Nguồn: William Henderson & Wesley R. Fishel, “The Foreign Policy of Ngo Dinh Diem”, Vietnam Perspectives, Vol. 2, No. 1 (Aug., 1966), pp. 3-30.

Biên dịch: Vũ Thị Hương Giang | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Chính sách đối ngoại của một quốc gia là sản phẩm của nhiều lực lượng, thường là đối lập nhau, nhưng là những lực lượng tương đối rõ ràng. Điều này đặc biệt rõ rệt trong lịch sử ngoại giao của các nước được thiết lập lâu đời trên vũ đài chính trị thế giới. Hệ quả của các nhân tố như vị trí địa lý, dân số, tài nguyên kinh tế, lịch sử và ý thức hệ thường được dẫn giải như những yếu tố quyết định chủ yếu của chính sách đối ngoại. Ít nhất, những yếu tố quyết định đó xuất hiện để đặt ra các giới hạn cho việc thực hiện chính sách đối ngoại nói chung của một quốc gia cụ thể.

Tuy vậy, việc phân tích chính sách đối ngoại theo nghĩa đó trở nên quá máy móc; thường không xem xét được những yếu tố ngẫu nhiên và phi lý vốn có trong mọi sự kiện của con người. Hơn nữa, trong trường hợp các quốc gia mới độc lập, nghiên cứu các yếu tố quyết định này thường chẳng có tác dụng mấy trong việc tìm hiểu các chính sách đối ngoại của họ. Hoàn cảnh ra đời của các nhà nước độc lập, tính ngẫu nhiên của các cuộc đấu tranh cay đắng giành sống còn, sự thiếu kinh nghiệm của họ trong thăng trầm của quan hệ quốc tế có thể dẫn đến những năm tháng hành động ban đầu cách xa với những gì rút cục được coi là giới hạn “bình thường” trong chính sách đối ngoại. Một đất nước cần có thời gian để ổn định. Việc xem xét hồ sơ quốc tế trong những năm mới ra đời của một quốc gia có thể không thật sự mang lại nhiều bài học cho xu hướng chính sách đối ngoại có thể có trong dài hạn.

Điều đó có thể rất đúng với trường hợp Nam Việt Nam. Hoàn cảnh ra đời đầy bạo lực khi trở thành một quốc gia độc lập năm 1954, và lịch sử u sầu của nó từ thời đó, có vẻ đã bóp méo chính sách đối ngoại đến mức vượt xa khỏi ngoài biên giới của cái được cho là giới hạn tự nhiên của nó. Từ khi độc lập, Nam Việt Nam đã phải tập trung hoàn toàn vào cuộc đấu tranh để đơn giản có thể tồn tại như một thực thể độc lập. Trong quá trình đó, sự phát triển trong quan hệ giữa Sài Gòn và các nước khác đã bị ảnh hưởng to lớn, và sự tiến hóa từ từ của một chính sách đối ngoại “bình thường” – phản ánh những gì rốt cục có thể trở thành các quyền lợi kinh tế, chính trị “truyền thống” và các quyền lợi khác của quốc gia – đã bị hao mòn.

Tất cả điều đó nhanh chóng trở nên rõ ràng khi tìm hiểu diễn biến chính sách đối ngoại của Nam Việt Nam dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Đây là một giai đoạn nghiên cứu cực kỳ thú vị và vô cùng quan trọng nhằm hiểu được chính trị đương đại, không chỉ ở Đông Nam Á mà trên cả thế giới. Nhưng tình hình suốt thời Diệm và sau khi ông bị lật đổ trở nên thật sự bất thường khiến ta chần chừ khi khái quát hóa các xu hướng dài hạn của chính sách đối ngoại từ hồ sơ lịch sử. Trong khía cạnh này, các chế độ khác nhau sau Diệm kể từ tháng 11/1963 đã thể hiện sự nối tiếp những bất thường của giai đoạn Diệm. Thật sự mà nói, truyền thống chính sách đối ngoại “bình thường” của Nam Việt Nam vẫn chưa được tạo ra.

Bài viết này muốn đánh giá hồ sơ của Nam Việt Nam trên trường quốc tế suốt thập kỷ nắm quyền của Diệm. Nó không nhằm mục đích diễn giải lịch sử có hệ thống về chính sách đối ngoại của Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn mười năm đó bởi hồ sơ tư liệu vẫn còn hoàn toàn thiếu thốn cho mục đích ấy. Do đó, trong khi chúng ta xem xét các chủ đề chính của chính sách đối ngoại dưới thời Diệm, phân tích này đặc biệt nhằm truyền tải một số điều về chất lượng và “hương vị” của chính sách, và xem xét một số định kiến cơ bản đã tạo nên bản chất của việc hình thành chính sách ấy.

Tầm quan trọng tương đối của chính sách đối ngoại

Ngô Đình Diệm thống trị chính phủ Nam Việt Nam trong gần một thập niên, từ khi nhận chức tháng 7/1954 cho đến khi bị ám sát tháng 11/1963. Chế độ của ông để lại dấu ấn mãi mãi lên lịch sử đương đại của Việt Nam và Đông Nam Á. Các sai lầm bi kịch và những cơ hội bị đánh mất trong các năm cầm quyền của ông, và tình hình u ám xung quanh việc ông bị lật đổ, đã làm lu mờ các thành tựu hiển nhiên của Diệm, nhất là trong những năm 1950. Hồ sơ trong lĩnh vực đối ngoại đặc biệt đáng lưu ý. Nhìn chung, tuy có một số khuyết điểm rõ ràng, việc thực hiện công tác đối ngoại suốt thời Diệm nắm quyền là điều đáng khen.

Ở một chừng mực đáng kể, chính sách đối ngoại của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) suốt giai đoạn này là chính sách của chính Ngô Đình Diệm. Mặc dù ông thường dựa vào các nhóm cố vấn thường xuyên bị thay đổi, cả về đối ngoại và đối nội,[1] bản thân Diệm là nhân tố quyết định trong việc hình thành chính sách trong ít nhất mười năm sau đó cho đến khi ông ngày càng phụ thuộc vào người em Ngô Đình Nhu. Các Ngoại trưởng của Diệm, kể cả Vũ Văn Mẫu – người giữ chức Bộ trưởng trong gần hết thời gian đó, đóng vai trò tuy đáng kể nhưng vẫn mang tính bổ trợ.[2] VNCH không có John Foster Dulles.

Tuy vậy, chính sách đối ngoại không phải là mối bận tâm thường trực của Diệm. Để yên tâm, ông quan tâm sâu sắc đến thế giới quanh mình, và đặc biệt chú ý tới diễn biến ở các nước có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng Diệm và các đồng nghiệp chủ chốt của mình trong chính phủ là những tay chơi nghiệp dư thật sự về chính sách đối ngoại. Nhìn chung, Diệm giảm thiểu tầm quan trọng của tình hình quốc tế đối với đất nước mình, và đánh giá thấp những đóng góp mà một nền ngoại giao mang tính xây dựng có thể đem lại cho sự nghiệp của chính ông ta. Ông nắm bắt tin tức khá tốt về các sự kiện, nhưng thường không nắm được tầm quan trọng thật sự của chúng. Thường thì ông đơn giản chỉ là thờ ơ với những gì các cường quốc nước ngoài nghĩ về tình hình Việt Nam; đôi khi ông lại phản ứng dữ dội với các bình luận ở những nước khác, và thăm dò liên miên để tìm kiếm ý nghĩa giấu dưới những phát ngôn chính thức thường lệ nhất. Thói quen làm việc lộn xộn của Diệm gây trở ngại nghiêm trọng cho việc nghiên cứu có hệ thống đối với các vấn đề chính sách đối ngoại, hoặc với việc nghiên cứu xuyên suốt cần có để chuyển tải những ý tưởng đơn thuần thành hành động có suy tính. Hơn nữa còn có khuynh hướng thâm căn cố đế là cá nhân hóa và cảm xúc hóa quan hệ với các nước khác. Các tiêu chuẩn đạo đức hà khắc của Diệm thường gây cản trở. Ông vô cùng khinh thường Thái tử Sihanouk của Campuchia và Tổng thống Sukarno của Indonesia, ít nhất một phần là do ông không ủng hộ họ về mặt cá nhân. Không may là sự không tán thành này ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngoại giao của VNCH với cả hai nước.

Nhưng cách giải thích quan trọng nhất cho sự thờ ơ tương đối với chính sách đối ngoại là bản thân Diệm phải chú tâm vào các vấn đề nghiêm trọng ở mặt trận đối nội, thu hút tâm trí và năng lượng của ông đến mức không còn quan tâm đến điều gì khác: thiết lập và củng cố sức mạnh chế độ, xử lý dòng người tị nạn từ miền bắc, xử lý các bè phái và lập hòa bình cho đất nước, áp dụng biện pháp khôi phục kinh tế ở miền nam. Trên tất cả là mối đe dọa sống còn, bao trùm và thường trực từ miền bắc Cộng sản, một đe dọa mà sau năm 1957 đã chuyển thành cuộc chiến tranh du kích liên tục mở rộng trong lãnh thổ VNCH nhằm lật đổ chế độ Diệm. Trong hoàn cảnh đó, việc chú ý đến chính sách đối ngoại chỉ là lúc có lúc không. Các giai đoạn quan ngại mạnh mẽ xen kẽ với những thời kỳ gần như là lơ là, và tiêu chuẩn chủ yếu [cho khác biệt này-ND] thường là mối quan hệ trực tiếp của các vấn đề ngoại giao với tình hình nội bộ và việc duy trì chế độ. Các chủ đề nhận được chú ý hơn gồm có hệ quả của các Hiệp định Geneva (trong giai đoạn ngay sau Geneva), sự rút lui của người Pháp (những năm đầu), sự công nhận quốc tế và xây dựng tính hợp pháp (đặc biệt trong những năm 1950), quan hệ với Hoa Kỳ (một vấn đề thường xuyên), Campuchia, và luôn luôn có vấn đề tiến thoái lưỡng nan khủng khiếp trong cách xử lý với miền bắc. Nhưng trong khi có các chính sách đơn lẻ để giải quyết từng trường hợp cụ thể, hầu như không có gì trong chính sách toàn diện nhằm xây dựng hướng đi của cả nước trong tình hình thế giới.

Đã có một vài nỗ lực để xây dựng một cơ quan đối ngoại hiệu quả và phục vụ ngoại giao chuyên nghiệp, nhưng không đạt được mấy thành tựu. Diệm và các Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, Vũ Văn Mẫu đều không có tài về phục vụ ngoại giao; và một nhóm các “gia đình dòng dõi” nắm vị trí then chốt do các chế độ Bảo Đại trước đó chỉ định. Khâu tổ chức bị thiếu vắng, và trong hầu hết các trường hợp, những phái viên này thường dùng bài nhắc vở từ các đồng nghiệp Pháp ở nhiều thủ đô khác nhau nhiều hơn là từ chính phủ của mình ở Sài Gòn. Nhiều thanh niên trẻ có khả năng được chính phủ Diệm đưa vào phục vụ ngoại giao, trong số đó có thể kể đến Trần Kim Phượng, người đã thể hiện vô cùng tốt trong nhiều năm ở Kuala Lumpur và Singapore. Năm 1959, cùng với một số người có cùng suy nghĩ mới được tuyển dụng vào phục vụ ngoại giao, ông nộp đơn từ chức cho Diệm và Nhu trong một phản ứng đầy xúc cảm trước mối hận thù giữa các gia đình trong bộ ngoại giao. Đơn từ nhiệm của ông bị từ chối và ông tiếp tục vị trí của mình.[3]

Tương đối ít cá nhân trong cơ quan ngoại giao được cử ra nước ngoài để được đào tạo có hệ thống. Diệm đảm bảo là các thủ đô quan trọng nhất có những đại sứ tương đối có năng lực; nhưng về cơ bản, lựa chọn của ông mang đậm cảm tính. Do đó, Trần Văn Chương, một người Việt Nam yêu nước có lòng tự trọng là người bạn tin cậy và bạn tâm tình của Diệm (và là cha của Madame Nhu), được cử sang Washington, nơi nhiệm vụ cơ bản của ông là đảm bảo Mỹ tiếp tục ủng hộ chế độ Diệm.[4] Em trai của Diệm, Ngô Đình Luyện, được bổ nhiệm là Đại sứ lưu động ở châu Âu, với trách nhiệm cụ thể ở cả London và Paris. Hoàng tử Bửu Hội phục vụ như đại diện của VNCH ở vô số hội nghị quốc tế. Nhưng ở những nơi khác thì việc bổ nhiệm ngoại giao thường là để gạt bỏ những người không mong muốn. Thường thì các sứ quán đầy những chính trị gia, công chức, sĩ quan quân đội và những người “lưu vong vàng” mà Diệm không còn tin cậy.[5] Mỗi đại sứ thường mang theo tùy tùng cá nhân; và mỗi người thực hiện nhiệm vụ theo cách riêng, với hướng dẫn chung chung từ Diệm và bộ ngoại giao. Trong hoàn cảnh đó, việc thực hiện một nền ngoại giao chuyên nghiệp, bài bản để theo đuổi một chính sách quốc gia được tính toán kỹ lưỡng (mà trong trường hợp nào đi nữa vẫn chưa tồn tại) hầu như là điều không thể, mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam đơn lẻ có những năng lực không phải nghi ngờ gì. Thậm chí đến cuối những năm 1960, cơ quan phục vụ ngoại giao của VNCH vẫn vụng về và hầu như không hiệu quả. Đây là một nguyên nhân lý giải cho chính sách đối ngoại của chế độ Diệm cũng như cho tính không hiệu quả về hành chính đặc trưng ở các cấp hoạch định chính sách của chính phủ.

Sự cần thiết phải liên kết

Diệm tiếp cận việc thực hiện chính sách đối ngoại với một số định kiến cơ bản. Có lẽ quan trọng nhất là việc ông tin chắc vào việc các nước nhỏ cần liên kết (với một nước lớn – NBT) một cách rõ rệt trong Chiến tranh Lạnh trên nền tảng realpolitik [chính trị hiện thực – ND] cũng như tin vào tính vô đạo đức của chính sách không liên kết.

Diệm đã có lần nghĩ khác. Một mặt ông luôn chống Cộng khủng khiếp song trong những ngày lưu vong, Diệm từng là người thể hiện ý tưởng về một lực lượng châu Á thứ ba trong tình hình quốc tế. Theo khái niệm này, các quốc gia mới độc lập của châu Á có thể đóng góp hiệu quả nhất cho hòa bình thế giới nếu can dự chính trị với một trong những bên đóng vai chính của Chiến tranh Lạnh. Ấn Độ là người lãnh đạo hợp lý của khối các quốc gia châu Á không liên kết này, và Diệm hình dung ra vai trò phù hợp của Việt Nam là một trong những nước nhỏ quan trọng ủng hộ sự lãnh đạo của Ấn Độ trên thế giới.

Tuy thế, khi nhận chức vào tháng 7/1954, Diệm đã thay đổi cơ bản tư duy của mình. Giờ đây ông thấy thế giới tất yếu bị chia ra làm ba phe: liên minh thế giới tự do, khối Cộng sản, và các nước không liên kết. Việt Nam nên nằm ở phe nào? Ông ngày càng quan ngại về tính dễ bị tổn thương về chính trị của một nước nhỏ như Việt Nam trước sự tấn công và lật đổ vô hạn của Cộng sản; và ông kết luận rằng cách duy nhất để rút ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là thông qua liên kết chặt chẽ với khối chống Cộng. Vận mệnh đáng tiếc của nước ông hiển nhiên đã tạo ra thay đổi này trong suy nghĩ của Diệm. Nhưng trong hoàn cảnh nào đi nữa thì việc chống cộng sản tích cực cũng thích hợp hơn với đặc điểm trí tuệ và cảm xúc của ông ta.

Về khía cạnh này, ta có thể nhớ rằng anh cả của Diệm là Ngô Đình Khôi và con trai ông đã bị phe Cộng sản chôn sống năm 1945; và Diệm là một tín đồ Công giáo La Mã mộ đạo, phản đối sâu sắc chủ nghĩa cộng sản về phương diện tôn giáo.

Trong Chiến tranh Lạnh, nơi trú ẩn của một nước nhỏ không phải là chính sách không liên kết mà là liên minh thân thiết với một cường quốc lớn chống Cộng. Trong trường hợp của Việt Nam, không thể giao vai trò cường quốc bảo vệ cho Pháp, một phần là vì hồ sơ lịch sử của Pháp ở Đông Dương và nỗi căm ghét mà Diệm có chung với đồng bào mình đối với chủ nghĩa thực dân Pháp. Là quốc gia cường mạnh nhất thế giới và là lãnh đạo của liên minh thế giới tự do chống chủ nghĩa cộng sản, Hoa Kỳ là lựa chọn hiển nhiên. Hơn nữa, đến năm 1954, liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ trở thành lựa chọn chính sách ngày càng thực tiễn với Việt Nam trong bối cảnh đầu những năm 1950, Washington ngày càng quan tâm hơn đến số phận Đông Dương. Do đó, Diệm chọn mối liên hệ với Mỹ và một khi đã chọn như vậy, ông ta không bao giờ từ bỏ điều đó trong định hướng quốc tế cơ bản của mình.

Cùng với thời gian, Diệm trở nên ám ảnh với việc cần phải có liên kết trong Chiến tranh Lạnh, và các quan điểm của ông có những hàm ý đạo đức mạnh mẽ. Những cân nhắc về đạo đức cá nhân có lúc còn chồng lấn lên các đòi hỏi của chính sách công. Chủ nghĩa cộng sản là xấu xa, do đó phải bị đánh bại bằng mọi phương tiện có trong tay. Diệm không thể hiểu tại sao các nhà lãnh đạo châu Á khác lại không nhận thức như vậy về mối hoạ Cộng sản và hệ quả đạo đức, chính trị của mối hoạ này đối với chính sách đối ngoại. Mặc dù ông nhìn thấy sự khôn ngoan trong việc nuôi dưỡng quan hệ thân thiện với các quốc gia đang nổi lên của châu Á cũng như của châu Âu và Mỹ Latin song cách tiếp cận của ông chẳng có gì giống với sự phân chia (các nước trên thế giới) sau này của Sukarno thành “các thế lực đang nổi mới” và “các thế lực cũ”. Các quốc gia mới độc lập nên chọn phe. Ông đồng ý với việc Ngoại trưởng Dulles lên án chủ nghĩa trung lập là sai trái về đạo đức. Các phái viên của VNCH ở nước ngoài do đó được hướng dẫn phải thuyết phục các chính phủ không liên kết nơi họ có nhiệm vụ cũng như các nhân vật hàng đầu ở những nước này về sự cần thiết phải có liên kết. Chuyện này khiến các nhà ngoại giao Việt Nam nhiều lần gặp rắc rối nghiêm trọng vì đã can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.[6]

Diệm cũng không đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải đạo những người ngoại đạo. Ông đã đánh giá sai khả năng thuyết phục các nước không liên kết để chỉnh sửa định hướng quốc tế của họ theo hướng ủng hộ liên kết mở chống những người Cộng sản. Tuy không tạo được thay đổi ở những điểm đó, Diệm đã nhìn thấy việc đáng duy trì quan hệ thân thiện với các nước không liên kết miễn là họ thật sự không liên kết. Nhưng ông hoàn toàn khinh bỉ các chính phủ và lãnh đạo đi theo cả hai lề của con đường chính trị. Về mặt này, Sihanouk và Sukarno là những kẻ côn đồ hàng đầu. Ông cũng coi thường chả kém những bên thứ ba, ví dụ như những người Mỹ có thiện chí mà theo cách nhìn của ông, đây là những người cho phép các lãnh đạo Campuchia và Indonesia lừa bịp mình.

Với bản thân ông, VNCH nhất định và rõ ràng đứng trên mặt trần hàng đầu của liên minh thế giới tự do, dẫn đầu là Hoa Kỳ, trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản. Về phương diện này, Diệm nhiều lần nêu đi nêu lại quan điểm rõ ràng của mình. Một hệ quả thú vị của lập trường rõ rệt này là Diệm khen ngợi lộ liễu quan hệ chính trị của VNCH với Hoa Kỳ. Ông chào đón mối liên hệ Mỹ và dòng tài trợ khổng lồ về quân sự và kinh tế từ đó. Ông cũng chẳng ngần ngại thể hiện sự trân trọng ấy trong những dịp phù hợp. Nhưng ông không cảm xúc hoá thực tế. Trong phán xét của ông, Hoa Kỳ đơn thuần chỉ đang phục vụ lợi ích quốc gia của họ chứ không phải của Việt Nam khi viện trợ ồ ạt cho VNCH hay gánh các chi phí cho việc bảo vệ nó dưới cái ô liên minh SEATO (Khối phòng thủ chung Đông Nam Á – NBT). Điều đó cũng đúng, và nó đã kiềm chế đáng kể lòng biết ơn của Diệm với Hoa Kỳ.

Hiệp định Geneva

Sự công nhận quốc tế

Vấn đề tái thống nhất

Nguồn: William Henderson & Wesley R. Fishel, “The Foreign Policy of Ngo Dinh Diem”, Vietnam Perspectives, Vol. 2, No. 1 (Aug., 1966), pp. 3-30.

Quan hệ với Bắc Việt Nam

Có thể mô tả thái độ của Diệm với đối thủ Cộng sản ở Hà Nội là thù nghịch hoàn toàn. Điều này đúng với tiếp cận của ông với mọi chế độ Cộng sản; ông không bao giờ có bước đi dù nhỏ nhất nhằm thiết lập quan hệ với bất cứ ai trong số đó. Ngay từ đầu chế độ của mình năm 1954, Diệm dường như không bao giờ suy nghĩ nghiêm túc về khả năng thương lượng có ý nghĩa về bất cứ chủ đề chính trị quan trọng nào với Hà Nội. Cách tiếp cận của ông với vấn đề cơ bản là tái thống nhất đã được thảo luận ở trên. Diệm cũng cứng rắn như vậy về các vấn đề như quan hệ chính thức giữa Sài Gòn và Hà Nội, phát triển thương mại liên vùng, thậm chí là trao đổi thư từ, bất chấp đôi lần những người Cộng sản có đề nghị.

Mặc dù không có nhiều thông tin công khai về chủ đề này nhưng rõ ràng, những mối liên hệ với chất lượng không rõ vẫn được duy trì rời rạc giữa hai chính phủ. Điều này không có gì là khó thực hiện. Uỷ ban Quốc tế về Giám sát và Kiểm soát và người Pháp cung cấp cơ hội rõ rệt để thi thoảng trao đổi, và còn nhiều kênh bí mật ở Paris, Geneva và những nơi khác. Tuy nhiên, trên cơ sở những bằng chứng hiện có, sau năm 1954 không hề có thương lượng có ý nghĩa nào diễn ra giữa hai chế độ thù nghịch với nhau cho dù là về bất cứ chủ đề nào. Đơn giản là không hề có điểm chung để dẫn tới thảo luận thành công. Thậm chí sau 1957, khi những người Cộng sản nối lại các chiến dịch quân sự ở Nam Việt Nam và vị thế của chính phủ Sài Gòn kém đi nhanh chóng, Diệm và các đồng nghiệp cũng không bao giờ thèm thương lượng với Hà Nội để tìm một lối ra có thể.

Theo những gì được biết đến nay, mối dây dưa nghiêm túc duy nhất giữa Sài Gòn và Hà Nội diễn ra vào cuối chế độ Diệm, và xảy ra do sự xúi giục của em trai tổng thống, Ngô Đình Nhu, mà rất có thể là lúc đầu chính Diệm cũng không hay biết. Khi áp lực của Mỹ lên chế độ Diệm tăng lên trong mùa hè 1963, rõ ràng Nhu đã bắt đầu trao đổi với Phạm Văn Đồng, Ngoại trưởng của Cộng sản, thông qua trung gian là Đại sứ quán Pháp tại Sài Gòn, để công khai tìm kiếm một giải pháp chính trị cho cuộc nội chiến. Tuy vậy, có lẽ mục đích của Nhu không phải là tìm cơ sở cho đàm phán hoà bình với Hà Nội. Thậm chí cả ông cũng không có ý định nghiêm túc về việc hoà giải với những người Cộng sản. Thay vào đó, Nhu cố sử dụng các trao đổi – mà sự tồn tại của chúng nhanh chóng được biết đến – làm phương tiện đòn bẩy với người Mỹ, và để buộc Washington nới lỏng áp lực lên chế độ Diệm. Nói cách khác, nỗ lực tống tiền thô sơ này đơn thuần là công cụ để nâng đỡ chế độ Diệm và là kiểm soát của gia đình Nhu đối với chính quyền Sài Gòn trong hoàn cảnh Mỹ ngày càng gây áp lực phải có cải cách thực chất. Có lẽ nó chưa bao giờ được xem là nỗ lực nghiêm túc nhằm cải thiện quan hệ với những người Cộng sản.

Quan hệ với Pháp

Geneva đánh dấu sự kết thúc của bá quyền lâu dài của Pháp với Việt Nam. Dù có khát vọng gì vào thời điểm ấy thì người Pháp cũng không có triển vọng thực tế nào về việc duy trì một vị thế quan trọng ở miền bắc Cộng sản. Để chắc chắn, ngay lập tức họ cử Jean Sainteny đến Hà Nội làm Đại diện Toàn quyền ở Bắc Việt Nam, nhưng phái bộ của ông và các phái bộ sau đó không mang lại nhiều lợi ích rõ ràng cho Pháp. Còn đối với Nam Việt Nam, Diệm và các đồng nghiệp hoàn toàn quyết tâm rũ bỏ người Pháp. Tương tự như hầu hết đồng bào mình, Diệm có chung sự ghê tởm sâu sắc đối với chủ nghĩa thực dân Pháp. Cho dù ông có mong đến mấy được tiến hành cuộc đấu tranh chống những người Cộng sản vào năm 1954 thì điều ấy cũng không liên quan gì đến thông cảm chính trị dành cho Pháp hay đến bất cứ mong muốn nào nhằm duy trì vị trí đặc quyền của Pháp ở đất nước ông.

Hơn nữa, ông hoàn toàn không tin người Pháp và vẫn luôn như vậy suốt một thời gian dài. Ông coi giải pháp mà họ thương lượng [ở Geneva-ND] là sự phản bội ghê gớm với lợi ích của Việt Nam. Ông xem những điều khoản của giải pháp ấy là nỗ lực sau cùng nhằm bảo vệ lợi ích văn hoá và kinh tế của Pháp ở Việt Nam bằng việc hy sinh vị trí chính trị của họ. Theo phân tích này, Pháp nhất trí dùng chia cắt làm thủ đoạn tạm thời mà thôi, và coi chính phủ của Diệm ở miền nam đơn thuần là chế độ trông nom tạm thời, chờ đến tái thống nhất đất nước dưới sự bảo trợ Cộng sản (thông qua bầu cử được lên kế hoạch cho tháng 7/1956) và thương lượng đang diễn ra về một tạm ước của Pháp với những người Cộng sản. Diệm tin rằng người Pháp sẵn sàng hy sinh chế độ của ông, chế độ mà trong bất cứ trường hợp nào họ cũng coi là sẽ sụp đổ trước sức nặng của tình hình bất lợi, nhằm tạo điều kiện cho việc xích quan hệ lại gần với Hà Nội. Trò hai mang của Pháp trong khi xúi giục và ủng hộ vật chất cho Bình Xuyên cùng các môn phái tôn giáo trong những tháng sau Geneva, nỗ lực của họ nhằm rũ bỏ Diệm trong mùa xuân 1955 khi ông có những biểu hiện củng cố vị trí của mình, và các chính sách mơ hồ tương tự trong những lĩnh vực khác, càng xác nhận phán xét của Diệm về dã tâm của Pháp đối với cá nhân ông và chính phủ của ông.

Nếu Diệm có bất cứ viễn cảnh nào về củng cố quyền lực của mình và bảo vệ chế độ của ông về lâu về dài thì người Pháp sẽ phải cuốn gói ra đi. Rất nhanh chóng, chế độ của ông đảm nhiệm quyền lực chính phủ do Pháp uỷ thác cho Nhà nước Việt Nam theo thoả thuận khởi động từ tháng 6/1954 nhưng sau đó không hề được ký kết hay phê chuẩn. Vào tháng 8, thảo luận đã diễn ra nhằm bãi bỏ liên minh kinh tế và thuế quan thiết lập từ Hiệp định Pau 1950 giữa Việt Nam, Lào và Campuchia mà trong đó, Pháp giữ những đặc quyền đặc biệt lẫn một tiếng nói mạnh mẽ; các thương lượng này kết thúc thành công vào cuối tháng 12. Sau đó, Sài Gòn rút đại diện khỏi Đại Hội đồng khối Liên hiệp Pháp.

Trong khi đó, vào tháng 9, người Pháp và Mỹ đạt thoả thuận là viện trợ của Mỹ cho Việt Nam phải được chuyển trực tiếp cho chính phủ Sài Gòn chứ không thông qua Pháp; và dàn xếp này có hiệu lực từ ngày 1/1/1955. Diệm đặc biệt lo lắng muốn loại bỏ càng nhanh càng tốt biểu tượng áp đặt về sự thống trị của thực dân – Quân đoàn Viễn chinh Pháp. Vào thời điểm hội nghị Geneva, các lực lượng Liên hiệp Pháp trong đất nước lên tới 200.000 lính. Ngay từ tháng 12/1954, Diệm đã lần đầu kêu gọi họ rút quân. Phải khó khăn lắm Hoa Kỳ mới thuyết phục được ông rằng rút quân quá vội vàng sẽ khiến Nam Việt Nam mất phòng thủ quân sự, và do đó việc sơ tán các lực lượng Pháp phải được thực hiện dần dần với sự phát triển của ít nhất là một quân đội quốc gia có hiệu quả. Tuy vậy, việc giảm dần các lực lượng Pháp vẫn diễn ra trong các tháng sau Geneva. Đến tháng 1/1956, Diệm cảm thấy đến lúc phải chính thức yêu cầu rút hoàn toàn Quân đoàn Viễn chinh Pháp và phải đạt được thoả thuận về thời gian biểu cuối cùng vào tháng 3. Bộ chỉ huy tối cao của Pháp ở Nam Việt Nam bị giải tán không lâu sau đó, và các binh lính cuối cùng của Pháp rời đi trong một vài tháng tiếp theo. Vào tháng 5/1957, thậm chí cả phái bộ quân sự Pháp tại chính phủ Sài Gòn cũng bị kết thúc.

Trong suốt giai đoạn nắm quyền, Diệm luôn nghi ngờ sâu sắc về các động cơ của Pháp đối với Nam Việt Nam. Nhiều điều khác nhau liên tục củng cố ác cảm của ông, chẳng hạn như chính sách của Pháp về bầu cử tái thống nhất, việc duy trì phái bộ ngoại giao Pháp ở Bắc Việt Nam, và xu hướng thâm căn cố đế của Pháp nhằm dính líu với các phái tôn giáo ở miền nam. Mặc dù ông rất hâm mộ văn hoá của người Pháp cũng như sự tinh vi và khéo léo mang tính truyền thuyết của họ trong chính trị, Diệm đơn giản không tin họ khi bàn đến đất nước mình. Ông âm thầm vui mừng khi hàng ngàn người Pháp rời Nam Việt Nam sau Geneva. Ông vui vẻ chấp nhận viện trợ kinh tế và văn hoá của Pháp bởi vì nước ông cần càng nhiều sự trợ giúp càng tốt, và ngoài ra, tiêu chuẩn kỹ thuật trong viện trợ Pháp luôn luôn cao. Nhưng ông có những e ngại về hàng trăm cá nhân trong bộ máy quản lý hành chính chương trình viện trợ Pháp, và có lúc, ông khăng khăng quan điểm là phải giảm đáng kể sự hiện diện văn hoá của Pháp. Suy cho cùng, Pháp vẫn luôn là một nhân tố tiêu cực trong chính sách đối ngoại của VNCH. Dù gặp bất cứ khó khăn nào trong xử trí với Hoa Kỳ, và thậm chí cả sau khi quan hệ giữa Sài Gòn và Washington bắt đầu xấu đi rõ rệt, Diệm không bao giờ coi Pháp là đối trọng tiềm năng với ảnh hưởng của Mỹ.

Quan hệ với Lào và Campuchia

Xử trí của Sài Gòn với Lào và Campuchia bị ảnh hưởng tiêu cực từ cả thái độ truyền thống của người Việt đối với các dân tộc ở hai nước này và bởi lịch sử lâu dài của quan hệ thù nghịch lẫn nhau. Người Việt Nam có xu hướng coi thường xen lẫn khinh bỉ cả người Lào và Campuchia, như thể họ mới là những người thuộc một nền văn minh ưu việt hơn mang ánh sáng đến dân mọi rợ. Rõ ràng, những thái độ này chủ yếu có từ sự mở rộng trong lịch sử của Việt Nam đối với Lào và Campuchia. Nhiều người Việt Nam ở cả miền bắc lẫn miền nam coi nhiều vùng khác nhau thuộc quyền quản lý ngày nay của Lào và Campuchia là những phần hợp pháp của lãnh thổ quốc gia; và hơn nữa, còn có nhiều người thiểu số Việt Nam ở cả hai nước, trong đó ở Campuchia có số lượng khá lớn.

Nhìn chung, quan hệ chính thức với Lào tương đối tốt đẹp trong suốt chế độ Diệm. Sài Gòn phẫn nộ với việc sử dụng lãnh thổ của Lào làm căn cứ cho du kích cộng sản hoạt động ở Nam Việt Nam; nhưng nó cũng công nhận rằng chính phủ Vientiane chẳng thể làm gì được mấy; Diệm và các đồng nghiệp rất phiền lòng bởi tình hình chính trị và quân sự xấu đi ở Lào trong năm 1960 và sau đó, cũng như phản đối việc thay thế chế độ của Boun Oum bằng một chính phủ trung lập tại Hội nghị Geneva về Lào năm 1961-62. Họ chỉ trích mạnh mẽ chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng Lào kéo dài, và cho rằng việc xử lý của Washington phản ánh biểu hiện đáng báo động về sự yếu kém và thiếu quyết đoán [của Washington – ND].

Từ đầu, quan hệ của VNCH với Phnom Penh đã phức tạp bởi tranh chấp lãnh thổ và tranh cãi về đối xử với những người thiểu số. Nhưng điểm tranh cãi chính giữa hai chính phủ luôn là quan điểm khác biệt rõ rệt của họ về chính trị Chiến tranh lạnh; và vấn đề càng trở nên phức tạp bởi sự đối nghịch cá nhân của Diệm với Hoàng thân Sihanouk. Sau giải pháp Geneva năm 1954, trong đó liên quan đến cả Lào và Campuchia lẫn Việt Nam, chính phủ Phnom Penh lái dần về quan điểm trung lập hơn trong công việc quốc tế. Theo thời gian, rõ ràng Sihanouk dần đi đến kết luận rằng Nam Việt Nam về lâu về dài sẽ không thể chống lại sự lật đổ của Cộng sản, kể cả với trợ giúp của Hoa Kỳ đi nữa; và rằng lục địa Đông Nam Á nói chung sẽ rơi vào ảnh hưởng của khối Cộng sản Châu Á do Bắc Kinh dẫn đầu. Tất cả những điều ấy là lời nguyền rủa đối với Diệm và các đồng nghiệp, những người cũng cay đắng phẫn uất với việc du kích Cộng sản sử dụng lãnh thổ Campuchia vừa làm căn cứ hoạt động chống Nam Việt Nam lẫn làm điểm trú ẩn. Trong suốt nhiều năm, rất nhiều vụ đụng độ biên giới đã khiến quan hệ giữa hai nước trầm trọng thêm. Tình hình càng phức tạp hơn do Campuchia trao quyền tị nạn chính trị cho các đối thủ chính trị không phải là Cộng sản với chế độ Diệm, và bởi những âm mưu được cho là của Nam Việt Nam nhằm lật độ chính phủ Sihanouk. Tuy nhiên, bất chấp xấu đi, quan hệ giữa hai nước vẫn được duy trì cho đến gần hết cuối giai đoạn Diệm.

Quan hệ với Ấn Độ

Mặc dù Diệm từng tin tưởng vào vị trí phù hợp của Ấn Độ trong quan hệ quốc tế song chế độ của ông không bao giờ có quan hệ dễ dàng với chính phủ New Delhi. Điều này một phần là do chính sách không liên kết nói chung của Ấn Độ mà nhìn từ góc độ của Sài Gòn thì phần nào gần với việc ủng hộ tích cực các nước Cộng sản. Nhưng hơn cả thế, nó xuất phát từ những nghi ngờ không thể nào xoá bỏ của Diệm về vai trò chủ chốt của Ấn Độ là chủ tịch của Uỷ ban Giám sát và Kiểm soát gồm ba quốc gia (Canada, Ấn Độ, Ba Lan). Diệm tin rằng Uỷ ban Quốc tế có sự thiên vị bất lợi cho chế độ của ông, và ông chủ yếu đổ lỗi điều này cho sự có mặt của Ấn Độ, những người mà ông vô cùng nghi ngờ chủ nghĩa hiện thực chính trị và thậm chí là sự đáng tin cậy của họ. Sự thù nghịch với những người Ba Lan, tất nhiên, được coi là đương nhiên. Kết quả là sự căng thẳng đáng kể trong quan hệ của VNCH với New Delhi. Diệm và các đồng nghiệp có lẽ đã phán xét sai tình hình thật sự về Uỷ ban quốc tế, đặc biệt là vai trò của người Ấn Độ trong đó. Trên thực tế, người Ấn Độ nhanh chóng hiểu người Cộng sản, và trong công việc thật sự của Uỷ ban, nhất là sau năm 1955, họ thường đồng cảm với Sài Gòn hơn là Hà Nội. Chỉ có năm 1962, khi Ấn Độ bỏ phiếu cùng Canada về báo cáo đặc biệt nhằm chỉ trích những người Cộng sản vì đã ủng hộ xâm chiếm Nam Việt Nam thì Diệm mới nhìn nhận lại quan điểm của mình.

Quan hệ với các nước châu Á khác

Quan hệ với Hoa Kỳ