có đem áo quần đi bán bao giờ đâu, làm sao biết giá cả? Một bà già, hàm răng đen láy, ngồi cạnh cô bỗng lớn tiếng nói: “Ối giời, chỉ có quân ăn cướp ngày mới giả cái giá đó. Tôi giả 5 đồng đấy, cậu bán, tôi lấy ngay!” Tôi lại càng phân vân, chưa biết xử trí thế nào thì cô nọ liếc xéo bà kia: “Tôi tăng lên 10, mụ già nhà quê Quảng Ninh có theo nổi không nào?” Nghe hai người sừng sộ với nhau, đám tù binh và cả tên cán bộ xúm lại, xem màn bán đấu giá “đột xuất”, càng lúc càng hấp dẫn. Một anh thiếu tá đồng tù đập đập tay xuống thềm xi măng, hỏi: “Mại dô, mại dô. Có ai trả thêm nữa không?” Bà già cười khẩy: “Tôi giả 12 đồng đấy, con nặc nô Hà Tĩnh có ý kiến gì không nhỉ?” Cô gái tức khí, đáp lễ: “Tôi trả thêm 3 đồng, tổng cộng 15, mụ già nhà quê Quảng Ninh thấy thế nào?” Cả đám vỗ tay rào rào, tên cán bộ cũng cười. “Mụ già nhà quê Quảng Ninh”, cuối cùng, chịu không thấu, bỏ cuộc. Anh thiếu tá chỉ vào “con nặc nô Hà Tĩnh”, phán: “Không ai trả thêm nữa, tôi khóa sổ nè và long trọng tuyên bố rằng cô em gái Hà Tĩnh này được trúng tuyển mua áo pull của anh trai đại úy tù binh ngụy Vĩnh Phú, với giá 15 đồng chẵn, không bớt xu nào”. Cả đám, tù cũng như dân, ôm bụng cười lăn. Tiền trao áo múc, tôi bèn cởi ra ngay tại chỗ, giao tận tay cho cô. Vào thời điểm đó, 15 đồng là món tiền phải chăng, vì giá một tô phở khoảng 7 đồng, một ly bia 3 đồng. Tổng kết, có hai mươi tù binh “bị” mua áo, mua quần trong buổi sáng đó. Đủ tiền bát phố Hà Nội trong một ngày.
b) Bất ngờ có tiền phụ trội trên trời rớt xuống, cộng vào món tiền khiêm tốn được trại trả lại, tôi bỗng nổi hứng, đóng vai trưởng giả học làm sang: tắm nước nóng. Phòng tắm kế bên sân ga, thấp, nhỏ, mái tôn và vách lợp bằng tre đan. Trên cửa, viết nguệch ngoạc ba chữ bằng vôi trắng: Tắm lước lóng. Phòng chỉ có một lối ra vào. Giá vé là 2 đồng, trả trước cho một chị sồn sồn, hô răng, ngồi gác bên ngoài. Vừa lom khom chui vào, đóng cửa lại, chưa kịp làm gì, tôi nghe có tiếng nước xối ở gian trong, và dưới ánh nắng lùa qua khe hở, thấy vắt ngang trên tấm liếp ngăn hai gian một quần tây xanh đậm, và một áo lụa vàng, có thêu chim cò, kèm theo hai mảnh đồ lót, trên trắng, dưới hồng, rất “hiện đại”, rất khêu gợi mà, tôi đoán nhanh, chủ nhân chắc chắn không thể là một trong những “mụ già nhà quê Quảng Ninh” khi nãy. Tôi đang đứng lóng ngóng, chưa biết phải làm gì, thì từ phía trong vọng ra một giọng Bắc còn trẻ, nhưng không phải âm hưởng Hà Nội, của một cô chắc đã nhìn thấy tôi qua khe liếp, trong gian ngoài đầy ánh sáng: “Anh là tù cải tạo hả? Đừng ngại, cứ vô tư cởi quần áo ra, phòng tắm công cộng, ai cũng làm như thế cả!” Tôi im lặng, vì sợ gặp phải thứ dữ, chứ có gái nhà lành nào cả gan dám tắm truồng chung đụng như thế, chưa kể tắm xong, làm sao đi ra, nếu gian ngoài đang có người? Tôi đứng bất động như người trúng gió, căng mắt dòm vào, nhưng bị bóng tối ghen tuông che kín, không cho thấy chi hết. Sau tám năm thiếu đàn bà, trí tưởng tượng vụt bay lên, bay cao, bay xa, rạo rực, nhưng cố dằn xuống kịp thời.
Tôi múc, bằng gáo, nước từ trong hai cái vò sành, bắt đầu súc miệng. Nước quá lạnh, buốt thấu răng, và óc, làm tê liệt giây thần kinh thèm muốn. Tôi mở hé cửa ngoài, thò đầu ra, khiếu nại với chị bán vé. Chị ta trả lời, đúng bài bản, như quá quen với “sự cố” này: “Bữa lay, nhiều khách tắm quá, bác ạ, đến nượt bác thì lước lóng hết đột xuất, em đun không kịp, bác cố gắng khắc phục tắm bằng lước nạnh hộ em!” Tôi đành rửa mặt, và nhúng khăn lau sơ phần trên, rồi mặc lại áo, đi ra. Xong một buổi tắm “lước lóng”. Tại thủ đô nước CHXHCNVN, năm 1983. Không biết bây giờ phòng tắm dã chiến bên hông ga Hàng Cỏ ngày ấy có còn không.
c) Vì thời gian chờ xe lửa quá lâu, theo đề nghị của anh em, trưởng đoàn tù binh, trung úy người Huế –được bầu một cách “khẩn trương” do nhu cầu công vụ– xin cán bộ cho phép anh em đi “tham quan” Hà Nội mùa xuân. Hai cán bộ “hội ý” với nhau, và chấp thuận, với điều kiện không đi xa và phải trở lại ga trước 7 giờ tối, ai trễ sẽ bị bỏ lại, ráng chịu. Lúc đó mới 11 giờ trưa. Tất cả hồ hởi phấn khởi xuất quân. Một vài anh em già, yếu, bệnh, mệt, ở lại nhà ga, và tình nguyện giữ hộ các túi xách với lời bảo đảm sẽ được “đền ơn bội hậu” khi anh em đi chơi về.
Tôi rủ ba người bạn khá thân cùng đội tù K1 đi chung, trong số có một ông Thiếu tá già Tiếp Liệu Bộ Tổng Tham Mưu, cởi mở, chính gốc Hà Nội, nói năng lúc nào cũng từ tốn, chậm rãi, rề rà, nghe sốt cả ruột. Vừa rời sân ga, ông Thiếu tá bỗng dừng lại, vẻ mặt đăm chiêu, mắt ngó ngang ngó dọc, chỉ chỏ cho ba chúng tôi, không phải dân Bắc kỳ, và nói:
– Hồi năm 1954, nhà tớ ở gần ga Hàng Cỏ này, trong khu Hàng Bông – Thợ Nhuộm, tức phía Cửa Nam. Không biết căn nhà có còn đấy không.
Rồi ông dẫn cả bọn đi loanh quanh, và cuối cùng chui vào một dãy phố, đối diện ga. Những túp nhà chạy dọc theo con phố đều cũ mèm, mái đã rêu phong với những viên ngói lung lay, như răng bà lão, không biết bay theo gió lúc nào, tường vôi lâu ngày loang lổ thành màu trắng đục, có chỗ lòi ra một lớp gạch xám xịt. Phía trước là những hiệu buôn, được ông thiếu tá gọi là “hàng”, thấp lè tè, bước vào sơ ý là bị đụng vỡ đầu, nối liền với những “căn hộ” phía sau, cao hơn, lớn hơn. Sau một phút lưỡng lự, ông bước vô một gian “hàng”, không biết tên gọi là gì, có lẽ hàng Giày, vì bán toàn giày dép. Nghe ông kể, khi cả gia đình ông leo lên tàu há mồm vào Nam, thì, dĩ nhiên, cửa hiệu bán guốc và nhà ở của gia đình ông bị tịch thu, và đổi chủ. Chủ mới, không biết mấy đời rồi, là một anh trung niên, nói tiếng Quảng Bình giả giọng Bắc, lịch sự hỏi: “Các bác muốn gì ạ?” Ông thiếu tá già cười, mà như mếu, theo nghĩa hoàn toàn đen, vì tám năm dài đằng đẵng trong tù bạn bè đã bẻ giùm ông, bằng những sợi chỉ bện lại, mất hết năm răng cửa và hai răng hàm: “Trước năm 1954, tôi đã ở nhà này”, ông trả lời. Rồi xin ra phía sau để nhìn lại nó, và kể hết đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong thiên tình sử, anh chủ mới mủi lòng, ân cần mời ông chủ cũ lên cầu thang gỗ thăm lại căn nhà của chính ông.
d) Ba thằng chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà Nội, hay tàu há mồm, xin rút lui, để mặc ông thiếu tá già thoải mái đi tìm thời gian đã mất, như văn sĩ Pháp Marcel Proust. Lúc ấy có hai đồng tù trẻ, khác K, xin nhập bọn. Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn. Hay lãng mạn, hư cấu hơn, những nữ nhân vật có học, duyên dáng trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng –mà khung cảnh đều là Hà Nội của những thập niên 30, 40. Và, trên hết, các công chúa Mỵ Châu, Lý Chiêu Hoàng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân của Thăng Long nghìn tuổi, mang kiếp hồng nhan bạc phận trong thực tại lịch sử, đã làm ngây ngất trí tưởng nơi người hậu thế “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (Kiều), như những giấc mơ huyền thoại quyến rũ, dị kỳ.
Những cô gái, gọi là Hà Nội, dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc, không bao giờ được học và nói hai chữ “cám ơn” và “xin lỗi”. Mặc áo sơ mi nhét trong quần tây, theo mốt hiện hành, bỏ chiếc áo dài cổ truyền, và chân đi “sa-bô” (sabot?), danh từ tôi mới nghe lần đầu, tức loại giày nhựa, bịt kín phía mũi, gót để trống, đế rất cao, như một thứ dép tân thời, thay cho “thanh bình tiếng guốc reo vui” ngày xưa của nhạc sĩ Hoàng Dương. Lại còn giọng nói nữa. Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như pha với giọng Nghệ An của “Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè, còn hơn giấm. Bởi thế, khi giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi đời, người dân Sài Gòn nhận ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ lớ, chói tai, của những ca sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây giờ, thừa thắng xông lên, xâm nhập luôn những Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ, vô tình hay hữu ý thực hiện chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC, tiếp tay bởi tên nhà văn MC thò lò hai mặt. Về dung nhan, các ca sĩ ấy vượt trội những cô gái mà tôi đã gặp tại Hà Nội năm 1983. Nhưng giọng nói “2 nút” chua lè thì vẫn y chang.
e) Lang thang mãi, mỏi chân, và đói bụng, chúng tôi tắp vào một quán phở, không xa ga Hàng Cỏ là bao. Ba cô gái “phục vụ” (chạy bàn), mặc đồng phục, sơ mi và quần tây, đứng ở quầy hàng, thấy năm ông khách quý bước vào, trơ mắt ngó, không thèm chào mời. Và phớt lờ, tiếp tục trò chuyện với nhau. Quán lúc ấy không có ai ngoài năm đứa tôi.
Chờ lâu, một anh, cựu trung úy Biệt Động Quân, người Nam hiền khô, nhưng tướng rất ngầu, da ngăm ngăm đen, nói năng bạt mạng, lại ngọng nữa, sốt ruột, lớn tiếng hỏi:
– Nè, bộ mấy bà chê tụi tui không tiền hay sao mà không ai ga (ra) tiếp dzậy?
Một cô trả lời, giọng Bắc the thé như lai tiếng Thanh Hóa, Nghệ An:
– Ăn gì thì đến quầy mà gọi.
Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:
– Cho tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?
Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:
– Đây là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?
Anh quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:
– Gõ gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi. Và năm chai bia.
– Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.
Anh lại hỏi:
– Bia “bốc” là bia gì dzậy?
– Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì nữa?
Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho tình hình bớt căng thẳng:
– Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi” bay đi hết, phải không cô?
Nhưng cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.
Hai thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:
– Sao lâu quá gồi (rồi) mà không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?
Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:
– Đến đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!
Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.
Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul Sartre trên vỉa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều cà chớn gáo (ráo) trọi”.
Ra đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.
4. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn nhiều thời gian để mà giết. Làm gì cho hết nửa ngày nữa?
Tôi nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:
– Anh chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?
Anh mau mắn đáp:
– Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy anh ạ…
Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:
– Còn một loài hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa… Đấy, anh ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa…
Tôi hỏi lại:
– Hoa sưa hay hoa sữa?
– Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.
Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lừa và lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”… Nên chúng chưa có kế hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.
Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ, rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu, lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau. Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.
Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài. Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo, bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần, của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris…”, nhưng bây giờ, đứng đấy, tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires (thuyền thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu Thăng và giặc Minh…
Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố” (thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng… mà tại mọi góc đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.
Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:
– Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ…
Tôi cắt ngang:
– Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.
Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn, với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng thiết tha gọi về từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn… những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài, đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay…
5. Từ giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut hay Romeo and Juliet. Tứ đáp:
– Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ lên xe lửa đâu.
Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định. Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do “trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.
Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm, để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1, không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:
– Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh một chuyến.
Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:
– Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc chắn em sẽ ra thăm ảnh.
Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.
Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải, tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng… Bởi một nơi không đến bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt.
Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt, biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ…
Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang, lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em tiếp viên Air Vietnam kiều diễm của tôi, sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà biết rằng em, qua dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi, đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại tù đã đi qua… Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.
6. Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không hai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua, quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay –tất cả đều là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền, tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.
Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
7. Khát vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng, khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trong Inferno, thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni speranza voi ch’entrate (Hãy vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).
Portland, 28 tháng 1, 2016
Kim Thanh
……………………………………………………………………….
From: ANGIE NGUYEN <…………..@gmail.com>
Date: Sun, Jul 14, 2019 at 12:29 PM
Subject: [hoaihuong] Liên khúc Hà Nội – do một lũ khỉ hát
To:
Coi rồi muốn bỏ Hà Nội vào sọt rác.
Đúng là văn hóa “Gào sĩ” được phát minh từ Xã Hội Chủ Nghĩa.Nhạc với Nhảm, tên nào gọi cho đúng đây????D.H
Liên khúc Hà Nội – Divas’ Night ‘Ngày Xanh’ – VPBank – Thanh Lam – Hồng Nhung – Mỹ Linh – Hà Trần
BUỒN VUI CHUYỆN CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG
PHONG TRAN Channel – Published on Jul 14, 2019 : NHÂN SĨ CỘNG ĐỒNG: Khi trọc phú thích làm “chó”
4/07 – Căng thẳng bầu cử Hội Người Việt Toronto
– Published on Jul 15, 2019 – Hội Người Việt Toronto giới thiệu thành viên mới, kêu gọi đoàn kết, ra giải pháp với SBTN
– Published on Feb 10, 2019 – PhoBolsaTV: Diễn hành Tết đầy màu sắc trên phố Bolsa, Little Saigon – KỶ HỢI 2019
– Published on Aug 11, 2018 – Nua Vong Trai Dat TV: Bản Tin Nóng | Rò rỉ thông tin mới vụ Michael Phương Minh Nguyễn
ÚC CHÂU
- Hướng Dương – Published on Apr 15, 2019: Hào Khí Việt Nam , màn hoạt cảnh trong Đại Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương tại Melbourne , Úc châu
30/4 XIN ĐỪNG VONG ƠN
Tâm Tư Ngày Quốc Hận Thứ 43, giáo sư Nguyễn Thanh Giàu đã nói:
“Chúng tôi rất buồn khi thấy một số người sinh hoạt tôn giáo bị ru ngủ bởi một câu nói ‘tôn giáo không làm chánh trị’. Chính họ đã khoanh tay, bó gối, thản nhiên nhìn đồng bào chúng ta tiếp tục bị đau khổ, bị cướp bóc, bị tù đày và dần dẩn nước mất mà họ vẫn dững dưng…..Những người Vượt Biên và những người bỏ mạng trên đường vượt biên là những Anh Hùng…Nếu không có HỌ thì làm sao thế giới mở rộng vòng tay đón nhận người tỵ nạn…và nếu không có HỌ thì ngày nay làm sao có cộng đồng người Việt ở khắp năm châu…”
Và nếu không có HỌ thì làm sao ngày nay có nhà thờ, chùa chiền của người Việt ‘nguy nga, tráng lệ’… Thế mà Ngày Quốc Hận 30/4 biết bao người kể cả các ‘ngài’ lãnh đạo tinh thần tôn giáo không hề quan tâm đến, không một lời cầu nguyện và tri ân đồng bào bỏ mạng trên đường vượt biên hay cám ơn những người tỵ nạn cộng sản sớm đặt chân đến các nước tự do, có công khai phá, xây dựng cộng đồng người Việt khắp nơi….Những kẻ vong ơn này đã và đang đạp đổ đạo lý làm người của dân tộc Việt và đi ngược lại văn hóa, đạo lý của người bản xứ vốn xem nặng hai chữ ‘THANK YOU’. Vì ‘CẢM ƠN’ hay TRI ÂN’ là văn hóa và đạo lý làm người của các xứ sở văn minh, tiên tiến….Hai chữ ‘Cảm Ơn’ bị lãng quên và lu mờ ở các nước cộng sản: xã hội cộng sản Việt Nam ngày nay đã là vậy.
VONG ƠN’…Bài nói chuyện Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4/1975 lần thứ 43, năm 2018 đáng phải nghe, nhất là giới sinh hoạt tôn giáo và qúy vị ‘lãnh đạo tinh thần tôn giáo’
Trung Đội Trưởng Nhảy Dù – Chu y Quý
Chu y Quý – KBC 4804
Tôi bước thêm hai bước nữa thật nhẹ nhàng, ngồi sát xuống bên hông căn lều, lắng tai nghe. Giọng nói của người miền Nam:
– Đ.m, tối nay ăn cơm với thịt kho đã thiệt, hôm nào đi lãnh tiếp tế là hôm đó khoẻ ru. Ê Thành, tao nghe mấy thằng Nhảy Dù nói vài bữa nữa tụi nó sẽ rút ra, tao với mày đang ký vô Nhảy Dù, sẽ được ân xá, chứ còn hai năm lao công đào binh mệt mỏi quá.
Giọng trả lời của người miền Trung chắc nịch:
– Đ.m. mi, sao mi ngu quá vậy. Hôm nay mình đi vác đồ tiếp tế, mấy thằng Nhảy Dù cũng vác y như mình. Bây giờ tau với mi ngủ khoẻ, tụi nó còn phải gác mỗi thằng 4 tiếng đồng hồ nữa. Sáng ngày mai tụi nó lại phải đi đánh giặc, hễ có thằng nào chết hay bị thương, tụi mình mới tà tà khiêng về. Mi thấy không, mới một tháng nay tụi mình đã khiêng biết bao nhiêu là xác chết. Mi ngu thì cứ đăng vô Nhảy Dù, tau khoái làm lao công đào binh hơn, khoẻ re mà lại không chết là được rồi.
Tôi lẳng lặng đứng lên, lắc đầu đi thẳng về lều. Tôi kéo cao cổ áo vì đột nhiên cảm thấy lạnh. Tôi thấy thương cho tôi và các đồng đội của mình, những người lính Nhảy Dù chỉ thích đi mây về gió, đi có về không, đi đông về ít, đi khít về thưa. Đêm nay sao khó ngủ quá, trằn trọc mãi, thì ra thân phận người lính Nhảy Dù còn thảm hơn số kiếp của những người lao công đào binh.
Tôi giật mình thức giấc sau cái lắc chân của Quang. Chụp vội cái nón sắt lên đầu, tôi áp sát ống liên hợp lên tai:
– Thiên Trường, đây Sĩ Phú tôi nghe.
Giọng đều đều của trung úy đại đội trưởng:
– Anh kiểm soát lại mấy thằng em, coi lại đạn dược. Anh sẽ nhận thêm 8 người nữa, có một cánh gà mới. Khi Hoàng tới, anh bàn giao vị trí cho nó rồi về gặp tôi.
Về tới bộ chỉ huy đại đội, chưa kịp lên tiếng thì trung úy đại đội trưởng đã từ trong lều bước ra. Tôi định đưa tay lên chào thì trung úy Thành đã vội vã khoát tay:
– Được rồi, anh ngồi xuống đây, lấy bản đồ ra.
Trung úy Thành mở rộng tấm bản đồ, lấy bút mỡ khoanh tròn vị trí một ngọn đồi:
– Đây là ngọn đồi anh phải chiếm trong ngày hôm nay. Thằng 2 đã đánh 2 lần mà vẫn không xong.
Trung úy đại đội trưởng ngẩng đầu, nheo mắt nhìn tôi:
– Thế nào, anh nhắm làm được không.
– Để tôi cố gắng, trung úy.
– Anh cần gì cứ nói, tôi sẽ thỏa mãn tối đa cho anh.
– Tôi cần thêm nhiều lựu đạn, trung úy.
– Sẽ có ngay cho anh.
Tôi dẫn trung đội băng ngang qua chốt của trung đội 2, chuẩn úy trung đội trưởng Dũng đã bị thương rời khỏi mặt trận.
Quân số trung đội cứ hao hụt dần đi sau những cuộc giao tranh ác liệt kể từ ngày đầu của cuộc hành quân. Sau khi được bổ xung, trung đội bây giờ đã kha khá, đếm được 15 người, chia làm 2 toán. Một vị hạ sĩ quan trông coi một toán 6 người. Tôi dẫn toán còn lại tiến lên phía trước. Trước mặt tôi là binh nhất Binh, sau lưng tôi là người mang máy truyền tin, rồi đến trung sĩ Bền, người vừa mới tốt nghiệp trường hạ sĩ quan Đồng Đế, Phú đi sau cùng bao chót.
Ngọn đồi không cao lắm, nhưng cây cối nằm ngổn ngang chắn lối đi, hậu quả của những lần giao tranh trước đó. Tôi phất tay ra hiệu tiến lên, lòng hồi hộp căng thẳng, mắt tôi mở lớn quan sát về phía trước, tai nghe rõ những bước chân của đồng đội. Chắc chắn địch ẩn nấp ở đâu đó và đang chờ đợi chúng tôi.
Khi tôi vừa băng ngang một thân cây thì địch khai hỏa, nỗi lo lắng trông chờ đã được khai thông bằng những tràng AK chát chúa và những tiếng nổ dữ dội của B40. Tôi lao vội vào bên gốc cây, quát lớn:
– Bền đâu, đưa anh em lên ngay.
Đồng đội của tôi bám theo những gốc cây di chuyển lên, bắn trả thật dữ dội. Tôi vừa gọi máy báo về đại đội, vừa thúc anh em xông lên. Bỗng nhiên tôi thấy vắng hẳn đi tiếng súng M79, linh tính báo cho tôi biết đã có chuyện không may, tôi vội bò nhanh về phía Bính. Trời ơi, Bính nằm ngửa trên mặt đất, khẩu M79 đã tuột ra khỏi tay. Tôi đè tay lên ngực Bính:
– Bính! Bính! Có sao không?
Bính lặng yên không trả lời, chỉ đưa tay giật giật chiếc giây ba chạc. Nhìn Bính, tôi hiểu rằng không thể nào cứu được nữa rồi. Cằm của Bính đã vỡ, máu tuôn ra đầy miệng, tràn xuống ướt đẫm cả ngực áo. Tôi thử ấn bàn tay lên ngực của Bính, máu trào ra có lẫn bọt.
– Chuẩn úy, Bính chết rồi.
Tiếng nói của Quang như khơi dậy trong tôi nỗi căm hờn, tôi chụp lấy khẩu M79 hướng về phía địch bóp cò, như một người điên, tôi mò vào túi đựng đạn, nạp thêm, bắn nữa. Nhưng viên đạn thứ 5 chưa kịp bắn đi thì địch đã dọng về phía tôi một trái B40, cũng may viên đạn đã chạm vào một nhánh cây rồi phát nổ nên tầm sát hại cũng giảm đi rất nhiều.
Đầu óc lùng bùng nhưng tôi cố gắng trấn tỉnh để phán đoán tình hình. Địch bắt đầu bắn súng cối vào đội hình của chúng tôi. Tôi mở mắt lớn ra, thấy những cành cây ào ào gãy gục đổ xuống, những ánh lửa nháng lên. Tôi xả hết một băng đạn M16 về phía trước, rồi gọi:
– Quang, đem máy truyền tin lại đây.
Tôi nói như gào lên trong máy:
– Đích thân, xin phản pháo ngay, tụi nó cối 61 ly vào tụi tôi.
– Sĩ Phú, bình tĩnh, bắn ngay cho anh, kiểm soát lại con cái, nghe rõ không?
Chưa đầy 2 phút sau tôi đã nghe tiếng nổ của đạn pháo 105 ly rót lên trận địa, súng cối của địch giảm bớt cường độ. Lợi dụng khoảng thời gian ngắn ngủi, tôi di chuyển thật nhanh kiểm soát lại trung đội, sau đó tôi ra lệnh rút khỏi ngọn đồi, đem theo tất cả thương binh và tử sĩ.
Tôi ngồi bệt xuống đất, dựa lưng vào gốc cây mệt mỏi, gọi máy báo cáo về đại đội:
– Thiên Trường đây Sĩ Phú, tôi có 4 em đi tàu suốt, 3 em rách áo.
Trung úy Thành đổi giọng lúc nào tôi cũng không rõ:
– Đ.m, anh đang ở đâu mà giờ này mới báo cáo.
– Tôi cho anh em rút xuống rồi đích thân, tụi nó pháo quá chịu không nổi.
– Đ.m, tôi đưa anh ra toà án quân sự. Đ.m, Nhảy Dù gì mà mới chết có mấy thằng anh đã cho tuột xuống rồi, đánh đấm gì mà hèn vậy.
– Đích thân nghĩ coi, tụi nó chấm sẵn tọa độ, cối ngay chóc, tôi đâu còn đủ quân để tấn công.
Mỗi câu nói trung úy Thành lại nhấn thêm một câu chửi thề:
– Đ.m, bây giờ tôi cho anh một tiếng đồng hồ để làm lại, anh phải ở trên đó đêm nay, nghe rõ chưa. Tập trung những đứa chết và bị thương lại một chỗ, thằng 2 sẽ lên nhận. Đ.m, đừng làm mất mặt tôi, phải cố gắng lên, anh nghe rõ chưa.
Tôi đưa ống liên hợp lại cho Quang, móc trong túi ra điếu thuốc, bật hộp quẹt. Mùi vị của điếu thuốc không còn ngon lành gì nữa, nó đắng hơn bao giờ hết. Tôi thở dài, kiểm tra lại quân số.
Tôi lại tiếp tục trò chơi cũ. 6 người do trung sĩ Bền dàn bên tay phải, tôi giữ bên cánh trái. Lần này ăn thua đủ, tôi thúc anh em xông lên, và như những con trâu điên, anh em vừa bắn vừa la xung phong. Chẳng còn gì mong tồn tại ở nơi đây, chỉ còn điên rồ và cái chết, tôi không còn cảm nhận được bất cứ điều gì nữa, tôi xiết cò súng, tôi gào thét thúc dục anh em lao vào chỗ chết. Giữa tiếng súng nổ, tôi thấy mình lênh đênh trong cuồng nộ, xung phong, xung phong, tôi gào lên.
Tôi vấp phải xác chết của một đồng đội và ngã xuống đất. Tôi lồm cồm bò dậy rồi lại tiếp tục lao lên phía trước.
– Lên, lên. Đ.m, mày không lên tao bắn thấy mẹ. Hình như tôi có la một người lính.
Sau khi ném trái lựu đạn xuống căn hầm, tôi lăn người qua một bên chờ đợi, lúc này tôi mới cảm thấy mình đã lội đến bên bờ sự sống, tiếng nổ của trái lựu đạn dội lên từ lòng đất.
Những quả đạn cối 61 ly của địch bắt đầu rơi lên đầu chúng tôi. Tôi và Quang vội chui ngay vào căn hầm, chạm phải những khối thịt bầy nhầy.
Tôi gọi máy về đại đội, thông báo đã chiếm xong mục tiêu và xin phản pháo.
Trung úy Thành ra lệnh, giọng ông ta vui hẳn lên, lành mạnh, không có chữ Đ.m:
– Sĩ Phú, kiểm soát lại con cái, dặn tụi nó ngóc đầu lên quan sát, coi chừng đám vịt con phản công. Những đứa rớt lại sẽ có thằng 2 lo.
– Đích thân tăng cường thêm quân cho tôi, chỉ còn có 8 người không thể phòng thủ qua đêm.
– Cố gắng đi Sĩ Phú, tôi đã lo hết cho anh, bây giờ kẹt rồi.
Trời đã bắt đầu tối, tôi bò quanh các hầm dặn dò anh em. Cứ một người ngủ thì một người gác, cấm bắn súng, chỉ dùng lựu đạn khi hữu sự. Tôi và Quang cũng vậy, tôi gác thì Quang ngủ và ngược lại.
Trời đã tối hẳn, không lo bị bắn sẻ nữa, tôi leo lên ngồi trên nóc hầm, và đến bây giờ tôi mới cảm thấy đói bụng, tôi gọi Quang:
– Quang ơi, còn cái gì ăn không, đói bụng quá.
Quang dí vào tay tôi một bịch gạo sấy, tôi bốc vội bỏ vào miệng nhai. Nhưng nuốt không trôi dù rằng bao tử đang cào cấu lên vì đói, cái mùi hôi thối của xác chết cứ xông vào mũi tôi, dù có kéo cổ áo xuống bịt ngang lỗ mũi vẫn không thể nào ngăn được cái mùi kinh khủng ấy. Tôi móc bi đông nước ra uống từng ngụm nhỏ, không dám uống nhiều vì đã vơi quá nửa.
Sau khi đổi gác cho Quang, tôi chui vào hầm hút thuốc. Tôi mở trừng đôi mắt ngó ra chung quanh, bóng tối dày dặc, bình yên.
Trong mông lung tôi lại nhớ về em. Tự nhiên tôi muốn kể cho em nghe về tôi, một chuẩn úy trung đội trưởng Nhảy Dù. Xin lỗi em, anh không phải là gỗ đá, lại càng không phải là một kẻ thô lỗ, nhưng xin em hãy cho anh chửi thề một câu trước khi kể chuyện cho em nghe. Vì nếu không chửi thề dường như câu chuyện sẽ thiếu đi chất mặn mà, không mặn mà thì câu chuyện sẽ trở nên hoang đường vô vị. Giờ này nếu em ở nơi đây, trên cái chốt chết tiệt này, có lẽ em sẽ không còn dám mơ dám mộng gì nữa. Đụng vào thực tế rồi, 100% em sẽ không bao giờ dám đi dạo phố chung với anh nữa. Ngày xưa em thường kể với anh rằng em lấy làm hãnh diện khi bước sóng đôi bên anh, một người hùng mũ đỏ, em nói rằng em có cảm giác dường như mọi người đang trầm trồ khen ngợi chúng mình đẹp đôi vừa lứa. Tội nghiệp em tôi, em ngây thơ quá nên mới cả tin vào những điều thêu dệt của đám thiên hạ bàng quang. Không em ạ, thiên hạ đang nhìn em với ánh mắt thương hại đấy thôi, vì họ biết chắc chắn rằng một ngày không xa em sẽ trở thành goá phụ đầu chit khăn tang.
Có bao giờ em đã trông thấy cái chết của một người lính Nhảy Dù? Họ chết đủ kiểu em ạ. Có đứa thân xác gom lại chưa đầy một ba lô, có đứa mất hẳn phần hàm dưới trông vô cùng ghê rợn, cũng có đứa diễm phúc chết nhẹ nhàng như một chiếc lá rơi. Họ chết khi còn quá trẻ, khi còn quá yêu đời. Họ chết cho mầu mũ đỏ kiêu hùng.
Anh đang ngồi đây, dưới căn hầm hôi thối, chung quanh là bóng tối mù loà, vậy mà hồn anh sáng rỡ khi nhớ về em. Suốt cả ngày hôm nay anh muốn điên lên mà không điên được. Em cứ xem, từ sáng đến tối chỉ bò quanh quẩn trong cái nhà mồ khốn kiếp chật chội, hễ ló đầu ra thì lo bị bắn sẻ, lo không biết lúc nào pháo của địch sẽ rơi. Có điều gì để anh đổi chác được hở em? Anh sẽ được điều gì để trao đổi tương xứng với những giây phút ngặt nghèo ngộp thở này. Chúa phật cũng quên tuốt, anh chỉ còn có em để mà giải bầy tâm sự, em là con tàu mang anh ra khơi để quên đi nỗi chán chường không lối thoát, tình em ru anh vào giấc ngủ bình yên hiếm hoi giữa tiếng bom đạn lở đất long trời.
Tôi giật mình thức giấc khi những hạt mưa lạnh quất vào mặt mình. Tôi lắc đầu một lát cho tỉnh ngủ, rồi sực nhớ, tôi vội gọi Quang. Hai đứa tôi lay hoay căng poncho hứng nước mưa, chỉ một lát đã hứng đầy 2 bi đông nước mưa. Trong bóng tối, tôi thè lưỡi liếm những giọt nước mát lạnh ngọt ngào. Nhưng sau đó lại là nỗi khổ của lạnh lẽo, quần áo ướt mem, người tôi run lên vì lạnh, 2 hàm răng cứ lập cập va vào nhau. Hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Khi thức dậy, tôi giật thót cả người khi thấy Quang cũng đã lăn ra ngủ say sưa từ lúc nào. Chết mẹ, thì ra nãy giờ không có người gác. Trời đã bắt đầu lờ mờ sáng, nhìn đồng hồ mới 5 giờ, một đêm ngủ bình yên.
Tôi bốc máy gọi về đại đội:
– Thiên Trường đây Sĩ Phú.
Gọi hai, ba lần mới nghe giọng nhừa nhựa ngái ngủ của người mang máy đại đội.
– Sĩ Phú có gì lạ không, sao đích thân gọi sớm vậy.
– Mày nói với ổng là trên này tụi tao không nấu nướng gì được, nấu cơm đem gấp lên cho tụi tao, đói thấy mẹ. Nhớ cẩu thêm đạn và lựu đạn nữa. Nói ổng cho tao thêm quân, Đ.m nó tấp chịu không nổi đâu.
Phải chờ thêm 5 tiếng đồng hồ nữa, gần 10 giờ sáng mới thấy lính trung đội 2 mò lên, đem theo 1 nón sắt cơm và nửa nón sắt thịt heo kho. Tôi chia đều cho 4 hầm. Móc vội chiếc muỗng ra, không cần lau chùi, tôi xúc cơm lùa vào miệng, chúng tôi cần sức lực để chịu đựng lâu dài.
Ngày hôm qua đã khiêng cái xác lên khỏi hầm nhưng không kéo ra xa được nên xác chết vẫn nằm vắt ngang sát bên miệng hầm, bắt đầu sình lên. Mùi hôi thối khiến tôi ngầy ngật khó chịu. Hai thầy trò lại dựa lưng nhau chịu đựng. Địch vẫn bám sát chung quanh, lâu lâu lại dọng cối 61. Đã 3 giờ chiều, tôi muốn khùng lên, khó chịu quá, tôi liều mạng bò lên, gặp ngay xác chết, thối ơi là thối, tôi bụm tay rít mạnh hơi thuốc.
Quang từ dưới hầm gọi lên:
– Chuẩn úy ơi, ông khùng quá, nó bắn sẻ bây giờ.
Tôi dơ cánh tay trái lên thật nhanh rồi kéo xuống, trúng đây đừng trúng chỗ nào khác. Tôi làm như vậy 2, 3 lần, nhưng trời còn thương tôi, còn muốn tôi khổ dài dài nên chẳng có điều gì bất hạnh xảy ra.
Tôi thản nhiên ngồi hút thuốc lá, nhìn trời hiu quạnh, mây vẫn bay, chẳng có gì lạ, chẳng có gì để nhớ cho ngày hôm nay.
Trời lại tối, đêm nay đã là đêm thứ hai.
12 giờ đêm, tôi nhận được lệnh zoulou, 8 thầy trò mò mẫm rút xuống trong đêm tối.
Chu y Quý – KBC 4804
MỘT BINH CHỦNG NHẢY DÙ QLVNCH BỊ LÃNG QUÊN
guyên tác:
The Forgotten South Vietnamese Airborne
By Barry R. McCaffrey
August 8, 2017
Lời nói đầu.
Vào năm 1993, trong quyển tự truyện It Doesn’t Take a Hero, Đại Tướng Norman H. Schwazkopf đã dành nguyên một chương để viết về cảm nghĩ, thời gian ông phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Năm 1995, tác giả Michael Martin (Command Sergeant) xuất bản quyển Angles in Red Hats: Paratroopers of the Second Indochina War, gồm nhiều hình ảnh và bài viết của các cựu cố vấn Hoa Kỳ phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù. Năm 2009, Đại Tá hồi hưu Robert L. Tonsetic viết quyển Forsaken Warriors: The Story of an American Advisor who Fought with the South Vietnamese Rangers and Airborne, về những kỷ niệm thời chinh chiến, phục vụ trong vai trò cố vấn với hai binh chủng này, Tiểu Đoàn 42 và 44 BĐQ, và Tiểu Đoàn 2 Dù. Đến năm 2012, Đại tá hồi hưu Mike McDermott viết quyển sách True Faith and Allegiance: An American Paratrooper and the 1972 Battle for An Loc, về thời gian ông có mặt với Tiểu Đoàn 5 Dù trong trận đánh An Lộc. Vào tháng 5 năm 2014, Thiếu Tá hồi hưu John J. Duffy viết tập thơ The Battle for ‘Charlie, về trận đánh Đồi Charlie của Tiểu Đoàn 11 Dù. Cuối năm 2014, Đại Úy Gary N. Willis phi công Hoa Kỳ, từng bay biệt phái cho Sư Đoàn Nhảy Dù viết quyển Red Markers, Close Air Support for the Vietnamese Airborne, 1962-1975, về các phi công bay yểm trợ không yểm, liên lạc với các cố vấn Hoa Kỳ trong các tiểu đoàn Nhảy Dù, cho những trận đánh của binh chủng Nhảy Dù. Cả sáu quyển sách này đều đề cao sự chiến đấu dũng mãnh của các người lính Nhảy Dù Việt Nam.
Những tưởng các quyển sách vừa nêu trên đủ nói lên được tấm lòng của các viên cố vấn Hoa Kỳ, dành cho các người bạn Nhảy Dù Việt Nam của họ. Nhưng, mới ngày hôm qua, ngày 8 tháng 8, Đại Tướng hồi hưu Barry McCaffrey đã dành một sự ngạc nhiên cho người Việt tị nạn chúng ta, khi ông viết một bài viết ngắn trên báo New York Times [cho độc giả Hoa Kỳ], viết về những người lính Nhảy Dù Việt Nam, với tấm lòng cảm phục và sự tiếc nuối vô bờ.
Tôi xin phép chuyển dịch và đặt tựa bài viết: “Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên.”
Phúc Nguyễn
Tôi đến Việt Nam vào tháng 7 năm 1966, và nguyên cả năm sau tôi làm cố vấn với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Đó là năm cuối mà chúng ta nghĩ là đang chiến thắng. Đó là năm cuối mà chúng ta có thể định nghĩa điều mà chúng ta nghĩ chiến thắng là như thế nào. Đó là năm của chủ nghĩa lạc quan, của gia tăng quân số và nhận lãnh cuộc chiến từ người Việt – và con số thương vong của Hoa Kỳ cũng cao hơn.
Vào cuối năm 1967, có 486,000 quân nhân Hoa Kỳ trên chiến trường. Con số lính Mỹ tử trận năm ấy gần như gấp đôi con số của năm 1966. Giữa tất cả các sự việc đó, sự hy sinh, lòng dũng cảm và việc hiến dâng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đất nước họ hầu như đã biến mất từ ý thức của giới truyền thông và chánh trị Hoa Kỳ.
Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, mà tôi đã tham gia với tính cách là viên cố vấn phụ tá cho tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu ưu tú. Cho đến năm 1967, các người lính Nhảy Dù, với quân phục ngụy trang và mũ đỏ riêng biệt, đã lên đến 13,000 quân nhân, tất cả đều là lính tình nguyện. Những người như chúng tôi được vinh dự làm việc với họ, rất kinh ngạc bởi lòng dũng cảm và chiến thuật táo bạo của họ. Các viên sĩ quan và các hạ sĩ quan thâm niên là những người lính rất tài năng và có đầy kinh nghiệm chiến trường; thật là một điều dễ quên khi biết các người lính Hoa Kỳ là mới mẻ đối với đất nước Việt Nam, trong khi nhiều người trong bọn họ đã có mặt với cuộc chiến từ năm 1951.
Là các viên cố vấn, chúng tôi thường làm việc như một cán bộ hay sĩ quan liên lạc từ cấp tiểu đoàn và chiến đoàn/lữ đoàn. Chúng tôi đã dành một năm để chuẩn bị tại California, tính luôn cả 16 giờ đồng hồ của mỗi ngày để học về văn hóa và ngôn ngữ tại học viện Defense Language Institute. Tôi cũng hoàn tất xong khóa, học và hiểu để nói tiếng Việt. Các chiến thuật về phản du kích và huấn luyện hệ thống về võ khí thời Đệ Nhị Thế Chiến mà người Việt vẫn còn sử dụng thì học tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina.
Chúng tôi làm việc với một vai trò rộng lớn; phối hợp yểm trợ pháo binh và không yểm, sắp xếp trực thăng chuyển quân và cứu thương, và cung cấp tin tức tình báo cùng giúp đỡ về tiếp liệu. Chúng tôi không cho lịnh, và chúng tôi không cần phải làm vậy. Các người bạn đồng nhiệm là những người đàn ông mà chúng tôi ngưỡng mộ, và họ vui thích có được chúng tôi – và hỏa lực Hoa Kỳ – cho họ. Chúng tôi dùng thức ăn của họ. Chúng tôi nói tiếng họ. Chúng tôi tin tưởng hoàn toàn vào họ. Tôi thường có một người lính Nhảy Dù mang máy truyền tin, và anh cũng là người lính cận vệ.
Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi bao gồm ba người: một viên đại úy Lục Quân Hoa Kỳ, một viên trung úy và một viên hạ sĩ quan, thường là một trung sĩ. Các viên trung sĩ là thành phần nồng cốt. Trong khi các sĩ quan sẽ thay phiên: đến và đi; các viên trung sĩ ở lại với các đơn vị được chỉ định cho họ cho đến cuối cuộc chiến – hay cho đến khi họ hy sinh, hay bị loại khỏi chiến trường.
Lần tôi được giới thiệu về Việt Nam lại là một kinh nghiệm đầy xương máu. Chúng tôi chuyển quân bằng các chiếc giang đỉnh Hải Quân và trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, vào một con sông sình lầy của vùng đồng bằng Cửu Long, nằm ở phía nam Sài Gòn. Đây là trận chiến chả có vinh quang, chiến đấu và chết chìm dưới sình lầy dơ bẩn và nước mặn. Không có một chút phiêu lưu mà chúng tôi đã cảm giác khi học một khóa học của Biệt Động Quân. Ông đại úy của tôi, là một sĩ quan chuyên nghiệp và cũng là người cố vấn trưởng tài năng, tử trận. Về lại căn cứ, tôi giúp mang thi hài ông xuống trực thăng. Nhưng đây chỉ là một khởi đầu.
Sau bốn tháng trong chiến đấu với Nhảy Dù, chúng tôi tham gia một trận đánh lớn và đẫm máu, tiếp sức cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía bắc Đông Hà, gần bờ biển, nằm về hướng bắc của Nam Việt Nam. Hai trong các tiểu đoàn của chúng tôi được trực thăng vận vào vùng Phi Quân Sự, tìm kiếm và chận đứng một đoàn quân quan trọng của Bắc Việt, đang di chuyển về hướng Nam. Công tác này trở thành ba ngày chiến trận khốc liệt và đầy máu. Viên cố vấn trưởng bị hy sinh. Người hạ sĩ quan dũng cảm, Thượng Sĩ Rudy Ortiz bị trúng đạn đầy người. Anh kêu tôi lắp băng đạn vào khẩu súng M-16 của anh và đặt súng lên ngực, để cho anh có thể “chiến đấu cho tới chết” như những người lính còn lại của chúng tôi (may mắn, anh thoát chết).
Chúng tôi có cả trăm thương vong và gần như bị tràn ngập. Nhưng những người lính Nhảy Dù chiến đấu dũng mãnh và bền bỉ. Trong lần nguy khẩn, với sự yểm trợ của không yểm và hải pháo, chúng tôi tái phản công. Viên tiểu đoàn phó vẫn bước thẳng người trong lúc đạn bay đầy quanh để đến ngay hố cá nhân tôi. Ông bảo tôi: “Trung Úy, đây là giờ phút chúng ta mất mạng.” Tôi vẫn cảm thấy rợn da khi nhớ tới những lời nói của ông.
Trong chiến trận, lính Nhảy Dù không bỏ rơi đồng đội đã chết hay bị thương trên chiến trường; ngay cả võ khí cũng vậy. Trong một trận đánh khác, Tommy Kerns, người bạn cùng khóa tại trường West Point là một người to lớn, chơi football cho trường, bị thương nặng và bị kẹt trong một cái rãnh hẹp. Những người lính Nhảy Dù Việt Nam đang ở với anh, nhỏ con hơn anh nhiều, đã cố gắng nhưng không thể kéo anh ra khỏi rãnh. Thay vì rút lui và bỏ mặc anh, họ giữ vững trận tuyến và chiến thắng cuộc chiến đấu hung tợn để cố giữ mạng sống trong cái thân xác to lớn của anh. Anh thoát chết nhờ vào lòng dũng cảm của họ.
Các viên cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết các đơn vị của Sư Đoàn Nhảy Dù đóng quân ngay và chung quanh thành phố Sài Gòn. Chúng tôi yêu thích sức sống và sự náo nhiệt của thành phố. Chúng tôi yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và luôn cả người Việt. Chúng tôi vô cùng hãnh diện về nhiệm vụ của chúng tôi với Mũ Đỏ. Chúng tôi biết chắc là cả thế giới đã ghen tương về nhiệm vụ của chúng tôi – chúng tôi đang làm việc chung với đơn vị ưu tú nhứt của đất nước. Được trả lương với chiến trận và cộng thêm bằng dù, chúng tôi có vẻ như có cả đống tiền. Chúng tôi sống trong những tòa nhà có máy lạnh. Chúng tôi còn trẻ trung, có một chút ít khờ dại, nhưng luôn mạnh bạo. Các viên đại tá, trung tá Hoa Kỳ chỉ huy đám cố vấn là những người lớn tuổi, trầm tĩnh và là những người đàn ông dày dạn chiến trường; họ đã từng là những chiến binh Nhảy Dù đánh những trận đánh tệ hại hơn trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Triều Tiên.
Đời sống cố vấn trong Sư Đoàn Nhảy Dù rất khó mà đoán biết cho được. Trách nhiệm của sư đoàn là phục vụ với tính cách tổng trừ bị, luôn được mang đến chiến trường bất cứ lúc nào mà các viên tư lịnh cảm thấy tình hình nguy kịch. Một tiểu đoàn Nhảy Dù hay nguyên cả một chiến đoàn/lữ đoàn sẽ được báo cho cuộc chuyển quân khẩn cấp trong lúc giữa đêm. Chúng tôi sẽ ngồi chật cứng bên trong các chiếc vận tải cơ của Không Quân Hoa Kỳ hay Không Quân Việt Nam, các chiếc máy bay đang đậu với máy nổ vang, từng hàng dài tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, sát cạnh Sài Gòn. Đạn dược sẽ được cấp phát, có đôi khi, cả dù nữa. Một kế hoạch tham chiến gấp rút ban hành.
Và rồi – hỗn loạn, địa ngục mở rộng. Các tiểu đoàn sẽ được đưa đến những chỗ nào mà họ cần đến. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào, và sẽ biết chúng tôi đang ở giữa một trận chiến. Rất nhiều viên cố vấn và cả ngàn người lính Nhảy Dù mà tôi từng chiến đấu chung đã không bao giờ trở về qua các cuộc hành quân đó. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các gương mặt non trẻ ấy. Đại Úy Gary Brux, Đại Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway, Trung Úy Carl Arvin. Người lính mang máy rất trẻ của tôi, Binh Nhứt Michael Randall. Tất cả đều hy sinh. Dũng cảm và tự hào.
Việt Nam không phải là lần đầu trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Sau khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị West Point, tôi gia nhập Sư Đoàn 82 Nhảy Dù cho sự can thiệp “khủng hoảng” Dominican Republic vào năm 1965. Chúng tôi được mang đến một hòn đảo và dẹp sạch đám Cuba – cảm hứng nổi dậy của bọn cộng sản, và ở lại như một đoàn quân bảo vệ hòa bình. Chúng tôi đã nghĩ chiến trận là như vậy, và rồi chúng tôi trở về lại căn cứ Fort Bragg, và mong mỏi được đến Việt Nam – nhiều viên trung úy trong tiểu đoàn chiến đấu của tôi nhảy lên chiếc Jeep, lái thẳng đến Bộ Tư Lịnh Lục Quân ở Washington để tình nguyện cho chiến trường Việt Nam. Chúng tôi đã nghĩ sẽ bị bỏ lỡ chiến trận.
Giờ thì chúng ta đã biết câu chuyện kết thúc ra sao. Hai triệu người Việt đã mất mạng. Hoa Kỳ mất 58,000 và có 303,000 thương vong. Hoa Kỳ sa vào cuộc nội chiến đắng cay và rối loạn về chánh trị. Lúc ấy thì chúng tôi không biết gì hết. Tôi rất hãnh diện được chọn phục vụ với Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ đẹp đẽ mới vừa cưới mà tôi rất thương yêu, biết tôi cần phải đi. Cha tôi, một vị tướng của Lục Quân, sẽ vinh danh tôi, nếu tôi chẳng may tử trận.
Tất cả các sự việc này đã biến mất đi 50 năm trước đây. Các người lính trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, những người đã may mắn thoát khỏi sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, hoặc là trốn thoát qua ngả Cam Bốt [Thái Lan] hay trải qua cả một thập niên trong các trại “cải tạo” tàn bạo kia. Gần như hầu hết những người đó rồi cũng đến được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hội cố vấn người Mỹ cùng các chiến hữu người Việt, và có cả một Đài Tưởng Niệm cho các cố gắng của chúng tôi tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Tại nơi ấy, chúng tôi gặp gỡ mỗi năm và nhớ lại những kỷ niệm đã cùng nhau chiến đấu, như thế nào. Chúng tôi đội Mũ Đỏ. Chúng tôi cười vang với các câu chuyện xưa kia. Nhưng có một điều rất đau lòng là chúng tôi đã mất mát quá nhiều, và điều ấy lại là con số không, không có được một sự đền bù, tưởng thưởng nào.
Nhiều người đã luôn hỏi tôi về các bài học trong chiến trận tại Việt Nam. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu chung với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam là những người không bao giờ lên tiếng. Tất cả những điều chúng ta luôn nhớ và biết đến là sự chịu đựng dũng cảm và lòng quyết tâm của các Binh Nhì Nhảy Dù Việt Nam, những người lính trẻ luôn thẳng bước vào chiến trận. Họ không có được các tượng đài vinh danh, chỉ trừ trong tâm tưởng và ký ức của chúng ta.
Little Saigon/9 tháng 8 năm 2017
Phúc Nguyễn
Nguồn: https://baovecovang2012.wordpress.com/2017/09/18/phuc-nguyen-mot-binh-chung-nhay-du-bi-lang-quen/
John Paul Vann: Một viên tướng dân sự trên chiến trường VN
1. Mở bài
Nhân ngày Memorial Day, 27-5-2019, xin ghi lại thành tích của một cố vấn Mỹ, ông John Paul Vann, đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam, góp phần bảo vệ tự do dân chủ cho VNCH.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa có tinh thần và khả năng chiếu rất cao. Có những cấp chỉ huy tài ba, kiên cường, xả thân vì tổ quốc để bảo vệ tự do và dân chủ cho người dân miền Nam Việt Nam. Một tấm gương được vinh danh anh hùng là Đại tá Lê Đạt Đức với câu được truyền tụng là “Kẽm gai bọc xác anh hùng”.
Việt Nam là tiền đồn của thế giới tự do cho nên đã có 58 ngàn công dân Hoa Kỳ đã hy sinh trên đất nước Việt Nam.
Người cố vấn Mỹ với cá tính độc đáo và tài năng đặc biệt, là ông John Paul Vann được gọi là “Một viên tướng dân sự”.
Với cấp bậc trung tá mà có khả năng làm công việc của một thiếu tướng. Và cũng đã có một sĩ quan cấp tướng và nhiều đại tá vui lòng làm việc dưới quyền ông. Ông là biểu tượng của một mẫu người can đảm, táo bạo, tạo ra những huyền thoại về ông.
Phóng viên Neil Sheehan, đoạt giải Pulitzer, đã viết cuốn sách về cuộc đời ly kỳ của ông, được hảng HBO quay thành phim, do tài tử Bill Paxton thủ vai của ông khi ở Việt Nam.
2. Vài nét về tiểu sử của John Paul Vann
John Paul Vann sinh ngày 2-7-1924 tại Norfolk, Virginia.Tử nạn ngày 9-6-1972, 48 tuổi. Không có tên trong 58 ngàn quân nhân HK tử trận ở VN trên bức tường đá đen ở Washington.
Trung tá Bộ binh, sau đó giải ngũ và trở thành một nhân vật nổi tiếng trong Chiến tranh VN. Vann có bằng tiến sĩ về Quản trị kinh doanh. Đã từng theo học các môn Kinh tế, Toán và Thống kê ở Đại học Rutgers University. Theo học khóa Tham mưu cao cấp.
Năm 1943, gia nhập quân đội và được huấn luyện thành phi công.
Kết hôn
Ngày 6-10-1945, kết hôn với Mary Jane Allen, người Rochester, New York.
Có 5 con.
Nhiều nguồn tin cho biết ông có vợ VN.
Vann đã từng phục vụ trong các đơn vị HK ở Nam Hàn, Nhật, Tây Đức trước khi đến VN.
Gia đình John Paul Vann
Năm 1962, Vann được cử làm cố vấn cho Đại tá Huỳnh Văn Cao, TL/SĐ 7BB, thuộc Vùng 4 Chiến thuật.
Trong trận Ấp Bắc, Vann đã từ trực thăng tại mặt trận, can đảm chỉ huy trận đánh, được thưởng Anh Dũng bội tinh.
Từ trận đánh ở Ấp Bắc, ông thấy cách tiến hành chiến tranh của HK ở VN không phù hợp với chiến thuật du kích. Ông lớn tiếng chỉ trích chính sách đó, đả kích ngay cả Chỉ huy trưởng MACV (Military Assistance Command Vietnam) là Tướng Paul D. Harkins.
Thông qua phóng viên David Hallberstam của tờ New York Times, ông đưa vấn đề ra công luận, và báo chí làm ồn ào lên.
Tháng 3 năm 1963, Tướng Harkins cách chức ông và cho giải ngũ vài tháng sau đó.
John Paul Vann về Mỹ, làm nhân viên cho công ty xây dựng Martin Marietta ở Denver. Nhưng ông nhớ VN và xin trở qua VN.
Tháng 3 năm 1965, Vann là nhân viên dân chính, chỉ huy cơ quan CORDS (Civil Operations Revolutionary Development Support) VN gọi là Trung Tâm Bình Định Phát Triển. Cơ quan nầy bao gồm CIA, Bộ Ngoại giao, USAIDS, Thông Tin HK, phối hợp với nhân viên quân sự Mỹ, chịu trách nhiệm về tổ chức Chiến dịch Phượng Hoàng (Phoenix Program), mục đích phá vỡ cơ sở hạ tầng của VC ở nông thôn.
Tháng 11 năm 1968, ông được chuyển về Vùng 4 chiến thuật.
Năm 1970, Tướng Ngô Du, TL/QĐ 4 có liên lạc mật thiết với ông, và nhận ra ông là người có tài.
Năm 1971, Tướng Ngô Du được bổ nhiệm ra làm TL/QĐ2, ông đặc biệt yêu cầu cho John Paul Vann được làm cố vấn quân sự cho QĐ2, thay thế Trung tướng Charles P. Brown đổi đi nơi khác.
Một trở ngại trên nguyên tắc là, ông Vann là dân sự mà làm cố vấn quân sự, nhất là cho một đại đơn vị cấp Quân đoàn.
Nhờ sự ủng hộ của Tướng Weyand, nên Tướng Creighton Abrams chấp thuận. Sau đó, ông được có quyền hạn của một thiếu tướng và hưởng quyền lợi của cấp bậc đó.
Ngày 9-6-1972, John Paul Vann, cố vấn trưởng QĐ2, phi công và một hành khách Mỹ, đã thiệt mạng trong vụ rớt trực thăng lúc 9:30 tối trên chuyến bay đêm từ Pleiku về Kontum.
Ngày 16-6-1972, ông Vann được an táng theo quốc táng, tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ông được truy tặng huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ.
Đám tang có nhiều tướng lãnh tham dự. Đại tướng William Westmoreland, Trung tướng Edward Lansdale, Trung tá Lucien Conein, TNS Edward Kennedy và Daniel Ellsberg.
John Paul Vann sống là một anh hùng và chết cũng như là một anh hùng.
Những nhận xét về J.P. Vann:
– J.P. Vann là một sĩ quan tánh tình nóng nảy và hăng say quá độ, có thái độ trịch thượng đối với mọi người.
– J.P. Vann là một chiến lược gia có tầm nhìn sâu sắc về chiến tranh VN. Chính ông đã vạch chiến lược chống du kích thời gian đó. Chủ trương giao tranh với cường độ nhỏ và lâu dài. Trái ngược với chiến tranh quy ước, với đơn vị lớn mà ngắn, như HK đang thực hiện ở VN.
– Chính sự đả kích người khác, mà nhiều tướng lãnh VN không ưa ông ta, nhưng đối với sĩ quan và nhân viên dưới quyền, thì ông là người anh hùng của họ.
3. Kế hoạch diệt sư đoàn 320 của Cộng Sản Bắc Việt
Đầu năm 1972, tình báo Hoa Kỳ phát hiện Sư đoàn 320, nổi tiếng trong trận Điện Biên Phủ, đang dưỡng quân ở Thanh Hoá, có thể sẽ vào vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào, để vào mặt trận B3 do thiếu tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy.
3.1. Tung màn lưới điện tử
Những chùm điện tử được thả trên đường mòn HCM, hướng về mật khu 609, nơi trú quân của Bộ Tư lịnh B3, ở vùng Attopeu, Nam Lào.
Phi cơ không thám QĐ2, phi cơ chụp ảnh Bộ TTM ngày đêm theo dõi. Các toán viễn thám, biệt kích, trinh sát, tình báo, được thả khắp nơi trong vùng Tam biên.
Cuối tháng 1 năm 1972, một cán binh VC 17 tuổi bị bắt, đã khai rằng SĐ 320 vừa đến vùng Tam biên, sau một tháng di chuyển ngày đêm từ Thanh Hoá.
3.2. Dụ địch
Cố vấn J.P. Vann không muốn các đơn vị Bộ binh tiến sâu vào các vùng rừng núi để tìm diệt CS như Tướng Westmoreland đã làm trước kia, trong chiến thuật tìm diệt.
Ông được có quyền hạn của một thiếu tướng HK. Chỉ huy phó Ban cố vấn của ông là Tướng George Wear và Đại tá Joseph Pizzi là Tham mưu trưởng. Ngoài ra còn nhiều đại tá cố vấn cho các sư đoàn của QĐ2.
Paul Vann dùng kế, dụ địch tiến sâu vào lãnh thổ QĐ2 ở Dakto-Tân Cảnh, Kontum, rồi nhờ hỏa lực của KQ/HK ở Thái Lan, chủ yếu là B-52 ném bom trải thảm để tiêu diệt.
Kế hoạch nầy táo bạo và nguy hiểm, bởi vì QĐ2 không phải chỉ đối diện với 1 SĐ 320, mà còn phải đương đầu với 2 SĐ cơ hữu của B3, trong chiến dịch Xuân-Hè 72 của CSBV.
Một bất ngờ ngoài dự liệu, là CSBV lần đầu tiên đưa vào chiến trường hai thứ vũ khí mới, vượt trội hẳn của QLVNCH. Đó là xe tăng T-54 và hỏa tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger của Liên Xô. T-54 vượt trội hơn M-41 của VNCH. Nó tương đương với M-48 Patton của Hoa Kỳ mà Trung đoàn 20 xe tăng VNCH mới được trang bị ngày 23-4-1972.
Hỏa tiễn AT-3 Sagger là loại vác vai, VN gọi là B-72, là hỏa tiễn điều khiển được hướng dẫn bằng dây, rất chính xác, bắn xa 3,000 mét, xuyên thép dày 200 ly ở gốc độ 60, trong vòng 1,000 mét có thể điều khiển bằng mắt. Nếu xa hơn nữa, thì phải dùng ống nhắm.
Khuyết điểm của loại hỏa tiễn nầy là nó không chính xác khi bắn gần, ở khoảng cách từ 500 đến 800 m, bởi vì, nó cần 30 giây mới điều chỉnh được, đồng thời mục tiêu có thể di động tránh né.
SĐ 320 nằm trong chiến dịch toàn bộ Xuân-Hè 72 trên các chiến trường của các QK 1, 2 và 3 của VNCH.
3.3. Quân Đoàn 2 tái phối trí nhân sự
Thấy tình hình sắp tới rất sôi động và quyết liệt, cố vấn Vann đề nghị Trung tướng Ngô Du thay đổi 2 tướng Tư lịnh SĐ, là Thiếu tướng Lê Ngọc Triển, SĐ 22BB và chuẩn tướng Võ Văn Cảnh, SĐ 23BB, bằng 2 Đại tá Lý Tòng Bá và Lê Minh Đảo, được đánh giá là 2 sĩ quan năng động, có kinh nghiệm chiến trường.
Thấy tướng Ngô Du bị lâm vào tình trạng khó xử, vì phải cần đến J.P. Vann mới có được sự yểm trợ hoả lực của B-52, hai tướng nầy làm đơn xin từ chức.
Tướng Ngô Du chỉ thoả mãn được 50%, là cử Đt. Lý Tòng Bá làm TL/SĐ 23BB và Đt. Lê Đức Đạt làm TL/SĐ 22BB.
Việc thay đổi nhân sự nầy gây ra nhiều mất lòng nội bộ.
3.4. Thi hành kế hoạch dụ địch
2 trung đoàn 42 và 47 cùng với Bộ TL/SĐ 22BB được di chuyển từ Bình Định lên Tân Cảnh.
Để bảo vệ đơn vị làm mồi nhử nầy, 2 căn cứ hỏa lực Delta và Charlie, trang bị đại bác Bofors và đại liên Vulcan (M-61, “Hỏa Thần”), được thành lập trên sườn đồi để yểm trợ hỏa lực cho Tân Cảnh. Đại liên M-61 là đại liên 12.7 ly, 6 nòng, bắn ra 6,000 phát trong một phút.
Toàn bộ chiến xa, pháo binh cơ hữu của SĐ 22 đuợc chuyển lên Tân Cảnh.
Đồn Ben Het, kiểm soát cửa ngỏ ra vào QĐ2, được tăng cường Liên đoàn 22 BĐQ.
Để bảo vệ Kontum, Bộ TTM tăng cường Lữ Đoàn 2 Dù đến Kontum làm lực lượng trừ bị.
3.5. Bố trí của B3 Cộng Sản Bắc Việt
Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo điều động:
– 2 Sư đoàn. 320 và SĐ2 Sao Vàng
– 1 trung đoàn đặc công
– 2 trung đoàn pháo binh
– 1 tiểu đoàn xe tăng T-54
– 6 tiểu đoàn phòng không
Tổng số khoảng 20,000 người vào mặt trận.
3.6. Diễn biến
1). Việt Cộng tấn công 5 tiền đồn của Việt Nam Cộng Hòa
Ngày 30-3-1972.
– 2 trung đoàn và 1 tiểu đoàn VC đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía Tây sông Poko, do 3 tiểu đoàn BĐQ/VNCH trấn đóng.
– Tướng Ngô Du cử 2 tiểu đoàn Dù đến tăng cường phòng thủ.
– J.P. Vann gọi phi cơ cường kích (Tấn công mặt đất) từ Thái Lan đến ném bom.
– Không quân Mỹ và Pháo binh VNCH oanh tạc dữ dội.
Trung đoàn 52 CS bị thương quá nhiều, phải bỏ chạy. Cuộc tấn công 5 tiền đồn bị thất bại.
2). Việt Cộng tấn công căn cứ Delta
Ngày 3-4-1972.
4 giờ sáng.
SĐ 320 tấn công biển người vào căn cứ Delta, nhưng gặp sự phản công mãnh liệt của các chiến sĩ Dù. Sau nhiều đợt pháo kích hỏa tiễn 122 ly và súng cối 120 ly, Cộng quân chiếm được hàng rào đầu tiên của căn cứ.
Tướng Ngô Du và Ban tham mưu lên căn cứ Võ Định trên quốc lộ 14 để chỉ huy mặt trận.
Cố vấn Vann được tin nầy, rất phấn khởi, cũng bay đến quan sát hai căn cứ Delta và Charlie. Ông Vann thấy rõ một số rất đông VC đang bao vây căn cứ Delta, ông liền gọi phi cơ từ Thái Lan qua oanh kích chung quanh căn cứ nầy. Còn gọi thêm các phi cơ Stinger và Spectre được trang bị đại bác Bofors và đại liên M-61, 6 nòng đến yểm trợ căn cứ nầy.
Chiều ngày 3-4-1972
Cộng quân chưa chiếm được đồn, nhưng các chiến sĩ Dù đã hết đạn, thuốc men và nước uống. Trực thăng Chinook tiếp tế khẩn cấp, nhưng bị bắn rơi bên ngoài đồn.
Thấy thế, J.P. Vann liều lĩnh xử dụng trực thăng nhỏ, loại mới nhất của QĐ/HK, là OH-58 Kiowa, chỉ có 2 chỗ ngồi, để tiếp tế. Đích thân ông lái, còn Trung úy Huỳnh Văn Cai, sĩ quan tùy viên, đạp từng thùng đạn, thùng thuốc xuống giữa căn cứ, trong khi phòng không của địch bắn lên tới tấp. Bất chấp nguy hiểm, cố vấn Vann đã tiếp tế đầy đủ đạn dược, thuốc men và mìn chiếu sáng cho căn cứ Delta.
Tướng Tư lịnh phó của Vann là John Hill và Đại tá Joseph Pizzi, TMT, phải kêu lên “Thật là điên rồ!”. Tướng Ngô Du cũng phải khâm phục hành động táo bạo nầy của J.P. Vann.
Kết quả. SĐ 320 bị thảm bại nặng nề tại căn cứ Delta. Hoàng Minh Thảo phải bổ sung quân số cấp tốc cho SĐ nầy. Sau đó 10 ngày, mới có thể tấn công căn cứ Charlie.
3). Việt Cộng tấn công căn cứ Charlie
Ngày 11-4-1972
– Trung đoàn 52 của SĐ 320 tấn công căn cứ Charlie
– Trung đoàn 64 tấn công căn cứ Rocket Ridge
Hai căn cứ nầy được tăng cường bởi những tiểu đoàn của Lữ đoàn Dù. Cuộc tấn công xảy ra nhiều đợt. Quân CSBV bị pháo binh, Không quân và đặc biệt là phi cơ AC-130 Spectre bắn chận suốt ngày đêm. Phía VC chỉ có đại liên phòng không 12.7 ly và 14.5 ly nên khả năng chống trả yếu ớt.
Đến 11 giờ 30 phút đêm 11-4-1972, một trái hỏa tiễn 122 ly rớt trúng ngay vào hầm chỉ huy làm cho Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng TĐ 11 Dù, bị tử thương ngay từ giây phút đầu tiên. Những sĩ quan còn lại, thấy địch quá đông, nên rút khỏi căn cứ, bỏ xác Trung tá Bảo ở lại trong hầm, rút về căn cứ Võ Định.
Trung đoàn 52 của SĐ 320 chiếm được căn cứ Charlie với cái giá quá đắt về nhân mạng.
4). Mặt trận Tân Cảnh* Kẻm gai bọc xác anh hùng
Tân Cảnh được chọn làm mục tiêu làm mồi nhử SĐ 320 của CSBV.
Lực lượng VC:
– Sư đoàn 2
– Tiểu đoàn Đặc công 37
– Đại đội xe tăng T-54
– Đại đội hỏa tiễn chống xe tăng AT-3 Sagger
Ngày 24-4-1972.
– 8 giờ sáng, căn cứ trung đoàn 47 bị tấn công
– 11 giờ, căn cứ trung đoàn 42 bị tấn công.
Đại tá Lê Đức Đạt, Tư Lịnh SĐ/22BB bị tử thương.
Tướng VC Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn Dù đóng ở Kontum rút đi tăng cường cho mặt trận Quảng Trị, lực lượng QĐ2 yếu đi, bèn đưa xe tăng T-54 và hỏa tiễn AT-3 Sagger vào tấn công Tân Cảnh.
Ngày 21-4-1972, Cộng quân bao vây Tân Cảnh
Ngày 23-4-1972, Cộng quân vẫn dùng “Tiền pháo hậu xung”, pháo kích tới tấp vào Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly.
– 10 xe tăng M-41 ra bảo vệ. Bị hỏa tiễn AT-3 bắn cháy 8 chiếc, 2 chiếc bị đứt xích.
– Thiếu tá Như và Đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, tốt nghiệp võ bị Wespoint, leo lên tháp nước cao của căn cứ, dùng đại liên 12.7 ly chống trả. Một hỏa tiễn trúng vào, bồn nước nổ tung, cả hai cùng chết tại chỗ. Hoa Kỳ và Việt Nam cùng hy sinh trên một mặt trận, một bảo vệ lý tưởng tự do, một bảo vệ tự do dân chủ cho dân tộc..
– Trung tướng Ngô Du xử dụng hỏa lực Không quân tối đa, để yểm trợ cho Đt. Đạt.
10 giờ tối.
Địa phương quân người Thượng ở Dakto, cách Tân Cảnh 2 km, báo cáo, là đã thấy 15 chiếc
T-54 xếp hàng dọc chạy về phía Tân Cảnh.
Phi cơ AC-130 tác xạ ngăn cản nhưng không có hiệu quả, vì không có vũ khí chống xe tăng, nhất là xe tăng mới, xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường VN với vỏ thép rất dầy.
Mỗi ngày, Tân Cảnh chịu hơn 1,000 hoả tiễn 122 ly và súng cối 120 ly.
Buổi sáng hôm đó, một xe tăng M-41 thuộc Thiết đoàn 19, trấn giữ ở cổng chính của căn cứ, bị phá hủy bằng đạn xuyên phá. Lúc đầu cho rằng do B-40, nhưng sau khi xem xét, ban cố vấn Mỹ xác nhận đó là vũ khí chống xe tăng loại mới, hỏa tiễn AT-3.
Những đợt pháo kích, phá hủy phần lớn Trung tâm hành quân của SĐ 22BB. Phòng tuyến và quân dụng bị thiệt hại nặng nề, 20 quân nhân chết và bị thương.
Đến tối, phi cơ AC-130 dùng hồng ngoại tuyến, phát hiện 18 xe tăng T-54 trên đường đến Tân Cảnh.
6 giờ sáng 24-4-1972, Cộng quân chọc thủng phòng tuyến phía Bắc.
Đại úy Charles Carden, cố vấn trung đoàn 47 thuật lại, khoảng một giờ sau khi bị tấn công, một trực thăng UH-1 đến Dakto đón 6 cố vấn Mỹ, nhưng trực thăng bị trúng đạn, rớt và bốc cháy trong chu vi phòng thủ.
Đại tá Philip Kaplan gọi máy yêu cầu J.P. Vann lên cứu. Ông Vann đã đáp trực thăng tại một khu vực nhỏ, kế bên một bãi mìn. Đt. Kaplan cho Đt. Đạt biết, và đề nghị ông cùng lên trực thăng cấp cứu của cố vấn Vann.
Dù biết được tình hình bi đát, nhưng Đt. Đạt từ chối, và ông cũng không yêu cầu Trung tướng Ngô Du lên cứu ông.
Hai chiếc T-54 đã lọt vào trung tâm phòng thủ, và chạy về 2 hướng khác nhau. Liền sau đó, 2 chiếc M-41 thuộc chi đoàn 1/14, mỗi chiếc bắn 3 quả đại bác 76 ly vào đúng cạnh sườn của chiếc T-54. Bị trúng đạn, T-54 bốc khói nhưng chưa bị hạ. Chiếc T-54, vỏ thép dày 105 ly, nặng 36 tấn, đã phục hồi mau lẹ, và quay súng bắn hạ chiếc M-41 bằng 2 quả 100 ly, rồi bắn tiếp phát thứ ba hạ chiếc M-41 còn lại.
Đt. Đạt ra lịnh cho các sĩ quan và binh sĩ thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Đt. Tôn Thất Hùng thoát ra được, nhưng bị thương. Ông chạy vào một buông Thượng gần đó. Nhờ biết tiếng Thượng, ông được một gia đình che giấu và bảo vệ cho ông về đến thị xã Kontum 15 ngày sau đó.
Đại tá Lê Đức Đạt ở lại căn cứ.
Anh Hưng, người mang máy truyền tin liên lạc cho biết, Đt. Đạt đã yêu cầu pháo binh bắn vào sân cờ của căn cứ vì xe tăng của VC đã vào tới nơi rồi. Hưng cho biết, khi đến hàng rào, một trái đạn nổ, Đt. Đạt bị kẽm gai quấn vào người, anh không thể gở ra được, vì không có kềm cắt kẻm gai. Đt. Đạt đã hy sinh.
“Kẽm gai bọc xác anh hùng”.
5). Trận Kontum
Tân Cảnh mất. Đại tá Đạt tử trận. Sư đoàn 22BB bị tan rã.
Trung tướng Ngô Du tái phát bịnh tim, nên Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn làm Tư Lệnh Quân Đoàn 2.
Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư lịnh chiến trường bảo vệ Kontum.
Quân CSBV bị tổn thất nặng nề, nên không có thể “Thừa thắng xông lên” sau trận Tân Cảnh. Mãi đến gần một tháng sau, mới bắt đầu tấn công Kontum. Nhưng lần nầy, Hoàng Minh Thảo đại bại, vì mất 15,000 quân, một sư đoàn rưởi.
Tấn công Kontum
Hoàng Minh Thảo chia quân làm 3 mũi:
– Hướng Bắc. SĐ 2
– Hướng Tây. SĐ 320
– Hướng Nam. SĐ 968. Là SĐ đa số là người Lào, nhiệm vụ chính là bảo vệ đường mòn HCM về phía Tây Trường Sơn.
Phía VNCH
– SĐ 23BB
– Lữ đoàn 2 Thiết giáp của Đại tá Nguyễn Đức Dung
– 1 Liên đoàn Biệt Động Quân + Tiểu đoàn 7 Dù
– 20 chiếc thiết giáp
Chỉ huy:
– Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn
– Đại tá Lý Tòng Bá
– Cố vấn J.P. Vann
Kế hoạch xử dụng 100 Box B-52
Diễn tiến – Ngày 13-5-1972
Nhân viên kỹ thuật báo cáo, nhận được mật điện của Hoàng Minh Thảo, Chỉ huy trưởng B3:
“Mũi tấn công hướng Bắc-SĐ2. Stop. Tăng cường mỗi SĐ 10 T-54 Stop. Ngày giờ tấn công Stop. Ngày giờ tấn công 05G00 ngày 14-5-1972 Stop.”
Thiếu tướng Toàn và Đt. Bá đi từng hầm phòng thủ, động viên và khích lệ binh sĩ. Cho biết, khi súng nổ thì B-52 dội bom trên đầu địch.
Tại hầm chỉ huy, Tướng Toàn, Đt. Bá, Paul Vann và Đt. Rhotenberry nghiên cứu bản đồ, thảo luận vị trí từng Box B-52.
Cố vấn Vann gọi máy cho Trung tướng Chỉ huy trưởng Không quân Chiến lược (Strategy Air Command) tại Thái Lan, thảo luận về thể thức chuyển đổi các Box B-52 cho thích hợp với tình hình mặt đất. Paul Vann cũng điện đàm với Tướng Creighton Abrams xin được xử dụng 25 Box B-52 yểm trợ cho cả 4 Vùng chiến thuật. Đề nghị được chấp thuận.
Mỗi Box dài 3 km, rộng 1 km, được thả bằng 3 chiếc B-52 với trên 100 quả bom đủ loại, từ 100 đến 500 pounds.
Đêm 13 rạng 14-5-1972.
Tướng Toàn, Paul Vann và hai bộ Tham mưu Việt-Mỹ, thức suốt đêm, theo dõi từng phút và hồi hộp chờ đợi giờ G.
Phi đoàn A-37 của SĐ 6 KQ túc trực 100%.
Chiếc trực thăng của Tướng John Hill, Tư lịnh phó của Vann, gấp rút gắn thêm 2 đại liên 6 nòng ở hai bên. Xạ thủ túc trực tại trực thăng.
Tướng John Hill đang nghỉ dưỡng sức ở Cam Ranh, chờ về nước, đã tình nguyện trở lại góp phần bảo vệ Kontum.
Nhiều cặp trực thăng võ trang Cobra của HK cũng ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Hai phi đoàn B-52 từ đảo Guam và Sattahip Thái Lan, đã cất cánh, xuất hiện trên bầu trời Thái Bình Dương. Tất cả hồi hộp đợi giờ tấn công. Giờ G, 05G00 mà mật điện ra lịnh tấn công.
Kém 5 phút đúng 5 giờ sáng, Đt. Bá báo cáo lớn tiếng trên máy. Địch bắt đầu nổ súng.
Trực thăng của Tướng Hill cất cánh đầu tiên, tiếp theo là Vann và Tướng Toàn bay về hướng Kontum trong sương mù.
Cố vấn Vann ra lịnh cho B-52 đúng 5 giờ sáng, đồng loạt bấm nút thả 3,000 quả bom đủ loại lên đầu 2 SĐ 320 và SĐ2 Sao Vàng.
Tiếng nổ long trời lở đất, khói bụi mịt mù. Diện tích trải thảm là 72 Km2.
Tiếp theo, từng đoàn A-37. AD-6 của SĐ 6 KQ bay vào mục tiêu, tiếp tục xạ kích vào các chiến xa và ổ phòng không còn lại.
Nhiều nhóm Cộng quân ngất ngư, hốt hoảng chạy lùi về phía sau, lại bị đại liên 6 nòng của Tướng Hill, bọc hậu thanh toán tại chiến trường.
Một giờ sau, Tướng Toàn và cố vấn Vann bay vào vùng thả bom, quan sát. Xác Cộng quân nhiều đếm không xuể.
Vann thấy một số Cộng quân lảo đảo trong các hố bom, đã hạ xuống thấp để cho Trung úy Huỳnh Văn Cai dùng M-16 thanh toán đám tàn quân.
Kế hoạch trải thảm B-52 dứt điểm cuộc tấn công của 2 SĐ CSBV vào Kontum.
Sau trận đánh, binh sĩ VNCH đặt cho cố vấn Vann là “Ông B-52”.
CSBV thiệt hại nặng nề. Theo ước tính của HK, thì B3 của Hoàng Minh Thảo tổn thất 15,000 người, một sư đoàn rưởi. 30 chiếc T-54, nhiều đại bác, pháo phòng không bị phá hủy.
Ngày 31-5-1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên Kontum ủy lạo binh sĩ và gắn cấp bậc Chuẩn tướng cho Đại tá Lý Tòng Bá.
4. Kết luận
John Paul Vann và 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh tánh mạng trên các chiến trường Việt Nam, đã sống và đã chết cùng với những anh hùng chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, thể hiện lý tưởng bảo vệ tự do của người Mỹ đối với người dân miền Nam Việt Nam.
Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh phát biểu: “chúng ta mắc nợ 58 ngàn quân nhân đó, mắc nợ nước Mỹ, tuy họ không đòi, nhưng chúng ta nên nhớ và có bổn phận phải trả”.
Kỷ niệm Ngày Memorial Day 2019 (27-5-2019)
Minnesota ngày 24-5-2019
NHÂN NGÀY MEMORIAL DAY 27/5/2019 GỬI LẠI BÀI VIẾT NĂM 2013
người lính già oregon
1. Việc vinh danh các tử sĩ Mỹ bởi Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Virginia, Maryland và Washington DC vào chính ngày Memorial Day 27/5/2013 (không phải vào ngày 30/4, như lời đề nghị ngớ ngẩn, tầm bậy của ông cựu đại tá nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc, San José) rất đáng ca ngợi và cần phải làm, để tưởng nhớ công ơn và sự hy sinh to lớn của những quân nhân Mỹ đã bỏ mình trên mảnh đất Việt Nam xa lạ, nhỏ bé, khốn khổ vì nạn Cộng sản. Họ đã chết cho quê hương Miền Nam chúng ta được tự do, văn minh, trường tồn. Và điều đó, cùng với các chiến sĩ kiêu dũng QLVNCH chúng ta, họ đã làm như một nhiệm vụ cao cả của những anh hùng thời tao loạn, không cần biết những mưu toan và phản bội đê hèn, phía sau hậu trường sân khấu chiến tranh và chính trị bẩn thỉu của các lãnh đạo và chính trị gia vô luân, phản chiến Mỹ.
Cái chết cao cả của những tử sĩ Mỹ, trên mọi chiến trường, từ thế chiến I đến Cao Ly đến Việt Nam đến Afghanistan đến Iraq… cho chính nghĩa và lý tưởng tự do, nhân bản, và truyền thống hiệp sĩ của nhân dân Mỹ đã chịu nhiều hy sinh, mất mát, đều được muôn đời ca tụng, tưởng nhớ, trọng vọng. Dù ghét Mỹ đến đâu, không ai –kể cả Charles de Gaulle, tổ sư kỳ thị, ganh ghét Mỹ– có thể phủ nhận công lao của Hoa Kỳ trong thế chiến I, và nhất là thế chiến II, đã hy sinh bao nhiêu tài vật và sinh mạng để cứu Âu Châu, đặc biệt nước Pháp, và thế giới, ra khỏi bàn tay của Sự Ác. Vậy mà một tổng thống Mỹ, chưa một ngày đi lính, chưa có một thân nhân nào chết cho đất nước Mỹ, đã cúi rạp người xin lỗi thế giới về sự “ngạo mạn (arrogance) của người Mỹ chúng tôi”.
2. Sáng ngày Memorial Day, tưởng niệm Những Chiến sĩ Trận Vong Mỹ, Portland chợt mưa trở lại. Mưa giăng kín khung trời xám, như những dòng nước mắt khóc thương những linh hồn tử sĩ Mỹ cũng như, cho riêng chúng ta, Việt Nam Cộng Hòa. Quả vậy, dù 38 năm đã trôi qua, Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn hải ngoại vẫn chưa có một ngày chính thức dành cho những tử sĩ Nam Việt Nam. Tại sao? Tôi thức dậy sớm, lòng nghĩ về họ, về những người thân, bạn bè, đồng đội, đã nằm xuống vĩnh viễn, ở một nơi nào bên trời cũ, trên đồi, trong rừng, ven sông… Lệ không tuôn rơi, nhưng hồn sao bỗng thấy rưng rưng.
Và ngậm ngùi, xúc động, tôi mở xem lại phim truyện Saving Private Ryan, 1998, do Steven Spielberg đạo diễn và Robert Rodat viết lời.
Chuyện xảy ra trong đệ nhị thế chiến, tại Normandie, Pháp quốc, sau cuộc đổ bộ ngày 6/6/1944. Binh nhì Nhảy Dù James Ryan (Matt Damon) là con út trong gia đình có bốn anh em ruột đều là quân nhân. Trong một ngày, người mẹ nhận được ba điện tín báo tin ba người con của bà đã tử trận cách nhau vài hôm, hai ở Pháp, một người bị quân Nhật bắn chết ở New Guinea. Bộ Quốc Phòng biết tin, đã ra lệnh cho đại úy thuộc Tiểu đoàn 2 Dù tên John Miller (Tom Hanks) dẫn một toán gồm sáu quân nhân và một thông dịch viên tiếng Pháp và Đức đi tìm cho bằng được James Ryan, được ghi là mất tích (MIA) trên nước Pháp, để gửi về Mỹ, trả cho bà mẹ. Cuộc tìm kiếm rất gian nan, nguy hiểm, vì không ai biết Ryan ở đâu và toán Miller đã phải vài lần đụng độ với quân Đức, và hai toán viên bị bắn sẻ chết.
Qua nhiều tình tiết gây cấn, hồi hộp, kể cả việc tìm lầm một James Ryan khác, cuối cùng thì Miller cũng gặp được James Ryan thật đang giữ một cây cầu cùng với một tiểu đội Dù. Ryan rất đau buồn nghe tin ba người anh đã tử trận, nhưng từ chối trở về. Ngước nhìn những đồng đội của anh đang chống giữ cây cầu, anh nói: “Về? Không có nghĩa gì hết, không có nghĩa gì hết, thưa đại úy. Tại sao… tại sao tôi lại đáng được rời mặt trận? Tại sao không phải bất cứ ai trong đám người kia? Tất cả họ đều chiến đấu cũng gian khổ như tôi… (It doesn’t make any sense. It doesn’t make any sense, sir. Why…why do I deserve to go? Why not any of these guys? They all fought just as hard as me)”. Đại úy Miller hỏi: “Đó có phải là điều họ sẽ
phải nói với mẹ anh khi họ gửi đến cho bà một lá cờ Mỹ nữa, được xếp lại không? (Is that what they’re supposed to tell your mother when they send her another folded American flag?)”. Ryan đáp ngay: “Xin đại úy hãy nói với mẹ tôi rằng khi đại úy gặp tôi, tôi đã ở đây và tôi ở đây với những người anh em duy nhất còn lại của tôi. Và rằng không có cách chỉ tôi bỏ họ mà đi. Tôi nghĩ bà sẽ hiểu điều đó. Không có cách chi tôi bỏ cây cầu này (Tell her that when you found me, I was here and I was here with the only brothers that I have left. And that there was no way I was gonna desert them. I think she’ll understand that. There’s no way I’m leaving this bridge)”…
Áp lực địch trên cây cầu càng lúc càng mạnh. Toán Miller sáp nhập chiến đấu cùng với toán Ryan, gây tổn thất nặng cho quân Đức, bảo vệ được cây cầu cho đến khi máy bay đồng minh tới giải cứu. Thêm một người nữa trong toán Miller gục ngã, tổng cộng ba trong số bảy người. Và chính Miller, cuối cùng, cũng bị địch bắn trọng thương. Trước khi chết, Miller thều thào nói với Ryan đang cúi sát mặt ông: “James… earn this. Earn it.” (James… anh hãy xứng đáng với điều này [sự hy sinh của ông và đồng đội]. Hãy xứng đáng với nó). Oan nghiệt thay, người đi tìm thì chết, người được đi tìm, tưởng chết lại còn sống, nhưng đó cũng là một phần trong văn hóa rất nhân bản, nhân đạo của Mỹ.
Truyện phim kết thúc, có hậu: Nhiều năm trôi qua, giờ đây, James Ryan, trở thành một cựu chiến binh luống tuổi, cùng với gia đình, gồm đông đủ con cháu, một lần ghé viếng Nghĩa Trang Lính Mỹ tại Normandie, ở Colleville-sur-mer. Đứng trước mộ Miller, Ryan yêu cầu vợ mình hãy nói
.với ông và xác nhận rằng anh đã cố gắng hết sức để sống một cuộc đời tốt và để trở thành một người tốt, và như vậy, anh xứng đáng với sự hy sinh của Miller và những người khác, đúng như lời ông đã dặn dò anh trên cây cầu, trước khi vĩnh viễn rời bỏ cuộc chiến. Rồi Ryan đứng nghiêm, giơ tay chào mộ của đại úy Miller.
3. Những Việt kiều hải ngoại bây giờ, những đồng hương thân mến của tôi, những người một thời là học sinh, là sinh viên đại học, là thương gia, là công tư chức, là văn sĩ, ca nhạc sĩ… rồi một thời là thuyền nhân, là tỵ nạn, đã nhận biết bao ơn nghĩa từ những chiến binh và tử sĩ VNCH, nay trở thành những Mỹ Giấy, Tây Giấy, Úc Giấy v.v…, công thành danh toại, hay không, tôi xin phép được lặp lời của đại úy Miller trong phim truyện: “Earn this… Earn it.” Hãy xứng đáng với sự hy sinh cao cả, phi thường của những anh hùng tử sĩ VNCH đã bảo vệ quê hương Miền Nam cho đến giờ phút cuối. Cho dù quê hương hiện nay tức tưởi nằm trong tay giặc. Cho dù tất cả chúng ta chưa làm trọn lời thề với Mẹ Việt Nam yêu dấu, vì đã bại trận, qua lời than não nuột của thi sĩ Hà Huyền Chi trong bài thơ xin lỗi chính mẹ mình:
Mẹ ơi con mẹ đã gìa
Giữ quê quê mất, giữ nhà nhà tan…
“Earn this…Earn it” không có nghĩa phải thực hiện những việc phi thường, đội đá vá trời, đem quân về diệt giặc thù chẳng hạn. Mà chỉ cần không có thái độ trở cờ, bỏ cờ, không phản bội quê hương, chính nghĩa, không trở thành Việt Gian –ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, suốt đời hèn mạt, ngu muội. Như thế cũng đủ trở thành người tốt, xứng đáng với niềm tin yêu của biết bao anh hùng đã chết thay cho chúng ta.
Portland, Memorial Day
ngày 27 tháng 5 năm 2013
Về Thi Sĩ TÔ THÙY YÊN
Tô Thùy Yên là một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam vào những thập niên 50, 60, thuộc nhóm Sáng Tạo, nhưng tương đối ít được công chúng nhắc, hay biết đến, so với các nhà thơ, nhà văn quân đội khác, như Văn Quang, Thanh Tâm Tuyền, Phan Lạc Phúc, Thảo Trường v.v… –đều ở cùng trại Sơn La và Vĩnh Phú với tiện nhân. Sau khi ông mất, có khá nhiều bài viết về ông, mà tiện nhân được đọc trên Mạng, hay do bạn bè chuyển đến. Vợ ông, bà Huỳnh Diệu Bích, nói ông bị tù hai lần, lần đầu mười năm, lần sau, ba năm. Người khác thì kể rằng ông đã ở tù ba lần, tổng cộng mười hai, mười ba năm (nhưng trong bài thơ “Ta về” của chính ông, chúng ta đọc “mười năm”, được ông lặp lại đến mười hai lần) mà không thấy ai, hay ông, hay hiền thê, nói ở các trại tù nào, trong Nam hay ngoài Bắc.
Ra tù, và sang Mỹ, ông sống khép kín, âm thầm, cũng như Thanh Tâm Tuyền, một nhà thơ lớn khác, và tiện nhân không nghe ai nhắc về ông, và tên tuổi ông đi vào quên lãng. Chỉ khi ông qua đời, mới tuần rồi, người ta bèn thi nhau viết, và chuyển, những bài thương tiếc và ca tụng ông và thơ ông, nhất là “Ta về”, mà các bình luận gia xem như một tuyệt tác, chứa đựng nhiều thông điệp (message), kể cả quên hận thù, theo một nhà văn rât tai mắt mũi họng ở Bắc Cali.
Một chi tiết về sinh hoạt văn chương, mà tiện nhân không nghe ai nhắc đến, ngoại trừ anh Bùi Xuân Quang, một nhà hoạt động trong lãnh vực nhân quyền và văn hóa, hiện ở Paris. Theo anh Quang, nhà thơ Tô Thùy Yên, năm nào, đã được Viện Goethe (Goethe Institute, Đức quốc) mời đến thuyết trình về văn chương. Dịp này, hai người có gặp nhau tại Paris, trước khi nhà thơ trở về Mỹ.
Việc Tô Thùy Yên, lúc sống lưu vong, được mời nói chuyện tại một Học viện quốc tế danh giá, không người Việt nào biết, hay để ý đến, là điều đáng tiếc. Anh Quang chua chát viết tiếp: “Bây giờ đầy người khóc lóc. Lúc TTY còn sống, chẳng ai giúp in một cuốn sách. Nhưng thôi, đã là thi sĩ thì phải biết sống cô độc mới lên cao được. Tôi tiếc cho chúng ta chứ không tiếc cho TTY.”
Câu này làm tiện nhân nhớ đến nhà thơ chống Cộng đích thực và cô độc khác, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện –người đã bị một mợ chủ báo An Nam, tự phong là Đầm Giấy và thông thạo tiếng Phú Lang Sa, mấy năm trước đây, lôi ra đấu tố công khai, là chôm thơ của ai đó, và thách ông viết dictée, do mợ đọc, để xem trình độ Pháp ngữ có đúng như lá thư do ông viết bằng tiếng Pháp hay không.
Trường hợp hai thi sĩ lớn vào thời đại chúng ta, một bị thờ ơ, một bị tố khổ, cho thấy sự thâm thúy và chính xác trong câu nói của người xưa: “Bụt nhà không thiêng”. Là thế đấy. Tuy nhiên, dù sao, nhà thơ Tô Thùy Yên còn may mắn hơn nhà thơ Nguyễn Chí Thiện rất nhiều.
Portland, 28 tháng 5 năm 2019
Người Lính Già Oregon
Người phi công Việt Nam đầu tiên
Đỗ Hữu Vị sinh năm 1883 tại Chợ Lớn, là con thứ năm trong số 11 người con của của tổng đốc Đỗ Hữu Phương.
Trong số những phi công đầu tiên của Pháp là người Đông Dương có Phan Thất Tạo, Cao Đắc Minh, Felix Xuân Nha, Đỗ Hữu Vị, nhưng đại úy (capitaine) Đỗ Hữu Vị, được xem là anh hùng nổi tiếng nhất. Đến nỗi, nhà nước Pháp cho phát hành tem mang hình ông.
Điều thú vị là trong dịp kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ nhất, truyền hình Pháp đã công bố các hình ảnh, tư liệu quý hiếm về binh lính Việt tham gia chiến trường này.
Hình ảnh Đỗ Hữu Vị với bộ ria mép đầy chất lính xuất hiện nhiều lần, từ các tấm ảnh ông chụp chung với các sĩ quan Pháp ở trường đào tạo không quân đến cảnh ông ngồi lái máy bay, cưỡi ngựa. Các bưu ảnh cũng in hình ảnh, tên tuổi ông trang trọng…
Đỗ Hữu Vị là con trai thứ năm trong 11 người con của ông Đỗ Hữu Phương, vị tổng đốc khét tiếng giàu có nhất nhì miền Nam hồi cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1883 theo giấy tờ khai tại Pháp (có tài liệu cho rằng năm sinh thật của ông là 1881), ông Vị cùng các anh em trai của mình được người cha chịu ảnh hưởng sâu nặng văn hóa Pháp cho theo học trường Tây tại Sài Gòn.
Sau đó, anh em ông tiếp tục sang Pháp học Trường Janson de Sailly, Paris. Giống cha mình, họ nhanh chóng trở thành “người Pháp” hơn cả dân Pháp.
Rời ngôi trường cổ kính này, ngày 1-10-1904, ông Vị đăng ký nhập học Trường võ bị Saint-Cyr. Đây là trường đào tạo sĩ quan cực kỳ danh giá của nước Pháp, lò tôi luyện của rất nhiều tướng lãnh Pháp, trong đó có đại tướng Leclerc, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp quốc tại Đông Dương.
Trải qua hai năm ở Saint-Cyr, năm 1906 Đỗ Hữu Vị ra trường với quân hàm thiếu úy (sous – lieutenant) trong quân đoàn lê dương số 1, tham chiến tại các chiến địa Oujda Maroc, Casablanca, Algérie…
Sau một thời gian dài chinh chiến, đến cuối năm 1910 ông Vị tiếp tục đăng ký vào Trường Quân sự lái máy bay (l’école militaire de pilotage).
Đây là thời điểm nền hàng không thế giới mới ở buổi bình minh phát triển, đặc biệt là không quân, nên sự chọn lựa của ông được rất nhiều người ngưỡng mộ.
Tháng 11-1911, ông tốt nghiệp khóa học được cấp bằng lái máy bay của Aéroclub de France và thăng một cấp lên trung úy. Nam Phong Tạp Chí số tháng 2-1920 đã có bài viết rằng Đỗ Hữu Vị là phi công Việt Nam đầu tiên bay vòng quanh nước Pháp.
Đây có lẽ chính là chuyến bay ông đã thực hiện cùng người bạn phi công Pháp Victo Ménard năm 1911 và được ghi vào sử sách.
Ngoài ra, ông cũng là phi công lái thử máy bay mới, không chỉ đòi hỏi kỹ năng điều khiển mà cần cả sự dũng cảm bởi phương tiện hàng không buổi sơ khai này còn rất kém an toàn.
Trong một lần bay thử chiếc Gaudron hai tầng cánh, khi đã lên đến độ cao 300m thì máy bay bị trục trặc, rơi xuống nhưng ông may mắn thoát chết.
Trong hồ sơ quản bạ quân đội, Đỗ Hữu Vị tham gia quân đội Pháp ở Maroc. Nhưng đến năm 1914 ông trở lại Việt Nam để trở thành một trong những người Việt đầu tiên học vận hành loại thuyền lướt trên sông chạy bằng động cơ cánh quạt máy bay do Charles de Lambert chế tạo.
Đây chính là khoảng thời gian nền khoa học hàng không thế giới mới xuất hiện ở nước Việt. Đỗ Hữu Vị trở thành phi công Việt Nam bay biểu diễn cùng các phi công nước ngoài ở Sài Gòn và Hà Nội. Ông cũng tham gia câu lạc bộ hàng không đầu tiên do người Pháp thành lập ở Đông Dương.
Tuy nhiên, Đỗ Hữu Vị không thể nán lại quê hương được lâu. Năm 1914, cuộc đại chiến thế giới bùng phát khốc liệt, ông lại cấp tốc sang Pháp cùng người anh Đỗ Hữu Chấn để tái nhập đơn vị không quân chiến đấu ngay tại chiến trường chính quốc này.
Ông đã tình nguyện tham gia nhiều trận chiến nguy hiểm và được giao trách nhiệm phi đội phó một phi đội máy bay ném bom.
Trong danh sách các phi công thuộc địa tham chiến cùng quân đội Pháp, người ta tìm thấy những tên tuổi đến từ Đông Dương như Phan That Tao, Cao Dac Minh, Do Huu Vi, Felix Xuan Nha…, nhưng Đỗ Hữu Vị có lẽ nổi bật hơn cả bởi những tên đường, trường học, bưu ảnh mà người Pháp đã lưu danh ông.
Nhắc nhớ sự dũng cảm của phi công Việt Nam này, người Pháp kể lại chính câu nói của ông: “Sự can đảm của tôi gấp đôi người thường vì tôi vừa là dân Pháp vừa là người Việt”.
Tham chiến
Năm 1915, thời điểm Thế chiến thứ nhất diễn ra vô cùng ác liệt, quân Pháp chịu nhiều thiệt hại nặng trước đối thủ Đức.
Cũng trong năm chiến sự nóng bỏng này, Đỗ Hữu Vị rơi máy bay sau một trận đánh vì trúng một trận bão lớn. Chiếc chiến đấu cơ hư hỏng hoàn toàn, ông bị thương nặng, bất tỉnh gần chục ngày với cánh tay gãy, vỡ xương hàm mặt nhưng một lần nữa lại thoát chết…
Sự can đảm của Đỗ Hữu Vị tiếp tục làm cho người Pháp kính nể khi ông không chịu giải ngũ theo tiêu chuẩn thương binh được hưởng, mà vẫn tình nguyện ở lại đơn vị dù không thể lái máy bay được nữa.
Được thăng quân hàm đại úy, ông đảm nhiệm công việc mặt đất hỗ trợ không chiến. Sau đó ông gia nhập quân đoàn kỵ binh lê dương số 1 và được giao nhiệm vụ chỉ huy đại đội số 7 cùng khoảng 300 quân ở mặt trận Somme, miền Bắc nước Pháp.
Đây là chiến địa vô cùng tàn khốc trong Thế chiến thứ nhất mà liên quân Anh – Pháp và đối thủ Đức bị thương vong hàng trăm ngàn binh sĩ với hàng chục sư đoàn bị xóa sổ.
16 giờ chiều 9-7-1916, tức khoảng một tuần sau khi trận đánh quy mô ác liệt nhất kéo dài suốt năm tháng ở vùng này nổ ra, đại úy Đỗ Hữu Vị được giao chỉ huy đơn vị của mình đánh phá chiến hào quân Đức ở cánh đồng giữa hai làng Belloy – en – Santerre và Estrée.
Trong một đợt chỉ huy xung phong, ông bị trúng nhiều phát đạn súng trường của quân Đức và lần này thì ông tử thương ngay tại chiến địa. Các chiến hữu Pháp đã chôn cất người lính Việt dũng cảm Đỗ Hữu Vị ở cánh đồng làng Dompierre bên bờ sông Somme.
Bốn năm sau, người anh Đỗ Hữu Chấn cũng là một sĩ quan quân đội Pháp đã đưa hài cốt em mình về nước trên chuyến tàu vượt đại dương.
Tổng đốc Phương lúc này đã mất nhưng anh em trong gia đình đã tổ chức lại cho Đỗ Hữu Vị một đám tang trang trọng nhất Sài Gòn vào thời điểm ấy.
Các quan chức phủ toàn quyền và quân đội Pháp đã thay nhau túc trực tang lễ, tri ân người sĩ quan không quân Việt đầu tiên đã dũng cảm chiến đấu và hi sinh cho nước Pháp.
Thái độ trân trọng của chính quyền Pháp sau đó còn được thể hiện qua các bưu thiếp Đông Dương in ảnh ông.
Đặc biệt ở thành phố Casablanca, Maroc và làng Lafaux, Picardie, Pháp đều có đường mang tên Đỗ Hữu Vị. Tại Việt Nam thời Pháp thuộc, nhiều con đường, trường học tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng cũng được đặt tên ông.