Huấn luyện tại trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ, OCS Fort Benning

CHU TẤT TIẾN

Đầu tháng 4 năm 1967, tôi tình nguyện gia nhập quân đội, khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, vào lúc tình hình chiến sự bắt đầu leo thang trên cả hai phương diện, Trận Địa Chiến và Du Kích Chiến. Lúc đó, cuộc chiến đã hình thành rõ rệt giữa hai phe,

1) Phe Thế Giới Tự Do gồm Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc, Nam Hàn, Brazil, và Thái Lan.

2) Phe Cộng Sản, Bắc Việt Nam, Trung Cộng, Liên Sô, Tiệp Khắc, Bắc Hàn, Cuba, và một số quốc gia Cộng Sản Đông Âu. Số quân Mỹ, chưa kể đồng minh, năm đó lên đến gần 500,000 người.

Thời gian đó, tôi được miễn dịch vĩnh viễn, nghĩa là không bao giờ phải đi lính như những người trai thời loạn khác với lý do gia cảnh, Gia đình có 3 anh em trai, thì 2 anh đã nhập ngũ. Anh lớn nhất thụ huấn khóa 4 Thủ Đức (phụ) tại Đà Lạt, anh thứ hai phục vụ ngành An Ninh Quân đội (sau này được gửi đi thụ huấn tại Úc, và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hoàng Gia Úc).

Tuy nhiên, vì luôn theo dõi tin tức chiến tranh, tôi cảm thấy căng thẳng, thừa thãi, không biết làm gì để tiếp tay với mọi người chống lại bọn Việt Cộng dã man, cứ pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư vô tội, hoặc đắp mô, đặt mìn giết hại dân lành trên các con đường liên tỉnh.

Ngay tại thủ đô Saigon cũng không có an ninh vì bọn đặc công Việt Cộng cứ gài chất nổ, nay phá khách sạn này, mai nổ chỗ khác, hoặc ném lựu đạn vào đám đông, gây ra bao thảm cảnh, thây thiếu nữ, thanh niên, trẻ em nằm rải rác khắp nơi. Nhìn thấy những cảnh máu me tràn lan, tay chân vương vãi trên mặt đường, tôi nghẹn ngào muốn khóc, và rồi, một buổi sáng sớm, không nói với bất cứ ai trong gia đình, chỉ lẳng lặng cầm cái túi sách nhỏ đựng mấy thứ cần thiết, tôi đi xe buýt đến Quân Vụ Thị Trấn, vào hỏi chi tiết nhập ngũ, rồi ghi tên và leo lên xe GMC trực chỉ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

Tôi được thả xuống đúng trại nhập ngũ nơi anh lớn tôi là Chỉ Huy Phó trại, nhưng anh không hề hay biết, vì tôi không gọi. Nếu thấy bóng anh thấp thoáng đâu đó, là tôi trốn. Mãi đến khi tôi qua Quân Trường Thủ Đức 3 tuần rồi, tôi mới viết thư cho anh và Mẹ tôi hay. Mẹ tôi theo anh tôi lên trường, gặp tôi, bà khóc nghẹn ngào. Còn anh tôi mắng tôi ầm ĩ, “Sao mày ngu thế? Có khùng điên không? Thời buổi này, chiến tranh chết chóc như rạ!”

Sau đó, anh buộc tôi phải theo anh lên gặp ông Liên Đoàn Trưởng Sinh Viên Sĩ Quan, là bạn anh, để mong chút ân huệ nào đó cho tương lai của tôi, nhưng tôi cự lại, “Em tình nguyện đi lính để đánh giặc, chứ không phải để chạy chọt vào chỗ tốt. Nếu muốn nhờ cậy, thì em cứ ở nhà, khỏe re, cần gì đi lính!”

Và thế là tôi đã trở thành một người lính Việt Nam Cộng Hòa, hạnh phúc vì được phục vụ cho đất nước. Cũng vì tinh thần xung phong đó mà khi được bổ vào Đại Đội 9 của Trung Úy Sự, người Sĩ Quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt, lúc nào cũng phong độ uy nghi, tôi tình nguyện giơ tay làm Thư Ký Đại Đội luôn.

Qua 6 tháng huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Thủ Đức, nghe thông báo là Trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ muốn tuyển người đi thụ huấn bên Mỹ, tôi lại giơ tay tình nguyện nữa. Ngày đầu tiên, cùng với gần 400 người lên giảng đường thi Anh Ngữ, tôi “pass” cùng với vài chục bạn nữa, để lên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, thi thêm 2 lần. Qua khỏi 3 cửa ải Anh Ngữ này, tôi cùng với khoảng 30 bạn nhập vào một Trung đội Đặc Biệt (Special Platoon) cùng với khoảng 10 Thông Dịch Viên từ các đơn vị gửi về thành 40 người để được một Cố Vấn Mỹ, Đại Úy Isler, rèn luyện về thể lực trong 1 tháng, cũng ngay tại trường Thủ Đức, 24 giờ một ngày, nghĩa là bất cứ khi nào cũng có thể bị hành xác.

Từ sáng sớm đến nửa đêm, đôi khi đang ngủ cũng bị dựng cổ dậy, hít đất, trồng chuối ngược, móc chân vào thanh giường trên, tay chống xuống đất, rồi dí ngón tay trỏ vào nón sắt, chạy vòng vòng quanh nón đến khi nằm gục xuống thì nghỉ, để lại đứng lên ngồi xuống 20 lần, nghe quát tháo và chửi bới nặng lời. Chạy sáng sớm, chạy buổi tối, chạy đến lớp học, chạy đến nhà cơm, chạy từ nhà cơm về, chạy đi “toilet.”

Nếu ngưng chạy thì hít đất, nhẹ nhất là 20 cái, trung bình 50 cái…Nghĩa là chạy “đoạn đường chiến binh” liên tục trong 1 tháng. Nhiều sinh viên chịu không nổi, rớt đài từ từ, cuối cùng còn lại 10 Sinh Viên Sĩ Quan thuần túy cộng với 8 Trung Sĩ Thông dịch Viên của các Sĩ quan Cao cấp Hoa Kỳ là 18 người lên đường sang Mỹ vào đầu tháng 10 năm 1967.

1. Chuẩn bị

Nơi học đầu tiên là Viện Sinh Ngữ Quốc Phòng (Defense Language Institute) tại Căn Cứ Không Quân, Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas. Ở đây, ngày 2 buổi, chỉ học các danh từ chuyên môn quân sự cùng với các quân nhân đồng minh khác, Iran, Iraq, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan.

Chiều, tối, Thứ Bẩy, Chủ Nhật đi chơi. Đời sống thanh thản như một sinh viên thuần túy. Nhưng tại đây, xẩy ra một vụ đánh lộn ly kỳ. Một buổi sáng đi xe buýt ra phố chơi cùng với nhóm Iran, Iraq… Một tay Đại Úy Iran có cái mồm oang oang, nói vang cả xe, gây khó chịu cho một vị Thiếu Tá Nhẩy Dù Việt Nam. Ông nhỏ nhẹ nói,

“Làm ơn nói nhỏ chút!”

Tên này khinh thường người Việt, cứ tiếp tục nói liên tục. Vị Thiếu Tá nhắc đến lần thứ 3 mà hắn cứ tỏ ra khinh khỉnh làm ông nổi giận, chửi liền,

“Fuck you, Iran! Mày coi thường dân Việt tao hả?”

Rồi xông đến giáng cho hắn 2 quả đấm, tên này gục xuống, máu miệng phun ra. Xe buýt dừng. Cảnh sát đến. Vị Thiếu Tá bị cảnh sát điệu đi đến chiều thì được thả về, nhưng rồi ông bị gọi lên gặp Sĩ Quan Liên Lạc và nhận lệnh phải trở về Việt Nam gấp. Nghe tin này, dân Việt giận quá. Đêm hôm ấy, đúng 12 giờ, nhóm Việt chúng tôi im lặng tiến đến khu phòng ngủ của bọn Iraq đang ngủ say, thình lình đập cửa xông vào, đấm đá bọn Iraq mất dậy kia một trận tưng bừng rồi lặng lẽ rút lui, để chúng không kịp bật đèn nhìn thủ phạm. Hôm sau cả Viện nháo nhào vì tin đánh lộn, nhưng vì không ai khai, không ai làm chứng, nên mọi chuyện ồn ào một hồi rồi cũng qua.

Ba tháng học ở đây như lên thiên đường, riêng tôi, lại có 2 mối tình, Một chuyện tình với cô Giáo sư người Mỹ lai Tây Ban Nha, đẹp rụng rời; và một anh chàng Mễ là chuyên viên phòng Lab, bệnh Gay, mê tôi như điếu đổ, chưa kể hai chị em 17,18 con một bà bạn, từng chơi đùa, ôm nhau lăn lộn ngoài bãi biển (chuyện này kể sau.). Ngày tôi rời San Antonio, Cô giáo khóc nức nở trước mặt các giáo sư khác, rồi ký tên trên mảnh bằng tốt nghiệp của tôi là “You are the most wonderful man I ever meet in my life. Love you forever.” Còn anh chàng Mễ, khi biết tôi ra đi không trở lại, thì mấy ngày trước, lăn ra ốm gần chết. Hắn gửi lời nhắn cho tôi đến nhà hắn, nhưng tôi lờ đi. Thôi, bye!

Tháng 3, năm 1968, lên máy bay, đến Fort Benning, Georgia, để bắt đầu học Quân Sự tại Quân Trường Infantry Officer Candidate School, gọi tắt là O.C.S. (Trường Sinh Viên Sĩ Quan Lục Quân). Trong thời điểm có cuộc chiến Mậu Thân 1968, nên chương trình huấn luyện cực kỳ căng thẳng. Sinh viên Sĩ Quan phải trải qua 6 tháng kinh hoàng để có thể có sức khỏe mà chiến đấu trong một xứ nóng, đầy dẫy bom mìn, cạm bẫy, thương vong.

2. Thủ tục

Ngay ngày đầu tiên, lúc còn xách 2 vali nặng chĩu, ông Thượng Sĩ nhất cũa Đại Đội Sinh Viên đã gào thét bắt chúng tôi phải xách vali chạy lên, chạy xuống 3 tầng lầu. Vừa xuống đến đất lại phải chạy lên lại, mấy lần như thế…Vali rồi tung tóe, người ngã nghiêng, hơi thở đứt đoạn.

Sau khi thấy chúng tôi sắp xỉu, thì ông Thượng Sĩ gào lên, “Các anh vào đây, muốn sống sót thì phải quên mình là “con người” mà chỉ là những con vật, đui, què, là ổ cứt thối, là đồ đầu lừa đít bò, cứt chó (you’re animal, you’re shit, you dumb, deaf, donkey head, cow ass, dog shit)…

Nếu ai mà nghĩ mình là người thì chỉ có cách tự tử mà chết thôi!” Ông dậy chúng tôi làm quen với cách mở miệng nói. Bất cứ lúc nào muốn nói với cấp trên (ông Thượng Sĩ đó, Huynh Trưởng, hay Sĩ Quan Cán Bộ) thì phải gào lên, “Sir, Candidate Tien requests permission to speak!” (Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho được nói!), mặc dù chỉ là để trả lời câu hỏi của ổng. Đi bất cứ đâu, qua phòng ăn, phòng học, đi toilet, vừa nhìn thấy cấp trên, là phải vội vàng đập lưng cái “bốp” vào tường, mắt nhìn thẳng ra phía trước, và gào thật to, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép cho đi qua!”

Nếu ông cho qua, thì đi thẳng người qua, nếu ông không cho qua, thì phải đứng im, không nhúc nhích. Nếu ông bảo bò giữa hai chân ông, là phải bò như chó cún. Vào phòng ăn, sau khi lấy đồ trên khay, đứng thẳng người trước bàn ăn, tay vẫn cầm khay, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ngồi.”

Nếu có cấp trên, thì ổng sẽ nói, “Ngồi đi!” thì mới được ngồi. Ngồi xuống, đặt khay cho thẳng hàng với cạnh bàn, sắp dao, nĩa chéo góc 45 độ với cạnh khay, để hai tay xuống đùi, ngồi thẳng người, gào lên, “Thưa Ngài, SVSQ Tiến xin phép được ăn.”

Có một cấp trên nào đó, ra lệnh, “ăn đi”, thì mới được ăn, Tay trái để trên bàn, cùi chỏ thẳng góc với mặt bàn, tay phải cầm nĩa, chọc vào thức ăn, đưa thẳng lên, ngang miệng, há miệng, đút thẳng đồ ăn vào, trong khi đó lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, nhai không được mở mồm, không được liếc qua bên cạnh (eye ball!). Hễ nhai mà để người khác thấy răng là bị chửi, “Ê! Thằng chó chết kia! Mày ăn như heo vậy hả! Làm cho tao 50 cái coi!”

Nếu liếc qua bên cạnh, là lập tức phải bỏ ăn, hít đất 50 cái. Một anh SVSQ Mỹ kia vô phúc, đang ăn lại liếc, bị ông sĩ quan phạt chạy một vòng vũ trường, dài đúng 1 mile, chạy nửa chừng giữa nắng, lăn ra chết luôn! (Một anh khác bị phạt hít đất giữa trời nắng hơn 100 độ cũng chết ngắc! Tại một đại đội khác, một sinh viên Mỹ tự tử bằng súng M.14. vì nhục quá!)

Điều bực nhất là có một hôm, vợ của một sĩ quan đến ăn, thì ông kia nổi hứng, chỉ tay vào tôi, hất hàm bảo, “Thằng con lừa kia! Mày leo lên bàn, làm xiếc khỉ cho vợ tao coi. Vợ tao không cười là mày chết ngắc!” thế là phải bỏ ăn, leo lên bàn, nhẩy múa, làm con khỉ nhăn răng, cho vợ hắn coi, mong cho bà ấy cười, mặc dù trong bụng chửi thề, “Bitch! God damn you!”

Thật ra, vì cần sức khỏe phải ăn, chứ đôi khi mệt lả, miệng đắng nuốt không vào, vì trước khi đến cửa phòng ăn (Mess Hall), là bị cây hít “pull-up bar” chặn đường. Hai tay huynh trưởng đứng hai bên cột sắt, bắt nhẩy lên, bám lấy cây ngang, hít lên, hạ xuống 20 lần rồi mới cho vào phòng ăn. Khi nào rã rời, kéo lên không nổi thì hít 50 cái thay thế…

Trở lại ngày đầu tiên nhận phòng ngủ, cứ 2 người một phòng, 2 giường sắt, 2 tủ quần áo gỗ có 4 ngăn mà 3 ngăn dưới rộng ngang để quần áo gấp, 2 ngăn nhỏ trên cùng để trưng mu-xoa, insignia (huy hiệu…) 2 cái hòm gỗ đựng đồ, 2 cái bàn làm việc giao nhau và 2 tủ sắt đứng treo quần áo tập luyện vuông vức, mỗi chiều khoảng 4 feet, cao 6 feet. Tất cả kích thước trưng đồ đều được tính sẵn, không sai 1 ly, thí dụ, quần và áo trận thẳng nếp được gấp vuông 30” là phải đúng 30”, cách mép trong ngoài 5” là đúng 5”, chỉ cần lệch ½” là 50 hít đất. Ngăn kéo dưới kéo ra ngoài 20”, ngăn trên 15”, ngăn trên nữa 10”, ngăn trên cùng 5.” Sĩ quan Cán Bộ hay Huynh Trưởng cầm thước đi đo, nếu lệch chút xíu là 50 hít đất. Chăn phủ giường phải thẳng băng, một vết nhăn là 50 hít đất… Thật sự, hít đất tôi không ngán, vì có thể hít 70, 80 cái như chơi, nhưng tôi ớn nhất là cái bàn, trên đó để 1 miếng bìa 60” x 60” bằng giấy thật, vì một tay huynh trưởng đến chỉ vào tấm bìa giấy đó, ra lệnh, “Ê! Mày đánh bóng cái tấm bìa này sao cho giống như cái gương để tao soi mặt!”

Mới nghe lệnh, tôi tưởng hắn giỡn, và nghĩ thầm, “Mẹ kiếp! Chỉ hù! Làm thế quái nào mà cho tấm bìa trở thành cái gương được?”

Nhưng vì là lệnh, nên tôi cũng kỳ cọ, dùng Wax (xira) đánh, đánh mãi vẫn cứ thấy nó bì bì ra.. Khoảng tiếng đồng hồ sau, tay kia trở lại, thấy tấm bìa vẫn lì lợm, phạt tôi nhẩy xổm 20 cái, hít đất đúng thế 20 cái. (Hít đúng thế nghĩa là người thẳng băng, tay huynh trưởng kia cúi xuống dùng tay móc lấy cái thắt lưng của tôi kéo lên, ấn xuống theo từng nhịp đếm!) Làm không đẹp là bỏ, đếm lại… Mỗi khi nhúng người xuống thì gào to, “One, Sir!” rồi “2, Sir”, 3, Sir..” Gào không to, thì bỏ, làm lại từ đầu.

Vì thế, khi nói 20 cái là sẽ thành 50, 60 cái… Mỗi ngày, tên huynh trưởng ác ôn kia đều tới kiểm tra miếng bìa. Đến chừng 4,5 ngày sau, bìa vẫn hoàn bìa, tôi bị hắn lôi tôi ra ngoài vườn, bắt trồng chuối ngược, chân dựng lên cửa sổ, tay chống xuống.. đá răm! Hễ rớt chân xuống, là cái đầu gối dập vào đá, phun máu! Đau quá, tôi phải năn nỉ tên cùng phòng chỉ cho tôi cách đánh bóng rồi tôi phải “lén” bỏ ngủ mấy đêm liền để đánh xira tấm bìa cho đến 1 tuần lễ sau, thì quả thật, miếng bìa đã thành tấm gương sáng choang, cho tay huynh trưởng kia soi thấy mặt mũi mình, hết phạt! (nói là “lén” bỏ ngủ, vì đúng 10 giờ đêm là có tiếng hô, “Sleep!” thì tất cả đều phải nằm ngay như tượng, nhắm mắt. Chờ cho tay gác đi qua, thì nhổm dậy, bật đèn pin, rồi chà bóng mọi thứ, từ cái bàn đến sàn phòng.)

Nguyên tắc đánh Wax phải theo đúng, không sai một ly, một cái nắp hộp Wax đựng nước thật sạch, một miếng vài trắng tinh. Cuộn vải vào 2 ngón tay trỏ và giữa, nhúng vào nước, rồi nhúng vào Wax mà chà xoay một vòng tròn bằng đầu ngón tay cho đến khi nào cái vòng tròng bằng ngón tay ấy sáng lên, thì lan ra dần đần cũng theo kiểu vòng tròn. Nếu chà kiểu xẹt qua, xẹt lại thì đến Tết mọi cũng không sáng, mà không sáng thì cứ bị phạt liên tu bất tận. Việc đánh bóng sàn phòng cũng giống như thế. Vì lệnh đưa ra là sàn nhà phải bóng để cán bộ hay huynh trưởng vừa vào đến cửa phòng là cúi xuống nhìn sàn nhà, nếu thấy mặt của họ in trên sàn thì OK, và nếu chưa thấy thì chỉ có .. tắt thở! Để cho sàn nhà được bóng, thì hai thằng thay nhau chà Wax từ 8 giờ tối đến 10 giờ đêm, rồi leo lên giường, giả bộ ngủ, chờ kiểm soát đi qua, là chồm dậy, soi đèn pin đánh đến nửa đêm về sáng, cả tuần như vậy, thì sàn nhà sẽ bóng như gương.

Đau khổ nhất là sau khi sàn nhà sáng rồi, thì chính mình không dám bước lên sàn, mà mỗi khi đi học hay tập về, là phải bám tay vào thành trên của cửa chính để đu vào cái tủ gỗ, nhẹ nhàng như rắn, rồi từ từ đặt chân vào thành sắt của giường, từ từ đặt mình xuống bàn, hoặc đặt mình lên giường, vậy mà chiều hôm sau, đi về, thấy các dấu chân của cán bộ, huynh trưởng ác ôn, dùng mũi giầy chà qua chà lại làm cái sàn lại dơ, tim như nghẹt lại, nước mắt chẩy ra chan hòa! Lại phải thức khuya làm vài ngày nữa. Trong khi ấy thì bị phạt… Hoặc vác súng M.14 chạy 1 vòng 1 dặm, hoặc đi thao diễn cơ bản 10 vòng quanh sân, hoặc trồng chuối ngược trên sân đá răm, hễ rớt chân xuống là cái đầu gối đập vào mỏm đá, thì chẩy máu be bét…Nhẹ nhất là hít đất từ 50 cái lên đến 100 cái…

Nói chuyện chà bóng sàn nhà, bàn giấy mà không nói đến đánh bóng giầy và búp nịt thì thiếu sót lớn. Giầy bốt đờ sô của Mỹ là loại da bò dầy cui, lồm xồm, vậy mà phải đánh bóng thế nào cho đến khi cấp trên đến đứng trước mặt mình, cúi nhìn xuống, thấy cặp mắt của hắn nhìn lên! Nếu nhìn thấy mắt mà không rõ nét, thì bị tay kia lấy đế giầy của hắn đè lên chân mình mà day day…rồi ra lệnh đánh lại! Búp nịt cũng thế! Phải sáng choang hơn lư đồng ngày Tết, phải phản chiếu cái búp nịt của cấp trên như hai cái gương đối nhau. Áo trận có cái nẹp gài nút, phải thẳng tuốt từ trên xuống dưới, chạy đúng qua đường thẳng của cái búp nịt, xuống cửa quần… là một đường thẳng băng. Lỡ quay qua quay lại làm lệch cái đường áo với đường cửa quần là.. toi mất một buổi tối không được nghỉ ngơi mà chịu phạt.

Tôi nhớ một buổi sáng, tên SVSQ Đại Đội Trưởng (cũng là do huynh trưởng chỉ định), đứng giữa sân, đọc nhật lệnh. Bốn trung đội chúng tôi đứng thành hình vuông. Tay SVSQ/ĐĐT kia đang cầm hồ sơ đọc cái gì đó, thì bị một tên huynh trưởng đến đứng trước mặt, tò mò nhìn xuống mũi giầy của tên đang đọc, không nhìn thấy mắt hắn, liền ra lệnh cho tên SVSQ/ĐĐT kia cúi xuống tháo giầy ra để bên cạnh, rồi bắt cởi áo, bỏ xuống, đến cởi quần ngoài, rồi áo thung, rồi quần xịp….đứng trần truồng giữa sân!

Chưa hết, tên huynh trưởng bắt tên truồng này cầm bản nhật lệnh lên tiếp tục đọc. Bọn tôi nghiến răng lại, cắn môi đến bật cả máu ra, không dám cười, không dám liếc vì nếu nhúc nhích một chút mà bị bắt thì cũng lại phải cởi quần áo ra, đứng phơi giữa trời…thay thế cho tên kia. Hình ảnh tếu lâm này, tôi nhớ mãi không bao giờ quên.

………………………………………….

3. Lên huynh trưởng và hành xác

Sau 12 tuần huấn nhục, tôi đã được lên huynh trưởng, hãnh diện đeo lên cổ áo và cầu vai dấu hiệu (insignia) có 3 chữ tắt “O.C.S.” bằng đồng vàng trên nền nhung xanh da trời, khác với dấu hiệu của đàn em là nền nhung đen. Từ giai đoạn này, chúng tôi không còn bị hành hạ nữa, và được tôn trọng như một Sĩ Quan. Ngày đánh dấu lên huynh trưởng rất quan trọng bằng một cuộc Party lớn.

Một phong tục lạ với chúng tôi là để chuẩn bị cho cuộc party này, các SVSQ được mời các em độc thân ở ngoài phố vào chơi và “blind dating” (cặp bồ không biết mặt!) Một SVSQ đại diện đi hỏi hết 240 SVSQ về hình dáng, cơ thể của từng người, tóc đen hay đỏ, và hỏi xem muốn cặp với thiếu nữ loại nào, cao bao nhiêu, tóc vàng hay tóc đen….rồi gửi danh sách ra ngoài thành phố, để tuyển người tình nguyện cặp bồ trong một đêm thôi, vì sau Party chấm dứt, các SVSQ có quyền dẫn bồ ra khách sạn hoặc đi đâu đó tùy ý, sáng mai trở lại trường, phờ phạc!

Khi được ngỏ ý, chúng tôi từ chối liền vì nghĩ rằng “chắc toàn là gái gọi, lây bệnh chết ngắc!” Biết được nhóm An-nam-mít này từ chối, Ông Đại Úy Đại Đội Trưởng mời chúng tôi lên và hỏi ý xem có thích “cặp bồ” với người Mỹ không? Nếu không, thì ông sẽ gửi thư mời các nữ quân nhân, trợ tá.. Việt Nam đang thụ huấn tại các quân trường khác đến chơi…Trong khi anh em còn đang phân vân, tôi nói lời cám ơn với ông, và từ chối vì phong tục Việt Nam chúng tôi không cho phép làm như vậy.. (Bây giờ, nhớ lại thấy.. tiếc hùi hụi! Được đi chơi đêm với một thiếu nữ cùng quê hương là một giấc mơ tuyệt vời, vậy mà từ chối! Trời ạ!)

Sự thật chứng tỏ chúng tôi đúng là con “cù lần” mà là “cù lần lửa”! Buổi tối đó, các xe nhà binh rần rần chở các em đẹp ngây ngất bước xuống, mỗi người mang một bảng tên của SVSQ chọn mình lên áo. Các em 18, đôi mươi, già nhất chưa tới 30, thân thể no tròn, mắt long lanh, môi tươi hơn hoa hồng, và đều là sinh viên, công chức, tư chức….nhưng là dân chịu chơi, mê sĩ quan.

Các cô nháo nhác tìm tên của người chọn mình, rồi tiến lại ôm nhau như đã từng quen từ kiếp trước. Trong khi các SVSQ Mỹ tán hươu tán vượn, nhẩy đầm tưng bừng, thì nhóm Việt chúng tôi đứng nhìn, thèm chẩy nước miếng. nhất là sau khi party tàn, “chúng nó” kéo nhau ra khách sạn đã đặt phòng sẵn, 18 thằng chúng tôi nằm dài trên giường, nhắm mắt, tưởng tượng, buồn và giận mình ngu cho đến hết đêm…

Sau đêm đó, cứ cuối tuần, chúng tôi oai phong đi dạo phố. Theo luật, hễ đàn em mà gặp đàn anh ngoài phố thì không phải xin phép để đi qua như trong trường, nhưng phải nép mình sang một bên đường, và giơ tay chào. Nếu đàn em đi với gia đình, hay với đào, thì phải bảo người đi theo xếp hàng một sau lưng tên đàn em, khi đi ngang đàn anh, đàn em phải giơ tay chào và nói, “Good Morning, Sir!” Hôm đó, tôi đang đi lơn tơn, thấy một tên đàn em Mỹ trắng bóc, to kềnh, đi với bố mẹ và em gái. Hắn nhìn thấy tôi rồi tảng lờ quay đi. Tôi hùng hổ tiến lại, quát to,

“Ê, Sinh Viên kia! Đứng lại. Cấm cử động!” (Hey! Candidate! Stop right there! Don’t move!.” Tên kia lúng búng quay lại. Tôi tiến sát hắn, mặt tôi gần mặt hắn đến chỉ còn 1 inch nữa là đầu mũi tôi chạm vào đầu mũi nhọn hoắt của hắn, và gầm lên,

“Mày coi thường tao phải không? Mày thấy tao là dân Á Châu, mày kỳ thị hả? Sao mày không chào tao?”

Tên kia sợ quá, lắp bắp, “Không! thưa Ngài! Không! thưa Ngài! Tôi.. tôi…” (No, Sir! Sir! I.. I… don’t.. I.. .I…)

“Bây giờ mày có muốn bơm 50 cái hít đất trước mặt bố mẹ mày không? Thằng ngu kia?”

Tên đàn em vội trả lời, “Thưa Ngài, chào, chào!” rồi quay lại với gia đình, ra hiệu cho 3 người kia đang trố mắt ra nhìn thằng con bị hành, đứng thành hàng một sau lưng hắn, rồi nghiêm phắt lại, giơ tay chào tôi, và nói lớn,

“Good morning, Sir!”

Tôi gật gù, nói nhỏ giọng,

“Hôm này mày may mắn đó, tao tha tào, không bắt mày làm 50 cái bơm trước mặt bố mẹ mày đó! Mày có cám ơn tao không?”

Hắn vội vã, nói to, “Dạ, thưa Ngài, xin cám ơn Ngài. Chúc ngài mọi chuyện tốt đẹp!” (Yes, Sir! Thank you, Sir. Wish you the best!) rồi đi ngay, người thẳng băng, không dám quay lại. Tôi khoái chí, cười tủm một mình.

Với chính sách “đàn anh đì đàn em” thả giàn, làm cho những hình phạt hành hạ nhục nhã mất nhân phẩm như vậy mỗi ngày mỗi tăng, vì lớp này bị đì 9 phần, thì khi làm Huynh trưởng, lại tìm cách trả thù thêm thành 10 phần. Như cá nhân tôi, sau 12 tuần làm đàn em, thì đến tuần thứ 13 làm đàn anh, và kiếm cách hành thằng mới tới.

Hôm đó, ngày thứ Hai, theo tục lệ, mà tất cả những SVSQ vào trường đều phải gọi là “Blue Monday”, nghĩa là “Ngày Thứ Hai Buồn”, chúng tôi là đại đội đàn anh, hẹn nhau đúng 3 giờ sáng, lặng lẽ thức dậy, mặc quân phục chỉnh tề, lặng lẽ bước sang đại đội đàn em đang say ngủ, cứ một huynh trưởng đứng trước một phòng. Đúng 4 giờ sáng, đột nhiên chúng tôi lấy cả bàn tay đập cửa rầm rầm, hò hét vang trời,

“Dậy! Dậy! Đồ đầu lừa! Dậy mau!”

Đàn em đang ngủ say, giật mình dậy để thấy Thiên lôi, Hà bá đứng trợn mắt nhìn, thì hoảng hốt vùng lên. Tôi quát lớn,

“Thằng khốn này! Mày cởi quần áo ra mau! Tao không muốn thấy mày mặc quần áo!”

Tên kia lập cập tụt quần đùi, cởi may ô đứng tồng ngồng nhìn tôi, sợ hãi. Tôi quát,

‘Mày lấy kem đánh răng ra đây! Bóp hết hộp kem này lên người mày! Bôi vào.. chỗ kín kia thật nhiều! Mau! Mau!”

Đàn em cuống quít làm theo. Thấy người hắn đầy bọt trắng xóa, tôi đuổi ra ngoài,

“Mày dơ dáy quá! Đi tắm!”

Rồi tôi bắt hắn bò giữa hai chân tôi đến phòng tắm. Tới nơi, tôi mở vòi nước lạnh xịt lên người hắn. Tên kia rú lên,

‘Thưa Ngài, lạnh quá! Lạnh quá!”

Tôi gằn giọng,

“Lạnh hả! để tao đổi nước nóng!”

Tôi bắt hắn nằm chống tay xuống sàn tồng ngồng như con heo bị cạo lông, rồi xả ngay vòi nước nóng vào lưng. Tên kia gào lên,

“Ngài ơi! Nóng quá! Cháy! Cháy !”

Tôi lại tắt nước nóng, mở nước lạnh, làm mấy lần thì tên kia vật ra, thở hổn hển. Tôi ra lệnh cho hắn về phòng. Đứng trước giường, tôi quát,

“Mày leo lên đây nằm, mà tao không muốn nhìn thấy mặt mày trên giường, mày làm sao thì làm!”

Tên kia suy nghĩ, rồi vội vàng lật tấm nệm lên, chui vào nằm trên.. mớ lò xo, rồi đậy nệm lên, che người đi. Đứng từ xa, tôi hô lệnh, “Đằng sau, quay!” Tên đàn em lập cập xoay người dưới tấm nệm, bị lò xo nghiến thịt, đau quá, khóc òa lên. Thấy mình quá trớn, tôi cho hắn đứng dậy, ra ngoài hành lang, rồi bắt thêm 5 tên nữa, là 6 tên, ra lệnh cho cả 6 đàn em trần truồng hết, lôi cái hòm gỗ ra, xếp hai bên hành lang, mỗi bên 3 cái, cho 2 tên đàn em leo lên đứng, làm bộ đám cưới, bắt 2 cô dâu chú rể mặc đồ Adam, Eva kia cặp tay nhau đi đi lại lại, còn 4 mạng kia thì hát bài Wedding, “You by my side….” Tôi hành đàn em cho đến gần sáng thì mới tha Tào.

Thật ra những trò chơi ác này vô hại, trong khi bạn tôi, hồi mới vào, bị ngày “Blue Monday” này hành hạ đến bệnh nặng. Mấy tay huynh trưởng bắt cả nhóm SVSQ đàn em, trong đó có bạn tôi, trang bị đầy đủ, ba lô, mũ sắt, chạy ra sông cạn gần đó, bắt nhẩy xuống, lúc mặt sông lạnh gần đóng băng vào giờ 30 sáng, ngoài trời lạnh khoảng 40 độ. Cả toán nhẩy ùm xuống sông, lóp ngóp như rái cá một lúc mới được cho lên, tên nào tên nấy mặt cắt không còn hột máu, trở về trại là bệnh cả đám.

Ở quân trường này mà khai bệnh lại còn khốn hơn. Cá nhân tôi, có một lần cảm lạnh, khai ốm để ở nhà, rồi cạch luôn đến khi ra trường, không dám ốm lại. Buổi sáng ấy, chờ đại đội chạy đi học rồi, thì ông Thượng Sĩ đưa cho tôi một cuốn sổ bệnh, bảo tôi chạy lên bệnh xá ở trên đỉnh đồi, cách đấy hơn 1 dặm! “Chạy! Không được đi, nghe chưa!” và tôi chạy lên đồi cao, tới nơi thì gần tắt thở, ngồi chờ cả nửa tiếng mới gặp Bác Sĩ, nghe tim chớp nháng, rồi đuổi tôi về với mấy viên thuốc cảm. Chạy trở về, tim đập như trống làng, trình lại cuốn sổ bệnh, ông Thượng Sĩ hất hàm bảo,

“Mày xuống dưới hầm, thấy một cái thùng rác to, mày khiêng lên đây cho tao!”

Tôi đi xuống hầm, gần 20 bậc thang, nhìn thấy một cái thùng rác xanh đầy ắp, to cao y như thùng rác hiện tại của mỗi gia đình Mỹ, đột nhiên lạnh cả người. Nhưng biết làm sao, phải ôm lấy nó rồi vần dần dần từng bậc lên, hết 20 bậc thì lăn ra nằm thẳng cẳng. Một lúc mới tỉnh dậy, ráng ngồi lên, vần cái thùng rác đó ra chỗ chờ xe đổ rác (thùng rác không có bánh xe).

Không thấy xe rác đâu, tôi để thùng rác đó, lết tới văn phòng ông Thượng sĩ, ông ta nói, “Không có xe rác à! Không được để đó, sĩ quan đi tuần thấy, phạt. Mày phải vần nó trở lại dưới hầm!” Tôi chết lặng người, chân nhũn ra, nhưng vì không có lựa chọn, đành lê lết lại cái thùng rác khốn nạn kia, vừa ôm nó lăn đi, vừa chửi thề, “F. you! F. you!” vừa khóc lặng lẽ.

Lăn cái thùng rác vào chỗ cũ xong, thì chính mình cũng lăn quay. Tôi nằm thở hồng hộc một khoảng thời gian, thì thấy nhẹ người, mồ hôi toát ra đầy mình, ướt hết cả quần trong, quần ngoài. Đứng dậy về phòng, thay quần áo xong, chẳng cần uống thuốc mà hết cảm! Lúc đó mới biết đó là phương pháp giải cảm tuyệt vời của quân trường. Nhưng chỉ tốt với ai không bị bệnh tim mà thôi. Tên nào yếu tim mà theo học ở đây, thì chỉ có chết!

4. Tập thể lực

Chúng tôi nhỏ con hơn mấy tên Mỹ, có một bạn tôi, cao chỉ đến nách một tên Mỹ thôi, nhưng cũng ráng theo cho kịp, kẻo bị làm nhục. Ngoài việc hít đất từ 50 cái trở lên đên100 cái, tập đu và hít trên xà ngang 20 cái trở lên, việc tập thể lực trước hết là chạy, chạy lên thang gác, chạy xuống lầu, chạy đi cầu, chạy đi học, chạy đi ăn…không bao giờ đi bộ, chạy riết rồi hai cái đầu gối muốn long ra. Sáng, trời Fort Benning lạnh cắt ruột, mà phải ở trần, vác những cây gỗ dầu dài khoảng 5, 6 mét, đường kính cả 30 cm, vác lên vai, để xuống đất cả chục lần.

Leo thang dây theo tiếng còi, nhẩy qua các thanh gỗ ngang cao hơn một mét (lần đầu tôi nhẩy không qua,  cái chỗ “ấy” bị đập vào thanh gỗ, đau thấu trời xanh, té xuống, nằm thẳng cẳng. Tên nào lùn, nhẩy không qua thì phải chui theo tiếng chửi!), tập leo tường, đu dây tử thần từ đỉnh núi nọ qua đỉnh núi kia, dây kinh dị, tập leo núi, tuột núi, chạy qua đống vỏ xe (mỗi chân thọc vào một cái lỗ vỏ xe cồng kềnh). Tập cận chiến, tập đánh nhau bằng gậy.

Lần đánh nhau bằng gậy này cho tôi nhiều kỷ niệm. Không hiểu sao, một tên người Puerto Rico, (tên chạy nhanh kỷ lục, chỉ có 6 phút một dặm, trong khi tôi cần 10 phút, các bạn Mỹ khác từ 9 đến 12 phút.) lại gây với tôi. Hắn nói, “Tao chán cái dân tộc Việt Nam của mày. Tao không muốn chết ở Việt Nam!” thế là tôi nổi điên, lôi nó vào chỗ tập, thách nó đấu gậy với tôi, vì nghĩ rằng thằng này dám khinh dân tộc mình. Ai dè, hắn nhanh như sóc. Tôi vừa mới thủ gậy, chưa kịp vung lên, là hắn đã quất tôi một cái nháng lửa vào đầu. Tôi xiểng liểng, nhưng cố phóng tới chọc gậy vào bụng hắn. Lần này hắn dọng tôi một cú vào mồm, làm dập miệng và lợi, máu miệng bắt đầu phun ra. Tôi hung lên, quất túi bụi, trái phải, trên dưới như thằng điên, mà quên rằng nếu hắn đã là vô địch chạy nhanh, thì cái gì cũng nhanh. Hắn chỉ trúng đòn vài chỗ không quan trọng, còn tôi thì máu me tung tóe, máu mắt, máu tai, máu mồm chẩy đầy ngực. Thấy tôi chẩy máu quá nhiều, tên này đâm sợ, nó ngưng gậy và nói, “thôi, tao không đấu với mày nữa!” nhưng lúc ấy, tự ái dân tộc nổi lên, tôi cứ gào lên và xông vào,

“F. you! Tao đánh mày đến chết thôi, ai bảo mày dám khinh dân Việt tao!”

Nhưng mỗi lần nhào vô, là người tôi lại bị hắn quất bung lên như trái banh trong Baseball vậy! Trái  banh hơn 100 lbs tôi bắn ra cả thước! Người tôi nhễu nhão, máu me nhưng cứ cố gượng đứng dậy, xông vào nữa, miệng lảm nhảm, “F. you! I ….kill… you…” Thấy tôi lì quá, tên Puerto Rico kia đâm sợ, hắn quỳ xuống, chắp tay lạy tôi mấy vái, “Tao lạy mày rồi! Mày dữ như cọp ấy!”

Lúc đó, tôi mới buông gậy ra và ngồi phịch xuống cho bạn bè kéo lê đi tắm… Sau trận này, mấy tay Mỹ kia đặt tên tôi là “Tiến Cọp!” và bảo nhau, “Đừng đụng đến thằng Tiến Cọp. Nó điên rồi!” (Don’t touch Tien Tiger! He’s crazy!)

Thú thật, vì là du đãng, dù là du đãng vặt, tôi rất lì. Một buổi sáng, đang sắp hàng chuẩn bị đi học, không hiểu sao, tay Thiếu Úy Trung Đội Trưởng Trung đội 6, (tôi thuộc Trung Đội 5) đi ngang qua tôi và bật lên câu nói, “Tao chán mấy cái thằng Việt Nam chúng mày!” (I’m tired of your Vietnamese!)

Rồi quát lớn, “Nằm xuống, chống tay vào thế, bơm 50 cái!” Tôi hận quá, nằm xuống vừa hít đất vừà chửi thề nho nhỏ,

“One, Sir! Fuck you, sir! Two, Sir, Fuck you, Sir….”

Cứ thế mà tôi làm cả 100 cái rồi hết pin, nhưng vẫn chống tay vào thế. Lúc đó, đại đội bắt đầu đi học, Tay Thiếu Úy kia kêu tôi “đứng dậy! đi học!”, tôi tỉnh bơ, cứ chống tay, thỉnh thoảng hít một cái, “One hun…dred… and… five… sir!” Tên kia gọi mấy lần, tôi cũng không đứng dậy, mặc cho cả đại đội kéo đi rồi. Ông Đại Đội Trưởng nghe báo cáo, vội chạy ra, ngồi xổm xuống, hỏi tôi,

“Sao anh không đi học!”

Tôi gầm gừ,

“Thưa Ngài, ông Thiếu Uy kia nhục mạ dân tôi, tôi sẽ hít đất đến khi nào chết thì thôi.”

Ông ĐĐT nghe nói đến chữ “chết” thì lo quá, hỏi,

“Thế… thế .. anh muốn gì thì mới đứng dậy, đi học?”

“Tôi.. tôi.. muốn ổng xin lỗi dân tộc tôi…”

Ông ĐĐT đứng dậy, quát anh Thiếu Úy kia,

“Nghe rõ chưa? Làm được không?”

Tay Thiếu Úy bị Đại Úy la, đành phải ngồi xổm xuống, cạnh tôi, nói thật to,

“Tao xin lỗi mày, thằng Việt Nam kia!” (I’m sorry, Vietnam!) xong rồi bỏ giọng, chửi tôi thật nhỏ, “Fuck you!”

Tôi thấy chơi tới đây cũng đã đủ rồi, bèn run rẩy đứng dậy, chào ông ĐĐT rồi liểng xiếng lê thân đi học, nhưng không chạy. Ông ĐĐT thấy tôi đi bộ, cũng chẳng nói gì, mà bỏ vào trong. Tên Thiếu Úy chạy ngang tôi, quay lại chửi thêm lần nữa, “Fuck you!”

Tôi nhe răng cười.

Cùng với các môn cận chiến, chúng tôi tập bò trên bùn, dưới đạn đại liên, đạn thật, bắn xéo xéo trên đầu, tên nào ngóc đầu lên một chút là vỡ sọ ngay, nhưng không cái nào ghê bằng bò trong ống cống bằng thép! Cái ống cống để giữa trời, dài hàng mấy trăm mét, đứng ở đầu này nhìn đầu kia nhỏ như hòn bi, chỉ vừa đủ một người chui vào với súng, đạn, ba lô. Vừa chui vào, nhìn thấy lỗ ra hun hút bên kia, đã thấy sợ, nhưng không ớn bằng những tiếng hò la bên ngoài, và những cục gạch, đá ném tới tấp vào ống cống.

Trong khoảng không gian nhỏ xíu đó, tiếng đá, gạch đập vào thành sắt còn to hơn tiếng bom, người bò sợ hãi ráng bò thật nhanh, nhưng không thể được vì vướng cây súng ngang tay, lại không thể bò lùi, chỉ biết nhắm mắt mà lê lết cho đến khi chui ra khỏi cống thì như người chết rồi, lỗ tai lùng bùng, tim đập mạnh, đầu óc hoảng hốt gần như phát điên, bạn bè chờ sẵn lôi xềnh xệch ra vòi nước lạnh…

Thật ra, những cái tập thể lực này chả thấm gì với đòn tâm lý. Hôm đó, sau khi ăn cơm chiều, đột nhiên có lệnh là tối nay không được ngủ, chỉ đứng và chỉ đứng bằng 2 chân bằng nhau, cấm đứng 1 chân (1 chân thẳng, 1 chân cong), không được dựa vào bất cứ điểm tựa nào, nghĩa là lưng không dựa tường, bụng không tựa vào bàn, ghế, cầu tiêu… Trường thông cảm cho các SVSQ là được uống 1 ly cà phê đen, không đường, và chỉ 1 ly thôi. Đêm hôm đó là đêm kinh hoàng nhất trong đời, ban ngày tập như điên, cơ thể rã rời mà tối không được ngủ và không được nói chuyện! Đến nửa đêm, nhìn trong mắt nhau, đều thấy chung một điều, Chết, sướng hơn!

Mặt trời lên, tưởng bở là được nghỉ, ai dè lại nghe tiếng còi tập họp, không ăn sáng, chạy ra bãi, vác gỗ lên xuống như tập tạ! One, Sir! Two, Sir! Three, Sir!… Lúc đó, chỉ là cái xác không hồn! Mãi cho đến 11 giờ, nghe lệnh chạy đi ăn cơm, thì ôi thôi, y như lên Thiên Đàng, xơi luôn 2 hộp sữa tươi, 2 quả chuối, 2 trái táo, và một miếng thịt to đùng!

Tuần thứ 11 là tuần lễ ghê nhất, chạy 12 dặm (18 cây số) với đầy đủ súng đạn, balô, xẻng, mùng, lều bạt, cân nặng đúng 30 lbs. Chạy dặm đầu tiên thì còn đếm nhịp, One, two, three, four.. nhưng đến dặm thứ hai thì câm hết. Dặm thứ 3 là hổn hển. Thứ Tư thì phì phò như trâu thở. Thứ 5, thứ 6 thì vừa chạy vừa đi.. đến dặm thứ 10 thì ngã dúi dụi trên đường, súng một nơi, người một nẻo, 2 dặm cuối thì bò như chó bị thương…bò một lúc lại nghỉ, thở, rồi bò tiếp để khỏi bị chửi. Mấy sĩ quan ngồi xe díp đi theo sát bên,  hò hét, “Thằng ngu kia! Chạy đi! Đồ đầu trâu, đít chó! Mày có là người không? là người thì phải chạy… Đồ con lừa!”

Có mấy mạng chạy không nổi, giơ tay xin đầu hàng, thì được đứng dậy, và treo vào cổ cái tấm biển đề chữ, “Tôi là thằng hèn nhát!” (I am a coward!) rồi được thất thểu đi bộ, nhục nhã… Còn tôi, nghiến răng bò bằng hai bàn tay, và hai đầu gối, mãi đến chiều thì cũng tới địa điểm tập họp là một khu rừng hoang. Tại trung tâm, các sĩ quan cán bộ ngồi quanh một cái bàn gỗ dài, chia nhiệm vụ cho từng trung đội, kéo dài theo hình ngôi sao 6 cánh. Mỗi trung đội kéo dài thành một đường từ trung tâm tỏa ra. Trung Đội Trưởng chia vị trí cắm lều, mỗi lều 2 người và phải đào 2 cái hố cá nhân và có rãnh thoát nước mưa.

Tại đây, tôi lại phạm một lỗi lầm quan trọng có thể bị đưa ra tòa án quân sự, cố tình giết người! Tôi được chia ra cắm lều ở điểm cuối cùng của cánh sao, nghĩa là từ chỗ tôi tới trung tâm là phải qua 19 cái lều khác, và lều của tôi lại chỉ có một người, thằng bạn được chỉ định cùng lều với tôi, khi chạy đã gẫy xương ống quyển, phải chở vào bệnh viện, nên chỉ mình tôi dựng lều, đào rãnh, đào hố!

Chuyện bắt đầu từ tên SVSQ Trung đội Trưởng, thằng to con nhất trung đội. Nó kỳ thị tôi, nên đứng ngay tại trung tâm điểm, gào to, “Tiến! Mày đi chặt cây làm củi đốt lửa cho trại!” Tôi đang đào hố, chống cuốc lại và gào đáp, “Lều tao chỉ có một người. Thằng bạn lều tao đi bệnh viện rồi. Mày kêu thằng khác đi!” Nó không nghe, ngoắc ngoắc ngón tay, “Tao ra lệnh, mày phải nghe!” Tôi gào lớn, (cũng vì gào to mà tôi thoát tội!), “Mày kêu thằng nào ở gần đó đi, lều nào có 2 người đó. Tao chỉ có một mình, mà phải dựng lều theo lệnh Sĩ Quan, không theo lệnh mày được!”

Tên khốn kia không thèm nghe lý luận của tôi, cứ ngoắc ngoắc, “Mày phải lại đây! Ngay bây giờ! Tao không cần biết mày 2 người hay một người. Tao bảo mày phải tuân theo! Mày phải lại đây ngay! ” (Come here! Now! I don’t care two or one man! I told you do something, you do that! Come here!) Bất ngờ, tôi lại nổi cơn điên, gào lại, “O.K! I come!” rồi cầm cái xẻng hầm hầm tiến lại. Vừa tới chỗ hắn đứng, tôi vung xẻng lên chém vào cổ hắn liền, nghe cái “bụp!”

Mấy tay Quân Cảnh đang đứng theo dõi cuộc cãi lộn, vội nhẩy vào, đè tôi bẹp xuống đất, rồi lấy còng số 8 ra còng tay tôi liền. Nhưng mấy ông Sĩ Quan đã theo dõi từ đầu, biết là thằng kia quá trớn, nên ra lệnh cho Quân Cảnh thả tôi ra, cũng vì tên kỳ thị kia không việc gì, Hắn mặc áo lạnh quân đội, cổ áo có bông dầy cui, nên chiếc xẻng của tôi không làm hắn rớt đầu chỉ làm hắn ngã ngửa! Từ sự việc này, toàn thể đại đội nhìn tôi như thằng điên, không ai dám kỳ thị tôi nữa.

…………………………………

Tranh Chu Tất Tiến vẽ trên tường, ngay trước cửa phòng SVSQ. 

5. Học tập

Trường O.C.S là quân trường lớn thứ hai trên toàn nước Mỹ, sau West Point nhưng lại là quân trường đổ mồ hôi nhiều hơn West Point. So sánh một cách đơn giản, West Point là trường dành cho giai cấp quý phái, còn O.C.S Fort Benning là trường dành cho giới bình dân, nông dân. Tuy SVSQ tại 2 quân trường đều tốt nghiệp Thiếu Úy, nhưng tại West Point, SVSQ được học những môn sang trọng, xã giao cao cấp, lãnh đạo chỉ huy và các chuyên viên trong mọi ngành quân sự của Mỹ trong 4 năm, trong khi O.C.S chỉ học gấp rút trong 6 tháng để rồi quăng vào Việt Nam, đánh nhau chết bỏ.

Điều khác nhau nữa là trường West Point là trường gồm các thanh niên tình nguyện, trong khi O.C.S. gồm các thanh niên bị gọi động viên và một số tình nguyện, vì thế mà trình độ học lực của các SVSQ O.C.S khác nhau xa, có thể chưa qua Trung Học, và cũng có thể là Cử Nhân, Kỹ Sư, Giáo Sư.

Tại Fort Benning, SVSQ được học đủ thứ vũ khí, trang cụ hạng nặng nhưng học gấp rút. Tôi được học lái xe tăng, lái xe lội nước, tập đeo ba lô súng đạn rồi nhẩy không dù từ trực thăng xuống đất, học bắn đủ loại đại bác, từ 105 ly đến 155 ly, được xem biểu diễn bắn 175 ly mà một viên đạn cần đến 6 người khiêng, cùng các loại vũ khí tối tân.

Chúng tôi bắn đại liên M.60 như cao bồi, nghĩa là đứng thẳng, tỳ báng súng trên đùi, rồi bóp cò. Sức giật của đại liên làm mấy thằng nhỏ con Việt Nam té bật ngửa, đạn bay lên trời.. Với súng đại liên 50 thì phải đứng dưới hố mới bắn được, vì sức giật của nó làm cho người khỏe đến đâu cũng té ngửa.

Sau này, khi cuộc chiến Việt Nam tàn, suy nghĩ lại về vũ khí và cách huấn luyện, tôi mới thấy rằng NGƯỜI MỸ KHÔNG BAO GIỜ MUỐN THẮNG TẠI VIẾT NAM, mặc dù bề ngoài thì muốn thắng ở Việt Nam, vì trên bức tường nào cũng có hàng chữ khổng lồ “WIN IN VIETNAM”, và trên cặp sách đi học cũng có hàng chữ ấy. Trên đường chạy đến lớp học, chúng tôi hát những bài quân hành đều nói về chiến tranh Việt Nam, “Vietnam á a à a. Vietnam á a à à. Anh đi đâu thế? Tôi đến Việt Nam! Đến Việt Nam hả! coi chừng du kích. Khi anh ngủ, chúng nó bò vào, cắt cái đầu anh!” (Where are you going? I come to Vietnam. Be careful, when you sleep, VC come and chop your head… á a à a…)

Các bài khác nói về muỗi, mòng và cạm bẫy của du kích. Những bài hát ấy làm cho SVSQ Mỹ ớn lạnh. Bên cạnh đó, có những bài học về Du Kích Chiến (Guerilla Warfare) được giảng rất cẩn thận. Về thực tập, Quân trường đã làm sẵn những làng y hệt ở Việt Nam, cũng mái tranh, cũng tre vây quanh, cho Mỹ đóng giả du kích mặc áo nâu, đội nón lá. SVSQ Mỹ phải hành quân y như thật, kẻo bị VC (giả) bắt được thì nhừ đòn. Một anh bị VC bắt, bị đè xuống đất, tay chân bị cột vào cọc, mấy thằng VC tiểu vào mồm! Một anh bị trói úp vào cây, cho kiến cắn. Anh bạn Việt Nam của tôi, ngủ gật khi đang gác, bị chúng lôi đi xa, rồi cột hai tay vào thành trên của xe cam nhông, phóng đi trong rừng, tung lên tung xuống, người rã ra.

Sau đó, chúng thả anh về, nhưng lấy mất giây giầy, và nước uống, buộc anh phải lê lết trong rừng gai cả nửa ngày mới về. Còn tôi, một lần nhận nhiệm vụ làm liên lạc viên, theo địa bàn, đi xuyên rừng tre chằng chịt, mới đầu thì còn thưa, càng về sau càng kẹt, vì tre dầy đến nỗi tôi bị kẹp cứng giữa ba, bốn thân tre, không xoay sở được, hết hồn hết vía! Phen này chết đói, chết lạnh và chết vì kiến càng cắn! Kiến ở đây khổng lồ, chích một phát là nhẩy dựng lên, la trời. Đứng một lúc lâu cho hết sợ, rồi mới từ từ rút cây mã tấu đeo bên hông ra, cưa chầm chậm cả tiếng đồng hồ cho một thân tre gẫy xuống rồi mới cử động được cánh tay, rồi vung mã tấu chặt bừa, kiếm được lối mòn ra đường cái.

Trở lại về vấn đề vũ khí chứng tỏ là người Mỹ không muốn thắng ở Việt Nam mà chỉ muốn xài lính Cộng Hòa như những vật thí nghiệm. Năm 1968, chúng tôi đã bắn M.16 muốn gẫy cả tay. Một ngày tập trận phải mang theo trong ba lô 600 viên đạn mã tử, và phải bắn cho hết. Vì ba lô chứa rất nhiều thứ, nặng hơn 20 ký lô, nên tôi chỉ bắn một phần còn lại thì lén đào lỗ, chôn bớt! Vậy mà ở trận Mậu Thân, lính Việt Nam vẫn phải bắn Garant M.1, bắn phát một, đến sau khi nhiều thành phố bị Việt Cộng chiếm bằng AK 47, liên thanh của Nga, có khả năng bắn vài chục viên một phút, Mỹ mới chở sang M.16 mà chỉ cho các đơn vị trừ bị như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến thôi. Mãi sau mới hoàn toàn trang bị cho miền Nam súng M.16. Phải chi những năm 1960-1965, Việt Nam được trang bị súng trường M.14 như SVSQ Mỹ thì cuộc diện cũng có thể thay đổi. Hồi đó, vũ khí cá nhân mà tôi mang theo suốt thời gian quân trường là súng trường M.14, lúc súng không đạn thì nặng 4.1 ký lô, có lắp đạn là 10 kí lô, bắn liên thanh 20 viên, khi đặt xuống đất, kéo càng ra, là thành trung liên, lợi hại hơn AK 47 vì tầm sát hại mạnh hơn, bắn xa hơn, và chính xác hơn. M.14 cũng có thể dùng làm súng bắn xẻ vì tầm bắn xa trên 800 mét, tối đa là 1,200 mét.

Về súng cối, mỗi ngày một anh SVSQ Mỹ phải bắn 6 quả 4.2 inch khổng lồ. Loại súng cối này có thể bắn qua nóc nhà, rừng cây qua bên kia rất chính xác, và có thể để trên xe M.113 di chuyển, nhưng ở quê nhà, vẫn chỉ có súng cối 81, nhiều đơn vị vẫn phải dùng súng 60 ly là loại súng mà chúng tôi bắn chơi như cao bồi, tỳ đế lên đùi, một tay cầm nòng súng, một tay thả quả đạn vào và bóp cò.

Khi Việt Cộng tấn công các đồn bót miền Nam bằng B.40 hoặc B.41, thì đa số các đơn vị miền Nam vẫn còn dùng Bazoka, các SVSQ Thủ Đức vẫn học cách bắn Bazoka từ thế chiến thứ nhất! Sau này, Quân Đội Cộng Hòa mới có M.72 để chống lại B40, B 41. Riêng M.72 cũng có tác dụng bắn hạ các xe tăng loại nhẹ của Liên Xô, nhưng đến khi miền Bắc được tăng cường T-54 thì miền Nam khựng lại vì M.72 không xuyên thủng được lớp thép dầy của T-54, 80 mm hai bên thành xe, 30 mm trên nóc và 20 mm ở đáy.

Do đó trong các trận chiến sau này, đặc biệt là ở An Lộc, khi T-54 lùi lũi tiến vào thì các chiến sĩ miền Nam phải thay đổi cách đánh, bắn đứt xích T-54 bằng M-72 rồi xông ra, cận chiến. Các chiến sĩ anh hùng miền Nam đã phải dùng chính thân mình làm vũ khí để chống lại xe tăng hạng nặng của phe Cộng Sản quốc tế. Trong khi đó, cùng năm 1968, tôi đã được bắn hỏa tiễn XM-202 là khắc tinh của T-54! Loại hỏa tiễn để trên vai này, có 4 nòng, mỗi quả đạn 66mm, có thể xuyên thủng lớp thép 80 mm của Nga, rồi phóng thêm một quả đạn lửa vào bên trong. XM-202 cũng có thể bắn đạn chống biển người, cả hàng ngàn mũi tên thép bay ra một loạt thì một đại đội địch chỉ phút chốc là biến mất.

Nếu XM-202 mà được sử dụng ở An Lộc, Bình Long, thì không có những trân Xuân Lộc sau này. Đau lòng thay là mãi đến năm 1973, sau khi Việt Cộng đã lấn đất, giành dân nhiều nơi rồi, các SVSQ Thủ Đức mới được học loại hỏa tiễn này, và cũng không biết có bao nhiêu đơn vị miền Nam nhìn thấy loại vũ khí này trước khi thất trận!

Nhiều thứ vũ khí lợi hại vô cùng, cũng có thể dẹp tan các đợt tổng tiến công cấp Sư đoàn của Việt cộng trong vài phút, nhưng không hề được trang bị cho quân miền Nam. Trong một lần biểu diễn hỏa lực cho SVSQ coi, có nhiều loại xe tăng lạ lùng, khủng khiếp như xe tăng phun lửa, xe tăng có 4 nòng đại bác, xe tăng có 1 nòng cụt ngủn, nhưng chạy nhanh như xe hơi, xe tăng lội nước, và xe tăng bắn lựu đạn! Trong các loại xe tăng này, xe tăng bắn lựu đạn là khắc tinh kinh hoàng nhất cho các cuộc phục kích của Việt Cộng núp trong rừng cao su vì có thể phun ra 400 quả lựu đạn M.79 trong một phút như “bò đái”!

Nếu bắn đại bác, thì đạn có thể vướng cây to và nổ trên cao, không tác hại bao nhiêu, trong khi đó, chỉ cần một chiếc xe tăng này, phóng 400 quả M.79 từ trái sang phải là cả tiểu đoàn địch tiêu vong, vì lựu đạn nhỏ có thể xuyên qua rừng cây, mà tầm sát thương của một quả lựu đạn là 10 mét đường kính, thì cho dù núp dưới hố cũng bị banh xác. Vì Mỹ không muốn miền Nam thắng trận, nên không viện trợ cho loại xe tăng này.

Về đại bác, Quân Miền Nam được trang bị đại bác bắn đạn 105 ly đên155 ly là những loại đại bác hạng nặng và có tầm bắn tối đa là 14 cây số, trong khi đó, Việt cộng có những loại súng nặng bắn xa tới 22 cây số! Không cần nói đến khả năng sát thương, mà chỉ nói đến tầm bắn xa hay gần, đã thấy quân đội Cộng Hòa thua từ đầu, 8 cây số chênh lệch! Việt Cộng có thể đứng xa hơn mà nã trúng đồn của mình, trong khi mình chịu trận vì bắn không tới địch!

Sau này, để yểm trợ chiến thuật, Mỹ đã tăng cường cho vài cây đại bác khổng lồ 174 ly, bắn xa 40 cây số, nhưng điều kiện di chuyển thì không dễ vì sức nặng của chiếc xe tăng khổng lồ này sẽ làm sập tất cả các cây cầu ở các tỉnh nhỏ, cầy nát mặt đường đi chuyển của quân ta, do đó, chàng khổng lồ này chỉ đứng tại chỗ, ngó quanh mà thôi. Năm 1968, tại quân trường Mỹ có biểu diễn những chiếc xe díp chở đại bác 105 ly không giật, tuy tầm bắn ngắn, nhưng lại chạy vèo vèo trong rừng. Loại này nếu mà được cung cấp cho Việt Nam thì cả sư đoàn xe tăng Cộng Sản phải tan xác.

Đó là nói sơ về vũ khí, còn về chiến thuật cũng là một điểm báo trước ngày tử nạn của Việt Nam Cộng Hòa. Các Sĩ Quan Mỹ không được học về tình hình xã hội, lịch sử, văn hóa và dân tộc Việt Nam, nhất định sẽ gây ra những va chạm bất lợi cho người Mỹ cũng như Việt Nam. Thực tế đã xẩy ra như vậy. Khi nổ ra vụ Mỹ Lai, tôi đọc báo Times và thấy hình ảnh đàn bà, con trẻ nằm la liệt chồng chất lên nhau, hình ảnh những người lính Mỹ thản nhiên quăng mẹt lửa lên mái nhà, hình ảnh một đứa trẻ lúc trước còn chạy, lúc sau thì gục bên hào, tình đồng bào trong tôi làm tôi phẫn nộ, tôi ngồi khóc lặng lẽ cả buổi tối.

Để giải độc dư luận, giúp cho các SVSQ Mỹ dịu bớt căng thẳng, một buổi sinh hoạt đặc biệt được tổ chức gấp tại đại giảng đường với cả ngàn SVSQ tham dự. Khoảng 3 vị Tướng, Tá trên ngực đầy huy chương nói chuyện linh tinh, trên trời dưới đất. Nghe họ nói những diễn tiến có lợi cho viên Thiếu Úy Calley, người ra lệnh tàn sát làng Mỹ Lai, tôi nổi nóng giơ tay, xin phát biểu,

“Thưa quý ngài, tôi là SVSQ Tien xin có một câu hỏi.”

Một ông Tướng gật đầu, “Muốn hỏi gì, nói đi!”

Tôi nói, “Thưa quý Ngài, tôi có thắc mắc. Khi quý Ngài hành quân đến một khu làng mới, để tránh cho trường hợp Mỹ Lai tái diễn, các Ngài có phương pháp nào để phân biệt ai là Việt cộng, ai là dân thường không?”

Một ông Tướng trả lời, “Dễ lắm! Tôi chỉ việc kêu một người nào trong làng đó, đánh trống, và kêu gọi tất cả ra trình diện. Ai không chịu ra, người đó là VC”.

Tôi phản bác ngay, “Thưa Ngài, phương pháp này hoàn toàn bất lợi. Người già làng Việt Nam rất cổ hủ và rất tự ái, khi nghe một người lính Mỹ vào buộc ra mít tinh, thì họ nhất định không ra. Nếu Ngài ra lệnh bắt hoặc bắn mấy người không ra họp này, Ngài đã tạo cơ hội cho Việt Cộng lấy thêm lính.

Một ông Tướng thứ hai nói, “Theo tôi, thì tôi cho người đi xét thẻ căn cước. Ai không có căn cước thì là du kích.”

“Điều này càng sai hơn. Tại các làng xã xa thành phố, nhiều người không thích làm căn cước, hoặc lẩm cẩm cất đâu đó rồi quên, hoặc đánh mất mà không chịu đi khai. Trong khi bọn VC lại có thể đút lót để mua một căn cước giả rất dễ dàng.”

Một vị khác góp ý, “Ta có thể mua chuộc, gạ gẫm, hứa cho tiền thưởng một người nào đó để họ chỉ cho những kẻ nằm vùng?”

Tôi càng phản đối mạnh hơn, “Việc này càng nguy hiểm, vì kẻ bị mua chuộc có thể có tư thù cá nhân với ai đó, mà tố cáo bậy, thì chết người vô tội. Ngoài ra, cũng ít có kẻ dám làm vậy, vì nếu tố cáo VC ban ngày, là ban đêm sẽ bị VC vào cắt cổ cắm vào cọc đầu làng. Như vậy, thưa quý Ngài, việc thảm sát Mỹ Lai xẩy ra là vì quý Ngài không ai biết phong tục, văn hóa của người Việt.”

Nói xong, tôi ngồi xuống, người toát mồ hôi vì giận Mỹ mà thương người Việt mà không ngờ tôi bị ghi sổ đen. Cùng với các hành động chống đối khi trước của tôi, ông Thiếu Úy Cán bộ Trung đội Trưởng, gốc Ý, gọi tôi lên văn phòng và cho tôi biết là hồ sơ tôi đã bị ghi là “chống Mỹ” (Anti-American), nhưng ông chỉ nói cho tôi biết vậy thôi, và khuyên tôi nên cẩn thận, kẻo bị bắt hay bị tống về nước với cái lon Trung Sỹ. Ông nói nhỏ nhẹ vì ông đã mắc nợ tôi.

Trong lần Party lên huynh trưởng, tôi có chụp hình ông đứng với vợ, tấm hình nhỏ xíu thôi, và khuôn mặt của bà trong tấm hình chỉ chừng đầu ngón tay trỏ, nhưng tôi ngẫu hứng vẽ phóng ra, bằng Arcrylic, thành môt bức tranh khổ 15 x 30”, rồi lẳng lặng đem treo vào phòng làm việc của ông, một buổi tối. Sáng hôm sau, ông vào phòng làm việc, thấy bức tranh vợ, ngạc nhiên quá, đi hỏi mãi, biết tôi là tác giả, ông mời lên, cám ơn tôi rối rít.

Thật ra, tôi phát triển nghề vẽ của tôi trong khi học là vì.. tôi mệt quá với các công việc tạp dịch, lau cầu tiêu, chùi hành lang, lau phòng Cán bộ, làm vệ sinh chung quanh trại…nên nghĩ ra cách trao đổi công tác. Một hôm, tôi lên trình bầy với ông Đại Úy Đại Đội Trưởng là tôi muốn trang trí các bức tường trong Câu Lạc bộ SVSQ còn trống trải quá. Ông kia khoái quá, rút ngay tiền ra đưa cho tôi để mua đồ, nhưng tôi từ chối, vì .. sợ ! Sợ làm ông tốn kém mà vẽ không được thì bị đì chết tươi. Tôi bỏ tiền túi ra đi mua sơn dầu, Arcrylic, cọ vẽ.. rồi cứ ăn cơm chiều xong, là vác cái thang ra, gác vào bức tường ngay cửa ra vào và phác thảo môt bức tranh anh hùng David Crocket của Mỹ, anh chàng đứng tì tay lên mũi súng để dựng ngang chân, trông bất cần đời.

Mấy ngày đầu, tôi lo lắng vô cùng, vì đó là lần đầu tôi vẽ bằng cọ sơn! Tôi từng học vẽ nhiều năm khi còn trẻ, nhưng toàn là bằng Phấn Pastel, chưa bao giờ học pha mầu sơn, hay vẽ bằng cọ và lại vẽ thẳng trên tường! Liều mạng vẽ mấy ngày, chỉ một cái đầu thôi, mà không ra con giáp nào, mầu nọ chửi cha mầu kia, bị chúng chê bai, chửi quá chừng! Tôi sợ quá, nên đành bỏ ngủ, thức cả đêm để vẽ, mắt nhòe ra, nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ nhân ảnh.

Nhưng Trời thương, chỉ 5 đêm sau, là tôi biết cách pha mầu và cứ thế là phóng tay vẽ như điên. Bức tranh cao 3 thước, rộng 1 thước trấn ngay cửa ra vào, được hoan hô nhiệt liệt. Tới luôn đi, bác tài! Tôi cao hứng vẽ thêm môt bức tranh nữa trên bức tường đối diện, cũng ở trên cao, cách mặt đất 3 mét, một bức tranh đám cưới cổ Việt Nam, ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau. Lính khiêng heo, lính khiêng trầu, cau, lính che lọng, bề ngang 3 mét, bề cao 1 mét rưỡi (1). Ông Đại Đội Trưởng khoái quá, miễn tạp dịch cho tôi đến hết khóa.

Chưa hết, tôi đề nghị với ổng là tôi sẽ vẽ hình đầu cọp, báo, sư tử trên gỗ và cho treo trên khắp các tầng lầu, thể hiện tinh thần của từng trung đội, Trung đội 1 là đầu cọp, trung đội 2 mang đầu báo, trung đội 3 là đầu gấu, 4,5,6… mỗi trung đội một hình tượng. Ổng Ok liền và ra lệnh cho bên hành chánh đi ra phố, tìm tiệm gỗ, cưa gỗ theo đúng hình vẽ của tôi, rồi về cho tôi vẽ và treo lên trước cửa từng trung đội. Riêng trước cửa phòng tôi, tôi vẽ một con cọp khổng lồ đang đi xuống thang gác (2, hình đính kèm).

Rồi cũng ổng, năn nỉ tôi vẽ một bức tranh cho buổi Party khác, tôi vẽ một bức tranh cao hơn 3 mét, hình một chàng Cao bồi đang cưỡi trên một con ngựa đứng 2 chân, nhe răng. Tiếng đồn lên tới Tiểu Đoàn. Ông Tiểu đoàn Trưởng mời tôi lên, nhờ thảo cho một bức tượng người lính bộ binh để dựng trước văn phòng Tiểu đoàn.

Thế là tôi được nghỉ học, ung dung cầm bản vẽ, bút chì đi ngắm nghía và vẽ luôn một tượng đài vuông vức, trên là một anh lính đang giơ tay phải lên, xung phong. Chưa hết, trước ngày lễ mãn khóa, tôi vẽ một bức tranh Chùa Một Cột đem tặng cho Chỉ Huy Trưởng Trường, để kỷ niệm một anh SVSQ Việt Nam được thụ huấn ở đây… Thật là liều mạng vì như đã nói ở trên, tôi chưa từng học vẽ sơn dầu, chưa từng học kiến trúc, mà dám chơi luôn một cái tượng đài! Bức tượng này được hoàn thành gấp rút, chỉ trong vòng 2 tháng là đã đúc xong. Ngày mãn khóa, tôi đi qua, ngắm nghĩa và hãnh diện một mình. Dân Việt Nam chơi liều không thua ai.

Nhiều chục năm trôi qua, nhìn kỹ lại từng vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam, tôi nghĩ rằng, người Mỹ, nói chung, là một dân tộc trọng tinh thần Dân Chủ, Pháp Luật, và Quyền Tự Do cá nhân tối đa,. Nguòi Mỹ, trên phương diện hình thức, tôn kính Chúa Trời, cho nên trên đồng tiền cũng có Chúa, các lời thề nhậm chức hay ra trước pháp luật, đều có Chúa chứng giám. Do đó, họ có nhiều đức tính tốt vượt bực, có sự quan tâm đối với các dân tộc nhược tiểu, nhưng ngược lại, các chính phủ Mỹ, dù Cộng Hòa hay Dân Chủ, lại là một tập thể chính trị biệt lập. Chính phủ Mỹ, dù ngành nào, Tư Pháp, Lập Pháp, hay Hành Pháp, luôn dành hết khả năng của mình vì quyền lợi của nước Mỹ, làm cho nước Mỹ mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn.

Do đó, nếu có sự gì cản trở bước tiến của nước Mỹ, hoặc không làm cho nước Mỹ vĩ đại hơn, thì các chính trị gia lãnh đạo sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, có thể bất chấp đạo đức, dẹp bỏ mọi lời hứa với đồng minh, và tỉnh bơ trước mọi lời phê bình, chê trách. Như việc giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hứa yểm trợ đồng minh rồi lại bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho Trung Cộng và khối cộng sản, cho biệt kích sang Panama, tóm cổ Tổng Thống nước này đem về Mỹ, giam tù…

Hiện tại, lúc thì bắt tay khen ngợi Trung Cộng, lúc lại hăm dọa chiến tranh. Với Bắc Hàn cũng thế, hân hoan chào đón hay chuẩn bị phóng hỏa tiễn cũng là tùy theo tình hình và lời khuyên của các “Think Tank” đặc biệt (Không phải nhóm cố vấn trong Bạch Cung). Vì thế, mới có câu, “Làm kẻ thù của nước Mỹ thì tốt hơn là làm bạn với Mỹ” và “Với nước Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn cũng như không có bạn thân mãi mãi.”

Trên hết, Cám Ơn Nước Mỹ đã cho chúng tôi được Tự Do.

(Mùa Covid 2020)