Cuộc chiến của thế hệ Baby Boomer ở Việt Nam

Nguồn: James Wright, “The Baby Boomer War”, The New York Times, 11/04/2017.

Trong tất cả những câu chuyện về Chiến tranh Việt Nam, có một đặc điểm nổi bật hơn nhiều so với phần còn lại trong ký ức người Mỹ: Đó là cuộc chiến của thế hệ Baby Boomer (những người sinh ra sau Thế chiến II).[1] Đến mùa xuân năm 1967, hầu hết lính Mỹ thiệt mạng trong cuộc chiến đều ra đời vào năm 1946 hoặc sau đó.

Để hiểu chiến tranh, chúng ta phải hiểu điều gì đã thúc đẩy thế hệ người Mỹ này không đơn thuần chỉ phản chiến mà còn thực sự chiến đấu, và sau đó là cố gắng tìm cách thoát ra. Người ta dễ dàng bắt đầu chiến tranh hơn là kết thúc nó. Và đối với bản thân người lính chiến, ký ức tồn tại rất lâu sau khi cuộc chiến dừng lại.

Trong lễ nhậm chức vào tháng 01/1961, Tổng thống John Kennedy nói, “Hãy cho mọi quốc gia biết, dù họ có muốn hay không, rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất kỳ gánh nặng nào, chấp nhận bất kỳ khó khăn nào, hỗ trợ bất kỳ người bạn nào, chống lại bất kỳ kẻ thù nào để đảm bảo sự sống còn và thành công của nền tự do.”

Những người sinh ra sau thế hệ Baby Boomer có thể thấy lạ khi đọc về một vị Tổng thống yêu cầu công dân hãy hy sinh, hãy sẵn sàng trả “bất cứ giá nào.” Tuy nhiên, cha mẹ hoặc ông bà của họ, những người thuộc thế hệ Baby Boomer, rất có thể sẽ nhớ về khoảnh khắc tỏa sáng ngắn ngủi của một lời hứa đầy mạnh mẽ và của những ước mơ chưa được thực hiện. Chính tiếng vọng của lời kêu gọi ấy chỉ vài năm sau đã thúc giục hàng trăm ngàn thanh niên nhập ngũ và tới Việt Nam, để có cơ hội bảo vệ “sự thành công của nền tự do” – cũng như khiến cho rất nhiều người trẻ khác ở Mỹ ủng hộ cuộc chiến, chí ít là trong giai đoạn đầu.

Nhưng trong ký ức của phần lớn chúng ta, thế hệ Baby Boomer nhanh chóng quay sang chống chiến tranh. Có nhiều người phản đối, nhưng cũng có nhiều người tham gia phục vụ trong cuộc chiến. Hơn 10 triệu người thuộc thế hệ Baby Boomer phục vụ trong quân đội, tức là khoảng 40% nam giới thuộc thế hệ của họ. Nhiều người trong số này phục vụ tại Việt Nam. Số người thuộc thế hệ Baby Boomer chết trong Chiến tranh Việt Nam lớn hơn số người trốn sang Canada hoặc vào tù vì từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự. Những người lính Baby Boomer có thể là những người lao động chân tay và là thiểu số so với trung bình thế hệ của mình, nhưng họ không phải là kẻ ngoài lề, càng không phải là kẻ duy nhất chiến đấu. Tham gia chiến đấu cũng có những sinh viên bỏ học đại học và những người đã tốt nghiệp– không chỉ trong vai trò các sĩ quan.

Hồ sơ của những người lính này phức tạp hơn nhiều so với định kiến của chúng ta về họ – những người đàn ông và phụ nữ Mỹ ở Việt Nam không được xác định bằng biểu tượng hòa bình và chuỗi hạt tình yêu mà họ xăm, dù một vài người trưng chúng. Họ không phải là một nhóm người bị bắt đi nghĩa vụ quân sự và nổi loạn, dù nhiều người đã bị bắt đi lính, và nếu không bắt đầu nhiệm vụ chiến đấu của mình bằng sự vỡ mộng, rất có thể họ sẽ kết thúc cuộc chiến với cách nhìn đó. Họ không phải là một nhóm những “sát thủ” (fraggers) chuyên sát hạt các sĩ quan cấp trên, cũng chẳng phải những tên giết người chất đống thi thể của những nạn nhân vô tội trong làn khói cần sa.

Họ là những người lính bộ binh và lính thủy đánh bộ, thủy thủ và phi công, bác sĩ và y tá, những người đã học bài học về sự sống còn, về bảo vệ bạn bè, về cái chết tàn khốc. Họ đã chứng kiến sự đau khổ của người Việt Nam và đã tiếp tục nhiệm vụ của mình ngay cả khi sự kết thúc của cuộc chiến và ý nghĩa của nó cứ ngày một xa vời. Bài hát yêu thích của họ là bản We Gotta Get Out of This Place (tạm dịch: Chúng ta phải thoát ra khỏi chỗ này) của nhóm Animals. Nhưng khi thực sự thoát khỏi cuộc chiến đó, việc trở về quê hương thường cực kỳ khó khăn và cô đơn. Tác động từ thái độ thờ ơ, nếu không phải là thù địch, của công chúng là rất lớn chỉ bởi họ đã thực hiện trách nhiệm công dân mà họ cho là của mình.

Thế hệ Baby Boomer lớn lên trong thế giới của thập niên 1950, một thế giới với các cuộc diễn tập ứng phó thảm họa (duck and cover) ở trường học nhằm chuẩn bị cho một cuộc tấn công hạt nhân, một thế giới với những lời nhắc nhở về mối đe dọa cộng sản từ Liên Xô và Trung Quốc, về nỗi sợ chiến tranh gần như không thể tránh khỏi, và về nghĩa vụ của họ trong cuộc chiến này. Đó là khoảng thời gian của sự sợ hãi, nhưng cũng là kỷ nguyên của niềm tin quốc gia và nghĩa vụ cá nhân. Con cái của các cựu binh Thế chiến II này hiểu được trách nhiệm của mình – sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự khi cần thiết, thậm chí tự nguyện tham gia trước cả khi được kêu gọi.

Nhà báo Philip Caputo là một sĩ quan thủy quân lục chiến trẻ tuổi từng góp mặt trong đơn vị tác chiến đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam vào năm 1965. Ông hồi tưởng, “Đối với những người Mỹ không trưởng thành trong giai đoạn đầu thập niên 1960, thật khó mà hiểu được những tháng năm ấy – khi mà niềm tự hào và tự tin quá mức đương thắng thế.” Ông nói rằng khi hành quân qua những đồng lúa, những người lính mang theo, “bên cạnh ba lô và súng trường, là niềm tin ngầm rằng Việt Cộng sẽ nhanh chóng bị đánh bại và chúng tôi đang làm một điều hoàn toàn cao quý và tốt đẹp.”

Rất ít người có thể lường trước được thời hạn và chi phí của cam kết này. Rõ ràng là các nhà lãnh đạo đã không thể làm được điều đó, dù họ hiếm khi thừa nhận thực tế đó một cách trung thực. Vì vậy, khi Tổng thống Kennedy tuyên bố trong lễ nhậm chức của mình rằng “ngọn đuốc” đã được truyền sang thế hệ mới, thế hệ Thế chiến II của ông, đó là ngọn đuốc mà chỉ một số ít thuộc thế hệ ông đã nắm giữ đủ lâu. Chỉ trong vài năm, họ đã nhanh chóng truyền ngọn đuốc đó cho con cái của mình.

Năm 1965, việc Tổng thống Lyndon Johnson gửi lục quân chiến đấu [đến Việt Nam] đã làm dấy lên nhiều lời chỉ trích và bất đồng chính kiến, nhưng hình ảnh nổi trội vẫn là hình ảnh những người Mỹ trẻ tuổi đứng vững giữa rừng rậm, đem lại cảm giác mạnh mẽ về sứ mệnh của những người Mỹ đang bảo vệ “thế giới tự do.”

Tình hình dần thay đổi khi số lượng lính ngày càng nhiều, thương vong ngày càng tăng, khi lính nghĩa vụ ngày càng chiếm đa số trong các đơn vị, và khi lý do tiến hành cuộc chiến cũng như cách nó được tiến hành đã bị phản đối rộng khắp hơn nhưng lại không được bảo vệ một cách thuyết phục. Dù người Mỹ vỡ mộng về cuộc chiến, con trai, con gái, và anh chị em của họ vẫn tiếp tục lên đường sang Việt Nam. Đối với những người biểu tình và chỉ trích, tới thời điểm năm 1967, những người lính đã trở thành đối tượng được thương hại vì phải phục vụ trong một nhiệm vụ nguy hiểm, trong một cuộc chiến tàn khốc và bất công.

Năm 1968, những người biểu tình hô vang rằng “Hey, hey, L.B.J. How many kids did you kill today?” (tạm dịch: Hey, hey Lyndon Baines Johnson. Hôm nay ông đã giết bao nhiêu đứa trẻ rồi?) Nhưng vào cuối năm 1969, khi nước Mỹ được tin về vụ thảm sát tàn bạo mà binh lính của họ đã gây ra cho khoảng 600 dân thường ở làng Mỹ Lai, một số người biểu tình chuyển hướng sang quân Mỹ đang phục vụ ở Việt Nam, không còn xem họ là nạn nhân mà là những kẻ sẵn sàng tham gia cuộc chiến tàn khốc và bất công này. Johnson phải khăn gói quay về Texas, còn những chàng trai trẻ phục vụ trong quân đội, từ Baby Boomer (bùng nổ trẻ em) giờ trở thành Baby Killer (giết hại trẻ em). Sự thương hại trở thành khinh miệt. Trung úy William Calley, kẻ chịu trách nhiệm chính trong vụ Mỹ Lai, có lẽ đã được biết đến nhiều hơn bất kỳ sĩ quan chiến đấu nào khác từng phục vụ tại Việt Nam. Và vì thế những câu chuyện Việt Nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh cũng bị làm lu mờ.

Vụ thảm sát Mỹ Lai đã đóng khung hình ảnh mà đối với nhiều người khi nhìn lại đã mô tả về thế hệ người Mỹ lớn lên trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến của họ chính là cuộc chiến trong phim “Apocalypse Now.” Dù vậy, bộ phim có rất ít liên quan đến các sự kiện và trải nghiệm trong Chiến tranh Việt Nam, cũng như trường hợp của “South Pacific” và Thế chiến II – ngoại trừ việc bộ phim thứ hai đối xử tốt hơn với hình tượng người lính. Đa số các cựu chiến binh Việt Nam đã phục vụ một cách vinh dự và dũng cảm.

Khi người Mỹ quay lưng lại với chiến tranh, khi các nhà lãnh đạo chính trị bày trò lươn lẹo với chủ đề ấy, những thanh niên thiếu nữ trẻ tuổi này vẫn tiếp tục cuộc chiến của họ. Ở ngoài kia, Việt Nam là vùng đất nóng nực và ẩm ướt. Đó là câu chuyện về những ngày hành quân qua rừng rậm, đồng lúa, đồng cỏ; là chuyện bị ướt lạnh, nhiễm bệnh và bẩn thỉu; là cuộc truy tìm kẻ thù thoắt ẩn thoắt hiện trong khi chạm trán thường dân Việt Nam, những người chỉ ao ước lính Mỹ sớm rời đi và chiến tranh sẽ kết thúc.

Chúng ta chẳng thể chấp nhận thực tế về Chiến tranh Việt Nam cho đến khi chúng ta thừa nhận câu chuyện về thế hệ phục vụ ở đó và hiểu được những cảm xúc phức tạp mà họ phải đối mặt. Trong những năm sau chiến tranh, với tư cách là thường dân, họ đã tiếp tục phục vụ đất nước và thế giới của họ và tạo nên sự khác biệt. Những ký ức mạnh mẽ, thường không được chia sẻ, vẫn còn đó.

Hiểu được điều này là cần thiết: Những ai chịu trách nhiệm gửi những người trẻ ra chiến trường luôn cần phải xem xét hậu quả lâu dài của chiến tranh và chi phí về nhân mạng khi thực hiện hành động này. Winston Churchill, khi nói về Chiến tranh Boer, đã nhận ra điều đó từ một thế kỷ trước; và thế hệ Việt Nam đã trải nghiệm điều đó cách đây nửa thế kỷ. Như Churchill viết, “Các vị lãnh đạo ủng hộ chiến tranh phải nhận ra rằng một khi tín hiệu được đưa ra, anh ta sẽ không còn là chủ nhân của chính sách nữa, mà là nô lệ của những sự kiện không thể lường trước và không thể kiểm soát được.” Ông kết luận, “Chúng ta hãy tự học bài học của chính mình.”

James Wright là một nhà sử học, chủ tịch danh dự của Đại học Dartmouth, đồng thời là tác giả cuốn “Enduring Vietnam: An American Generation and Its War.” Ông từng tham gia Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.

Chiến dịch Adams và Bolling năm 1967 của Mỹ tại Nam Việt Nam

Nguồn: Robert J. Thompson, “Pacification, Through the Barrel of a Gun”, The New York Times, 10/03/2017.

11.000 lính thiệt mạng nhưng không có thành tựu lớn nào, khi nhìn lại, 1967 thật ra là một năm chẳng mấy tốt đẹp cho người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Nhưng vào lúc ấy, người ta vẫn còn rất lạc quan. Các chiến dịch tấn công của Mỹ trong suốt năm 1966 đã ngăn chặn bước tiến của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam (mà phía Mỹ gọi là Việt Cộng). Những bước tiến đó, kết hợp với những nỗ lực “bình định” thường dân, dường như là con đường dẫn đến chiến thắng – nếu không phải vào năm 1967, thì cũng là ngay sau đó.

Nỗ lực bình định của Mỹ bao gồm một loạt các chiến lược khác nhau để loại bỏ ảnh hưởng của Cộng sản khỏi nông thôn Nam Việt Nam. Và trên một phuong diện nào đó, đây chính là trung tâm thực sự trong những nỗ lực của Mỹ ở nơi này: Dù cái mà chúng ta nhớ nhất về cuộc chiến này là các trận đánh, nhưng những trận đánh ấy thường là để mở đường cho các đội bình định thực hiện công việc của họ.

“Chiến tranh đơn vị lớn” (big unit war) của Tướng William C. Westmoreland cũng tập trung đáng kể vào bình định. “Tìm và diệt” (search and destroy) – phương pháp mà các đơn vị Quân đội Hoa Kỳ sử dụng để giao chiến với kẻ địch – được xem như một hình thức bình định. Thật vậy, bình định đòi hỏi phải cải thiện an ninh – một nhiệm vụ mà tìm và diệt có thể làm được.

Một báo cáo từ các cố vấn của Quân đội và Cơ quan Phát triển Quốc tế (Agency for International Development) đóng tại tỉnh Phú Yên, dọc bờ biển Việt Nam, vào năm 1966, cho biết: “Sức mạnh quân sự được tăng cường và khu vực hoạt động được mở rộng đang tạo điều kiện cho phép mở rộng [các chương trình kiểu này] vào những khu vực trước đây không được coi là đủ an toàn để đạt được tiến bộ thỏa đáng.” Và chí ít là trên giấy tờ, các chiến dịch quân sự ở Phú Yên – với mật danh như Van Buren, Fillmore  John Paul Jones – đã tạo ra một khu vực có an ninh tốt hơn rõ rệt so với tình hình ở Sài Gòn trước khi người Mỹ cho triển khai lực lượng tác chiến.

Trong một cuộc họp năm 1966 giữa các quan chức Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tại Honolulu, bình định tiếp tục nhận được nhiều chú ý hơn, và đã giúp cải thiện việc hợp tác giữa các cố vấn dân sự và quân sự. Sau khi cân nhắc trong khoảng giữa tháng hai và tháng ba, Mỹ cuối cùng đã công bố thành lập một tổ chức tư vấn quân sự-dân sự mới: Hoạt động Dân sự và Hỗ trợ Phát triển Cách mạng (Civil Operations and Revolutionary Development Support, thường được gọi tắt là Cords).

Dù các nhóm cố vấn trước đây cũng đã giúp miền Nam Việt Nam cải thiện quản trị và kiểm soát vùng nông thôn, phải đến khi có Cords thì các nhân viên dân sự và quân sự với được tập hợp lại với nhau trong một tổ chức. Đến năm 1967, Cords đã xây dựng và điều hành các đội cố vấn ở mỗi tỉnh của Việt Nam Cộng hòa. Được giao nhiệm vụ giúp đỡ các đối tác miền Nam cải thiện khả năng quản trị của tỉnh, sự xuất hiện của các nhóm cố vấn đã gây ấn tượng sai lầm rằng cuộc chiến giờ đây đã bước vào giai đoạn hòa bình hơn, ít tàn phá hơn.

Năm 1965, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng đã có những bước tiến đáng kể ở Phú Yên, cô lập thành công thủ phủ của tỉnh là thành phố Tuy Hòa và kiểm soát phần lớn vụ thu hoạch lúa quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động của các đơn vị Mỹ, Hàn Quốc và Việt Nam Cộng hòa trong năm 1966 đã đẩy Cộng sản lùi sâu vào vùng nội địa miền núi.

Trong khi lùng lục tìm kiếm quân Bắc Việt và Việt Cộng, người Mỹ cũng nhận ra vai trò mấu chốt của việc kiểm soát vụ thu hoạch lúa đối với khả năng kiểm soát toàn tỉnh của chính quyền Sài Gòn. Qua các hoạt động quân sự thông thường, Mỹ tiếp tục chương trình bình định vào năm 1966 bằng cách giữ các cánh đồng lúa khỏi tay Cộng sản.

Các hoạt động bảo vệ thu hoạch lúa đã được tiếp tục vào năm 1967 qua Chiến dịch Adams, diễn ra từ tháng 10/1966 đến tháng 04/1967. Các đơn vị từ Sư đoàn 4 Bộ binh Hoa Kỳ đã tìm cách đánh bẫy và tiêu diệt lực lượng Cộng sản khi những người này cố gắng thoát khỏi thung lũng Tuy Hòa màu mỡ. Điều đó tạo điều kiện cho chính phủ Nam Việt Nam khẳng định quyền kiểm soát sản xuất lúa gạo – và do đó củng cố lòng trung thành của nông dân khu vực – đồng thời có thêm lợi ích là không để những người lính được huấn luyện tốt nhất của địch có gạo ăn.

Chiến dịch Adams đã thành công, chí ít là ở giai đoạn đầu. Nhiều đơn vị Cộng sản rút lui về các khu vực căn cứ ở vùng sâu vùng xa của Phú Yên. Nhưng ngay cả khi như thế thì cũng không có nghĩa là phe Cộng sản đã bỏ rơi thung lũng Tuy Hòa. Ngày 09/03/1967, một lực lượng Cộng sản khá lớn đã đánh bại một trung đội Mỹ. Đáp lại, một tuần sau, người Mỹ phát động một cuộc tấn công bằng trực thăng vào khu vực bị nghi ngờ là căn cứ Cộng sản, và đánh lại họ ba ngày sau đó. Trong con mắt của Sư đoàn 4 Bộ binh, hai trận đánh này đã giúp bảo vệ thung lũng Tuy Hòa. Thật vậy, “khu vực này là một trong những nơi bị kẻ thù tàn phá tồi tệ nhất và bây giờ nó là khu an toàn nhất,” bản báo cáo tóm tắt Chiến dịch Adams đã viết như vậy. Tuy nhiên, những tiến bộ kiểu này chỉ tồn tại chừng nào chiến dịch quân sự còn tiếp tục.

Ngày 17/09/1967, các thành viên Lữ đoàn Không vận 173 đã bắt đầu một nỗ lực khác, Chiến dịch Bolling, để bảo vệ vụ thu hoạch lúa mùa thu. Giống như Adams, Bolling tập trung vào việc bảo vệ an toàn cho vụ thu hoạch lúa và ngăn chặn Trung đoàn 95 của Bắc Việt tiến vào thung lũng Tuy Hòa. Chiến dịch lần này sử dụng ít quân hơn, nhưng vẫn tập trung vào việc bảo vệ nông dân trong suốt vụ thu hoạch, cũng như sử dụng phương pháp tìm và diệt. Tuy nhiên, khác với bất kỳ nỗ lực nào trước đây ở Phú Yên, Bolling đã cho thấy giới hạn của chiến tranh thông thường chính là việc bình định.

Trong khi các tiểu đoàn của Lữ đoàn Không vận 173 càn quét thung lũng Tuy Hòa, lực lượng Cộng sản chỉ đơn giản tìm cách tránh đối đầu. Thay vào đó, họ âm thầm chiếm các ấp, và tiến hành một chiến dịch tuyên truyền hiệu quả trong đó nói rằng đối thủ của Sài Gòn (tức lực lượng Cộng sản) đã “sống sót” sau nhiều nỗ lực của người Mỹ nhằm loại bỏ họ khỏi Phú Yên. Các hầm trú ẩn, đường hầm cũng như kho thực phẩm và vũ khí được tìm thấy bởi Sư đoàn Thiết giáp 16 trong thung lũng Tuy Hòa là minh chứng rõ ràng rằng chiến tranh còn lâu mới đi tới hồi kết.

Tuy nhiên, sự thành công rõ ràng của các lực lượng tác chiến thông thường khi giao chiến với Cộng sản khiến người ta tin rằng bình định đang phát huy hiệu quả. Sang mùa thu, quân Mỹ tiến vào thung lũng Kỳ Lộ xa xôi và giao chiến với Trung đoàn 95 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhưng mỗi bước tiến lại như thể dẫn tới một bước lùi: Ngày 27/12, các đơn vị quân đội Mỹ và quân chính quy Bắc Việt đã có một trận đánh dữ dội ở cách thành phố Tuy Hòa vỏn vẹn 35 dặm, ngay thung lũng Kỳ Lộ. Lính Bắc Việt cuối cùng đã rút lui – nhưng sau đó nhanh chóng quay trở lại để xây dựng lại lực lượng ngay khi người Mỹ rời đi.

Bình định dựa trên chiến tranh thông thường làm cho cuộc chiến ở Việt Nam trông có vẻ đơn giản và dễ chiến thắng. Thông qua tìm và diệt, các đơn vị quân đội đã đảm bảo việc thu hoạch lúa ở thung lũng Tuy Hòa và từ đó tiến tới mục tiêu bình định – ngay cả khi nó làm lu mờ những phần cứng rắn, phi quân sự trong chiến lược.

Nó cũng làm lu mờ một điều khác. Chiến tranh thông thường khiến Phú Yên có vẻ an toàn hơn so với năm 1965. Nhìn lại, các dấu hiệu hoạt động của Bắc Việt tiếp tục chứng minh rằng họ chưa hề bị đánh bại – đồng thời cũng tiết lộ kế hoạch của Cộng sản nhằm lật đổ quyền kiểm soát của Sài Gòn đối với Phú Yên. Thật vậy, Tổng Tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 sẽ làm đảo ngược phần lớn thành quả từ chính sách bình định của các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả tỉnh Phú Yên.

Robert J. Thompson là Tiến sĩ Lịch sử Hoa Kỳ tại Đại học Nam Mississippi.

Nhìn lại vai trò của McNamara trong Chiến tranh Việt Nam

Nguồn: Fredrik Logevall, Rethinking ‘McNamara’s War’, The New York Times, 28/11/2017.

Người dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Ngày 29/11/1967, Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố rằng Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng, sẽ rời vị trí của mình để trở thành người điều hành Ngân hàng Thế giới. “Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không biết mình đã nghỉ việc hay bị sa thải nữa,” McNamara chia sẻ nhiều thập niên sau đó. “Có lẽ là cả hai.”

Thật ra mọi chuyện khá rõ ràng: Ông đã bị sa thải. Nhưng ông không phải người duy nhất bối rối. Bối cảnh mà McNamara rời khỏi Lầu Năm Góc quả thật mơ hồ – và sự mù mờ ấy nói lên nhiều điều về McNamara, về Johnson và chính trị trong nước trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.

Trong những tháng trước đó, Johnson đã rất thất vọng với sự bất mãn dâng cao của McNamara với cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam: mối ngờ vực dâng cao rằng chiến dịch không kích Bắc Việt đang không hiệu quả và sẽ không hiệu quả, rằng ổn định chính trị ở Sài Gòn vẫn khó đạt được và do đó chính quyền nên tìm kiếm một lối thoát bằng thương lượng. Johnson, nổi giận khi McNamara trở nên mềm yếu, đồng thời nghi ngờ rằng vị bộ trưởng đang bí mật lên kế hoạch ủng hộ Robert Kennedy, lúc ấy vẫn còn là thượng nghị sĩ Dân chủ của New York, ra thách thức Johnson để tranh đề cử ứng viên tổng thống Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm sau trên cương lĩnh hòa bình.

Tuy nhiên, Johnson không thể loại bỏ McNamara hoàn toàn; làm như vậy có nguy cơ khiến McNamara công khai ủng hộ Kennedy và lên án chiến tranh. Cách tốt hơn theo Johnson là đi tìm một vị trí mới cho McNamara, nơi ông có thể tin tưởng rằng vị cựu bộ trưởng sẽ duy trì sự im lặng kín đáo – một nơi, đại khái là, giống như Ngân hàng Thế giới.

Việc McNamara không cân nhắc tự ý rời bỏ chính quyền trong năm 1967 nghiệt ngã ấy đã nói lên nhiều điều về người đàn ông này, và sự đòi hỏi lòng trung thành từ các vị tổng thống Mỹ. McNamara đặt chân đến Lầu Năm Góc vào tháng 01/1961 với tư cách là một người mới trên chính trường, được John F. Kennedy tuyển chọn từ Tập đoàn Ford Motor, nơi ông đã lên chức chủ tịch. Ông nổi tiếng trong giới kinh doanh nhờ sự nhạy bén trong khâu tổ chức và tài định lượng, ông cũng sở hữu ngoại hình nổi bật mỗi khi sải bước trong hội trường quyền lực, mái tóc vuốt ngược và gương mặt quả quyết khiến ông trông “như thể một viên đạn mũi hếch,” theo lời miêu tả khéo léo của nhà báo A. J. Langguth. Ngay lập tức, McNamara có mặt ở khắp mọi nơi: tổ chức lại bộ máy quan liêu của Lầu Năm Góc, xây dựng kho vũ khí hạt nhân, và phát động nỗ lực chấm dứt phân biệt chủng tộc trong các khu nhà ở ngoài căn cứ quân sự.

Ở Việt Nam cũng vậy, McNamara cực kỳ xông xáo. Trong chuyến thăm đầu tiên tới Sài Gòn vào năm 1962, trong bối cảnh các cố vấn Mỹ nhanh chóng hiện diện ngày một nhiều, McNamara nói, “mọi yếu tố đo lường định lượng chúng ta có đều cho thấy chúng ta đang chiến thắng trong cuộc chiến này.” Sau vụ ám sát Kennedy vào tháng 11/1963, ông giữ vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc hoạch định chính sách, khiến Thượng nghị sĩ Wayne Morse, đại diện Đảng Dân chủ từ bang Oregon, vào tháng 04/1964 phải gọi Việt Nam là “Cuộc chiến của McNamara.” Vị bộ trưởng không phản đối.

Ở đây có sự tự tin, và nhiều hơn một chút kiêu ngạo. Tôi tự hỏi liệu McNamara có phải đã trở thành cột thu lôi đối với các nhà phê bình, bởi tên ông xuất hiện trên khắp mọi băng rôn trong các cuộc tuần hành phản chiến. Trong một lần xuất hiện tại Harvard vào tháng 11/1966, vị bộ trưởng đã khiến các sinh viên phẫn nộ khi vô tư thừa nhận rằng mình không biết quân đội Mỹ đã gây ra bao nhiêu thương vong cho dân thường. Khi ông cố gắng rời đi sau cuộc nói chuyện, hàng trăm sinh viên chặn xe của ông lại mà hét lên, “Quân giết người!” McNamara trèo lên nóc chiếc xe, vẫy vẫy tay áo và tuyên bố: “Tôi đã trải qua bốn năm hạnh phúc nhất trong đời tại khuôn viên trường Berkeley, làm một số việc mà các bạn làm hôm nay. Nhưng tôi đã cứng rắn hơn các bạn, và giờ tôi vẫn cứng rắn hơn các bạn. Khi ấy tôi đã lịch sự, và tôi hy vọng hôm nay mình cũng sẽ lịch sự.”

“Một trong những người đàn ông nhẫn tâm, kiêu ngạo nhất mà tôi từng thấy,” một trong các sinh viên sau đó đã nhận xét.

Những người biểu tình tức giận ngày hôm đó đã không biết rằng tính kiêu ngạo công khai của McNamara là để che giấu sự vỡ mộng riêng đang ngày một lớn của ông về cuộc chiến . Nó đã dồn nén suốt một thời gian dài; có lẽ ở một mức độ nào đó tình cảm này đã luôn ở đấy, gây nên một trận chiến trong tâm trí ông, chống lại những gì “các phép đo định lượng” chắc chắn đang thể hiện – rằng công nghệ của nước Mỹ cuối cùng sẽ thắng thế.

Ngay từ tháng 10/1963, trên băng ghi âm của Nhà Trắng thời Kennedy, người ta đã có thể nghe McNamara nói rằng, “chúng ta cần một cách để thoát khỏi Việt Nam.” Đầu năm sau, ông bày tỏ mối quan ngại với một Lyndon Johnson thiếu kiên nhẫn về tình hình chiến trường và các triển vọng tương lai; trong những cuộc trò chuyện được ghi âm này, chính Johnson dường như mới là người muốn duy trì chiến tranh (bất chấp nỗi sợ hãi và thất vọng của chính mình về cuộc xung đột), thậm chí thông qua việc leo thang nếu cần thiết. Thực tế, càng đào sâu vào hồ sơ nội bộ khổng lồ về việc ra quyết định của Mỹ, ta càng bắt gặp một McNamara hoàn toàn khác: một bộ trưởng quốc phòng mà từ cuối năm 1963 đã không còn – nếu ông đã từng – là một người tin tưởng thực sự vào cuộc chiến ở Việt Nam.

Đúng là McNamara đã ủng hộ đưa bộ binh sang Việt Nam vào đầu năm 1965 và là kiến trúc sư chính của chiến dịch leo thang trên không được thiết kế nhằm làm suy sụp tinh thần của Hà Nội (và củng cố tinh thần của Sài Gòn) bắt đầu vào tháng 3 năm đó. Nhưng chiến lược lại dần chuyển sang hướng để mở các lựa chọn – leo thang hoặc xuống thang, tăng tốc hoặc chậm lại – tùy thuộc vào phản ứng của kẻ thù.

Chuyến thăm mùa thu năm 1965 đến miền Nam Việt Nam đã khiến McNamara tuyệt vọng. Ông nói với Johnson rằng Bắc Việt dường như “tin rằng chiến tranh sẽ kéo dài, rằng thời gian là đồng minh của họ và sức mạnh sân nhà của họ vượt trội so với chúng ta,” và nói thêm rằng ông chỉ nhìn thấy cơ hội ở mức một phần ba – hoặc tối đa là một phần hai – để nước Mỹ có thể giành chiến thắng về mặt quân sự. Do đó, ông báo cáo cần nỗ lực nhiều hơn để đi đến con đường đàm phán.

Khi chiến tranh rơi vào bế tắc, vẻ ảm đạm của bộ trưởng càng thêm rõ. Bị ảnh hưởng bởi các viên chức Lầu Năm Góc như Paul Warnke, Adam Yarmolinsky và John McNaughton, những người mà khao khát chiến tranh cũng đang suy yếu dần, McNamara lo sợ rằng cuộc chiến đã làm tổn hại uy tín toàn cầu của Mỹ, khi các đồng minh và đối thủ nghi ngờ khả năng ra quyết định của chính quyền. Sự hủy diệt của chiến tranh đã khiến ông bận tâm rất nhiều, đặc biệt là về thương vong dân sự. Đến đầu năm 1967, McNamara kết luận rằng tinh thần của kẻ thù đã không bị phá vỡ và bối cảnh chính trị miền Nam Việt Nam hoàn toàn không ổn định. Cuộc chiến trên không đã thất bại – một xã hội nông thôn sẽ không thể bị tàn phá để ép khuất phục, McNamara xác định – và đã khiến chính quyền phải trả giá đắt trước dư luận trong nước và quốc tế.

“Hình ảnh siêu cường lớn nhất thế giới tàn sát hay làm bị thương nghiêm trọng 1.000 thường dân mỗi tuần, đồng thời cố gắng dồn một quốc gia nhỏ bé, lạc hậu phải đầu hàng về một vấn đề mà bản thân cũng đang gây tranh cãi gay gắt là một hình ảnh chẳng đẹp đẽ gì,” ông viết cho Johnson vào tháng 05/1967.

Khi về già, McNamara sẽ hối hận vì bản thân mình, cũng như những người khác, đã lặp đi lặp lại thất bại trong việc nghi ngờ những giả định đằng sau cuộc chiến. “Tôi vô cùng hối hận vì mình đã không tạo ra một cuộc tranh luận nhằm thăm dò liệu có thể tạo ra nỗ lực chiến thắng quân sự từ một nền tảng chính trị lỏng lẻo hay không,” ông viết. “Sau đó, mọi thứ dần trở nên rõ ràng, và hôm nay, tôi tin mọi chuyện đã rõ ràng, rằng lực lượng quân sự – đặc biệt là khi được sử dụng bởi một thế lực bên ngoài – sẽ chẳng thể mang lại trật tự ở một quốc gia không có khả năng tự trị.”

Vậy tại sao ông không cố gắng tạo ra cuộc tranh luận đó? Thêm vào đó, tại sao ông không chịu từ chức để phản đối?

Lòng trung thành với tổng thống là một lý do. McNamara phục vụ một tổng tư lệnh, người đã thề từ những ngày đầu cầm quyền rằng ông sẽ không trở thành vị tổng thống đánh mất Việt Nam; McNamara đã cống hiến hết mình để giúp thực hiện cam kết đó. Đối với vô số nhà phê bình, đây là lòng trung thành đặt không đúng chỗ: Thế còn sự trung thành với các nguyên tắc, với quốc gia, đối với mạng sống của người dân thì sao?

Ngoài lòng trung thành, McNamara đã thuyết phục chính mình – cũng như những người hoài nghi khác trong nội bộ như Hạ nghị sĩ George Ball – rằng ông có thể đem lại tác động tốt hơn cho chính sách bằng cách ở lại. Hơn nữa, ông không hoàn toàn chắc chắn về dự đoán ảm đạm của mình. Có thể, chỉ là có thể thôi, tình hình rồi sẽ trở nên tốt đẹp, hoặc ít nhất là đủ ổn định để bàn giao lại cho chính quyền tiếp theo, bảo vệ không chỉ uy tín lịch sử của Johnson mà còn của chính ông. Như lời Leslie H. Gelb, một cựu binh của Lầu Năm Góc thời McNamara (và sau này là thành viên của ban biên tập tờ Times), “Gần như là đòi hỏi quá mức khi chúng ta mong đợi một người chịu trách nhiệm phát động cuộc chiến” sẽ suy nghĩ lại về nền tảng cuộc chiến và sau đó hành động trên cơ sở của việc suy nghĩ lại này. “Bởi vậy, nghi ngờ chỉ đơn giản lửng lơ giữa không trung chứ không bao giờ được đưa vào chính sách.”

Những năm sau đó, McNamara đã tìm ra một lời giải thích khác cho chính sách và vai trò của chính ông trong đó: sự thiếu hiểu biết. “Giá mà chúng ta biết,” trở thành câu thần chú của ông – về quyết tâm của kẻ thù, về các vấn đề chính trị mang tính hệ thống ở miền Nam, về truyền thống chống ngoại bang lâu đời của Việt Nam, đặc biệt là chống lại người Trung Quốc. “Chúng ta đã không có chuyên gia về Việt Nam,” ông tự đưa ra khẳng định. Một khẳng định sai lầm. McNamara và Johnson thực sự có rất nhiều chuyên gia, những người họ có thể dễ dàng liên lạc chỉ bằng cách nhấc điện thoại lên. Hơn nữa, bản thân những chuyên gia này còn lâu mới “không biết gì” về tình trạng của Việt Nam. Họ chẳng cần một ai nói với mình về những vấn đề ngày càng sâu sắc và tồi tệ trong nỗ lực chiến tranh và tình hình chính trị ở Sài Gòn, và về triển vọng mờ nhạt trong việc đạt được một bước tiến thực sự ý nghĩa. Bằng chứng chỉ ra rất rõ ràng, và chính McNamara đã tự mình nhìn thấy nó trong nhiều chuyến thăm đến miền Nam Việt Nam.

Phán quyết cuối cùng về vai trò của McNamara trong Chiến tranh Việt Nam cần phải khắc nghiệt, một phần bởi vì ông chủ trì những giai đoạn đầu khi quân Mỹ ngày càng tham gia nhiều hơn trên chiến trường, nhưng quan trọng hơn, là vì ông không hành động mạnh mẽ hơn với những e ngại sau này của mình. Người ta có thể vinh danh ông, như Daniel Ellsberg đã làm, vì đã làm việc từ bên trong để hạn chế phạm vi các vụ không kích và khuyến khích các cuộc đàm phán, nhưng vẫn tiếp tục đặt ra tranh luận, như chính Ellsberg, rằng bộ trưởng đáng lẽ nên công khai những nghi ngờ của mình – không phải trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1995, hoặc trong một bộ phim tài liệu xuất sắc (“The Fog of War” của Errol Morris) công chiếu vào năm 2003, mà là ngay từ năm 1965, hoặc sau khi rời chính quyền vào năm 1968. Thay vào đó, McNamara lại là kẻ hai mặt, công khai rao giảng về sự lạc quan và kiên định (thậm chí, đôi khi còn làm thế trong các cuộc thảo luận chính sách nội bộ) ngay cả khi ông vẫn bày tỏ nghi ngờ về cuộc chiến một cách riêng tư.

Tuy nhiên, dường như quá dễ dàng nếu ta coi các phân tích và giải thích sau này của McNamara đơn giản chỉ là những nỗ lực buồn (hoặc, đối với một số người, là tức giận) nhằm rửa sạch một hồ sơ cá nhân đầy máu và xoa dịu một lương tâm tội lỗi. Chúng còn có nhiều ý nghĩa hơn thế. Thất vọng trong tuổi già vì những gì đã xảy ra ở Đông Nam Á dưới sự giám sát của ông, vì tất cả những cái chết trên nhiều cánh đồng lúa và bãi cỏ dài; đối với tôi, ông thực sự chân thành tự vấn để đúc rút kinh nghiệm và thừa nhận vai trò của chính mình trong toàn bộ vụ việc.

Liệu có bao nhiêu nhân vật của công chúng từng nỗ lực như vậy để chuộc lỗi cho những sai lầm và tội ác của mình, trong thời đại này hay bất kỳ thời đại nào khác? Quả rất ít. Henry Kissinger vẫn được hoan nghênh ở nhiều nơi như một nhà hiền triết vĩ đại của ngoại giao Mỹ, chưa bao giờ nói thật về Việt Nam, rằng “Chúng ta đã sai, sai lầm khủng khiếp.” (Ở Austin, Texas, năm 2016, khi được hỏi liệu ông có hối hận về cuộc chiến không, Kissinger từ chối trả lời, chỉ chịu thừa nhận những “sai lầm chiến thuật.”) Robert McNamara cuối cùng đã dám công khai nói lên điều đó, và ông xứng đáng nhận được nếu không phải lời khen thì chí ít cũng là sự ngầm thừa nhận thái độ đó của ông từ tất cả chúng ta.

Fredrik Logevall, giáo sư về các vấn đề quốc tế và lịch sử tại Harvard, là tác giả của nhiều cuốn sách, gần đây nhất là “Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam.”

Trận Mậu Thân có thực sự là một bất ngờ?

Nguồn: Tom Glenn, “Was the Tet Offensive Really a Surprise?”, The New York Times, 03/11/2017.

Người dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng 

Tôi đã học được bài học cay đắng trong Chiến tranh Việt Nam, rằng khi tình báo bị bỏ qua, sẽ có người phải thiệt mạng. Tôi dành phần lớn thời gian cuộc chiến trong hàng ngũ Cục An ninh Quốc gia (NSA), thường là bí mật. Hết lần này đến lần khác, tôi và các đồng nghiệp của mình cảm thấy chúng tôi chính là Cassandra, công chúa thành Troy có năng lực tiên tri nhưng lại bị nguyền rủa để không một ai tin lời nàng. Một ví dụ là Trận Đắk Tô. 

Đến thời điểm năm 1967, phần lớn giao tranh ở miền Nam Việt Nam đều tập trung ở Tây Nguyên, khu vực miền núi dọc biên giới Lào – Campuchia bao gồm các tỉnh Kon Tum, Pleiku và Đắk Lắk. Lực lượng quân sự Mỹ đã bị lôi kéo đến khu vực này vì hai lý do.

Thứ nhất, nó là nơi mà kẻ thù ẩn náu: Bắc Việt đã sử dụng vùng đất này làm nơi cố thủ. Địa hình gồ ghề và cằn cỗi với dân cư thưa thớt, hầu hết là các bộ lạc người Thượng sinh sống từ nhiều thế kỷ trước, bởi người Kinh đã chiếm các vùng đất thấp hơn. Thứ hai, nó là nơi chứa một phần quan trọng của mạng lưới xâm nhập bí mật được Bắc Việt sử dụng để đưa hàng ngàn quân vào miền Nam, mà người Mỹ gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh.

Mùa hè và mùa thu năm đó tôi cũng lên Tây Nguyên, cộng tác bí mật với lính tác chiến Mỹ. Tôi là một chuyên gia về thông tin liên lạc của Bắc Việt, sử dụng thành thạo tiếng Việt, tiếng Trung và tiếng Pháp, ba loại ngôn ngữ phổ biến tại Việt Nam. Không giống như nhiều chuyên gia tình báo tín hiệu (signals-intelligence) khác của NSA, tôi sẵn sàng tham chiến cùng các đơn vị mà mình cộng tác.

Tôi được chỉ định huấn luyện và hỗ trợ đội  tình báo tín hiệu của Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn Không vận 173, có trụ sở đặt tại Pleiku. Điểm đánh chặn tín hiệu của chúng tôi là một nơi được gọi là Đồi Kỹ sư (Engineer Hill), đủ cao để có thể phát hiện các tín hiệu truyền tin từ xa của kẻ thù; chúng tôi cũng xử lý thông tin được chặn bởi các đội tình báo khác, làm việc cùng các đơn vị Lực lượng Đặc nhiệm hoạt động sâu trong cao nguyên.

Suốt tháng 9 và tháng 10 năm 1967, tôi và các đồng sự đã theo dõi chặt chẽ mọi thông tin liên lạc của Mặt trận B3, trụ sở cấp cao của Bắc Việt ở Tây Nguyên, cũng như Phân khu 1 trực thuộc; và hai trung đoàn độc lập, số 24 và số 33. Trong những tháng đó, chúng tôi theo sát Mặt trận B3 khi họ thành lập một bộ chỉ huy tiền phương thiết lập liên lạc với Hà Nội – luôn là dấu hiệu của một trận chiến sắp xảy ra. Chẳng mấy chốc, họ đã trao đổi một lượng lớn thông điệp với Bắc Việt, chủ yếu được gửi đi vào ban đêm khi các máy phát tín hiệu của Cộng sản thường ngưng hoạt động. Bộ chỉ huy của lực lượng Bắc Việt và Trung đoàn 24 nhanh chóng di chuyển đến tỉnh Kontum. Trung đoàn 33, đóng tại hai tỉnh ở phía nam Đắk Lắk, đã bắt đầu liên lạc chiến đấu. Một đơn vị mới, chưa được xác định, xuất hiện ở tỉnh Pleiku, gần vị trí của chúng tôi.

Nói cách khác, có vẻ như kẻ thù đang chuẩn bị một cuộc tấn công trên toàn vùng cao nguyên.

Một đêm không trăng hồi cuối tháng 10, chúng tôi tìm thấy một đơn vị Bắc Việt mới, cách nơi chúng tôi đang ngồi khoảng 20 km. Và như thể để nhấn mạnh rằng kẻ thù đang ở rất gần, trong khi đang báo cáo về sự xuất hiện của đơn vị mới, chúng tôi đã bất ngờ trúng đạn súng cối. Thương vong duy nhất là một căn nhà di động. Dù vậy, chúng tôi thực sự lo sợ.

Trước khi kết thúc tháng 10, Sư đoàn 1 Bắc Việt và ba trung đoàn trực thuộc đã chuyển đến Đăk Tô thuộc tỉnh Kon Tum – một vùng có đồi dốc và thung lũng rừng rậm sâu hun hút. Lực lượng Đặc nhiệm có một căn cứ đóng tại Đăk Tô, xem chừng là một mục tiêu hấp dẫn, nhưng rõ ràng không phải là mục tiêu duy nhất. Thông tin liên lạc trinh sát cấp thấp xuất hiện, một dấu hiệu chắc chắn rằng đối đầu sắp xảy ra. Sau đó, chỉ huy sư đoàn phái một bộ chỉ huy tiền phương đến kiểm soát các trung đoàn. Họ đã sẵn sàng.

Chúng tôi đã thông báo cho Sư đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn Không vận 173 rằng một cuộc tấn công vào khu vực Đăk Tô rất có thể sẽ bắt đầu trong khoảng từ ngày 30/10 đến ngày 04/11, thời gian mà chúng tôi thu được từ các điện tín của đơn vị trinh sát. Nhưng chúng tôi cũng cảnh báo rằng các đơn vị Bắc Việt trên khắp Tây Nguyên đang chuẩn bị chiến đấu. Và đó sẽ là một trận đánh rất lớn.

Ở thời điểm đó, chúng tôi gặp một trở ngại bất ngờ: sự tín nhiệm. Một vài trong số chúng tôi đã đến báo cáo trực tiếp cho chỉ huy của Sư đoàn 4, Thiếu tướng William Peers. Tôi cảnh báo ông: một cuộc tấn công gồm nhiều sư đoàn của Bắc Việt nhắm vào Đăk Tô sẽ diễn ra bất cứ lúc nào, cùng lúc với các cuộc tấn công trên khắp Tây Nguyên. Ông lắc đầu và chỉ vào trại của chúng tôi trên Đồi Kỹ sư. “Thế nên tôi phải tin vào cái thứ ma thuật khiến một lũ G.I. vớ vẩn sử dụng mớ ăng ten và mấy mẩu chuyện hài để bịa ra kế hoạch chiến đấu của kẻ thù à?” Ông xua tay đuổi chúng tôi đi. Buổi họp cũng theo đó kết thúc.

Nhưng chúng tôi đã đúng. Vào ngày 01/11, một chiếc B-57 đã thả bom xuống đâu đó gần Đăk Tô. Nó đánh trúng một bãi tiếp tế của Bắc Việt gây ra vụ nổ dây chuyền, bằng chứng rõ ràng rằng một số lượng đáng kể quân Bắc Việt đang ở ngoài đó. Tướng Peers đã phái một đơn vị từ Lữ đoàn Không vận 1 đi điều tra và liên lạc với Lực lượng Đặc nhiệm tại Đăk Tô. Hai ngày sau, một trong những tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 đã đổ bộ bằng trực thăng lên Đồi 979, gần Đăk Tô, hy vọng sẽ không gặp phải kháng cự. Thay vào đó, họ đối đầu hàng ngàn lính Bắc Việt trong các chiến hào và tất thảy sẵn sàng. Tiểu đoàn đã bị tàn sát. Cùng ngày hôm ấy, một tiểu đoàn Mỹ khác cũng rơi vào tình thế tương tự trên Đồi 882 gần đó. Tướng Peers và các tướng lĩnh khác đã sớm nhận ra mức độ nghiêm trọng từ những cảnh bảo của chúng tôi: rằng Bắc Việt đã đến tận khu vực này và sẵn sàng chiến đấu.

Một loạt các cuộc giao tranh kéo dài hàng tuần sau đó, gọi chung là Trận Đăk Tô, là một trong những trận đánh lớn nhất và dữ dội nhất của cuộc chiến. Bắc Việt đã thiết lập các vị trí phòng thủ trên một số ngọn đồi, buộc lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phải tiến đánh lên đó, đỉnh điểm là cuộc giao chiến đẫm máu kinh hoàng trên Đồi 875, từ ngày 19/11 đến ngày 23/11. Đến cuối Trận Đăk Tô, chín tiểu đoàn Mỹ từ Sư đoàn 4 và Lữ đoàn 173 – khoảng 16.000 người – đã tham chiến. Máy bay ném bom của Mỹ phải bay hơn 2.000 lượt. Người Mỹ cuối cùng đã giành chiến thắng, nhưng cả hai bên đều phải trả cái giá vô cùng đắt: Hơn 2.100 lính Bắc Việt đã thiệt mạng, cùng với 376 lính Mỹ và 61 lính miền Nam.

Tôi rời Tây Nguyên vào tháng 12 khi cuộc tấn công đã kết thúc, chuyển về phía nam để hỗ trợ một đội tình báo khác tại Biên Hòa, ngay phía bắc Sài Gòn. Khi đến đây, tôi lại tìm thấy tất cả các loại tín hiệu liên lạc tương tự với những gì chúng tôi tìm được ở vùng cao Đăk Tô trước đó. Lần này, chúng tôi không chỉ có một mình; các đơn vị tình báo khác của Mỹ ở vùng cực bắc của miền Nam Việt Nam cũng đánh chặn được những tín hiệu tương tự. Chúng tôi sớm hiểu rằng một đợt tấn công sẽ xảy ra trên khắp đất nước bắt đầu từ cuối tháng 01.

NSA tập hợp tất cả các bằng chứng, và một lần nữa chúng tôi trình bày chúng cho lãnh đạo quân đội. Và một lần nữa, các vị tướng từ chối tin vào chúng tôi. Vào thời điểm đó, Thủy quân Lục chiến ở phía Bắc đang bị bao vây tại Khe Sanh, và các tướng lĩnh hàng đầu ở Sài Gòn đã bị thuyết phục rằng bất kỳ hoạt động nào khác của Bắc Việt cũng chỉ là một trò đánh lạc hướng, một nỗ lực để kéo lính Mỹ khỏi những gì họ và Washington tin là kế hoạch của Hà Nội nhằm tái hiện chiến thắng trước quân Pháp trong cuộc bao vây Điện Biên Phủ 13 năm trước đó. Bất chấp các bằng chứng chỉ ra điều ngược lại, họ đã không chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện, và vào cuối tháng 01, họ gục ngã trước trận Tết Mậu Thân.

Nói cách khác, không hoàn toàn chính xác khi nói rằng trận Mậu Thân khiến người Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bị bất ngờ. Thông tin tình báo đã được thu thập, và kinh nghiệm ở Đắk Tô đáng lẽ phải đủ để thuyết phục Tướng William Westmoreland nghiêm túc cân nhắc tình hình. Thay vào đó, ông chọn không tin điều đó.

Vấn đề còn lớn hơn cả chuyện của Peers và Westmoreland; tám năm sau, sai lầm tương tự đã xảy ra với sự sụp đổ của Sài Gòn. Đến lúc đó, tôi đã là trưởng văn phòng tình báo trong thành phố. Tôi đã cảnh báo Graham Martin, Đại sứ Mỹ, về lượng bằng chứng áp đảo cho thấy Sài Gòn sắp bị tấn công. Ông ta chẳng buồn tin tôi, và cũng chẳng hề kêu gọi một cuộc di tản hàng ngàn thường dân Mỹ vẫn còn trong thành phố, cùng với các đồng minh Việt Nam Cộng hòa. Khi Bắc Việt tấn công vài ngày sau đó, cả thành phố rơi vào hoảng loạn. Tôi trốn thoát dưới làn đạn. Nhưng các đồng sự người miền Nam, những người tôi làm việc cùng, đã không may mắn như thế. Khoảng 2.700 người trong số họ đã bị giết chết, hoặc bị bắt giam và đưa đi “cải tạo.”

Nàng Cassandra được ban phước hay bị nguyền rủa? Những người trong số chúng tôi hoạt động  tình báo ở Việt Nam có lẽ đều biết câu trả lời.

Tom Glenn là cựu nhân viên Cục An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA) và tác giả cuốn tiểu thuyết “Last of the Annamese” (Người An Nam cuối cùng).

Vai trò của lực lượng Fulro trong Chiến tranh Việt Nam

Hình: Tác giả và các chỉ huy Fulro tại Phnom Penh, tháng 4/1973. Nguồn: NYT.

Mùa xuân năm 1967, khi ấy tôi đang là cậu trung úy 22 tuổi của Lực lượng Đặc nhiệm đóng tại một căn cứ nằm trên một đỉnh đồi ở Việt Nam, gần biên giới với Campuchia. Những người lính bên cạnh tôi là người Thượng, một tộc người sống ở vùng cao, khác với người Kinh ở miền xuôi. Hầu như ai trong số này cũng là thành viên của một tổ chức phiến quân tên gọi Fulro, viết tắt tiếng Pháp của Front unifié de lutte des races opprimée hay Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức, với mục tiêu đuổi người Kinh ra khỏi vùng cao nguyên. Căn cứ của tổ chức là một nơi nào đó bên kia biên giới.

Chúng tôi là một đơn vị trinh sát đặc biệt, không có chỉ huy nào người Việt Nam, đó chính là điều đã khiến quân du kích Fulro chịu hợp tác với chúng tôi, trở thành lính tuần tra và lính phản ứng nhanh của tiểu đoàn. Tôi là chỉ huy nhóm phản ứng nhanh. Chỉ thị nghiêm ngặt đã được tướng William Westmoreland đưa ra: cấm lính Mỹ hỗ trợ Fulro vì “chúng ta không ở Việt Nam để hỗ trợ cuộc nổi dậy chống lại chính quyền miền Nam.”

Điều này cũng dễ hiểu, dù vậy, nhiều người lính như tôi đã không tuân lời. Người Thượng không chỉ bảo vệ và an ủi chúng tôi giữa ghê rợn của rừng rậm, mà nguyên nhân khiến họ chiến đấu cũng giống như phong trào dân quyền ở quê nhà. Thế nhưng, khi vũ khí và đạn dược của tiểu đoàn bắt đầu biến mất, tôi dần có suy nghĩ khác.

Đến năm 1956, người Thượng đã cùng nhau hợp tác về chính trị, tạo thành một phong trào chống lại việc định cư của người Kinh ở các cao nguyên. Năm 1964, Fulro chính thức hình thành và bắt đầu các vụ tấn công chống lại chính quyền Nam Việt Nam. Đến năm 1967, sự ủng hộ của người Thượng cho phong trào này lên đến đỉnh điểm. Ngay cả bọn trẻ 4 tuổi trần truồng ở những thôn xóm xa xôi cũng suốt ngày ríu rít: “Tôi là Fulro.”

Nhà lãnh đạo của phong trào, Y-Bham Enuol, được tin là có khả năng trò chuyện với các linh hồn, cũng như với Charles de Gaulle. Người ta còn bảo rằng mãng xà nằm cuộn bên dưới giường ông ta. Hàng ngàn người đã theo ông đến Campuchia, rất nhiều gia đình cùng nhau cắm trại trong rừng.

Nhưng sự ra đời của Fulro vào năm 1964 lại là sự khởi đầu cho kết thúc của phong trào người Thượng. Vì quá chú trọng cách mạng, vốn đòi hỏi phải có một căn cứ bên ngoài biên giới Việt Nam, Fulro đã chấp nhận trợ giúp có tính toán từ Campuchia. Quốc vương Sihanouk của Campuchia, giống như Charles de Gaulle của Pháp, vẫn hy vọng thuyết phục được Mỹ rút khỏi Đông Dương. Sihanouk hẳn đã cho rằng hỗ trợ Fulro sẽ gây rắc rối cho miền Nam Việt Nam, từ đó cũng làm khó cho người Mỹ.

Nhân vật được Sihanouk chọn là một đại tá quân đội Campuchia, một người Chăm theo Hồi giáo tên là Les Kosem. Ngay từ khi còn nhỏ, Kosem đã quyết tâm khôi phục lại vinh quang của người Chăm bằng cách giành lại phần lãnh thổ đã mất trong những thế kỷ trước. Nghe như ảo tưởng, nhưng không phải là không thể, nhất là khi chiến tranh gần kề. Dùng một số biện minh lịch sử và ngôn ngữ, ông gọi người Thượng là “người Chăm ở vùng cao”, và toàn bộ Tây Nguyên là một phần của nước Champa cổ đại. Ông ta xem lý tưởng của người Thượng là của mình và đồng ý hỗ trợ. Nghiêm trang và thận trọng, nhưng vẫn có chút cuồng loạn, ông ta có phần giống Đại úy Ahab [nhân vật trong tiểu thuyết Moby Dick].

Năm 1964, cuộc nổi dậy đầu tiên của Fulro chống lại Việt Nam Cộng hòa đã có sự nhúng tay của Kosem, và có lẽ cả người Pháp. Việc cố tình sử dụng bạo lực đã đặt Fulro vào một con đường không thể quay đầu. Nhưng đến năm 1966, Sihanouk đã bắt đầu lo sợ Fulro vì tiềm năng tiến hành đảo chính của tổ chức này. Ông điều Kosem đi nơi khác và để Fulro suy yếu.

Thất bại của cuộc nổi dậy thứ hai đã làm sâu sắc thêm sự chia rẽ giữa nhóm ôn hòa, những người chủ trương đàm phán với Sài Gòn, và nhóm hiếu chiến vẫn hy vọng giành được quyền tự chủ thông qua chiến đấu. Nhận thấy rằng nhà lãnh đạo của họ, Y-Bham Enuol, đang nghiêng về phía đàm phán, các phiến quân trẻ đã thực hiện một cuộc “đảo chính” vào năm 1968, đưa nhà lãnh đạo lớn tuổi về quản thúc tại Phnom Penh và giải giáp những người theo ông. Hàng ngàn người ôn hòa đã đi bộ về Việt Nam và tái hòa nhập dần với xã hội, chỉ còn lại các phiến quân vũ trang – khoảng 200 người Thượng và trí thức trẻ người Chăm – ở lại căn cứ trong rừng của Fulro, phía đông Campuchia.

Tháng 03/1970, Sihanouk bị phế truất, thay thế bằng một vị tướng thân Mỹ. Sang tháng 05, các phiến quân Fulro còn lại, một số người sống cùng vợ, đã bị tấn công bởi lính Bắc Việt.

Trong hai đêm, họ đã chiến đấu chống lại những đợt tấn công dữ dội, nhưng khi nhận ra đêm thứ ba sẽ là đêm cuối cùng của mình, họ bèn tìm cách rút lui theo các nhóm nhỏ trước lúc bình minh. Vượt 100 dặm rừng ngay trong đêm, họ lẩn trốn lực lượng Bắc Việt trong hai tuần với rất ít thức ăn và nước uống. Bằng cách đi theo âm thanh của chiến trường, cuối cùng họ đã gặp lực lượng Mỹ đang xâm nhập Campuchia. Người Chăm, những cư dân miền xuôi mới lần đầu làm quen chiến trận, đã mất gần một nửa quân số, còn người Thượng không mất ai.

Các phiến quân sống sót đã được đưa vào Quân đội Campuchia. Nhóm người Thượng đóng quân trên một con sông để bảo vệ Phnom Penh, vốn cũng đang bị bao vây. Dần dần lực lượng Bắc Việt rút lui, bị đẩy lùi bởi không quân Mỹ (trong khi lực lượng Cộng sản Campuchia, Khmer Đỏ, vẫn đang tập hợp lực lượng ở các tỉnh). Thế nên, trong khoảng ba – bốn năm tiếp theo, cuộc sống tương đối bình thường ở Phnom Penh. Các lãnh đạo người Thượng chuyển đến sống ở thành phố, chia sẻ hai biệt thự và gửi con cái họ đến trường, một vài đứa là lần đầu tiên trong đời. Y-Bham Enuol cũng xin các phóng viên giúp ông ta đến Mỹ.

Năm 1973, tôi là một trong những phóng viên đó. Tôi đã rời Quân đội Hoa Kỳ để hoàn thành chương trình đại học, và sau đó theo đuổi các lớp tiền y sĩ, nhưng bí ẩn Fulro vẫn cứ mãi ám ảnh. Cuối cùng, tôi đã dùng đến tấm thẻ báo chí: cộng tác viên của tờ Harpers. Phát ngôn viên của Fulro, ba phiến quân trẻ, đã thẳng thắn nói về chuyện cuộc cách mạng của họ đang bị đình trệ. Campuchia, khi ấy đã là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, không còn có thể được sử dụng như một căn cứ chống Việt Nam.

Hai năm sau, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ. Một lần nữa, những lính người Thượng đóng ven sông phải rút lui vào ban đêm, lần này là qua vùng đầm lầy nước ngập tận cổ, để trở lại thành phố. Đủ điều kiện để tị nạn ngoại giao, họ tập hợp vợ con đến tị nạn tại Đại sứ quán Pháp. Nhưng, như những người đã chứng kiến “Cánh đồng Chết” vẫn nhớ, Khmer Đỏ chẳng màng gì khái niệm tị nạn và yêu cầu trục xuất mọi cá nhân không sở hữu hộ chiếu nước ngoài.

Ngày 21/04/1975, khoảng 150 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em người Thượng đã ra khỏi cổng sứ quán để bước vào địa ngục. Nhiều nhà quan sát ghi nhận sự bình tĩnh và trang nghiêm của họ, một điều khó thấy vào khoảng thời gian ấy. Người ta không biết rõ thực sự điều gì đã xảy ra sau đó. Nhiều khả năng là hầu hết những người này đã bị sát hại.

Hai người đã may mắn trốn thoát trước khi Campuchia lao xuống vực thẳm. Một người là Les Kosem, được phái đi làm nhiệm vụ ngoại giao một tuần trước đó, nhưng cũng qua đời trong năm tiếp theo. Người kia là một trong ba phát ngôn viên của phiến quân mà tôi đã gặp, Y-Bhan Kpor, người đang trải qua khóa huấn luyện quân sự ở Mỹ. Tôi đã trở thành một trong những người bảo trợ cho anh ta, và buộc phải cho anh biết rằng người Thượng đã bị trục xuất khỏi Đại Sứ quán.

Sau vài năm, anh ta lên đường tìm vợ con, rồi chúng tôi mất liên lạc. Khoảng 30 năm sau, tôi nhận được một email từ một nhà nhân học ở Campuchia. Y-Bhan đang tìm tôi. Tôi đến Campuchia và gặp lại anh ta đang làm nông dân trên vùng đất đỏ, cô độc một mình.

Anh ta mất 18 năm mới trở lại được Campuchia. Trong quãng thời gian đó, anh làm công nhân đóng chai cho nhà máy Coca-Cola ở Atlanta, làm quản đốc ban đêm ở Tulsa, Oklahoma, rồi làm ở xưởng sản xuất lốp xe, tìm kiếm nhân chứng ở Paris, những người đã ở trong Đại Sứ quán ngày ấy, và chờ đợi mòn mỏi trong một trại tị nạn ở Malaysia. Về lại Campuchia, anh ta gia nhập đoàn quân tìm kiếm người mất tích.

Anh ta tìm được một cựu tướng Khmer Đỏ, người đã đánh chiếm Phnom Penh và dành nhiều đêm uống rượu liên tục với ông ta đến tận sáng, nhưng chẳng thu được thông tin gì. Bất kỳ thông tin nào anh ta thu được cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng (như “một người lính Khmer Đỏ đã bắt vợ anh hát trước khi sát hại cô ấy), và điều đó còn đau đớn hơn cả sự im lặng. Sau ba năm, anh ta bỏ cuộc.

Gần đây, Y-Bhan đã gắng tìm gia đình mình thêm một lần nữa, với sự giúp đỡ của Ủy ban Sự thật Campuchia, nơi công bố danh sách người tị nạn ở Đại Sứ quán, với 78 cái tên, chủ yếu là trẻ em, xác định mỗi cá nhân sẽ khoảng bao nhiêu tuổi ngày nay. Danh sách đã được công bố hai lần, trên toàn quốc, nhưng anh ta không nhận được phản hồi nào.

William H. Chickering là bác sĩ cấp cứu, hiện đang hoàn thành một cuốn sách về Fulro.

Edward Lansdale: Người báo trước trận Tết Mậu Thân

Nguồn: Max Boot, “The American Who Predicted Tet”, The New York Times, 30/01/2018.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Diễn ra từ 50 năm trước và ngày nay được nhớ đến như một bước ngoặt trong Chiến tranh Việt Nam, sự kiện Tết Mậu Thân thực sự đã khiến người Mỹ bất ngờ. Một trong số ít người dự báo được điều sắp xảy ra là Edward Lansdale, nhân vật tình báo huyền thoại và vị tướng Không quân hồi hưu, người đã giúp kiến tạo nhà nước Nam Việt Nam sau khi Pháp rút lui. Ông trở lại Sài Gòn vào năm 1965 với tư cách là một quan chức làm việc tại Đại sứ quán Mỹ, cố gắng sử dụng mối quan hệ của mình để cứu vãn nỗ lực chiến tranh đang rơi vào thất bại.

Vào thời điểm mà nhiều nhà lãnh đạo Mỹ đang lạc quan một cách thận trọng về chiến tranh, chí ít là trên phương diện công khai, Lansdale đã nhiều lần đưa ra các lời cảnh báo. Cuối tháng 10/1967, ông báo cáo cho Ellsworth Bunker, Đại sứ tại Sài Gòn, “Tôi tin là Hà Nội đang đánh cược vào đỉnh điểm cuộc chiến trong năm 1968.” Ông đã dự đoán rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt sẽ cố gắng lặp lại thành công của họ trước người Pháp: “Các nhà hoạch định chính sách và sử gia ở Hà Nội nhận thấy rằng thất bại của lực lượng Pháp đạt tới điểm quyết định là nhờ vào tình cảm chống chiến tranh ở thủ đô nước Pháp, chứ không phải nhờ tình hình trên chiến trường Việt Nam; Việt Minh ra sức chiến đấu ở Điện Biên Phủ chủ yếu là nhằm định hình dư luận ở Paris, cậy dựa vào sự kịch tính hơn là chiến lược quân sự hợp lý. Điều đó đã phát huy hiệu quả.” Ông cảnh báo, Hà Nội sẽ thực hiện một kế hoạch tương tự để “khiến người Mỹ đổ máu” và “khiến công chúng Mỹ buộc chính phủ phải rút quân,” bởi “họ tin rằng công chúng Mỹ dễ bị thao túng tâm lý vào năm 1968.”

Đó là một dự đoán chính xác đến lạ kỳ, nhưng giống như hầu hết những gì Lansdale nói, nó cũng bị nhà chức trách ngó lơ. Ông từng cảnh báo vào năm 1963 rằng việc lật đổ người bạn và người được ông bảo hộ, Tổng thống Ngô Đình Diệm, là một sai lầm. Ông đã bị phớt lờ, và sau cái chết của Diệm trong một cuộc đảo chính quân sự, Nam Việt Nam nhanh chóng tuột dốc không phanh, buộc Lyndon Johnson phải đưa lính tác chiến của Mỹ đến để ngăn chặn một chiến thắng của Cộng sản. Khi ấy Lansdale đã lên tiếng rằng chẳng ích gì khi tìm cách thoát khỏi vũng lầy chỉ bằng hành động quân sự; nước Mỹ, ông nói, cần phải nuôi dưỡng một chính phủ hợp pháp ở Sài Gòn để có thể giành được sự ủng hộ của người dân. Một lần nữa, ông lại bị phớt lờ khi Mỹ mở chiếc hộp Pandora – lập các vùng bắn phá tự do (free-fire zones) cũng như thực hiện các nhiệm vụ tìm-và-diệt (search-and-destroy missions). Tướng William Westmoreland đã bị thuyết phục rằng ông có thể giết Việt Cộng nhanh hơn tốc độ họ có thể thay người.

Chiến dịch Tết Mậu Thân diễn ra vào ngày 30 và 31/01/1968, đã đập tan ảo tưởng của Westmoreland. Đến tận cuối mùa thu năm 1967, vị tướng người Mỹ vẫn nói rằng ông “nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm” – nhưng đó chỉ là suy nghĩ viển vông. Tám mươi nghìn quân Việt Cộng đã tấn công 36 trong số 44 thủ phủ tỉnh, 64 trong số 242 huyện, 5 trong số 6 thành phố tự trị và nhiều thôn làng khác. Trận chiến giành quyền kiểm soát cố đô Huế đã diễn ra suốt hơn một tháng. Ngay cả khuôn viên Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cũng bị một nhóm lính Việt Cộng xâm nhập.

Lansdale đến Đại sứ quán ngay sau khi những người lính Việt Cộng xâm nhập bị giết hoặc bị bắt. Ông lái xe dọc theo những con đường vắng vẻ, lướt qua những chiếc xe đầy vết đạn– “một trong số chúng, chiếc sedan với cửa mở hé, có một cái xác trượt dài từ ghế ngồi xuống vỉa hè,” ông kể lại. “Một người Mỹ mặc quần áo thường dân, đã chết. Tại tòa đại sứ, ông chứng kiến “những mảnh kính vỡ và gạch vụn dưới chân, cùng với nhiều lỗ hổng trong tòa nhà mới xây và trên các bức tường do tên lửa và thuốc nổ của Việt Cộng,” những chiếc xe hơi bên ngoài thì “cửa sổ vỡ tan, lốp xe xẹp lép, và thật nhiều lỗ đạn.”

Giao tranh vẫn tiếp diễn, còn trong căn biệt thự của Lansdale ở số 194 đường Công Lý, “bầu khí cứ như dân du mục” (gypsy air) – như chính lời vị tướng. Hầu hết các nhân viên người Việt đều vắng mặt vì đang nghỉ Tết, vì vậy Lansdale và hai phụ tá người Mỹ của mình phải tự tìm kiếm thức ăn và tự nấu nướng. Một trong những cấp dưới đã tìm được chỗ cung cấp bánh mì – Khách sạn Brinks, nơi đang được sử dụng như “cứ điểm” của những lính Mỹ độc thân. Lansdale và phụ tá đã đến thăm những người bạn Việt Nam của họ, đang bị mắc kẹt trong nhà, để mang cho họ bánh mì “lậu”.

Đại sứ Bunker, được người Việt Nam đặt biệt danh là “Ông già Tủ lạnh” (Old Man Refrigerator) vì vẻ ngoài lạnh lùng, đã đến qua đêm cùng lính gác tại nhà của Lansdale, sau khi nơi ở của ông được đánh giá là không an toàn. Lansdale ghi nhận rằng vị đại sứ, sau khi chợp mắt, “đã dần quen với cognac F.O.V. từ Hồng Kông sau lần đầu nếm thử.” Lansdale cũng cho một số người Việt đến tị nạn sau khi họ trở thành người vô gia cư bởi cuộc chiến – một cựu đầu bếp cùng với cô con gái nhỏ và cháu gái của bà. Để chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Lansdale vào ngày 06/02, bạn bè và gia đình ông đã gửi đồ ăn làm quà tặng, từ salami đến bia San Miguel. “Vậy nên,” ông viết, “một vài buổi tụ họp tại đường Công Lý thiếu vắng tinh thần bi kịch lớn thường thấy của người Việt, thay vào đó lại trông như thể mấy buổi dã ngoại kiểu cũ.”

Cuối cùng thì Tết Mậu Thân đã không thành công trong việc châm ngòi cho một cuộc tổng tiến công như các nhà lãnh đạo Cộng sản hy vọng. Thống kê chính thức của Mỹ cho thấy 58.373 lính cộng sản đã chết trong khoảng thời gian từ 29/01 đến 01/03/1968, so với con số 3.895 lính Mỹ, 4.954 lính Việt Nam Cộng hòa và 14.300 thường dân miền Nam. Các tướng Mỹ tuyên bố đây là một thất bại tuyệt đối của Việt Cộng. Còn Lansdale thì nghĩ khác.

Ông thừa nhận rằng kẻ thù “đã bị nghiền nát về mặt quân sự,” nhưng vẫn cảnh báo vào ngày 27/03/1968 rằng chiến dịch vẫn có khả năng đạt được các mục tiêu của Hà Nội: Nó có thể “gieo rắc nỗi sợ cho người dân thành thị bằng cách chứng minh sự bất lực của chính phủ trong việc bảo đảm an toàn,” và có thể “gia tăng áp lực buộc Mỹ rút quân, cả trong và ngoài nước, bằng cách chứng minh rằng chiến thắng là vô vọng và nguyên do để chiến đấu là vô đạo đức (ví dụ, qua việc sử dụng hình ảnh hỏa lực của Mỹ phá hủy các thành phố thân thiện ở Việt Nam). “Yếu tố cảm xúc trong chiến tranh Việt Nam lại càng lớn hơn kể từ sau cú sốc Tết Mậu Thân,” Lansdale cảnh báo. Trong những tháng tới, “nó hứa hẹn sẽ trở thành yếu tố xoay chuyển tình thế thực sự.”

Một lần nữa, Lansdale đã tiên lượng được nhiều hơn hầu hết các đối thủ của mình ở Sài Gòn, cũng như ở Washington, những người đã loại bỏ ông vì cho rằng ông là kẻ mơ mộng, là người của quá khứ. Cú sốc Mậu Thân đã thuyết phục Tổng thống Johnson từ chối đề xuất xin thêm 200.000 quân của Westmoreland, và đưa ông này về nước để trở thành Tham mưu trưởng Quân đội Mỹ. Sau đó, trong một bài phát biểu đầy kịch tính trên truyền hình vào ngày 31/03, Johnson tuyên bố rằng thay vì tìm kiếm cơ hội tái đắc cử, ông sẽ dùng tất cả năng lượng của mình để kết thúc cuộc chiến.

Hành trình tìm kiếm chiến thắng của người Mỹ ở Việt Nam đã kết thúc; câu hỏi duy nhất còn lại là tốc độ rút lui. Nhưng vẫn còn rất nhiều trận chiến theo sau – nhiều người Mỹ chết sau Mậu Thân hơn là trước đó – và Lansdale đã chứng kiến điều ấy trong những tháng cuối cùng trong nhiệm kỳ của ông.

Vào ngày 04/05/1968, Việt Cộng lại tấn công khắp miền Nam trong cái gọi là Tết-mini. “Trong khi Mậu Thân diễn ra,” Lansdale viết, “cây cối vẫn nở hoa. Bằng cách nào đó, vẻ đẹp của chúng chỉ khiến khung cảnh xung quanh trở nên xấu xí hơn bao giờ hết.” Tết-mini cũng bị đẩy lùi với tổn thất nặng nề. Nhưng bản thân Lansdale đã phải kinh hoàng trước mức độ hủy diệt gây ra bởi cuộc phản công của Mỹ.

Phụ tá của ông, Charlie Sweet, đã đến thăm một khu dân cư thuộc tầng lớp lao động ở Sài Gòn, được gọi là Quận 8 và đã giật mình bởi “sự giận dữ sâu sắc đối với tất cả người Mỹ” vì hỏa lực tàn bạo mà Mỹ sử dụng để chống lại 200 du kích Việt Cộng xâm nhập khu phố của họ. “Hai trăm ngôi nhà đã bị phá hủy cho mỗi lính Việt Cộng bị giết,” một người đàn ông phẫn nộ. Giao tranh ở Quận 8 đã phá hủy hơn 5.000 ngôi nhà, giết chết hơn 200 thường dân, làm bị thương thêm 2.000 người và tạo ra 40.000 người tị nạn khác. “Tôi hy vọng chúng ta không bao giờ sử dụng những chiến thuật này trong các cuộc bạo loạn ở Mỹ,” Lansdale viết, “nếu không chúng ta sẽ mất tất cả các thành phố của mình.”

Các báo cáo của Sweet về Quận 8 đã “có ảnh hưởng”, theo lời Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford, và khiến người kế vị Westmoreland, Tướng Creighton Abrams, ngăn Mỹ sử dụng các cuộc không kích và pháo binh. Đây là một phần trong nỗ lực của Abrams nhằm theo đuổi những gì mà một nhà sử học gọi là “một cuộc chiến tốt hơn” (a better war), nhưng lúc đó đã quá muộn: Công chúng Mỹ đã quay lưng lại với cuộc chiến.

Đến giữa tháng 06/1968, khi Lansdale chuẩn bị rời Việt Nam, Sài Gòn vẫn là một thành phố bị bao vây. Ông viết: “Hàng loạt dây thép gai, hiện đang rỉ sét dưới những cơn mưa từ tháng Năm, đường phố bị chặn chỗ này chỗ nọ. Rác thải chất đống trên vỉa hè bởi dịch vụ công cộng đã bị trì trệ.” Tên lửa Việt Cộng đã đâm xuống thủ đô, giết chết và làm bị thương hàng trăm người. “Xạ thủ địch thường tấn công bất ngờ,” ông nói thêm, “khiến cư dân sợ rằng mình có thể là mục tiêu tiếp theo.”

Khi rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 16/06/1968, Lansdale đã cố gắng thể hiện một bộ mặt dũng cảm, nhưng ông biết rằng mình đã thua trong cuộc chiến. Nhiều năm sau, ông bày tỏ “cảm giác đau buồn sâu sắc về việc tôi không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong giai đoạn 1965-1968 ở Việt Nam, để giúp người dân ở đó ngăn chặn thảm kịch mà cuối cùng đã nhấn chìm họ.”

Lansdale qua đời năm 1987, và đến tận ngày cuối cùng, ông hẳn vẫn tin rằng nếu lời khuyên của mình – tập trung nhiều hơn vào các vấn đề chính trị và giảm bớt hỏa lực – đã được nghe theo, Mỹ có thể đã tránh được một vũng lầy. Chẳng có cách nào để biết liệu ông có nói đúng hay không, và chắc chắn rằng Bắc Việt vẫn sẽ là một kẻ thù đáng gờm trong bất kỳ trường hợp nào, với khát khao chiến thắng lớn hơn nhiều so với Mỹ. Nhưng thật khó để tin rằng con đường mà Mỹ đã chọn – một thất bại khiến 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Việt Nam đã chết – lại là một lựa chọn tốt hơn.

Max Boot là thành viên cấp cao của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Bài viết này được trích và chuyển thể từ cuốn sách mới của ông, “The Road Not Taken: Edward Lansdale and the American Tragedy in Vietnam.”

Hình: Edward G. Lansdale (bên trái) đến Sài Gòn vào tháng 8/1965. Nguồn: AP.

Hoa Kỳ đã ‘bỏ rơi’ Việt Nam Cộng hòa như thế nào?

Lý thuyết ‘Khoảng cách Coi được’ (Decent Interval)

Phóng Viên Frank Snepp (người ngồi)

rong phần tiếp phỏng vấn với cựu phân tích gia chiến lược của CIA ở Nam Việt Nam, BBC hỏi ông Frank Snepp về câu chuyện Hoa Kỳ đã ‘bỏ rơi’ VNCH như thế nào từ sau Hoà đàm Paris 1973.

Mỹ có phản bội hay bỏ rơi VNCH không, theo Frank Snepp, năm nay 78 tuổi, hiện sống tại California là một câu hỏi phức tạp đòi hỏi một câu trả lời cặn kẽ.

Ông nhận định rằng việc bỏ rơi này khởi đầu với Henry Kissinger, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Richard Nixon, và sau đó Gerald Ford.

Frank Snepp: Kissinger đã bỏ rơi VNCH vì lý do chính trị. Tôi đặt tựa cho cuốn sách mình viết là ‘Decent Interval’ (Khoảng cách Coi được). Tựa đó nhắc đến sự kiện năm 1972, khi Kissinger đàm phán hòa bình, dẫn đến việc ngừng bắn, điều duy nhất ông quan tâm là đưa Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến, thoát khỏi vũng lầy xấu hổ. Kissinger muốn phải có một khoảng thời gian coi được giữa việc rút quân của Hoa Kỳ ra khỏi VN, và chiến thắng tất yếu sẽ đến của Cộng sản, để Hoa Kỳ không bị đổ lỗi cho việc thất trận.

Khi Kissinger gặp Chu Ân Lai năm 1971 để sắp xếp cho chuyến công du bí mật của Nixon đến Trung Quốc, ông nói với Bắc Kinh rằng nếu có ngừng bắn ở Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ không tái can thiệp quân sự. Và chỉ cần có một khoảng thời gian hợp lý giữa cuộc ngừng bắn đến lúc Hoa Kỳ rút quân, và sự tiếp tục xâm lược của cộng sản, chúng tôi sẽ không quan tâm nếu đồng minh Bắc Việt của quý vị tấn công Nam VN, miễn là họ không tấn công ngay sau khi chúng tôi rút đi. Đó là khởi đầu của lý thuyết ‘Khoảng cách Coi được’ (Decent Interval) mà ngày nay nhiều người nhận định là sự phản bội VNCH của Hoa Kỳ.

Kissinger đến Paris vào mùa hè năm 1972 để đàm phán với Lê Đức Thọ về những gì sau đó trở thành Hiệp định Hòa bình. Lúc đó Kissinger bàn với Nixon rằng nếu mọi thứ chỉ cần kéo dài đến tháng 10 tới, tức vài tháng nữa, hay nói cách khác, qua cuộc bầu cử tổng thống kế tiếp, thì sẽ không ai thèm quan tâm đến điều gì xảy ra cho VN một năm sau đó, tức 1974. Sẽ không ai còn quan tâm và Mỹ thì đã rút khỏi cuộc chiến từ lâu.

BBC: Henry Kissinger đã thực sự đã bàn với Nixon như vậy? Làm sao ông biết được điều đó?

Frank Snepp: Bởi vì Nixon đã ghi âm lại tất cả những cuộc trò chuyện này, và trong những năm gần đây, rất lâu sau khi tôi viết Decent Interval, băng ghi âm những cuộc trò chuyện đó được bạch hóa, nên bây giờ chúng ta có thể xác minh bằng chính lời của Kissinger và của Nixon, rằng quả thực họ đã chuẩn bị bỏ rơi VN vào năm 1972.

Thật ra Kissinger đã đề cập điều này với Trung Quốc từ năm 1971, một năm trước khi Hoa Kỳ mở rộng quan hệ với nước này. Khi Kissinger đến Bắc Kinh, ông nói rằng chúng tôi sẽ giúp các bạn một tay, hãy cùng chúng tôi thu xếp để Nixon đến thăm Trung Quốc, hãy cùng nhau mở mang quan hệ.

Điều này cũng dễ hiểu. Chiến tranh VN lúc ấy đang là một vấn đề lớn, Bắc Kinh là đồng minh của Hà Nội, vậy Nixon có thể cống hiến cho Bắc Kinh điều gì để khiến họ cởi mở hơn và trở thành bạn của Hoa Kỳ? Nixon có thể cho họ VN. Và nếu ai muốn có bằng chứng là Hoa Kỳ dưới thời Nixon và Kissinger đã bỏ rơi VNCH, thì đó là điều này, một bằng chứng rõ ràng.

BBC: Vào thời điểm đó có ai khác biết về cuộc thảo luận này giữa Kissinger và Nixon không, thưa ông?

Frank Snepp: Những gì Kissinger và Nixon thảo luận về VN vào thời điểm đó chỉ họ và những phụ tá biết, vì tất cả những điều này đều được Nixon cho ghi lại trên các cuốn băng bí mật của Nhà Trắng, nhưng nhiều năm sau mới được công bố rộng rãi. Việc thu băng bắt đầu bị lộ trong vụ bê bối Watergate. Và những cuốn băng này đã khiến ông và Kissinger, đặc biệt là Kissinger, bị lên án, vì Kissinger rất thẳng thắn trong các cuộc nói chuyện với Nixon vào mùa hè năm 1972, trước Hiệp định Paris. Kissinger nói với Nixon là chúng ta đang đàm phán cho một tình huống mà về cơ bản, chúng ta chỉ tìm cách thoát khỏi nơi này và không quan tâm đến những gì Bắc Việt làm, miễn là có một khoảng thời gian coi được giữa lúc chúng ta rút quân, thời điểm có cuộc ngừng bắn và Sài Gòn sụp đổ.

Sau đó thì Sài Gòn có sụp đổ cũng chẳng sao.

Không ai biết gì về những điều này, cho đến khi có một đột phá lớn vào tháng 10 năm 1972. Hoa Kỳ đồng ý với Lê Đức Thọ là sẽ không yêu cầu lực lượng Bắc Việt rời khỏi miền Nam. Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống của đất nước bị ảnh hưởng bởi tất cả những điều này cũng không được biết. Ông Thiệu chỉ biết chuyện này vì Võ Văn Ba, gián điệp CIA bên trong bộ chỉ huy cộng sản đã phát hiện ra, qua các kênh riêng của ông, rồi báo cáo cho CIA và cho cảnh sát của VNCH. Vào tháng 10, ông Thiệu phát hiện ra là mình đã bị Kissinger bán đứng, và Hoa Kỳ hoàn toàn bằng lòng có Hiệp định Hòa bình mà không yêu cầu Bắc Việt rút quân khỏi miền Nam.

BBC: Chắc chắn Kissinger không thể tự mình quyết định làm như thế, ông ấy phải làm theo lệnh của ai chứ, đúng không?

Frank Snepp: Đúng thế. Kissinger và Nixon cùng nghĩ ra chiến lược bỏ rơi Việt Nam mà trên thực tế họ đã thực hiện. Năm 1969, Kissinger và Nixon đến nhậm chức tại Nhà Trắng. Họ là một cặp đôi, trong đó Nixon là tổng thống. Họ hứa đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, đó là lời hứa với người dân Hoa Kỳ khi tranh cử. Tại một thời điểm nào đó Nixon nói rằng ông sẽ chấp nhận điều kiện ”ngừng bắn tại chỗ” để làm cơ sở cho các cuộc đàm phán.

Ý của Nixon là gì? Dường như khi ông đề cập đến việc đó lần đầu, không ai nhận ra rằng ngừng bắn tại chỗ có nghĩa là bạn đứng yên, và kẻ thù cũng vậy. Điều đó có nghĩa là tất cả quân Bắc Việt ở miền Nam VN không phải rời đi, mà sẽ ở lại. Vì vậy, ngay từ năm 1969, bất cứ khi nào ý tưởng về một hiệp định hòa bình được thảo luận, Nixon đều tính đến một lệnh ngừng bắn tại chỗ. Điều đó có nghĩa là cho phép lực lược của phe địch hiện diện ở miền Nam, và đó là một công thức dẫn đến thảm họa.

Công bằng mà nói, Nixon không có lựa chọn nào khác vì Hoa Kỳ và VNCH đã không đánh bại được Bắc Việt, đã không buộc được họ ra khỏi miền Nam. Chúng ta không thể ném bom, chúng ta không thể ngăn chặn cuộc xâm nhập bởi Bắc Việt mỗi mùa khô lại gửi thêm từ 60.000 đến 100.000 quân tiếp viện vào miền Nam, thay thế những quân lính đã tử trận. Chừng nào điều đó còn xảy ra, trừ khi bạn dội bom lên miền Bắc, chiến tranh vẫn tiếp tục và bất cứ hiệp định hòa bình nào cũng phản ánh sự thật rằng chúng ta đã không đánh bại được kẻ địch.

Tiện đây, tôi muốn kể cho bạn nghe câu chuyện này.

Sau chiến tranh, tôi trở lại Việt Nam năm 1991 với tư cách là khách mời của BBC. Trong chuyến đi đó, tôi cùng một nhóm làm phim BBC đến Bộ chỉ huy cũ của lực lượng cộng sản thời chiến ở tỉnh Tây Ninh. Một số cán bộ mặc đồ đen, đeo huy chương kéo đến gặp anh chàng CIA đã trở lại VN này, ở ngay trong cái hang mà chúng tôi đã tìm cách làm cho nổ tung trong suốt cuộc chiến. Trong bữa ăn trưa gần Củ Chi, chúng tôi thảo luận, và đây là những gì một người cộng sản nói với tôi: ‘Các bạn Mỹ, chúng tôi không thể nào hiểu phản ứng của các bạn vào năm 1969, khi chúng tôi đang bị thương vong nặng nề sau Tết Mậu Thân 1968 và những trận tiếp theo.’

Người này nói thêm: “Chúng tôi đã tổn thất quá nặng và không thể tiếp tục cuộc chiến với cường độ cao trong vòng hai năm. Tại sao các bạn không dội bom xuống các con đê ở Hà Nội?’ Nghe câu hỏi đó tôi đã phải nói với ông ta là ‘chúng tôi đã dự tính làm điều đó, nhưng Lầu Năm Góc quyết định rằng nếu làm thế chúng tôi sẽ giết chết rất nhiều thường dân Bắc Việt, và chúng tôi không thể thực hiện giải pháp đó vì lý do nhân bản và đạo đức.”

Hoa Kỳ, tức chính quyền của Nixon, thường bị chỉ trích là vô đạo đức, đã không nhẫn tâm làm điều mà Bắc Việt chắc chắn sẽ làm nếu họ có lựa chọn đó. Nếu họ có thể dội bom xuống miền Nam, bạn có nghĩ là họ sẽ làm không? Hoa Kỳ thì không.

Trong cuộc thảo luận đó, tôi nhớ đã không thể tin được là họ đã phân tích đúng vấn đề của Hoa Kỳ: Chúng tôi không tàn nhẫn đủ. Nếu năm 1969 chúng tôi dội bom lên đê điều ở Hà Nội thì có thể cũng không thắng, nhưng chắc chắn sẽ làm chậm lại cuộc chiến. Những người Cộng sản mà tôi tiếp xúc sau chiến tranh xác nhận điều này, rằng Hoa Kỳ đã có thể đẩy cuộc chiến vào thế bế tắc. Nhưng chúng tôi không làm thế, và bỏ lỡ cơ hội.

Thay vào đó, Nixon rút lực lượng Mỹ ra khỏi VN theo nguyện vọng của người dân Mỹ và đưa quân VNCH ra tiền tuyến, thay cho những người Mỹ đang rút đi. Chính sách ‘Việt Nam hóa’ chiến tranh đó không hữu hiệu, vì quân đội VNCH lúc ấy không thể làm được những gì Hoa Kỳ đã làm khi không còn sức mạnh của không quân Mỹ và viện trợ của Mỹ. Quân đội VNCH chưa sẵn sàng để chiến đấu một mình.

Tôi luôn cảm thấy rằng một trong những sai lầm lớn nhất của Hoa Kỳ là chờ đến năm 1969 mới Việt Nam hóa chiến tranh. Việt Nam hóa lẽ ra phải được bắt đầu ngay từ lúc quân đội Mỹ vào Việt Nam. Bởi vì quân đội VNCH cho đến năm 1963, 64 được huấn luyện rất kỹ về chiến thuật của Pháp, từ những cố vấn Pháp. Và họ học cách đánh các trận đánh quy mô cấp tiểu đoàn, trong đó đơn vị của họ là tiểu đoàn chiến đấu với các tiểu đoàn khác, đó là cách người Pháp đánh trận.

Cộng sản, trong khi đó, áp dụng chiến thuật du kích. Khi bắt đầu chính sách Việt Nam hóa năm 1969, Kissinger nghĩ đó là một chính sách tốt, nhưng đã quá trễ. Và cuối cùng thì Kissinger chỉ muốn mua một khoảng thời gian cho quân đội Mỹ rút ra khỏi VN, để sau đó khi Sài Gòn thất thủ thì không ai đổ lỗi cho Hoa Kỳ, khiến Kissinger và chính quyền Nixon không bị xấu hổ.

BBC: Nhưng tại sao Hoa Kỳ, là đồng minh của VNCH, không đợi cho quân đội VNCH sẵn sàng chiến đấu rồi mới rút quân?

Frank Snepp: Trong một cái nhìn toàn cảnh hơn, bạn có thể đổ lỗi cho người Mỹ về điều đó. Bạn có thể đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã rút lực lượng của họ ra khỏi VN ở thời điểm mà họ đã làm, trước khi VNCH sẵn sàng. Nhưng các động lực chính trị ở Hoa Kỳ thời đó không cho phép những quân lính Mỹ ở lại Việt Nam, điều đó đơn giản là không thể xảy ra.

Những người cho rằng Hoa Kỳ bỏ rơi Nam Việt Nam vì đã không viện trợ đủ cho VNCH trong thời gian ngừng bắn, đã nói đúng. Vì lý do chính trị, viện trợ Hoa Kỳ đã không được cấp. Nhưng thực tế là, thứ nhất, viện trợ không thể đến kịp thời để cứu miền Nam Việt Nam. Thứ hai, hệ thống hậu cần của VNCH đã bị tham nhũng lũng đoạn, khó có thể tiếp thu và triển khai thêm vật liệu một cách hiệu quả. Lính VNCH, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, thường là ở tiền tuyến, không có đủ đạn dược. Nhưng lý do không phải vì không có mà là vì đạn dược được đưa đến, hoặc đã bị hút vào thị trường chợ đen, hoặc đã bị thất lạc, mà không ai biết nó đi đâu, vì miền Nam Việt Nam vào thời điểm đó không có một hệ thống hậu cần hữu hiệu.

Và, cuối cùng, các cấp tư lệnh Nam Việt Nam vì lo xa không muốn để vũ khí thặng dư gần tiền tuyến, phòng khi Cộng sản tràn vào, mà cất chúng ở xa. Vì vậy, khi cộng sản tấn công vào Quân khu 1, họ cạn kiệt đạn dược và không có một kho dự trữ đủ gần để có thể đến lấy, trước khi bị Cộng sản tiến chiếm.

Với tất cả nhiều nguyên do đan xen vào nhau này, tham nhũng và kém hiệu quả là những yếu tố thấy rõ. Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ, vì sự việc phức tạp hơn nhiều.

Một lần nữa, Hoa Kỳ có bỏ rơi VNCH không là một câu hỏi phức tạp, nhưng nói chung là có, Kissinger và Nixon đã bỏ rơi Nam Việt Nam Nhưng việc thất trận của VNCH đến từ những lý do gần nhà hơn.

Hình: Frank Snepp trên nóc Toà Đại sứ Hoa Kỳ (cũ) tại Sài Gòn trước ống kính phóng viên BBC của Anh.