1. Mở bài
Nhân ngày Memorial Day, 27-5-2019, xin ghi lại thành tích của một cố vấn Mỹ, ông John Paul Vann, đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam, góp phần bảo vệ tự do dân chủ cho VNCH.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa có tinh thần và khả năng chiếu rất cao. Có những cấp chỉ huy tài ba, kiên cường, xả thân vì tổ quốc để bảo vệ tự do và dân chủ cho người dân miền Nam Việt Nam. Một tấm gương được vinh danh anh hùng là Đại tá Lê Đạt Đức với câu được truyền tụng là “Kẽm gai bọc xác anh hùng”.
Việt Nam là tiền đồn của thế giới tự do cho nên đã có 58 ngàn công dân Hoa Kỳ đã hy sinh trên đất nước Việt Nam.
Người cố vấn Mỹ với cá tính độc đáo và tài năng đặc biệt, là ông John Paul Vann được gọi là “Một viên tướng dân sự”.
Với cấp bậc trung tá mà có khả năng làm công việc của một thiếu tướng. Và cũng đã có một sĩ quan cấp tướng và nhiều đại tá vui lòng làm việc dưới quyền ông. Ông là biểu tượng của một mẫu người can đảm, táo bạo, tạo ra những huyền thoại về ông.
Phóng viên Neil Sheehan, đoạt giải Pulitzer, đã viết cuốn sách về cuộc đời ly kỳ của ông, được hảng HBO quay thành phim, do tài tử Bill Paxton thủ vai của ông khi ở Việt Nam.
2. Vài nét về tiểu sử của John Paul Vann
John Paul Vann sinh ngày 2-7-1924 tại Norfolk, Virginia.Tử nạn ngày 9-6-1972, 48 tuổi. Không có tên trong 58 ngàn quân nhân HK tử trận ở VN trên bức tường đá đen ở Washington.
Trung tá Bộ binh, sau đó giải ngũ và trở thành một nhân vật nổi tiếng trong Chiến tranh VN. Vann có bằng tiến sĩ về Quản trị kinh doanh. Đã từng theo học các môn Kinh tế, Toán và Thống kê ở Đại học Rutgers University. Theo học khóa Tham mưu cao cấp.
Năm 1943, gia nhập quân đội và được huấn luyện thành phi công.
Kết hôn
Ngày 6-10-1945, kết hôn với Mary Jane Allen, người Rochester, New York.
Có 5 con.
Nhiều nguồn tin cho biết ông có vợ VN.
Vann đã từng phục vụ trong các đơn vị HK ở Nam Hàn, Nhật, Tây Đức trước khi đến VN.
Gia đình John Paul Vann
Năm 1962, Vann được cử làm cố vấn cho Đại tá Huỳnh Văn Cao, TL/SĐ 7BB, thuộc Vùng 4 Chiến thuật.
Trong trận Ấp Bắc, Vann đã từ trực thăng tại mặt trận, can đảm chỉ huy trận đánh, được thưởng Anh Dũng bội tinh.
Từ trận đánh ở Ấp Bắc, ông thấy cách tiến hành chiến tranh của HK ở VN không phù hợp với chiến thuật du kích. Ông lớn tiếng chỉ trích chính sách đó, đả kích ngay cả Chỉ huy trưởng MACV (Military Assistance Command Vietnam) là Tướng Paul D. Harkins.
Thông qua phóng viên David Hallberstam của tờ New York Times, ông đưa vấn đề ra công luận, và báo chí làm ồn ào lên.
Tháng 3 năm 1963, Tướng Harkins cách chức ông và cho giải ngũ vài tháng sau đó.
John Paul Vann về Mỹ, làm nhân viên cho công ty xây dựng Martin Marietta ở Denver. Nhưng ông nhớ VN và xin trở qua VN.
Tháng 3 năm 1965, Vann là nhân viên dân chính, chỉ huy cơ quan CORDS (Civil Operations Revolutionary Development Support) VN gọi là Trung Tâm Bình Định Phát Triển. Cơ quan nầy bao gồm CIA, Bộ Ngoại giao, USAIDS, Thông Tin HK, phối hợp với nhân viên quân sự Mỹ, chịu trách nhiệm về tổ chức Chiến dịch Phượng Hoàng (Phoenix Program), mục đích phá vỡ cơ sở hạ tầng của VC ở nông thôn.
Tháng 11 năm 1968, ông được chuyển về Vùng 4 chiến thuật.
Năm 1970, Tướng Ngô Du, TL/QĐ 4 có liên lạc mật thiết với ông, và nhận ra ông là người có tài.
Năm 1971, Tướng Ngô Du được bổ nhiệm ra làm TL/QĐ2, ông đặc biệt yêu cầu cho John Paul Vann được làm cố vấn quân sự cho QĐ2, thay thế Trung tướng Charles P. Brown đổi đi nơi khác.
Một trở ngại trên nguyên tắc là, ông Vann là dân sự mà làm cố vấn quân sự, nhất là cho một đại đơn vị cấp Quân đoàn.
Nhờ sự ủng hộ của Tướng Weyand, nên Tướng Creighton Abrams chấp thuận. Sau đó, ông được có quyền hạn của một thiếu tướng và hưởng quyền lợi của cấp bậc đó.
Ngày 9-6-1972, John Paul Vann, cố vấn trưởng QĐ2, phi công và một hành khách Mỹ, đã thiệt mạng trong vụ rớt trực thăng lúc 9:30 tối trên chuyến bay đêm từ Pleiku về Kontum.
Ngày 16-6-1972, ông Vann được an táng theo quốc táng, tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ông được truy tặng huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ.
Đám tang có nhiều tướng lãnh tham dự. Đại tướng William Westmoreland, Trung tướng Edward Lansdale, Trung tá Lucien Conein, TNS Edward Kennedy và Daniel Ellsberg.
John Paul Vann sống là một anh hùng và chết cũng như là một anh hùng.
Những nhận xét về J.P. Vann:
– J.P. Vann là một sĩ quan tánh tình nóng nảy và hăng say quá độ, có thái độ trịch thượng đối với mọi người.
– J.P. Vann là một chiến lược gia có tầm nhìn sâu sắc về chiến tranh VN. Chính ông đã vạch chiến lược chống du kích thời gian đó. Chủ trương giao tranh với cường độ nhỏ và lâu dài. Trái ngược với chiến tranh quy ước, với đơn vị lớn mà ngắn, như HK đang thực hiện ở VN.
– Chính sự đả kích người khác, mà nhiều tướng lãnh VN không ưa ông ta, nhưng đối với sĩ quan và nhân viên dưới quyền, thì ông là người anh hùng của họ.
3. Kế hoạch diệt sư đoàn 320 của Cộng Sản Bắc Việt
Đầu năm 1972, tình báo Hoa Kỳ phát hiện Sư đoàn 320, nổi tiếng trong trận Điện Biên Phủ, đang dưỡng quân ở Thanh Hoá, có thể sẽ vào vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào, để vào mặt trận B3 do thiếu tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy.
3.1. Tung màn lưới điện tử
Những chùm điện tử được thả trên đường mòn HCM, hướng về mật khu 609, nơi trú quân của Bộ Tư lịnh B3, ở vùng Attopeu, Nam Lào.
Phi cơ không thám QĐ2, phi cơ chụp ảnh Bộ TTM ngày đêm theo dõi. Các toán viễn thám, biệt kích, trinh sát, tình báo, được thả khắp nơi trong vùng Tam biên.
Cuối tháng 1 năm 1972, một cán binh VC 17 tuổi bị bắt, đã khai rằng SĐ 320 vừa đến vùng Tam biên, sau một tháng di chuyển ngày đêm từ Thanh Hoá.
3.2. Dụ địch
Cố vấn J.P. Vann không muốn các đơn vị Bộ binh tiến sâu vào các vùng rừng núi để tìm diệt CS như Tướng Westmoreland đã làm trước kia, trong chiến thuật tìm diệt.
Ông được có quyền hạn của một thiếu tướng HK. Chỉ huy phó Ban cố vấn của ông là Tướng George Wear và Đại tá Joseph Pizzi là Tham mưu trưởng. Ngoài ra còn nhiều đại tá cố vấn cho các sư đoàn của QĐ2.
Paul Vann dùng kế, dụ địch tiến sâu vào lãnh thổ QĐ2 ở Dakto-Tân Cảnh, Kontum, rồi nhờ hỏa lực của KQ/HK ở Thái Lan, chủ yếu là B-52 ném bom trải thảm để tiêu diệt.
Kế hoạch nầy táo bạo và nguy hiểm, bởi vì QĐ2 không phải chỉ đối diện với 1 SĐ 320, mà còn phải đương đầu với 2 SĐ cơ hữu của B3, trong chiến dịch Xuân-Hè 72 của CSBV.
Một bất ngờ ngoài dự liệu, là CSBV lần đầu tiên đưa vào chiến trường hai thứ vũ khí mới, vượt trội hẳn của QLVNCH. Đó là xe tăng T-54 và hỏa tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger của Liên Xô. T-54 vượt trội hơn M-41 của VNCH. Nó tương đương với M-48 Patton của Hoa Kỳ mà Trung đoàn 20 xe tăng VNCH mới được trang bị ngày 23-4-1972.
Hỏa tiễn AT-3 Sagger là loại vác vai, VN gọi là B-72, là hỏa tiễn điều khiển được hướng dẫn bằng dây, rất chính xác, bắn xa 3,000 mét, xuyên thép dày 200 ly ở gốc độ 60, trong vòng 1,000 mét có thể điều khiển bằng mắt. Nếu xa hơn nữa, thì phải dùng ống nhắm.
Khuyết điểm của loại hỏa tiễn nầy là nó không chính xác khi bắn gần, ở khoảng cách từ 500 đến 800 m, bởi vì, nó cần 30 giây mới điều chỉnh được, đồng thời mục tiêu có thể di động tránh né.
SĐ 320 nằm trong chiến dịch toàn bộ Xuân-Hè 72 trên các chiến trường của các QK 1, 2 và 3 của VNCH.
3.3. Quân Đoàn 2 tái phối trí nhân sự
Thấy tình hình sắp tới rất sôi động và quyết liệt, cố vấn Vann đề nghị Trung tướng Ngô Du thay đổi 2 tướng Tư lịnh SĐ, là Thiếu tướng Lê Ngọc Triển, SĐ 22BB và chuẩn tướng Võ Văn Cảnh, SĐ 23BB, bằng 2 Đại tá Lý Tòng Bá và Lê Minh Đảo, được đánh giá là 2 sĩ quan năng động, có kinh nghiệm chiến trường.
Thấy tướng Ngô Du bị lâm vào tình trạng khó xử, vì phải cần đến J.P. Vann mới có được sự yểm trợ hoả lực của B-52, hai tướng nầy làm đơn xin từ chức.
Tướng Ngô Du chỉ thoả mãn được 50%, là cử Đt. Lý Tòng Bá làm TL/SĐ 23BB và Đt. Lê Đức Đạt làm TL/SĐ 22BB.
Việc thay đổi nhân sự nầy gây ra nhiều mất lòng nội bộ.
3.4. Thi hành kế hoạch dụ địch
2 trung đoàn 42 và 47 cùng với Bộ TL/SĐ 22BB được di chuyển từ Bình Định lên Tân Cảnh.
Để bảo vệ đơn vị làm mồi nhử nầy, 2 căn cứ hỏa lực Delta và Charlie, trang bị đại bác Bofors và đại liên Vulcan (M-61, “Hỏa Thần”), được thành lập trên sườn đồi để yểm trợ hỏa lực cho Tân Cảnh. Đại liên M-61 là đại liên 12.7 ly, 6 nòng, bắn ra 6,000 phát trong một phút.
Toàn bộ chiến xa, pháo binh cơ hữu của SĐ 22 đuợc chuyển lên Tân Cảnh.
Đồn Ben Het, kiểm soát cửa ngỏ ra vào QĐ2, được tăng cường Liên đoàn 22 BĐQ.
Để bảo vệ Kontum, Bộ TTM tăng cường Lữ Đoàn 2 Dù đến Kontum làm lực lượng trừ bị.
3.5. Bố trí của B3 Cộng Sản Bắc Việt
Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo điều động:
– 2 Sư đoàn. 320 và SĐ2 Sao Vàng
– 1 trung đoàn đặc công
– 2 trung đoàn pháo binh
– 1 tiểu đoàn xe tăng T-54
– 6 tiểu đoàn phòng không
Tổng số khoảng 20,000 người vào mặt trận.
3.6. Diễn biến
1). Việt Cộng tấn công 5 tiền đồn của Việt Nam Cộng Hòa
Ngày 30-3-1972.
– 2 trung đoàn và 1 tiểu đoàn VC đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía Tây sông Poko, do 3 tiểu đoàn BĐQ/VNCH trấn đóng.
– Tướng Ngô Du cử 2 tiểu đoàn Dù đến tăng cường phòng thủ.
– J.P. Vann gọi phi cơ cường kích (Tấn công mặt đất) từ Thái Lan đến ném bom.
– Không quân Mỹ và Pháo binh VNCH oanh tạc dữ dội.
Trung đoàn 52 CS bị thương quá nhiều, phải bỏ chạy. Cuộc tấn công 5 tiền đồn bị thất bại.
2). Việt Cộng tấn công căn cứ Delta
Ngày 3-4-1972.
4 giờ sáng.
SĐ 320 tấn công biển người vào căn cứ Delta, nhưng gặp sự phản công mãnh liệt của các chiến sĩ Dù. Sau nhiều đợt pháo kích hỏa tiễn 122 ly và súng cối 120 ly, Cộng quân chiếm được hàng rào đầu tiên của căn cứ.
Tướng Ngô Du và Ban tham mưu lên căn cứ Võ Định trên quốc lộ 14 để chỉ huy mặt trận.
Cố vấn Vann được tin nầy, rất phấn khởi, cũng bay đến quan sát hai căn cứ Delta và Charlie. Ông Vann thấy rõ một số rất đông VC đang bao vây căn cứ Delta, ông liền gọi phi cơ từ Thái Lan qua oanh kích chung quanh căn cứ nầy. Còn gọi thêm các phi cơ Stinger và Spectre được trang bị đại bác Bofors và đại liên M-61, 6 nòng đến yểm trợ căn cứ nầy.
Chiều ngày 3-4-1972
Cộng quân chưa chiếm được đồn, nhưng các chiến sĩ Dù đã hết đạn, thuốc men và nước uống. Trực thăng Chinook tiếp tế khẩn cấp, nhưng bị bắn rơi bên ngoài đồn.
Thấy thế, J.P. Vann liều lĩnh xử dụng trực thăng nhỏ, loại mới nhất của QĐ/HK, là OH-58 Kiowa, chỉ có 2 chỗ ngồi, để tiếp tế. Đích thân ông lái, còn Trung úy Huỳnh Văn Cai, sĩ quan tùy viên, đạp từng thùng đạn, thùng thuốc xuống giữa căn cứ, trong khi phòng không của địch bắn lên tới tấp. Bất chấp nguy hiểm, cố vấn Vann đã tiếp tế đầy đủ đạn dược, thuốc men và mìn chiếu sáng cho căn cứ Delta.
Tướng Tư lịnh phó của Vann là John Hill và Đại tá Joseph Pizzi, TMT, phải kêu lên “Thật là điên rồ!”. Tướng Ngô Du cũng phải khâm phục hành động táo bạo nầy của J.P. Vann.
Kết quả. SĐ 320 bị thảm bại nặng nề tại căn cứ Delta. Hoàng Minh Thảo phải bổ sung quân số cấp tốc cho SĐ nầy. Sau đó 10 ngày, mới có thể tấn công căn cứ Charlie.
3). Việt Cộng tấn công căn cứ Charlie
Ngày 11-4-1972
– Trung đoàn 52 của SĐ 320 tấn công căn cứ Charlie
– Trung đoàn 64 tấn công căn cứ Rocket Ridge
Hai căn cứ nầy được tăng cường bởi những tiểu đoàn của Lữ đoàn Dù. Cuộc tấn công xảy ra nhiều đợt. Quân CSBV bị pháo binh, Không quân và đặc biệt là phi cơ AC-130 Spectre bắn chận suốt ngày đêm. Phía VC chỉ có đại liên phòng không 12.7 ly và 14.5 ly nên khả năng chống trả yếu ớt.
Đến 11 giờ 30 phút đêm 11-4-1972, một trái hỏa tiễn 122 ly rớt trúng ngay vào hầm chỉ huy làm cho Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng TĐ 11 Dù, bị tử thương ngay từ giây phút đầu tiên. Những sĩ quan còn lại, thấy địch quá đông, nên rút khỏi căn cứ, bỏ xác Trung tá Bảo ở lại trong hầm, rút về căn cứ Võ Định.
Trung đoàn 52 của SĐ 320 chiếm được căn cứ Charlie với cái giá quá đắt về nhân mạng.
4). Mặt trận Tân Cảnh* Kẻm gai bọc xác anh hùng
Tân Cảnh được chọn làm mục tiêu làm mồi nhử SĐ 320 của CSBV.
Lực lượng VC:
– Sư đoàn 2
– Tiểu đoàn Đặc công 37
– Đại đội xe tăng T-54
– Đại đội hỏa tiễn chống xe tăng AT-3 Sagger
Ngày 24-4-1972.
– 8 giờ sáng, căn cứ trung đoàn 47 bị tấn công
– 11 giờ, căn cứ trung đoàn 42 bị tấn công.
Đại tá Lê Đức Đạt, Tư Lịnh SĐ/22BB bị tử thương.
Tướng VC Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn Dù đóng ở Kontum rút đi tăng cường cho mặt trận Quảng Trị, lực lượng QĐ2 yếu đi, bèn đưa xe tăng T-54 và hỏa tiễn AT-3 Sagger vào tấn công Tân Cảnh.
Ngày 21-4-1972, Cộng quân bao vây Tân Cảnh
Ngày 23-4-1972, Cộng quân vẫn dùng “Tiền pháo hậu xung”, pháo kích tới tấp vào Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly.
– 10 xe tăng M-41 ra bảo vệ. Bị hỏa tiễn AT-3 bắn cháy 8 chiếc, 2 chiếc bị đứt xích.
– Thiếu tá Như và Đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, tốt nghiệp võ bị Wespoint, leo lên tháp nước cao của căn cứ, dùng đại liên 12.7 ly chống trả. Một hỏa tiễn trúng vào, bồn nước nổ tung, cả hai cùng chết tại chỗ. Hoa Kỳ và Việt Nam cùng hy sinh trên một mặt trận, một bảo vệ lý tưởng tự do, một bảo vệ tự do dân chủ cho dân tộc..
– Trung tướng Ngô Du xử dụng hỏa lực Không quân tối đa, để yểm trợ cho Đt. Đạt.
10 giờ tối.
Địa phương quân người Thượng ở Dakto, cách Tân Cảnh 2 km, báo cáo, là đã thấy 15 chiếc
T-54 xếp hàng dọc chạy về phía Tân Cảnh.
Phi cơ AC-130 tác xạ ngăn cản nhưng không có hiệu quả, vì không có vũ khí chống xe tăng, nhất là xe tăng mới, xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường VN với vỏ thép rất dầy.
Mỗi ngày, Tân Cảnh chịu hơn 1,000 hoả tiễn 122 ly và súng cối 120 ly.
Buổi sáng hôm đó, một xe tăng M-41 thuộc Thiết đoàn 19, trấn giữ ở cổng chính của căn cứ, bị phá hủy bằng đạn xuyên phá. Lúc đầu cho rằng do B-40, nhưng sau khi xem xét, ban cố vấn Mỹ xác nhận đó là vũ khí chống xe tăng loại mới, hỏa tiễn AT-3.
Những đợt pháo kích, phá hủy phần lớn Trung tâm hành quân của SĐ 22BB. Phòng tuyến và quân dụng bị thiệt hại nặng nề, 20 quân nhân chết và bị thương.
Đến tối, phi cơ AC-130 dùng hồng ngoại tuyến, phát hiện 18 xe tăng T-54 trên đường đến Tân Cảnh.
6 giờ sáng 24-4-1972, Cộng quân chọc thủng phòng tuyến phía Bắc.
Đại úy Charles Carden, cố vấn trung đoàn 47 thuật lại, khoảng một giờ sau khi bị tấn công, một trực thăng UH-1 đến Dakto đón 6 cố vấn Mỹ, nhưng trực thăng bị trúng đạn, rớt và bốc cháy trong chu vi phòng thủ.
Đại tá Philip Kaplan gọi máy yêu cầu J.P. Vann lên cứu. Ông Vann đã đáp trực thăng tại một khu vực nhỏ, kế bên một bãi mìn. Đt. Kaplan cho Đt. Đạt biết, và đề nghị ông cùng lên trực thăng cấp cứu của cố vấn Vann.
Dù biết được tình hình bi đát, nhưng Đt. Đạt từ chối, và ông cũng không yêu cầu Trung tướng Ngô Du lên cứu ông.
Hai chiếc T-54 đã lọt vào trung tâm phòng thủ, và chạy về 2 hướng khác nhau. Liền sau đó, 2 chiếc M-41 thuộc chi đoàn 1/14, mỗi chiếc bắn 3 quả đại bác 76 ly vào đúng cạnh sườn của chiếc T-54. Bị trúng đạn, T-54 bốc khói nhưng chưa bị hạ. Chiếc T-54, vỏ thép dày 105 ly, nặng 36 tấn, đã phục hồi mau lẹ, và quay súng bắn hạ chiếc M-41 bằng 2 quả 100 ly, rồi bắn tiếp phát thứ ba hạ chiếc M-41 còn lại.
Đt. Đạt ra lịnh cho các sĩ quan và binh sĩ thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Đt. Tôn Thất Hùng thoát ra được, nhưng bị thương. Ông chạy vào một buông Thượng gần đó. Nhờ biết tiếng Thượng, ông được một gia đình che giấu và bảo vệ cho ông về đến thị xã Kontum 15 ngày sau đó.
Đại tá Lê Đức Đạt ở lại căn cứ.
Anh Hưng, người mang máy truyền tin liên lạc cho biết, Đt. Đạt đã yêu cầu pháo binh bắn vào sân cờ của căn cứ vì xe tăng của VC đã vào tới nơi rồi. Hưng cho biết, khi đến hàng rào, một trái đạn nổ, Đt. Đạt bị kẽm gai quấn vào người, anh không thể gở ra được, vì không có kềm cắt kẻm gai. Đt. Đạt đã hy sinh.
“Kẽm gai bọc xác anh hùng”.
5). Trận Kontum
Tân Cảnh mất. Đại tá Đạt tử trận. Sư đoàn 22BB bị tan rã.
Trung tướng Ngô Du tái phát bịnh tim, nên Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn làm Tư Lệnh Quân Đoàn 2.
Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư lịnh chiến trường bảo vệ Kontum.
Quân CSBV bị tổn thất nặng nề, nên không có thể “Thừa thắng xông lên” sau trận Tân Cảnh. Mãi đến gần một tháng sau, mới bắt đầu tấn công Kontum. Nhưng lần nầy, Hoàng Minh Thảo đại bại, vì mất 15,000 quân, một sư đoàn rưởi.
Tấn công Kontum
Hoàng Minh Thảo chia quân làm 3 mũi:
– Hướng Bắc. SĐ 2
– Hướng Tây. SĐ 320
– Hướng Nam. SĐ 968. Là SĐ đa số là người Lào, nhiệm vụ chính là bảo vệ đường mòn HCM về phía Tây Trường Sơn.
Phía VNCH
– SĐ 23BB
– Lữ đoàn 2 Thiết giáp của Đại tá Nguyễn Đức Dung
– 1 Liên đoàn Biệt Động Quân + Tiểu đoàn 7 Dù
– 20 chiếc thiết giáp
Chỉ huy:
– Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn
– Đại tá Lý Tòng Bá
– Cố vấn J.P. Vann
Kế hoạch xử dụng 100 Box B-52
Diễn tiến – Ngày 13-5-1972
Nhân viên kỹ thuật báo cáo, nhận được mật điện của Hoàng Minh Thảo, Chỉ huy trưởng B3:
“Mũi tấn công hướng Bắc-SĐ2. Stop. Tăng cường mỗi SĐ 10 T-54 Stop. Ngày giờ tấn công Stop. Ngày giờ tấn công 05G00 ngày 14-5-1972 Stop.”
Thiếu tướng Toàn và Đt. Bá đi từng hầm phòng thủ, động viên và khích lệ binh sĩ. Cho biết, khi súng nổ thì B-52 dội bom trên đầu địch.
Tại hầm chỉ huy, Tướng Toàn, Đt. Bá, Paul Vann và Đt. Rhotenberry nghiên cứu bản đồ, thảo luận vị trí từng Box B-52.
Cố vấn Vann gọi máy cho Trung tướng Chỉ huy trưởng Không quân Chiến lược (Strategy Air Command) tại Thái Lan, thảo luận về thể thức chuyển đổi các Box B-52 cho thích hợp với tình hình mặt đất. Paul Vann cũng điện đàm với Tướng Creighton Abrams xin được xử dụng 25 Box B-52 yểm trợ cho cả 4 Vùng chiến thuật. Đề nghị được chấp thuận.
Mỗi Box dài 3 km, rộng 1 km, được thả bằng 3 chiếc B-52 với trên 100 quả bom đủ loại, từ 100 đến 500 pounds.
Đêm 13 rạng 14-5-1972.
Tướng Toàn, Paul Vann và hai bộ Tham mưu Việt-Mỹ, thức suốt đêm, theo dõi từng phút và hồi hộp chờ đợi giờ G.
Phi đoàn A-37 của SĐ 6 KQ túc trực 100%.
Chiếc trực thăng của Tướng John Hill, Tư lịnh phó của Vann, gấp rút gắn thêm 2 đại liên 6 nòng ở hai bên. Xạ thủ túc trực tại trực thăng.
Tướng John Hill đang nghỉ dưỡng sức ở Cam Ranh, chờ về nước, đã tình nguyện trở lại góp phần bảo vệ Kontum.
Nhiều cặp trực thăng võ trang Cobra của HK cũng ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Hai phi đoàn B-52 từ đảo Guam và Sattahip Thái Lan, đã cất cánh, xuất hiện trên bầu trời Thái Bình Dương. Tất cả hồi hộp đợi giờ tấn công. Giờ G, 05G00 mà mật điện ra lịnh tấn công.
Kém 5 phút đúng 5 giờ sáng, Đt. Bá báo cáo lớn tiếng trên máy. Địch bắt đầu nổ súng.
Trực thăng của Tướng Hill cất cánh đầu tiên, tiếp theo là Vann và Tướng Toàn bay về hướng Kontum trong sương mù.
Cố vấn Vann ra lịnh cho B-52 đúng 5 giờ sáng, đồng loạt bấm nút thả 3,000 quả bom đủ loại lên đầu 2 SĐ 320 và SĐ2 Sao Vàng.
Tiếng nổ long trời lở đất, khói bụi mịt mù. Diện tích trải thảm là 72 Km2.
Tiếp theo, từng đoàn A-37. AD-6 của SĐ 6 KQ bay vào mục tiêu, tiếp tục xạ kích vào các chiến xa và ổ phòng không còn lại.
Nhiều nhóm Cộng quân ngất ngư, hốt hoảng chạy lùi về phía sau, lại bị đại liên 6 nòng của Tướng Hill, bọc hậu thanh toán tại chiến trường.
Một giờ sau, Tướng Toàn và cố vấn Vann bay vào vùng thả bom, quan sát. Xác Cộng quân nhiều đếm không xuể.
Vann thấy một số Cộng quân lảo đảo trong các hố bom, đã hạ xuống thấp để cho Trung úy Huỳnh Văn Cai dùng M-16 thanh toán đám tàn quân.
Kế hoạch trải thảm B-52 dứt điểm cuộc tấn công của 2 SĐ CSBV vào Kontum.
Sau trận đánh, binh sĩ VNCH đặt cho cố vấn Vann là “Ông B-52”.
CSBV thiệt hại nặng nề. Theo ước tính của HK, thì B3 của Hoàng Minh Thảo tổn thất 15,000 người, một sư đoàn rưởi. 30 chiếc T-54, nhiều đại bác, pháo phòng không bị phá hủy.
Ngày 31-5-1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên Kontum ủy lạo binh sĩ và gắn cấp bậc Chuẩn tướng cho Đại tá Lý Tòng Bá.
4. Kết luận
John Paul Vann và 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh tánh mạng trên các chiến trường Việt Nam, đã sống và đã chết cùng với những anh hùng chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, thể hiện lý tưởng bảo vệ tự do của người Mỹ đối với người dân miền Nam Việt Nam.
Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh phát biểu: “chúng ta mắc nợ 58 ngàn quân nhân đó, mắc nợ nước Mỹ, tuy họ không đòi, nhưng chúng ta nên nhớ và có bổn phận phải trả”.
Kỷ niệm Ngày Memorial Day 2019 (27-5-2019)
Minnesota ngày 24-5-2019