PHẠM CÔNG LUẬN
Đối với tôi, đường Pasteur là con đường rất đẹp, với lề đường rộng và cây xanh chen lẫn các ngôi biệt thự xây từ thời thuộc địa vẫn còn tồn tại. Đây là con đường sang trọng và tao nhã, với cây cao bóng cả thả nắng vàng xuống mặt đường mỗi ngày.
Thật khó hình dung con đường này, vốn lộ giới chỉ khoảng 20 – 25m, thời Pháp thuộc thực chất là hai con đường chạy dọc hai bên một con rạch nước chảy, có lẽ đổ ra rạch Nhiêu Lộc, đều mang số 24. Năm 1865, khi người Pháp đã ổn định chế độ thuộc địa, họ đặt tên đường bên trái là Olivier còn đường bên phải là Pellerin. Sau con rạch được lấp đi và hai đường nhập làm một, thành đường Pellerin.
Năm 1955, chính quyền TT Ngô Đình Diệm đổi thành đường Pasteur. Tháng 8.1975, đường đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai nhưng cho đến năm 1991, lấy lại tên Pasteur. Đường chạy từ đường Võ Văn Kiệt cho đến Trần Quốc Toản khoảng 2,5 cây số.
Có lẽ sự kiện đầu tiên mang tầm vóc lớn nhất mà cư dân dọc hai bên đường chứng kiến là sự kiện nhà yêu nước Phan Châu Trinh mất năm 1926. Linh cữu của cụ được quàn trên con đường này, nhà Bá Huê Lầu của ông Huỳnh Đình Điển ở số 54. Tang lễ được thân hào nhân sĩ Sài Gòn tổ chức cử hành như nghi thức quốc tang. Từ tờ mờ sáng, người người từ khắp thành phố và vùng phụ cận đổ về đường Pellerin để đưa tang.
Đám tang đi theo lộ trình từ nhà 54 qua đại lộ Norodom (nay là đường Lê Duẩn), đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) rồi đi thẳng xuống Phú Nhuận đến nghĩa trang Gò Công tương tế ở Tân Sơn Nhứt. Đó là một sự kiện chấn động vì lễ tang của cụ lớn chưa từng có ở Sài Gòn, với hơn 6 vạn người tham dự đưa linh cữu đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Sự kiện lớn đó khuấy động không khí yên tĩnh của con đường toàn biệt thự kín cổng cao tường này. Dù vậy, đoạn đường Pellerin phía trung tâm Sài Gòn thuộc quận 1, mé Hàm Nghi vẫn sôi động hơn do hoạt động buôn bán so với hai bên dãy phố từ ngã tư giáp đường Lê Duẩn ngày nay đi xuống phía đường Trần Quốc Toản với đa số biệt thự.
Người đi xe đạp trên đường Pellerin khoảng 1950. Trong hình là chỗ gãy góc của đường Pasteur, đó chính là ngã tư Pasteur – Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng). Ảnh: TL
Một nhà sưu tầm dĩa nhạc cho biết thời thập niên 1920 – 1930, trên đường này có đại lý hiệu dĩa Béka là hãng Société indochinoise d’ Importation ở số 40-44 rue Pellerin, vừa bán máy vừa bán dĩa mà anh thỉnh thoảng thấy in trên bao bì dĩa hát xưa. Anh kể khi tò mò lục báo Phụ Nữ Tân Văn xuất bản thời đó tìm tung tích hãng dĩa mới biết ngay góc Pasteur và Hàm Nghi bây giờ từng có dinh lãnh sự Trung Hoa mới được dời về năm 1936, là sự kiện long trọng đối với người Hoa ngụ cư nên họ kéo nhau đi xem chật đường. Sau này, đây là tòa đại sứ Đài Loan cũ trước khi dời về đường Hai Bà Trưng trước năm 1975.
Báo chí xưa thuật lại: đầu hè năm 1937, ngã tư Pellerin và Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) có một vụ đụng xe đáng nhớ. Buổi chiều, một chiếc xe tracteur kéo theo chiếc rờ mọt trên đường này chạy xuống đến ngã tư nói trên thình lình thấy một chiếc xe đạp ba bánh của chú Lý Yên chở vài chục tĩn nước mắm từ chợ Bến Thành định đưa lên Phú Nhuận bán.
Anh tài xế xe tracteur thấy chiếc xe đạp đó liền bẻ tay lái qua bên phải để tránh nên chạy lủi xuống mé sông. Thình lình, có một chiếc xe mui kiếng của bà Phạm Thị Vân ở dưới đường Pellerin chạy lên bị chiếc tracteur đụng ngay phía hông trái rất mạnh. Anh lái xe mui kiếng thấy xe mình bị đụng liền lấy tay lái qua phải, ủi chiếc xe nước mắm lật ngang, bao nhiêu nước mắm bể hết ráo.
Cuối cùng, chiếc tracteur vẹo bánh trước, chiếc xe mui kiếng bị móp hông trái và xe đạp ba bánh hư nát. Nước mắm bốc mùi khiến dân khu phố chung quanh bị ám ảnh đâu cũng có mùi nước mắm mất mấy ngày.
Trang báo quảng cáo một nhà buôn trên đường Pasteur. Ảnh: T
Lúc đó, nhà số 2-4 là Ngân hàng Indochine. Số 25 là quán cà phê kiêm nhà hàng Yeng Yeng, hiện nay là một cơ sở của Saigon Tourist. Số 93 Pasteur là dưỡng đường của bác sĩ Trần Văn Đỗ, được quảng cáo có nhiều phòng rộng rãi để nuôi bệnh và sản phụ; có cả nhà mổ và sinh khó, có cả rọi kiếng (X quang), chụp hình phổi tim bao tử, trị bệnh bằng tia cực tím.
Bên kia đường, số nhà 80, thời gian sau xuất hiện thêm một ông “y khoa học sĩ bào chế” tên Nguyễn Văn Cung gần Chợ Cũ chuyên trị bệnh hậu như nhức mỏi, phong thấp, bại xụi, tê thấp, lao phổi, máu huyết, tê bại, phong đơn, phong tình… Số nhà 162 trước đây là nhà Đốc phủ Hải, hiện nay là một tòa nhà lớn cho thuê làm văn phòng.
Trước năm 1975, khi tôi còn nhỏ đã có nhiều dịp đi ngang con đường xinh đẹp này, nhưng kỷ niệm lại không vui vì phải đi chích thuốc ngừa phong đòn gánh (bây giờ gọi là bệnh uốn ván) ở Viện Pasteur cuối đường. Lúc đó, nhớ mang máng chỗ phở Hòa bây giờ chỉ là xe phở bán trên lề đường mà tôi được ăn sau khi chích ngừa.
Gần đó là nhà may Thiết Lập rất nổi tiếng ở Sài thành thường quảng cáo trên báo, mà nhà tôi thường có tờ tuần báo Thẩm Mỹ Tân Tiến để chị tôi đọc mục dạy cắt may của bà Nguyễn Thị Bắc, chủ nhân. Thời đó, áo dài kiểu tay raglan đang thịnh hành. Nhìn vào tiệm may thấy thợ ngồi đông đúc, nghe nói tới 50 thợ may. Báo chí đăng trung bình mỗi ngày tiệm giao khoảng 100 áo dài cho khách, các ngày gần lễ Giáng sinh hay Tết còn nhiều hơn.
Tiệm may Thiết Lập. Ảnh: TL
Trên con đường này, lưu dấu một hình ảnh mà những người lớp tuổi bảy mươi sống ở Sài Gòn trước năm 1975 trở lên còn nhớ. Trong cuốn Hồi ký của Nguyên Sa, ông kể một kỷ niệm về thời còn làm báo ở Sài Gòn, thỉnh thoảng ông đi chơi cùng nhà văn Mai Thảo trên chiếc xe Fiat hiệu Austin, lòng vòng các đại lộ Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ… Mai Thảo lái xe đến một căn nhà gần bờ sông Sài Gòn, cả hai ngồi trong phòng khách nhà một thiếu nữ mắt rất đen và to mà Mai Thảo quen biết. Cô ta đến sau bức bình phong, thay bộ đồ để đi chơi cùng hai ông. Phía sau bức bình phong chỉ ló ra đầu và hai chân, cô ta nhìn Nguyên Sa cười có vẻ e thẹn. Sau đó, cả ba lên xe đi chơi tối, có khi đi chơi ở nhà hàng – vũ trường Arc en Ciel.
Lần cuối cùng Nguyên Sa gặp cô gái ấy là trên đường Pasteur. Ông kể khi đang yên vị trên xe thì “Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích”. Cả hai xuống xe, băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.
Nguyên Sa thấy: “Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm dị dạng. Hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn. Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất. Dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”. Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói bằng xúc giác, không có âm thanh nào được cất lên”.
Khi trở lại xe, Nguyên Sa nói ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung, tên người phụ nữ thay áo sau tấm bình phong mỗi lần hai ông đến đưa nàng đi làm, đi ăn hay ra hóng mát. Cô bị tạt axít trong một trận đòn ghen mà báo chí đưa rất nhiều. Nguyên Sa nhìn bạn ngậm ngùi: “Cẩm Nhung!” và Mai Thảo nhìn về phía trước, như nói một mình “Nhung đấy!”.
Con đường không quá dài, nhưng mỗi đoạn đường mang đến một cảm giác khác. Nhớ hồi nhỏ, ra Lê Lợi mua sách cùng với anh thì thế nào cũng phải ghé góc Lê Lợi – Pasteur ăn gỏi khô bò và uống nước mía. Xuôi xuống, qua công viên trước dinh Độc Lập thì biệt thự và cây xanh nối tiếp, đến gần cuối đường, đi qua viện Pasteur ngay góc Trần Quốc Toản có một bô rác nhỏ làm xấu con đường xinh đẹp này. Rồi lớn lên, đi làm. Thỉnh thoảng tôi ngồi uống cà phê trên vỉa hè gần cổng trường Đại học Kiến trúc ở số 196 Pasteur.
Ở đó, tôi nghe một đàn anh hành nghề kiến trúc sư tốt nghiệp từ trước năm 1975 kể câu chuyện khó tin trong trường. Anh kể trường này có nhiều… ma mà sinh viên ở lại trường làm bài khuya thường “thấy”. Ma là phụ nữ ngồi ru con ở đầu tường gần khu nhà vệ sinh. Ma cụt giò chiếm phòng chấm bài. Cuối họa thất 1 có cô nữ sinh mặc áo dài trắng ôm cặp ngồi trên bàn vẽ đung đưa chân, khu khác còn chàng thanh niên thường thơ thẩn.
Bài viết đăng trên một diễn đàn cựu sinh viên kiến trúc kể rằng hồi lính Nhật chiếm Sài Gòn trước năm 1945 có đóng trụ sở ở đây, phía dãy nhà văn phòng và họa thất là khu chuồng ngựa, gần đó là phòng giam người. Người dân gần đó chứng kiến lính phát xít Nhật giết nhiều người ở đây nên có oan hồn uổng tử đi lởn vởn.
Điều đáng tiếc nuối nhất với tôi là vườn hoa Vạn Xuân đối diện Đại học Kiến trúc phía bên trái ngay góc ngã tư Pasteur – Trần Quý Cáp mà những năm 1980 tôi còn thấy. Trước năm 1975, đối diện vườn hoa này ngoài Đại học Kiến trúc còn có trường tiểu học Trần Quý Cáp, phòng đọc sách thiếu niên Trung tâm Sài Gòn. Vạn Xuân là vườn hoa nhỏ, một trong hai vườn hoa đẹp ở Sài Gòn cùng vườn hoa Chi Lăng. Vườn có cây cối xanh tươi, phía xa có ngôi nhà kiểu thuộc địa sơn vôi màu vàng, được dân quanh đó gọi là Nhà đèn, cảnh trông như một vườn hoa ở nước Pháp trong tranh vẽ.
Trước năm 1975, đây là nơi nam sinh các trường Lasan Taberd, Võ Trường Toản hay nữ sinh Marie Curie, Gia Long, Trưng Vương thích đến dạo chơi, có nhiều kỷ niệm thuở học trò. Từ thập niên 1980, vườn hoa này nhập vào khuôn viên nhà thi đấu thể thao Phan Đình Phùng nên bị xóa sổ.
Vườn hoa Vạn Xuân nay không còn. Ảnh: TL
Tôi vẫn đi con đường này hằng ngày, thỉnh thoảng nhìn vào trụ sở Hội Mỹ thuật thành phố, ở ngôi nhà 218A. Ở đó, bỗng nhớ những dòng chữ của họa sĩ Hà Cẩm Tâm, học trường Mỹ thuật Gia Định ra, vẽ đẹp và viết nhiều bài rất hay trên trang Gió O. Tháng 4.1997, về thăm nhà sau 20 năm ở xứ người, ông sẵn dịp làm một cuộc triển lãm cá nhân tại Hội Mỹ thuật thành phố. Cuộc triển lãm kéo dài trong mươi ngày đầu tháng 6.1997 với 45 bức tranh sơn dầu vẽ tại Sài Gòn trong một tháng.
Trong bài Tưởng mất mà còn, ông nhắc đến nhà văn Dương Trữ La là bạn thân thiết: “Dương Trữ La ở phòng tranh chơi với tôi suốt buổi chiều. Ra ngồi uống cà phê vỉa hè đường Pasteur, tôi ngước mắt nhìn hai hàng cây trẻ thơ hai bên đường năm nào mà hôm nay đã thành những cổ thụ già như trong Ai xuôi vạn lý của Lê Thương. Chẳng nói nhiều với nhau, thỉnh thoảng chỉ nhắc lại kỷ niệm, bạn bè kẻ còn người mất, người chết kiểu này, kẻ sống kiểu kia, người ở lại, kẻ ra đi mịt mờ sương khói. Trong tâm thức, cả hai đều chung một con đường tuần cảm, một chấn động đầy vơi, một nỗi bàng hoàng, một niềm chua xót…”. Vài câu lay động lòng kẻ hậu sinh, tuy chưa bao giờ hân hạnh gặp và nay ông cũng đã mất.
Kỷ niệm vụn về con đường nhắc lại mà thấy hơn 60 năm vèo qua quá nhanh trên thành phố này.
Phạm Công Luận