Những dấu ấn lịch sử của trường nữ sinh đầu tiên và duy nhất tại Hà Nội

Trường THCS Trưng Vương

Trường Nữ sinh đầu tiên và duy nhất ở xứ Bắc kỳ năm xưa, nay là Trường THCS Trưng Vương Hà Nội, là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô song ít ai biết được đầy đủ những tên gọi, hệ thống dạy-học cũng như những nét riêng biệt khác nữa trong bề dày lịch sử hàng trăm tuổi của ngôi trường.

Nằm trên một nền đất vuông vức ngay ngã tư phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội (thời Pháp là đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau), Trường THCS Trưng Vương được nhiều thế hệ người Hà Nội nói chung và giới học sinh nói riêng tự hào nhắc tới như một ngôi trường nổi tiếng đào tạo nữ sinh Việt Nam và là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô. Tuy nhiên ít ai biết được ngôi trường này trước kia có tên gọi là Trường trung học Paul Bert – tên chính danh của trường. Còn các tên gọi khác theo hệ đào tạo là Trường Cao đẳng tiểu học Nam sinh (Trường Con Trai – École des Garçons), Cơ sở giáo dục Nữ sinh người Việt (Institution de Jeunes filles annamites), Trường Sư phạm nữ sinh người Việt (École Normale des Institutrices annamites), Trường Trung học nữ sinh người Việt (Collège de Jeunes filles annamites), hay trường được gọi theo tên phố là Trường Nữ sinh Đồng Khánh (École de Jeunes filles de Đồng Khánh), vì mặt chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh và nhiều nét riêng biệt khác nữa.

Lịch sử tên gọi và kiến trúc
Năm 1886, trường trung học công lập đầu tiên được thành lập ở xứ Bắc kỳ (Tonkin) mang tên Trường Trung học Paul Bert (Collège Paul Bert) dành cho số ít con em người Pháp là quan chức thực dân, sĩ quan, viên chức đầu tiên đến Hà Nội, trường thực hiện dạy hai cấp Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học với mô hình tổ hợp trường nam sinh và nữ sinh. Trường Paul Bert tiếp nhận dạy hầu như toàn bộ số học sinh Pháp ở Bắc kỳ. Trước là dạy chương trình tiểu học rồi dạy đón chuyển tiếp chương trình Trung học[1]. Ngôi trường được xây dựng trong những năm 1897-1898, trên thửa đất ở ngã tư đại lộ Đồng Khánh, dài 100 mét và đại lộ Carreau, dài 87 mét, tức phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội ngày nay[2].

Ngôi trường được thiết kế và xây dựng theo lối kiến trúc cũ, mái ngói một tầng, phần giữa và hai cánh ở hai đầu xây sâu hơn, rộng hơn và lên cao tầng. Bên cánh phải (nhìn từ trường ra cổng) dành cho Giám hiệu và bên cánh trái dành cho các phòng Quản lý trường, chủ yếu theo nguyên tắc đối xứng về xây dựng[3].

Bản vẽ phối cảnh mặt chính của Trường Đồng Khánh năm 1897, phần trán tường, trên cửa vòm ở giữa có đắp nổi chữ “Ecole des Garçons” – Trường học con trai – Ảnh trích xuất từ sách Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française.

Theo thiết kế ban đầu, ngôi trường được xây dựng như một tổ hợp trường học nam sinh và nữ sinh. Khu chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh là khu trường học nam sinh nên ngay trên trán tường ở chính giữa, mặt chính có đắp nổi chữ “École des Garçons” – Trường học Nam sinh. Mặt chính ra đại lộ Đồng Khánh có ba cổng mang ba số 26, 28 và 30. Địa chỉ giao dịch chính của trường là số 30, Đại lộ Đồng Khánh, Hà Nội.

Những bước chuyển mình
Năm 1904, Trường Nữ sinh Pháp chuyển sang cơ sở nằm trên phố Thợ Nhuộm (rue des Teinturiers), rồi phát triển thành một trường độc lập dành riêng cho học sinh nữ người Pháp cơ sở ở đại lộ Hai Bà Trưng (boulevard Rollandes). Từ đây Trường Paul Bert (phố Đồng Khánh) chỉ còn học sinh nam nên còn gọi là Trường Nam sinh, hay Trường học con trai. Trường Nam sinh rất nổi tiếng, một số bản đồ thành phố Hà Nội đương thời đã cho ghi vào phần chỉ dẫn là Trường Nam sinh (École des Garçons).

Bản vẽ phối cảnh mặt bên của Trường Đồng Khánh năm 1897 – Ảnh trích xuất từ sách Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française.

Năm 1912, Chính quyền Pháp ở Đông Dương có kế hoạch cải tạo Trường Paul Bert trên phố Đồng Khánh và nâng bậc học thành trường Trung học Đông Dương[4] ở Hà Nội. Tuy nhiên, vì địa điểm này quá chật hẹp nên dự án không thực hiện được phải chuyển về xây dựng ở Đại lộ République, nay là phố Hoàng Văn Thụ. Trường Trung học Đông Dương là tên gọi ban đầu của Trường Trung học Albert Sarraut, ngày nay là trụ sở của Ban Đối ngoại và Ban Tổ chức Trung ương Đảng[5].

Năm 1917, theo Nghị định 2229, ký ngày 10/11/1917, chính quyền Pháp mở Cơ sở giáo dục Nữ sinh Việt Nam (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc học Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học[6]. Các em được học các môn chính là chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lý, luân lý, phép xã giao, vệ sinh với các cô giáo người Pháp, còn các môn học nữ công gia chánh như quản lý gia đình, may vá, thêu, nấu ăn… với các cô giáo người Việt. Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi.

Việc mở các trường nữ học đòi hỏi phải tuyển giáo viên là nữ để dạy môn tiếng Việt và vệ sinh phụ nữ. Ở Bắc kỳ, nữ giáo viên người Pháp không biết tiếng Việt nên rất khó khăn trong việc chuyển tải kiến thức và nữ giáo viên người Việt thiếu rất nhiều. Thời gian đầu chỉ có ít nữ giáo viên người Pháp và tuyển được một vài cô tốt nghiệp Trường Tiểu học Hàng Cót[7].

Vì những khó khăn về giáo viên, năm 1917, chính quyền Pháp cho mở Cơ sở Đào tạo giáo viên nữ người Việt (École normale d’Institutrices annamites), cơ sở này ban đầu hoạt động song song như một cơ sở phụ trợ cho Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt[8].

Về trường, lớp, năm 1918, chính quyền Pháp cho xây dựng khu trường học nằm trên phố Trần Phú (thời Pháp thuộc là phố Félix Faure), nay là trụ sở của Bộ Tư Pháp dành cho Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt của Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh bản xứ.

Trong suốt khoảng chục năm, số học sinh các trường Pháp và trường bản xứ tăng lên, nhu cầu học sinh nội trú cũng tăng, khiến chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng phải cho xây dựng, sửa chữa, mở rộng nhiều trường, lớp, phòng ăn, phòng ngủ đáp ứng nhu cầu của cha mẹ học sinh.

Bản vẽ dự án xây mới và mở rộng công trình Trường Đồng Khánh (3/1927) – Ảnh: Lưu tại Trung tâm Lưu trữ số I Nhà nước

ự án xây dựng và mở rộng Trường cao đẳng tiểu học Nam sinh ở phố Đồng Khánh được thực hiện trong những năm 1927-1928. Ngôi nhà chính, phần một tầng được cơi cao thành hai tầng đều để tầng trên làm phòng ngủ cho học sinh nội trú và tầng dưới làm phòng học. Có câu chuyện không vui là khi xây dựng lên cao tầng, sàn gác bê-tông bên trái bị sập đổ ngay khi mới dỡ giàn giáo chống bên dưới, may không xảy tai nạn chết người. Lúc đó, người ta quy cho nguyên nhân sự cố đó là do xi-măng mất phẩm chất và phải làm lại ngay trong năm 1928[9].

Cùng đợt này, Trường Đồng Khánh có xây mới và mở rộng thêm một số hạng mục:

Nhà ăn ở tầng dưới và phòng y tế trên gác ở cánh nhà bên trái, xây tiếp vào ngôi nhà chính kéo dài, dọc theo sân.
Nhà vui chơi và lớp học (hai tầng ở cuối sân).
Các nhà phụ, bếp, nhà tắm, vệ sinh… và nhà liền tường với nhà Giám hiệu.
Ý định ban đầu từ thiết kế là theo nguyên tắc đối xứng trong xây dựng, nhưng sau khi xây mở rộng cánh nhà bên trái dọc theo sân và nhìn ra phố Lý Thường Kiệt để chừa phần sân thoáng rộng, sát cổng bên thì trên thực tế không còn đối xứng nữa.

iờ tan học – Trường Sư phạm Nữ sinh người Việt tại Hà Nội (Ảnh trích từ sách Le Tonkin scolaire, 1931)

Giữa tháng 8 năm 1928, công trình xây dựng và mở rộng ngôi trường này hoàn thành, được bàn giao cho nhà trường để kịp khai giảng ngày 11 tháng 9. Ngay năm học này, các trường Pháp và bản xứ có sự hoán đổi. Trường Cao đẳng Nữ sinh Pháp rời chuyển từ phố Hai Bà Trưng về phố Trần Phú. Trường Trung học Paul Bert (hay Cao đẳng Tiểu học Nam sinh Pháp) rời chuyển từ phố Hàng Bài về ăn, ở, học thế chỗ Trường Cao đẳng nữ sinh Pháp ở phố Hai Bà Trưng[10]. Toàn bộ ngôi trường Paul Bert vừa được xây thêm, mở rộng dành riêng cho Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh người Việt gồm Cơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo giáo viên Nữ người Việt chuyển từ phố Trần Phú về phố Hàng Bài, theo dự án kiện toàn và chuyển đổi trường, lớp do Nha Học chính Đông Dương tại Hà Nội báo cáo và lập ngày 31 tháng 12 năm 1925.

ơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt (Hà Nội) trong giờ nữ công (Ảnh trích từ sách Le Tonkin scolaire, 1931)

Năm 1937, do chương trình học thay đổi, Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh bản xứ ở Đại lộ Đồng Khánh, gồm Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt đổi tên, gọi là Trường Trung học Nữ sinh Việt Nam (Collège de Jeunes Filles Annamites), hay Trường Nữ Trung học Đồng Khánh.

Nghị định của Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Trích từ Việt Nam dân quốc Công báo, số 6, thứ bảy, 27/10/1945, tr.67.

Năm 1943, Trường nữ Trung học Đồng Khánh sơ tán về Hưng Yên. Đến tháng 10/1945, trường dọn về khu học Hoàng Mai, khu Đại lý Hà Nội.

Ngày 14/2/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe ra Nghị định, số 85 đổi tên những trường trung học tại Bắc Bộ. Theo đó, Trường Nữ Trung học Hà Nội đổi tên gọi là Trường Trung học Hai Bà Trưng[11] (nay là Trường Lê Ngọc Hân, phố Lò Đúc).

Sau tháng 8/1945, cả khu Trường Hàng Bài trở thành trụ sở Tổng trấn Bắc bộ của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa[12].

Đến đầu năm 1948, Cơ sở trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học. Trường Nữ Trung học phải chuyển đến phố Hàng Than (nay là Trường Nguyễn Công Trứ) và đến cuối năm, trường chuyển về cơ sở số 9 phố Hai Bà Trưng (nay là cơ sở của Trung tâm Giáo dục Kỹ thuật tổng hợp số 4, thuộc Sở Giáo dục Hà Nội)[13]. Năm ấy cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương[14].

Việc mang tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương, hay Trường Nữ sinh Trưng Vương được ghi lại trong những bài viết và hồi ký của nhiều thế hệ nữ học sinh ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn như một dấu ấn đáng nhớ của ngôi trường. Trong bài viết “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu…”, hồi ký của một học sinh nam Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn tự nhận mình có rất nhiều thiên đàng mơ mộng có viết:

Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925 [??], trên con đường Đồng Khánh, phía nam Hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (Collège de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương[15].

Năm học 1950-1951, ngôi trường Hàng Bài bắt đầu được trưng dụng trở lại làm trường học. Tuy vậy, Trường Trung học Trưng Vương chưa về đây khai giảng năm học này mà là Trường Trung học Nguyễn Trãi[16]. Trường Trưng Vương vẫn tiếp tục hoạt động ở số 9, phố Hai Bà Trưng đến năm 1956. Bước vào năm học 1956-1957, Trường Trưng Vương mới chính thức về “nơi cội nguồn” ở phố Hàng Bài sau hơn 10 năm “lưu lạc”.

Những mốc son lịch sử của trường Trưng Vương rất có ý nghĩa với những năm 2016 và 2017:

130 năm: Thành lập Trường Trung học Paul Bert (1886-2016)
120 năm: Ngôi trường Trung học Paul Bert, hay còn gọi là Trường Đồng Khánh được xây dựng trên ngã tư đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau (1897-2017).
100 năm: Thành lập Cơ sở Giáo dục Nữ sinh bản xứ và Trường Sư phạm Nữ sinh bản xứ – tiền thân của Trường Nữ sinh Đồng Khánh hay Trường Nữ sinh Trưng Vương (1917-2017), ngày nay là Trường THCS Trưng Vương.
90 năm: Ngôi trường Đồng Khánh được xây mới và nâng cấp từ nhà một tầng thành khu nhà hai tầng có mô hình kiến trúc như hiện nay (1927-2017).
80 năm: Cơ sở Giáo dục Nữ sinh và Trường Sư phạm Nữ sinh của Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh Đồng Khánh được đổi tên, gọi chung là Trường Trung học Nữ sinh người Việt (1937-2017).
70 năm: Trường Nữ Trung học đổi tên là Trường Trung học Hai Bà Trưng (năm học 1946-1947)
Năm 1948: Trường đổi tên là Trường Nữ Trung học Trưng Vương.
60 năm: Trường Nữ Trung học Trưng Vương chuyển về “cội nguồn” trên phố Hàng Bài, tức đại lộ Đồng Khánh xưa kia (năm học 1956-1957).
Tác giả: Nguyễn Văn Trường
Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) Hà Nội
Đăng dưới sự đồng ý của tác giả.

*Chú thích:

[1] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 71-72. – Tương đương với bậc Tiểu học và PT cấp II hay TH Cơ sở hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).

[2] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.86-87.

[3] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.

[4] Tương đương cấp III hay PTTH hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).

[5] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.90.

[6] Giáo dục Pháp Việt ở Bắc kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Trần Thị Phương Hoa, Hà Nội, 2011.

[7] Trường Hàng Cót tên gọi chính danh là Trường nữ sinh tiểu học Brieux, hay Trường Brieux, nay là Trường THCS Thanh Quan, phố Hàng Cót quận Hoàn Kiếm Hà Nội.

[8] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 45.

[9] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.

[10] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 72.

[11] Theo Việt Nam dân quốc Công báo, số 9, thứ bảy, 2/3/1946, tr.124.

[12] Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Nhà nước: Trường Trưng Vương – một trong những trận địa chống Pháp oanh liệt năm 1946,
http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16481/language/vi-VN/Default.aspx

[13] 75 năm mái trường Trưng Vương (Hàng Bài) – 1917-1992, nhiều tác giả, Hà Nội, NM in Thống nhất, 1992, tr.11.

[14] Trẻ, http://baotreonline.com/i-hi-toan-cu-trng-vng/

[15] http://www.trieuthanhweeklymagazine.com/vanchuong/vc1/hontoivedau.html

[16] Ngày 4 tháng 10 năm 1950, Trường Trung học Nguyễn Trãi khai giảng và hoạt động tại cơ sở Trường Hàng Bài, Hà Nội đến hết năm học 1955-1956, ngày nay là Trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình, Hà Nội.

NỖI ĐAU NÀO LỚN HƠN?

NGUYỄN VŨ BÌNH

TCDM pv Nhà báo Nguyên Vũ Bình – 04-02-2022 – MP3 Download, Play, Listen Songs – 4shared – Vinh Hoang (Xin bấm link để nghe)

Hàng năm, cứ đến ngày 30/4 là nhà cầm quyền Việt Nam lại tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng các lễ mít tinh, diễu hành, diễu binh, duyệt binh. Đối với đồng bào người Việt hải ngoại, và rất nhiều đồng bào miền Nam ở trong nước, đây là ngày quốc hận, là nỗi đau chưa hề nguôi ngoai.

Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.

Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản

Hóa ra, có một sự thật có hệ thống từ khi đảng cộng sản xuất hiện đã chi phối và không chế hoàn toàn dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Sự thật này khởi nguồn từ việc cướp chính quyền, tiêu diệt toàn bộ các đảng phái không phải cộng sản; tạo ra cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất; cải tạo công thương nghiệp miền Bắc; Nhân văn Giai phẩm; cưỡng chiếm miền Nam; đày đọa hàng triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa; cải tạo công thương nghiệp miền Nam; hai lần đổi tiền để cướp của người dân; cướp đất đai của người dân tạo ra hàng triệu dân oan trên cả nước (thời kỳ đổi mới); đàn áp mọi tôn giáo, sắc tộc….một sự liệt kê chưa đầy đủ này đã làm câm họng tất cả những kẻ nói rằng chủ trương đường lối là đúng, thực hiện sai; bản chất là đúng, là tốt nhưng quá trình thực hiện có sai lầm; thế hệ trước là đúng, là tốt, sau này mới tha hóa, xấu xa…

Những sự thật này đã đẩy bên thắng cuộc tới tận cùng của nỗi đau: cả cuộc đời, cả sự nghiệp của họ là vứt đi, thậm chí có tội với dân tộc, với đất nước. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.

Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?

Hà Nội, ngày 25/4/2015

N.V.B                                                           

47 NĂM NHÌN LẠI

Nguyễn như Thành

Đã 47 năm trôi qua….nhìn lại những ngày tháng cũ:
-17/3/1975 VNCH mất Kon Tum & Pleiku
-19/3/1975 Quảng Trị bị giặc chiếm
-23/3/1975 Quảng Ngãi mất
-26/3/1975 Huế rơi vào tay giặc
-1/4/2975 Tuy Hoả Nha Trang không còn nữa

  • 10/4/1975 ở Xuân Lộc Lữ Đoàn 2 Dù & Sư
    Sư Đoàn 18 chận được VC
  • 16/4/1975 mất Phan Rang
  • 21/4/1975 Xuân Lộc thất thủ
  • 28/4/1975 Phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích
  • 30/4/1975 Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10h45 trong tủi nhục…
    Từ đó đã 47 năm với bao bi kịch:
  • hơn 1 triệu tù nhân cải tạo, với hơn 200
    ngàn tù nhân bị bức tử với nhiều lý do…
  • thảm trạng thuyền nhân với gần 500 ngàn người đã chết trên đường tìm Tự Do với nhiều lý do
  • Cải Tạo Công Thương nghiệp chỉ là hình thức cướp của bần cùng hoá nhân dân miền Nam cho nghèo như miền Bắc…..
  • Đất nước miền Nam đã nghèo đi….không còn là Hòn Ngọc Viễn Đông.
  • BS Trần Mộng Lâm đã viết: 1 100 năm sau sẽ có người hỏi tại sao người Việt ra đi nhiều như vậy,trong những năm cuối thế kỷ 21? Và 100 năm sau sẽ có những người gốc Việt muốn biết vì sao tổ tiên của họ đã đồ máu và nước mắt dón đau đến mức nào chỉ vì 2 chữ Tự Do ….?
  • Sủ gia Trần Gia Phụng cũng viết: Đây là cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ Cộng Sản bằng chính mạng sống của mình cũng vì muốn có quyền làm Người…..!
    Cuộc chiến bức tử Miền Nam VNCH….bi lụy
    LỊCH SỬ CHIẾN TRANH VN:
    Chúng ta hãy thắp một nén hương lòng cho QLVNCH, các Chiến Sĩ vô danh đã đi vào lịch Sử vì đã hy sinh đời mình cho Tổ Quốc và Lý Tưởng Tự Do. Nhà Văn gốc Binh Chủng Nhảy Dù Phan Nhật Nam đã viết:
    Trận chiến mất Nước 52 ngày của VNCH được khởi đầu bằng cuộc rút quân Tại Cao Nguyên và Huế thật hỗn loạn…Các vị Tướng Tá mặt trận trong ngày 30/4/1975 đã chọn cái chết sau lệnh đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh là quyết định anh hùng, đáng kính: Tướng Phạm Văn Phú, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng, Tướng Trần văn Hai, Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại tá Nguyển Hữu Thông, Trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long….
    Chúng ta phải ngả đầu ngưỡng phục và dành ngôi vị anh hùng cho những Người Lính, những Cán Bộ cấp nhỏ trong Chính Quyền và những Sĩ Quan từ cấp Trung Đoàn Trưởng, Lữ Đoàn Trưởng trở
    Nhân cuộc Chiến đấu Bi Hùng ca của Quân Dân Ukraina ….
    Trông Người mà nghĩ đến Ta:
  • Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu & Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã bằng lòng để nhân viên Toà Đại Sư Mỹ lo chuyện di tản…mặc dù trong ngày từ chức Tổng Thống đã nói: Tôi từ chức Tổng Thống nhưng Quân Lực VNCH còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu…”. Ông mang xuống tuyền đài câu nói này! Ông hành động:
  • Khác với Thủ Tướng của Cao Miên Sirik Matat. Ông này nói: “Tôi ở và Chết ở đây. Chỉ trách chúng tôi đã quá tin người Mỹ…
    ……………
  • Khác với Tổng Thống Ukraina Volodymyr Zelensky khi ông được người Mỹ đề nghị cho di tản; ông nói: “I need more ammunition, I don’t need a ride” ( Tôi cần thêm đạn, tôi không cần phương tiện để chạy).
  • Phải chi nếu Tổng Tham Mưu Trưởng là các Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu….thì cuộc chiến Việt Nam có khác với Trung Tướng Nguyễên Vĩnh Nghi (chạy sớm) và Chuẩn Tướng nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh?
    Tôi tin rằng: nếu biết kết cuộc Chiến Tranh VNCH
  • Là 47 năm dài tủi nhục
  • Là những năm tháng dài thảm hại trong các trại tù cải tạo …
  • Là bỏ xác trên đường vượt biên, vượt biển
  • Là một kết cục bán nước của tập đoàn tư bản đỏ Mafia Cộng Sản VN
  • Là một chế độ độc tài Đảng trị Hèn với Giặc, Ác với Dân…..
  • Là lao động bị bóc lột, bán mồ hôi của công nhân Việt…
  • Là Người con gái VN phải bán thân…
    Thì chắc chắn Quân Dân VNCH sẽ chiến đấu đến cùng cho dù phải tan hoang, phải đồ nát như Ukraina. Chúng ta vẫn còn canh bạc cuối: tử thủ vùng 4 khi Quân Dân sát cánh một lòng…với các dũng tướng của Quân Đoàn 4 Quân Khu 4.…..Chỉ vì chúng ta bị nằm vùng và phong trào của các Thành phần Thứ 3, Các chính khách, Trí thức Sa lông, Tôn Giáo Ru ngủ không có lập trường rõ ràng…
    Chúng ta khác với Ukraina, vì họ đã có kinh nghiệm với hơn 4 triệu người đã chết vì nạn đói do Cộng Sản Xô Viết thời Stalin gây ra.

    Lại môt mùa Quốc Hận với Quân Cán Chính và Người dân VNCH nói riêng và cả nước VN đang sống không có quyền làm Người, thiếu Tự Do với dảng CSVN độc tài đảng trị, Hèn với Giặc, Ác với Dân:
    Tôi viễn xứ..người biển sâu
    Chung hồn lưu lạc, chung sầu quê hương
    Người trên sóng nước trùng dương
    Tôi khung cửa hẹp, gió sương bốn mùa
    Bóc tờ lịch lại Tháng Tư
    Đem tình sông núi làm Thơ khóc người
    Người vùi xương trắng biển khơi
    Còn Tôi sống kiếp dân Hời vì Ai
    ( trích thơ Ngô Minh Hằng)

    .
    47 lại về, ray rứt lòng Quân Cán Chính và Người Dân VNCH. Viết cho Tôi, viết cho những Ai còn nghĩ đến tiền đồ Dân Việt… Nghĩ đến 4000 năm Cha Ông gìn giữ bờ cõi, nòi giống Tiên Rồng
    Vẫn mơ thành Người Quang Trung, Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Lê Lợi…..sử sách còn ghi……..
    Độc lập, Tự Do chỉ là Bánh vẽ
    Hạnh phúc Quê Hương sao thấy khôi hài
    Em đừng về, ngõ cũ chẳng thân quen
    Cả nước đang tù, quê hương đói khổ
    Hãy đốt lên đi ngọn lửa xuống đường
    Mưa buồn, bụi đỏ vào mùa tranh đấu
    Chút nào ấm nóng quê hương giữ lửa
    Hét vang xa rung chuyển thế gian này
    Tha phương đất khách, thương trời cũ
    Quốc hận muộn đời, giấc Nam Kha
    Sài Gòn chợt nắng, chợt mưa
    Bốn mươi bẩy năm, Trời Buồn ray rứt……

    .
    Montreal 17/3/2022
    Nguyễn như Thành

Giờ phút cuối cùng ngày 30-4, sự thật quan trọng hơn sự kiện

2006.04.30 – Nam Nguyên, phóng viên đài RFA

Vũ Văn Ánh

30 Tháng Tư 1975, cách đây 31 năm tổng thống Dương Văn Minh, nhà lãnh đạo cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã đầu hàng quân cộng sản Bắc Việt. Quyết định vừa nói được mô tả là để Saigon khỏi trở thành một biển máu.

Tổng thống Dương Văn Minh và chính phủ của ông trên thực tế chỉ tồn tại 36 giờ, nhưng là những thời khắc đầy cam go trăn trở. Giờ phút sau cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã diễn ra như thế nào, các sử gia cho rằng sự thật quan trọng hơn sự kiện, và muốn tìm hiểu sự thật thì hãy ghi nhận từ các nhân chứng.

Trong tinh thần mỗi chế độ mỗi chính phủ gắn liền với tiếng nói chính thức của mình, Nam Nguyên phỏng vấn ông Vũ Ánh, người chứng kiến cảnh ông Dương Văn Minh bị áp giải tới Đài Phát Thanh Saigon để đọc văn kiện đầu hàng. Từ California ông Vũ Ánh phát biểu.

Vũ Ánh: Quan trọng nhất là sự thật, bởi vì tôi tin tưởng là lịch sử có tiếng nói riêng của nó. Và không ai có thể bóp méo tiếng nói của lịch sử.

Nam Nguyên: Thưa ông Vũ Ánh vào thời điểm 30/4/75 ông là cấp chỉ huy cao nhất tại Đài Phát Thanh Saigon, năm ấy ông bao nhiêu tuổi?

Vũ Ánh: Năm 1975 tôi 34 tuổi, lúc đó tôi đang giữ cương vị là chánh sự vụ một sở tương đối có tầm vóc khá quan trọng vào lúc miền Nam VN có những biến chuyển. Đó là Sở Thời Sự Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia.

Những diễn tiến cuối cùng

Nam Nguyên: Thưa ông Vũ Ánh, trên ông còn có các cấp chỉ huy cao hơn, họ không có mặt trong những ngày đó hay sao?

Vũ Ánh: Tôi cần nhấn mạnh là từ ngày 1 tháng Tư cho tới lúc 11g ngày 30/4/75, tôi không về nhà mà ở luôn trong Đài Phát Thanh Saigon. Thực sự là từ ngày 15/4 các cấp chỉ huy trên tôi không đến Đài nữa, họ chỉ gọi điện thoại vào hỏi thăm tình hình thôi.

Đứng trước trách nhiệm như thế, tôi trở thành người phải giải quyết mọi chuyện ở trong Đài. Thật ra không có ai chỉ thị là tôi phải đảm nhận công việc đó, nhưng tôi thấy đây là trách nhiệm của một người làm truyền thông. Nhất là truyền thông của quốc gia.

Nam Nguyên: Thưa ông trong những ngày 29 và 30/4 có bao nhiêu bản thông điệp, hiệu triệu, và nhật lệnh được Đài Saigon phát đi?

Vũ Ánh: Trong giai đoạn đó ít nhất có hai nhật lệnh của Tổng Tham Mưu Trưởng, 1 lời hiệu triệu của ông Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền, một số bản thông cáo của Phủ Thủ Tướng cũng như Bộ Nội Vụ.

Sau khi ông Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28, thủ tướng mới là ông Vũ Văn Mẫu đã đọc tuyên bố yêu cầu người Mỹ quân đội Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

Nên nhớ rằng người ta không thể chế ra lịch sử được, lịch sử có giá trị của nó bởi vì nhân chứng sống còn rất là nhiều trong đó có tôi vẫn còn sống, mặc dù đã trải qua một thời gian rất dài trong trại cải tạo.

Tình hình bên ngoài lúc đó rất là lộn xộn, Đài Sài Gòn phát đi nhiều thông cáo có tính trấn an người dân, lúc đó người ta dầy xéo lên nhau trước Toà Đại Sứ Mỹ để tìm một chỗ di tản.

Lịch xử bị xuyên tạc

Nam Nguyên: Thưa ông như vậy làn sóng phát thanh quốc gia của chính phủ cuối cùng vẫn được duy trì, và duy trì cho đến lúc nào?

Vũ Ánh: Điều chắc chắn, ở đây còn rất nhiều nhân chứng. Tôi thấy quyển Đại Thắng Mùa Xuân của ông Văn Tiến Dũng viết sau khi chiếm được miền Nam có những chi tiết sai.

Chẳng hạn ông ta viết rằng là quân cộng sản tiến vào Đài Phát Thanh Sài Gòn, lúc đó Đài bỏ hoang không còn ai. Điều này hoàn toàn sai, nên nhớ rằng người ta không thể chế ra lịch sử được, lịch sử có giá trị của nó bởi vì nhân chứng sống còn rất là nhiều trong đó có tôi vẫn còn sống, mặc dù đã trải qua một thời gian rất dài trong trại cải tạo.

Khi ra hải ngoại tôi vẫn còn đủ minh mẫn để nói lên điều này, cho tới 11 giờ ngày 30/4/75 tiếng nói quốc gia VNCH vẫn còn. Sau đó khi phát lệnh đầu hàng văn bản lần thứ hai của tổng thống Dương Văn Minh thu tại đài phát thanh Saigon, thì lúc đó mới chấm dứt tiếng nói của quốc gia VNCH.

Trước khi xảy ra biến cố ngày 30/4 không lúc nào làn sóng của đài phát thanh Saigon bị gián đoạn hết, ngay cả ngày 28, 29 và sáng ngày 30, mỗi khi bắt đầu phát thanh vào lúc 5 giờ sáng chúng tôi đều cử quốc thiều và lời giới thiệu ‘Đây là tiếng nói nước Việt Nam Cộng Hoà phát thanh từ thủ đô Sài Gòn.

Thứ hai nữa có một sự kiện đặc biệt là ngày 28/4/75 vào lúc 5 giờ chiều chúng tôi vẫn thực hiện buổi trực tiếp truyền thanh lễ nhậm chức của tổng thống Dương Văn Minh. Phóng viên tường thuật trực tiếp truyền thanh hôm đó là anh Nguyễn Mạnh Tiến, hai phóng viên nữa cũng có mặt.

Xin thêm rằng, trực tiếp truyền thanh ngày trứơc không phải như bây giờ, đó là một hoạt động công phu và cồng kềnh. Chúng tôi phải đem một xe lưu động tới ráp đặt hệ thống máy móc tại phủ tổng thống, ở đài trung ương đã lên sóng buổi trực tiếp truyền thanh rất đàng hoàng. Cho tới trưa ngày 30/4 hệ thống kỹ thuật nhân viên đầy đủ không trở ngại. Buổi sáng ngày 30/4 Phòng Tin Tức và Phòng Phóng Viên vẫn làm việc như thường, ngay vào thời điểm ông Dương Văn Minh tới Đài đọc văn kiện đầu hàng, người phụ tá cho tôi là anh Vũ Thành An cũng có mặt.

Bên phòng phóng viên chúng tôi vẫn còn Phạm Mạnh Đức, Lê Phú Bổn, Nguyễn Vĩnh Lộc, người sau này là bạn đời của tôi cô phóng viên yến Tuyết cũng có mặt tới giờ cuối cùng, có cả anh Hải quản đốc đài ban Mê Thuột.

Bên Tin Tức thì có chủ bút Hồ Cầu, Phí Ích Bành và 4 biên tập viên nữa. Tôi còn nhớ có cô Triều Lương Anh Phương còn làm việc đến giờ phút chót, trưa 30/4 khi tôi rời đài thì cô này cũng ra cùng.

Đó là những phần hành liên quan tới phát thanh. Còn phòng sản xuất thì gồm 4 người, cô Bạch Kim Hồng, bà Ngọc Sương vợ ông Nghiêm Phú Phi, tôi thấy bà Minh Diệu, Minh Tần đều có mặt trong phòng sản xuất trong buổi sáng 30/4.

Thông điệp của TT Dương Văn Minh

Nam Nguyên: Khoảng hơn 10 giờ đài có phát một thông điệp của ông Dương Văn minh, cái đó đi thu bên Dinh hay sao?

Vũ Ánh: Tôi cần nói rõ một điều, ngừơi ta vẫn lầm vì có tới hai bản hiệu triệu khác nhau mà ông Dương Văn minh đọc. Bản thứ nhất phát đi lúc 10g15 sáng, trứơc đó lúc 10g kém 15 ông Dương Văn Minh yêu cầu tôi cử ngừơi sang số 7 Thống Nhất để thu thanh lời hiệu triệu rất quan trọng. Tôi cử phóng viên Lê Phú Bổn và kỹ thuật viên Hồ Ổn đi làm công tác này.

Bản thông điệp đó là bản viết tay do Tổng thống Dương Văn Minh tự thảo, ông đọc vấp rất nhiều lần và chúng tôi phải thu đi thu lại. Nội dung thông điệp này ông Minh kêu gọi binh sĩ, cảnh sát, quân đội giữ nguyên vị trí cũ để chờ chính phủ bàn giao trong vòng trật tự cho người anh em phía bên kia tức là cộng sản Bắc Việt.

Đó là bản thứ nhất, tôi nhận được lệnh tổng trưởng thông tin lúc đó là ông Lý Quí Chung nói rằng phải phát đúng 10g15 nếu không phát thì Saigon sẽ là một biển máu. Tôi không bao giờ quên sự kiện này, và tôi đã thi hành đúng như vậy…

Nam Nguyên: Bài hiệu triệu đó được phát mấy lần?

Vũ Ánh: Được phát một lần duy nhất vào lúc 10g 15 phút. Sau đó thì tổng thống Dương Văn Minh rời số 7 Thống Nhất (Phủ Thủ Tướng VNCH) để về Dinh Độc Lập cùng nội các mới thành lập của ông, chuẩn bị đón Cộng Sản Bắc Việt vô để bàn giao.

Tuy nhiên, khi quân cộng sản phá đổ cửa Dinh Độc Lập, những người đầu tiên đi vào đã bắt giữ tất cả, kể cả tổng thống, phó tổng thống, thủ tứơng và một số thành viên nội các, và giam vào phòng khánh tiết. Sau đó họ giải giao ông Dương Văn Minh sang Đài Phát Thanh Saigon.

Khi quân cộng sản phá đổ cửa Dinh Độc Lập, những người đầu tiên đi vào đã bắt giữ tất cả, kể cả tổng thống, phó tổng thống, thủ tứơng và một số thành viên nội các, và giam vào phòng khánh tiết. Sau đó họ giải giao ông Dương Văn Minh sang Đài Phát Thanh Saigon.

Nam Nguyên: Thưa lúc đó là mấy giờ?

Vũ Ánh: Mọi việc diễn biến rất nhanh, lúc đó khoảng 11 giờ kém 15 phút, bởi vì trứơc đó ông Nguyễn Hữu Hạnh Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH do ông Minh bổ nhiệm, đã sang Đài gặp tôi và cho biết ông sang để nhận Đài Phát Thanh và giao cho phía bên kia.

Tôi đứng nói chuyện với ông Hạnh độ khoảng dăm ba phút gì đó, thì thấy ông Dương Văn Minh từ Dinh Độc Lập bị giải giao qua Đài Phát Thanh. Khi cửa xe mở ra, thấy có hai người tay cầm súng K54 áp giải ông Minh, họ mặc quần áo tác chiến quân đội có đeo cấp hàm.

Những chứng nhân của lịch sử

Nam Nguyên: Ngoài xe chở ông Dương Văn Minh, còn có những xe nào khác?

Vũ Ánh: Sau xe đó có nhiều xe khác chở những người mặc thường phục, những người này rất trẻ, tay trái họ đeo băng đỏ. Tôi nhận ra Nguyễn Hữu Thái, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm…

Nhiều người nữa ở phía, trong đó có một người mà anh em báo chí thường hay gặp, một người luôn xuất hiện với cái ‘búi tó củ hành’, không biết anh ta làm ở báo nào nhưng tôi biết anh ta tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm. Đó là Hà Huy Đỉnh, lúc ấy anh ta cầm một máy quay phim. Tôi và Hà Huy Đỉnh có biết mặt nhau, tôi chào và anh ta chào lại.

Ngoài ra còn có vài phóng viên nứơc ngoài, trong số đó tôi nhận ra George Asper trưởng văn phòng AP tại Saigon.

Khi hai ngừơi áp giải ông Dương Văn Minh lên phòng vi âm lớn ở trên lầu, ngừơi coi máy vẫn còn ngồi đó, thế nhưng thái độ của bà ta hết sức sợ hãi, tay lóng cóng không thể nào ghi âm được.

Lúc đó tôi thấy một người phóng viên Mỹ đưa vào một máy cassette vào để mà thu thanh riêng cho mình thôi.

Bạn hoặc người thân trong gia đình có chứng kiến giờ phút cuối cùng ngày 30-4-1975? Xin gửi email về Vietweb@rfa.org

Bên ngoài phòng máy, sau khi trấn tĩnh lại được thì họ vẫn thu bằng băng lớn như thường, tôi biết chắc khi phát thanh là băng lớn, chứ băng cassette thì sau đó người phóng viên kia mang đi.

Lúc đó khoảng hơn 11giờ, tôi thấy không còn chuyện gì liên quan đến mình nên tôi đi xúông dưới và nói với ông Nguyễn Hữu Hạnh là tôi ra khỏi Đài. Tôi còn nhớ anh Vũ Thành An còn ở lại tới giờ phút chót, tôi nói với Vũ Thành An rằng, có lẽ đây là ‘Bài không Tên Cuối Cùng’ của chúng ta rồi. Đó là lời tôi nói với Vũ Thành An, và đó là tất cả câu chuyện của ngày 30/4 ở Đài Phát Thanh Saigon, coi như là lúc chấm dứt cuộc đời công vụ của tôi đối với chế độ VNCH.

Nam Nguyên: Cảm ơn ông Vũ Ánh về thời giờ ông dành cho RFA.© 2006 Radio Free Asia

Ngày 30/04: Nếu còn thiết tha hãy giúp một tay để lịch sử không bị đánh mất

  • Alex Thái Đình Võ
  • Gửi bài từ Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ
Khách sạn Continental cổ xưa nhất Việt Nam nằm trên đường Đồng Khởi, xây dựng 1878 theo lối kiến trúc giống như Toà Thị Chính Paris. Sau 1975 vẫn còn giữ nguyên tên cũ.

30/4 năm nay bạn nghĩ gì?

Tôi nghĩ nhiều về lịch sử, và trách nhiệm của mỗi người trong việc giữ gìn và làm sáng tỏ lịch sử.

Lịch sử thu nhỏ là hồi ký của từng cá nhân, là gia phả của mỗi gia đình, nhưng gôm chung sẽ là lịch sử của một đất nước, của nhân loại.

Nhà hùng biện Marcus Garvey từng nói “Một người không có kiến thức về lịch sử nguồn gốc và văn hóa của mình [thì cũng] giống như một cây không có rễ.”

Lịch sử giải thích quá khứ, định hình hiện tại, và định hướng tương lai nên việc thông hiểu lịch sử luôn là điều tất yếu.

Nhưng đây là điều không dễ, vì lịch sử rất dễ bị ghi lại một cách sai lạc.

Mỗi thể chế chính trị khi lên cầm quyền thường củng cố lịch sử theo định hướng của mình, vì nắm được lịch sử tức nắm được não trạng của dân.

Các cường quốc trong lịch sử được hình thành không chỉ ở sức mạnh kinh tế hoặc quân sự mà còn ở việc tạo dựng một nền tảng lịch sử vững vàng theo định hướng chính trị của thể chế cai trị.

Một lịch sử bị ‘định hướng’

Sau năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chính quyền Việt Nam cũng làm điều này, qua việc triệt sản tất cả các nhân vật, sự kiện, và khía cạnh mang dấu ấn của thể chế trước hoặc mang tính trái chiều.

Các nhân vật lịch sử như Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu đều bị xoá mờ trong sách sử. Các tên tuổi trí thức yêu nước như Phan Châu Trinh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, hay Nhất Linh cũng cùng số phận.

Biểu tượng của chính thể VNCH, từ lá cờ cho đến tên đường và tác phẩm nghệ thuật, đều bị xoá hoặc cấm. Thay vào đó là sự độc quyền trong việc trưng bày và phổ biến biểu tượng của chính thể mới.

Đinh Độc Lập trở thành Đinh Thống Nhất, Đường Công Lý đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa, trường trung học Gia Long được thay tên thành Nguyễn Thị Minh Khai, Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà bị bỏ hoang.

Qua thời gian, mọi ngóc ngách của xã hội đều bị vây phủ bởi những biểu tượng cách mạng, từ hình ảnh Hồ Chí Minh đến màu cờ đỏ, đến sự nở rộ của những tên Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Phạm Văn Đồng trên khắp mọi nẻo đường.

Và qua thời gian, người Việt, nhất là thế hệ trẻ, nghiễm nhiên cho rằng sự tồn tại của Việt Nam là do công của các nhà lãnh đạo cộng sản.

Mặt khác nhiều người Việt không muốn nhắc đến cuộc chiến đã kết thúc ngày 30/4/1975, cơ bản vì sự khốc liệt và gây chia rẽ của nó.

“Đề tài xưa như trái đất không phù hợp cho giới trẻ và thời cuộc hiện nay. Thắng thua cũng đã định thì không còn gì để nói và chỉ nên để cho lịch sử phán xét.” Họ nói.

Câu nói này thoáng nghe có vẻ bình thường, nhưng cho thấy một vấn đề khá nghiêm trọng trong nhận thức của nhiều người Việt về lịch sử.

Lịch sử không phải là một thực thể tự có thể tìm tòi, so sánh, suy luận thì tự nó làm sao có thể nhận định, phán xét?

Không biết bao nhiêu sách báo đã viết về cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt 46 năm, nhưng chúng ta cần nhìn nhận sự thật là đến nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu hết về cuộc chiến này.

Nhất là về những khía cạnh xã hội, kinh tế, và văn hóa, từ quan điểm và tầm nhìn của những thường dân, dù bên thắng hay bên thua, hoặc những người vô can, đứng giữa hai lằn đạn.

Thủ Tướng Winston Churchill từng nói “Lịch sử đã và sẽ được viết bởi kẻ thắng.”

Nếu lịch sử đã và sẽ được viết bởi phe thắng cuộc, những kẻ nắm quyền, vậy bên thua cuộc, những người ở vị thế không có quyền lực thì sao?

Có phải vô hình trung tiếng nói của họ sẽ tiếp tục bị vùi dập qua các hình thức kiểm duyệt hay bị loại bỏ khỏi sách sử và các cuộc bàn luận?

Hệ quả của những hiểu biết chưa tường tận là những ngộ nhận và cáo trạng đầy phiến diện được nhét vào đầu các thế hệ thanh thiếu niên trong thời gian 40, 50 năm qua.

Điều này sẽ tiếp tục xảy ra với những thế hệ sau nếu không có những nỗ lực hầu quân bình lại cái nhìn về lịch sử chiến tranh Việt Nam cũng như hậu quả của nó.

‘Em không biết gì về Tù cải tạo’

Có lần, khi được mời thỉnh giảng cho một lớp sử tại một trường đại học ở Hà Nội với chủ đề người “Việt trên đất Mỹ,” tôi ghi hai từ “Vượt Biển” và “Tù Cải Tạo” trên bảng và hỏi sinh viên nghĩ gì về hai từ ấy.

Tôi khá ngạc nhiên khi thấy đa số đều không hiểu biết ý nghĩa lịch sử phía sau hai từ đó trong sự hình thành của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Đa số đều không biết diện HO là gì, hay bao nhiêu phần trăm những người được qua Mỹ sau này là cựu sĩ quan VNCH từng bị giam cầm nhiều năm trong những trại tù cải tạo.

Những người dân miền Nam tuyệt vọng cố gắng trèo vào tòa Đại sứ quán Mỹ để chạy trốn khỏi Sài Gòn. Ngày hôm sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn rơi vào tay cộng sản và Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc

Sau lớp, vài sinh viên lên găp tôi và rưng rưng nước mắt thú nhận: “Em không hề biết gì về Tù cải tạo. Xưa nay em chỉ nghĩ những người ở Mỹ là những người phản quốc. Không biết sự cực khổ họ đã phải trải qua. Em cứ tưởng họ qua đấy là được chu cấp nhà cửa và mọi tiện nghi.”

Lần khác, trong năm học lớp 7, sau khi người thầy chiếu bộ phim ‘Vietnam: A Television History’ (1983), một cậu học sinh người Mỹ hỏi tôi:

“Nhà mày ở bên phe nào (cuộc chiến)?”

Tôi trả lời “Miền Nam,” lập tức cậu ấy chỉa tay vào mặt tôi, cười và la lên như vẻ đang đưa ra một phán quyết, “À, vậy gia đình mày thua là đáng!”

Lần khác nữa, trong năm học ở Đại Học Berkeley, trong lớp về “Hoà Bình và Xung Đột”, tôi viết một bài luận phản ảnh sự thiên lệch trong cách giảng dạy và tài liệu dùng trong lớp về cuộc chiến Việt Nam.

Thay vì tìm hiểu và trao đổi, vị giáo sư của lớp cho tôi điểm “F-“, điểm thấp nhất có thể, cùng với một trang viết, lý giải rằng tôi được điểm ấy vì không theo nguyên tắc của một bài luận, và những phản ảnh của tôi xuất phát từ việc tôi chưa vứt bỏ được cái đắng cay của kẻ thuộc bên thua cuộc.

Trên đây là những họa tiết nhỏ, nhưng phản ảnh những bài học và nhận định về lịch sử chiến tranh Việt Nam mà con cháu của chúng ta đã, đang, và sẽ được dạy ở học đường.

‘Bóp méo’ chiến tranh Việt Nam

Điển hình và gần đây nhất về sự bóp méo chiến tranh Việt Nam được thể hiện trong hai bộ phim: ‘Việt Nam: Thời Đại Hồ Chí Minh’ sản xuất ở Việt Nam và ‘The Vietnam War’ sản xuất ở Hoa Kỳ.

Lấy danh nghĩa công bằng, trung thực, nhằm nói lên tiếng nói của nhiều người, từ nhiều khía cạnh, cả hai bộ phim tạo cho người xem cảm giác mới lạ, nhưng trên thực tế chỉ là một màn ảo, nhai lại những định kiến của 40, 50 năm qua.

Với ‘Việt Nam: Thời Đại Hồ Chí Minh,’ khi đoàn làm phim liên lạc để nhờ tôi giúp kết nối phỏng vấn một số học giả ở Hoa Kỳ, danh sách họ đưa đa số là các học giả thuộc nhóm phản chiến, ít thiện cảm với VNCH hoặc chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc chiến.

Còn với ‘The Vietnam War’, dù với tiêu chí là sẽ đưa vào nhiều tiếng nói khác nhau, công bằng và quân bình hơn, nhưng thực tế không như vậy.

Trong 79 chứng nhân hai đạo diễn Ken Burns and Lynn Novick chọn để đưa hình ảnh và tiếng nói lên màn hình, thì 50 là người Mỹ và 29 là người Viêt Nam. Nhưng trong 29 người Việt Nam thì 13 người thuộc quân đội và chính quyền miền Bắc, ngoại trừ Huy Đức, 6 thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tức tổng cộng là 19 người liên quan với miền Bắc, trong khi chỉ có 9 người đại diện cho miền Nam Việt Nam.

Với những con số lệch lạc này thì thời lượng để bày tỏ quan điểm về sự việc cũng theo đó mà sai lệch, trong khi cuộc chiến đa phần xảy ra ở miền Nam Việt Nam.

Kết quả là cả hai bộ phim này góp tay xoá hầu hết những khám phá mới và quân bình hơn mà nhiều nhà nghiên cứu đã dầy công tìm hiểu trong 15-20 năm qua.

Nói cho cùng, nếu lịch sử của chính mình mà chúng ta không quan tâm, không tìm hiểu, không viết xuống, không trân quý giữ gìn, thì đừng trách tại sao lịch sử người khác viết có những sai lệch, phiến diện và đầy định kiến.

Ai có bổn phận ‘giữ gìn lịch sử’?

Đã đến lúc người Việt cần góp phần mình trong việc giữ gìn lịch sử.

Lịch sử không thể chỉ là những trang sách về câu chuyện rồng tiên đầy xa lạ, hay dừng lại ở vài bức tranh về những anh hùng chống ngoại xâm được phóng đại bởi dân tộc chủ nghĩa, hoặc ở những cái tên như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, và Lê Duẩn, hay Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.

Lịch sử công bằng và trung thực là lịch sử ghi nhận tất cả sự phức tạp và những sắc thái cấu tạo nên một con người, một xã hội, một dân tộc, và một đất nước.

Là nhìn nhận rằng Việt Nam không chỉ có những hình ảnh rừng vàng biển bạc, mà phải nói cả về sự nghèo đói bao người Việt phải trải qua bao thế hệ từ xưa đến nay.

Là nhìn nhận rằng song song với những cuộc chiến chống ngoại xâm đầy tự hào là những cuộc huynh đệ tương tàn đầy bi ai.

Lịch sử trung thực phải là bức tranh về con người thật, xã hội thật, cũng những vui buồn đắng cay mà một cuộc đời, một dân tộc phải trải qua.

Bức tranh ấy phải cho ta sự tàn khốc của bom đạn ở Khâm Thiên, thảm sát ở Huế, phải làm rõ những vụ thanh trừng và đàn áp, phải bám theo những gót chân di cư năm 1954, cũng như của những người tập kết ra Bắc, của hệ quả từ các chính sách cải cách ruộng đất, đánh tư sản, và tù cải tạo, hay những diễn biến kinh tế và xã hội đưa đến vấn nạn vượt biên, vượt biển bỏ nước ra đi.

Bức tranh ấy phải vẽ rõ hơn về những con số và bộ mặt của bao thanh niên thanh nữ bỏ xác trên chiến trường, dọc theo con dường mòn có tên Hồ Chí Minh.

Nó phải là bức tranh có những câu chuyện của những người phụ nữ một thân lo gia đình khi chồng bị tù đầy.

Nó phải là bức tranh về cuộc sống thường ngày của con người trong thời cuộc, từ những sinh hoạt ở nông thôn đến thị thành, ở công sở cũng như nhà trường, hoặc những nỗi lo ngại tính toán mỗi khi vật giá leo thang do lạm phát và thất nghiệp.

Nó phải là bức tranh của những cuộc sống trên đất người, từ những khó khăn đến thành công, vì dù muốn hay không, đó cũng là câu chuyện của con người Việt Nam, tức lịch sử Việt Nam.

Bức tranh đa dạng ấy về lịch sử chiến tranh Việt Nam phải bắt đầu từ mỗi chúng ta.

Từ sự mở lòng để kể rõ chuyện của mình với con cháu, từ sự hiếu kỳ với cuộc đời của cha mẹ và anh chị, từ sự khoan dung giữa người với người, dù trước kia từng là người bên kia giới tuyến.

Điều đó tất cả chúng ta đều nên làm và có thể làm, chỉ cần bắt đầu với cây bút, tập vở, hay chiếc iPhone hoặc Samsung.

Làm sao để giữ gìn lịch sử?

Tôi nghĩ, chúng ta hãy bắt đầu với những câu hỏi rất bình thường:

-Bố sinh năm nào? ở đâu? Nhà bố có bao nhiêu anh chị em? Ông, bà tên gì?

-Khi còn nhỏ, giấc mơ của mẹ là gì?

-Bố mẹ gặp nhau trong cơ duyên nào? Cảm giác đầu khi nhìn nhau là gì?

-Ba nhập ngũ năm nào? Tiểu đoàn của ba đóng ở đâu? Ba đã từng đánh bao nhiêu trận?

-Đường Trường Sơn khó nhọc ra sao? Bố mất bao nhiêu đồng đội và xác của họ giờ ở đâu?

-Khi phải đối diện Bác Hai ở chiến trường, suy nghĩ đầu tiên của ba là gì?

-Tết Mậu Thân gia đình mình đang làm gì?

-Khi bom rơi xuống Khâm Thiên thì nhà mình đang ở đâu?

-Chị nhớ gì về ngày Tết? Những ngày học ở Gia Long?

-Người cán bộ cai tù trong trại cải tạo đối xử với ba như thế nào?

-Ngày mẹ đẩy con và em lên thuyền, mẹ có nghĩ sẽ gặp lại chúng con?

-Bao cấp khổ như thế nào mẹ? Anh Hai có gởi tiền về giúp mẹ không?

-Hôm ra khỏi cổng trại, hít hởi thở tự do sau 6 năm tù, ba cảm thế nào?

Vâng. Hãy cứ bắt đầu bằng những câu hỏi và sự tò mò như khi ta đọc một cuốn tiểu thuyết.

Cứ để nhân vật chính dẫn ta vào thế giới của họ. Để họ vẽ bức tranh riêng, đậm nhạt cùng những nụ cười trên vành môi hay những giọt nước bên mí mắt. Hãy để họ tức giận theo cơn phẫn nộ và trầm tư khi cần một phút nghỉ.

Hãy bắt đầu gom nhặt những mảnh đời, rồi ghép lại thành bức tranh lịch sử về anh chị về mẹ cha.

Trước tiên, hãy trao tặng bức tranh ấy cho con cháu, vì một ngày chúng sẽ khát khao được xem, được biết.

Sau đó, hãy trao tặng những câu chuyện này cho các sử gia, các trung tâm nghiên cứu và lưu trữ, hoặc các thư viện, như Thư Viện Quốc Gia Hoa Kỳ, với lòng tin rằng một ngày, một ngày không xa, những câu chuyện ấy sẽ góp phần vẽ nên một bức tranh lịch sử đầy sắc mầu.

Bức tranh ấy sẽ làm sáng tỏ hơn về một giai đoạn lịch sử còn nhiều khúc mắc hầu giúp người sau hiểu rõ chuyện gì đã thực sự xảy ra.

Công việc này đòi hỏi sự góp tay của nhiều người, và bắt đầu với từng mỗi cá nhân ở mỗi gia đình.

Đã 46 năm rồi! Nếu chúng ta thiết tha nghĩ đến một giai đoạn lịch sử thì xin hãy góp tay để lịch sử đừng bị đánh mất.

Bài thể hiện quan điểm riêng của Alex-Thái Đình Võ, tiến sĩ sử học, hiện làm việc và cư ngụ tại Honolulu, Hawai

Chuyện Sài Gòn và sách ‘trước Bảy Lăm’

*Nguyễn Vĩnh Nguyên

 Có cuốn mới tinh, có cuốn rách bìa, đa số thì ố vàng và đã nhạt màu mực. Mỗi cuốn sách một số phận, trôi nổi qua biết bao biến cố, bỗng một hôm trở về với người sưu tầm, người đọc như những báu vật của thời gian… Gọi đó là “sách Sài Gòn trước Bảy Lăm.”

   Trên đường sách Sài Gòn giữa Quận Một ngày nay, có mấy kiosk bán sách cũ Sài Gòn xuất bản trước 1975. Ngoài sách, các ấn phẩm của thời kỳ này như báo chí, bản đồ, post-card và tờ nhạc cũng xuất hiện trở lại một cách công khai.

   Quán Sách Mùa Thu là nơi có hàng ngàn đầu sách đầy bất ngờ tụ về từ những thư viện gia đình khóa kín gần nửa thế kỷ. Nếu các ông Duyên Anh, Phạm Công Thiện mà sống lại, dạo bước qua mấy chỗ này hẳn sẽ bất ngờ vì tác phẩm của mình còn được đám hậu duệ sưu tầm đủ. Các sách văn học, triết học, chính trị… đình đám của một thời kỳ xuất bản tự do đã trở lại với độc giả hôm nay, bằng chính nguyên bản như mới, được người bán trau chuốt giữ gìn, đóng bìa, may lại gáy. Màu giấy vàng, lối làm bìa sách thanh nhã của một thời… khoác lên những giá sách quý một màu thời gian sâu thẳm.

    Trong một cuộc triển lãm sách cũ do các bạn sưu tập tổ chức, tôi đã gặp một độc giả năm xưa đứng khóc ròng như trẻ thơ khi cầm trên tay cuốn sách “Quốc Sử” của Lớp Nhất, vì cuốn sách gợi nhớ đến một người bạn chung lớp đã bỏ xác trên biển hồi sau 1975.

    Sách chạm vào ký ức của từng người theo một cách thế riêng, âm thầm. Tôi cũng từng dẫn những bạn bè lớn tuổi đến đây sau nhiều năm xa nước, họ mân mê những bản sách cũ đã trôi dạt qua những biến cố lịch sử như chính cuộc đời họ, mà quên cả thời gian trở về với thực tại.

   Giáo sư thiên văn học Trịnh Xuân Thuận (thứ hai, trái) và sử gia Philippe Papin tìm hiểu về sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 tại Quán Sách Mùa Thu trên đường sách Sài Gòn. (Hình: Nguyễn Vĩnh Nguyên)

    Gặp lại sách là gặp lại những người bạn thân thiết đã trải qua biết bao thăng trầm dâu bể. Những cuốn sách cũ khơi gợi lại kỷ niệm và gợi nhắc những ký ức đẹp đẽ hay đau buồn. Những quyển sách cũ lặng lẽ nối chuyện thời cuộc và ký ức cá nhân đã trở nên là một.

    Vào khoảng thời gian sau 1975, nhiều người kể lại rằng, nhiều tủ sách, kho sách Sài Gòn đã bị đẩy ra vỉa hè để đốt. Một kiến trúc sư nói với tôi trong nước mắt rằng, cha anh đã phát điên bởi vì thương sách. Ông ta nhìn cái cảnh những cuốn sách mình nâng niu trân quý trở thành mồi cho ngọn lửa trong suốt vài ngày trời mới hết, và nghĩ mình chỉ còn một con đường hoặc ra đi hoặc tự sát.

    Nhưng ở vào thời kỳ đó, đâu chỉ ba của bạn tôi, nhiều người đã phải lựa chọn. Họ phải chôn xuống đất những gì chế độ mới coi là “tàn dư” để bảo toàn mạng sống và tránh những liên lụy cho người thân. Sau cùng người ta đã chọn những cách thế tồn tại trong một hoàn cảnh đầy ngặt nghèo và khốc liệt. Người nâng niu sách như những hiện thân của giá trị văn hóa, của đời sống thanh tao làm sao không đau đớn phát điên cho được khi phải lựa chọn thiêu sách để tự cứu lấy mình.

    Ấy vậy mà bằng những phương cách nào đó thật lạ lùng, những cuốn sách cũ của một thời đã lách qua những cơn bão lửa của thời cuộc để neo giữ một tinh thần, tái hiện một vàng son. Những pho sách qua thời gian đã làm toát lên một phong vị văn hóa khó lẫn, một sự quyến rũ như người giàu có trải nghiệm đang kể câu chuyện cuộc đời mình, đầy mê hoặc.

   Đã có lúc, đâu chừng mươi mười năm trước, dân sưu tầm những sách “trước Bảy Lăm” còn rón rén rụt rè. Tôi còn nhớ thời đó, một tập thơ của Thanh Tâm Tuyền còn được đem ra đấu giá trong giới chơi sách, trong tình trạng lén lút vì sợ bị an ninh theo dõi tịch thu. Sau đó, một tờ báo đã bị nhắc nhở vì đăng bản tin bán đấu giá sách có nhắc đến tên một nhà thơ Sài Gòn cũ. Nhưng nhu cầu quy hồi những giá trị thuộc về văn hóa một thời đã dẫn dắt thị trường sách cũ theo một chiều hướng lạ lùng. Nó buộc những gọng kìm bấy lâu khóa chặt phải mở ra để văn hóa được liền lạc.

   Về Sài Gòn bây giờ đi tìm sách cũ, sẽ không lạ gì chuyện các nhà sưu tầm, giới chơi sách cho đến buôn bán sách cũ đa phần là trẻ. Nhiều người sinh ra sau 1975, nhưng họ có một thao thức, bằng cách này cách khác, làm cho những di sản của một thời kỳ xuất bản được xuất hiện lại một cách tự nhiên, công khai, không rón rén. Họ nói về lịch sử xuất bản, tiểu sử các tác giả… một cách thông thạo như thể những người đã đắm mình trong sinh khí văn hóa một thời Sài Gòn.

    Cùng với các nhà sách offline, các diễn đàn sách xưa trên mạng cũng nhộn nhịp. Thông tin về từng đầu sách được giới thiệu trở lại một cách chi tiết. Như vậy, những ai chuyên tìm kiếm sách cũ có thể hình dung đến một không gian riêng mà đám an ninh không muốn dây vào cấm đoán nhưng cũng không công khai thừa nhận. Từ nguồn sách này, sẽ phát lộ nhiều chất liệu quý để thấy rõ những giá trị tinh hoa của trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời kỳ đã qua. Chúng như những chứng tích này sẽ giúp người đọc hôm nay có một cái nhìn thấu suốt, khách quan về một giai đoạn văn hóa.

    Nhiều cuốn sách cũ đã được giới xuất bản tìm cách tái bản. Trường hợp tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bà Tùng Long, Du Tử Lê, Võ Phiến, Lê Tất Điều hay Dương Nghiễm Mậu… được giới làm xuất bản sinh sau đẻ muộn tìm kiếm ấn bản gốc từ những kho sách cũ như vậy để nhập liệu, làm văn bản và tìm cách tái bản. Dù việc này cũng chưa thật sự suôn sẻ trong bối cảnh kiểm duyệt xuất bản, nhưng những nỗ lực khai thông các trở lực để đặt một gạch nối hôm nay với hôm qua trong văn hóa Sài Gòn, ở giai đoạn này, đáng được nhìn với ánh mắt hoan hỉ hơn xét nét nghiệt ngã bởi những định kiến.

   Quá khứ không còn biến thành những thêu dệt huyền hoặc, những cuốn sách cũ nói với hôm nay về thực tại của văn hóa hôm qua một cách chi tiết. Cho dù, chúng trở thành những báu vật (và được định giá rất cao so với sách mới xuất bản) nhưng những người cần vẫn không ngại ngần để đón về một di chỉ của ký ức.

    Đi qua thời gian và những thăng trầm, những cuốn sách cũ “Sài Gòn trước Bảy Lăm” đang quay trở lại trong đời sống hôm nay thật lộng lẫy, huy hoàng, điều mà có lẽ nhiều người viết ra chúng, người ấn hành chúng, người bảo vệ chúng trong những kho tàng ẩn mật khó hình dung được.

    Nói mỗi cuốn sách có một số phận, là đúng. Như người Sài Gòn, mỗi người một cách thế phiêu dạt cùng thành phố, cùng thời cuộc. Tiếng nói, ngôn từ của người một thời đã được ghi trên giấy, kinh qua những biến cố, đã không hư nát và chìm vào thăm thẳm thời gian, mà còn vang vọng, bằng cách này, cách khác. Dù trong lặng lẽ, thì vẫn là những chứng tích của một khoảnh khắc bừng sáng trong thời gian.

    💝Đó chẳng phải là điều đáng để vui, dù là vui trong nước mắt?!

PHỤ NỮ BẮC NÓI VỀ PHỤ NỮ NAM

(Tác giả Giao Giao Giao)

Ảnh Google

Vào Sài Gòn sống từ 35 năm trước, mình đã thấy rất kinh ngạc, khi nhận ra phụ nữ Sài Gòn sướng hơn phụ nữ miền bắc không biết bao nhiêu mà kể. Nghĩ mãi vẫn chưa hiểu tại sao. Chợ búa, đồ ăn làm sẵn, mọi thứ đều tiện dụng, mua gì cũng có ngay gần nhà, không quá vất vả bữa cơm hay việc nhà, đầu tắt mặt tối ba bữa cơm. Nhà nào cũng có toilet riêng sạch sẽ (dù nghèo) phụ nữ Sài Gòn đa phần giữ bếp núc rất ngăn nắp, chăn màn ga gối văn minh, ai cũng nằm nệm êm không nằm chiếu, không ngủ chung với con, sống chung với cả gia đình đông, lạ nhất là mẹ chồng không bao giờ khăng khăng phải ở với con trai khi con trai lấy vợ. Họ buông tay cho con độc lập có đời sống riêng.

Phụ nữ Sài Gòn rất thích đi ăn tiệm, đi du lịch, họ thích thưởng thức món ăn mới, mặc đồ mới, cởi mở, dám thay đổi, họ không cho rằng cơm nhà mình là nhất, mình là nhất. Họ dễ tính dễ thương, ít chê bai xét nét, so đo về giá như ngoài bắc. Họ mặc đồ xanh đỏ tím vàng quần ngắn, hay hở cả ti ra chả sợ ai nói gì. Dù cùng mức sống, nhưng họ dám sắm máy nước nóng máy lạnh không sợ tốn điện, dù không có vài triệu mua cành hoa đào ngắm ba ngày tết. Họ không sợ chê nghèo, đi xe xấu, họ mặc đẹp đi chiếc xe trông thật ghê, mà vẫn vui.

Phụ nữ Sài Gòn không ôm đồm việc nhà, nhất là không giành lấy mọi thứ trách nhiệm, kiếm tiền dạy con, rồi kiệt sức quên bản thân, họ chăm sóc ngoại hình kể cả người đã có chồng đông con. Phụ nữ nào cũng có bàn trang điểm phấn son, bông tai. Ai cũng có vài cái nhẫn vàng tây; có tí tiền là họ tiêu ngay không cất đi, không để dành, cũng không sắm sửa mấy. Mình nhớ, đã kinh ngạc thế nào khi thấy các cô gái Sài Gòn, chả đi đâu chả tiếp ai, cũng mặc đồ rất đẹp, tô son mỗi sáng, ở ngoài bắc, năm 84, mà lúc nào cũng phấn son xinh đẹp, liền bị gọi ngay là ca-ve.

Họ lười hơn, vụng hơn, nông cạn hơn, có khi nghèo hơn, nhưng tự do hơn, hưởng thụ hơn, độc lập hơn, thẳng thắn hơn. Nhờ thế mà trẻ con cũng đỡ áp lực hơn. Vì các bà mẹ không hy sinh mọi niềm vui cho con cái, họ làm gương cho con mình, sống cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, được tự do là chính mình.

Đặc biệt nhất ở Sài Gòn là phụ nữ cực kỳ tự do cởi mở trong tư tưởng, họ ít chê ai ế hay sợ con mình ế. 35 năm ở đây mình ít thấy ai đánh ghen tàn bạo hay can thiệp đến chuyện cá nhân người khác. Dù ít học, họ cũng ít chấp nhận thói gia trưởng của đàn ông, kiểu như em không được mặc áo hở cổ, không được đi chơi tối, em sao không lo cho chồng con bữa cơm… Họ chiều chồng, nói ngọt, lắng nghe, nhưng không hầu chồng, tuân lệnh chồng, coi chồng là vua chúa.

Phụ nữ Sài Gòn luôn có thói quen dành thời gian cho bản thân, thứ xa xỉ mà phụ nữ miền bắc cho là một sự hoang phí: ăn hàng, làm nail, gội đầu tiệm, mua sắm… Chả ai ở ngoài bắc đi du lịch riêng với bạn bè khi đã có chồng con, du lịch Tết mà không cúng ông bà, quá kinh khủng, họ không thể tưởng tượng ra có loại phụ nữ ích kỷ, xấu xa tệ hại như thế… đời sống ngạt thở mà chỉ khi đi xa rồi trở về ta mới nhận ra mức độ căng thẳng phụ nữ ở đây phải chịu đựng.

Phụ nữ Sài Gòn dù nghèo cũng sướng hơn phụ nữ miền bắc trăm lần, họ không phải đối phó với gia đình chồng, mẹ chồng em chồng khắc nghiệt cay đắng, luôn chì chiết chê bai. Họ không có bố chồng khó tính và cả họ nhà chồng xét nét họ. Không ai nói là “cô may lắm mới lấy được con tôi,” mình nhớ mình đã kinh ngạc đến mức nào, khi nghe các cô con dâu Sài Gòn nói, họ rất yêu quý mẹ chồng thực tâm. Yêu quý chắc vì họ không chung sống với bố mẹ chồng không va chạm cơm nước tiền nong, mỗi năm không bị hàng chục lần nấu cỗ cúng, sấp ngửa lo tết, hay vất vả gì khi làm dâu.

Hàng xóm, đồng nghiệp, bạn bè không ai lên án phán xét cách sống cách ăn mặc, cách chi tiêu hay chuyện riêng tư cá nhân. Đi xe xấu , mặc đồ xấu không bị chê bai khinh thường. Thời tiết ở Sài Gòn cũng không làm cho phụ nữ sầu thảm được lâu, buồn thất tình không thê lương không tuyệt vọng, họ không chịu được khổ lâu nên ít thấy ai ôm hận đàn ông được lâu, họ chóng quên dễ tha thứ, họ sẵn sàng bắt đầu một khởi đầu mới bất cứ khi nào.

Mỗi lần ra bắc nhất là về quê, mình thấy thật bất công, phụ nữ miền bắc khổ vì lo sợ người khác đánh giá mình. Ai cũng có thể phán xét người khác. Bố mẹ can thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư, ngăn cấm dọa dẫm, thay vì cảm thông và chia sẻ khi gặp sự cố hay sai lầm. Con gái ế thì bố mẹ nhục nhã, đau khổ, phụ nữ lấy chồng thì cuộc sống của họ quay quanh một ông chồng ba bữa cơm, con cái và việc nhà lấy đi của họ nhiều thứ, phụ nữ lấy chồng xong biến thành người hoàn toàn khác. Sau 40 may ra họ mới có chút thời gian cho riêng mình. À mà chưa xong, già rồi họ còn sợ con cái mất mặt, ly hôn là chuyện nhục nhã. Có bà mẹ 50 tuổi không dám post cái video mình hát với bạn vì con bảo mẹ phải giữ gìn hình ảnh, không được chơi bời hát hò hay tỏ ra vui vẻ sau ly hôn.

35 năm trước mình đã nghĩ hẳn bắc nam Việt Nam là hai quốc gia độc lập, suy nghĩ lối sống đặc biệt khác nhau. Sao cùng là phụ nữ, mà họ khác nhau thế. Sau 35 năm mình thấy phụ nữ miền bắc khác trước nhiều, tuy nhiên họ vẫn khổ hơn, kể cả người giàu, người trí thức, người đẹp. Họ bị ghen ghét chê bai ghen tị nhiều hơn, họ chả được sống hồn nhiên tự do vô tư như phụ nữ Sài Gòn. Có sai lầm gì to mấy cũng được thứ tha rất nhanh… Chả ai nhớ chuyện xấu mấy, toàn khen nhau toàn quý nhau thật lòng thôi. Nghĩ gì là nói thật ra, không phải đau dạ dày vì suy nghĩ rắc rối. Ít ai có tính giận dỗi, nói xấu, ít ai bị bẽ mặt, họ thẳng thắn và đơn giản, ít sĩ diện, ít đao to búa lớn, lại càng ít sợ hãi người khác. Họ thực sự tự do.

Lắm lúc mình chỉ muốn giải phóng phụ nữ miền bắc khỏi chính họ thôi, cho họ được Tự Do – được là chính mình.

Một bác sĩ Biệt Động Quân chẳng giống ai!

Lời bạt: Năm 2015 tôi viết bài này và cố tình không viết về vợ con của Lê Văn Thại. Nhưng sau khi Hắn mỉm cười ra đi, tôi viết bổ sung câu chuyện cho tròn cái nghiệp mà Hắn đã trả xong. Mời quý vị xem đoạn cuối Hắn cưới vợ như thế nào và khúc quanh đời Hắn như cái “nghiệp” phải mang!

Tôi (bên trái) và Hắn năm 1967

Tôi và Hắn cùng quê hương Tam Quan, vùng đất trải dài rộng lớn những rừng dừa và hệ thống sông ngòi chằng chịt! Hắn là cháu nội một phú hộ vùng Cấm An Sơn thuộc xã Hoài Châu; còn tôi thì sanh ra và lớn lên trong thôn Cửu Lợi xã Tam Quan nổi tiếng sản xuất dầu dừa và dây dừa. Ông nội của Hắn là chủ những ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Ông nội tôi thì là chủ ghe bầu buôn bán dọc ven biển và các thành phố từ Nam chí Bắc một thời.

Tôi và Hắn cũng cùng chung số phận sống chín năm trong vùng Cộng Sản Liên Khu 5, thời kháng chiến chống Pháp, 1945-1954. Cũng có những tháng năm ngồi học trong các đình chùa bị đục vách phá bàn thờ để làm nhà kho và lớp học… Chung số phận là cháu con nhà địa chủ, sắp có chính sách đem ra tòa án nhân dân đấu tố!

Thế nhưng cuộc đổi đời năm 1954, sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, chúng tôi cởi bỏ được lớp bùn đất “Thiếu nhi Bác Hồ”; bắt đầu được học trong các trường công lập, được ca hát tự do! Hắn và tôi sau cùng vào học trường Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn. Hắn nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng học trên tôi một lớp. Gia đình Hắn có tiệm bán thuốc tây (Pharmacy), vì thế, vài năm sau, Hắn bỏ trường huyện, vào học Tabert ở Saigon. Thẳng cánh cò bay, xong trung học, Hắn vào trường thuốc. Đến năm 1970, Hắn ra Bác Sĩ và được động viên vào binh chủng Biệt Động Quân (BĐQ).

Còn tôi, đang học Văn Khoa thì bị động viên năm 1967 vào khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Năm 1970, lúc đang đóng quân ở Pleiku thì lính vào báo, “Thẩm quyền, có một số sĩ quan BĐQ đi xe Jeep trông dữ dằn lắm, tìm thẩm quyền!”Tôi cũng vừa từ đơn vị tác chiến tiểu khu Bình Định đổi lên vùng đất đỏ chưa được mấy tháng, chưa quen biết nhiều, làm sao có BĐQ là bạn tìm tôi! Trong khóa 26, ra trường có hơn 80 tên về BĐQ, nhưng chưa biết tụi nó ở đơn vị nào. Chưa quyết định thế nào thì đám rằn ri mũ nâu chạy sộc vào văn phòng, “Ê! Dũng Lùn đâu, trình diện thượng cấp!”

Dân mũ nâu rằn ri, đi tới đâu là ồn ào vang trời! Tôi nhìn lên, hóa ra tên dẫn đầu là Bác Sĩ Lê Văn Thại, tên thứ hai là Huỳnh Thọ Huyên, Khóa 26, tên thứ ba là Trần Tấn Đỡm, khóa 26, tên thứ tư là Lâm Đạo Đụng, khóa 26. Tôi bật dậy khỏi ghế như chiếc lò xo, mừng quá, bắt tay từng thằng.

Hóa ra là Hắn – Lê Văn Thại – ra trường nghề thầy thuốc năm 1970, với bảy năm chương trình Bác Sĩ Dân Sự, sau đó được động viên về BĐQ, lên Pleiku chăm sóc Liên Đoàn 2 BĐQ, Y Sỹ Trưởng, đóng hậu cứ ở Biển Hồ.

Cuộc hội ngộ “lính” vô cùng ồn ào và mùi “quân trường” còn thoảng hơi chưa phai! Chúng tôi kéo nhau ra cà phê Dinh Điền nhâm nhi và từng thằng khai “tình trạng quân ngũ,” những gương mặt mới xa, nhưng cứ tưởng không có cơ hội nào gặp lại… Ba thằng Khóa 26 Thủ Đức búng ra sửa, bây giờ trông rất “ngầu.” Bộ quân phục Biệt Động Quân, chiếc mũ nâu đội lệch, phù hiệu… Thằng nào cũng hiên ngang và tự tin! Ba thằng cùng đang phục vụ Liên Đoàn 2 BĐQ. Bác Sĩ Lê Văn Thại, Y Sĩ Trưởng, với bộ vía tác chiến Biệt Động trông rất “lính.” Hồi còn đi học, Hắn rất giỏi võ Bình Định, sở trường Hầu Quyền; vô Sài Gòn học thêm Taekwondo, Hapkido… Mỗi khi Hắn nổi hứng, nắm tay ai bóp nhẹ là người đó la làng… Hắn uống rượu như uống nước, lần nào ngồi với Hắn và mấy trự BĐQ, tôi chỉ là thằng phá mồi!
*
Rồi thời gian trôi! Chiến trường các nơi sôi động. Cánh Biệt Động hành quân rày đây mái đó. “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, tôi và đơn vị trấn thủ thành phố Pleiku để cho vợ con và dân chúng “di tản”… Sau đó, các đơn vị Biệt Động phải di chuyển xuống giải tỏa Tam Quan Bồng Sơn. Hành quân liên miên… nên tụi tôi ít khi gặp nhau; dù là ở thành phố trấn biên như Pleiku, mệnh danh là “thành phố của lính,” dù hậu cứ của tụi nó ở ngay Biển Hồ!Mỗi thằng mỗi khung trời nhỏ trong guồng máy chiến tranh.
Đã mang danh hiệu là “Biệt Động” thì có khi nào đơn vị được yên tịnh đóng ở một chỗ đâu! Cả “Vùng 2 Quân Khu II” đều là địa bàn in vết giày Biệt Động Quân; có biết bao anh hùng ngã xuống! Cuộc di tản tháng 3 năm 1975 là những ngày Quân Dân Cán Chính Pleiku – Kontum – Phú Bổn không thể nào quên. Tôi được may mắn thoát khỏi cuộc di tản trong gang tất nhờ cái lệnh thuyên chuyển về Đặc Khu Cam Ranh chỉ trước một tháng!

Cánh BĐQ của BS Lê Văn Thại, Huỳnh Thọ Huyên cùng số phận kẹt cứng trong đoàn người và quân trang quân dụng trên Tỉnh Lộ 7b. Mấy thằng Khóa 26, lúc bấy giờ vừa được thăng cấp Đại Uý, đều bị “tóm” ở gần Sông Ba – Phú Bổn! Đại Uý Huỳnh Thọ Huyên cùng chung số phận với đơn vị. Vợ và ba con của Hắn thì lạc mất trong rừng. Vợ của Huyên lạc luôn ba đứa con, một trai 5 tuổi và hai gái, đứa 3 và đứa chưa tròn một năm sanh… Sau này nhờ tìm kiếm, vợ của Huyên tìm được đứa con trai từ một gia đình người Thượng, cháu được nuôi để chăn trâu! Hai cháu nhỏ thì không còn dấu vết! Mấy tay BĐQ, bạn Khóa 26 của tôi bị nhốt ở nhiều nơi, sau rốt nằm ở Z30A Tuy Hòa. Riêng tên Bác Sĩ lì Lê Văn Thại thì thoát được về Sài Gòn.

Cuối tháng 3 năm 1975, từ Cam Ranh tôi về Saigon bằng đường bộ đến Phan Rang rồi đi ghe ở Bình Tuy về Vũng Tàu, vợ con gởi lại phía ngoại ở Ninh Hòa… Tôi và Lê Văn Thại lại gặp nhau, nhậu quên đời. Hai thằng quanh quẩn hũ rượu của ông già tôi ngâm. Rượu thuốc có thêm mùi trái ô môi vừa cay vừa ngọt. Ba tôi thấy hai đứa buồn chán nên cũng thường làm mồi cho hai đứa nhậu đưa cay!

Thê thảm nhất là ngày 30 tháng tư năm 1975. Khu xóm tôi ở trên đường Bà Hạt – Chung Cư Ấn Quang – rần rần người ra đi và rậm rật những đứa mang băng đỏ. Nếu ngày ấy hai đứa ra bến Bạch Đằng thì có lẽ đời sẽ rẽ qua hướng khác. Đàng này, hai đứa ngồi nhìn nhau không nói gì nhưng tay thì cầm ly! Tôi có hơi men, thỉnh thoảng còn bày đặt khóc nhớ vợ con chưa biết ra sao.

Cho đến một ngày cuối tháng 5, 1975, Ba tôi làm cơm đãi hai đứa ngày mai “Trình Diện Học Tập” 10 ngày bằng một chai rượu tây đem về từ Embassy Hotel. Lúc nâng ly, Lê Văn Thại đặt tên cuộc nhậu này là: “Đăng Trình Tửu.” Hôm sau, hai đứa xách bị áo quần và cái mền mỏng, đem theo tiền ăn mười ngày, mấy bao thuốc lá, đôi dép Nhật hai quai… Hai đứa hý ha hí hửng “trình diện” tại trường Petrus Ký. “Học tập 10 ngày” thì nhằm nhò gì! Ông hàng xóm nói với tụi tôi khi thấy hai đứa khăn gói gõ cửa nhà ông chào từ giã!

Tôi làm ra vẻ sành đường đi nước bước trong trường, dắt Lê Văn Thại lên lầu bên trái, chỉ vào lớp gần cuối, “ Tao mài quần chưa rách trong phòng này!” Thế là hai đứa tôi và mấy chục người trải nilon nằm dưới sàn. Có thằng leo nằm trên bàn học trò. Tôi tìm chỗ ngồi năm xưa, phía dưới hộc, quả nhiên còn tên của mình đã khắc bằng dao!

Ở “khách Sạn” Petrus Ký, ăn cơm ngày ba bữa do các nhà hàng nổi tiếng ở Chợ Lớn cung cấp… Mọi người hý ha hý hững cho rằng “Cách Mạng” đối đãi “Kẻ Đầu Hàng” sao mà tử tế quá!

Nửa đêm, sau mấy ngày nằm chờ đợi “việc gì sẽ xảy ra,” chúng tôi được gọi tên từng thằng, sắp hàng một, ôm hành lý leo lên xe bịt bùng đang đậu hàng dài trước cổng trường. Cứ hai mươi thằng leo lên, trên xe có sẵn hai chú nhóc bộ đội gườm súng bên hông. Xe phủ bạt kín mít, xe chạy rần rật trên các đường trong thành phố, chẳng ai biết nó về hường nào mà đoán!

Hai chú nhóc tì mặt hầm hầm, luôn gườm súng hăm doạ, “Không được nhìn ra ngoài, không được ồn ào nhúc nhích…” Xe chạy miết đến xế chiều, chúng tôi được phát lương khô “made in China.” Cuối cùng rồi cũng đến nơi, xe ngừng trong một trại lính của VNCH gần núi Bà Đen, Trảng Lớn Tây Ninh! Doanh Trại này, không biết trước kia làm gì mà có những gian trống trơn, chỉ có sàn xi măng quá to, quá dài, rất nhiều căn trại như thế chứa chúng tôi. Cứ hai chục thằng là một B, “cán Bộ” chỉ định B Trưởng, chia nhau trải chiếu hay bao nilon nằm san sát bên nhau cho có hơi ấm! Cứ thế ở đó tự phân chia nấu ăn, tự biên tự diễn. Nếu có đứa nào bịnh thì “Bác Sĩ Cách Mạng” đến khám và bôi dầu cù là, chứ không có thuốc gì hết!

BS Lê Văn Thại tìm được trong đám đông thêm bạn. Đó là BS Lê Văn Một, người miền Nam, râu quai nón. Hai tên Bác Sĩ bắt đầu ngứa nghề. Trong đám ngàn người ngủ giống như ngoài trời suốt hai ba tháng trời, chuyện bệnh hoạn xức dầu cù là… được chúng tôi âm thầm chuyển qua “Bệnh Viện Một- Thại.” Hai tên này kể cũng mát tay nên ít khi phải gọi Bác Sĩ “Dầu Cù Là”!

Nhưng khi “biên chế,” một số về trại lính Sư Đoàn 18 ở Long Khánh, B19 của tôi, B20 có Thại và Một, đều xách gói lên xe. Ở trại mới một thời gian, đang “được lên lớp” bài đầu tiên: “Ba Dòng Thác Cách Mạng” của Lê Duẫn thì có bốn thằng trốn trại trong đêm. Hai ngày sau thì tụi nó bị bắt , trong túi xách có một số thuốc tây, chúng khai là của BS Lê Văn Thại cho!

Thế là nửa đêm, rần rật súng ống và cả đám đông bộ đội bao vây nơi BS Thại nằm, lôi hắn xuống sàn, còng số tám, đọc lệnh nhốt vào co néc (conex) – Khung sắt này hình khối vuông, trước kia “Xâm Lược Mỹ” dùng loại này chở quân trang quân dụng, chuyên chở từ Hoa Kỳ bằng tàu thuỷ cung cấp cho chiến trường… Hắn bị thẩm vấn và nhốt vào cái khung sắt “kiên cố” đó bằng một khóa bự! Trời Long Khánh nắng đổ lửa, mà ngồi trong cái thùng sắt dày, không có lỗ thông hơi, bị khóa trái, ăn ngủ, tiêu tiểu một chỗ… Do Bác Sĩ Lê Văn Một được “đặc trách” chăm sóc. Chúng tôi cứ tưởng chừng mấy ngày là Hắn chết khô! Thế mà nhờ ngồi thiền, Hắn không chết.

Mấy tháng sau đó, một buổi trưa hè nóng gắt, kho đạn kế bên trại giam chúng tôi không biết sao phát nổ. Toàn bộ bom, hoả tiển, đạn 81 ly, 60 ly, M79 không những nổ mà còn bay đầy trời! Vụ nổ kéo dài đến tối. Trong trại chết một ít nhưng bị thương thì hơi nhiều. Ngoài dân chúng, những trái hỏa tiễn bay xa làm sập nhà và chết nhiều hơn chúng tôi. Vòng thiệt hại ở xa trung tâm nổ, nhiều hơn vòng trong gần với kho đạn!

Trong lúc kho đạn nổ bay đầy trời, mấy anh chàng nhát gan nhảy xuống các hố hay giếng khô trốn thì đạn lại rơi vào chết thảm. Những thằng sợ quá mất khôn lấy đôi guốc gổ che lên đầu đi lửng lơ như người điên, thế mà chẳng sao. Có thằng lấy miếng carton che đầu… Riêng BS Lê Văn Thại an toàn ngồi trong khung sắt nghe tiếng nổ bên ngoài. Còn tôi chui vào một cái lỗ trong đống gạch, hai chân lòi ra ngoài chịu trận!

Sau vụ nổ, một thời gian ngắn, chúng tôi được leo lên xe đến “Khu gia binh” ở Long Giao. Lê Văn Thại được “tháo củi sổ lồng” lên xe cùng chúng tôi. Hắn vốn đã là người ốm cao lêu nghêu, bấy giờ xác xơ đi không muốn nổi. Hồi còn sinh viên, tôi đặt tên Hắn là “Khô trúc Đại Sư”!

Hai đứa ở Long Giao một thời gian ngắn thì tôi “được thuyên thuyển” ra Bắc trên con tàu chở xi măng, để nổi trôi Hoàng Liên Sơn, Lao Cay, Yên Báy, Vĩnh Phú… Còn Hắn, “được tha về” vì có cái made in Bác Sĩ! Làm việc dưới quyền các Bác Sĩ vốn xuất thân từ trường thuốc “Dầu Cù Là”. ..
*
Tôi được “Cách Mạng khoan hồng” lệnh tha về từ trại tù K2 Tân lập Vĩnh Phú, phải mất 10 ngày từ nhà tù, vượt qua con sông Đà, ngồi tàu lửa chen lấn, từ ga Ấm Thượng về Hà Nội và con tàu suốt xuyên Việt. Về đến Sài Gòn thì mới hay là ông nội tôi đã qua đời 10 ngày trước, vì nghe tin tôi được ra tù, mừng quá lên máu đứng tim! Bước vào nhà cha mẹ tôi, Ba tôi chờ bên bàn thờ chít khăn tang cho thằng cháu đích tôn. Bác Sĩ Lê Văn Thại cũng có mặt.

Hắn kể lể một loạt từ khi hai đứa xa nhau. Lúc Ông Nội tôi bị đứng tim thì có Hắn đưa cấp cứu nhà thương Chợ Rẫy và ẵm xác ông nội tôi về lại nhà. Hắn thay tôi trực lo chôn cất, sát cánh với gia đình thằng bạn còn trong tù ngục.

Mấy tháng sau Hắn dẫn đến nhà một cô gái trẻ đẹp, có duyên và nói tiếng Bắc Kỳ ngọt xớt giọng Hà Nội. Hắn giới thiệu tên cô là Dung đang làm Nữ Ý Tá ở Bệnh Viện Chợ Rẫy. Ba tôi xách một chai đế ngâm thuốc và má tôi thì xào đĩa thịt bò hành tây đãi khách. Dung uống rượu cũng rất là tâm đắc với Thại. Tôi ngồi chuốc rượu mà ngạc nhiên là Hắn tìm đâu ra kỳ phùng địch thủ…

Một năm sau thì Hắn mời vợ chồng tôi mừng đám cưới Hắn với Dung. Năm đó Hắn 40 tuổi, là Bác Sĩ mà hàm răng cái mất cái còn trông tội nghiệp. Cô Dung y tá năm đó 25 xuân xanh! Một trời thơ mộng hạnh phúc mở ra cho thằng bạn tôi. Đám cưới ngoài vườn cây của ba mẹ Hắn trên Phú Lâm. Ngồi dưới tàng cây nhậu là hết ý.

Tôi nỗi hứng đứng lên trước hàng bao nhiêu Bác Sĩ, bạn bè tứ phương tụ tập vui chuyện chúc mừng. Tôi ra câu đối chúc mừng tân Lang và tân Giai nhân. Vế đầu tôi đọc lên: “Bốn mươi tuổi tròn, răng không còn, Thầy Lang cưới vợ!” Nếu ai đối hợp ý thì được toàn thể cử tọa vỗ tay và cụng ly với một chai rượu tây chính cống!

Thế là một không khí ồn ào náo nhiệt bàn tán về ý của câu đối và rất nhiều tài danh viết nạp câu đối. Cuối cùng một anh bạn, nay đã quy tiên, có câu đối như thế này: “Hai mươi tuổi lẽ, vẫn còn trẻ, Y Tá vu quy” Câu đối được chấm xuất sắc!

Tôi và gia đình không được nhập cư Sài Gòn với cha mẹ, tuy trước năm 1975 chúng tôi có tên trong hộ khẩu. Vì thế nên chúng tôi phải đi vùng “Kinh Tế Mới” ở Đồng Nai. Thời gian này Thại làm việc tại Bệnh Viện “Bệnh Nhiệt Đới” Chợ Quán. Cha Mẹ vợ Thại có con ở Hoa Kỳ đang làm bảo lãnh cho toàn thể gia quyến sang Mỹ. Lê Văn Thại lúc đó đã có được một con gái kháu khỉnh dễ thương tên Ngọc. Hắn không muốn ra đi “tùy theo quê vợ” nên cứ dùng dằng “em chả”! Nhưng cuối cùng thì cũng phải vì tương lai con gái mà “theo em xuống thuyền.”

Về phần tôi, năm 1990, cả gia đình tôi được giải thoát theo HO3 tháng 7 năm 1990 và định cư ở Nam Cali. Gia đình Thại, vì không đủ ba năm ở tù nên được đoàn tụ với đại gia đình vợ, định cư tiểu bang Oregon! Hắn quyết tâm học và quyết tâm lấy cho được bằng Bác Sĩ ở Hoa Kỳ, dù Hắn lúc đó đã lớn tuổi và sau năm 1990 thì chuyện học lấy BS rất khó! Vì nhiều lý do mà Hắn không thể theo học nghề thầy thuốc sau hai năm gắng sức! Trước kia Hắn học trường Pháp, bảy năm mài quần trong Y Khoa Đại Học Sài Gòn, đậu bằng Bác Sĩ theo chương trình Pháp ở VN. Qua Hoa Kỳ hóa ra Hắn trở thành một tên “lộn chuồng”!

Lúc Hắn than là học khó quá, tôi khuyên Hắn, “Mầy bỏ ý định thành BS ở đây, mầy mở võ đường dạy võ Bình Định, Thiếu Lâm hoặc cùng với BS Phạm Gia Cổn dạy võ Hàn Quốc thì tốt hơn.” Hằn mỉm cười làm thinh tiếp tục hành hạ thân xác vì sĩ diện (?!).

Chính vì thế mà Hắn chán đời, chán vợ, chán con… lặn sâu qua tiểu bang Delaware với mấy bạn Biệt Động Quân chán đời, cùng ở dưới hầm nhà hơn tám chín năm trời để săn bắn và nhìn trời chiều bãng lãng! Hắn chỉ sống với bạn bè BĐQ là chí cốt. Theo BĐQ Đỉnh Đầu Bạc, thì hầu hết cánh BĐQ đều thương mến Hắn kể cả Tướng Tất, vị Tướng cấp trên của Hắn. Phe Thầy thuốc thì hình như Hắn chỉ còn liên lạc với BS Phạm Gia Cổn.

Khi con gái Hắn đậu bằng Bác Sĩ, hắn lên tinh thần và về lại Cali ở với con gái. Bác Sĩ Ngọc rất có hiếu và chăm sóc tận tình, chiều chuộng ông cha già ương ngạnh! Nhưng cô Bác Sĩ trẻ dễ thương này lại thường xuyên ở nhà thương hơn về nhà!

Tháng 3 năm 2019, Hắn được xe cấp cứu ò e, chở vào Fountain Valley nằm đã gần 10 ngày. Tôi vào thăm, Hắn nhìn tôi cười đểu, “Ê Lùn! Sao không xách theo chai nào mà đi không vậy?” Cầu mong Hắn chóng qua cơn “bệnh viện,” tôi sẽ nói với bà xã đúc bánh xèo “dõ” (chỉ có bột gạo) kiểu Tam Quan, hắn rất thích, chấm với mắm nêm; đãi Hắn một bữa với vài ly xoay chừng! Bây giờ Hắn cũng không còn uống được mấy ly, nhưng gà vẫn còn nhớ tiếng “gáy” một thời vang bóng!

Sau ba năm ở với con gái tối ngày đi trực bệnh viện vì dịch Covid-19 và là Bác Sĩ chuyên khoa, con gái Hắn ít khi ở nhà với Hắn. Nơi ở của hắn và con gái xa Westminster hai giờ lái xe trên xa lộ, chung quanh rất ít người Việt Nam sinh sống. Hắn không dùng Iphone (chỉ sử dụng phôn cầm tay kiểu hồi thời năm 2000), không chơi internet, không email, không lấy bằng lái xe… Bao năm tháng ở cái xứ Hoa Kỳ này mà như Hắn thì có phải chính Hắn tự hủy hoại mình và hành hạ thân xác dẫn đến chỉ một đường… tự giải thoát!

Được vợ Hắn báo tin Hắn đã được thoát xác ngày 3 tháng 3 năm 2022, tôi đang lái xe, phải dừng lại bên lề đường vì xúc động. Bây giờ Hắn nằm xuống, con gái Hắn không thể làm gì hơn là ngồi khóc, vợ Hắn thì đã sang ngang từ bao nhiêu năm rồi. Nhưng phút cuối cùng Hắn cũng được gục chết bên vợ con với những lời trăn trối sau cùng nhắn với bạn bè chào vĩnh biệt!

Một người tài hoa không giống ai, một Bác Sĩ không giống ai, một người bạn mà mọi người đều cảm mến! Hắn là Lê Văn Thại!
(Tháng 3 năm 2022)
LETAMANH

Cuộc Chiến Đấu Bi Hùng Của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu (Đào Vũ Anh Hùng)

Bài ca biệt ly của quân lực VNCH được diễn tả bằng những hành động, những trận đánh ngoạn mục của người lính VNCH trong trận thư hùng với các binh đoàn Cộng Sản lần cuối vào những giờ phút hấp hối của miền Nam. Đó là những trận đánh cực cùng dũng cảm, bi thương, hùng tráng và tuyệt vọng, trước sự chứng kiến của cả trăm ký giả, phóng viên ngoại quốc, những nhà ngoại giao, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu quân sử…

Đó là Thiên Anh Hùng Ca bất khuất của một quân lực trong suốt hơn hai mươi năm chống giữ và bảo vệ cái tiền đồn của thế giới tự do trước làn sóng xâm lăng cộng sản. Thiên anh hùng ca bất hủ đã được nhiều nhân chứng tôn vinh và ngưỡng phục. Sau cuộc tan hoang, miền Nam Viêt Nam bị mất về tay CS, nhiều người đã công khai nói lên lòng cảm phục cùng sự thương tiếc cho một quân lực hùng mạnh và quả cảm đã gánh chịu một kết thúc đau thương, ngập tràn uất hận.

Ký giả Peter Kahn của đại nhật báo The Wall Street Journal, dưới cái tựa “Truy Điệu Nam Việt Nam” ngày 2-5-75, nghĩa là hai ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ đã ngậm ngùi kết luận: “Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm và không phải họ luôn luôn được người Mỹ giúp đỡ. Tôi nghĩ không có quốc gia nào có thể chịu đựng được một cuộc chiến dai dẳng và tàn khốc đến như vậy… Rốt cuộc quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của mọi người.

David Halberstam, một ký giả Mỹ đầy thiên lệch khi nhận định về chiến tranh Việt Nam, nhưng khi chứng kiến sự sụp đổ của miền Nam thì cũng phải phẫn nộ thú nhận trên tờ Newsweek, “Tất cả những sự thất bại lịch sử và những sự hèn nhát tồi tệ của biết bao nhà lãnh đạo Tây phương đều chồng chất lên lưng những người lính Nam Việt Nam… Thật là bất lương và bất công! Sự nhục nhã là của chúng ta chứ KHÔNG PHẢI LÀ CỦA QUÂN ĐỘI VNCH!”

Hầu hết các phóng viên báo chí, các ký giả ngoại quốc trước đây từng công khai bênh vực và nghiêng hẳn về phe VC, đã phản tỉnh đã xám hối khi chứng kiến cuộc kháng cự dũng mãnh, hào hùng và bi thảm của những đơn vị quân đội ở lại chiến đấu cho đến người lính cuối cùng, đến giọt máu cuối cùng. Piere Darcourt đã nồng nhiệt ca tụng lòng dũng cảm của quân lực VNCH ở Xuân Lộc, của một đơn vị Nhảy Dù ở Lăng Cha Cả, của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu và dành sẵn một đoạn dài mô tả cuộc chống trả hiên ngang của các Sinh Viên trường Võ Bị Đà Lạt trên các đường phố Sài Gòn. Người ta đã nói rất nhiều đến những tấm gương tuẫn tiết của các vị Tướng anh hùng, những cuộc tự sát tập thể của những người lính vô danh VNCH không chịu đầu hàng kẻ thù, nói đến những kỳ tích chiến đấu của những đơn vị Quân Lực miền Nam.

Một trong những trận đánh anh hùng ấy đã làm mủi lòng biết bao nhiêu người, đã gây xúc động biết bao nhiêu con tim. Những giòng nước mắt đã dàn dụa đổ xuống khi chứng kiến cuộc chống trả tuyệt vời và ngoạn mục có thể nói trên thế giới, không một quân sử nước nào có thể có được.

Đó là cuộc chống trả của các THIẾU SINH QUÂN ở Vũng Tàu trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, khi cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong Thị Xã.

Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ và rơi vào tay cộng quân. Ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do những thiếu niên tuổi 12, 13… đến 17 tự lập phòng tuyến quyết tâm tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và những chiến sỹ gan dạ anh hùng đó là những thiếu sinh măng trẻ của trường.

Địch đã tung hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này nhưng chúng đã gặp phải một lực lượng vũ trang đáng kể hiên ngang đương đầu với chúng. Cộng sản đã coi thường những chú lính sữa chưa bao giờ biết mùi trận mạc. Chúng bắt loa kêu gọi các em đầu hàng và buông lời hăm doạ… Tiếng loa vừa dứt, Viêt Cộng nhận ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 700 tay súng tí hon. Tiếp theo là hàng trăm mũi súng nhắm thẳng vào bọn VC bên ngoài, phẫn nộ lảy cò. Vài tên Bộ Đội bị đốn ngã ngay trong loạt đạn đầu tiên. Bọn Việt Cộng phải đứng khựng lại trước tinh thần quyết tử cuả 700 hậu duệ anh hùng Trần Quốc Toản. Chúng không giám tấn công ngay vì các em quá nhỏ và vì có sự hiện diện của đồng bào.

Chúng lui ra xa tránh đạn, bắc loa ra lệnh các em phải đầu hàng đúng 9:30 sáng hôm sau, ngày 30 tháng Tư.

Mặc VC kêu gọi và đe doạ, Thiếu Sinh Quân vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm lũy phòng ngự, tổ chức giao liên, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương và cứu hoả… Anh lớn chỉ huy các em nhỏ, áp dụng tuyệt vời những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được giảng dậy ở quân trường.

Đúng 9:30 sáng ngày 30-4. Cộng quân ra lệnh gọi đầu hàng lần chót nhưng các chiến sỹ tí hon vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn.

VC nổi cơn khát máu. Chúng khai hoả, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng. Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, không ngờ sức chống cự quá mãnh liệt và hoả lực từ bên trong bắn ra vô cùng chính xác vào những bia sống, những cái bia người “SINH BẮC TỬ NAM”. Các em chưa bao giờ được bắn, nay đã bắn với tất cả căm thù, mong dành lại những gì sắp bị cướp mất.

Thiếu Sinh Quân có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Ngoài ra còn có lợi điểm là các công sự trong trường, vừa đánh vừa di chuyển, ẩn núp, trong khi bộ đội VC lớ ngớ như bầy chuột chù ra ngoài ánh sáng. Lại có những thanh thiếu niên và Quân Nhân vỡ ngũ bên ngoài hào hứng và kích động, tìm cách lẻn vào tăng cường tay súng, nhập cuộc cùng các Thiếu Sinh Quân chiến đấu ngay trong sân trường, đột kích, đánh bọc hậu bọn bộ đội khiến chúng nao núng và hốt hoảng.

VC đã bắn sập một khoảng tường nhưng không thể nào vượt qua được lưới đạn của các chiến sỹ nhỏ tuổi nhưng can trường. Các em đã chiến đấu thật gan dạ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, phối hợp nhịp nhàng và KỶ LUẬT như những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến nhà nghề.

Đây là trận đánh thực sự đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của các em còn đang giở khoá học. Trận đánh QUYẾT TỬ đã đi vào lịch sử.

Các Thiếu Sinh Quân đã chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những đứa con bé bỏng của quê hương đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, mộng đời chưa trọn. Đồng bào chứng kiến cảnh bi thương này đã oà lên khóc. Có những bà mẹ kêu gào, lăn xả vào cản ngăn họng súng bọn bộ đội để che chở cho những thiếu niên ở bên trong.

Tiếng nổ, tiếng hò hét, tiếng kêu khóc, tiếng loa uy hiếp của VC đã tạo nên một không khí chiến trường lạ lùng chưa từng thấy… Các Thiếu Sinh Quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực của tuổi trẻ hăng say hào hứng như đang tham dự một trò chơi lớn.

Cuộc chống cự kéo dài đến 3:00 chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho VC thương thảo. Họ đòi hỏi VC chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng…

Và các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ KHÔNG ĐỂ CHO BỌN CS làm nhục lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền PHẢI THƯƠNG YÊU và BẢO VỆ.

Có chừng hơn một Trung Đội TSQ đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc Kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây ngọc bích. Hai TSQ lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào. Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài giây phút thiêng liêng cảm động này, nước mắt đầm đìa.

Tất cả TSQ từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà…., không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca.

Gần 700 giọng hát hùng tráng cát lên, vang khắp sân trường. Bọn bộ đội nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang đến tận bến Dâu, bến Đình… Mọi người dân Vũng Tàu đã đều nghe và rung động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cùng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát.

Các Thiếu Sinh Quân đã làm lễ mai táng đất nước, đã TRANG NGHIÊM RỬA SẠCH tấm bia DANH DỰ của Quân Đội VNCH, đã vuốt mắt cho Mẹ Việt Nam yên nghỉ qua lễ hạ kỳ lần cuối chỉ một không hai này. Họ hát bằng tiếng nấc thê lương và phẫn uất từ sâu thẳm trái tim, với những nghẹn ngào cùng dàn dụa của nước mắt. Đồng bào cùng thổn thức thương tủi và thổn thức hát theo.

Thời gian như ngưng đọng lại trong giờ khắc thiêng liêng và bi thảm, xúc động cùng lẫm liệt đó.

Cho đến bây giờ, nhiều người vẫn nghe văng vẳng trong sâu kín của buồng tim đã thắt nghẹn, tiếng bi thương hùng tráng của các Thiếu Sinh Quân hát bài Quốc Ca trên đất nước, trong ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen, ngày oan khiên định mệnh cho dân tộc Việt.

Người phụ nữ Việt Nam làm gián điệp hai mang

1*. Câu chuyện mở đầu

Trong cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi (A Thousand Tears Falling), bà Đặng Mỹ Dung thuật lại cuộc đời và công tác gián điệp của bà.

Bà là người con thứ tư trong gia đình 7 anh chị em, 5 gái, 2 trai. Người cha tên Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh. Bà mẹ tên Trần Thị Phàm. Người cha, Đặng Quang Minh, là cán bộ cao cấp của Việt Cộng, đã từng làm đại sứ của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” ở Liên Xô và một số nước Cộng Sản Đông Âu.

– Sau Hiệp định Genève 1954, Đặng Quang Minh và con trai đầu lòng là Đặng Văn Khôi tập kết ra Bắc. Bà mẹ và các con nhất định không đi tập kết vì không ưa chế độ Cộng Sản. Ông Minh không muốn làm áp lực mạnh, vì tin tưởng rằng hai năm sau sẽ trở về đoàn tụ gia đình.

Sau khi học hết chương trình trung học ở trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ, năm 18 tuổi, Mỹ Dung nhận được việc làm ở phòng Tâm lý chiến thuộc Quân đoàn 4, Cần Thơ..

Bà Đặng Mỹ Dung (Yung Krall)

Bà mẹ bán tiệm may, cùng với mấy chị em dọn về Sài Gòn.

Ở Sài Gòn, Mỹ Dung được thu nhận vào làm việc tại Trung tâm BOQ (Bachelor Officers’ Quarter). Ở đây bà gặp và thương yêu nhau với Trung úy Hải Quân John James Krall, tình báo Hải Quân Hoa Kỳ. Sau vụ tấn công Tết Mậu thân 1968, cả hai về Mỹ, và làm đám cưới tại Monterey, California. Dung được đổi thành Yung và lấy họ của chồng là Krall. Cái tên Yung Krall từ đó.

Năm 1975, John J. Krall chuyển về làm việc ở Hạm đội Thái Bình Dương, do Đề đốc Gaylor làm Tư lịnh.

Yung Krall xuất sắc trong vai trò gián điệp đôi, đã phá vỡ hai ổ gián điệp Việt Cộng ở Hoa Kỳ và Pháp.

Trong tựa đề của cuốn “Ngàn Giọt Lệ Rơi”, cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ,  Griffin Boyette Bell đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với đất nước chúng ta”.

2*. Tình nguyện làm gián điệp để di tản gia đình.

Bất ngờ vào một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú điện thoại từ Paris của một người Pháp, xưng tên Jean Sagan, bạn thân của cha bà là Đặng Quang Minh, báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ, và hối thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và em ra khỏi nước. Yung Krall sực nhớ lại 3 năm trước, có nhận được, cũng của kẻ trung gian bí mật này, một bao thơ (không ghi tên người gởi), cũng từ Pháp, chuyển một số hình của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hà Nội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh.

Chồng của Mỹ Dung là Thiếu tá John J. Krall xin nghỉ phép 30 ngày, tức tốc bay về Việt Nam, vận động với Sứ quán Hoa Kỳ để đưa mẹ vợ và em vợ được sang Mỹ.

Theo nguyên tắc, chuyến đi nầy bất hợp pháp, vì Bộ Quốc phòng Mỹ cấm sĩ quan tự ý đến Việt Nam, nếu không có công vụ lịnh của cấp chỉ huy.

Việc nầy làm cho Yung Krall lo âu, không biết việc gì có thể xảy ra cho chồng và gia đình ở Việt Nam. Bà liền nghĩ ra một ý kiến táo bạo, là điện thoại cầu cứu thẳng cho Đề đốc Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương.

Sau một thời gian chờ đợi, khó khăn, Mỹ Dung được nói chuyện với Đề đốc. Bà cho biết chức vụ của cha ba` trong chính quyền Việt Cộng, đồng thời cho biết những nguy cơ của mẹ, kể cả nội dung cuộc điện đàm với người Pháp tên Jean Sagan, về nguy cơ sụp đổ của chính quyền miền Nam. 

Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải Quân Dave Smith tiếp xúc với bà để lấy thêm những chi tiết cần thiết. Trong cuộc gặp gỡ nầy, để được chắc ăn, Mỹ Dung cho biết, bà sẽ tình nguyện phục vụ chính phủ Hoa Kỳ khi nào cần đến.

Tình nguyện của bà có hiệu quả nhanh chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân viên CIA, mặc thường phục, tên Bob Jantzen đến tận nhà bà, sốt sắng ghi đầy đủ lý lịch của thân nhân bà ở Việt Nam. Bob cũng hứa sẽ thông báo cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, cho biết John Krall đang ở Việt Nam.

Tham vụ Ngoại giao của Sứ quán Mỹ ở Việt Nam là Grant Ichikawa liên lạc được với chồng bà để sắp xếp mọi việc cho thân nhân của bà. Ngày 10-4-1975, John Krall về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và em của bà đến phi trường Honolulu, Hawaii.

Tháng 6 năm 1975, Bob Jantzen cho Mỹ Dung gặp sĩ quan phụ trách công tác là Robert Hall (Rob) là người trực tiếp làm việc với Mỹ Dung, trong những việc như theo dõi công tác, ra chỉ thị, nhận báo cáo…Rob cử Mỹ Dung theo học khóa huấn luyện ở Langley.

3*. Mỹ Dung gặp cha lần thứ nhất sau 20 năm xa cách.

Ngày 20-7-1975, Mỹ Dung vui mừng khi đọc được một bản tin trên tờ báo Japan Times, cho biết ngày 5-8-1975, hai phái đoàn Hà Nội và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, do Đỗ Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẫn, sẽ đến Tokyo dể tham dự Hội nghị Quốc tế, chống bom nguyên tử.

Mỹ Dung vui mừng, liền bay qua Nhật với đứa con trai tên Lance, 5 tuổi, để gặp lại cha sau hơn 20 năm nhớ thương. Trong cuộc gặp, Đặng Quang Minh không dám nhận con gái và cháu ngoại, mà bảo là người quen cùng làng. Mỹ Dung đau buồn vì không nói được tiếng Ba đối với người cha vô cùng thương nhớ, mà xưng hô với nhau là bác, cháu.

Khi chia tay, Ông Minh an ủi con gái: “Ba không tìm cách thay đổi con, nhưng xin con cũng đừng dày xéo niềm tin của ba. Nếu con thoải mái với niềm tin của con thì ba cũng hài lòng”.

4*. Mỹ Dung gặp cha lần thứ hai.

Giữa tháng 9 năm 1975, khi được biết người cha có chuyến công tác đến Paris, Mỹ Dung làm thủ tục để đưa mẹ (Bà Trần Thị Phàm) sang Pháp để gặp cha.

Trước ngày khởi hành, sếp CIA là Jerry Parker tiếp Mỹ Dung tại một nông trại ở Virginia, ông tỏ ý muốn giúp sĩ quan Việt Cộng Đặng Văn Khôi, là anh cả của Mỹ Dung, đào thoát khỏi chính quyền Cộng Sản.  Khôi là chuyên viên về tên lửa hướng dẫn (guided missiles) được huấn luyện ở Trung Quốc và Liên Xô. Robert Hal được lịnh qua Paris để theo dõi và giúp đỡ Mỹ Dung.

Tại Paris, bà Trần Thị Phàm vui mừng tràn đầy nước mắt khi gặp lại chồng sau 21 năm xa cách. Những ngày vui ngắn ngủi qua mau, bà Phàm lại đầm đìa nước mắt khi chia tay. Ông Minh lên máy bay Aeroflot về sứ quán của ông ở Liên Xô.

Cũng tại Paris, ông Phan Thanh Nam, đại diện Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đề nghị để cho sinh viên Phạm Gia Thái đưa mẹ con bà Mỹ Dung về ngụ ngôi nhà ở Verrière-la-Buisson, đồng thời làm hướng dẫn viên hai người khách đi thăm Paris. Bà Mỹ Dung khéo léo từ chối, là đã thuê phòng tại khách sạn rồi.

Cũng trong lần gặp gỡ nầy, cả ông Đặng Quang Minh và Phan Thanh Nam đều thuyết phục mẹ con bà Mỹ Dung hãy về sống tại Việt Nam.

Đại sứ Việt Cộng Võ Văn Sung mời bà Mỹ Dung đến sứ quán, tỏ ý muốn chồng bà, Thiếu tá John Krall, tiếp xúc làm việc với cha vợ Đặng Quang Minh, giúp Hà Nội. Đồng thời vận động dư luận quần chúng Mỹ đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh 3.25 tỷ đôla như Tổng thống Richard Nixon đã hứa hồi tháng 2 năm 1973.

Võ Văn Sung cũng cho biết, Việt Cộng có một số “cảm tình viên” ở Mỹ, và yêu cầu bà Mỹ Dung tiếp xúc và làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nước ở San Francisco tên Phan Thanh Nam, ông Nam cũng tuyển mộ Mỹ Dung làm việc cho Cộng Sản để thu lượm tin tức trong chính quyền Hoa Kỳ. Hắn cũng đề nghị Mỹ Dung nên giả vờ như một người chống Cộng. (“You should even pretend that you are anti-communist).

Khi trở về Hawaii, Yung Krall được CIA chỉ thị, cùng chồng dời về sinh sống ở thủ đô Washington, D.C.

Hướng công tác mới là phá vỡ hệ thống gián điệp Cộng Sản ở nước ngoài.

5*. Yung Krall đóng vai trò gián điệp nhị trùng.

Đặng Mỹ Dung được bố trí đóng vai gián điệp nhị trùng, một vai trò khá nguy hiểm, là khi có gián điệp nhị trùng của hai bên đụng độ với nhau, nhưng Mỹ Dung vẫn chấp nhận.

Vài tháng sau, Mỹ Dung trở qua Paris để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều ở Pháp.

Mỹ Dung được hướng dẫn đi thăm trụ sở và thư viện, chứa đầy những tài liệu tuyên truyền. Tham dự những buổi học tập của cán bộ, và gặp các phần tử tha^n Cộng Việt-Pháp. Bà cũng được trao những ấn phẩm Anh-Việt để phổ biến ở Hoa Kỳ.

Điều quan trọng là Huỳnh Trung Đồng căn dặn Mỹ Dung phải tiếp xúc với cán bộ Nguyễn Thị Ngọc Thoa ở thủ đô Washington, để phối hợp hoạt động. Ngọc Thoa là người cầm đầu mạng lưới tình báo ở thủ đô Washington.

Về Mỹ, khi nghe Mỹ Dung báo cáo, sếp CIA Robert Hall ngăn cản, không cho Mỹ Dung gặp mặt Ngọc Thoa, cho đó là vụ việc của FBI. Sếp CIA hăm dọa, sẽ bãi nhiệm Dung, nếu không tuân lịnh. Cho rằng, không một ai được phép làm việc cùng một lúc với CIA và FBI.

Đối với Mỹ Dung, đó là việc duy nhất mà bà phải làm, và hơn nữa, bà đã bỏ ra nhiều công sức, chỉ còn một vài bước nữa là hoàn tất công việc.

Mỹ Dung bướng bỉnh cãi lại, cho rằng bà đã làm việc không ăn lương cho CIA suốt 9 tháng qua, và không có một hợp đồng nào cả, không có một ràng buộc nào cả. Bà không phải là nhân viên chính thức của CIA.

Mỹ Dung nhờ chồng trình vụ việc lên Đề đốc Bobby Inman, Giám đốc Cục Tình báo Hải Quân, mà John Krall là nhân viên của cơ quan nầy.

Vài hôm sau, Đề đốc Inman tiếp xúc với bà. Bà cho biết, việc cần thiết phải làm, là phá vỡ màng lưới gián điệp Việt Cộng ở Hoa Kỳ.

Ông Inman hứa sẽ thảo luận với Giám đốc FBI là ông Clarence Kelly.

Vào tháng 6 năm 1976, nhân viên FBI Bill Flesman và nhân viên đặc trách CIA, Bill Reardon được chỉ định cùng làm việc với Mỹ Dung. Từ đó, một điệp vụ có hợp đồng chính thức.

6*. Vụ án gián điệp Đinh Bá Thi và Trương Đình Hùng

6.1. Mỹ Dung đến gặp bà Nguyễn Thị Ngọc Thoa

Do bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt Kiều ở Pháp, Mỹ Dung gặp bà Ngọc Thoa một cách dễ dàng, tại một căn gác nhỏ ở địa chỉ đường 18th Street, thủ đô Washington. Địa chỉ nầy là nơi phát hành tài liệu tuyên truyền của Việt Cộng, cũng là nơi phát hành nguyệt san Người Việt Đoàn Kết. Nhờ sự giúp đỡ của LM Trần Tam Tĩnh, Canada, nguyệt san xuất bản 5,000 số mỗi tháng.

Bà Thoa sống rất kín đáo và kham khổ. Có chồng Mỹ là người thiên tả, thân Cộng.

Hệ thống hoạt động của bà Thoa gồm những trí thức người Việt thân Cộng ở Mỹ.

Trương Đình Hùng (David Hùng)

Một sinh viên có khả năng và hăng hái hoạt động là Trương Đình Hùng, con của LS Trương Đình Dzu. Bà Mỹ Dung trở thành người “giao liên” chuyển những bao thơ mật của Trương Đình Hùng và của bà Thoa đến Huỳnh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở Paris. 

Đương nhiên là những thơ mật đã được copy để lưu hồ sơ. Trong đường dây gián điệp Việt Cộng, bà Mỹ Dung cũng bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco, và những thành viên khác.

6.2. Nữ điệp viên Đặng Mỹ Dung đến gặp Đại sứ Việt Cộng Đinh Bá Thi ở trụ sở Liên Hiệp Quốc.

Đinh Bá Thi (Thứ hai từ trái)

Cuối năm 1976, bà Dung điện thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ Việt Cộng ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York. Ông Thi vui vẻ nhận lời vì đã quen biết với cha bà là Đặng Quang Minh. Mục đích đến thăm là trao một bao thơ mật mà Trương Đình Hùng gởi cho ông.

Ông Thi mời bà Dung đến ở tại Sứ quán Hà Nội ở LHQ. Sự việc bất ngờ, ngoài dự liệu. Bà thông báo cho hai sếp CIA và FBI, cho biết, nếu trong 3 ngày mà không có liên lạc, thì có thể gặp nguy hiểm.

Bà Dung cho biết, trong sứ quán, ngoài ông Thi ra, thì chỉ có 4 người. Họ ăn ở chung với nhau. Thường xuyên nghe ngóng thời sự qua 3 cái tivi, và không ai được phép rời New York quá 25 dặm.

Tất cả đều nhịn ăn sáng để tiết kiệm. Đó là thời điểm mà người Việt trong nước ăn bo bo hoặc ăn độn với khoai.

Theo bà Mỹ Dung thì ông Thi tánh tình cởi mở, không quá khích. Ông cho biết, vợ ông bịnh nặng ở Việt Nam mà chính phủ không cho xuất ngoại, vì nguyên tắc là nhân viên ngoại giao không có quyền đem gia đình theo, để tránh nạn đào ngũ. Ông Thi buồn rầu nhận định: “Khi một chế độ không mang lại hạnh phúc cho dân và không đưa đất nước tiến tới một tương lai đã hứa hẹn, thì phải thối lui, và tự đặt câu hỏi: Vì sao?” (Trang 312 Hồi ký)

6.3. Chiến dịch Operation Magic Dragon của FBI

Chiến dịch Operation Magic Dragon ( Rồng Ma Thuật) nhằm vào Trương Đình Hùng và Ronald Louis Humphrey.

Kể từ năm 1977, Mỹ Dung bám sát vào Trương Đình Hùng (David Hùng). Hùng không thuận với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco (U.S), nên Hùng nhờ “người giao liên” Mỹ Dung liên lạc thẳng với Phan Thanh Nam, Xử lý thường vụ đại sứ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Ở Paris, và Đại sứ Đinh Bá Thi (LHQ).

David Hùng tâm sự với người giao liên, với khả năng và sự ngoại giao rộng rải, anh ta hy vọng được kết nạp vào Đảng và giao trách nhiệm điều khiển hệ thống tình báo ở Hoa Kỳ.

Trong bức thơ mà Phan Thanh Nam nhờ Mỹ Dung chuyển cho David Hùng, ông Nam viết: “Hoan nghênh chương trình làm việc của anh…đã có khả năng và mánh lới thu thập tin tức…”

Tóm lại, Trương Đình Hùng tự nhận là gián điệp của Việt Cộng, không thể chối cãi được ở tòa án.

Một hôm, David Hùng khoe với Mỹ Dung rằng anh ta “có thể có những gì anh muốn, nhờ một nhân vật “vô ra tự do ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao”.

Mỹ Dung liền báo cho Giám đốc FBI là ông Clarence Kelley và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Warren Christopher về vụ việc.

Thế là chiến dịch Operation Magic Dragon thành hình.

Bao thơ cuối cùng của người giao liên

Khi Mỹ Dung đến từ giả David Hùng để đi Luân Đôn, bà theo chồng đến nhiệm sở mới, là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ ở Âu châu.

Hùng đưa cho Mỹ Dung một bao thơ đựng tài liệu lấy ở Quốc Hội, trao cho Huỳnh Trung Đồng. Hùng nói: “I ran over the Congress to get a package of that stuff”.

Đó là bức thơ cuối cùng của người giao liên.

Do điệp viên Mỹ Dung thông báo, với sự đồng ý của Tổng thống Jimmy Carter và giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp, Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình bí mật tại văn phòng của Humphrey ở cơ quan USIA. Và đặt máy nghe lén, micro, tại nhà của David Hùng.

Ngày 31-3-1978, FBI bủa lưới bắt Ronald Humphrey và Trương Đình Hùng.

Trong những bức thơ mà David Hùng nhờ Mỹ Dung chuyển đi, có hai tài liệu mật do Ronald L. Humphrey, nhân viên của cơ quan USIA (US Information Agency). Ông nầy, 46 tuổi, có người vợ Việt Nam tên Kim, bị kẹt ở Việt Nam sau 30-4-1975. Ông trao tài liệu mật để David Trương can thiệp cho vợ ông được sang Mỹ. 

 Chứng cớ rõ ràng không thể chối cãi, nên cả hai, David Trương và Humphrey, mỗi người lãnh 15 năm tù. Đinh Bá Thi được hưởng quy chế ngoại giao nên bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ.Đinh Bá Thi là đại sứ đầu tiên của Việt Cộng ở Liên Hiệp Quốc, mà làm ăn bê bối, mời gián điệp Mỹ vào ở sứ quán mà còn tâm sự “linh tinh vô tổ chức” nhằm bôi bác chế độ (Thời điểm 1968) nên bị thanh trừng bằng cái chết bất thường vì tai nạn ô tô khi từ Phan Thiết vào Sài Gòn.

Tại tòa án, Humphrey tố cáo David Hùng lừa gạt ông ta. David Hùng không làm gì cả trong việc đưa bà Kim, vợ ông sang Mỹ. Mà do các nhà ngoại giao Thụy Điển, Tây Đức và Hội Hồng Thập Tự Quốc tế can thiệp.

7* Vài nét tổng quát về Trương Đình Hùng và Trương Đình Dzu

1). Trương Đình Hùng

Trương Đình Hùng (David Trương), con của Trương Đình Dzu, sinh ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn. Năm 1965, sang Mỹ du học. Ông tỏ ra có cảm tình đặc biệt và ủng hộ chính quyền Hà Nội. Nhiệt liệt ca ngợi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Ông và một nhóm bạn bè tích cực ca ngợi hai phái đoàn Việt Cộng trong Hội đàm Paris.

Trong vụ án gián điệp năm 1978, Trương Đình Hùng bị kết án 15 năm tù. Ở tù được 7 năm 4 tháng thì được trả tự do với điều kiện là phải ra khỏi nước Mỹ. Năm 1986, ông Hùng và người vợ Mỹ, Carolyn, đến sống ở Hòa Lan. Ông đi nhiều nơi, và sau cùng chết vào ngày 26-6-2014 tại Penang, Malaysia. Thọ 69 tuổi.

 2). Trương Đình Dzu

Luật sư Trương Đình Dzu

Luật sư Trương Đình Dzu sinh ngày 10-11-1917 trong một gia đình giàu có và quyền thế ở Bình Định. Ra Hà Nội học trường Lycée Albert Sarraut, rồi học khoa Luật của Đại học Đông Dương.

Năm 1945, Trương Đình Dzu vào Sài Gòn mở tổ hợp luật sư, gồm có Nguyễn Hữu Thọ, sau làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, và Trần Văn Khiêm, em của bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu.

Năm 1967, ông Dzu ra ứng cử Tổng thống, chạy đua với liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ.

Sau khi thất cử, ông bị bắt về tội hoạt động cho Việt Cộng. Ông Dzu ngồi tù cho đến tháng 4 năm 1975, thì được Tổng thống Trần Văn Hương ký lịnh trả tự do cho ông.

Mỉa mai thay. Năm 1978, con trai ông là Trương Đình Hùng bị tù 15 năm về tội làm gián điệp cho Việt Cộng, thì ở Việt Nam, Trương Đình Dzu bị đi tù cải tạo từ năm 1978 đến năm 1987 (9 năm) vì tội làm gián điệp cho CIA.

Sau khi ra trại, phải sống trong một thời gian dài trong tình trạng bị quản chế cho đến ngày chết vào năm 1991. (74 tuổi)

8*. Những lời khen tặng bà Đặng Mỹ Dung

Bà Mỹ Dung được đề cao như: Yung Krall, truly a great American…a genuine American hero. Giáo sư Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley viết: “Yung Krall’s A Thousand Tears Falling is one of the best of this genre”.

Ngày 19-4-1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban Georgia Author of the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung là một trong 45 tác giả đặc sắc nhất của năm. Đại hội toàn quốc Society Daughter of The American Revolution Hoa Kỳ, đã tặng huy chương Danh Dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước Hoa Kỳ. Giới lập pháp và hội đoàn Cựu Chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall đến trình bày về các vấn đề Việt Nam.

9*. Kết luận

Làm gián điệp xâm nhập vào lòng địch là một vai trò rất nguy hiểm, nhất là gián điệp hai mang.

Người phụ nữ Việt Nam, bà Đặng Mỹ Dung (Yung Krall) đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, rất tài tình. Đã phá vỡ hai ổ gián điệp Việt Cộng, một ở Pháp và một ở Hoa Kỳ.

Nhiệm vụ nầy không có một người Mỹ nào thi hành được cả, vì phải xâm nhập vào các cộng đồng người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ.

Cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ,  Griffin Boyette Bell, đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với đất nước chúng ta”.

Trúc Giang MN

Minnesota ngày 7-3-2022