HQ. Phạm Quốc Nam (Portland OR)

Lời mở đầu: Bài viết này không lập lại chi tiết trận hải chiến như trong loạt bài đã viết trước đây: “Hải Chiến Hoàng Sa sau 45 năm nhìn lại” và “Hoàng Sa Chiến với những người trong cuộc” viết năm 2022 với nhiều tài liệu quý giá do Cố Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại khi còn đương thời cung cấp. Dưới đây, bài viết hệ thống mô tả tổng quát về trận hải chiến và đặc biệt trình bày thêm những tài liệu mới mà người viết sưu tập gần đây.

.

.

Tưởng Niệm 74 Tử Sĩ Hoàng Sa VNCH lần thứ 50 (1974 – 2024)

.

Cách nay nữa thế kỷ, ngoài khơi biển Việt Nam xảy ra trận hải chiến thư hùng giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Hải quân Dân nhân PLA Trung Cộng (TC). Trận hải chiến ngày 19/1/1974 đã minh chứng dũng khí và sự can trường của người lính thủy miền Nam; những người con nước Việt của một nước nhỏ dám đối đầu một gã khổng lồ Trung Cộng; đồng thời cho thế giới và quân xâm lược TC biết rằng đây là lãnh hải, lãnh thổ của Việt Nam. Lịch sử và Tổ quốc muôn đời ghi ơn và vinh danh 74 Tử sĩ VNCH trong trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974. Lịch sử phải ghi lại cuộc chiến oanh liệt này của hải quân VNCH vì Hoàng Sa là của Việt Nam.

Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa bao gồm nhiều đảo lớn, bãi cát và rạn san hô, bãi đá ngầm nằm cách huyện đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi khoảng 200 hải lý về phía đông. Hoàng Sa có hai nhóm đảo chính: Nhóm An Vĩnh và nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là nhóm Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm.

Nhóm An Vĩnh (Amphitrite group): Ở phía đông bắc quần đảo, còn gọi là Nhóm Đông gồm nhiều đảo khá lớn, trong đó quan trọng nhất là đảo Phú Lâm, đảo Nam, đảo Trung và đảo Bắc. Khi Pháp rút khỏi Đông Dương đã giao trả lại quần đảo Hoàng Sa cho chính quyền Miền Nam VN kiểm soát năm 1956; bấy giờ hải quân Miền Nam còn trong giai đoạn phôi thai vừa thành lập năm 1952, chưa đủ sức bảo vệ quần đảo Hoàng Sa thì Trung Cộng đã lén lúc chiếm đóng Nhóm đảo An Vĩnh.

Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group): Chếch về phía tây nam so với nhóm An Vĩnh gồm các thực thể địa lý do VNCH kiểm soát. Trong nhóm đảo này có các đảo liên quan đến trận hải chiến như đảo: Hoàng Sa (Pattle), Cam Tuyền (Robert, còn gọi là Hữu Nhật), Vĩnh Lạc (Money, còn gọi là Quang Ánh), giải Hải Sâm (Antelope Reef), Quang Hòa (Duncan-Nơi xảy ra trận Hải chiến) và Duy Mộng (Drummond). Trên đảo Hoàng Sa có trạm Khí tượng do Pháp xây dựng từ năm 1932 và bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1938.

Bên cạnh hai nhóm An Vĩnh và Lưỡi Liềm, Hoàng Sa còn có một số đảo, bãi cát, rạn san hô nằm rải rác, trong đó đáng kể nhất là đảo Linh Côn (Lincoln) nằm ở cực đông quần đảo và đảo Tri Tôn (Triton) đơn độc ở cực tây nam.

Phía Hải quân VNCH:

4 chiến hạm VNCH tham chiến

Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư lịnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải, kiêm Tư lịnh Lực lượng Đặc nhiệm 231 nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, toàn quyền quyết định đối đầu với hải quân TC và ông chỉ định Hải quân Đại tá Hà Văn Ngạc làm Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật Đặc nhiệm Hoàng Sa (OTC – Officer in Tactical Command).
Lực lượng tham chiến của VNCH gồm toán Biệt Hải (Nha Kỹ thuật), toán Hải Kích người Nhái Hải quân và 4 chiến hạm, được chia làm hai phân đoàn:
Phân đoàn 1 (phía Bắc): Tuần dương Hạm HQ-16 Lý Thường Kiệt (Hạm trưởng, HQ Trung tá Lê Văn Thự) và Hộ tống Hạm HQ-10 (Hạm trưởng, HQ Thiếu tá Ngụy Văn Thà).
HQ-16 và HQ-10 đối đầu với 389 và 396 của TC ở phía Tây Bắc đảo Quang Hòa. Trận hải chiến chấm dứt sau nữa giờ, HQ-16 bị trúng viên đạn 127 ly của HQ-5 bắn lạc xuyên vào hầm máy, may mắn viên đạn không nổ nhưng làm vỏ tầu thủng một lổ lớn, nước biển tràn vào làm HQ-16 nghiêng 20 độ có nguy cơ bị chìm và phòng truyền tin bị trúng đạn của địch làm tê liệt hoàn toàn phải dùng máy truyền tin tần số phát sóng ngắn PRC-25 để liên lạc, vì thế HQ-16 mất khả năng tác chiến cũng như yểm trợ HQ-10 đang bị thương nặng và chìm sau đó (*1). Trước nguy cơ tàu chìm, HQ-16 được lệnh rời vùng. Trên đường trở về Đà Nẵng, vì tàu nghiêng, HQ-16 không thể vào cận bờ để đón toán công binh do Thiếu tá Bộ binh Phạm Văn Hồng hướng dẫn ra đảo Hoàng Sa nghiêng cứu xây một phi trường nhỏ, cùng đi có một người Mỹ tên Gerald E.Kosh, nhân viên Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng. HQ-16 cũng không thể đón toán nhân viên cơ hữu của mình trên đảo Vĩnh Lạc do Trung úy Lâm Trí Liêm làm trưởng toán, đổ bộ lên đảo từ ngày 17/1. Toán này sau đó dùng bè đào thoát khỏi đảo Vĩnh Lạc khuya ngày 19/1. Bè trôi trên biển 10 ngày đêm và sau đó được ngư phủ người Việt cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn cách Cù lao Xanh 23 hải lý. HQ-16 được HQ-6 hộ tống về Saigon sửa chửa. HQ-16 có 2 nhân viên tử thương.
Phân đoàn 2 (phía Nam): Khu trục Hạm HQ-4 Trần Khánh Dư (Hạm trưởng, HQ Trung tá Vũ Hữu San) và Đại tá Hà Văn Ngạc đi trên Soái hạm Tuần dương Hạm HQ-5 Trần Bình Trọng (Hạm trưởng, HQ Trung tá Phạm Trọng Quỳnh).
HQ-4 và HQ-5 đối đầu với 271 và 274 của TC ở phía Tây Nam đảo Quang Hòa. Trận chiến vừa chấm dứt, cả hai chiến hạm được lệnh trở về Đà Nẵng và cặp cảng Tiên Sa lúc 5:30 sáng ngày 20/1. Trong ngày, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lịnh Vùng 1 xuống tàu thăm viếng. HQ-5 có 3 nhân viên và HQ-4 có 1 nhân viên và 1 Biệt hải tử thương. Sau ba ngày tại bến, hai chiến hạm được sửa chữa khẩn cấp, bổ sung đạn dược, nhiên liệu, lương thực rồi trở ra vùng hành quân. Các chiến hạm trên đường tăng viện Hoàng Sa được lệnh vào vịnh Đà Nẵng nằm chờ lệnh. Nhiều tuần sau HQ-4 và HQ-5 được trở về Saigon.


Phía Hải quân Trung Cộng: Chủ tịch Mao Trạch Đông chỉ thị Chu Ân Lai tổ chức Bộ Tham Mưu Chiến lược Tây Sa (Trung Cộng gọi Hoàng sa là Tây sa), đứng đầu là Chủ tịch Quân ủy Trung ương Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình phụ tá, Tô Chấn Hoa (Tư lịnh Hải quân TC) và các phụ tá Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên.

Đội tàu PLA dân quân của Trung Cộng tham chiến

Tổng Chỉ Huy Hải đoàn PLA là Chính ủy Nguỵ-Minh-Sâm (cấp Chuẩn Đô đốc đi trên soái hạm 274). Hải đoàn PLA Tây sa TC có nhiều tàu thuyền tham chiến, gồm: 2 chiến hạm săn tầu ngầm Krondstadt, mang sồ hiệu 271 và 274 (Loại Liệp Tiềm Đĩnh lớp 037) – 2 hạm quét mìn 396 và 386 (loại T-43) – 2 tầu cá ngụy trang 402 và 407 (tình báo và đổ quân) – 1 tầu quân vận chuyển quân 705 (*2) và 2 hạm săn tầu ngầm Krondstadt 281 và 282 đến Hoàng Sa trưa ngày 19/1 sau khi trận hải chiến chấm dứt để bảo vệ Hải đoàn PLA Tây sa của chúng hoàn toàn tê liệt vì họ lo sợ hải quân VNCH phản ứng gây bất lợi. Sau đó bắn chìm HQ-10 Nhật Tảo bất khiển dụng, đang trôi dạt, cháy và nổ hầm đạn.

Ngày 19/1/1974 Hải quân VNCH đánh bại Hải đoàn Tây sa của Trung Cộng

Theo Hạm trưởng HQ-4, HQ Trung tá Vũ Hữu San, trận hải chiến bùng nổ ở khu vực đầu cầu đảo Duy Mộng và Quang Hòa lúc 10 giờ 25 phút sáng ngày 19/01 và kết thúc sau hơn 30 phút giao chiến.
Sáng sớm ngày 19/1, HQ-4 và HQ-5 đổ bộ Biệt Hải và Hải kích người Nhái hải quân lên đảo Quang Hòa. Lúc 7:30 toán Hải kích vượt qua một đầm lớn để tiến vào bờ đảo phía đông nam Quang Hòa thì bị quân Trung Cộng trên đảo nổ súng làm Trung úy Lê văn Đơn, trưởng toán người Nhái, Hạ sĩ nhất người nhái Đỗ văn Long (Long sandwich) tử thương và 3 người Nhái khác bị thương. Vì toán Hải kích trong tầm tác xạ hải pháo nên HQ-4 và HQ-5 không thể tác xạ lên đảo yểm trợ cho Hải kích tiến vào bờ nên Đại tá Ngạc ra lệnh người Nhái rút về tàu và báo cáo về Bộ Chỉ huy Hải quân Vùng 1 Duyên hải xin chỉ thị. Trước tình hình khó tránh cuộc hải chiến bùng nổ, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh các chiến hạm VNCH nổ súng trước vào các chiến hạm Trung Cộng để đánh bất ngờ và chiếm ưu thế.
Nhận lệnh từ Đô đốc HV Kỳ Thoại, Đại tá HV Ngạc ra lệnh 4 chiến hạm VNCH đồng loạt khai hỏa tấn công tầu địch lúc 10 giờ 25 phút sáng. Sau 30 phút giao chiến, hải đoàn PLA của TC hoàn toàn tê liệt: 271 nổ chìm, 274 bị HQ-4 bắn trúng đài chỉ huy, ủi bãi san hô Quang Hòa, tiêu diệt trọn bộ chỉ huy hải đoàn Tây sa (sau hải chiến 274 được kéo về căn cứ Du Lâm), 389 nổ chìm, thủy thủ đoàn đào thoát và 396 bất khiển dụng. Thông tin của Cộng sản vốn là phương tiện tuyên truyền nên chúng che dấu mọi sự thật, do đó bản gốc tổn thất nhân mạng của họ trên wikipedia ghi TC có 18 tử thương và 67 bị thương không đáng tin cậy.

Ngày 20/1/1974 VNCH mất Hoàng Sa

Trưa ngày 20 tháng Giêng, Hạm đội Nam Hải của TC gồm nhiều chiến hạm, tàu ngầm, phi cơ và bộ binh từ căn cứ hải quân Du Lâm tiến xuống Hoàng sa, bắn phá và đổ bộ chiếm các đảo Hoàng sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc do VNCH kiểm soát. Bắt 48 quân nhân VNCH và người Mỹ Gerald E.Kosh làm tù binh.

* * *

Câu chuyện bi hùng của HQ-10 Nhật Tảo

(*1) Hộ Tống hạm HQ-10 Nhật Tảo chỉ còn một máy khiển dụng đang trên đường về bến sửa chửa thì được lệnh cùng HQ-5 ra ngay Hoàng Sa tăng cường cho HQ-16 và HQ-4 đang đối đầu trước khiêu khích của các ghe tàu TC. Ngay lúc đầu khai chiến, đài chỉ huy HQ-10 trúng đạn, gây tử thương Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và tất cả nhân viên trên đài chỉ huy. HQ-10 bị thương nặng, hầm máy và kho đạn trúng đạn bốc cháy. HQ Đại úy Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng nơi bụng và đứt mất một chân phải, nhưng ông còn bình tỉnh ra lệnh cho thủy thủ đoàn dùng bè cơ hữu đào thoát. Ông được nhân viên đưa xuống bè cùng với 27 nhân viên trên 5 bè. Ngày hôm sau Hạm phó Nguyễn Thành Trí và 8 thủy thủ khác lần lượt qua đời. 19 thủy thủ HQ-10 còn sống sót sau 4 ngày 3 đêm trôi dạt trên biển được tàu có tên Kopionella của hãng Shell mang quốc tịch Hòa Lan cứu vớt đưa vào Đà Nẵng (theo lời kể của Trung úy Hà Đăng Ngân trên HQ-10 cùng bè đào thoát với Hạm Phó Nguyễn Thành Trí).
Giữa trưa ngày 19/1 hai hạm săn tầu ngầm mang số 281 và 282 của Trung Cộng xuất hiện tại Hoàng Sa khi trên biển chỉ còn HQ-10 bất khiển dụng, đang trôi, bốc cháy và kho đạn nổ. Hai chiến hạm 281 và 282 dưới sự chỉ huy của biên đội trưởng Lưu Hỉ Trung liên tục bắn HQ-10 cho đến khi HQ-10 chìm tại phía đông nam giải đá Hải Sâm (giải san hô Antelope) vào lúc 3 giờ chiều, mang theo thi thể Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và 54 chiến sĩ hải quân vào lòng đại dương. Sau đó 281 và 282 tiến đến 4 bè HQ-10 kết chùm, 1 bè tách riêng trên có Hạm phó Nguyễn Thành Trí đang trôi trên biển. Sau đó chúng chạy 2 vòng quanh các bè rồi bỏ đi (theo lời kể của Hải quân Thiếu úy Tất Ngưu trên HQ-10).
Câu chuyện dũng cảm phi thường của hai thủy thủ HQ-10 cũng nên được viết ra. Trong lúc thủy thủ HQ-10 xuống bè đào thoát, Thiếu úy Tất Ngưu trưởng khẩu 20 ly sân sau thúc giục xạ thủ HSI/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn) xuống bè đào thoát, nhưng hai anh từ chối, quyết ở lại tàu và ghì chặt khẩu bofore 20 ly bắn liên tục vào 396 của địch đang tiến đến phía sau lái HQ-10. Hạ sĩ Tây nói với Thiếu úy Tất Ngưu: “Thiếu úy đào thoát đi. Tôi và anh Sáu ở lại tử thủ và bắn yểm trợ cho anh em đào thoát”. Các bè trôi xa HQ-10 khi tiếng súng khẩu 20 ly trên HQ-10 cũng thưa dần rồi im bặt, Hạ sĩ Tây và Sáu đã anh dũng đền nợ nước, chết theo tàu. (Thiếu úy Tất Ngưu kể lại).

* * *

Để kết luận khách quan về tương quan lực lượng và tổn thất của đôi bên trong trận hải chiến Hoàng Sa, chúng tôi dựa vào hai nguồn tài liệu đáng tin cậy dưới đây:

– Trong bản Tường trình Ủy khúc lúc ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH thời ấy đã viết như sau: “Hải Quân Việt Nam là những tàu tuần thời từ Đệ II Thế chiến của Hoa Kỳ, được trang bị cho nhiệm vụ chính yếu là tuần tiễu, ngăn chặn địch quân xâm nhập vào vùng duyên hải và yểm trợ hải pháo trong đất liền, thực sự không phải là loại tàu hải chiến, phải đối đầu với một lực lượng hải quân to lớn của Trung Cộng trong một trận hải chiến tuy ngắn ngủi nhưng ác liệt tại Hoàng Sa vào năm 1974”.

– (*2) Quyển ‘Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982’, là pho sách Hải Lực Thế giới được giới quân sự tin tưởng ở những bàn luận về chiến lược hải chiến và báo cáo chính xác của pho sách này vì uy tín lớn của Ban Biên Tập và Nhà Xuất-bản kỳ cựu hàng mấy thế kỷ. Đối với Hải chiến Hoàng sa năm 1974, pho sách này đã đề cao tinh thần kiên quyết của Hải quân VNCH chống xâm lược. Chủ biên tập Robert Gardiner viết rằng: “Không những chiến hạm Việt Nam đã dũng cảm bắn chìm hai tàu địch (271 và 389), gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác (274 và 396) của siêu cường Trung Quốc ngoài Hoàng Sa. Ðổi lại, thiệt hại của Hải quân VNCH rất nhẹ, chỉ có Hộ Tống Hạm HQ-10 bị chìm và ca ngợi HQ-4 của VNCH đã dùng hải pháo 76 ly bắn chìm tàu địch.”

* * *

Lý do Trung Cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974

Hải chiến Hoàng Sa không phải là sự kiện bất ngờ. Bắc Kinh đã có âm mưu chiếm Hoàng Sa từ lâu. Cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 đánh dấu một trong những bước đầu tiên trong chiến lược ba bước của Bắc Kinh đối với Biển Đông: 1. Kiểm soát (năm 1970 đến 2010); 2. Làm chủ (2011 đến năm 2025) và 3. Độc chiếm (2026 đến năm 2050).
Hải quân TC đã chuẩn bị kế hoạch, chiến lược chu đáo và thao dợt hành quân đổ bộ nhiều tháng trước khi gây chiến ở Hoàng Sa với đoàn tàu thực tập sáng đi tối về bến. Các ghe tình báo ngụy trang tàu đánh cá của TC thu thập tình hình chính xác trên các đảo có quân VNCH trấn đóng và các đảo mục tiêu cho chiến lược. Tình báo Mỹ biết điều này nhưng không thông báo cho VNCH. Thậm chí Hàng không mẫu hạm Interprise của Mỹ nằm cận nơi hải chiến không can thiệp hay yểm trợ VNCH và làm ngơ không cứu vớt thủy thủ VNCH trôi dạt trên biển.
Theo ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Thư ký kiêm Tham vụ Báo chí của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và từng là Tổng trưởng Dân Vận và Chiêu Hồi khẳng định Hoa Kỳ đã có sự thông đồng với chính quyền Bắc Kinh khi đó và đã làm ngơ trước hành động của Trung Cộng đưa hạm đội chiếm Hoàng Sa.
Tiết lộ sau này của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh thì tới năm 1973, Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam nên đã ngầm giao Hoàng Sa lại cho Trung Cộng, nhằm mượn tay Trung Cộng ngăn cản hạm đội Liên Xô hoạt động ở vùng Biển Đông.
Tài liệu sau này trong bản dịch sang Việt ngữ của Luật sư Nguyễn Hữu Hiệu từ quyển sách ‘NO MORE VIETNAMS’ của Tổng thống Mỹ RICHARD M. NIXON có chương Nixon viết “Sau 1972 thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng, Mỹ rút quân và dần dần ngưng hẳn viện trợ cho quân đội VNCH và phía Bắc Kinh cũng làm y hệt như vậy, Trung Cộng rút quân, chấm dứt viện trợ cho cộng sản Bắc Việt; cả hai bên Mỹ – Trung đồng ý để chiến tranh VN lụi dần và miền Nam vẫn của VNCH.”
Bà Bẩy Vân (tên thật Nguyễn thị Nga, Ủy viên tỉnh Cần thơ – Hội trưởng Phụ nữ cứu quốc) vợ của Lê Duẩn xác nhận Bắc Kinh bỏ rơi Bắc Việt sau năm 1972 trong cuộc phóng vấn của ký giả Xuân Hồng Đài BBC tháng 12 năm 2017 ở phút 37 trên youtube có tựa đề “Bà Bẩy Vân phu nhân cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn trả lời BBC”.
Sau Thông báo chung Thượng Hải năm 1972 giữa Hoa Kỳ và Bắc Kinh, Thủ tướng TC Chu Ân Lai sang Hà Nội gặp Lê Duẩn kêu gọi CSBV ngưng cuộc chiến xâm lăng Miền Nam và tuyên bố Bắc Kinh chấm dứt viện trợ cho Bắc Việt. Theo lời bà Bẩy Vân, vốn Lê Duẩn quyết tâm đánh chiếm Miền Nam, cho nên khi biết Bắc Kinh thông đồng với Mỹ ngưng chiến tranh xâm lược Miền Nam, Lê Duẩn cầu viện Liên Xô giúp sức. Từ đó Liên Xô thay Trung Cộng là quốc gia cộng sản có lực lượng quân sự lớn thứ hai trên thế giới viện trợ quân sự và kinh tế cho Bắc Việt.
Được Liên Xô hỗ trợ, Lê Duẩn lợi dụng Hoa Kỳ rút khỏi VN và trong lúc chính trị, xã hội Miền Nam rối ren, quân lực VNCH chiến đấu đơn độc, cạn kiệt phương tiện chiến đấu, Lê Duẩn đã dẫm lên Hiệp Định Paris 1973 mở chiến dịch Nam tiến mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh xua quân đánh cướp miền Nam. Ngày 30/4/1975, Saigon thất thủ và từ đó, toàn cõi nước Việt Nam rơi vào ách thống trị của cộng sản.
Sau khi Bắc Kinh rút quân và ngưng viện trợ Bắc Việt , miền Bắc còn trữ một lượng vũ khí, đạn dược khổng lồ của Trung Cộng, nên Mỹ mở cuộc hành quân Linebacker II, 12 ngày đêm Không quân Mỹ oanh tạc phá hủy toàn bộ các kho vũ khí của Bắc Việt, ép CSBV ngồi vào bàn Hiệp định Paris 1973
Cũng trong quyển sách của Nixon có ghi, cuối năm 1969, ngoại giao giữa hai nước Liên Xô và Trung Cộng rạn nứt trầm trọng, có lúc cả hai nước cộng sản gần đi đến chiến tranh. Thấy Liên Xô ra sức giúp Bắc Việt đưa quân tiến đánh VNCH, Trung Cộng lo ngại Bắc Việt sau khi chiếm được miền Nam, cảng Cam Ranh sẽ lọt vào tay Liên Xô và Hoàng Sa – Trường Sa sẽ do hạm đội Liên Xô trấn giữ.

Đại tá Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ trong Hải quân Mỹ. Ông từng cộng tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt động của Hải quân Trung Cộng. Vị trí cuối cùng mà ông đảm trách trước khi rời quân ngũ vào năm 1999 là chủ nhiệm Phòng Tác chiến thuộc Trung tâm Tình báo hỗn hợp Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương. Thời gian còn là chuyên gia phân tích tình báo, ông có thể tiếp cận các tài liệu được giải mật từ phía Mỹ. Hiện ông đang giảng dạy quan hệ quốc tế, lịch sử và nhân văn tại Đại học Hawaii Pacific.
Tháng 6/2017, ông có bài viết “Cuộc chiến giành quần đảo Hoàng Sa” (Battle for Paracel Islands) gây chú ý trên tờ Vietnam Magazine. Ông chia sẻ trong cuộc trao đổi với BBC News Tiếng Việt trước thời điểm 50 năm Hải chiến Hoàng Sa: “Tôi đã nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa”. Ông Schuster đánh giá rằng nếu Hạm đội 7 có mặt tại Hoàng Sa thì tình hình đã khác. Nhưng do đã hứa với Trung Cộng, nước Mỹ chọn đứng ngoài cuộc.
Hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào thời điểm Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông gần kết thúc và Đại tá Schuster đánh giá hải quân Trung Cộng khi đó “hầu như không thể ra biển. Cách mạng Văn hóa hầu như đã khiến Trung Quốc đánh mất năng lực tiếp liệu. Do thiếu hụt phụ tùng, chỉ khoảng 10% số tàu của họ có thể đi biển và đa số gặp các vấn đề về trang thiết bị. Mao chỉ có thể dựa vào dân quân biển (PLA). Đây là những nhóm bán quân sự, được huấn luyện chút ít và có thể nhận lệnh từ Hải quân. Thời điểm đó, lực lượng dân quân biển đã bắt đầu hoạt động quanh quần đảo Hoàng Sa,”.
Ông đã nhắc lại việc Mỹ và Trung Quốc “bắt tay để hy sinh” Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến và ông đánh giá Mao Trạch Đông “hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa. Các tàu chiến Nam Việt Nam đã gửi yêu cầu trợ giúp đến Hạm đội 7. Nhưng Hạm đội 7 được lệnh không can dự gì với Trung Quốc. Thế nên Hạm đội 7 đã từ chối.”
Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ về cuộc trao đổi giữa Kissinger với Đại sứ Hàn Tự tại Mỹ, Quyền Trưởng Văn phòng liên lạc Trung Quốc diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức chỉ vài ngày sau Hải chiến Hoàng Sa. “Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi muốn nói rõ điều đó,” Kissinger trấn an Hàn Tự.
Phát biểu tại Thượng đỉnh Chiến tranh Việt Nam tại Thư viện LBJ ở Austin, Texas vào ngày 26/4/2016, ông Kissinger cũng nói Hoàng Sa không quan trọng bằng các vấn đề khác vào thời điểm ấy và Kissinger đã trả lời từ một nhà báo VOA rằng có phải Hoa Kỳ đã đồng ý để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 hay không? – “Vào năm 1974, tâm điểm của Hoa Kỳ về vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có thể nói rõ với quý vị là quần đảo Hoàng Sa không phải là ưu tiên trên hết trong tâm trí chúng tôi”.
Đại tá Schuster nói: “Tôi nghĩ Mao Trạch Đông nắm được điều đó. Ông ta không phải là một nhà chiến lược quân sự giỏi nhưng ông ta hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa. Hãy nhớ rằng Kissinger đã bỏ rơi Đài Loan bởi ông ấy nghĩ Mỹ cần một Trung Quốc mạnh để đối phó với Liên Xô – Và kết quả là chính quyền Nam Việt Nam đã bị hy sinh cho mục tiêu lớn hơn của Kissinger, cho việc thiết lập một Trung Quốc thịnh vượng và mạnh mẽ mà Kissinger cho rằng sẽ trở thành đồng minh của Mỹ trong thế kỷ 20,”.
Với những lý do trên, Bắc Kinh muốn chiếm trọn Hoàng Sa càng sớm càng tốt, vì nếu chậm chân, Hoàng Sa lọt vào tay Liên Xô sẽ là mối đe dọa an ninh lãnh thổ, lãnh hải Trung Quốc và hạm đội TC khó tiến xuống Biển Đông trước hải quân hùng mạnh và tân tiến của Liên Xô bấy giờ. Đây là lý do Bắc Kinh quyết định chiếm Hoàng Sa năm 1974.
Ngày nay các nhà bình luận cho rằng chính sách của Mỹ không quan tâm Biển Đông, ngầm giao Biển Đông cho Trung Cộng bấy giờ sau Hiệp Định Paris 1973 là chính sách hoàn toàn sai lầm và thất bại về chiến lược Biển Đông.
Mới đây Cựu Chủ tịch Ủy ban Vận tải Hạ viện Peter DeFazio (Dân biểu Dân Chủ Hạ viện Oregon) đã gióng lên hồi chuông báo động về sự kiểm soát của Trung Cộng đối với ngành vận tải biển ở Biển Đông. Phát biểu tại một sự kiện do Viện Hudson tổ chức ở Washington D.C, ông DeFazio chỉ trích quyết định trao quyền thương mại đầy đủ cho Trung Cộng ở Biển Đông vào cuối thế kỷ 20, cho rằng đó là một “sai lầm nghiêm trọng” của chính quyền Mỹ lúc bấy giờ, nó dẫn đến hậu quả bất ổn hiện nay tại Biển Đông do chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh muốn biến Biển Đông thành ao nhà của họ.

Lời kết

.
Dù không đủ sức, đủ lực giữ được Hoàng Sa, nhưng Hải chiến Hoàng sa năm 1974 là dấu ấn lịch sử oanh liệt nhưng bi hùng của Quân Lực VNCH, đúng như Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại từng nói “Can trường trong chiến bại”, tựa đề cuốn sách ông viết và xuất bản năm 2007 về Hải chiến Hoàng Sa. Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Dù đã trên 50 năm bị quân Trung cộng cưỡng chiếm, Hoàng Sa vẫn là hải đảo của Việt Nam, quần đảo Hoàng Sa vẫn là biển của Việt Nam. Nhất định chúng ta phải nhớ như vậy. (lời HQ Thiếu tá Nguyễn Đức Thu Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt/ Khóa 12 Sĩ quan Hải quân Nha Trang).
Portland OR, Tháng Giêng năm 2024
HQ. Phạm Quốc Nam
(PGM/HQ.611 Trường Sa)

Tàu Trung Cộng

Soái hạm Trung Cộng K-274

274 bị HQ 4 bắn trúng pháo tháp (ngay mũi tên), tiêu diệt bộ chỉ huy, ủi bãi được kéo về căn cứ sau trận hải chiến

K-281 (đội trưởng Lưu Hỉ Trung) và K-282 đến sau trận hải chiến bắn chìm HQ-10 Nhật Tảo