Nguồn: Sharon Weinberger, “Five Decades Ago in Vietnam, a Different Great, Great Wall,” The New York Times, 25/04/2017.
Khi trở về từ Nam Việt Nam năm 1961, Tướng Maxwell Taylor đề xuất một kế hoạch có vẻ đơn giản để ngăn chặn cuộc nổi dậy của Cộng sản: một hàng rào không thể xuyên thủng sẽ cắt đứt nguồn cung nhân lực và khí tài từ miền Bắc.
Khi đó Taylor cũng khuyên Tổng thống John F. Kennedy gửi thêm quân đội chính quy tới Việt Nam, một lời kiến nghị còn ám ảnh nước Mỹ trong nhiều thập niên sau này. Taylor lý luận rằng hàng rào sẽ làm suy yếu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (Việt Cộng), giúp các lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đánh bại Cộng sản
Ai cũng biết câu chuyện Mỹ can dự quân sự vào Việt Nam và thất bại. Nhưng câu chuyện gốc rễ về nỗ lực thất bại của Mỹ trong việc xây dựng một bức tường trên đất nước Việt Nam gần như đã rơi vào quên lãng. Hàng rào Việt Nam bắt đầu từ một Taylor với nhận thức sai lầm, người mà theo phóng viên Thomas E. Ricks có lẽ là “vị tướng phá hoại nhất trong lịch sử nước Mỹ.” Taylor đã chỉ dẫn cho chuyên gia chống nổi dậy nổi tiếng Edward Lansdale “đưa mọi thiên tài Mỹ vào làm việc để có một đường dây điện hay cái gì đó giăng ngang ranh giới [Bắc Nam], và sau đó dọc xuống phía Lào và Campuchia.”
Lansdale không mấy hứng thú với rào chắn này, bởi vậy ông chuyển nhiệm vụ cho Cơ quan quản lý các dự án nghiên cứu cao cấp (ARPA), một đơn vị ít được biết đến thuộc Lầu Năm Góc, gồm các nhà khoa học và kỹ sư, được thành lập năm 1958 để giúp Hoa Kỳ chiến thắng cuộc chạy đua không gian với Liên Xô. ARPA (sau này thêm từ “Quốc phòng” vào tên gọi và được biết với cái tên Darpa) đã nghiêm túc tập hợp một số người giỏi nhất để nghiên cứu vấn đề. Họ kết luận rằng nếu thực sự muốn ngăn những người quyết tâm vượt biên thì cần phải tàn nhẫn.
Các báo cáo bí mật của ARPA thời gian đó mô tả những chi tiết mà “các thiên tài Mỹ” cho là cần làm để rào kín một quãng đường dài 2.000 dặm (3.200 km) – tương đương với chiều dài biên giới Mỹ-Mexico, mặc dù trong trường hợp Việt Nam, nó bị chia cắt thành năm khu vực riêng biệt. Bên cạnh việc triển khai một hạm đội gồm máy bay cánh cố định và tàu tuần tra, dự án “niêm phong biên giới” đề xuất sử dụng thuốc diệt cỏ để phá trụi một đoạn đường cốt yếu dài 180 dặm (290 km) thuộc Đường mòn Hồ Chí Minh, một tuyến đường mà Bắc Việt sử dụng để tiếp tế cho Việt Cộng; đặt mìn dọc vĩ tuyến 17, ranh giới giữa miền Bắc và miền Nam; và dùng hóa chất có màu để theo dõi tàu thuyền trên các tuyến đường thủy.
Dự án này cũng kêu gọi phát triển các công nghệ “mới.” Đính kèm với bản đề xuất năm 1964 của ARPA là một danh sách yêu cầu được viết tay, bao gồm hai triệu quả mìn được ngụy trang giống như đá, 20.000 quả bom bi chứa chất làm rụng lá và một lượng không xác định “chất thu hút côn trùng.” Có lẽ đáng lo ngại nhất là yêu cầu cấp 25.000 “vũ khí hóa học” không xác định rõ tên gọi.
Các chuyên gia tại Lầu Năm Góc đã do dự trước bản đề xuất của ARPA. Khi xem xét kế hoạch này, Seymour Deitchman, một trợ lý đặc biệt về chống nổi dậy, nhận xét rằng để rào chắn hoạt động được, chi phí cho số máy bay cánh cố định và trực thăng cần có là vô cùng lớn. Bất kỳ loại rào chắn nào, dù là hàng rào vật lý hay hàng rào điện, đều đòi hỏi phải bảo dưỡng liên tục và đắt đỏ. “Các thiết bị giám sát biên giới không cần người điều khiển cũng cần chi phí đáng kể để bảo trì và thay thế những chi tiết hỏng hóc, bên cạnh một hệ thống chỉ huy và kiểm soát khổng lồ để nhận diện các điểm xâm nhập,” Deitchman viết.
Đề xuất làm rào chắn của ARPA bị Lầu Năm Góc bác bỏ bởi chi phí quá đắt đỏ và đòi hỏi một cam kết quân sự của Mỹ ở Việt Nam mà Nhà Trắng chưa sẵn sàng đưa ra. Nhưng giống như nhiều ý tưởng tệ hại, bản đề xuất này lại được tái sử dụng chỉ vài năm sau đó khi cuộc chiến vũ trang ở Việt Nam leo thang. Một cựu quan chức ARPA viết rằng bức rào chắn đã sống lại nhờ sự “tuyệt vọng” của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara. Lần này, nhiệm vụ được giao cho một nhóm có tên Jasons được ARPA tài trợ, gồm các nhà khoa học mà các tài liệu Lầu Năm Góc mô tả là “nhóm tinh túy nhất của cộng đồng học thuật trong các lĩnh vực kỹ thuật.”
Thay vì xây dựng một bức tường hay rào chắn thực sự, nhóm Jasons tư vấn xây dựng một cái gì đó giống như một bức tường ảo làm từ cảm biến âm thanh và địa chấn, kết nối với một trung tâm máy tính chỉ huy và kiểm soát có thể ra lệnh cho máy bay quân sự tấn công. Cảm biến sẽ xác định có người hoặc xe đi qua lằn ranh vô hình này; các thuật toán sẽ tính toán vị trí; sau đó các tọa độ này sẽ được chuyển đến cho phi công để ném bom vào địa điểm ước định.
Đến năm 1967, Không quân Hoa Kỳ đã thả nhiều chuỗi cảm biến âm thanh dọc Đường mòn Hồ Chí Minh. Chúng giúp phát hiện các đoàn người đi qua và chuyển dữ liệu đến một cặp máy tính IBM lớn ở Thái Lan, cặp máy tính này sẽ điều khiển máy bay trực thăng và máy bay chiến đấu tới tọa độ dự tính. Thay vì ném bom mục tiêu mà họ nhìn thấy, lần đầu tiên phi công thực hiện tấn công dựa trên mục tiêu nhận từ máy tính, mở ra thời kỳ “chiến tranh nhấn nút”.
Dự án có tên mã là Igloo White và được triển khai chủ yếu một cách bí mật này đã gặp phải vô số vấn đề kỹ thuật, như tuổi thọ pin cảm biến ngắn. Khi thông tin về dự án bắt đầu lọt ra ngoài, McNamara buộc phải đưa ra một tuyên bố công khai, mặc dù cung cấp rất ít chi tiết về hàng rào. “Tôi không có ý định dâng cho kẻ thù lợi thế biết được chúng ta sẽ sử dụng công cụ nào, ở đâu hay số lượng bao nhiêu,” McNamara nói tại một cuộc họp báo vào tháng 9 năm 1967.
Không quân Hoa Kỳ tuyên bố thành công vang dội, dẫn ra những con số lớn về các đoàn người bị trúng bom, tuy nhiên việc xác minh những con số đó là rất khó khăn, bởi trong thời đại chiến tranh số mới, chỉ Lầu Năm Góc mới có sự tiếp cận đầy đủ đối với chiến trường. Những người ủng hộ công nghệ nền tảng chỉ trích Không quân vì sử dụng công nghệ cảm biến để theo đuổi chiến dịch ném bom chiến lược thất bại vào Bắc Việt, làm trệch hướng nguồn lực khỏi kế hoạch rào chắn.