Quân Phục, Cấp Hiệu, Huy Hiệu, Huy Chương từ Quân Đội Quốc Gia Đến Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà

Giới thiệu quí chiến hưủ.

Chủ tịch hội đồng đai diện Cộng Đồng Người Mỷ Gốc Việt, ông  Michael Đổ đã bỏ rất nhiều công sức vừa xuất bản quyễn “Remembering the ARVN” có tất cả cáp hiệu, phù hiệu và huy hiệu QLVNCH.

Sách bán trên Amazon, rất hửu  ích nếu ai cần tham khảo khi ăn mặc hoặc chỉ đễ biết. Các hội đoàn nên có một bản.

Sau đây một bài viết của một dân sự bình luận về quân phục của quân nhân VNCH khá vui:

Lời Giới Thiệu: Nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận , ông Nguyễn Ðình Phúc tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Ban Ðốc Sự Khóa 11, nguyên Phó Tỉnh Trưởng Phước Tuy, hiện cư ngụ tại Vancouver BC, Canada, đã có nhã ý sưu tập gửi đến độc giả tài liệu đặc biệt về huy chương, cấp hiệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xin cảm tạ ông Nguyễn Ðình Phúc và xin giới thiệu cùng quý độc giả.

Sau 30.4.1975, chủ quyền đất nước mất vào tay cộng sản (việt cộng và cộng sản Nga,  Hoa). Chánh Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Ngày nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi khác nhưng lý tưởng, chánh nghĩa người Chiến Sĩ một đời theo đuổi vẫn còn đó, Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm vẫn còn đó, Quê Hương-Dân Tộc vẫn còn đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù mang một hình thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đấu cho nền Ðộc Lập Dân Chủ Tự Do thực sự cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn dân. Một điều khẳng định, chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc, Ðồng Bào vì khi vừa nghe tin những Quần Ðảo Hoàng Sa, Trường Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản Giốc…vừa bị ‘’bạo quyền cắt đất cầu phong’’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp đoạt, dâng hiến… tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng vùng lên…Ðiều này chứng tỏ chúng ta vẫn mãi mãi là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày mai, khi công cuộc tranh đấu dành lại được chủ quyền từ tay cộng sản  cho toàn dân, nền Ðệ Tam Cộng Hòa được thiết lập, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tái tổ chức thì câu chuyện về quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…hôm nay chẳng là câu chuyện phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài liệu cần đến.

Từ hơn 2000 năm trước, Ðức Khổng Tử đã nói đến tầm quan trọng của nhung phục, đại ý Ngài dạy: ‘’Người tráng sĩ tự mình chưa đủ oai dũng khi lên yên chiến mã nếu như thiếu nhung y giáp trụ, thiếu cờ hiệu, cờ lệnh…’’ Bài viết xin được các Chiến Hữu, Ðộc Giả bổ sung, tha thứ vì hầu như hoàn toàn dựa  vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện ‘’lính kể lính nghe’’ trong những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị cháy.

Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5.6.1948 được ký kết giữa Ðại Diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc Trưởng Bảo Ðại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Ðộc Lập, Thống Nhất nhưng vẫn còn nằm trong Liên Hiệp Pháp. Quân Ðội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế mới chỉ là một lực lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu chống Việt Minh (cộng sản) bên cạnh quân đội liên hiệp Pháp. Cho đến những năm đầu thập niên 50. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia vẫn còn nhiều sĩ quan Pháp làm việc, nhiền đơn vị do sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp chỉ huy, quyền chỉ huy tối cao còn thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur (Tiểu Khu, Chi Khu Chiến) của Pháp tại địa phương. Sau đó một số Khu Vực mỗi lần được trao trách nhiệm lại cho Quân Ðội Quốc Gia như những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn thư, danh xưng còn dùng Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S. P (Secteur Postal) thay vì Bộ Tổng Tham Mưu  hay K.B.C Trong hoàn cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…tương tự như quân đội Pháp.

Trên toàn lãnh thổ có 4 Quân Khu: Ðệ Nhất Quân Khu (miền Nam). Ðệ Nhị (miền Trung). Ðệ Tam (miền Bắc). Ðệ Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/Sơn Cước). Lực lượng chính yếu gồm các Tiểu Ðoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien), Tiểu Ðoàn Nhảy Dù…Bên cạnh, chánh quyền địa phương cấp Phần, đứng đầu bởi Vị Thủ Hiến có tư cách pháp nhân riêng, ngạnh sách riêng, quân đội riêng như Bảo Chính Ðoàn (Bắc). Việt Binh Ðoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam), Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân và những lực lượng giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo,  Bình Xuyên…

QUÂN PHỤC

Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu, quân phục chưa quy củ, luộm thuộm vì ngay cả quân phục quân đội Pháp cũng không hơn. Nhiều Quân Nhân mặc chenise vàng, quần trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Ðến khi Quân Ðội Quốc Gia chính thức thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc Phòng Phan Huy Quát), quân phục mới được quy định tề chỉnh hơn.

Lễ phục Sĩ Quan ngoài màu trắng, có màu xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục màu nào thì phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh không kể màu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các Phòng, Sở, ra khỏi Doanh Trại (số 2) ‘’gabardine’’ hay ka-ki. ‘’béreto’’ cùng màu vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) màu xanh ‘’olive’’ riêng Nhẩy Dù thêm áo sô (saut) trông rất oai hùng.

Tới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa Ðại Lễ Phục Sĩ Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao cúc (nút) vàng, thắt lưng đen ‘’casquett’’ trắng, quần sậm, có sọc như các Quân Trường, có cả dạ phục. Còn Tiểu Lễ Quân Phục số 2 màu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa.

Nhớ lại sau Hiệp định đình chiến 1954, Quân Nhân ra Phố mặc đồ tác chiến sẽ bị Tuần Cảnh bắt giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại, quân phục vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên hay Khóa Sinh Quân Trường.

Chuyện trang phục của chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất là từ cấp Tướng Lãnh. Một Ðại Tướng vì gốc Dù nên mặc Ðại Lễ thay vì đội casquette, ông vẫn ‘’sính’’ đội beret đỏ. Một Vị Lãnh Ðạo Quốc Gia, vì gốc Phi Công ‘’anh dũng muôn đời’’ nên cứ diện phi bào với 2 sao để cho Tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một Tướng biệt phái sang Hành Chánh thường mặc đồng phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp Tổng Thống hay Thủ Tướng lại móc ngay 3 sao trong túi đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một Ðô Ðốc, quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong Quân Chủng…Vẽ lại vài ba hình ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi vì thời phong kiến đã có câu ‘’luật không áp dụng với người trên’’ nên nhằm nhò gì chuyện nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu.

Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở Quân Ðội Hoa Kỳ ‘’ngoài quy định từ Thống Tướng tới Binh Sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một quy định gì so với đồng ngũ đồng cấp’’. Sự đồng nhất triệt để tới cả mức gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau. Chắc các Chiến Hữu còn nhớ chuyện một Vị Tướng Hoa Kỳ, ông đã đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người chê sai, người bên vực đúng nhưng ông vẫn tự sát vì sự kiện này.

Tất nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động vì mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy trang, nhưng trong dịp Quốc Khánh, kỷ niệm Quân Lực…các Ðơn Vị mặc chiến phục diễn hành vẫn theo đầy đủ cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương thòng…để thêm oai dũng khác ngày thường.

Khi mới thành lập, chúng ta còn đi giầy đinh (có đinh ở dưới) gọi giầy ‘’săng đá’’ (do chữ Pháp Soldat-Quân Nhân), bước đi gây tiếng cồm cộp. Những toán hầu kỳ, chào kính còn mang ghệt (guêtre) trắng bằng da hay vải bố để túm ông quần lại cho gọn, đẹp. Hành quân dùng giầy bố. Sau này dùng giấy sô (botte de saut) cột dây, có nhiều loại khác nhau. Những Quân Nhân nào diện còn cắt ống giầy gắn fermeture, nhưng khi đổi giầy có thể bị phạt vì làm hư quân trang. Giống như một Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng vì nhu cầu an ninh đã sơn xe jeep mầu dân sự, khi đổi xe đã phải phạt và đền tiền sơn lại như màu nguyên thủy.

Những năm sau này, thêm nhiều Quân Binh Chủng được thành lập nên ngoài chiến phục của Bộ Binh có nhiều kiểu và màu sắc đặc thù riêng rất oai hùng như phi bào (Không Quân) quân phục trắng (Hải Quân) Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân…Ðây cũng là một trong những nét khác biệt của từng màu cờ sắc áo. Sau 1975 trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn rất rét, bị ám ảnh khi thấy hình bóng các thiên thần mũ đỏ, cọp biển…chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh ‘’nhiều cán binh sống sót về lại miền Bắc không dám đứng dưới quạt trần vì còn ngỡ cánh quạt trực thăng săn đuổi’’.

Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều. Xưa kia mũ ‘’béret’’ ka ki vải rất rộng (miền Bắc gọi là mũ bánh đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ ‘’calot’’ xám, đen trên đỉnh xẻ đôi có hai màu xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng đội  chapeau de brousse mũ vải cứng rộng vành (hơi giống Quân Nhân Úc) một bên vành mũ bấm gọn lên để khỏi vướng khi vác súng. Sang thời Cộng Hòa ‘’béret’’ xám đội theo quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tròn khác màu tùy mỗi hàng Binh Sĩ, Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 1963,  thường mặc ‘’tréllis’’ nên mũ vải lúc đầu cứng (như képi) sau như ‘’casquette’’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘’làm dáng’’ tay mũ cũng gắn nhành dương liễu như casquette đại lễ. Mũ sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như Biệt Ðộng Quân cũng tiện.

Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2 không kể cấp hiệu, phù hiệu được mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cấp phần sau. Chỉ riêng việc này đã làm mất tính bí mật quân sự. Ðịch dễ dàng nhận diện hay trên xác Tử Sĩ để lại chiến trường đủ tình trạng quân vụ (Ðơn Vị, cấp bậc…) ngoài những cáo phó, chia buồn góp vui đầy trên báo chí. Ngoài cổng Doanh Trại ghi đầy đủ hệ thống thuộc, Ðơn Vị đồn trú. Trong khi việt cộng đến khi chiếm trọn miền Nam trước cổng chỉ có tấm bảng ‘’doanh trại quân đội nhân dân’’. Như vậy, bài học vỡ lòng che dấu, ẩn nấp để ‘’ta thấy địch, địch không thấy ta’’ trở thành hài hước.

CẤP HIỆU

Cấp hiệu là quy ước có hình thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp ‘’Huynh đệ chi binh’’ là mối tương quan trong đời Quân Ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ khác một vạch, màu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.

Từ khi thành lập Quân Ðội Quốc Gia, cấp hiệu được gọi bằng lono (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như quân đội Pháp cho tới thời Cộng Hòa được thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện sách báo khiêu dâm…Ðây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp.

Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘’lon’’ Sĩ Quan, ngoại trừ Thiết Giáp Binh (Kỵ Binh) dùng vạch trắng. Từ ‘’adjudant’’ (ông Ách) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy dọc, ‘’aspirant’’ (Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt lúc đó chúng ta thường gọi Quan Một, Quan Hai…tới Quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan cao cấp (Officier Supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan cấp thấp (Officier Subalterne). Trên Quan Tư có khoanh trắng (Lieutenant Colonel) với 5 vạch (3 vàng 2 trắng) và Quan Năm khoanh vàng (Colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở lên). Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ mang vạch hình chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh tay.

Người viết không rõ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ Quốc Phòng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng Sĩ xuất xứ từ Lực Lượng Bảo Chính Ðoàn (Bắc Việt) đặt ra trước cùng lúc với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Ðoàn trong khi Sĩ Quan Chính Quy vẫn còn đeo ‘’lon’’ hoàn toàn như sĩ quan Pháp. Xin được mở dấu ngoặc nói thêm về cấp hiệu của Bảo Chính Ðoàn.

Bảo Chính Ðoàn là lực lượng quân sự cấp Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ huy hoàn toàn Việt Nam, không có một hạ sĩ quan hay sĩ quan Pháp nào. Tư Lệnh Phó Bảo Chính Ðoàn (có lúc gọi là Phó Giám Ðốc) là Ðốc Quân Ðoàn Chí Khoan (sau này là Ðại Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc). Ông Ðoàn Chí Khoan có thể coi như người soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo Chính Ðoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức Quân Ðội Trung Hoa Quốc Dân Ðảng và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân cho Sĩ Quan cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có 3 hạng: Phó Ðốc Quân hạng ba, hạng hai và hạng nhất (tương đương Thiếu, Trung, Ðại Úy) và Ðốc Quân cũng có ba hạng. Trên hết là Chánh Ðốc Quân (như cấp Tướng, nhưng chưa có ai được phong). Tư Lệnh Biệt Chính Ðoàn đầu tiên là Ðốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là một trong 6 Ðại Tá đầu tiên của Quân Ðội Quốc Gia). Tư Lệnh Phó là Ðốc Quân hạng 3 Ðoàn Chí Khoan. Giám Ðốc Trường Sĩ Quan Biệt Chính Ðoàn là Ðốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa).

Ðốc Quân và Phó Ðốc Quân đều đeo hoa mai bạc (hạng 3 một bông…hạng 1 ba bông) nằm ở vạch ngân tuyến. Cấp Ðốc Quân thêm hai sợi ngân tuyến chạy kèm song song hai bên.  Kể cả hàng Binh (Bảo Chính Viên) trở lên đều đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo hình chữ V. Ðiểm đặc biệt là danh xưng Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ được đặt ngay thời đó và sau này vẫn còn được dùng. Riêng danh xưng Ðốc Quân, Phó Ðốc Quân không được duy trì vì không thuận tiện (nếu chỉ gọi Ðốc Quân sẽ không rõ cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu kê).

Nhân đây, xin nói về truyền thống, ý nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3 Quân Binh Chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống quốc tế vì thường có tầm hoạt động ngoài lãnh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng không gồm Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp Binh và Lực Lượng Cảnh Sát. Không hiểu lý do nào, khi quy định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ chỉ riêng Hải Quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo như Quân Ðội. Trước đây Ngành Cảnh Sát đã có tổ chức quy củ với những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên…đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều Sĩ Quan và có lẽ tiện việc sắp đặt chức vụ, đã dùng theo cấp bậc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bỏ quy chế, cấp hiệu cũ,  không quan tâm đến thời gian huấn luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng trình độ văn hóa và thời gian thụ huấn như một Chuẩn Úy Bộ Binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Ðại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc như Quân Ðội. Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có thẩm quyền gì với Quân Nhân lại tạo cho dư luận, cộng sản dễ chỉ trích quân phiện, cảnh sát trị trong khi chính bộ máy kìm kẹp, phá hoại của việt cộng có tới cấp bộ công an.

Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng quân sự địa phương chính quy hóa. Bảo An Ðoàn mang cấp hiệu riêng như Bảo Chính Ðoàn trước kia. Vì thiếu thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trong vừa giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhành lúa ôm hai bên  trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát Sĩ Quan Ðồng Minh kể cả cấp Tá cũng như Huấn Luyện Viên, một điều Yes Sir hai điều cũng yes, General với Thiếu Úy và còn chào kính túi bụi vì nghĩ thầm ít gì cũng Chuẩn…Tướng.

Trở lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mang mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) vì muốn cho Hội Ðồng Tướng Lãnh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘’Tướng trẻ’’ dễ dàng khống chế lớp ‘’Tướng không trẻ’’ hoặc để áp lực cho đi ‘’Ðại Sứ’’. Ðó là thời ‘’Loạn Tướng’’. Ðề cập đến loạn Tướng thiết nghĩ phải nói đến quy chế Tướng Lãnh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đã bước lên hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đã bỏ binh quyền, đời quân ngũ. Vì vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu Thiếu Tướng…mà là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa… Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ, dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lãnh, chỉ thêm chữ hồi hưu như General Westmoreland (Ret). Quân Ðội vẫn phải đãi ngộ Tướng Lãnh với đầy đủ quy chế,  nghi lễ, lương bổng, quân phục, cấp hiệu, Tướng Kỳ, Tùy Viên, Hộ Tống, chào kính…ngoại trừ binh quyền.

Ngoài ra tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp hiệu, phù hiệu của các Lực Lượng Ðồng Minh tham chiến tại Việt Nam trước kia. Ngoài những gì theo truyền thống quốc tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay Không Quân, chữ thập Quân Y…có những đặc thù riêng như Khối Liên Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan…) với Vương miện (Crown). Tháiland trọng bảo tháp (Phật) dành cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.

Nhiều người khen quân phục Hoa Kỳ đẹp, quy củ nhưng cấp hiệu không ý nghĩa. Thật ra Hoa Kỳ lấy biểu hiệu từ thấp lên cao, cấp Thiếu và Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và Ðại Úy 2 vạch trắng là kim loại còn nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với lá vàng, trắng.  Ðại Tá đeo hình chim đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn…(thường dùng danh hiệu đại bàng) Ngôi sao sáng hàng Tướng Lãnh mang biểu hiệu cao tột đỉnh, dẫn đạo chỉ huy.

Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hình chữ V ngược nơi tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cao cấp), còn hàng Hạ Sĩ Quan cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như sau này, trái lại quân đội Pháp còn quy định những Tướng lãnh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu Binh Nhất, Hạ Sĩ, Trung Sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như Ðại Tướng De Latter, được đeo thêm cấp Hạ Sĩ Nhất danh dự. Trung Tướng Cogny thêm cấp Hạ Sĩ. Ðây là quy định chính thức như chức Huyện, Phủ Hàm thời trước, không như cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là Hạ Sĩ danh dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các Ðại Ðơn Vị (commandant en chef/commander in chief) thay vì Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘’Tư Lệnh’’ nói lên sự toàn quyền ban phát lệnh thay vì chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp Chỉ Huy Trưởng.

HUY HIỆU HUY CHƯƠNG

Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rõ Ðơn Vị trực thuộc. Nhiều khi còn dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo, hoặc các ‘’nơ’’ màu để dễ nhận bạn.

Thời phôi thai, Quân Ðội mới có đến cấp Tiểu Ðoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra còn được làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp thuốc…). Các Quân Trường Võ Khoa Thủ Ðức, Liên Quân Ðà Lạt…cũng có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các Ðại Ðơn Vị, Binh Chủng…phù hiệu vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu Ðơn Vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta còn đeo thêm các bằng chuyên môn…như bằng Rừng Núi Sình Lầy, bằng Dù, cánh Bay…

Quân Ðội có nhiều hình thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn Ðơn Vị, cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de guerre, Médaille d’honneur…của Pháp, nhiều loại được lãnh phụ cấp hàng tam cá nguyệt. Sang thời chính thể Quốc Gia, Quốc Trưởng ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với 5 hạng, trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp thưởng rất khó khăn đòi hỏi những chiến công hiển hách, thành tích lớn lao đối với Tổ Quốc, Dân Tộc.  Nghi thức trao gắn rất long trọng, Quân Nhạc cử điệp khúc Quốc Thiều, người được ân thưởng tay nâng Huân Chương để Nguyên Thủ Quốc Gia chào kính. Nếu phạm trọng tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Ðối với hạng nhất, nếu tôi nhớ không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh Danh Dự Ngự Lâm Quân. Kế là Ðại Tướng De Latter, Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp tại Ðông Dương, nhờ chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng Ðệ Nhị Ðẳng. Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Ðại Tướng và truy tặng Ðệ Nhất Ðẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với Nhành Dương Liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ về chiến công và phạm vi tuyên dương trước Quân Ðội hay chỉ trước cấp Lữ Ðoàn, Sư Ðoàn.

Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của Quân Ðội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương thuộc các Quân Binh Chủng được ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương…chưa kể huy chương của nhiều Quốc Gia, Quân Lực Ðồng Minh cũng trao tặng.

Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang tên màu:Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương màu tam hợp đòi hỏi toàn thể Ðại Ðơn Vị phải lập chiến công và ít nhất phải được tuyên dương công trạng cấp Quân Ðội từ ba lần trở lên.

Huy chương khi được ban thưởng, ngoài văn thư có một bằng treo, không kể huy chương (thòng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải tuân theo các cách thức quy định. Huy chương cao hơn phải đeo từ trong phía ngực trái ra ngoài, hàng trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc Huân Chương Ðệ Ngũ và Ðệ Tứ Ðẳng dù thấp nhất trong Bảo Quốc nhưng cũng phải xếp trên cùng. Ðệ Tam đeo dây vòng qua cổ, Ðệ Nhị một bên cạnh sườn và Ðệ Nhất vắt ngang vai. Trong Tiểu Lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ có phần cuống).

Với dạ phục mang huy chương thòng nhưng thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một huy chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các Quân Binh Chủng, Ðại Ðơn Vị, cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đã được ban thưởng.

Với huy chương của các Quốc Gia Ðồng Minh, phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức, Quân Nhân đương sự mới được mang.

Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu…vì không được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn kém cho Quân Nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành.

NGHI THỨC CHÀO KÍNH

Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều cách thức chào kính như: Chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian.

Theo một số tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa ở Tây Phương. Khi gặp Vua Chúa,  Quan quyền, thần dân thuộc hạ phải dơ tay phải lên che mắt để không được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không võ khí. Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở Ðông Phương.

Ðến giữa thập niên 50, số Sĩ Quan cũng còn rất ít. Ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, một Thiếu Úy ra vào cổng chính, Lính gác đã phải đứng nghiêm, Từ Trung Úy phải chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc Binh Sĩ không đủ thời gian đem súng xuống. Tại các Ðơn Vị, từ cấp Ðại Ðội Trưởng (Thiếu hoặc Trung Úy) mỗi khi ra vào cổng, Toán Binh Sĩ trực đã phải dàn chào dưới sự chỉ huy của Ðốc Canh.

Thời trước, Binh Sĩ chào súng theo kiểu Pháp, súng dọc thân mình phía phải, tay phải đỡ đế súng, bàn tay trái khép để trước súng, lòng bàn tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, nòng súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Ðoàn, súng vác vai, tay trái đặt ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước, giữa thân mình. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng. M16 loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai tay trái giữ dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác thì bộ máy cò sát vai (ngược lại kiểu xưa ngửa lên trời), mặt ngước về Thượng cấp. Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai tay mang xách hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào kính bằng cách ‘’hất mặt’’ về cấp chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ, nhà ăn, chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù trình diện cấp trên cũng chỉ đứng nghiêm (không chào nữa).

Khi Sĩ Quan vào phòng, Quân Nhân cao cấp nhất thấy trước sẽ hô ‘’phắc’’ hay ‘’vào hàng phắc’’ đối với  từ cấp Trung Tá (Ðơn Vị Trưởng) trở lên. Khi Thượng cấp rời khỏi phòng chỉ hô ‘’nghiêm’’. Khi hô ‘’vào hàng phắc’’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy (xạ thủ về trước súng,  âm thoại về trước máy…).

Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào kiếm trong Lễ mãn khóa của Sinh Viên Thủ Ðức dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong, đàng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bải chỉ đúng có vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp dưới mắt Cụ, Nhà Lãnh Ðạo gốc dân sự, chưa quen Lễ Nghi Quân Cách nên bước ngay xuống, dơ tay bắt tay Sinh Viên Thủ Khoa. Phần này không dự liệu nên anh Thủ Khoa hốt hoảng vã mồ hôi, nhất là nhìn tay Quốc Trưởng đã đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp, chuyển kiếm sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong khi tay trái cầm kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ anh được lãnh ngay lệnh phạt gia tăng từ  Ðại Ðội Trưởng lên tới Tướng Chỉ Huy Trưởng với lý do ‘’chào kính Nguyên Thủ sai quy cách’’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được bắt tay).

Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy Tỉnh, Quận vào những dịp cúng tế tại Ðình Miếu đã rất lúng túng hoặc hành xử sai quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương…có ông tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường được hỏi về thái độ thích nghi và đã cố giải thích: ‘’Với Quân Nhân cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu tượng Quốc Kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo Quân Cách. Quân Ðội không dự trù có trường hợp Quân Nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh, Quận Trưởng, cho dù với tư cách Thượng Khách, khi được mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay vì các động tác này không hề có theo Quân Cách). Việc cử hành lễ là hoàn toàn là quyền hạn và trách nhiệm của Ban Hương Chức. Nếu muốn bày tỏ cung cách nào khác hơn, hãy mặc thường hay quốc phục’’. Không biết các ý kiến Niên Trưởng ra sao? (Đúng!)

Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu…rất dài, phức tạp. Ðủ thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu hay toàn thể Chiến Hữu chứ đâu phải do một anh Lính ‘’tốt đen’’. Tuy vậy, đã là Lính từng biết hô lớn câu ‘’tan hàng, cố gắng’’ nên cuộc đời ‘’cố gắng’’ đã quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy.

Nhìn lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Ðiều này sao tránh vì chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của Ðồng Minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.

Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh thì mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù hiệu…chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do mình chọn từ chiến công, hình ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Ðằng, mũi khoan Yết Kiêu (Hải Quân, Người Nhái), ngựa sắt Phù Ðổng (Thiết Kỵ), lò đúc Cao Thắng (Quân Cụ), nỏ thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa Thành (Công Binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trãi (Tâm Lý Chiến)…kể sao cho hết.

Người viết, một Khinh Binh Việt Nam Cộng Hòa, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào Quốc Kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc, chào Quân Kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Ðội. Kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Anh Hùng Liệt Sĩ, Chiến Hữu đã hy sinh. Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến Chiến Hữu, Ðộc Giả. 

Nguyễn Đình Phúc

***

Xin kính gửi vài trang trong sách để quý vị xem. Michael Đỗ

Michael Do (Do Van Phuc)
Chairman of the Board of Directorss.
The Vietnamese American Community of the USA

Ai là người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ

Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên sang Hoa Kỳ kết mối bang giao hòa hiếu đồng minh, thì có một người đã sang Hoa Kỳ trước đó 20 năm để trở thành cao bồi. Ông là Trần Trọng Khiêm quê Phú Thọ. Tuy không phải là một sứ giả, nhưng cuộc đời ông Trần Trọng Khiêm

Tìm Vàng nơi đất khách
Theo như nghiên cứu của học giả Nguyễn Hiến Lê, ông Trần Trọng Khiêm sinh năm 1821 quê làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, nay là xã Xuân Lũng (Lâm Thao, Phú Thọ).
Năm ông 21 tuổi, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Trần Trọng Khiêm trong cơn uất hận đã ra tay giết chánh tổng báo thù cho vợ. Sau đó, ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc.
Suốt 12 năm ròng, từ 1842 – 1854, Trần Trọng Khiêm đi qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến TP New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường cho bốn năm phiêu bạt ở đất Hoa Kỳ.
Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi đến Hoa Kỳ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về TP San Francisco và làm ký giả cho tờ Daily News trong vòng 2 năm.
Trong một cuốn sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1937, có tác giả đã kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch vào giữa thế kỷ XIX. Họ đến từ nhiều nước rồi hợp thành đoàn đi sang miền Tây tìm vàng.
Miền Tây – đó bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm để mua lương thực và vũ khí. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng.
Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu. Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

Trở thành nhà báo


Theo tìm hiểu của học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ XIX, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp nhưng Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Hoa Kỳ.
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên là Lê Kim. Vì vẫn bị truy nã nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.

Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.

Khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Gần 10 năm sau, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội. Trong gia phả nhà họ Lê gìn giữ ghi lại lời trăng trối thì trước khi chết, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con; đồng thời căn dặn các con giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi.
Nghĩa quân chôn Lê Kim ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó ông vừa tròn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Hoa Kỳ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước. Dù cuộc khởi nghĩa của ông không thành công nhưng cũng thành nhân” như lời của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học đã nói.

Không Bỏ Bạn Lại

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa

Tháng Tám năm 1985.  Thành phố Los Angeles với nhà cửa san sát và xe cộ đông như kiến hiện rõ dần dưới ánh nắng chiều, tiếng cô tiếp viên hàng không loan báo phi cơ chuẩn bị hạ cánh khiến tôi háo hức.  Nhân đi công tác ở Palo Alto ở bắc California, tôi bay xuống Los Angeles chơi cuối tuần với vợ chồng Canh; Canh là bạn đồng nghiệp dạy ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Minh Đức.  Cuối tháng Sáu năm 1975, tôi đã gặp Canh trong trại tỵ nạn Trại Pendleton, nhưng từ đó đến nay mặc dù thư từ và điện thoại thường xuyên, chúng tôi chưa gặp lại nhau.  Canh mừng rỡ khoát tay lia lịa khi thấy tôi ở cuối jetway (hành lang dẫn từ phi cơ vào phòng đợi phi trạm).  Hai đứa ôm chầm lấy nhau; tôi nhìn bạn từ đầu đến chân và cố dấu vẻ xúc động,
            “Mày không chịu bơ sữa đế quốc hay sao mà người ngợm tang thương thế kia?”
            “Còn mày trông như thằng cha thiếu thuốc, có khác gì tao?  Chúng mình già rồi Ba Hoa ạ,” Canh đỡ lấy chiếc cặp da trên tay tôi.
            “Cô Lòng Heo. . . à Long Huê có khỏe không?  Chiều nay cô ấy đi làm hả?”
Ngày còn là sinh viên ban Điện tử của Đại học Khoa học Sài gòn, Canh bị bạn bè gọi đùa là “Tiết Canh.”  Khi Canh cặp bồ với cô sinh viên lớp Lý Hóa Nhiên (hay “chứng chỉ” SPCN) Long Huê người Việt gốc Hoa quê ở Rạch Giá, lũ bạn bèn tức cảnh sinh tình phang ngay cho nàng cái tên “Lòng Heo” để đi đôi với Tiết Canh cho . . . hợp duyên.  Canh mỉm cười trách nhẹ,
            “Mày chứng nào vẫn tật ấy!  Hôm nay bà ấy nghỉ làm ở nhà nấu nướng đãi mày.”
            “Tụi mày nhiễu sự, bày vẽ làm chi cho mất công.”
            “Mười năm mới có dịp đón tiếp gã nhà quê từ nơi đồng nội North Dakota đến thăm viếng chốn thị thành ấy mà!  Hôm nay có thằng Tiễn và vài người bạn ở quanh đây.”
Dễ đến mười tám, mười chín năm nay tôi mới gặp lại Tiễn.  Ngày đó, lớp đệ nhất niên ban kỹ sư của ba trường Công chánh, Công nghệ, và Điện học chung và học các môn khoa học cơ bản; Tiễn thuộc ngành Công chánh và tôi là dân Điện.  Mặt rỗ chằng rỗ chịt, người bé loắt choắt, giọng nói oang oang, và tính ưa nghịch phá, Tiễn lân la làm quen rồi chơi thân với tôi.  Tôi nghe từ vườn sau Tiễn cười vang kể chuyện xưa,
            “Trong giảng đường gần tám chục mạng mà chỉ có hai thằng đứng thẳng lưng là tao và thằng Chích Chòe.  Bọn cù lần kia sợ thầy như đĩ thấy cha, tối ngày đứng khom lưng một điều ‘Thưa giáo sư,’ hai điều ‘Dạ vâng, giáo sư.’”
            “Còn mày, phét lác cho lắm mà sao bị xoọc-ti lát thành dở ông dở thằng?” có tiếng hỏi vặn lại; “xoọc-ti lát” là “sortie latérale” tiếng Pháp nghĩa là ra trường ngang hay bị đuổi học.
            “Hà hà, ‘anh mày’ là dân chơisố dzách!  Tình cờ thấy ông Thế Trưởng ban Khoa học Cơ bản vào cầu tiêu sau giảng đường có ổ khóa treo lủng lẳng bên ngoài, tao bèn tiện tay lật bản lề, móc khóa vào bấm lại, và bỏ chạy một nước.  Sau đó ông ta biết tao là thủ phạm và ra tay trù tới nơi tới chốn.  Làm sao tao thọ sang năm thứ hai?”
Tiễn bắt tay tôi với nụ cười mở rộng đến mang tai; tôi hỏi,
            “Hai mươi năm rồi mà sao bạn ta không lớn thêm được tí ti nào?  Đã vợ con gì chưa hay vẫn phòng không chiếc bóng?”
            “Thứ nửa người nửa ngợm nửa đười ươi như nó, con Chín dưới đò cũng chê, đàn bà con gái ai mà thèm?” Canh cười khà khà khiêu chiến; “chín dưới đò” nói lái thành “chó dưới đình.”
            “Hôm nay có thằng Chích Chòe phương xa lại, tao tạm tha cho thằng Tiết Canh.  Vả lại, cô Lòng Heo hứa cho ăn ngon nên ‘anh nó’ nhường nhịn một tí cho phải đạo,” Tiễn vênh váo trả lời và giới thiệu người bạn đứng bên cạnh với tôi, “Thằng Hoàn ở chung nhà với tao.  Xưa kia nó có vợ đình huỳnh, nhưng khi dzọt khỏi Sài gòn, gặp ‘hên’ vợ ngủm củ lèo nên thành ra độc thân vui tính như tao.”
Hoàn trông tương phản với Tiễn một trời một vực:  thân hình cao lớn, hùng tráng khôi ngôi, nhưng vẻ mặt u sầu với đôi mắt buồn thăm thẳm.  Hoàn bước lại gần tôi nói nhỏ nhẹ,
            “Tôi là dân trung học Võ Tánh Nha Trang, hồi đi thi tú tài đã nghe danh ‘ông.’  Trong lúc ‘ông’ làm bá chủ hội đồng Võ Tánh cả hai năm, tôi chật vật lắm mới qua được cửa ải Tú tài I, nhưng năm sau trượt vỏ chuối trong hai kỳ thi Tú tài II.”
            “Sau đó ‘ông’ làm gì?”
            “Tôi tình nguyện đi sĩ quan Không quân.  Sau thời gian thụ huấn tại trường Sĩ quan Không quân Nha Trang, tôi đi Mỹ học lái phi cơ vận tải.  Đầu năm 1975, tôi là đại úy lái C-130 ở Không đoàn Chiến thuật XX trong căn cứ Tân Sơn Nhứt.”

C-130 Hercules (Dũng sĩ Hercules) là máy bay vận tải có bốn động cơ tua-bin cánh quạt có thể cất cánh và hạ cánh trên phi đạo ngắn không dự bị trước.  Gần cuối bữa tiệc thịnh soạn do Long Huê khổ công nấu nướng, và khi màn đấu láo của đám bạn dịu lại, tôi gợi chuyện với Hoàn,
            “Năm 1975, ‘ông’ ra đi bằng gì?  Chắc hẳn không phải là tàu Hải quân như tôi rồi.”
            “Tôi lái C-130 chở gia đình quân nhân Không quân trốn thoát qua căn cứ U-Tapao bên Thái Lan.”  Căn cứ Không quân U-Tapao được Hoa kỳ dùng làm căn cứ cho phi cơ oanh tạc B-52 đi giội bom thời chiến tranh Việt nam.
            “’Bà’ ấy mất vào lúc nào?” tôi ái ngại hỏi.
            “Quế Hương cũng là dân Nha Trang; nàng ra đi trong chuyến bay định mệnh đó.  Ở Sài gòn chỉ có hai đứa tôi, gia đình hai bên ở hết và kẹt lại ngoài Nha Trang,” với giọng nói buồn tênh, Hoàn chậm rãi thuật lại quãng đời đau thương mười năm trước.
* * *
Trong mấy tuần lễ cuối cùng của Việt nam Cộng hòa (“VNCH”), quân nhân Không quân, nhất là các phi công như Hoàn, công khai thảo luận và chuẩn bị di tản gia đình bằng máy bay của mình.  Ba giờ rưỡi sáng ngày 29 tháng Tư, đợt pháo kích đầu tiên của Việt Cộng vào căn cứ Tân Sơn Nhứt khiến Hoàn và Quế Hương thức dậy và sửa soạn ra đi.  Khoảng chín giờ, Hoàn trông thấy ông Phó Kiền lên trực thăng bay theo hướng đông về phía Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ ngoài hải phận quốc tế.  Chín giờ 45 phút, ban Tình báo căn cứ loan báo đợt pháo kích sắp tới sẽ gây thiệt hại rất nặng nề; đó là hiệu lệnh giờ G đã điểm.  Giờ thì mạnh ai nấy bay.
Hoàn và Quế Hương chạy như bay và leo lên chiếc C-130 chàng bay thường ngày, phi cơ đã đầy ắp người.  Chàng vội kiếm chỗ cho Quế Hương ngồi rồi bước ngay vào phòng lái mở máy cho phi cơ chạy từ từ ra phi đạo; nhiều người loi nhoi chạy theo và cố nhảy lên cửa trước còn để mở.  Ra tới phi đạo, chàng ra lệnh đóng cửa, gia tăng tốc độ, và cất cánh bay về hướng tây giữa lằn đạn pháo kích.  Đáp phi cơ xuống U-Tapao an toàn, chàng thở phào một tiếng nhẹ nhõm và đợi hành khách xuống hết mới ra khỏi phi cơ.  Trong khi mọi người được đưa tới khu tạm trú trong các nhà để máy bay, ba-rắc lính, và lều vải nhà binh, chàng kinh hoảng nhảy bổ đi tìm Quế Hương; không ai thấy nàng đâu cả.  Cuối cùng, chàng gặp anh hạ sĩ quan cơ khí quen, anh ta mếu máo,
            “Đại úy ơi, ở Tân Sơn Nhứt, khi cửa còn mở, bà đứng nghiêng mình ra ngoài giúp kéo những người đất lên.  Họ níu kéo chen lấn và đẩy bà rớt xuống, bà bị máy bay cán lên người.”
Trời đất sụp đổ trước mắt Hoàn.  Người vợ yêu quý chết tức tưởi.  Đi ra ngoại quốc làm gì khi lẽ sống duy nhất trong đời không còn nữa?  Chàng phải trở về Việt nam tìm xác nàng mai táng cho trọn tình trọn nghĩa.  Dù chết cũng về, nhất định thế.
Căn cứ U-Tapao trở thành trại tiếp cư cho 3,900 người di tản.  Vị chỉ huy trưởng là Đại tá Harold R. Dallas, một sĩ quan có ba mươi năm quân vụ, phải chạy đôn chạy đáo lo ăn ở cho đám người này.  Nhưng khẩn thiết hơn là ông phải di chuyển họ ra khỏi Thái Lan ngay lập tức.  Chính phủ Thái sợ Việt Cộng kiếm cớ gây hấn và xâm chiếm, nhất định đòi trục xuất họ ra khỏi nước, và đe dọa sẽ tống giam và hành hình nếu họ không tuân lệnh.  Bộ chỉ huy Không quân Hoa kỳ vùng Thái bình dương đóng tại Hạ Uy Di cấp tốc gửi 21 phi cơ vận tải hạng nặng C-141 sang để chở tất cả qua đảo Guam.
Khi những chiếc C-141 đầu tiên đáp xuống U-Tapao, Đại tá Dallas lại đương đầu với khó khăn mới:  Kể cả người phi công vừa mất vợ, có 65 quân nhân VNCH trẻ nói đã ra đi lầm và muốn trở về Việt nam.  Tất cả đều đi trên chiếc C-130 do Hoàn lái sang và do một thiếu úy tên Lý cầm đầu; Lý cùng tuổi với Hoàn và phục vụ ở phòng Kỹ thuật Không quân.  Đại tá Dallas cậy một đại tá Không quân là vị sĩ quan VNCH cấp bậc cao nhất thuyết phục 65 người đó đi sang Guam tỵ nạn; ông này vạch rõ ra rằng nếu họ trở về, Việt Cộng sẽ không dung tha và đem ra xử bắn như không.  Rốt cuộc, 52 người đồng ý đi Guam, nhưng 13 người còn lại (gồm cả Hoàn) kiên quyết, “Về hay chết tại đây!”
Mười ba người cực kỳ bướng bỉnh đó đặt Đại tá Dallas vào một hoàn cảnh vô cùng khó xử, giao họ cho chính phủ Thái là điều sau chót một chiến binh yêu thương đồng đội như ông muốn làm.  Giữa lúc đó, y sĩ của căn cứ đưa ra đề nghị:  Truyền thống của quân đội Hoa kỳ là không bỏ bạn lại (“no one left behind”), và nếu vì một lý do nào đó quân nhân bị thương thà chết chứ không chịu rời chiến trường, quân luật Hoa kỳ cho phép toán quân y dùng thuốc an thần để cưỡng bách tản thương.  Trong khi chiếc C-141 cuối cùng để máy nổ nằm chờ trên đường ra phi đạo, vị chỉ huy trưởng buộc lòng chấp thuận giải pháp này.
Người đầu tiên bị tiêm thuốc an thần là Lý, Lý vùng vẫy kịch liệt khi bị khiêng vào trạm quân y.  Mười hai người kia ngập ngừng, nhưng không kháng cự.  Theo đúng thủ tục, đại tá Dallas phái bốn quân cảnh và một y tá đi theo hộ tống họ.  Đến Guam, 13 người phản đối dữ dội, biểu tình tố cáo lính Mỹ “dùng thuốc mê để bắt cóc” họ, và khiếu nại với văn phòng đặc trách thỉnh nguyện hồi hương của Hoa kỳ.  Báo chí đăng tin và làm lớn chuyện khiến Đại tá Dallas bị cách chức và bắt buộc phải giải ngũ.
Kể đến đây, Hoàn mím môi cố nén nỗi bực tức,
            “Phải công nhận thằng Lý có tài xúi giục và huy động đám đông.  Ở Guam, nó cầm đầu những vụ biểu tình, cạo đầu, tuyệt thực, và có lần bạo động đốt doanh trại và đánh lính Mỹ bị thương.  Nhưng khi chính phủ Hoa kỳ đồng ý cho đi về bằng tàu Việt nam Thương tín thì trước ngày lên tàu nó xin ở lại.”
            “Mẹ nó, đúng là thằng Việt Cộng nằm vùng!  Xong công tác đó, nó ở lại Mỹ để tiếp tục đánh phá cộng đồng tỵ nạn,” tôi buột miệng la lớn.
            “Ai cũng thấy vậy; tôi còn nghi nó là thủ phạm gây ra cái chết của Quế Hương.  Tôi bèn đổi ý xin ở lại, đó là quyết định sáng suốt duy nhất của tôi trong gần sáu tháng trời.”
Thấy tên “Lý” nghe quen quen, tôi hỏi,
            “Bây giờ thằng Lý đó ở đâu, ‘ông’ biết không?”
            “Nó lấy vợ, và hai vợ chồng sống ở San Francisco và kết nạp bọn thân Cộng, gây quỹ, và ra báo tuyên truyền cho Cộng sản trên đất Mỹ tự do.  ‘Ông’ biết trong giới người Việt tỵ nạn mình có một nhóm võ trang bí mật tên là Việt nam Diệt Cộng Hưng quốc chứ?  Khoảng ba năm trước, họ gửi thư ngỏ cảnh cáo vợ chồng nó, nhưng cặp Cộng con không những không ngưng hoạt động mà còn lên mặt thách đố.  Nhóm Hưng quốc ra tay, vợ chồng nó bị bắn chết trước nhà, và cảnh sát địa phương và FBI (Văn phòng Điều tra Liên bang) điều tra mà không tìm ra manh mối.”
            “Đáng đời hai đứa gian ác!  Tôi có đọc vụ này trên cả hai tờ Time và Newsweek,” tôi gật đầu; Time và Newsweek là hai tuần san nổi tiếng phát hành tại Hoa kỳ và lưu hành khắp thế giới.
            “Mười năm qua, tôi rất ân hận về việc mình làm:  Với tư cách một quân nhân đồng minh, Đại tá Dallas đã áp dụng nguyên tắc ‘không bỏ bạn lại’ để cứu giúp 13 quân nhân Việt nam Cộng hòa.  Vậy mà tôi nghe theo lời kẻ gian và góp phần vào việc chấm đời binh nghiệp của một sĩ quan đáng kính.”
Tôi thấy có đến hai người đáng kính:  Một người là Đại tá Dallas – đã đành, người kia chính là Hoàn.  Dù trải qua bao nhiêu khổ đau mất mát, chàng can đảm nhận lỗi lầm của mình.  Tôi đâm ra phục người bạn mới quen.
Nguyễn Ngọc Hoa
 Ngày 9 tháng Mười, 2019

Quân Nhân Mỹ Gốc Việt

Tiệc Gây Qũy của VAUSA

Sĩ quan Hải quân Mỹ gốc Việt: Lý do, tiêu chuẩn, quyền lợi, nghĩa vụ người lính

Đại hội 10 Quân Nhân Mỹ Gốc Việt Niềm Hãnh Diện Người Việt QG

Gặp gỡ Thiếu Tá Hải Quân Hoa Kỳ người Mỹ gốc Việt – Diana Trần-Yu

Phỏng Vấn Quân Nhân Mỹ Gốc Việt Nhân Lễ Đặt Vòng Hoa Tưởng Niệm Tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ 2017

4 sĩ quan người Mỹ gốc Việt tốt nghiệp tại trường Võ Bị Quốc Gia West Point

Vì sao tôi chọn binh nghiệp?

Những mũi giáo đâm sau lưng

Vào những ngày tháng này, hầu như khắp miền Trung Việt Nam đều biến thành những “Đại Lộ Kinh Hoàng” với những cuộc chạy giặc đẫm máu. Người dân đã bỏ tất cả ruộng vườn, nhà cửa, băng rừng vượt suối mong thoát nạn cộng sản và tìm về nơi chốn bình yên. Sau cuộc chơi “thấu cấy” sai lầm từ Dinh Độc Lập nhắm vào Ban Mê Thuột, lòng dân ly tán và tinh thần binh sĩ suy sụp trầm trọng, nhất là từ lúc một số cấp chỉ huy đào ngũ ra đi. Tình trạng bi đát này đã dẫn tới biến cố 30 tháng tư với cuộc sụp đổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc. 
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản. 
Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:
Trên đời có bốn cái nguLàm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầuThứ năm ngu nhưng lại đứng đầuĐó là cuồng tín theo hầu cộng nô
Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như: Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH. 
Vào ngày 20/12/1960, con bài Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có: Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…
Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như: Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…
Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976. 
Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.
Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…
Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…)… Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.
Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.
Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)… 
Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần…
Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng. 
Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam. 
Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài. 
Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng. 
Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…
Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng.
Trong khi đó, đồng bào quốc nội hãy nhớ kỹ mặt những tên bán nước hại dân để chờ một ngày lôi chúng ra đền tội trước dân tộc.
Và ngày đó sẽ không còn xa nữa!
31/3/2018

Đỗ Hồng

https://www.dohongngoc.com/web/

06/09/1915: Xe tăng đầu tiên được sản xuất

Vào ngày này năm 1915, mẫu xe tăng nguyên bản có biệt danh là Little Willie đã được hoàn tất tại dây chuyền lắp ráp ở Anh. Little Willie hoàn toàn không phải là một thành công sau một đêm. Nặng 14 tấn, chiếc xe đã bị mắc kẹt giữa các chiến hào và chỉ có thể trườn qua địa hình gồ ghề với vận tốc hai dặm một giờ. Tuy nhiên, người ta đã có nhiều cải tiến so với nguyên mẫu ban đầu và xe tăng cuối cùng đã làm thay đổi tình hình tại các chiến trường.

Người Anh phát triển xe tăng nhằm đối phó với chiến tranh chiến hào (trench warfare) của Thế chiến I. Năm 1914, một đại tá của quân đội Anh tên là Ernest Swinton đã cùng với William Hankey, Thư ký Ủy ban Quốc phòng Hoàng gia, cố gắng thuyết phục mọi người ý tưởng về một chiếc xe bọc thép có bánh xe dạng băng chuyền có thể đâm xuyên qua phòng tuyến kẻ thù và vượt qua các địa hình khó khăn.

Hai người đã kêu gọi Bộ trưởng Hải quân Anh Winston Churchill, người luôn tin tưởng vào khái niệm “con tàu trên mặt đất” (land-boat) và từng tổ chức một Ủy ban Tàu Mặt đất (Landships Committee) để bắt tay phát triển một nguyên mẫu.

Để giữ bí mật cho dự án trước kẻ thù, các công nhân sản xuất đã liên tục được nhắc nhở rằng những chiếc xe mà họ đang chế tạo sẽ được sử dụng để vận chuyển nước trên chiến trường (nhiều câu chuyện khác thì nói rằng vỏ của những chiếc xe mới giống như thùng chứa nước). Dù có thế nào thì loại xe mới này cũng được vận chuyển trong các thùng có nhãn tank (vừa có nghĩa là bồn chứa, vừa có nghĩa là xe tăng) và cái tên ra đời từ đó.

Mẫu xe tăng đầu tiên, Little Willie (Willie Nhỏ), ra mắt vào tháng 09/1915. Sau màn thể hiện kém cỏi của nó – tốc độ quá chậm, dễ trở nên quá nóng và không thể vượt qua các chiến hào – nguyên mẫu thứ hai, được gọi là Big Willie (Willie Lớn) ra đời. Đến thời điểm năm 1916, chiếc xe bọc thép này được đánh giá là đã sẵn sàng chiến đấu và được sử dụng lần đầu tiên trong Trận Somme gần Courcelette, Pháp, vào ngày 15/09 năm đó. Được gọi là Mark I, những chiếc xe tăng quân sự đầu tiên này khá nóng, ồn ào và khó sử dụng, cũng như hay bị trục trặc cơ học trên chiến trường; tuy nhiên, mọi người vẫn nhận ra tiềm năng của xe tăng. Những cải tiến về thiết kế đã được thực hiện và trong Trận Cambrai vào tháng 11 năm 1917, 400 chiếc Mark IV đã chứng minh chúng thành công hơn nhiều so với Mark I khi bắt giữ được 8.000 quân địch và thu về 100 khẩu súng.

Xe tăng nhanh chóng trở thành vũ khí quân sự quan trọng. Trong Thế chiến II, chúng đã đóng một vai trò nổi bật trên nhiều chiến trường. Gần đây hơn, các xe tăng trở thành vũ khí cần thiết khi tham gia chiến tranh sa mạc (desert combat) trong xung đột ở Vịnh Ba Tư.

Tại sao Liên Xô giúp đỡ Bắc Việt?

Nguồn: Sergey Radchenko, “Why Were the Russians in Vietnam?”, The New York Times, 27/03/2018.

Ngày nay chúng ta đã biết được tại sao người Mỹ lại mất quá nhiều thời gian như vậy trước khi rút khỏi Việt Nam.

Nhưng nếu sự tham gia của Mỹ được hiểu rõ, người ta lại chẳng thể nói điều tương tự về siêu cường đối thủ của họ, Liên Xô. Người Liên Xô nhận được gì từ việc ủng hộ một cuộc chiến nơi rừng rậm xa xôi, gửi các cố vấn, vật tư và tiền của đến giúp đỡ Bắc Việt – chấp nhận thực hiện một hành động không chỉ làm đóng băng quan hệ Xô-Mỹ, mà còn có nguy cơ châm ngòi xung đột toàn cầu?

Có phải là bởi tầm quan trọng địa chính trị của Việt Nam? Hay là do mối bận tâm của Moskva về truyền bá tư tưởng cách mạng? Chúng ta thường có thói quen gán cho phía bên kia những tầm nhìn và mục đích mà ta không muốn làm cho bản thân mình. Thực ra, có nét tương đồng đáng kể giữa sự hiện diện của Mỹ và Liên Xô tại Việt Nam. Giống như người Mỹ, điều mà Moskva quan tâm nhất là uy tín của mình trên cương vị một đồng minh và một siêu cường, cũng như tính chính danh trong nước và quốc tế mà uy tín ấy mang lại.

Nikita Khrushchev, người tiên phong xoay trục Liên Xô sang thế giới thứ ba vào thập niên 1950, có rất ít sự quan tâm và kiên nhẫn dành cho Bắc Việt, những người mà ông tỏ ý nghi ngờ, đặc biệt là sau khi Hà Nội bắt đầu nghiêng về phía Trung Quốc trong chia rẽ Xô – Trung.

Việc Bắc Việt Nam đứng về phía Trung Quốc được xem là một động thái chiến thuật khi không có lựa chọn tốt hơn. Chính Khrushchev đã góp phần dẫn đến hành động đổi chiều khi từ chối cung cấp viện trợ, nhưng ông lại đổ lỗi rằng việc đánh mất Bắc Việt là do những mưu mô tưởng tượng của “con cháu gốc Hoa” (Chinese half-breeds) trong hàng ngũ lãnh đạo đảng của Việt Nam. Đối với Khrushchev, vấn đề Việt Nam chỉ là một khía cạnh trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn với Trung Quốc, và cụ thể hơn, chỉ là một khía cạnh khá bên lề.

Tất cả thay đổi khi Khrushchev bị lật đổ trong một cuộc “đảo chính” vào tháng 10/1964. Người kế vị ông, Leonid Brezhnev và Alexei Kosygin, muốn chứng minh rằng họ thực sự trung thành với cam kết khi đồng minh cần cung cấp viện trợ quân sự. Lý do cơ bản là lãnh đạo mới của Liên Xô đang phải đối mặt với sự thiếu hụt tính chính danh. Giúp đỡ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại “chủ nghĩa đế quốc” sẽ giúp họ được công nhận – bởi nhân dân, anh em và đồng minh của họ, cũng như bởi thế giới nói chung – về tư cách là người thừa kế hợp pháp vai trò lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa. Cũng vì lý do tương tự, Moskva đã cố gắng cải thiện quan hệ với Trung Quốc.

Tuy nhiên, Mao Trạch Đông lại chẳng mảy may đáp lại. Điều này càng trở nên rõ ràng trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kosygin hồi tháng 02/1965. Vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã nói về sự cần thiết của một “hành động thống nhất” nhằm giúp đỡ nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Mao đáp lại lời đề nghị ấy bằng sự mỉa mai thù địch, tuyên bố trước Kosygin rằng đối đầu Trung – Xô sẽ kéo dài cả một vạn năm. “Mỹ và Liên Xô giờ đây đang quyết định vận mệnh thế giới,” Mao nói một cách chua chát. “Thế thì cứ đi mà tự quyết định.” Ông tỏ ra không chút bận tâm đến chiến sự leo thang ở Việt Nam: “Vậy thì sao? Có gì là khủng khiếp khi một số người phải chết?” – và phản đối lo lắng của Kosygin về xung đột ngày càng sâu sắc bằng lời kêu gọi lạc quan tiến hành một cuộc “chiến tranh cách mạng.”

Khi quan hệ của Moskva với Trung Quốc tiếp tục xấu đi, Hà Nội cũng chuyển dần từ lập trường thân Trung Quốc sang vị thế trung lập hơn. Đó là bởi vì Bắc Việt cần vũ khí của Liên Xô, đặc biệt là các tên lửa phòng không tiên tiến, để tự bảo vệ mình trước các đợt ném bom của Mỹ. Nhưng Cách mạng Văn hóa Trung Quốc cũng là một phần nguyên nhân. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã phẫn nộ trước việc Bắc Kinh khuấy động chủ nghĩa cực đoan trong cộng đồng người Hoa khá lớn đang sinh sống ở miền Bắc Việt Nam. Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Vinh, vào năm 1967, thời điểm đỉnh cao của sự tham chiến của người Mỹ, nói rằng “Nghe thì có vẻ nghịch lý nhưng người Việt Nam không sợ người Mỹ mà sợ các đồng chí Trung Quốc.”

Căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hà Nội trở nên rõ rệt hơn vào năm 1971, sau chuyến đi bí mật của Henry Kissinger đến Trung Quốc và các thông báo về chuyến thăm sau đó của Nixon. Bắc Việt đã không được hỏi ý kiến và đương nhiên cảm thấy bị phản bội. Nhưng có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn: Người Trung Quốc và người Việt Nam có những quan điểm rất khác nhau về tầm quan trọng tương đối của họ. Các lãnh đạo Trung Quốc coi Bắc Việt là thuộc hạ. Họ đã giúp Bắc Việt. Họ chỉ dẫn cho Bắc Việt. Và cái họ mong chờ là sự thần phục. Nhưng người Việt lại không chịu thần phục. Sau nhiều năm chiến đấu chống lại Mỹ, họ cảm thấy mình có quyền tuyên bố là lãnh đạo cách mạng, ít nhất là ở Đông Nam Á.

Đây là thông điệp mà tướng Võ Nguyên Giáp mang đến Moskva vào tháng 12/1971, khi Bắc Việt đang chuẩn bị cho cuộc tổng  tiến công mùa xuân để giáng đòn cuối cùng vào Nam Việt Nam. Ông Giáp hứa hẹn rằng chiến thắng chung của liên quân Xô – Việt tại Việt Nam sẽ đưa Hà Nội vươn lên hàng ngũ lãnh đạo, đồng thời trở thành đầu cầu của chủ nghĩa xã hội ở thế giới thứ ba. “Chúng tôi muốn thực hiện nhiệm vụ này cùng với Liên Xô, bởi vì không ai có thể làm điều đó mà không có Liên Xô,” ông nói. Các nhà lãnh đạo Liên Xô ủng hộ thông điệp này, đặc biệt là sau khi ông Giáp hứa sẽ cho Liên Xô quyền đóng lực lượng hải quân tại Vịnh Cam Ranh mà khi ấy vẫn do Mỹ kiểm soát.

Có những nguy hiểm trong việc ủng hộ thái độ quân sự cứng rắn của Hà Nội. Sự khởi động lại các trận đánh lớn vào tháng 03/1972 đã đe dọa bước tiến trong hòa hoãn Mỹ – Xô. Sau khi người Mỹ đáp trả các chiến dịch phản công của Hà Nội bằng các đợt tấn công ném bom trên diện rộng, một số người trong giới lãnh đạo Liên Xô, bao gồm Kosygin, đã đề xuất hủy bỏ hội nghị thượng đỉnh sắp tới ở Moskva. “Anh đang đùa à?,” Brezhnev hỏi. “Tại sao không chứ!,” Kosygin đáp. “Đây có thể là thứ bom chúng ta cần.” “Đây là một quả bom, đúng vậy,” Brezhnev nhận xét, “nhưng ai sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn?”

Brezhnev coi hòa hoãn là một thành tựu cá nhân và không sẵn sàng hy sinh nó vì lợi ích của Việt Nam. Tuy nhiên, ông cũng không sẵn lòng gây áp lực với Việt Nam chỉ vì mối quan hệ tốt hơn với Mỹ, ý tưởng mà Kissinger và Nixon gọi là “mối liên hệ” (linkage). Điều mà bộ đôi người Mỹ chưa hiểu rõ là Việt Nam là một yếu tố quan trọng trong nỗ lực trở thành lãnh đạo toàn cầu của Brezhnev. Sự ủng hộ của Liên Xô dành cho Hà Nội là điều khiến Liên Xô trở thành một siêu cường thực sự và ngang hàng với Mỹ.

Nixon cũng từng nhớ lại việc bị bất ngờ trong Thượng đỉnh Moskva tháng 05/1972, khi Brezhnev, “người mà phút trước còn cười nói vỗ vai tôi, bỗng bất chợt la hét giận dữ,” ông cáo buộc Mỹ đã phạm những tội ác khủng khiếp ở Việt Nam. Brezhnev làm thế bởi ông phải bảo vệ uy tín của mình trước các đồng nghiệp và trước Bắc Việt. “Tôi cho rằng tôi hay các đồng chí của tôi chưa từng phải nói chuyện với bất kỳ ai một cách mạnh mẽ và gay gắt như khi chúng tôi nói chuyện với Nixon về Việt Nam,” Brezhnev sau này kể lại cho Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng như vậy.

Quan hệ Trung-Việt thời điểm đó đã xuống một mức thấp mới. Tính đến mùa hè năm 1973, khi Mỹ đang hoàn thành việc rút quân, Lê Duẩn bắt đầu lo lắng về Trung Quốc, nói với Brezhnev rằng ông nghĩ Mao đã lên kế hoạch “xâm chiếm toàn bộ Đông Dương và Đông Nam Á khi thời cơ đến.” Brezhnev tiếp tục hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam – lần này là chống lại người hàng xóm phía bắc của họ.

Chi phí tái thiết sau chiến tranh là rất lớn. Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đã thẳng thắn với Brezhnev về những kỳ vọng của Hà Nội: Sẽ phải có một nguồn viện trợ rất lớn từ Liên Xô để giúp “công nghiệp hóa” Việt Nam, từ đó cho toàn bộ Đông Nam Á thấy lợi ích thiết thực của định hướng xã hội chủ nghĩa. “Chúng tôi chẳng có gì cả,” Lê Duẩn nói với Brezhnev, hàm ý rằng mọi thứ sẽ phải đến từ khối Xô Viết trong vòng 10 đến 15 năm tiếp theo.

Brezhnev đồng ý xóa tất cả các khoản nợ của Hà Nội. Đồng thời, họ vẫn tiếp tục cho vay thêm, và đến năm 1990, Việt Nam đã nhận được hơn 11 tỷ đô la viện trợ, hầu hết trong số đó không bao giờ được hoàn trả. Trợ cấp cho Việt Nam trở thành gánh nặng quá lớn đối với nền kinh tế Liên Xô trong thập niên 1980, góp phần khiến cho Moskva kiệt quệ.

Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc với chiến thắng của phía Liên Xô và Việt Nam, nhưng chí ít là với Moskva, đó là một chiến thắng với cái giá quá lớn. Duy trì các đồng minh phụ thuộc là điều tốt cho uy tín của một siêu cường và cho tính chính danh của các nhà lãnh đạo, nhưng nó không tốt cho ngân sách nhà nước. Chính sách của Nga trong những năm gần đây, đặc biệt là trong các hoạt động tại Syria, gợi nhớ đến những hành động vì tính chính danh trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh ở Việt Nam. Và hậu quả lâu dài của hành động này cũng sẽ không kém phần thảm khốc.

Serge Radigan là Giáo sư Quan hệ Quốc tế tại Đại học Cardiff, Wales.

‘Người Đàn Bà Có Hai Con,’ một truyện tình lạ của Trần Thị NgH

Trần Doãn Nho/Người Việt

Trần Thị NgH là một tác giả bắt đầu nổi tiếng vào những năm cuối cùng của chế độ VNCH.

Chỉ với hai truyện ngắn đầu tiên, “Chủ Nhật” và “Nhà Có Cửa Khóa Trái,” xuất hiện trên hai trong những tạp chí hàng đầu của văn học miền Nam thời đó là Văn và Vấn Đề, tên tuổi bà đã lập tức được văn giới và độc giả đánh giá cao và trở thành một hiện tượng văn học.

Sau 1975, cũng như nhiều nhà văn miền Nam khác, bà ngừng viết một thời gian dài, chỉ có mặt trên văn đàn trở lại vào khoảng giữa thập niên 1990.

Văn chương của bà không chỉ lạ ở câu chuyện mà còn lạ ở cách kể chuyện, cách viết. Mỗi truyện, bà có một cách kể riêng. Và do cách kể mà đôi khi, dù truyện có đề tài tương tự, đọc lên, nghe vẫn khác. “Người Đàn Bà Có Hai Con” là một trong những truyện như thế.

Điểm đặc biệt đầu tiên của truyện: có 18 tiểu mục, mỗi tiểu mục được đặt một nhan đề, lấy những nhóm chữ xuất phát từ các tác phẩm văn chương hay âm nhạc đã trở thành phổ biến: “ngày xưa hoàng thị,” “động hoa vàng” (thơ Phạm Thiên Thư), “mê lộ” (truyện Phạm Thị Hoài), “thiên đường mù” (truyện Dương Thu Hương), “vũng lầy của chúng ta” (nhạc Lê Uyên Phương), “lệ đá xanh” (thơ Thanh Tâm Tuyền), “ru em từng ngón” (nhạc Trịnh Công Sơn), vân vân.

Mỗi tiểu mục đều khớp với từng đoạn “chuyện” của truyện. Bằng một giọng văn tường thuật với nhiều chi tiết hiện thực, khách quan, vừa nghiêm túc, vừa pha pha đôi chút giễu cợt, “Người Đàn Bà Có Hai Con” kể lại một câu chuyện tình, không có tình tiết nào quá éo le, gay cấn, nhưng nhiều khúc rẽ khá bất ngờ. Xin kể lại, tuần tự, tóm tắt vừa đủ để độc giả dễ theo dõi.

Câu chuyện bắt đầu giữa cô giáo và cậu học trò trong một lớp học đêm ở Sài Gòn, nơi dạy tiếng Anh cho những người mang mộng xuất cảnh vào thời điểm đất nước đã phần nào mở cửa. Học trò, 20 tuổi, tên Kiệt, có “khuôn mặt xương xương, lưỡng quyền hơi cao, cằm nhọn, hai mắt nhỏ, tóc phía sau chưa đủ dài mặc dù phần úp trước trán bầu tròn và dày.” Đây là một học trò chăm chỉ, “trầm tĩnh nghe bài giảng, ghi chú cẩn thận và chịu khó phát biểu trong giờ đàm thoại.” Cô giáo, tên Doãn, mới 37 tuổi, nhưng trông “quắt queo,” dáng người “khô khô,” giọng “to, rõ, hơi dữ;” nhan sắc thì “cực kỳ trung bình,” “hàm răng sạch,” ăn mặc giản dị, “không đeo nữ trang, thoa son môi thật nhạt, và đi xe đạp.”

Lúc đầu, cô giáo không mấy thích cậu học trò này, nhưng về sau, khi vào lớp mà chưa thấy Kiệt, thì cảm thấy “hơi hẫng.” Riêng cậu học trò thì lại tò mò, “thấy tung tích cô thật bí mật, cách hành xử không giống các giáo viên khác. Mạnh mẽ như đàn ông trong lúc giảng dạy, cười nói thân tình với các đồng nghiệp trong phòng giải lao nhưng rồi thu lại nhỏ xíu lạnh ngắt khi chỉ còn lại một mình.” Vì thế, cậu “quan sát cô mọi góc cạnh, theo dõi từng động tác.” Không những thế, sau giờ học, cậu còn “kín đáo đạp xe theo phía sau” cô, cố giữ một “khoảng cách đủ xa để vẫn còn thấy cô bóng nhỏ đường khuya lẩn trong dòng xe cộ,” và cảm thấy cô giáo “tầm thường và lẻ loi đến tội nghiệp.”

Khi cô giáo tổ chức thêm lớp học ở nhà. Kiệt ghi tên theo học ngay. Do gần gũi, Kiệt nhìn thấy cô giáo trông trẻ hơn, hay mặc quần din xắn hai gấu lên khỏi mắt cá, có điều, “ngực cô lép xẹp.” Cô có một đứa con gái 10 tuổi tên là Bobo. Khi không có lớp, cậu lân la đến chơi nhiều lần. “Vào những lần xé lẻ đến thăm riêng cô giáo, Kiệt thấy cô Doãn còn nhiều ngóc ngách khác, im ỉm, đen tối và gây tò mò.”  Dần dà, nó trở thành người thân, được cô mời ăn cơm gia đình, được “chở Bobo đi học” và có lúc, tình nguyện đưa đón cô “đi dạy khi cô ốm hoặc trời mưa.”

Thế rồi, Kiệt xin ở lại nhà cô. Và thế là, cô giáo Doãn, học trò Kiệt và Bobo trở thành một bộ ba: người đàn bà có hai con. Ba người “thường đi chơi chung cuối tuần, Kiệt chở bé Bo còn cô Doãn đạp xe một mình.” Trong nhà, Kiệt hành xử như một người con giỏi giang: xách nước tưới cây, phụ rửa chén bát, lau nhà, ủi đồ, có lúc còn cắt may áo cho cô, chẳng khác chi một cậu bé giúp việc.

rần Thị NgH tên thật Trần Thị Nguyệt Hồng. (Hình: damau.org)

Một hôm, Kiệt “đòi ba mẹ con ngủ chung.” Cô giáo tuy có vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn không từ chối, để xem thử thằng nhỏ giở “trò quái quỷ” gì. Và suốt đêm đó, cô “mở mắt thao láo quan sát Kiệt, quan sát mình. Ðến gần sáng thì cô mềm người đi.” Từ đó, cậu học trò khám phá thấy một phía khác của cô giáo. “Ðó là một người đàn bà cô đơn nhưng làm mặt ngầu.” Còn về phía cô giáo, cô đổi tính hẳn, trở nên “thuần thục dịu dàng thấy rõ, nét cười sém chút nữa là chập vào khóe mắt vui.”

Đến đây thì đúng là một chuyện tình được lập lại: vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng ba mươi mấy năm trước đó. Giống nhưng rất khác: cô Doãn không lãng đãng, tình tứ, dằn vặt bằng cô giáo Trâm; và cậu học trò Kiệt không thuộc “típ”con nhà giàu, ăn chơi, và mang nét lãng đãng “bụi” thời đại như Minh của Nguyễn Thị Hoàng. Và cái khác quan trọng hơn: cô giáo Trâm độc thân, trong lúc cô giáo Doãn đã có con.

Chẳng thế mà khác với Nguyễn Thị Hoàng, vòng tay học trò của Trần Thị NgH có một khúc gập hoàn toàn bất ngờ. Vì chỉ có nửa năm sau, thì vòng tay học trò Kiệt buông: cậu lên đường đi định cư ở Úc cùng với gia đình. Cô giáo Doãn vừa “thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng,” vừa cảm thấy “cái phần đời bấy lâu nay trĩu trĩu bỗng tênh tênh chao sang một phía như bị mất thăng bằng.”

Dằng dặc cho mãi đến sáu năm sau, cậu học trò mới trở về. Nhưng vật đã đổi và sao đã dời! Cậu học trò nghèo hèn ngày xưa trở thành Việt kiều, tóc thưa, hơi hói, xức nước hoa, “một chàng trai 26 tuổi, có bằng kỹ sư điện tử trở về từ nước ngoài, một người đàn ông đúng tiêu chuẩn mơ ước của các cô gái Việt Nam.”

Bé Bo, cô em bé bỏng, là “cô thiếu nữ đôi tám hai mắt nheo nheo rất nghịch với cách nói chuyện chỏi chỏi.” Và cô giáo Doãn, 43 tuổi, “da dẻ khô queo, tóc cắt ngắn, các cơ mặt đã dãn ra” và “xấu, lỗi thời.” Kiệt tìm thấy ở cô giáo ngày xưa có cái gì không thành thật, “với cái mu rùa an toàn bà ta ngoan cố chui ra chui vô mỗi ngày, cái tung tích bí ẩn mà hồi đó đã hút nó vào mê hồn trận.”

Sau đó, Kiệt năm nào cũng về thăm quê hương và rồi, xin làm việc luôn trong nước. Cảnh người đàn bà hai con đèo nhau đi dạo ngày nào, bây giờ biến thành một cảnh khác hẳn. Kiệt, “đầu sói sọi thắt cà-vạt ở villa đi xe Mercedes Benz có tài xế lái tay xách cặp Samsonite đeo đồng hồ Rado mang kính mát Rayban,” cô giáo Doãn, “mang kính lão,” khi dạy học, “một tay cầm quyền sách đang dạy tay kia đút túi quần, mắt nhướng nhướng đầu gật gật, giọng chùng,” và cô thiếu nữ Bobo lớn, đẹp, đàn hay khiến Kiệt lúc đầu chỉ muốn chinh phục cho thỏa tự ái, “về sau trở thành đam mê dằn vặt chịu không thấu.”

Vòng tay học trò trở thành vòng tay Việt kiều. Và người đàn bà hai con trở thành tình mẹ duyên con! Có thể nói, qua truyện ngắn này, Trần Thị NgH đã vẽ phác ra một trớ trêu mang đầy tính thời đại, một trong những nét lạ lùng của xã hội Việt Nam sau cơn địa chấn “thống nhất mà chia lìa” của biến cố Tháng Tư, 1975.

Trần Thị NgH, tên thật Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh trưởng ở miền Nam Việt Nam. Trước 1975, cộng tác với Văn, Vấn Đề, Thời Tập, Thời Văn, Tiền Tuyến… Các tác phẩm đã xuất bản: “Những Ngày Rất Thong Thả” (1975), “Tập truyện ngắn Trần Thị NgH” (1999), “Lạc Đạn và 10 truyện ngắn” (2000), “Nhăn Rúm” (2012), “Ác Tính” (2018). Hiện sống rày đây mai đó, giữa Việt Nam và nước ngoài.

Tạp chí văn chương mạng hải ngoại Da Màu (damau.org) đã thực hiện một chuyên đề về Trần Thị NgH. Độc giả muốn tìm thêm về nhà văn độc đáo này, xin vào đường dẫn: https://damau.org/category/chuyen-de/chuyen-de-tran-thi-ngh

Trần Doãn Nho

Nhà khoa học nữ gốc Việt trong top ảnh hưởng nhất thế giới

Giáo sư Nguyễn Thục Quyên. 
Ảnh do nhân vật cung cấp.

Tuổi thơ theo mẹ đi khắp nơi để kiếm sống, sang Mỹ thì bị bạn bè chê cười vì không biết tiếng Anh, nhưng Nguyễn Thục Quyên đã vượt qua tất cả và trở thành một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới. 

Giáo sư Nguyễn Thục Quyên sinh ra ở Buôn Ma Thuật (Đắk Lắk) trong một gia đình thượng lưu gồm 5 anh chị em. Sau năm 1975, cha đi cải tạo, mẹ chị – một cô giáo dạy toán cấp 2, dẫn dắt đàn con đến các vùng kinh tế mới như Phước Lâm, Long Điền, Đất Đỏ, Phước Tỉnh và Vũng Tàu để sinh nhai. 

Lúc 5-6 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước… Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đình mở tiệm phở ở Bến Đá – Vũng Tàu, Quyên mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hãn.

Nhọc nhằn nơi xứ người

Tháng 7/1991, chị cùng bố mẹ và 5 anh chị đến Mỹ định cư. Hai năm đầu, các anh chị em của chị Quyên cứ đòi về Việt Nam vì không biết tiếng Anh và phong tục tập quán Mỹ. Nhưng chị thấy ổn vì được làm điều mình thích mà không sợ người khác dị nghị. 

“Khi còn ở Việt Nam, gia đình đã vất vả rồi, nên khi sang Mỹ tôi phải cố gắng hơn rất nhiều để có được cuộc sống tốt hơn”, chị Quyên chia sẻ. Để tự khẳng định bản thân nơi đất khách quê người, chị đã quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách đăng ký ở ba trường trung học tại ba thành phố. Ở Mỹ, tiếng Anh được học miễn phí.

Vất vả với bao tủi nhục khi bị nhiều người coi thường càng khiến chị có thêm động lực vươn lên. 

“Có giáo viên chế nhạo tôi trước cả lớp vì khả năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ còn nói thẳng với tôi hãy về nước của cô đi”, chị nhớ lại và cho biết ở Mỹ vẫn còn một số người phân biệt kỳ thị như vậy.

“Thậm chí có đồng nghiệp lúc ở trường không bao giờ nói chuyện với tôi mặc dù tôi đã cố gắng để nói chuyện với anh ta vài lần”, nữ giáo sư nói.

Tháng 9/1993, người cô họ cho chị ở cùng nhà, nhưng chị phải dọn dẹp, nấu nướng, đi chợ và chạy việc vặt cho cô. Thời gian này, chị xin học ở Đại học Santa Monica nhưng không được nhận vì tiếng Anh kém. Chị đã năn nỉ nhà trường cho học thử một kỳ và hứa nếu không học được sẽ trở về trường trung học để học thêm tiếng Anh. Ban ngày đi học, ban đêm chị tìm lớp học thêm ở trung tâm dạy tiếng Anh miễn phí. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học. 

Thấy bố mẹ vất vả làm trong nhà hàng và ở hãng may, chị không cho phép bản thân thất bại mà cố gắng gấp đôi, gấp ba so với những bạn cùng trang lứa. Để có tiền học, chị xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến 22h mỗi ngày, nhưng vẫn không đủ nên phải vay thêm tiền của Chính phủ.

Tháng 9/1995, chị xin chuyển lên Đại học Califonia, Los Angeles và làm thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. Chị xin làm nghiên cứu nhưng không có phòng thí nghiệm nào nhận. Sau khi tốt nghiệp bằng đại học Hóa năm 1997, chị nộp đơn học cao học. Chỉ trong một năm chị đã có bằng thạc sĩ ngành Lý – Hóa và quyết định học tiếp tiến sĩ. Thật bất ngờ, cuối năm của chương trình này chị là một 7 nghiên cứu sinh xuất sắc của Đại học Califonia, Los Angeles được trao học bổng.

Tháng 6/2001, chị nhận bằng tiến sĩ và ra trường trước cả những sinh viên chị từng rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ trước đây. Ra trường chị đạt giải thưởng xuất sắc ngành Lý – Hóa. Tháng 9/2001, được giải thưởng của liên bang đi tu nghiệp ở phòng thí nghiệm quốc gia nhưng chị từ chối và đến làm ở Đại học Columbia, New York.

Ba năm sau chị bắt đầu làm việc ở Đại học California, Santa Barbara và mất hơn hai năm xây dựng hai phòng thí nghiệm riêng. Sau 11 năm, chị đã có 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Chị còn xin hơn 10 triệu USD cho những dự án nghiên cứu, được mời tới hơn 200 địa điểm trên thế giới để thuyết trình cũng như nhận nhiều giải thưởng lớn cho công trình nghiên cứu.

“Bạn bè tôi ở Việt Nam vẫn thường bảo hồi ở quê học dốt thế mà sao qua Mỹ học giỏi ghê thế. Tôi trả lời rằng ngày xưa làm gì có thời gian để học vì còn phải phụ giúp gia đình”, vị giáo sư nói.

Pin năng lượng mặt trời làm từ chất nhựa dẫn điện Nghiên cứu 
trong phòng thí nghiệm của giáo sư Nguyễn Thục Quyên. 
Ảnh do nhân vật cung cấp.

Những vất vả của phụ nữ khi làm khoa học

Giáo sư Quyên tâm sự, có được ngày hôm nay là nhờ sự dìu dắt của mẹ và người cậu ruột khi hướng cho chị đi theo con đường tốt nhất có thể. Trong khi bố cho rằng, con gái thì nên lấy chồng, không cần học, thì mẹ ngược lại. Chị còn nhớ ngày học xong lớp 12, chị đã xác định sẽ ở nhà và tính chuyện lấy chồng, nhưng mẹ vẫn đưa chị lên Sài Gòn để thi đại học. 

“Mẹ đưa tôi lên Sài Gòn ở nhà bà ngoại để thi đại học, nhưng tôi không muốn. Lớn lên và học ở trường làng tôi thấy ở tuổi 18 người ta đã lấy chồng và có con rồi”, chị nói.

Người cậu đã gọi chị đến nói chuyện hơn hai giờ, với mục đích khuyên chị đi thi và cố gắng vào đại học. 

“Tại sao có cơ hội như vậy mà cháu lại từ chối. Học đại học sau này cháu sẽ có công ăn việc làm ổn định, có sự nghiệp, nếu lấy được người tốt thì không sao…”, chị kể lại lời ông cậu. 

Lớn lên, người chị hâm mộ đó là bà Marie Curie, bởi thời đó khoa học gia là nữ rất ít. Bà chính là tấm gương vượt khó để chị tiếp tục cố gắng cho nghiên cứu khoa học.

Hơn 11 năm làm việc ở Đại học California, Santa Barbara, chị làm khoảng thời gian 15 tiếng mỗi ngày. Bên cạnh việc giảng dạy, chị còn làm nhiều công việc khác như biên tập báo khoa học, tổ chức hội nghị khoa học quốc tế, xin tiền dự án nghiên cứu trả lương, học phí, và bảo hiểm y tế cho sinh viên (mỗi nghiên cứu sinh tốn khoảng 100.000 đôla mỗi năm), hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu, giúp sinh viên viết bài đăng báo, làm trong ban xét lên lương và lên chức cho tất cả giáo sư trong trường, ban tuyển dụng giáo sư… 

Chị chia sẻ, làm khoa học đã khó nhưng phụ nữ trong lĩnh vực này càng vất vả hơn, bởi ngoài sự nghiệp, họ còn phải lo cho gia đình. Ngay bản thân chị, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đôi khi vẫn không nhận được sự tôn trọng của đồng nghiệp nam giới. 

“Cũng may tôi có người chồng tâm lý và thông cảm, anh dạy hóa hữu cơ cùng trường, luôn hỗ trợ nên tôi có thêm động lực để giảng dạy và nghiên cứu”, nữ giáo sư nói.

“Phần đông mọi người nghĩ con gái thì nên lo cho chồng con, dọn dẹp nhà cửa và không nên có sự nghiệp riêng. Tôi muốn cho những người phụ nữ khác biết là họ có thể làm cả hai. Tôi muốn làm những điều hữu ích cho xã hội”, chị nói.

Chị vẫn còn nhớ như in thời điểm bắt đầu vào học trong trường. Lúc đó chị xin vào phòng thí nghiệm nhưng không được vì nhiều người nghĩ chị không thể làm được điều gì và khuyên rằng “nghiên cứu không dễ dàng và không phải ai cũng làm được. Bạn nên tập trung để học tiếng Anh đi”. Mãi sau này, có vị giáo sư thấy chị có những câu hỏi hay trong lớp nên khuyến khích theo đường nghiên cứu. Biết được tin này chị rất vui vì từ bé đã thích tìm tòi những điều mới.

Đầu năm 2004, chị đi phỏng vấn ngành hóa ở một số trường đại học. Chị cũng rất sợ vì những trường này ngành hóa rất ít hoặc không có nữ giáo sư. 

“Con đường đi đến thành công ở Mỹ không phải dễ dàng vì quốc gia này thường thu hút nhà khoa học hàng đầu trên thế giới nhưng bản chất người Việt Nam thông minh và chăm chỉ”, vị giáo sư nói và cho rằng có công mai sắt có ngày nên kim. 

Thích về Việt Nam

“Tôi nhớ Việt Nam lắm. Nếu có thời gian là tôi về ngay, bởi hiện nay anh em họ hàng, nhất là ông cậu – người đặt viên gạch đầu tiên trong cuộc đời khoa học của tôi vẫn ở quê hương”, nữ giáo sư tâm sự.

Lần đầu tiên chị và mẹ về Việt Nam là năm 1999 để thăm bà ngoại trong 3 tuần. 9 lần về nước ngoài dự hội nghị khoa học, chị dành thời gian để thăm gia đình.

Chị cho biết, thời gian 21 năm sống ở Việt Nam, chị nhớ món ăn thuần túy Việt Nam và các bài hát Việt, nên lần nào về nước chị cũng nhờ cậu mợ dẫn đi xem ca nhạc. 

“Tôi thích nhạc dân ca như bài Quê hương, Ai đưa con sáo sang sông“, chị nói. 

Khi hỏi ý định về Việt Nam sinh sống, chị nói: “Có lẽ khi nào về hưu tôi mới về nước, vì quê hương vẫn chưa có đủ cơ sở vật chất điều kiện tốt để tôi có thể nghiên cứu”, chị nói và cho biết 7 phòng thí nghiệm riêng của chị trị giá khoảng 4 triệu đôla.


Bên cạnh giải thưởng là một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới ngành khoa học vật liệu, chị còn nhận nhiều giải thưởng khác như:

Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Alexander von Humboldt-Foundation của Đức năm 2015; 
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ 2010, 
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Alfred P. Sloan Foundation 2009; 
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Camille Dreyfus Foundation 2008; 
Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Harold J. Plous Memorial Award and Lectureship 2007.

Phạm Hương

Nguồn: http://khaiphong.net/showthread.php?6784-Nh%E0-khoa-h%E1%BB%8Dc-n%E1%BB%AF-g%E1%BB%91c-Vi%E1%BB%87t-trong-top-%E1%BA%A3nh-h%C6%B0%E1%BB%9Fng-nh%E1%BA%A5t-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi

40 KHOA HOC GIA GỐC VIỆT