Từ Long Khánh anh được chuyển về Tây Ninh cách đây một tháng. Sáng nay trại cho phép anh viết thư. Anh mừng quá, viết cho em những lời yêu thương nồng nàn của những ngày đầu mình về với nhau…
Rừng Kà Tum, vùng biên giới, nơi toán cải tạo của anh đến ‘’ định cư’’ là một căn cứ mới được thành lập. Nơi đây mặc dù điều kiện vật chất khó khăn, nhưng anh hy vọng và tin rằng đây là giai đoạn cuối cùng trước khi trở về với em, với con. Niềm vui và hy vọng đầu tiên là anh được phép viết thư báo tin người nhà được đi thăm nuôi…’’
Kà Tum là địa danh của một khu rừng già nằm dọc theo biên giới Việt – Miên, về hướng Tây và cách thị xã Tây Ninh độ chừng 40 km.
Tháng này trời Ka Tum đang vào cuối mùa mưa. Thỉnh thoảng đâu đó còn để lại các vũng nước màu nâu sậm. Những người tù cải tạo mới đến, phát hoang, phá rừng để thành lập một khu trại tù cải tạo. Trại là những chòi tranh cất liền nhau, gọi lá Lán, tập trung thành từng khu, mang tên, T1, T2, T3,…chạy dọc theo biên giới Việt-Miên.
Nhờ địa thế rừng rậm, sát biên giới cho nên Kà Tum trước kia được cộng sản sử dụng như khu an toàn trong mật khu Dương Minh Châu.
Từ thị xã Tây Ninh chỉ có một con đường đất gập ghềnh duy nhất để cho các xe thồ, xe ôm, xe hàng dã chiến…chế biến từ các xe phế thải,…đưa các hành khách bất đắc dĩ đến khu rừng Kà tum hẻo lánh, xa xôi này.
Con đường dài không quá 40 km, không bị ‘’ Việt cộng đấp mô chận đường,..’’ thế mà phải mất từ 4 đến 5 tiếng đồng hồ mới gặp được người tù thân yêu.
Nhận được thư anh, tôi mừng vô hạn. Tôi báo tin cho Bá Má tôi biết, tôi được đi thăm chồng. Tôi gởi bé Khôi – thằng bé khi sinh ra không có Cha bên cạnh, nay đã gần tròn nửa năm – cho Bà Ngoại. Tôi quyết định đi thăm anh một mình. Tôi hình dung ra con đường lầy lội, chen chúc trong những chiếc xe ọp ẹp, ngồi cả ngày trời trong cái nắng, cơn mưa,..chắc chắn bé Khôi, con của anh không chịu được.
Tôi thức dậy sớm, ra bến xe Trà Vinh, lấy vé đi Sài Gòn. Khi đổi chuyến xe từ Sài Gòn về đến Tây Ninh, trời đã sụp tối. Trong lúc tìm nơi nghỉ trọ, tôi chợt nhớ đến một cô bạn thân, trước kia cùng chung học tại trường Trung Học Vĩnh Bình, có chồng Tây Ninh. Tôi tìm đến nhà cô bạn. Cô bạn không có ở nhà, nhưng cò bà mẹ chồng. Bà vui lòng cho tôi tá túc qua đêm khi nghe tôi kể chuyện đi thăm anh ở trại tù kà tum. Sáng hôm sau, cô em chồng của cô bạn chở tôi ra bến xe. Ngang qua khu chợ tuy còn lờ mờ tối, nhưng đã có nhiều người rộn ràng bày hàng và người mua hàng qua lại, tôi ghé mua thêm hai xâu bánh dừa, cái bánh mà anh và tôi vẫn thường thích ăn. Nhớ lại những ngày cuối tuần, từ Sài Gòn anh về Trà Vinh thăm tôi, khi xe đò ghé lại Vũng Liêm, anh mua vài xâu đem về làm quà cho tôi.
Trên bãi đã có đậu sẵn 3 chiếc xe, ghi bảng Tây Ninh – Katum, dành riêng cho khách thăm nuôi tù cải tạo. Đó là ba chiếc xe loại nhỏ, phòng lái chỉ đủ cho tài xế và một người khách. Phía sau là một cái thùng trống. Trong thùng có 2 cái băng dài, đóng chặt vào thành xe và một cái băng giữa, thả lỏng. Loại xe chỉ dùng để chuyển chở hành khách trên các đoạn đường ngắn, ở những vùng hẻo lánh.
Mặt trời vừa ló dạng ở phương Đông. Những tia nắng sớm, lung linh thật nhẹ nhàng, xuyên qua những tàn cây, dường như còn mang chút sương mù của đêm qua.
Thật ra, đây là một phần của công viên ngày xưa…Nay vì không có người chăm sóc nên công viên bị bỏ hoang, cây cỏ mọc lan tràn. Cộng sản đã dùng khu công viên cũ này như bãi đậu xe, đặc biệt dành riêng cho hành khách đi thăm nuôi thân nhân tại trại tù cải tạo Katum.
Khi bước vào bãi, tôi thấy mấy người cùng cảnh ngộ như tôi, tụ tập khá đông. Một số đã vào ngồi trong xe; số khác còn đang quây quần chung quanh một cái bàn nhỏ. Trên bàn có một miếng gỗ, ghi hàng chữ màu đỏ: Trạm Kiểm Soát.
Họ đến đó để trình giấy đi đường và giấy phép thăm nuôi.
Hai bàn tay xách hai cái giỏ thức ăn vừa đủ nặng, trong đó lon guigoz đựng đường, món ăn duy nhất anh dặn dò tôi cố gắng đem theo, tôi bước vội đến xếp hàng, đứng chờ đến phiên mình trình giấy tờ.
‘’ – Chồng chị ở T nào ? ‘’
Tôi nghe giọng của người đàn bà gốc miền Bắc ở phía sau hỏi vọng tới. Tôi quay lại, hơi ấp úng, nhưng cuối cùng tôi cũng cố tươi cười thân thiện:
‘’ – T3, B4. Còn chị, ảnh ở trại nào?’’
‘’ – T2, B2 ‘’
Thấy cái vẻ lúng túng của tôi, chị hỏi thăm dò:
‘’- Lần đầu chị đi thăm chồng phải không?’’
Tôi gật đầu.
Người đàn bà đứng phía trước tôi bước lên xe, tôi cũng chen chân theo, tìm một chổ ngồi ở cái băng hàng bên trái xe. Không mấy chốc, xe đầy khách. Những mẫu chuyện trao đổi của những người đi thăm nuôi không cùng lứa tuổi, không cùng giọng phát âm, nhưng tôi cảm nhận ở họ cùng có chung cùng tâm trạng với tôi. Họ tỏ ra thân mật với nhau một cách nhanh chóng, dễ dàng, như có một định mệnh nào đó đã đưa họ đến đây để cùng chia sẻ số phận.
Chiếc xe chở đầy khách mà đa số là đàn bà, ì ạch rời thị xã, lắc lư chạy trên con đường đất lồi lõm, đầy ổ gà ngập nước mưa.
Gần giữa trưa, xe dừng lại ở ngã ba Đồng Bang. Ngã ba bình thường là tụ điểm của trục lộ giao thông, xe qua xe lại, người lên kẻ xuống, hàng quán rộn ràng,…nhưng ngã ba Đồng Bang ở đây không có cái sắc thái sầm uất nhộn nhịp đó. Ngã ba Đồng Bang thật vắng lạnh. Ngã ba buồn thiu như đang đi vào cõi chết.
Ở góc đường bên tay phải, tôi thấy chỉ có một quán tranh lụp xụp. Trước cửa treo lủng lẳng một nãi chuối, vỏ từ màu vàng sậm đã bắt đầu ngả dần qua màu đen, mà không thấy người bán hàng.
Phía trước mặt, phía bên trái, là con đường mòn đất nhỏ, dẫn đến các trại tù cải tạo nằm sâu trong rừng.
Xe tiếp tục bò lên phía trước. Trên một đoạn đường, cách ngã ba Đồng Bang ở phía sau độ chừng 5 hoặc 6 km, xuất hiện một đoàn tù cải tạo đi thành hàng dọc theo lề đường. Cứ cách 7, 8 người tù, có một người lính cộng sản tay cầm súng đi canh chừng bên cạnh. Khi chiếc xe chạy ngang qua, những người tù len lén nhìn lên và nhìn theo chiếc xe như để tìm thân nhân.
‘’ – Đây là trại T3, có ai xuống không? ‘’
Người tài xế cho xe chạy chậm lại và quay ra phía sau la lớn.
‘’ – Dạ có. ‘’
Có hai ba tiếng trả lời đồng loạt.
Xe đừng lại bên đường.
Hai người đàn bà ngồi đối diện và tôi cùng bước xuống xe.
Người tài xế lấy mấy giỏ hành lý đặt xuống đất, rồi tiếp tục chạy đến các ‘’ T’’ khác.
Một chị gánh 2 cái cần xé thức ăn, dường như đã quen, băng qua đường, rời con lộ chính, bước vào con đường mòn cỏ mòn, đi nhanh về khu rừng trước mặt. Tôi và người đàn bà thứ hai bước theo.
Băng qua một lùm cây, rồi một khoảng trống dài, xuất hiện trước mặt tôi một căn nhà tranh.
Cả ba chúng tôi, cùng với hành lý, theo hướng chỉ dẫn của người lính đứng bên ngoài căn nhà, đi vào bên trong. Căn nhà được dựng bằng mấy cột tre và cái nóc tranh. Bốn vách tranh chỉ cao khỏi mặt đất chừng 1 thước. Phần còn lại để trống. Căn nhà là trạm tiếp tân của trại tù.
Giữa căn nhà có một cái bàn gỗ. Một người lính cộng sản ngồi sau cái bàn đang đọc giấy tờ thăm nuôi. Hai người đàn bà đi với tôi đã làm xong thủ tục và rời trạm kiểm soát với cùng với người thân của mình.
Người lính cộng sản cầm lấy lấy tờ giấy, đọc thoáng qua, rồi bão tôi ngồi chờ.
Tôi quay ra, tìm đến cái ghế dài, do mấy cành cây khô ghép lại, đặt dọc vách tranh, lòng nôn nao khó tả. Lúc ngồi, lúc đứng, mắt ngong ngóng nhìn về phía trại.
Suốt hơn 4 tiếng đồng hồ ngồi trên xe chật chội mà tôi không thấy lâu bằng giây phút ngồi trong căn nhà ‘’ tiếp tân ‘’ này.
Bỗng từ phía sau bụi cây xanh cách căn nhà tiếp tân mươi thước, tôi nhận ra dáng anh thấp thoáng. Anh mặc bộ độ lính màu xanh lá cây, rộng phình phàn và cũ mốc. Quần xăn lên khỏi mắt cá, chân mang hai mảnh gỗ như đôi guốc, nhờ 2 sợi cao su gắn chéo giữ chật bàn chân.
Tôi đứng lên đi về phía cửa, đón anh.
Anh bước vào nhìn tôi thật nhanh rồi nghiêng đầu chào người lính. Người lính vẫn ngồi đó, trên tay cầm cây viết khỏ nhẹ xuống mặt bàn, đưa mắt nhìn anh, rồi nhìn tôi như là một nhân chứng cho giây phút tái ngộ của đôi vợ chồng trẻ.
Rồi, hai đứa chúng tôi nhìn nhau thật lâu, không nói nên lời. Anh chợt cười thật nhẹ. Tôi nhận ra có cái gì đó không tròn trên nụ cười của anh. Ôi cái nụ cười cao vút, vô tư của ngày nào trên hành lang của giảng đường, mỗi lần anh và tôi gặp nhau, không còn nữa. Có phải vì đã trải qua nhiều trại tù kham khổ, với những địa danh không mấy quen thuộc Trảng Lớn, Long Khánh, Katum, hay vì tư tưởng đã bị gông trong hơn một năm qua, đã biến đổi không những cái dáng dấp thân người mà cả nụ cười hồn nhiên và quen thuộc của anh???
Tôi muốn đưa đôi bàn tay nắm lấy tay anh, ôm anh vào lòng mà,…sao vẫn không làm được.
Anh nhìn tôi, khẻ nói:
‘’ – Em, mình đi về trại ‘’.
Nói xong, anh chồm người xuống, xách 2 cái giỏ đựng thức ăn, bước ra khỏi căn nhà tiếp tân. Tôi bước theo anh, sau khi ngỏ lời cám ơn và chào người lính kiểm soát giấy tờ.
Một lúc sau, chúng tôi đến một vùng đất vừa mới khai hoang. Đó đây còn để lại các gốc cây thầu dầu thật lớn. Trời đã vào xế chiều. Ánh nắng đã bắt đầu ngả vàng, đổ lên vùng đất còn bay mùi nhựa gỗ vừa mới bị chặt bị cưa,..
Ở giữa khu đất hoang là hai dãy nhà nằm song song. Mỗi dãy gồm nhiều căn chòi ghép đôi, nằm xây lưng vào nhau. Chòi được lợp bằng những tấm tranh thưa. Ngồi trong chòi bên này, tôi có thể thấy thoáng thoáng người và nghe cả tiếng nói chuyện của người bên kia…
Vài cụm khói tỏa lên cao, từ những cái bếp dã chiến, được dựng lên bằng ba cục đá chu đầu vào nhau như trong những câu chuyện huyền thoại Ba Ông Táo ngày xưa. Từng gia đình thăm nuôi quây quần thổi lửa, chuẩn bị cho buổi cơm chiều…
Ngồi trong chồi tranh, nhìn quanh, tôi lấy lại bình tỉnh sau chuyến đi kinh hoàng và nhất là sau giấy phút gặp lại anh.
Một anh bạn tù cùng lán với chồng tôi, anh Sáu – Nguyễn Sáu – mang vào một thùng nước, kèm theo một cái lon bằng nhom, móp méo. Tôi ngạc nhiên nhìn hai cái dụng cụ bằng kim loại, xuất hiện ở giữa rừng cây này. Anh Sáu đặt thùng nước xuống đất, tỏ vẻ hiểu ý. Anh chào tôi, hỏi thăm chuyến đi, kể qua loa vài chuyện sinh hoạt trong trại và nguồn gốc của cái thùng thiếc và cái lon nhôm. Anh Sáu cho biết, đó là những dụng cụ do chính các anh tự biến chế ra. Vật liệu được tìm thấy khi đến tạm trú lần đầu tiên tại sân bay lúc còn ở Trảng Lớn và nhất là tại khu gia binh ở Long Khánh. Thùng đựng đạn làm nồi nấu canh, nấu cơm, miếng tole làm thùng chưa nước, , lon guigoz làm ấm nấu nước nóng pha trà, pha cà phê, nấu rễ tranh … Nòng súng chống chiến xa làm ống thuốc lào, vòng đeo tay, mài làm dao, làm lược, làm thùng đàn guitar…
Khi anh Sáu rời chòi, tôi mới đến gần và nhìn chồng tôi rõ ràng hơn.
Tôi không còn nhận ra cái dáng vóc thanh nhã, vô tư của một ông thầy giáo ngày nào. Da anh đen sạm và óm nhiều. Cái thân hình của anh như bơi trong bộ quần áo nhà binh rộng quá cỡ. Đôi mắt thâm sâu, hai gò má nhô lên làm cho gương mặt của anh dài ra và già hơn lứa tuổi.
Nắm tay anh, đôi tay gầy guộc, lòng tôi se lại. Tôi thương anh vô cùng. Anh ghì chặt lấy tôi, ôm thật chặt. Tựa đầu vào vai anh, tôi kể cho anh nghe chuyện bé Khôi, con của anh. Tôi đưa cho anh xem tấm hình bé Khôi do ông Ngoại chụp lúc Khôi gần nửa năm tuổi. Anh nhìn chăm chú thằng bé trong hình. Đôi mắt anh bắt đầu đỏ. Rồi tôi kể cho anh nghe cuộc sống cùng cực của gia đình ở quê nhà, chuyện quái gỡ xảy ra ở trường, chuyện thay lòng đổi dạ vì miếng ăn, cái sống của đồng nghiệp,…
Mặt trời đã tắt hẵn ở phía sau cánh rừng. Các bếp lộ thiên cũng không còn bốc khói. Bóng tối đã tràn vào căn chòi. Đàn muỗi rừng bắt đầu rời tùm lá xanh, bay vào các căn chòi, đi tìm máu người.
Các chòi đã lên đèn.
Nằm bên anh, tôi lắng nghe anh kể chuyện.
Nhóm của anh, thuộc A1. Các mẫu tự A, B, C, K….là ký hiệu để chỉ con số người, tụ lại nhánh nhóm. Cũng giống như ngày xưa trong quân đội. 10 người tù lập thành 1 A ( tương đương 1 tiểu đội ) . Bốn A, tức là 40 người tù, lập thành B, ( cũng như một trung đội )…
Trong A của anh, đa số là những quân nhân có ngành nghề chuyên môn.
Anh Nguyễn Vũ Phấn là Đại úy quân y nhà ở Phú Nhuận. Anh Nguyễn Văn Khôi, còn rất trẻ, chưa có gia đình là Trung Úy quân y nhà ở Khánh Hội. Anh Nguyễn Ngọc Tường, gốc ở Ban Mê Thuộc, Trung Úy Nha sĩ, cũng vừa cưới vợ, có đứa con đầu lòng chư thấy mặt. Anh Nguyễn Sáu, còn độc thân, quê ở Đà Nẵng, giáo sư kỹ thuật trung tâm huấn nghiệp Thủ Đức. Anh Đàm Thanh Việt, Trung Úy kiến trúc sư….
Trong A, các anh chia nhau từng miếng cơm, từng cộng rau, từng hạt muối. Khi làm công tác, các anh phụ giúp nhau tận tình., từ công tác chặt tre, đốn cây, đốt than, xây nhà, cắt tranh, cưa gỗ cho đến nấu ăn, dọn dẹp quanh trại.
Anh Sáu là người khỏe nhất trong A. Anh Sáu, rất trẻ, có một thân hình to lớn, chắc nịch. Trong khi đó anh Phấn lớn tuổi hơn, cho nên, thường, anh Sáu nhận các công tác nặng thay cho anh Phấn. Anh Tường có gương mặt rất thông minh, đôi mắt sáng quắt, nhanh nhẹn và rất chân tình. Anh Việt, với biệt tài xây cất, anh đã giúp anh em trong A, làm những cái giường ngủ rất là …kỹ thuật. Phần lớn, các căn nhà trong trại tù là do anh,…thiết kế và tính toán vật liệu xây cất.
Các anh chia nhau thay phiên ,…phục vụ cho nhau trong ngày có người thân thăm nuôi. Như xách nước, nấu trà, pha cà phê…Chiều nay, anh Sáu phụ vụ nước tắm cho chồng tôi. Ngày mai đến phiên anh Tường …
Các anh có đủ kiến thức, có thừa khả năng để làm nền tảng cho một đất nước văn minh, cho một quốc gia giàu mạnh. Quê hương của các anh là Miền Nam. Con lốc đau thương Tháng Tư lịch sử đã lùa các anh vào rừng hoang, mà ‘’ họ’’ gọi là đi học tập cải tạo. Học tập cái gì ở trong rừng hoang ???!!! Cải tạo cái gì trong góc núi ???!!!
Mới đó mà tôi đã nghe tiếng gà rừng gáy ở phía sau khu trại. Tôi nhìn chung quanh, dường như suốt đêm chẳng có ai chịu chợp mắt.
Sáng nay anh Tường đến thật sớm, đem cho chúng tôi một lon guigoz nước trà nóng.
6.30 giờ, được lệnh các người tù được thăm nuôi phải trở về trại và tất cả người thăm nuôi phải tập hợp tại căn nhà tiếp tân để ra xe trở về.
Anh trao cho tôi một cái lược bằng nhôm, trên đó có khắt chữ L.K. 1975. Đó là kỷ vật đầu tiên anh làm lúc còn ở trại tù Long Khánh năm 1975. Một con ngựa gỗ làm quà cho đứa con trai đầu lòng chưa thấy mặt. Con ngựa này, theo như anh kể, là làm theo con ngựa mẫu của anh kiến trúc sư Đàm Thanh Việt. Và món quà cuối cùng mà anh đã làm trong suốt thời gian rảnh rỗi khi vào rừng đốn cây hay vào những buổi chiều sau bữa ăn tối. Đó là chiếc giỏ đan bằng những sợi mây nhỏ.
Có cái gì đó làm nghẹn trong cổ. Tôi từ giã anh bằng hai tiếng nhẹ nhàng :
‘’ – Em về ! “.
Tôi theo đòan người thăm nuôi, trở ra con lộ cái, êm lặng đứng chờ xe.
Biết có bao nhiêu người vợ không có cái cơ hội đi thăm chồng bởi vì người chồng của họ đã nằm xuống trong rừng hoang vì không có thuốc để trị bịnh, kiệt sức vì không đủ ăn, không may mắn trốn thoát trại tù hay .. vì chống lại cách hành xử vô nhân đạo của cai tù ???…
Biết bao giờ cái địa ngục trần gian này phải chấm dứt ???
Biết bao giờ, các bà vợ được ngủ yên trên cánh tay của người chồng thân yêu ???
Làm sao có thể trả lời được bởi vì con người tôi, con người Miền Nam quá nhỏ trong cái chủ nghĩa cộng sản độc tài bịp bợm, lừa đão to lớn kia.
Chiếc xe đưa người thăm nuôi trở lại thành phố, bỏ lại đằng sau đám bụi mù.
Những người khách ngồi yên lặng trên xe, ngủ gà ngủ gật, vì qua một đêm dài thức trắng. Cũng có thể họ êm lặng để tận hưởng dư âm của một đêm hội ngộ, sau bao nhiêu tháng năm dài xa vắng.
Tôi cũng chìm trong cái không gian yên tỉnh đó. Tôi nghĩ đến bé Khôi, nghĩ đến cách làm sao cho bắt kịp chuyến xe về luôn đến Trà Vinh trong ngày.
Những người đàn bà trở lại thành phố với những cái giỏ trống không,…để ngày mai tiếp tục làm thân con cò lặn lội bờ sông, mong một ngày nào đó nhận được thư chồng báo tin, gồng gánh trở lại thăm nuôi người tù cải tạo../
Má Năm có 2 đứa con, đều là Liệt Sĩ: Thằng út chết vì đạp nhằm chông do chính đơn vị gài. Trạm giao liên hết thuốc tây, chỉ chữa trị bằng lá thuốc dân tộc, rồi đổi qua Xuyên Tâm Liên, rốt cuộc bị hoại tử, nhiễm trùng ăn lên tới đùi thì chết! Còn thằng lớn, đơn vị tập kích đồn địch, chết nhiều quá, rút đi hết, quên không kêu nó. Từ đó không ai nghe nói gì về nó nữa! Mấy năm sau nó mới được truy tặng huy chương lên tới chức Liệt Sĩ! Vậy mà má vẫn như người máy Rôbô, không còn trái tim, không rung động thương tiếc! má vẫn hăng hái đào hầm nuôi quân. Từ du kích cho tới quân chủ lực, hễ đứa nào tới nhà má, đều được cho ăn, cho uống no nê. Má má, con con, nghe sướng lỗ tai lắm, thời “nuôi quân diệt gặc!” hồn má như sống trên mây!
Ngày giải phóng, má “hồ hởi” nghĩ chính quyền đã về tay nhân dân, hiểu ngĩa đen, tức là về tay má! Má bận bộ đồ bà ba đen, lăng xăng chạy lên uỷ ban xã để giúp “tụi nhỏ” điều hành… đất nước!
Chuyện gì má cũng hăng hái làm: Tới từng nhà kêu đi họp tổ, nhà nào mắc công chuyện không đi, má chửi cho tắt bếp. Thấy thanh niên để tóc dài, má nắm đầu kéo lên xã, giảng cho một bài học về con người mới, trong thời đại cách mạng. Mỗi khi có đợt đi lao động đào thuỷ lợi, đố đứa nào trốn được với má, trừ khi trốn lên trời.
Má làm riết, cả xã không ai ưa má, đến cả đứa con nít. Thấy má đi tới đâu, người ta tránh…như hủi. Đi ăn đám cưới, mấy bàn khác cười nói ồn ào, vui vẻ. Còn bàn của má ngồi, con ruồi bay cũng nghe tiếng. Chủ nhà sắp bàn 10 người, bàn của má, người ta trốn đi ngồi chỗ khác gần hết, chỉ còn chừng ba bốn người, mà mặt ai cũng gục xuống, buồn thiu như đang đi ăn đám cưới, mà tưởng là đi ăn đám ma!
Má lăng xăng đâu được vài năm, thì ở trên đưa một lớp cán bộ mới về xã. Những người này không muốn má lên uỷ ban nữa. Họ nói má già rồi, về nghỉ ngơi đi…cho khỏe! Cống hiến cho cách mạng đủ rồi! Má nói, má nói còn sức, muốn phục vụ cho đảng, cho nhà nước tới… hơi thở cuối cùng. Họ nói khỏi đéo cần! Đã thế họ còn hăm dọa, má mà cà chớn, tự ý lên đây, trụ sở xã, sẽ cho an ninh bắt nhốt, đi tù, điều tra xem má có phải là gián điệp Mỹ Ngụy cài lại hay không. Nghe là hết hồn! hết vía!
Má về nhà, buồn như mùa thu chết…không lá thu rơi! Sống với đứa con gái lớn bị vịnh tâm thần, nhưng lại có vẻ còn sáng suốt, biết suy nghĩ đúng sai hơn má nhiều. Vì thế hai má con suốt ngày chửi lộn với nhau. Ngoài việc gây lộn với nó ra, má không còn niềm vui nào khác nữa.
Khắp xóm làng làm như quên hẳn hình ảnh cách mạng vinh quang một thời của má rồi. Không nói ra, nhưng ai cũng coi má như là một miếng giẻ rách, cần phải xa lánh, lãng quên, bỏ vào thùng rác!
Nói cho ngay, họ cũng còn có chút tình nghĩa…đãi bôi! Lâu lâu vào dịp lễ lạc gì đó, nhà nước cũng nhớ tới má. Có thế chứ! Nhưng vài lần, theo má, thà đừng nhớ còn hơn.
Nhớ đến đó, má chửi đổng. Không biết trên rót ngân sách bao nhiêu mà xuống tụi xã ăn chặn hết. Đang đói, nó tặng quà cho má chỉ có mấy gói mì gói là ăn được, còn đủ loại hình bác hồ, nhìn nghiêng, nhìn dọc, lộng kiếng với hàng tá cờ đảng sao má ăn?
Rồi có lần nhân dịp kỷ niệm mấy chục năm giải phóng gì đó, má quên rồi, nó mời má đi coi duyệt binh. Hân hạnh quá, tưởng sướng lắm, ai dè đứng xếp hàng phơi nắng như con khô mực, nghe mấy thằng mập ú như con heo…nọc! đọc diễn văn ca ngơi cách mạng. Mà nó đọc lâu lắm, cho sướng cái miệng, trong khi má mắc tiểu thấy mẹ nội. Cuối cùng nhịn không nổi, má đái luôn trong quần, chảy ra mặt đường thành vũng! Tụi cán bộ xã giận lắm, nói má bôi bác cách mạng, làm mất thành tích đấu tranh, có âm mưu phản động! Tụi nó đuổi má về, không cho má ăn bữa cơm liên hoan luôn! Chai nước cũng không có.
Từ đó má nghỉ chơi với cái đám chính quyền khốn nạn này luôn. Thỉnh thoảng lòng căm thù trổi lên, má chửi tục: “Cách mạng cái quần què nhà tụi mày! Đồ ăn cháo đái bát! (má giật mình nhớ lại mình, thật ra, ăn cháo đái trong quần) đồ vắt chanh bỏ vỏ, tổ cha, tổ mẹ, tổ tiên nhà chúng mày, sao không chết hết đi!”
Mừng ngày chiến thắng 30/4 năm nay.
Má đang nằm ép bụng vào tấm vạt giường cho đỡ đói, thì đứa con gái, lúc này mắt nó gần như mù rồi, chỉ còn thấy lờ mờ, mò lại giường má kiếm chuyện:
– Bữa nay mừng ngày giải phóng nè, sao má không dậy sửa soạn đi coi bắn pháo bông cho no, rồi về kể con nghe, như những năm trước đây?
– Giải phóng cái thằng cha khốn nạn mày. Lúc trào ông Thiệu, ông Kỳ cục, tao nghèo chứ chưa đói bữa nào. Còn dư cơm gạo nuôi mấy thằng chó đẻ, chó má đó ăn. Ai dè gặp toàn thứ quỷ tha, ma bắt, lường gạt, qua cầu rút ván, vắt chanh bỏ vỏ….
– Thì má cũng vậy thôi. Tui thấy má mỗi lần làm nước mắm, má vắt chanh xong cũng bỏ vỏ, chớ má đâu có giữ lại đâu.
– Con ngựa cái nhà mày. Đừng chọc tao chửi nhe mày. Tao đang tức hai thằng con tao hy sinh xương máu cho tụi nó, để bây giờ tụi nó, xe to xe nhỏ, xây toàn biệt phủ…
– Xây biệt phủ nhằm nhò gì? Tụi nó còn chiếm cả chục mẫu đất để dành, mai mốt chết, xây mồ mả cho “hoành tráng” nữa kìa. Còn má mai mốt chết, tui không biết chôn má ở đâu nữa, hổng lẽ chôn trong cái chòi lá này luôn sao?
– Mày khỏi trù ẻo tao con quỷ cái. Tao còn sống lâu lắm. Tao phải sống, chống mắt, đặng coi cái ngày tàn mạt của tụi cướp công ơn của nhân dân này sụp đổ ra sao, lúc đó tao mới nhắm mắt.
– Thôi má đừng nói chuyện tào lao nữa. Nó vô nó còng đầu má bây giờ. Bất ngờ nói đổi chữ Má thành Bà ngon ơ! Bà ngu bà theo tụi nó, thì bà chịu đi. Nói thiệt, ổng chết là cũng tại bà. Bà không che giấu tụi nó, sao tụi nó ban đêm tự do đi lùng kiếm được ổng mà giết. Nói thiệt, nhiều khi tui cũng hận bà lắm, bà tiếp tay giết tía của tui!
– Mày đi chỗ khác đi. Con ngựa, con chó cái. Ngồi đó nói một hồi tao tức hộc máu chết bây giờ.
Chửi con gái xong, má Năm nằm nhắm mắt thở dốc, muốn đứng cả tim. Đã lâu lắm rồi hôm nay má mới nhớ lại hình ảnh người chồng lúc bị du kích giết, mắt mở trừng trừng oan ức. Mà ổng có làm lớn gì đâu, chỉ là thư ký ấp. Nhưng lúc đó má say mê lý tưởng phỏng giái, ý quên giải phóng, được nghe giải thích là vì lợi ích cách mạng, mọi người cần phải hy sinh, kể cả bản thân mình, cho nên má đã ngu ngốc bỏ qua luôn, không gây chuyện.
Một chút ánh nắng chiếu xuyên qua mái lều. Má Năm he hé mắt ra nhìn. Bên kia con lộ nhỏ là căn biệt thự to lớn năm tầng đang xây dở dang của Bí Thư đảng ủy xã. Căn biệt thự này xây ngay trên nền nhà cũ của má. Mấy năm trước, lúc phóng lộ, chính quyền đã cưỡng chế nhà đất của má. Sau đó họ chia lô, bán nền. Và má, tiền đâu mà mua, đành dựng tạm căn lều sống cho qua ngày, đoạn tháng, sống cho qua hết cái kiếp ngu như lừa, nên bị cách mạng gạt!…cả đời! Đã thế “Ngu mà còn tỏ ra nguy hiểm! nên cuộc đời má mới thê thảm như thế này!”
Nhìn lên trên vách, thấy hình “Bác Hồ Lộng Kiếng” mỉm cười thích thú.
Với tay lấy tấm hình, ném xuống đất, lần này thì khác, má cởi quần, trước khi đái!….
Chúng tôi cưới nhau vừa được hơn 3 năm thì Ngày 30 Tháng Tư ập đến! Đúng nghĩa là Ngày Đau Thương.
Lúc đó tôi vừa 28 tuổi và có hai con. Cháu gái vừa lên hai và cháu trai chừng 5 tháng. Cũng như hàng ngàn, hàng vạn người khác trước đây, đã từng đi lính hoặc làm việc với chính quyền cũ, chồng tôi cũng được gọi đi học tập về chế độ mới. “Chừng 10 ngày thôi!” họ trấn an chúng tôi như vậy. Sau này thì chúng tôi hiểu, họ nói 10 ngày, nhưng là 10 năm!
Nhưng may mắn, chồng tôi chỉ đi học tập cải tạo 9 năm thôi! Tôi đi thăm nuôi được khoảng mươi lần. Mỗi lần đi, tốn khoảng 10 đồng tiền xe, chưa kể tiền mua vật dụng lặt vặt và chuẩn bị thức ăn cho anh, trong khi lương giáo viên của tôi chỉ có 30 đồng một tháng. Thường là tôi mượn tìền của bà con và đồng nghiệp, để đi thăm chồng. Sau đó lãnh lương trả lại và xoay tua với nhau cho đỡ tốn, vì cũng có nhiều chị em khác cũng đồng cảnh ngộ như tôi.
Có lần, chồng tôi bị chuyển vào khu vùng sâu vùng xa tít mù khơi, mấy ngày mới có chuyến xe đi vào. Đi về mất cả tuần lễ, mà chỉ được gặp nói chuyện có 15 phút, rồi thân gái một mìnhlại phải lủi thủi đi về, có khi phải chờ cả năm mới có giấy báo được gặp lại!
Đồng lương giáo viên ít ỏi của tôi trở thành nguồn thu nhập chính, để nuôi bản thân, hai con nhỏ, bà ngoại già 90 tuổi. Và còn cộng thêm nuôi chồng trong trại cải tạo. Chưa bao giờ đời tôi cực khổ và nghèo đói như thế. Tối tối, tôi dắt hai con ra bến xe đò, bán vé số kiếm thêm tiền, hơn 10 giờ đêm mới dọn hàng về đến nhà.
Có lần, tôi đang lui cui dọn hàng thì nghe tiếng: “Thưa cô, chào cô!” Nhìn lên mới thấy đó là Huy, đứa học trò trong lớp, thường hay bị tôi rầy vì lỗi ngủ gật và thường xuyên nộp bài trễ. Em cũng đến bến xe hàng đêm để bán vé số, kiếm sống phụ gia đình cho nên không có thời gian ngủ và học bài. Ban đầu tôi còn thấy xấu hổ, nhưng sau đó hiểu nhau hơn và hai cô trò cùng ngồi tâm sự và rảnh là khóc với nhau cả tối!
Tôi ngẫm nghĩ đến câu danh ngôn thật chí lý: “Xã hội tư bản, có người giầu người nghèo, Xã Hội Chủ Nghĩa, thì ai cũng nghèo như nhau!”
Có một lần, tối hôm trước khi đi thăm nuôi chồng, tôi cố gắng chạy ra bến xe bán thêm vài tấm vé số, để có thêm tiền lo cho anh. Gần đến lúc dọn hàng đi về, thì có một người đến mua vé số. Họ mua đâu khoảng 2 đồng và đưa tờ 10 đồng. Tôi vét hết tiền lẻ trong túi mới đủ tiền thối. Về đến nhà tôi mới nhận thấy ra là tờ giấy 10 đồng đó là tiền giả! Đau xót quá, tôi bật khóc nức nở.
Chẳng những người ta đã không trả tiền vé số, mà còn gạt lấy hết số tiền thối của tôi, số tiền mồ hôi nước mắt mà tôi đã dành dụm lâu nay, để dự định cho ngày đi thăm nuôi chồng!
Tôi đã khóc suốt đêm! Sao cái khổ cực, cái nghèo khó, tôi đã quen, nhưng cái giành giựt, gian trá, lừa đảo, sau cái ngày “giải phóng” lại làm tôi chưa quen, rất đau lòng! Tại sao họ có thể nhẫn tâm gạt tiền của những người nghèo như tôi hỡi Trời! Rồi ngày mai đây, làm sao tôi có tìền xe đi thăm nuôi chồng? Nếu không gặp anh lần này, lỡ họ chuyển anh đến chỗ khác thì sao? Tôi chỉ còn biết khóc và cầu nguyện, cầu xin Ơn Trên cho con tìm ra giải pháp, bí lối này.
Ba giờ sáng, trời vẫn còn tối mịt, tôi đã vội ra bến xe. Khi xe nổ máy sắp lăn bánh, thì chạy mua 2 ổ bánh mì để đem theo. Tay tôi run run, ngập ngừng do dự khi đưa em tờ giấy bạc 10 đồng giả, mà tôi vừa bị gạt hôm qua. Vì gấp gáp và trời tờ mờ chưa sáng, nên em đã không phát hiện ra tiền giả. Em đã vét hết tiền trong túi để thối lại cho tôi, và vui vẻ đưa tôi hai ổ bánh mì, còn chúc tôi đi đường bình an!
Chưa bao giờ cuộc đời tôi có giây phút đối diện với lương tâm xấu hổ như thế! Tôi không dám nhìn thẳng mắt em, mà chỉ lí nhí nói lời cảm ơn, trong lòng chỉ biết nói thầm: “Cô xin lỗi em, cô xin lỗi em trăm lần! sau này cô sẽ kiếm cách đền bù lại cho em!”
Trên suốt quãng đường đi, tôi đã không ngừng cầu nguyện cho em cùng gia đình em được mạnh khỏe, lòng luôn sám hối chuyện xấu sa mà tôi vửa làm! Không những tôi đã không trả tiền bánh mì cho em, mà còn gạt lấy thêm cả số tiền thối của em nữa. Cả một gia tài nhỏ, mồ hôi nước mắt của em, sao mà nhẫn tâm quá! Để tôi có tiền đi thăm gặp chồng, nhưng em đó phải trả một giá quá mắc thay tôi? Trong lòng tôi cứ mãi vang lên lời xin lỗi em và cầu xin cho em được bình yên! Tôi cảm thấy có lỗi với lương tâm của mình, vì đã không làm tròn thiên chức và đạo đức của một nhà giáo, một người được xã hội trọng vọng xem là mẫu mực, là thước đo của đạo đức! Tôi cũng thấm xin lỗi cha mẹ và ngoại tôi, vì đã không giữ đúng lời dạy của ông bà: “Không được gian tham trộm cắp của ai, dù chỉ là một đồng, một xu!”
Trời ơi, XHCN này đã mau chóng biến tôi thành con người hư đốn, khốn nạn như thế!
Sau lần đó, tôi đã trở lại bến xe tìm em bán bánh mì đó, nhưng giòng đời đã đưa chúng tôi đi hai hướng khác nhau, biết đâu mà tìm!
Hơn bao nhiêu năm đã qua, nhưng tôi vẫn không quên được hành động lừa gạt khốn nạn đó của mình. Nó trở thành bài học thâm thúy, sâu sắc nhất trong cuộc đời tôi, cho tôi thấy rõ một người tốt, đôi khi vẫn có thể có hành động xấu, vì hoàn cảnh bắt buộc. “Túng thế phải tùng quyền! Nghèo đói sinh ra trộm cướp!” Tôi vẫn nhủ thầm trong lòng, sau này có được đến phương trời xa…sẽ làm nhiều điều tốt khác đền bù. Cố kiếm lý do ngụy biện, an ủi chính mình! Điều này, đã giúp tôi rất nhiều trong việc nuôi dạy con và giáo dục học trò, giúp tôi thông cảm hơn khi học trò ngủ gật trong lớp, hoặc không làm bài tập đúng hạn, và cũng giúp tôi tha thứ cho người nhiều hơn!
Cuối cùng may mắn, gia đình tôi được xuất ngoại theo diện HO. Có lần về lại Việt Nam thăm mẹ và người thân, cố nhiều lần ra bến xe, tôi đều mua bánh mì hoặc đậu phọng hay một món gì nho nhỏ từ các em, không quên dúi vào tay chút tiền đủ để các em ăn tô phở hay hủ tíu. Hành động này nhằm xoa dịu lương tâm mình, có thể tạm xem như là đền trả món nợ ân tình năm xưa. Nhưng lương tâm thì không bao giờ quên!
Có câu: “Người ta dù đã nhổ những cây đinh trên miếng gỗ, nhưng vẫn để lại những…lỗ đinh!”
Nên ngày nào còn Đảng, con người còn mãi mãi còn lừa gạt nhau để sống! “Đảng biến thanh niên thành trộm cướp! Biến phụ nữ, thành đĩ, thành trâu!”
Tôi vui mừng, giờ được sống trong không khí tự do, dù trên xứ người. Thoát khỏi phải sống trong vũng bùn nhơ nhớp của XHCN, thiếu tình người! Nhưng mỗi dịp vào Tháng Tư, làm cho tôi gợi nhớ về chuyện này.
Đây là góc độ đứng nhìn của người trong cuộc chiến, không có quyền phê bình hay đổ thừa cho một vị Tướng lãnh nào. Viết để chia sẻ những mất mát to lớn mà các bạn đồng ngủ và gia đình phải gánh chịu trong trận chiến vừa qua. Hình đầu là Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2
1- Thứ nhất là bị trói tay, không cho đánh. Một ý nghỉ rất đơn sơ là chận đèo Hải Vân, độc đạo duy nhất từ Bắc muốn vào Nam. Nếu không có quân Bắc Việt vào thì du kích không thể nào thắng nổi QLVNCH. Đường mòn Trường Sơn phải di chuyển xa và lâu hơn. Trong khi đó thì quân bạn mới rút lui an toàn ít bị tổn thất nhờ yểm trợ của phi cơ và pháo binh.
Một trái bom MK82 thả ra ở Long Khánh mà cầm chân VC được 12 ngày, co nơi loan bao chết cả sư Đoàn 10 ngàn. Trong lúc đó kho Đà Nẳng còn vai trăm trái( Mà không cho ngòi nổ) thì có phải bị trói tay hay không ?
2- Buổi họp ngày 13-3-75 là quyết định bỏ vùng 1 và 2 do TT Thiệu và Đ. Tướng Cao văn Viên quyết định chiến dịch Triệt Thoài Cao Nguyên…khiến cả 2 Tư Lệnh Vùng 1 là Ngô Quang Trưởng và Vùng 2 là Phạm văn Phú bất bình nên cả 2 sinh bệnh ? Thứ nhất là lệnh đã ra thì phải cho thời hạn. Bất ngờ thay đổi trong khi khả năng còn chiến đấu….thì làm cho hoang mang rối loạn tinh thần Binh Sĩ nhất là gia đình của họ chưa kịp sắp xếp. Từ đó dẫm đạp lên nhau mà chạy, giết lẫn nhau để cướp phuong tiện đào tẩu. Phải có phối trí, có án ngử mới có an tòan rút lui. Cá nhân nghĩ vậy.
Quân đoàn 2 có một sai lệch là phải rút quân về Tuy Hòa trong khi đó Tướng Phú lại thích về Nha Trang sau khi xem xét Cam Ranh không được. Do Đó Tướng Trần văn Đôn kêu về xử phạt về tội đào ngủ rời bỏ nhiệm sở. Tướng Phú ra Đệ Thất hạm Đội để gặp những bạn thân cũ như Ngô Quang Trưởng để vấn kế. Té ra Tướng Trưởng cũng dang dưỡng bệnh ở đó (có nguồn tin cho rằng bị nhốt, hay bị trói tay? do TT Thiệu. Cũng có tin là cả hai phối hợp với Dù và TQLC, Tướng Lân và Tướng Lưỡng đồng khoá 4 với Tướng Trưởng để hạ bệ TT Thiệu ?)
Sau Tướng Trưởng được PTT Nguyễn Cao Kỳ bốc đi ra nước ngoài. Riêng Tướng Phú về cáo bệnh sau ngày 16-3 phải bàn giao chức Tư lệnh cho Đại Tá Phạm Duy Tật và thăng Chuẩn Tướng. Trong khi đó đáng lý phải bàn giao cho Tư Lệnh Phó là Chuẩn Tướng Thân hay Chuẩn Tướng Cẩm, chức vụ cao thứ nhì.
Về quá trình trong Quân Đội thì Tướng Phú là một thiên tài, ra trường gia nhập Binh Chủng Nhảy dù. Bị bắt ở mặt trận Điện Biên Phủ năm 54, bị nhốt trại Đình Cả Thái Nguyên. Năm 69 thăng cấp Chuẩn Tướng tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt-thay Tướng Lam Sơn…
Tứơng Phú được lòng nhiều bạn bè Pháp và Mỹ, Ông Smith là người lo về di tản tại Sàigòn dành nhiều ưu tiên cho ông thế mà Ông nhất định ở lại bởi vì Thành Mất thì Tướng phải chết. Sau nầy cuốn sách do Frank Snapp viết về Tướng Phú với những lời ngưỡng mộ. Ngày 29-4 nơi nhà riêng đường Gia Long ông dùng Chloroquine liều nặng
mà kết liễu cuộc đời. Ngày ấy vợ ông sắp lên máy bay phải quay trở lại đưa Ông vào bệnh Viện Grall cứu cấp. Đến 11gsáng hôm 30-4-75,Ông tỉnh dậy nghe ngóng tình hình rằng lệnh đầu hàng đã ban ra. như uống thêm một liều độc dược nữa. Thiếu Tướng Phạm văn Phú đã ra đi vĩnh Viển ở tuổi đời là 47…Đáng kính phục.
Sau khi cưỡng chiếm Saigon, tập đoàn cọng sản đã thực hiện chính sách đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn. Một trong những thành phần bị đọa đày thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống chi là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước.
Bài này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước thân yêu.
1. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 1976)
Đỗ Tú Tài 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch Thơ. Di cư vào Saigon 1954 hành nghề dạy học. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.
Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.
Trong tập truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại: Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như người đồng thiếp. Như không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.
Một cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài: Tại Sao Vũ Hoàng Chương bị bắt vào tù Khám Lớn?
– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: sau 75 nhiều thơ nhạc chế diễu chế độ mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc biệt là hai câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi ra đời mất Tự Do
– Chê thơ Tố Hữu: theo bài đăng trên “net” của Sông Lô viết về Vũ Hoàng Chương nhận xét thơ Tố Hữu:
Sau 75, một phái đoàn từ bắc vô Saigon có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “họp mặt văn nghệ”. Đề tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình, thương một, thương ông thương mười
Cán bộ như Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Nghị, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của nhà thơ để dạy con trẻ yêu cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi từ đoạn trên của mấy câu lục bát này trong bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin
Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của hai câu ta đang mổ xẻ.
Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẻ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.
Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là người của tự do không phải quỵ lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà Thơ đã thế hiện khí khái tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.
– Nhà Văn Mai Thảo có bài “Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”: Sau 75, Họ Vũ dời nhà về sống với vợ con Đinh Hùng (em Bà Chương) ở Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng. Vì Hà Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.
Từ cọng sản chiếm miền Nam, hơn ba triệu người đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.
Theo Mai Thảo, đám nhà thơ miền Bắc đặc biệt đố kỵ Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam rồi đưa tới hệ lụy cho việc bắt giữ.
– Mai Thảo viết theo lời kế của Bà Chương: 9:30 sáng 13.4.76 Vũ bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe jeep đầy nhóc áo vàng mang súng ống như cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi Sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.
Vũ bị đánh thức trong giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật thẳng giữa chiếu, bất động như một pho tượng.
Bọn quỹ dữ ở lại lục soát trên hai tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi, Ông không trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó, hai thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa vào khám Chí Hòa giam cầm cùng với một số trí thức khác kể cả Bác Sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến họ Vũ mà Cựu Thủ Tướng đã tận tình chăm sóc và không hề ngại ngần bưng bô cho thi sĩ.
Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm thiếu thốn mọi bề, sức lực Ông kiệt dần. Việt Cọng biết không thể sống được bao lâu nên thả Ông về để tránh tiếng bức tử trong tù. Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng vấn vương tiếc nuối điều gì.
Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:
Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thầm rơi
Chiều nay một dấu than buông dứt
Đinh đóng vào săng, tiếng trả lời!
2. NGUYỄN MẠNH CÔN (1920 – 1979)
Viết báo Đông Pháp từ 1939. Đến 1951 dạy học tư. 1956 – 61 chủ bút báo Chỉ Đạo. Xuất bản 13 tác phẩm. Có biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.
Theo Nhà Thơ Viên Linh, sách Nguyễn Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người trong các xã hội cọng sản.
Nhà Văn Mai Thảo cho rằng “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ yếu của văn học Quốc Gia Việt Nam từ 54 đến 75 và là niềm vinh dự chung của văn học miền Nam”.
Một số tướng lãnh rất khâm phục luận thuyết và viễn kiến của Ông.
Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45 người nổi tiếng bị việt cọng bắt đi tù.
Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý giá của Nhà Văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn Can Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý bạn văn, bạn tù của Nguyễn Mạnh Côn.
– Tù Nhân Đặng Hoàng Hà: bị giam cùng buồng với Nguyễn Mạnh Côn: sáng 2.4.79, trước cả ngàn tù nhân và cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi “học tập” 3 năm. Hôm nay đủ hạn đó. Tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là tù nhân. Tôi sẽ không ăn cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau đó việt cọng căm thù nhốt riêng không cho ăn uống đến nỗi thời gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức và chết tháng 6.79.
– Ghi nhận của Nhà Báo Ngô Nhân Dụng: Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất bén nhọn, Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức của nhân loại.
– Nhà Văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận. Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì viết như một nhà thông thái hoặc như nhà phân tâm học.
– Nhà Thơ Viên Linh: 1940 Nguyễn Mạnh Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử có thể kể là giai đoạn hoạt động thực sự ngoài đời của Anh. 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc và 1975 được mời vào Ban Giám Khảo giải này.
– Nhà Văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn không lập danh bằng đường võ, có lẻ một phần do thể xác yếu ớt mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức trung úy đồng hóa nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết đầy sáng tạo, đi vào cả “vùng cấm địa” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, thế giới siêu nhân của khoa học giả tưởng và cả địa hạt tư duy chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì?
Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái một thời trong thế giới chữ nghĩa.
– Họa Sĩ Tạ Tỵ: một buổi tối, Nguyễn Mạnh Côn, mang cấp bậc Thiếu Úy, tới tìm tôi tại văn phòng đường Hồng Thập Tự, Thị Nghè.
Anh cho biết được đồng hóa cấp thiếu úy để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương. Anh nhờ tôi trình bày trang bìa cho báo đó. Là báo Bộ Quốc Phòng nên tôi vui lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với cấp chỉ huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua bài của các nhà văn.
Nhờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm say mê người đọc.
– Nhà Văn Tuấn Huy: Năm 1960, Nguyễn Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh khi đăng những bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi…nói về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới cầm bút Saigon. Điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác, một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị)
Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh Côn là Nhà Văn Lặng Lẽ: Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ từ tốn nhàn nhã như người đi dạo giữa dòng đời. Ông đã nêu lên những vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa, Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi một món ăn bình dân và ly rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc. Tôi không hề thấy ở Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” hay một “nhà lập thuyết”. Ông vẫn là Nhà Văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Thưởng thức lặng lẽ và hướng thụ cũng lặng lẽ…
Lúc nào Ông cũng trầm ngâm. Ít Khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười. Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn. Tôi rất quý Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch sử trong lằn ranh Quốc/Cọng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng 6.98).
– Tù Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn” (Khởi Hành số 20 đã dẫn): Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9.79, có nghe anh em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.
Vào buổi sáng chủ nhật không đi lao động, một cậu nhỏ tù hinh sự tìm tới tôi rồi từ từ mở gói giấy báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng nói giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn Ông bằng xe “cải tiến”, em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em giữ làm kỷ niệm, nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3 loong gạo”.
Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là cặp kính của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả giá:
Một loong rưỡi thôi!
Cậu nhỏ gật đầu, chịu liền…”
3. CHU TỬ (1917 – 1975)
Một học trò cũ của Chu Tử là Hồ Xưa ghi lại bài viết “Nhớ Thầy Chu Văn Bình, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Lê Văn Trung” (nguồn webhoidonghuongtayninh), trong đó có sơ lược tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy.
Mới 13 tuổi gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đầu năm 1930 theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.
Cuối thập niên 30 trở thành một trong vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.
Thời thanh niên mở trường tư, học trò rất đông, nhưng tấm lòng Ông không an phận ở đó.
1954 vào Nam, làm Hiệu Trưởng Trung Học Tây Ninh. Sau về Saigon lập báo Sống. Vì bất đồng chính kiến, tòa soạn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực đoan tấn công năm 1966 (vanviet.info). Cũng năm này, Ông bị việt cọng bắn vỡ quai hàm ngay trước nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.
Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi hàng được chừng 3 chữ.
Sau biến cố này, có bạn đọc gởi Chu Tử câu đối:
Thượng Tọa bể bàn tọa
Chu Bình sứt miệng bình
– Nhà Báo Trùng Dương nhận xét: Nhật báo Sóng Thần ra đời năm 1971 với chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho cuộc chiến đấu chống cọng bảo vệ vùng đất tự do. Là tờ báo duy nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới vận mệnh đất nước đóng góp.
Giữa thập niên 1960, tình hình miền Nam khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chánh, tranh chấp ảnh hưởng của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và các đảng phái chính trị, việt cọng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh phá và ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử đã “lùa” các nhân vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai cấp mà Ông cho là bất xứng vào mục “Ao Thả Vịt” của Kha Trấn Ác (bút danh Chu Tử) được rất nhiều người đọc dù họ không biết có bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao vì đã làm một việc quá can đảm giữa môi trường hết sức nhố nhăng đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cọng nằm vùng đang chực chờ phá hoại.
Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người thù ghét. Có thế nói Chu Tử nằm vào số ít thuộc giới văn chương báo chí trong ngoài nước được nhiều người biết đến.
Dẫu sao, Chu Tử là nhà văn nhà báo thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn bán rất chạy trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi như chủ báo hòa đồng thân thiện, hào sảng với anh em.
– Nhà Văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong 20 năm làm báo, ông chưa hề gặp chủ báo nào hào hiệp rộng rãi như Chu Tử đã từng hỏi ông: Anh muốn lấy bao nhiêu tiền nhuận bút và lệnh cho thủ quỹ chi trả ngay không chút chần chừ.
– Nhà Văn Võ Phiến, tác giả Tổng Quan Văn Học bình luận chi ly: “Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm báo cũng khiến lắm người khoái quá trời. Người ta khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như trong văn chương.
Tiểu thuyết ông có những nhân vật ngang tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách.
Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc trực nên nhiều chuyện và nhân vật Chu Tử thả vào “Ao Thả Vịt” nghe như thật một trăm phần trăm ấy. Độc giả khoái tỉ, đem ra bàn tán. Sinh ra thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.
Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận tiền, tả xung hữu đột, đánh đông dẹp tây, ủng hộ cánh này, húc đổ phe kia, gây nên sóng gió.Theo Võ Phiến, Chu Tử bắt tay viết cuối thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo, ngổ ngáo. Trong lớp trẻ sau này có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông. Truyện ông thành công. Báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng rộng rãi. Sau ông, lắm kẻ cũng trổ tài hô hào, đập phá. Nhưng chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên trang giấy bằng ngòi bút mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như Ông viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng đạn.
Về cái chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:
1. Viên Linh: Định mệnh nào tai ác đã thù hằn đeo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như Chu Tử vào trưa ngày 30.4.75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành tàu để nhìn Saigon lần cuối. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên rồi gọi tên đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại…
Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với Viên Linh: thi hài Chu Tử được bó vải thả xuống Thái Bình Dương vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.
– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, 41 quái quỷ gì đó…rơi lõm bõm trên sông. Một viên bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà Văn Chu Tử…
– Du Tử Lê: Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết “Yêu” là nhà văn Chu Tử, nhưng số lượng người biết nhà báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do, ở lãnh vực báo chí, ông đã không ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có thế lực về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội…
Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh…Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận…
4. HỒ HỮU TƯỜNG (1910 – 1980)
1926 du học Pháp, trình luận án Cao Học Toán. Kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà.Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng cộng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa Stalin, cổ xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Rồi 1939 tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác.Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời phỏng vấn của Đài RFA thì trong những văn kiện lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít trong khoảng trước và sau 45, xem như bọn phản cách mạng chống lại Đệ Tam Quốc Tế của họ. Đây là phong trào cộng sản do Leon Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cọng sản Đệ Tam do Lênin lãnh đạo.
Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế giới, trong khi Đệ Tam chủ trương thực hiện từng bước và Liên Xô là quốc gia đầu tiên, rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới. Theo Bà Tuyến, chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn.
Về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền, những đảng hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Theo Trotsky thì tập trung dân chủ chứ không phải một đảng nắm hết.
Về sau, Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt. Trotsky phải lưu vong ngay sau khi thành lập và cuối cùng bị ám sát chết.
Bà Tuyến nói: “nhóm Đệ Tứ bị những người Đệ Tam, tức Việt Minh, lùng giết sau cách mạng tháng tám là chuyện có thật. Stalin đã truy lùng Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng đường lối đó. Bà Tuyến nói đảng cọng sản chưa bao giờ nhìn nhận họ đã ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Theo Bà, khoảng 400 người Đệ Tứ bị mất tích hoặc giết hại trong giai đoạn 45 khi họ tham gia kháng chiến chống Pháp.
Năm 1953 Hồ Hữu Tường đề nghị cọng sản để Việt Nam trung lập, nhưng không được chấp nhận. 1957 bị đày ra Côn Đảo vì Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống Tổng Thống Diệm.
1967 đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị Cọng Hòa và tiếp tục viết báo. 1978 bị bắt do kiến nghị cộng sản trung lập hóa Việt Nam. Tháng 6.80 bệnh nặng khó cứu chữa, được cho về nhà và mất ngay hôm đó.
Đã viết 1000 bài báo và hơn 30 sách truyện giá trị.
Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Hồ Hữu Tường tự nói về mình: “nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, và nào là nhà báo”.
– Nhà Văn Thụy Khuê tóm tắt vài điểm chính về Hồ Hữu Tường,
*Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính quyền thực dân, quốc gia, cọng sản. Suốt đời chống chiến tranh.
*Con đường Ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của Ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.
*Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc.
*Có dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ.
– Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân nhận xét trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”: cuộc đời Hồ Hữu Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một tri tuệ năng động, một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy”.
Hồ Hữu Tường kể chuyện viết tiểu thuyết với Khái Hưng (Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”): Khái Hưng rủ tôi cọng tác viết tiểu thuyết, cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã phác họa vài nhân vật và cốt truyện, đặt tên Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ Khái Hưng, tôi thử viết tả những người này, trình bày được hai hình tượng Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử ấy cho thấy là tôi không có tài viết tiểu thuyết, nên không nối tiếp nữa.
– Nhà Văn Trần Bảo Định: Hồ Tiên Sinh vẫn là người hiền của đất Nam Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay…vần xoay liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”. Dẫu vậy Ông đã có cả cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không còn gì hối tiếc, bởi Ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với những sự thế gặp phải trên đường đời.
Trong Phi Lạc Sang Tàu, Hồ Hữu Tường viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức, không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý về vật chất lẫn tinh thần mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp quả địa cầu, không đâu thoát được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.
5. PHẠM VĂN SƠN (1915 – 1978)
Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công phu nhất là Bộ Việt Sử Tân Biên.Đại Tá Sơn ra đi để lại nhiều tiếc thương cho đồng đội. Đây là lời kể của một số nhân chứng về việc “nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông:
Từng là thuộc cấp của Ông Sơn. Tôi biết Ông rất thận trọng, không hề khinh xuất trong nhiệm vụ.
Ông thường nói: “phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.
Với quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố – giữa các đơn vị quân ta và địch – khi mà những cơn pháo dữ dội của đối phương chưa giảm – khi không một trực thăng nào đáp xuống lại không sợ tan xác, thế mà Ông đã đích thân bay vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó, cùng tôi ở trong hầm chống pháo một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo cọng quân rơi trên đầu mình, vừa hỏi tôi những sự kiện chi tiết ghi trong nhật ký hành quân.
Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ ở trại Tân Lập, Vĩnh Phú, lúc chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên trong cửa sổ phòng “cách ly”.
Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng đã trở vàng cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt bởi chứng nan y.
Mũi, má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết. Ông bị tàn phế cấp độ nặng.
Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại. Do kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi chết. Cả người nhầy nhụa máu me.
Trong thời gian bị giam giữ, Đại Tá Sơn đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển: xin các Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây lịch sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo lời của tên Nhàn, trưởng ban thi đua trại).
Đại Tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho tù nhân chính trị được hưởng quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng cũng giúp cho anh em còn sống được dễ thở hơn.
Cùng bay vào An Lộc với Đại Tá Sơn giữa lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy, Anh Ủy nhận xét: Ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong đại học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc cấp này, Đại Tá Sơn chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng có chút nào chất quân phiệt, không áp dụng kỷ luật nhà binh mà ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng nghiệp cũng là những người cầm bút.
– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật lịch sử không tưởng của các sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.
– Bác Sĩ Phạm Hữu Phước: Trích từ “Dòng Sông Cũ: Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại Tá Phạm Văn Sơn”.
Ở tù cùng trại. Từng khám bệnh Đại Tá Sơn. “Từ thời còn trung học Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, tôi đã được đọc “Việt Nam Tranh Đấu Sử” của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn cùng. Tôi kính trọng, thông cảm, ngã nón bái phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.
“Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.
“Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Thường mời Đại Tá quây quần để nghe Ông kể chuyện xưa lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức về sử.
“Đại Tá Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Trước cường quyền và độc tài, Ông không khiếp sợ van xin, luôn ngẩng cao đầu mà nói với cọng sản ‘các ông làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau’.
Với Ông, “Anh hùng tử, khí hùng bất tử”.
6. HỒ ĐIỆP (1930 – 1988)
Di cư vào Nam 1954. Tên thật Nguyễn Thị Tý. Sau khi phát hiện tài năng thiên phú của Bà, Đinh Hùng đặt nghệ danh là Hồ Điệp.
Báo Nghệ Sĩ (https://thoixua.vn) đã giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – tài năng nhưng cuộc đời lại quá đổi đau thương”: Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà nhẹ nhàng, mỏng manh mang lại đầy màu sắc như những cánh bướm.
Bà thường ngâm thơ trên chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do), được đánh giá là giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.
Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng. Ngót 60 năm rồi nhiều người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai của người con gái Sơn Tây qua bài “Gởi Người Dưới Mộ” của Đinh Hùng:
Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu
Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Hằng đêm ta nguyện, ta cầu
Ấy màu hương khói là màu mắt xưa
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt ngọn đèn mờ
Ta nằm rỏ lệ, đọc thơ gọi hồn
Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc vào cõi âm.
Hồ Điệp có khuôn mặt phúc hậu, hiền dịu. Nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến. Nhà Thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà là Nữ Hoàng Thanh Sắc:
Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời
Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ
Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được mời diễn ngâm ở Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả xa quê lâu ngày, tâm hồn nhớ nhà nhớ nước, lắm người không ngăn được dòng nước mắt nức nở nghẹn ngào khi nghe Bà đưa hồn mình vào cõi thơ sầu mộng.
Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài “Một Thoáng Hương Xưa”: Vào năm 1960 tại cuộc họp một số văn nghệ sĩ có Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà Văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ và Bát Cơm Bát Máu), Vũ Quân tặng Hồ Điệp, Mặc Thu hai câu thơ:
Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu
Nhà Thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca Sĩ Thái Hằng (chị em bạn bằng dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Saigon, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ với nét đẹp cổ kính của thục nữ Bắc Hà.
– Phạm Công Luận: “Saigon – Chuyện Đời của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn”. Theo báo Trẻ số 7 Tập 1 năm 1960, Hồ Điệp có giọng mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các đoạn thơ trong truyện Kiều, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ T.T.KH rất được thính giả hâm mộ.
– Chu Văn Lễ nêu nhận định: giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.
Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hoặc nhà bạn hữu.
Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh Bướm Bên Trời”:
“Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện đưa đón, theo dấu người tị nạn tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại.
Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ gởi qua nhờ theo dõi tin tức một người thân đã rời Saigon khoảng đầu 1988. Thư cũng cho biết nhóm này gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, nhưng có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre rừng…
Tôi đi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước. Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh. Bên nam còn có Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.
Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm bài Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp đã có lần ngâm trên Đài Saigon.
Bài Thơ hay quá đổi, quá liêu trai, phù hợp với ánh trăng xanh nhạt rải trên mái tranh, trên từng đám lá mồng tơi.
Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt…
Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm, thế nhưng thời gian trôi đi, Cánh Bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thể ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được.
Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.
Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung thủy của thính giả mà bay về đây báo mộng.
Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi…thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã về thật rồi”…
Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đặt thờ trong Chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Saigon.
Theo NguoiVietBoston, các con của Hồ Điệp định cư ở Mỹ. Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007 tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt giam 6 tháng.
7. MINH KỲ (1930 – 1975)
Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Dòng dõi Hoàng tộc, vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại. Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm rất được ưa chuộng.
Là một trong ba thành viên nhóm Lê Minh Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.
Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. Ba người ở ba miền mà tương đắc, gắn bó, tri âm tri kỷ gần mười năm. Lê Dinh cho là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.
Chỉ nghe qua câu chuyện 3 Nữ Sinh Viên Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi tao phùng gặp gỡ Lê Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của nhóm này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:
Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng
Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau
Em đã đến và đã đến như áng mây
Như cánh chim bay qua bầu trời
Ôi hình hài một vài giờ vui…
Tôi đứng đó như hình một pho tượng
Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây
Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi
Nghe trái tim rung lên bồi hồi
Chắc gì gặp lại lần thứ hai…
Theo Lê Dinh, Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời, chạm đến nỗi lòng người nghe.
Ca Sĩ Hoàng Oanh ca ngợi nhạc Minh Kỳ tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.
– Ca Sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ: Tôi từng gặp anh để trao đổi về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc. Tôi xem anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc anh trầm ngâm động viên “chú rán hát cho hay, cho tốt”. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống.
– Ca Sĩ Quỳnh Giao nói rằng nét tài hoa của Minh Kỳ không chỉ ở những tác phẩm Ông viết cho mình mà là sự đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên 1960, chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm, thanh niên giả từ học đường thi hành quân dịch. Thính giả bấy giờ muốn nghe và hát những bài ca có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ hát, tiết điệu nhịp nhàng…dễ đếm: đấy là thời kỳ những bài nhịp Bolero ra đời. Minh Kỳ đáp ứng với Biệt Kinh Kỳ:
Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi
Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi…
Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy nói khoác chiến y rồi…
Có lẻ chưa bao giờ một bài hát lại ăn khách tới mức đó. Hằng tuần trên làn sóng điện khi trực tiếp truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng chủ nhật tại rạp Quốc Thanh, thì có ít nhất 3 thí sinh chọn bài này để thi. Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe Biệt Kinh Kỳ nhiều quá đến phát thuộc lòng!
Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển dù viết ở thể loại nào. Câu cú rất hệ thống và tài tình nhất là lời ca đượm tính cách “kể chuyện” thật hấp dẫn.
– Nhà Văn Phạm Tín An Ninh có bài “Cái Chết Oan Khuất của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”:
“Tôi và Minh Kỳ cùng trại tù An Dưỡng. Tôi ở nhà 1, Anh nhà 3.
Một đêm cuối tháng 8.75, khoảng 9:30 tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn người tù nằm thao thức chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng một tiếng nổ long trời, kèm theo tiếng la thất thanh, còi báo động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại chỗ, kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.
Khi chúng tôi chưa hết hoang mang, thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, 2 tay để trên đầu.
Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “ có bọn phản động trong các anh đã dấu diếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả “kách mạng”.
Một số bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương. Minh Kỳ thương tích rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ cho đến lúc tắt thở.
Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết Minh Kỳ cùng những bạn tù khác là do chính bọn việt cọng quăng từ khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét”.
Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài cốt Giáo Xứ Tân Định.
8. HỒ ĐÌNH PHƯƠNG (1927 – 1979)
Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm của hơn 20 nhạc sĩ danh tiếng được Ông viết lời hay phổ từ thơ Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đỗ đầu khóa Đốc Sự Hành Chánh.
Sau 75 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.
– Ca Sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Dalat” hay “Nhớ Nha Trang” đều do Ông đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này biết dường nào.
– Theo Du Tử Lê thống kê thì trong khoảng 200 ca khúc Nhạc Sĩ Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta đếm trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ Ông.
Một bài hát rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích là Con Đường Xưa Em Đi.
– Theo Phù Sa (Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc Sĩ Châu Kỳ và Châu Thị Đàng, hoainiem.org): Bà Đàng kể thời điểm 1967 – 68 Bà làm kế toán, còn Hồ Đình Phương là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai, Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà thường đi lại để về nhà. Chứng kiến cảnh ngộ đó, Hồ Đình Phương đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc vào năm 69 với ca từ thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Thật không uổng phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:
Con đường xưa em đi
Vàng lên mái tóc thề
Ngõ hồn dâng tái tê
Anh làm thơ vu quy
Khách qua đường lắng nghe
Chuyện tình ta đã ghi
Những mùa trăng vu quy
Vì mưa gió không về
Chiến trường anh bước đi
Có nàng hoen đôi mi
Ngóng theo đường vắng hoe
Hỏi còn ai cố tri
Em ơi, nhìn gió lên khơi
Lòng có trông vời
Một người xa cuối trời
Nơi đây phiên gác canh dài
E ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài
Em ơi, màu áo phong sương
Mình ước huy hoàng
Được bàn tay chính nàng
Dâng hoa, dâng hết ân tình
Tình đến bao giờ
Hỏi đường xưa mà nhớ
Con đường xưa em đi
Thời gian có quên gì
Đá mòn kia vẫn ghi
Ghi một đêm trăng thanh
Quán bên đường vắng tanh
Chỉ còn em với anh
Lời nhạc êm tai tha thiết như vậy mà từng bị cấm. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?
– Nhạc Sĩ/Nhà Phê Bình Âm Nhạc Nguyễn Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3.2017 cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do bài hát không đúng với bản gốc. Nhạc Sĩ nói rằng “đã cấp phép rồi lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”.
“Trước tiên phải nhìn nhận những ca khúc sáng tác trước 75 tại miền Nam là phần tạo nên diện mạo của nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20.
Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình, những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.
Đây chính là yếu tố khiến nhiều ca khúc thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.
Theo nhạc sĩ Long, việc Cục cấm hát 5 ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự việc càng trở nên rối khi những lý do viện dẫn để cấm chưa thực sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều tuần.
Trong khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý với báo chí “chiến trường” ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?
Bà Đàng từng chia sẻ: việc sử dụng từ “chiến trường” hay “phiên gác” chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này nói thay tâm tư tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa.
Cần nhìn nhận việc cấm 5 ca khúc này chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không, bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ thời gian sống trong lòng công chúng”.
Cho đến ngày 15.4.17 thì quyết định cấm đã được thu hồi.
9. THỤC VŨ (1932 – 1976)
Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung Tá ngành Tâm Lý Chiến. 1969 tiếp nối Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân phụ trách Thi Văn Tao Đàn, đổi thành Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc.Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca Quang Trung Hành Khúc được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao trường tập luyện.1975 bị giam trại Tân Hiệp, Biên Hòa. Tại đây Ông sáng tác nhạc phẩm “Suối Máu” với mấy dòng thơ cảm đề:Em ở Saigon anh ở đâyĐồi pha cát trắng kẽm gai đầy Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược Để nhớ nhung về che khuất mây1976 chuyển ra Sơn La rồi mất tại vùng rừng thiêng nước độc này. Một số bạn hữu kể lại những ngày tù của Ông:– Nhà Văn Văn Quang (Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành nằm chờ chết.Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.Tôi lặng người bởi hôm qua lẻn sang thăm Thục Vũ, Anh đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ: “tôi mệt không hút được nữa”. Sau đó Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn La, từ bệnh xá quanh con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, “đám tang” di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng. Hai cai tù vác AK đi đầu, kế đến một anh tù cầm vài nén nhang, 4 người khiêng cổ quan tài mộc. Sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ chuyển động như những bóng ma.Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác sĩ tù nhân trẻ nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa trông như tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi.Một tháng trước khi mất Thục Vũ có bài “Gởi Saigon”:Viết bài thơ sau cuối Ý nhạc tàn theo mây Hồn anh về bên Chúa Xác anh gửi phương này– Nhà Thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng 15.11.76 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngã nón cúi đầu chào người bạn vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban xã Mường Thái với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả về Saigon có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt Chồng vào Nam.– Nhà Thơ Huy Trâm viết: “Dù bị tù tội, Thục Vũ vẫn say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc: một hôm mưa tầm tả, cả đội lo đi hứng nước thì phải chạy trú tạm dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả áo quần, Anh vẫn mặc. Ta cứ hát. Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem! Thục Vũ vẫn nghêu ngao hát xong bài rồi mới vào hàng trú mưa. Hát cho quên sầu…và cũng là lần hát cuối đời. Một tuần sau anh mất”.Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên nợ đưa đẩy Ông yêu thương Nhà Thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa con đầu lòng.Vào những năm 1964 – 66, thi đàn miền Nam bỗng dưng xuất hiện nhà thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” do nhà sách Khai Trí xuất bản lúc mới chừng 20 tuổi.Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu Tuyến”:Hôm nay trời vào thuDalat lắm sương mù Cây khô buồn trút lá Gió ven hồ bay xaMây thu lờ lững trôi Lồng lộng gió lưng đồi Xin anh đừng giận dỗiViết thư về thăm em Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ da diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” như là tiêu biểu cho vần thơ của thi nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng:Chiều chủ nhật đợi chờ anh mãi mãi Sao trể giờ cho chua xót anh ơi!Hẹn hò chi, chừ lỡ dở cả rồi Tình mới chớm đã vội vàng lịm tắt Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc Liệu người ta đáp trả lại hay không Đến bao giờ dẫm được xác pháo hồng Áo cưới đỏ cười vui cô dâu mới …
Trường Nữ sinh đầu tiên và duy nhất ở xứ Bắc kỳ năm xưa, nay là Trường THCS Trưng Vương Hà Nội, là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô song ít ai biết được đầy đủ những tên gọi, hệ thống dạy-học cũng như những nét riêng biệt khác nữa trong bề dày lịch sử hàng trăm tuổi của ngôi trường.
Nằm trên một nền đất vuông vức ngay ngã tư phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội (thời Pháp là đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau), Trường THCS Trưng Vương được nhiều thế hệ người Hà Nội nói chung và giới học sinh nói riêng tự hào nhắc tới như một ngôi trường nổi tiếng đào tạo nữ sinh Việt Nam và là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô. Tuy nhiên ít ai biết được ngôi trường này trước kia có tên gọi là Trường trung học Paul Bert – tên chính danh của trường. Còn các tên gọi khác theo hệ đào tạo là Trường Cao đẳng tiểu học Nam sinh (Trường Con Trai – École des Garçons), Cơ sở giáo dục Nữ sinh người Việt (Institution de Jeunes filles annamites), Trường Sư phạm nữ sinh người Việt (École Normale des Institutrices annamites), Trường Trung học nữ sinh người Việt (Collège de Jeunes filles annamites), hay trường được gọi theo tên phố là Trường Nữ sinh Đồng Khánh (École de Jeunes filles de Đồng Khánh), vì mặt chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh và nhiều nét riêng biệt khác nữa.
Lịch sử tên gọi và kiến trúc Năm 1886, trường trung học công lập đầu tiên được thành lập ở xứ Bắc kỳ (Tonkin) mang tên Trường Trung học Paul Bert (Collège Paul Bert) dành cho số ít con em người Pháp là quan chức thực dân, sĩ quan, viên chức đầu tiên đến Hà Nội, trường thực hiện dạy hai cấp Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học với mô hình tổ hợp trường nam sinh và nữ sinh. Trường Paul Bert tiếp nhận dạy hầu như toàn bộ số học sinh Pháp ở Bắc kỳ. Trước là dạy chương trình tiểu học rồi dạy đón chuyển tiếp chương trình Trung học[1]. Ngôi trường được xây dựng trong những năm 1897-1898, trên thửa đất ở ngã tư đại lộ Đồng Khánh, dài 100 mét và đại lộ Carreau, dài 87 mét, tức phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội ngày nay[2].
Ngôi trường được thiết kế và xây dựng theo lối kiến trúc cũ, mái ngói một tầng, phần giữa và hai cánh ở hai đầu xây sâu hơn, rộng hơn và lên cao tầng. Bên cánh phải (nhìn từ trường ra cổng) dành cho Giám hiệu và bên cánh trái dành cho các phòng Quản lý trường, chủ yếu theo nguyên tắc đối xứng về xây dựng[3].
Theo thiết kế ban đầu, ngôi trường được xây dựng như một tổ hợp trường học nam sinh và nữ sinh. Khu chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh là khu trường học nam sinh nên ngay trên trán tường ở chính giữa, mặt chính có đắp nổi chữ “École des Garçons” – Trường học Nam sinh. Mặt chính ra đại lộ Đồng Khánh có ba cổng mang ba số 26, 28 và 30. Địa chỉ giao dịch chính của trường là số 30, Đại lộ Đồng Khánh, Hà Nội.
Những bước chuyển mình Năm 1904, Trường Nữ sinh Pháp chuyển sang cơ sở nằm trên phố Thợ Nhuộm (rue des Teinturiers), rồi phát triển thành một trường độc lập dành riêng cho học sinh nữ người Pháp cơ sở ở đại lộ Hai Bà Trưng (boulevard Rollandes). Từ đây Trường Paul Bert (phố Đồng Khánh) chỉ còn học sinh nam nên còn gọi là Trường Nam sinh, hay Trường học con trai. Trường Nam sinh rất nổi tiếng, một số bản đồ thành phố Hà Nội đương thời đã cho ghi vào phần chỉ dẫn là Trường Nam sinh (École des Garçons).
Năm 1912, Chính quyền Pháp ở Đông Dương có kế hoạch cải tạo Trường Paul Bert trên phố Đồng Khánh và nâng bậc học thành trường Trung học Đông Dương[4] ở Hà Nội. Tuy nhiên, vì địa điểm này quá chật hẹp nên dự án không thực hiện được phải chuyển về xây dựng ở Đại lộ République, nay là phố Hoàng Văn Thụ. Trường Trung học Đông Dương là tên gọi ban đầu của Trường Trung học Albert Sarraut, ngày nay là trụ sở của Ban Đối ngoại và Ban Tổ chức Trung ương Đảng[5].
Năm 1917, theo Nghị định 2229, ký ngày 10/11/1917, chính quyền Pháp mở Cơ sở giáo dục Nữ sinh Việt Nam (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc học Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học[6]. Các em được học các môn chính là chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lý, luân lý, phép xã giao, vệ sinh với các cô giáo người Pháp, còn các môn học nữ công gia chánh như quản lý gia đình, may vá, thêu, nấu ăn… với các cô giáo người Việt. Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi.
Việc mở các trường nữ học đòi hỏi phải tuyển giáo viên là nữ để dạy môn tiếng Việt và vệ sinh phụ nữ. Ở Bắc kỳ, nữ giáo viên người Pháp không biết tiếng Việt nên rất khó khăn trong việc chuyển tải kiến thức và nữ giáo viên người Việt thiếu rất nhiều. Thời gian đầu chỉ có ít nữ giáo viên người Pháp và tuyển được một vài cô tốt nghiệp Trường Tiểu học Hàng Cót[7].
Vì những khó khăn về giáo viên, năm 1917, chính quyền Pháp cho mở Cơ sở Đào tạo giáo viên nữ người Việt (École normale d’Institutrices annamites), cơ sở này ban đầu hoạt động song song như một cơ sở phụ trợ cho Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt[8].
Về trường, lớp, năm 1918, chính quyền Pháp cho xây dựng khu trường học nằm trên phố Trần Phú (thời Pháp thuộc là phố Félix Faure), nay là trụ sở của Bộ Tư Pháp dành cho Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt của Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh bản xứ.
Trong suốt khoảng chục năm, số học sinh các trường Pháp và trường bản xứ tăng lên, nhu cầu học sinh nội trú cũng tăng, khiến chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng phải cho xây dựng, sửa chữa, mở rộng nhiều trường, lớp, phòng ăn, phòng ngủ đáp ứng nhu cầu của cha mẹ học sinh.
ự án xây dựng và mở rộng Trường cao đẳng tiểu học Nam sinh ở phố Đồng Khánh được thực hiện trong những năm 1927-1928. Ngôi nhà chính, phần một tầng được cơi cao thành hai tầng đều để tầng trên làm phòng ngủ cho học sinh nội trú và tầng dưới làm phòng học. Có câu chuyện không vui là khi xây dựng lên cao tầng, sàn gác bê-tông bên trái bị sập đổ ngay khi mới dỡ giàn giáo chống bên dưới, may không xảy tai nạn chết người. Lúc đó, người ta quy cho nguyên nhân sự cố đó là do xi-măng mất phẩm chất và phải làm lại ngay trong năm 1928[9].
Cùng đợt này, Trường Đồng Khánh có xây mới và mở rộng thêm một số hạng mục:
Nhà ăn ở tầng dưới và phòng y tế trên gác ở cánh nhà bên trái, xây tiếp vào ngôi nhà chính kéo dài, dọc theo sân. Nhà vui chơi và lớp học (hai tầng ở cuối sân). Các nhà phụ, bếp, nhà tắm, vệ sinh… và nhà liền tường với nhà Giám hiệu. Ý định ban đầu từ thiết kế là theo nguyên tắc đối xứng trong xây dựng, nhưng sau khi xây mở rộng cánh nhà bên trái dọc theo sân và nhìn ra phố Lý Thường Kiệt để chừa phần sân thoáng rộng, sát cổng bên thì trên thực tế không còn đối xứng nữa.
Giữa tháng 8 năm 1928, công trình xây dựng và mở rộng ngôi trường này hoàn thành, được bàn giao cho nhà trường để kịp khai giảng ngày 11 tháng 9. Ngay năm học này, các trường Pháp và bản xứ có sự hoán đổi. Trường Cao đẳng Nữ sinh Pháp rời chuyển từ phố Hai Bà Trưng về phố Trần Phú. Trường Trung học Paul Bert (hay Cao đẳng Tiểu học Nam sinh Pháp) rời chuyển từ phố Hàng Bài về ăn, ở, học thế chỗ Trường Cao đẳng nữ sinh Pháp ở phố Hai Bà Trưng[10]. Toàn bộ ngôi trường Paul Bert vừa được xây thêm, mở rộng dành riêng cho Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh người Việt gồm Cơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo giáo viên Nữ người Việt chuyển từ phố Trần Phú về phố Hàng Bài, theo dự án kiện toàn và chuyển đổi trường, lớp do Nha Học chính Đông Dương tại Hà Nội báo cáo và lập ngày 31 tháng 12 năm 1925.
Năm 1937, do chương trình học thay đổi, Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh bản xứ ở Đại lộ Đồng Khánh, gồm Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt đổi tên, gọi là Trường Trung học Nữ sinh Việt Nam (Collège de Jeunes Filles Annamites), hay Trường Nữ Trung học Đồng Khánh.
Năm 1943, Trường nữ Trung học Đồng Khánh sơ tán về Hưng Yên. Đến tháng 10/1945, trường dọn về khu học Hoàng Mai, khu Đại lý Hà Nội.
Ngày 14/2/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe ra Nghị định, số 85 đổi tên những trường trung học tại Bắc Bộ. Theo đó, Trường Nữ Trung học Hà Nội đổi tên gọi là Trường Trung học Hai Bà Trưng[11] (nay là Trường Lê Ngọc Hân, phố Lò Đúc).
Sau tháng 8/1945, cả khu Trường Hàng Bài trở thành trụ sở Tổng trấn Bắc bộ của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa[12].
Đến đầu năm 1948, Cơ sở trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học. Trường Nữ Trung học phải chuyển đến phố Hàng Than (nay là Trường Nguyễn Công Trứ) và đến cuối năm, trường chuyển về cơ sở số 9 phố Hai Bà Trưng (nay là cơ sở của Trung tâm Giáo dục Kỹ thuật tổng hợp số 4, thuộc Sở Giáo dục Hà Nội)[13]. Năm ấy cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương[14].
Việc mang tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương, hay Trường Nữ sinh Trưng Vương được ghi lại trong những bài viết và hồi ký của nhiều thế hệ nữ học sinh ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn như một dấu ấn đáng nhớ của ngôi trường. Trong bài viết “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu…”, hồi ký của một học sinh nam Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn tự nhận mình có rất nhiều thiên đàng mơ mộng có viết:
Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925 [??], trên con đường Đồng Khánh, phía nam Hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (Collège de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương[15].
Năm học 1950-1951, ngôi trường Hàng Bài bắt đầu được trưng dụng trở lại làm trường học. Tuy vậy, Trường Trung học Trưng Vương chưa về đây khai giảng năm học này mà là Trường Trung học Nguyễn Trãi[16]. Trường Trưng Vương vẫn tiếp tục hoạt động ở số 9, phố Hai Bà Trưng đến năm 1956. Bước vào năm học 1956-1957, Trường Trưng Vương mới chính thức về “nơi cội nguồn” ở phố Hàng Bài sau hơn 10 năm “lưu lạc”.
Những mốc son lịch sử của trường Trưng Vương rất có ý nghĩa với những năm 2016 và 2017:
130 năm: Thành lập Trường Trung học Paul Bert (1886-2016) 120 năm: Ngôi trường Trung học Paul Bert, hay còn gọi là Trường Đồng Khánh được xây dựng trên ngã tư đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau (1897-2017). 100 năm: Thành lập Cơ sở Giáo dục Nữ sinh bản xứ và Trường Sư phạm Nữ sinh bản xứ – tiền thân của Trường Nữ sinh Đồng Khánh hay Trường Nữ sinh Trưng Vương (1917-2017), ngày nay là Trường THCS Trưng Vương. 90 năm: Ngôi trường Đồng Khánh được xây mới và nâng cấp từ nhà một tầng thành khu nhà hai tầng có mô hình kiến trúc như hiện nay (1927-2017). 80 năm: Cơ sở Giáo dục Nữ sinh và Trường Sư phạm Nữ sinh của Trường Cao đẳng Tiểu học Nữ sinh Đồng Khánh được đổi tên, gọi chung là Trường Trung học Nữ sinh người Việt (1937-2017). 70 năm: Trường Nữ Trung học đổi tên là Trường Trung học Hai Bà Trưng (năm học 1946-1947) Năm 1948: Trường đổi tên là Trường Nữ Trung học Trưng Vương. 60 năm: Trường Nữ Trung học Trưng Vương chuyển về “cội nguồn” trên phố Hàng Bài, tức đại lộ Đồng Khánh xưa kia (năm học 1956-1957). Tác giả: Nguyễn Văn Trường Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) Hà Nội Đăng dưới sự đồng ý của tác giả.
*Chú thích:
[1] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 71-72. – Tương đương với bậc Tiểu học và PT cấp II hay TH Cơ sở hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).
[2] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.86-87.
[3] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.
[4] Tương đương cấp III hay PTTH hiện nay (Hệ thống giáo dục Pháp-Việt và bậc học của các trường sẽ trình bày ở bài viết khác).
[5] Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội 1875-1945 – Traits d’Architecture, Hanoi à l’heure française, Hà Nội, Thế giới, 2009, tr.90.
[6] Giáo dục Pháp Việt ở Bắc kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Trần Thị Phương Hoa, Hà Nội, 2011.
[7] Trường Hàng Cót tên gọi chính danh là Trường nữ sinh tiểu học Brieux, hay Trường Brieux, nay là Trường THCS Thanh Quan, phố Hàng Cót quận Hoàn Kiếm Hà Nội.
[8] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 45.
[9] “Phần tiểu dẫn” – Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Quốc gia, số 18 phố Vũ Phạm Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội.
[10] Le Tonkin scolaire: Un pays d’adaptations pédagogiques originales, Gouvernement général de l’Indochine, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931, p. 72.
[11] Theo Việt Nam dân quốc Công báo, số 9, thứ bảy, 2/3/1946, tr.124.
[12] Hồ sơ lịch sử kiến trúc, quyển số 100, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ số I Nhà nước: Trường Trưng Vương – một trong những trận địa chống Pháp oanh liệt năm 1946, http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16481/language/vi-VN/Default.aspx
[13] 75 năm mái trường Trưng Vương (Hàng Bài) – 1917-1992, nhiều tác giả, Hà Nội, NM in Thống nhất, 1992, tr.11.
[16] Ngày 4 tháng 10 năm 1950, Trường Trung học Nguyễn Trãi khai giảng và hoạt động tại cơ sở Trường Hàng Bài, Hà Nội đến hết năm học 1955-1956, ngày nay là Trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình, Hà Nội.
Hàng năm, cứ đến ngày 30/4 là nhà cầm quyền Việt Nam lại tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng các lễ mít tinh, diễu hành, diễu binh, duyệt binh. Đối với đồng bào người Việt hải ngoại, và rất nhiều đồng bào miền Nam ở trong nước, đây là ngày quốc hận, là nỗi đau chưa hề nguôi ngoai.
Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.
Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản
Hóa ra, có một sự thật có hệ thống từ khi đảng cộng sản xuất hiện đã chi phối và không chế hoàn toàn dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Sự thật này khởi nguồn từ việc cướp chính quyền, tiêu diệt toàn bộ các đảng phái không phải cộng sản; tạo ra cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất; cải tạo công thương nghiệp miền Bắc; Nhân văn Giai phẩm; cưỡng chiếm miền Nam; đày đọa hàng triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa; cải tạo công thương nghiệp miền Nam; hai lần đổi tiền để cướp của người dân; cướp đất đai của người dân tạo ra hàng triệu dân oan trên cả nước (thời kỳ đổi mới); đàn áp mọi tôn giáo, sắc tộc….một sự liệt kê chưa đầy đủ này đã làm câm họng tất cả những kẻ nói rằng chủ trương đường lối là đúng, thực hiện sai; bản chất là đúng, là tốt nhưng quá trình thực hiện có sai lầm; thế hệ trước là đúng, là tốt, sau này mới tha hóa, xấu xa…
Những sự thật này đã đẩy bên thắng cuộc tới tận cùng của nỗi đau: cả cuộc đời, cả sự nghiệp của họ là vứt đi, thậm chí có tội với dân tộc, với đất nước. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.