(Ảnh: Phó thủ tưởng Numan Kurtulmuş )

Ngày càng có những phát hiện mới chứng tỏ rằng nhận thức của khoa học đối với những vấn đề lớn về nhân loại còn rất hạn chế hoặc không chính xác. Với lượng dữ liệu đã rất lớn, liệu đã đến lúc cần thay đổi sách giáo khoa về con người?

Về khoa học mà nói, Thuyết tiến hóa đã lỗi thời và đã được chứng minh là sai. Chẳng có quy định nào rằng phải giảng dạy học thuyết này. Có lẽ đưa nó vào chương trình như một trong nhiều lý thuyết mà thôi,” ông Kurtulmuş phát biểu với CNN vào ngày 29/1/2017.

“Quan điểm rằng người tin và biết về Thuyết tiến hóa là tân thời và tiến bộ, còn người chống lại thì thụ động và lỗi thời, bản thân nó đã là một quan điểm xưa cũ,” ông bổ sung.

Rất nhiều người chỉ trích rằng quyết định ngừng dạy Thuyết tiến hóa của Thổ Nhĩ Kỳ bị ảnh hưởng của đức tin người Hồi giáo (vốn là tôn giáo phổ biến nhất ở nước này) đối với Thuyết sáng tạo. Tuy nhiên, ít người biết được rằng ngoài lý do tôn giáo thì ở Thổ Nhĩ Kỳ tồn tại 2 di chỉ khảo cổ nổi tiếng đi ngược hẳn với Thuyết tiến hóa. Đó là một xác tàu hóa thạch được cho là con tàu Noah được tìm thấy ở một đỉnh núi thuộc dãy núi Ararat và ngôi đền có tên Göbekli Tepe.

Nếu việc tìm thấy con tàu Noah đã khẳng định rằng câu chuyện về trận đại hồng thủy cách đây 5.000 năm hủy diệt một nền văn minh có trình độ cao là có thật thì việc phát hiện ra ngôi đền Göbekli Tepe lại khẳng định về sự tồn tại và hủy diệt của một nền văn minh khác cách đây 13.000 năm với trình độ công nghệ rất cao.

Những di chỉ này là bằng chứng phủ nhận sự hợp lý của thuyết tiến hóa, cho rằng con người vốn tiến hóa từ vượn người, con người hiện đại mới chỉ xuất hiện 10.000 năm nay và nền văn minh loài người mới chỉ có khoảng 5.000 năm.

Tất nhiên không chỉ 2 di chỉ khảo cổ tại Thổ Nhĩ Kỳ phủ định sự hợp lý của Thuyết tiến hóa mà còn có rất nhiều bằng chứng và các dẫn chứng khoa học khác phủ nhận tính chính xác của thuyết tiến hóa: từ những dấu chân hóa thạch của người bình thường tới những dấu chân người khổng lồ, từ những vật dụng nhân tạo tinh xảo cho đến những những công trình cự thạch vĩ đại

Dấu chân khổng lồ hóa thạch ở Mpaluzi, châu Phi (trái) và dấu chân khổng lồ ở Lazovsky, Nga (phải) (Ảnh: Internet)

Nhưng không chỉ thuyết tiến hóa bị chứng minh là sai lầm…

Vật chất có thể di chuyển với tốc độ nhanh hơn ánh sáng
Theo khoa học hiện đại, tốc độ ánh sáng (một cách tổng quát hơn, tốc độ lan truyền của bức xạ điện từ) trong chân không, ký hiệu là c, là một hằng số vật lý cơ bản, nó có giá trị chính xác bằng 299.792.458 m/s. Theo thuyết tương đối hẹp, c là tốc độ cực đại mà mọi năng lượng, vật chất, và thông tin trong vũ trụ có thể đạt được. Nó là tốc độ cho mọi hạt phi khối lượng liên kết với các trường vật lý (bao gồm bức xạ điện từ như photon ánh sáng) lan truyền trong chân không. Nó cũng là tốc độ truyền của hấp dẫn (như sóng hấp dẫn) được tiên đoán bởi các lý thuyết hiện tại.

Tuy nhiên, lý thuyết về vướng víu lượng tử đã khẳng định rằng có tồn tại một cơ chế thông tin giữa 2 hạt có vướng víu lượng tử với nhau, và cơ chế thông tin này có tốc độ truyền tin nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Điều này bị chính nhà Bác học Einstein phản đối rất kịch liệt.

Ảnh chụp từ thí nghiệm cho thấy sự vướng víu của 2 photon (Ảnh: đại học Glasgow)

Tuy nhiên, các thí nghiệm về vướng víu lượng tử ngày nay đã khẳng định rằng Einstein đã sai, có một dạng vật chất nào đó có thể di chuyển với tốc độ nhanh hơn ánh sáng. [8] Hiệu ứng vướng víu lượng tử cũng ngày càng được ứng dụng một cách rộng rãi vào công nghệ máy tính lượng tử. [9] Các nhà khoa học cũng đã lần đầu tiên chụp ảnh được 2 hạt có vướng víu lượng tử với nhau. [10]

Lý giải hoàn toàn khác về ý thức con người
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: “ý thức (tinh thần) là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức không có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn.”

Tuy vậy ngày nay, các thí nghiệm nghiên cứu và thí nghiệm khoa học đã chứng minh được rằng ý thức (tinh thần) của con người không nằm trong bộ não người mà tồn tại độc lập với bộ người; khi con người chết đi ý thức của họ vẫn tồn tại.

Những điều này mang lại cho chúng ta sự ngạc nhiên lớn đồng thời nó cũng có thể mang đến những tác động to lớn đến lĩnh vực khoa học nghiên cứu về thân thể người.

Vũ trụ này liệu có hình thành ngẫu nhiên?
Năm 1966, nhà thiên văn học Carl Sagan cho rằng có 2 tham số (tiêu chí) cần thiết để một hành tinh hỗ trợ sự sống: một ngôi sao đúng loại, và một hành tinh với khoảng cách phù hợp xoay quanh ngôi sao đó.

Nhưng khi hiểu biết của chúng ta về vũ trụ tăng lên, rõ ràng là còn có rất nhiều yếu tố cần thiết khác để tạo ra sự sống hơn Sagan giả định, chứ chưa nói đến sự sống thông minh. Hai tham số cần thiết của ông tăng lên thành 10 tham số, sau đó là 20, và sau đó là 50.

Hiện tại, các nhà khoa học đã cho rằng, tối thiểu cần có hơn 200 tham số đã biết để Trái Đất trở thành một hành tinh có sự sống. Tất cả các tham số đó phải được đáp ứng một cách hoàn hảo, nếu không tất cả sẽ tan rã.

Ví dụ, nếu không có một hành tinh khổng lồ với lực hấp dẫn lớn như sao Mộc gần đó, để làm chệch hướng các tiểu hành tinh, Trái Đất sẽ tả tơi giống như một chiếc bia phóng tiêu trong vũ trụ, thay vì là một quả cầu xanh tươi. Hoặc lực hấp dẫn của Trái Đất cần rất chính xác để hơi nước bị giữ lại, đảm bảo độ ẩm và nhiệt độ phù hợp cho sự sống, nhưng cũng là điều kiện để cho khí metan và amoniac – những khí gây chết người – thoát ra khỏi hành tinh. Chỉ cần thay đổi một vài điểm phần trăm của lực hấp dẫn thì tất cả chúng ta đều chết…

Tuy nhiên, việc tinh chỉnh để sự sống tồn tại trên một hành tinh còn thua xa so với việc tinh chỉnh để Vũ Trụ tồn tại. Ví dụ, các nhà vật lý học thiên thể hiện tại biết rằng các giá trị của bốn lực cơ bản – lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân “mạnh” và “yếu” – đã được xác định trong ít hơn một phần triệu của một giây ngay sau Vụ Nổ Big Bang. Thay đổi dẫu chỉ một chút rất nhỏ trong bốn giá trị này thì Vũ Trụ như chúng ta biết sẽ không thể tồn tại.

Ví dụ, nếu tỉ số giữa lực hạt nhân “mạnh” và lực điện từ bị giảm đi chỉ một phần nhỏ nhất của phần nhỏ nhất, không thể mường tượng nổi, thì không một ngôi sao nào có thể hình thành. Nhân tham số đó với tất cả các điều kiện cần thiết khác, xác suất cho việc Vũ Trụ tồn tại ngẫu nhiên là quá nhỏ bé khủng khiếp đến nỗi quan niệm rằng tất cả chỉ là “ngẫu nhiên” chống lại lý lẽ thông thường.

Tức là, xác suất lớn nhất để Trái Đất ngẫu nhiên trở thành một hành tinh có sự sống là 1/10200 và xác suất để Vũ Trụ hình thành một cách ngẫu nhiên còn nhỏ hơn vô số vô số lần. Trong khi đó, các nhà toán học xác định rằng, bất kỳ một xác suất nào nhỏ hơn 1/1050 thì được coi là không thể xảy ra.

Rõ ràng, việc giả định tồn tại một trí huệ vĩ đại – một vị Thượng Đế (God) – đã tạo ra các điều kiện hoàn hảo để cho trái đất và vũ trụ tồn tại cần ít lòng tin hơn hẳn so với quan niệm cho rằng sự hình thành của Trái Đất và Vũ Trụ chỉ là ngẫu nhiên.

Tin rằng Trái Đất được hình thành ngẫu nhiên cũng như tin vào xác suất rằng khi tung một đồng xu thì nó sẽ ngửa mặt 10 tỉ tỉ lần liên tiếp (ảnh: Shutterstock)

Trước đây, nếu một nhà khoa học cho rằng Thượng Đế là có thật, thì chắc chắn nhà khoa học đó sẽ bị cho là điên khùng. Tuy nhiên, vẫn có nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về các vấn đề tâm linh với các tiêu chuẩn khoa học khắt khe, điển hình như Giáo sư Gary E. Schwartz, giám đốc Phòng thí nghiệm vì những tiến bộ về ý thức và sức khỏe tại Đại học Arizona, Hoa Kỳ.

Tháng 8/2001, GS. Gary đã có một một thí nghiệm khoa học được thiết kế nghiêm ngặt cùng với Christopher Robinson – người có khả năng mơ những giấc mơ tiên tri với độ chính xác 100% – để chứng minh có tồn tại một vị Thượng Đế (God).

Thí nghiệm của Gary và Christopher cuối cùng đã chứng minh một cách gián tiếp được sự tồn tại của một sức mạnh vô hình mà Gary gọi là G.O.D (Guiding – Organizing – Designing process – quá trình Hướng dẫn – Tổ chức – Thiết kế) – thực thể có khả năng sản sinh, thiết kế, hướng dẫn, tổ chức vạn sự vạn vật trong Vũ Trụ này với quyền năng vô hạn và sự tinh tế phi thường.

Giáo sư Gary cũng là tác giả của nhiều thí nghiệm khoa học chứng minh sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết bằng các thiết bị quang học và âm thanh cực nhạy, [13, 14] với các báo cáo khoa học đã được bình duyệt.

Đã đến lúc cần thay đổi sách giáo khoa về con người?

Những phát hiện được đề cập bên trên hầu hết vẫn bị giới khoa học dòng chính, những người có chức trách và chính phủ các nước phớt lờ. Tuy nhiên, hãy hình dung một chút về những tác động đối với con người nếu những phát hiện này được phổ biến, tiếp tục khám phá, giảng dạy và ứng dụng:

Các bằng chứng khẳng định thuyết tiến hóa là sai lầm sẽ dẫn đến nhận thức rằng nguồn gốc con người không phải do vượn người tiến hóa thành, mà được tạo ra bởi các sinh mệnh có trí huệ siêu việt nào đó. Sự thừa nhận có một loại vật chất tại một không gian nào đó có thể di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng có thể mở ra một kỷ nguyên mới trong khám phá vũ trụ của con người, đồng thời nó cũng gợi ý rằng những sinh mệnh cao cấp ở các không gian khác có thể có năng lực di chuyển siêu việt không gian và thời gian.

Chấp nhận quan điểm cho rằng ý thức nằm ngoài bộ não của con người, Thần thực sự tồn tại sẽ dẫn nhân loại đến một kỷ nguyên mới mà ở đó các yếu tố tinh thần được coi trọng hơn so với các yếu tố vật chất, con người sẽ luôn luôn duy trì và ước thúc đạo đức của mình, xã hội khi đó sẽ phát triển hòa bình và hạnh phúc hơn.

Những phân tích trên đây đã khẳng định một điều rằng rất nhiều quan niệm và những điều được dạy trong trường học là không chính xác hoặc không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Và những gì phát sinh, phát minh và phát hiện nơi nhân loại hiện nay đã đủ để thay đổi sách giáo khoa và hệ thống giáo dục của con người. Nếu nhân loại có thể tiếp thu những nhận thức mới này, thì con người sẽ bước sang một kỷ nguyên văn minh mới với những bước phát triển rực rỡ, hòa bình và hạnh phúc hơn.

Thiện Tâm tổng hợp