THÁNG NGÀY TAO LOẠN

Chân tình của Một Bác sĩ Nhảy Dù: Vĩnh Chánh

ĩnh Chánh là một Bác sĩ Nhảy Dù. Năm 2019 ông xuất bản một cuốn sách, nhan đề là Tháng Ngày Tao Loạn.

Tên cuốn sách đưa người đọc đến ngay cảnh: “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi”.

Nhưng những nỗi truân chuyên trong cuộc chiến Việt Nam không giới hạn trong giới má hồng, mà trùm khắp lên cả nam lẫn nữ, từ đứa trẻ lên đến người già, và đủ mọi thành phần.

Điểm son đầu tiên và cũng lớn nhất trong cuốn sách là:

Khi nói đến thảm họa 30/4/1975, tác giả luôn luôn dùng chữ “mất nước”, chứ không bao giờ dùng chữ giải phóng của bọn Bắc kỳ Việt cộng. Chỉ cần viết hai chữ thôi, lập trường của Bác sĩ Vĩnh Chánh đã hiển nhiên.

I. Vĩnh Chánh rất thẳng tính. Vị Bác sĩ này ngoan đạo, nhưng không ngần ngại khi thú nhận rằng đã có những ao ước thầm kín được quỳ bên nàng trong nhà thờ khi cầu nguyện và nhất là để được nắm tay nàng khi chúc nhau bình an. Sự ao ước được tiếp xúc thân cận, bắt đầu bằng cách được nắm tay là hiện tượng rất phổ thông trong lòng những người con trai mới lớn thời đó. Điều này khác hẳn với cách sống của xã hội âu tây ngày nay.

Trong vài năm trước khi mất nước, có mấy nhà thờ tân tiến như nhà thờ ở Trung Tâm Đắc Lộ tại Sài Gòn người vào đi lễ có thể đứng ngồi ở bất cứ chỗ nào trống chứ không nhất thiết phải ở dãy thuộc về nữ hay nam. Điều này khiến tôi thầm tiếc đã không xảy ra khi còn ở Huế, tôi đã không có cơ hội được quỳ gần Nàng trong nhà thờ, cùng cầu nguyện đọc kinh bên cạnh nhau, nghe Nàng hát thánh ca, và… để được nắm tay Nàng khi chúc nhau bình an.”

Ông cũng không trù trừ gì, khi cần vẫn lôi tên những linh mục làm lợi cho Việt cộng ra:

Không ngờ chỉ sau mấy tháng tạm yên tĩnh, cộng sản leo thang dấy lại cuộc binh đao, quyết tâm dồn mọi sức lực tấn công Miền Nam trong tư thế thượng phong với toàn bộ vẫn nằm ém tại Miền Nam, chiếm đất giành dân, lợi dụng thể chế tự do dân chủ của Miền Nam để xúi giục các thành phần thứ Ba biểu tình, các nhóm dân biểu đối lập liên tục gây áp lực đả phá chính quyền, các linh mục ‘tiến bộ’ như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cẩn, Phan Khắc Từ… công khai gián tiếp nối giáo cho giặc. Cuộc chiến dần xoay chiều có vẻ bất lợi cho phía phe ta.”

Bác sĩ Chánh nói hết ra những liên hệ họ hàng, hay bạn bè với những người của cả hai phía quốc gia và cộng sản.

– Phía quốc gia:

Anh em nhà Ngô Đình kêu Bà Nội tôi bằng Dì, thường cho người đem quà biếu trong các dịp lễ tết.”

Kể về vai vế, ông gọi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bằng bác, họ bên mẹ.

Vĩnh Chánh nói thẳng ra, mà không hề sợ những người vốn không thích, hay có lòng thù nghịch nhà họ Ngô ngày đó, bây giờ biết được liên hệ họ hàng này, mà đâm ra ghét lây sang mình.

– Phía cộng sản:

A – Thân phụ Ông, là bạn thân của Đặng Thái Mai, là người thầy của Võ Nguyên Giáp.

“… Sang đời ba tôi, Ông Nguyễn Phúc Bửu Tiếp, sinh năm 1904, được Ông Nội cho theo Tây học. Đầu thập niên hai mươi, khi ra Hà Nội học trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, ông Tiếp có người bạn thân cùng lớp là Ông Đặng Thái Mai, sinh năm 1902, lớn hơn ông hai tuổi. Cả hai cùng tham gia các hoạt động sinh viên.

Tuy là trường Tây nhưng hội sinh viên tại đây tự xưng là: ‘Hưng Nam Phục Việt’ hàm ý chống lại ách lệ thuộc người Pháp. Năm học cuối, ông Đặng Thái Mai chọn chuyên khoa văn chương. Ông Bửu Tiếp chọn ngành khoa học. Cả hai tốt nghiệp năm 1926, sau đó cùng nhau về Huế làm giáo sư Quốc Học, giao tình ngày càng thân thiết hơn.”

Tuy thế, thân phụ Ông đã bị cộng sản thanh toán.

“… Ngày 24 tháng 7, sau khi người Y tá vừa rút mũi kim chích thuốc khoẻ ra khỏi mạch máu ở tay, là Ba tôi đứng tim chết, khi Măng tôi vừa bước chân vào nhà.

Măng tôi kể là ngay khi ôm xác Ba trong tay, bà đã cảm thấy có điều gì bất thường. Ba tôi lúc đó đang khoẻ mạnh, việc chích thuốc bổ chỉ là để gìn giữ sức lực. Người chích thuốc là một y tá bà con xa, và thường chích thuốc khoẻ Huile de Camphre vào thịt mông Ba tôi. Tại sao lần này ông ta lại chích vào mạch máu?

Vì đó chính là mũi thuốc được thi hành theo một ‘lệnh xử lý’, từ ngữ cộng sản, có nghĩa là ‘giải quyết hoặc thủ tiêu
’”.

Điều này, thân mẫu ông chỉ mới nghi ngờ, nhưng sau do ngẫu nhiên, trong một lần tới nơi họp, bà nghe được:

“… Sau khi ba tôi mất, suốt thời kháng chiến chống Pháp, chi hội phụ nữ nằm vùng tại Huế cố lôi kéo Măng vào tổ chức của họ, nhưng Măng đã nhiều lần thoái thoát với lý do goá phụ bận rộn nuôi bầy con, mười lần bị kêu đi họp thì chỉ đi đến một lần cho có lệ…

… Vào thời gian chia đôi đất nước của hiệp định Genève 1954, Măng tôi thình lình đến nơi họp, và đến trễ. Đang đứng bên ngoài cửa căn nhà họp trong chiều tối, tình cờ Măng nghe tiếng các người bên trong phòng đang bàn tán về mình ‘Thằng Tiếp không chịu ra ngoài Bắc làm việc theo chỉ thị cấp trên nên chúng ta đã xử lý nó rồi. Cái thứ công giáo đó chỉ làm hư danh cách mạng thôi. Nay còn con Liễu (tên của Măng tôi), ráng chờ xem nó có chịu tập kết hay không rồi sẽ quyết định.’ Nghe vậy Măng tôi lạnh cả xương sống, từ từ rời căn nhà họp không một tiếng động. Từ đó bà dứt khoát cắt đứt mọi liên lạc.

… Khi nghe bà kể chuyện này tôi hỏi Măng, phải chăng ba chết do lệnh cộng sản thủ tiêu, rồi sau đó dàn dựng một lễ an táng long trọng kiểu nhà nước để mờ mắt thiên hạ. Măng tôi trả lời đúng như vậy. Bà cũng xác nhận ông bà chỉ là những người quốc gia chống Pháp vì yêu nước, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản. Bà nói thêm, càng về sau Măng càng nghiệm ra những giả dối của cộng sản và từng lo ngại khi thấy hai con trai lớn không có kinh nghiệm này
.”

B – Thân mẫu ông là bà Huỳnh Thị Liễu bạn thân của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ của Võ Nguyên Giáp. Cả hai bạn với nhau từ lúc 13,14 tuổi.

C – Hai người anh ruột.

1. Sau 1975, trong khi các Bác sĩ của Việt Nam Cộng Hòa đều bị nhốt tù thì Bác sĩ Vĩnh Toàn lại được dùng và còn được chuyển từ Hội An về Đà Nẵng tới một bệnh viện lớn hơn.

Về anh Vĩnh Toàn, ông anh đầu của tôi, tuy hai anh em cùng ở trong nước nhưng vì hoàn cảnh, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Tôi chỉ được biết, sau khi tốt nghiệp bác sĩ thời Việt Nam Cộng Hoà, anh từng làm Trưởng Ty Y Tế Quảng Nam. Mùa xuân 1975, khi miền Trung thất thủ, anh đang là Giám Đốc Bệnh Viện Hội An. Sau đó được chế độ mới thuyên chuyển về làm việc tại bệnh viện toàn khoa tại Đà Nẵng. Mãi sau ngày đi tù cải tạo về, hai anh em mới gặp lại lần đầu, khi anh vào Sài Gòn thăm Măng tôi. Nghe anh nói đã quyết định tiếp tục sống trong nước, không đi đâu cả, tôi hiểu là anh em chúng tôi sẽ đường ai nấy đi.”

2. Vĩnh Anh

Anh Vĩnh Anh kể lại chuyện chính anh vừa trải qua. Năm 1990, các thành viên chủ chốt của nhóm Việt Kiều Yêu Nước (VKYN) tại Montréal, trong đó có ông anh tôi, đuợc ban Việt Kiều của chính phủ cộng sản Việt Nam mời về nước với mục đích, góp ý cho Đảng Cộng sản Việt Nam làm cách nào tránh được hiện tượng Thiên An Môn/Tiamen Square xảy ra tại Trung Quốc năm 1989, sẽ không thể xảy ra tại Việt Nam.

Theo kế hoạch của nhóm Montréal, anh Vĩnh Anh nằm chờ tại Sài Gòn, 4 người kia bay ra Hà Nội. Một anh ở chờ trong khách sạn, 3 anh còn lại vào họp, mang theo bản văn góp ý của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montréal: bãi bỏ chế độ độc đảng, cho thành lập chế độ đa đảng càng sớm càng tốt.

Sau hai ngày không thấy các bạn mình trở lại khách sạn, và cũng chẳng nhận được tin nhắn miệng nào, người chờ bên ngoài khách sạn Hà Nội điện thoại báo tin cho anh tôi. Đoán chuyện không hay xảy ra, anh tôi tức tốc bay ra Hà Nội, đến tư gia ‘bác Võ Nguyên Giáp’ xin vào gặp với tư cách là ‘con trai của ông Bửu Tiếp’, người thày giáo Quốc Học Huế thời xưa. ‘Bác’ Võ Nguyên Giáp lắng nghe, lắc lắc đầu, rồi bảo anh tôi về chờ tại khách sạn.

Thêm hai ngày căng thẳng chờ đợi trong lo âu. Bỗng trong đêm thứ hai, cả anh tôi và người bạn thứ hai được chở vào bên trong một cơ quan, nhìn thấy ba người bạn mình, người nào cũng xám xịt, căng thẳng, một người lại có băng trắng ở cổ tay. Không dài dòng giải thích, cả 5 người được lệnh ký tên vào giấy cam kết đủ thứ, kể cả việc không bao giờ được về lại Việt Nam.

Sau khi đồng loạt ký tên, cả 5 người được chở thẳng ra phi trường lên chuyến bay sớm nhất về Canada. Trên máy bay anh tôi được các bạn cho biết, sau khi phát biểu ý kiến chủ trương đa đảng của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montréal, cả 3 bị bắt đưa ngay vào một bệnh xá tâm thần. Anh bạn tổng thư ký của nhóm quá tức giận nên quyết tự sát bằng cách rạch cứa vào cổ tay mình, nhưng được cứu thoát. Chính vì vậy mà chúng mới thả cho về vì e ngại sẽ có khó khăn với bộ ngoại giao Canada.

Vậy là nhóm Việt Kiều Yêu Nước Montréal trước đây đã từng rúng động bởi hiện tượng vợ chồng Phục & Vĩnh Thuỷ vượt biên trở về lại Canada, nay lặng lẽ tan rã. Mỗi thành viên mang một nỗi niềm riêng
.”

Bác sĩ Vĩnh Chánh phổ biến tất cả những dữ kiện trên một cách rõ ràng. Và Ông cũng kể luôn cả việc người vợ sau của Võ Nguyên Giáp là Bích Hà đến thăm thân mẫu ông sau năm 1975.

“… Miền Nam càng ngày càng đói khổ, mà ngoài Bắc vô đây cái gì cũng tha ra ngoài đó. Khi chia tay tưởng đã đi luôn. Không ngờ Bích Hà còn trở lại lần thứ hai, và khi ra về còn xin đem theo những sách quý bằng tiếng Pháp của Măng tôi. Lần này, Măng không những chỉ cho sách mà còn gửi lời kính thăm bác Đặng Thái Mai và ông Giáp.

Có thể nhờ hai cuộc viếng thăm này mà các anh công an khu vực có phần nương tay với ngôi nhà của Măng ở cư xá Bắc Hải, khi đi tù về, tôi cũng không bị làm khó dễ.


Trong tiếng Việt, để chỉ việc đem từ chỗ này sang chỗ khác người ta dùng những động từ như: đem đi, mang tới, cõng vào, đưa ra.

Còn khi súc vật di chuyển một thứ gì đó, thì người ta dùng chữ tha, giống như câu thường nói: “chó tha đi, mèo tha lại”. Chúng ngoạm vào mồm rồi bốn chân bước.

Chỉ một dòng viết: “Miền Nam ngày càng đói khổ, mà ngoài bắc vô đây cái gì cũng ‘tha’ ra ngoài đó’”. Thân mẫu Bác sĩ Chánh đã dùng chữ “tha” thật tuyệt vời khi kể lại chuyện bà vợ thứ hai của Võ Nguyên Giáp tới thăm bà.

Lẽ dĩ nhiên thân mẫu của Vĩnh Chánh chẳng muốn dính dáng gì tới cái đám Việt cộng đó cả, nhưng tránh trời không khỏi nắng. Bà “đại tướng” lại vào thăm lần thứ hai và vét hết sách vở tiếng Pháp của bà ra ngoài Bắc.

Vĩnh Chánh có một lập trường rõ ràng, là dưới mắt ông, cộng sản chỉ ăn có và ăn cướp.

II. Nhảy Dù Cố Gắng

Phương châm của Binh Chủng Nhảy Dù là CỐ GẮNG, cố gắng trong mọi hoàn cảnh, dù tình thế khó khăn đến đâu, và dù nguy hiểm đến mức nào.

Nhưng có một điều Bác sĩ Vĩnh Chánh, một người rất ngoan đạo, không cố gắng. Không thể cố gắng. Không muốn cố gắng. Và sẽ không bao giờ cố gắng làm theo ý Chúa muốn là “phải thương yêu kẻ thù”.

“… Cầu nguyện với Chúa bao nhiêu đi nữa. Xưng tội với Chúa bao lần đi nữa, tôi vẫn còn mắc phải một cái tội mà không khi nào tôi có làm lành với chính mình. Người ta thường nói ‘mắt đối mắt’, ‘răng đối răng’. Phần riêng tôi, đối với bọn cộng sản thì tôi xin bẻ cho được cái ‘răng cấm’. Vì tôi không thể là cha Don Camillo và nhất là bọn cộng sản Việt Nam ác độc kia không thể như ông Xã Trưởng Pepone được.

Bởi vậy, Chúa ơi, con chưa được là con người hoàn thiện như ý Chúa muốn: ‘Phải thương yêu kè thù’
.”

Ông đã suy nghĩ và quyết định theo lương tâm của mình.

Émile Durkheim (1858–1917), một nhà xã hội học Pháp, đã nói: Quand notre conscience parle, c´est la société qui parle en nous, “Khi lương tâm của chúng ta nói, đó là xã hội nói trong chúng ta.”

Lương tâm của Vĩnh Chánh nói, ông không thể thương yêu kẻ thù được. Đó chính là tiếng nói của xã hội miền Nam trước 1975, là nơi sinh sống của những người cư xử với nhau theo cung cách đã có của bốn nghìn năm văn hiến. Đó là tiếng nói của người của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Muốn thương yêu kẻ thù, thì trước hết phải quên được những tội ác chúng đã làm. Nhưng Bác sĩ Vĩnh Chánh không những không quên, mà còn nhớ rất rõ.

“… Sự tráo trở, tàn bạo của Cộng sản Việt Nam đã đẩy nhiều thế hệ vào cảnh tương tàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Ba tôi bị thủ tiêu như bao người quốc gia khác bị thủ tiêu, những bà con Huế bị tàn sát thời Tết Mậu Thân và tất cả những người Việt gục ngã trong thời chiến và hậu chiến đều là nạn nhân của cộng sản.

Cái chủ nghĩa ma quỷ ấy đã là thứ hết thời. Dăm ba mảnh tàn dư của nó rồi cũng lụi tàn. Nhiều tội ác sẽ bị khuất lấp hoặc sẽ đuợc quên đi. Nhưng quên, với tôi, không có nghĩa là tha thứ, vì tha thứ là quyền của những người đã chết
.”

III. Vĩnh Chánh viết rất nhiều về hoa quả và những cây trong vườn nhà ông nội. Từ mít, dừa, măng cụt, đu đủ, chuối, đến những cây trái ít người nghe nói tới, chứ đừng nói là được ăn bao giờ, như vả, sấu. Trái vả, họ nhà sung. Trái Sấu, ở ngoài bắc rất nhiều.

Đọc chương sách này của ông,

– Người Nam sẽ thấy thích thú và hãnh diện về những trái cây của họ: xoài, cóc, măng cụt, vú sữa, và trứng cá.

– Người Bắc sống ở Hà Nội trước năm 1954, sẽ nhớ lại những cây Sấu dọc hai bên những con đường yên tĩnh, sang trọng của thời vàng son đó, và vị đặc biệt của trái cây này.

Ông còn nhắc cả tới cam Xã Đoài, không có trong vườn nhà ông nội, mà ông không biết ngưồn gốc ở đâu. Điều này người viết có thể trả lời cho ông được. Cam Xã Đoài gốc ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Người dân sống ở đây, luôn luôn hãnh diện mà nói tới hai thổ sản ngon của họ là “Cam Xã Đoài và Bưởi Phúc Trạch”.

Chuyện viết trong chương này rất nhiều, rất chi tiết, nhưng không phải là những chuyện vụn vặt không đáng kể ra. Trái lại, chương này đáng đọc đi đọc lại nhiều lần. Vì trong đó, Ông tài tình cho ta thấy đó là hình ảnh của quê hương: từ cách ăn uống, các món ăn vặt, những hương vị ngày Tết, cách chữa bệnh thô sơ, những đồ chơi trẻ em, những câu nói khôi hài, và cảnh thanh bình trên đất thần kinh cho đến những liên tưởng sự ăn cướp trắng trợn của Việt cộng:

– Là những hình ảnh của quê hương.

– Là một số điều về cách ăn uống, thực phẩm, như ăn chuối chát nhiều bị táo bón, hột mít gây trung tiện:

“… Còn hột mít thì luộc hoặc lụi trong tro nóng, vừa ăn vừa thổi. Và thổi đi luôn những luồng hơi không mấy thơm từ bụng xì ra.”

– Là những món ăn vặt:

“… Một phần quan trọng gắn bó với tuổi thơ, cũng theo tôi lớn lên. Cắn một trái ổi giòn vừa hái trên cây xuống, bỏ vào miệng hút nước ngọt của trái nhãn, bóc vỏ một trái dâu, xẻ một trái mít, cầm nguyên cả chùm đào trên tay, nhăn mặt vì một miếng khế chua, cắt khoanh một trái măng cụt, bóp mềm một trái vú sữa, dú trong cartable một trái thị vàng chín… dẫn ta về với bao nhiêu hương vị của thời xa xưa khó quên. Những kỷ niệm quá êm đềm gắn bó với tuổi xanh!”

– Là những món đầy hương vị Tết:

“… Khi lớn lên, tôi mới bắt đầu biết thêm có me dầm, mứt me bao trong giấy gương, me ngào đường, nhất là vào các dịp tết.

Tại nhà, để đón Tết, các anh chị em ngồi xúm lại cắt dừa làm mứt dừa, một món mứt rất được ưa thích và tương đối dễ làm. Khi thì dừa trắng bóc, hay mầu hồng, thơm cả mùi đường sau khi ngào xong. Riêng tôi luôn đứng chực ăn các miếng mứt dừa vụn cháy sót lại trong chảo.

… Vì vậy tôi không hiểu từ đâu mà chợ Huế bán đầy trái Quất vào dịp trước Tết để thiên hạ mua về làm mứt Kim Quất. Măng tôi và các chị tôi xúm lại dùng kim cúc buộc lại từng bó, đâm bào từng trái Quất, rồi bóp cho hột và nước chua ra hết, xong mới trụng sơ trong nồi nước sôi trước khi ngào với đường trắng. Thật công phu và mất nhiều giờ. Nhưng đó là hình ảnh của hạnh phúc khó quên khi cả nhà xúm xít ngồi bên nhau sửa soạn ngào những món mứt vào dịp Tết.”

– Là cách chữa bệnh rất thô sơ, theo kinh nghiệm: vỏ măng cụt khô, dùng để chữa tiêu chảy. (Không thấy tác giả nói tới công dụng của lá ổi trong hỗn loạn này của bộ tiêu hóa.)

– Là những đồ chơi của trẻ em:

“Ngoài phố Huế, có người dùng lá dừa xếp thành những con châu chấu, những con chuồn chuồn hay những chiếc xe hơi. Hay thật!”

– Là một vài câu nói vừa phổ thông, hơi có tính chất khôi hài, vừa đúng vừa không đúng, hư thực ra sao chỉ có trai gái nằm bên nhau, mới tự biết:

“… Mùi bốc lên ngọt ngào mê hoặc nhưng nồng, hèn chi mà người ta thường viết:

‘Em thơm như múi mít,cũng phải.’”

– Là cảnh thanh bình trên đất thần kinh:

“Khi tôi ở ‘nội trú’ tại trường Đồng Khánh, tôi thường ra Bến Đò Thừa Phủ, nằm trước toà tỉnh Trưởng, để hớt tóc, nhìn mấy anh lính Bảo An và các người khác chơi boules, và nhất là để chiêm ngưỡng mấy chị học sinh Đồng Khánh đi đò qua lại sông Hương, giữ 2 bến đò Thừa Phủ bên này và Thương Bạc bên kia. Ngay tại bến đò Thừa Phủ, có một cây Sung lớn, với trái xanh, vàng đỏ quanh năm. Nhiều loại chim khác nhau thường rất thích đậu trên cây Sung này, mổ ăn những trái Sung chín khiến đa số trái Sung rụng xuống nước vì nhiều nhánh cây nghiêng hẳn về phía sông. Đây là nơi tôi từng trèo lên ngồi vắt vẻo trên cành là đà gần mặt nước say mê xem Nhảy Dù nhảy biểu diễn trên sông Hương nhiều lần trong cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, và đã để lại cho tôi ấn tượng hào hùng về Nhảy Dù khiến tôi quyết định gia nhập binh chủng Thiên Thần Mũ Đỏ về sau.”

– Là khi viết đến mít, ông nhắc đến nỗi thất tình của mình.

– Là điều mà cây đu đủ nhắc Vĩnh Chánh nhớ tới sự ăn cướp của Việt cộng:

Vườn nhà tôi có 4–5 cây Đu Đủ, trong khi vườn nhà Ông Nội có cả chục cây, ở khắp góc cạnh của vườn trước, bên hông hay vườn sau. Có nhiều cây có vẻ rất già, khô ốm vì thiếu nước quanh năm. Về sau, tôi nhớ và vẫn cười khi nghe mấy câu vè hay xem hình hoạt hoạ người ta thường ví von mấy chú Việt cộng ốm đói cho đến nỗi đánh đu trên cành Đu Đủ mà cũng không làm gẫy cành. Nay thì ngược lại! Chút tiền của mấy anh Việt cộng treo trên cây Đù Đủ chắc cũng đủ làm cây trốc gốc!

IV. Rải rác trong các chương khác, người ta hiểu được: Phong tục ngày Tết ở đất thần kinh. Cảnh con cháu tề tựu đông đủ, chúc Tết Ông Bà, Cha Mẹ.

– Cách dạy học trò ở Việt Nam ngày đó.

“Hơn nữa trong phòng Cha Tôn, có một hàng roi mây, cái nào cái nấy đều tua cái đầu. Ngay cả các bà sơ cũng dùng roi mây.”

Vĩnh Chánh còn khoe:

… Còn vỏ mít, với những cái gai lởm chởm! Tôi cũng đã từng được các Sơ bắt quỳ trên đó khi không chịu làm bài hoặc trả bài không thuộc.

Điều này phù hợp với lời dặn trong ca dao: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.”

– Mấy loại mưa gió:

“… Đi dạo được gần hai phần ba con đường quen thuộc, gió chuyển lạnh dần, mây đen kéo dầy rồi trời bỗng đổ mưa. Lúc đầu chỉ vài giọt lắc rắc đây đó, dần dần nhiều hơn một chút, rồi hai chút. Sau đó mưa xoà đổ mạnh. Mạnh đây là đối với vùng Cali thiếu mưa quanh năm này, chứ có thấm tháp gì đối với những cơn mưa kéo dài cả giờ với mây đen nghịt và sấm sét rầm trời của Sài Gòn dạo nào, hay những cơn mưa dài vô tận, lê thê từ tuần này qua tuần nọ của Huế tôi. Và cũng chẳng thấm vào đâu nếu so với những ngày mưa rừng dầm dề thê lương của thời còn lội hành quân với Tiểu đoàn Dù. Vì ngoài chuyện mưa trời còn có thêm một loại mưa chết người khác nữa là mưa pháo. Một loại mưa mà núp kỹ dưới hầm vẫn chết, nằm trong hố cá nhân vẫn tan xác, đôi khi đến hai lần. Mưa chết người như vậy nhưng riết rồi người lính vẫn coi thường vì ‘ăn pháo’ như cơm bữa và phải ‘đội pháo’ trên đầu hàng ngày.”

Trong một đoạn ngắn mà tác giả đã tả được cả mưa bốn vùng. Thật là tài tình.

Cũng tài tình như chỉ mấy câu trong bài “Huynh đọc kinh với đệ”, mà diễn tả được đúng tâm trạng cũng như cách sử sự của những người Bắc di cư 1954. Họ đã có nhiều kinh nghiệm đau thương với Việt cộng. Họ hiểu cái thế của mình sau khi vừa mất tất cả ở miền Bắc lúc đất nước bị chia đôi, nên rất nhẫn nhục và khôn ngoan.

“… Qua kinh nghiệm của một người di cư, Tân luôn nhắc nhở tôi cần phải tuyệt đối thận trọng khi làm tờ khai sơ yếu lý lịch, càng đơn giản, càng ít chi tiết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và nhất là phải nhớ những điều mình đã khai, đã viết lên trang giấy, vì bút sa gà chết. Tân cũng thường xuyên căn dặn tôi phải dè dặt với mọi người, tránh to tiếng, tránh gây gổ và nên hạn chế làm thân hay chuyện trò với các người bạn tù khác, nhất là những người mình không quen biết nhiều hay những người ở trong các đơn vị trọng yếu như quân báo, thám báo, phượng hoàng, an ninh, cảnh sát, chiến tranh chính trị, xây dựng nông thôn… để tránh bọn antennas theo dõi.”

– Việc trao đổi tù binh:

“Chiến tranh Việt Nam bước qua một giai đoạn khác sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào tháng Giêng 1973, nối tiếp là những đơn vị quân đội Mỹ lần lượt rời Việt Nam, và trao trả tù binh. Tôi có mặt trong phái đoàn sinh viên tham dự lần trao trả tù binh Việt Nam tại sông Thạch Hãn vào giữa mùa Xuân 1973. Nhìn thấy cả mấy trăm tù binh Bắc Việt được nuôi ăn nuôi mặc tươm tất sạch sẽ với xách tay mới trên tay, được thả ra chỉ để đổi lấy có ba quân nhân của phía ta xơ xác, yếu ốm, nằm trên cáng khiêng… mới hãnh diện nhìn thấy lòng nhân đạo và tinh thần đánh giặc cao thượng của Việt Nam Cộng Hoà, ngay cả trong cách cư xử với tù nhân chính trị hay tù nhân chiến tranh. Một sự thật mỉa mai sau này tôi càng thấm thía hơn nữa khi ở trong tại tù cải tạo cộng sản.”

– Sự không bỏ anh em đồng đội:

Chương Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè là một thí dụ rõ rệt về tình gắn bó giữa những bạn đồng ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

V. Mối tình của Vĩnh Chánh

Ông yêu một người, rất say mê.

Về điểm say mê này Vĩnh Chánh cũng giống thi sĩ Nguyên Chẩn đời Đường, là người trước khi gặp được nàng Thôi Oanh Oanh đã nói: “Chỉ khi nào gặp người tài sắc tuyệt vời, thì mới điên đảo say mê, mà đã điên đảo say mê, thì chẳng thể quên tình.”

Vĩnh Chánh không quên được suốt 9 năm.

Thời gian này chỉ bằng một phần ba thời gian Thi sĩ Vũ hoàng Chương mơ tưởng mong có được người yêu:

Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm
.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương ôm mối tình tuyệt vọng trong cảnh thanh bình, yên vui của thành phố Hà Nội trong khoảng 1930.

Vĩnh Chánh, bỏ ra 9 năm, nhưng thực ra khó khăn hơn nhiều.

“… Nàng là một cô bé nhỏ nhắn mặc áo đầm vàng đi dạo cùng Mẹ và các em trong công viên trước trường Đồng Khánh mà tôi đã tình cờ nhìn thấy trong một chiều óng ánh đầy nắng vàng vào cuối hè 1967. Vài ngày sau tại nhà tôi, tim tôi đập lỗi nhịp đầy thích thú khi bất ngờ gặp chính cô bé đem bánh của Mẹ làm đến biếu ‘Bà Vú’, tiếng nàng gọi Măng tôi, vì Măng tôi là Vú Đỡ Đầu cho Mẹ nàng khi Ba Mẹ nàng làm đám cưới. Đây cũng là nhân vật trong bức ảnh gia đình, một quà tặng của Mẹ nàng cho Măng tôi từ bao năm trước, được treo trên tường, gần bàn học của tôi. Mỗi khi nhìn đến, tôi thường liên tưởng rằng có một ngày tôi sẽ có được nàng, như một ám ảnh, một mơ ước thầm kín. Một nguyện cầu vu vơ. Dù bấy giờ nàng chỉ là một cô bé tuổi 13 đang học lớp Đệ Ngũ trường Đồng Khánh.”

Nhằm mục đích xâm lăng miền Nam, Cộng sản Bắc Việt bắt đầu mở trận tấn công lớn đầu tiên tại Ấp Bắc năm 1963, rồi cứ thế liên tục, tại bốn vùng chiến thuật. Người miền Nam, dễ gì ai sống được qua những năm đó. Họ có thể bị giết bất cứ lúc nào. Dân quê tại làng mạc. Người ở thành phố, chết bởi pháo kích, và có khi bị tàn sát tập thể như hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế.

– Thăm nàng 1968

“Sau vài ngày tạm trú ở trường Kiểu Mẫu, khi biết tin gia đình người tôi yêu đang lánh nạn tại Dòng Chúa Cứu Thế, tôi tức tốc tìm đến thăm dù đường đi còn vắng hoe, nguy hiểm với dấu tích tàn phá và chết chóc hai bên đường… chỉ để kịp gặp nàng vài ba phút, thăm hỏi đôi ba câu trước khi nàng vội vã quay vào với gia đình. Hình ảnh xanh gầy của nàng với đầu tóc ngắn thân thuộc trong một buổi sáng đầy gió lạnh và mây xám trên trời mãi mãi ám ảnh tôi từ dạo đó.”

– Thăm nàng 1971

“… Trái chuối thường ăn chín sau khi dú vài ngày, nhưng anh chị tôi ít khi chờ được, nên hễ cứ đói bụng, mang chuối vừa chín tới đem ra luộc rồi chấm muối mè, rất ngon dù hơi chát một ít. Chuối cũng thường được phơi khô bán trong bao ngoài chợ, hay làm chuối chiên, chè chuối, kẹo chuối. Vào gần hè năm 1971, theo tiếng gọi con tim, tôi lên Đà Lạt tìm đến thăm người tôi yêu…

… Trước ngày bay về Huế, Nàng và tôi rảo bước đến chợ Hoà Bình. Nàng mua khá nhiều hoa quả, trái cây Đà Lạt, trong đó có mấy bịch chuối mật khô, dẻo, ngon và ngọt, nhờ tôi đem về biếu Bà Vú, là Măng tôi. Còn phần tôi, nàng cho tôi một khối tình… đau mang về nhà! Để từ đó tiếng mưa trên tàu lá chuối buồn, nghe như nức nở, thì thầm. Như nhắn nhủ, đợi chờ. Da diếc và ray rứt làm sao khi mơ tưởng về người mình yêu nơi xa.

… Riêng phần tôi vào Nhảy Dù đơn giản hơn. Tôi vào Nhảy Dù vì… thất tình. Nhưng về sau, cũng chính nhờ bộ áo Hoa Dù và Mũ Đỏ, tôi lại từ từ chiếm được trái tim Nàng.

… Chị thứ năm Mai Tâm của tôi bỏ học dù đang là sinh viên năm cuối của phân khoa Chính Trị Kinh Doanh của Đại Học Đà Lạt, và quyết định lấy chồng là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân khi tiểu đoàn đến giải toả thị xã Đà Lạt trong vụ cộng sản tấn công vào Tết Mậu Thân. Lần chị đem người yêu về trình diện gia đình tôi thích anh liền. Không những vì anh đã xuất thân từ 16 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, mà vì anh trông cao ráo, điển trai, rất điềm đạm và thật hào hùng trong bộ đồ rằn ri. Có lẽ từ đó tôi có suy nghĩ nếu muốn lấy được cảm tình người đẹp, chắc tôi phải tạo cho mình một hình ảnh sắt đá oai hùng của một chàng trai đúng nghĩa của thời chiến. Đúng với hình ảnh ‘Em là gái trong khung cửa, Anh là mây bốn phương trời…’

… Đến nước đó, tôi cương quyết giữ vững lập trường của mình, cho biết tôi dứt khoát muốn trở thành một Bác sĩ Nhảy Dù, rằng tôi muốn tự thực hiện một thay đổi quan trọng cho đời mình, dấn thân vào chốn nguy hiểm để xem mình có thể quên được người con gái tôi hằng đeo đuổi và thương nhớ trong nhiều năm qua. Xót xa cho thằng em mình, các chị tôi bênh vực tôi và cuối cùng Măng tôi đành miễn cưỡng chấp nhận.

… Nhờ vậy tôi có dần sự chững chạc trong suy nghĩ và trong phong cách, vẻ hiên ngang khí khái của một Thiên Thần Mũ Đỏ và nhất là sự quyết chí và bền bỉ khi tìm gặp người tôi hằng yêu thương sau 3 năm xa cách…

… Đúng vào chiều Mùng Một Tết, hiên ngang trong bộ hoa dù mũ đỏ, và chững chạc phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi tìm đến thăm nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Mối tình tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi theo thời gian. Dưới mắt nàng tôi không còn là một bạch diện thư sinh ngày nào mà là một con người dày dạn phong sương, tự tin và lạc quan.”

VI. Ngày mất nước

“Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù tôi đón nhận 4 thương binh của Tiểu Đoàn. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tải thương gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi truyền nước biển và viết giấy tải thương. Ban 3 cho biết không thể tải thương vì không liên lạc được với bất cứ quân y viện nào như Bệnh Viện Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cộng Hoà. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với Thiếu tá Phú ý định tôi sẽ chuyển thương binh này về Bệnh Viện dân sự Nguyễn Văn Học.

Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tải thương, anh ta bỗng kêu lên ‘Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để tôi chết tại đây…’ và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu M16 nằm dọc cạnh anh trên băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ còn kịp thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung toé. Tôi cầm bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dãn ra, anh từ từ đi vào cõi chết.

Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt được ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Tất cả bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính. Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho cho bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng [tôi] nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh lặp lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến. Thiếu tá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo đi theo ông. Tôi ngồi sau lưng trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. Tiểu Đoàn Phó ở lại bộ chỉ huy Tiểu Đoàn.

Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân Toà Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân đang chạy hỗn độn trong sân, tranh giành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. Thiếu tá Phú đến bên tôi nói nhẹ ‘Bác sĩ đi đi!’ Rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong toà tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Thiếu tá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối cùng tôi rời vĩnh viễn Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù. Tôi cúi đầu trong ngẹn ngào. Sững sờ trong đê hèn. Bàng hoàng trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghĩ đến.

Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền ‘Ông cởi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên’. Như một cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cởi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chặn anh ta lại và xin bộ quần áo đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh ta. Không một chút do dự anh thả bao gạo xuống, rồi vừa nhìn tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…

Tôi cởi áo giáp, giây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cởi đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần xanh đậm, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo trở về đường Cao Thắng ở Sài Gòn. Nhà nàng.

Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, có những xe chở đầy người với mặt mày sát máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; lòng tôi như tê dại chẳng thể suy nghĩ gì. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước lên nhìn trời. Một màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.”

Lệnh trên bắt phải đầu hàng. Không còn thể nào chiến đấu. Không còn bạn đồng ngũ. Đơn vị phải tan hàng. Vĩnh Chánh bây giờ hoàn toàn trần như nhộng về phương diện tinh thần. Vị Bác sĩ bây giờ sẽ lâm vào tình trạng cọp xuống đồng bằng bị chó nó khinh, bất cứ lúc nào. Cũng có thể vốn hùng mạnh như một con rắn hổ mang, nhưng đang ở thời kỳ lột da. Hay nói theo ngôn ngữ của truyện kiếm hiệp Kim Dung thì giống như trường hợp Thiên Sơn Đồng Mỗ, cực giỏi, nhưng tới thời kỳ phải tu luyện lại, thì mất hết võ công. Chỉ như là một đứa bé sơ sinh. Bất cứ kẻ nào trong giang hồ, chỉ giơ một ngón tay lên cũng sát hại được.

Trong gia đình Vĩnh Chánh, có nhiều người ở trong những binh chủng thường phải vào sinh ra tử. Con trai một bà cô ruột là Đại úy Nhảy Dù. Một người anh rể là Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.

Và đang lúc tuyệt vọng, kề với cái chết, Vĩnh chánh lại gặp một người Nhảy Dù nữa.

Nước mất rồi, nhà sắp tan, thân sẽ nát.

Nói trở lại một người Nhảy Dù nữa mà Vĩnh Chánh sắp gặp. Phái nữ.

Người này, nói cho thật đúng, chưa từng nhảy dù, nhưng hiểu rất rõ nguyên tắc của Nhảy Dù. Hiểu rất rõ rằng khi một người nhảy dù ra khỏi máy bay, khi cái dù chính không mở thì sẽ bị rơi tự do với gia tốc của trọng lực, theo công thức 1/2 gt 2, chớp mắt là nát thây trên đất.

Người hiểu mối nguy này là Minh Châu, người mà Vĩnh Chánh yêu say mê, theo đuổi đã 9 năm. Chưa thành công hẳn.

Thành ra, Vĩnh Chánh tôn thờ một hình ảnh trong thời kỳ mà mỗi người mở mắt ra lúc buổi sáng thì mới biết là mình còn may mắn sống.

Người người đều lâm vào cái cảnh sống nay chết mai. Nhất là những người lính.

Thưở đó, có những thanh niên, vừa ra chiến trường lần đầu tiên, đã tử trận ngay. Còn dân chúng, bất cứ giây phút nào cũng có thể mạng vong, vì Việt cộng bất thần pháo kích. Do đó ai cũng sống một cách vội vã.

Ai cũng biết “có sống đến mai không mà để dành củ khoai đến sáng?”

Ấy thế mà, Vĩnh Chánh cứ dành tình yêu của mình cho một người, chín năm liên tục vẫn chưa được đáp lại.

Nhưng vào lúc 10:20 sáng ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh đầu hàng, thì người người đều biết rằng như vậy là nước mất rồi, nhà sắp tan, và thân sẽ nát.

Cách nát thân của những người dân miền Nam sẽ khác nhau. Sẽ mỗi người một cách. Có thể do bị tàn sát ngay. Có thể bị đi đày, trong những nơi tập trung theo cách ở quần đảo Gulag bên Nga.

Cũng có người sẽ tự tử. Người có gia đình sẽ đắn đo nhiều trước khi huỷ mình. Kẻ độc thân dễ quyết định hơn. Người có người yêu khó dứt áo đi sang thế giới bên kia. Còn kẻ bị người yêu cự tuyệt sẽ quyết liệt nhất, nhanh chóng nhất. Xá gì một cái thân này nữa, khi không có ai ở trên cái miền Nam sắp mất này yêu thương mình?

Tuy Vĩnh Chánh chưa nghĩ đến cái chết, nhưng Minh Châu, người yêu của chàng, người chàng theo đuổi đã chín năm, hiểu rất rõ chàng sẽ làm gì. Và nàng quyết định, phải giang rộng hai tay ra thật nhanh, như tốc độ bung ra của một chiếc Dù bụng. Để cứu mạng người.

Nếu nàng chỉ ngần ngừ mấy giây thôi, sẽ không còn kịp nữa.

Bác sĩ Nhảy Dù Vĩnh Chánh, thì như vừa bị xô ra khỏi máy bay, cái Dù chính hết mở được rồi. Thân sẽ nát trên đất Việt cộng đã chiếm.

Bỗng dưng, một cái Dù bụng mở tung.

Minh Châu đã quyết định thật nhanh. Nàng tự biến thành một cái Dù bụng để cứu mạng Vĩnh Chánh.

“… Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các em chạy xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Cơ thể tôi rã rời và tinh thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu vì sao mình lại về được đến nhà an toàn.

… Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hoà cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, vì cư xá Sĩ Quan Chí Hoà quá nguy hiểm.

… Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện vói nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết ‘anh xin làm bóng mát trên con đường em đi’. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuỗi ngày đen tối, đoạ đày và tôi e ngại chẳng còn bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã quyết định tự lúc nào.”

VI. Vĩnh Chánh kể nhiều chuyện cảm động. Ở đây xin đề cập tới hai truyện điển hình:

1. Truyện Chị Agnès.

“Vào năm Terminal tôi chuyển trường từ Providence ở Huế vào Lycée Blaise Pascal tại Đà Nẵng, và tạm chú trong biệt thự của người chị con bác ruột tại đường Nguyễn Thị Giang trong suốt niên học. Gia đình anh chị Châu có 4 đứa con, 3 trai và một gái út đang ở tuổi từ tiểu học đến trung học đệ nhất cấp. Gia đình rất mộ đạo, tối nào cũng đọc kinh chung với nhau trước bàn thờ. Tôi cũng tham gia khi không quá bận với các bài học.

Thỉnh thoảng, vào cuối mỗi hai tuần, thân phụ của anh Châu tới thăm, mang những sản phẩm trong vườn nhà tại Hoà Vang, như các loại rau, ớt, su le, mướp, khoai lang, chuối, ổi, nhãn, mận, mít, bòn bon, chanh, xoài, cà na… cùng với gà vịt tươi. Ngoài ra ông còn đem theo hai chị em là cháu ngoại của ông, kêu anh Châu bằng cậu, từ trong nội trú của dòng nữ tu Sacré Coeur tại Đà Nẵng, về chơi suốt ngày Thứ Bảy rồi đem trả lại nhà dòng sau lễ sáng Chủ Nhật. Người chị lớn tên Thanh còn được mấy đứa nhỏ trong nhà gọi là chị Agnès, thua tôi khoảng ba hay bốn tuổi. Mỗi khi đến chơi, Thanh luôn mặc đồng phục màu xanh da trời, nhìn vào biết ngay đang là đệ tử thanh tuyền.

Ngoài chuyện thỉnh thoảng tôi chỉ dạy cho các cháu nhỏ chút bài vở, nhất là các bài tập về toán vào cuối tuần theo sự yêu cầu của cha mẹ, cả đám xúm xít ngồi nghe tôi kể chuyện, thường vào buổi tối Thứ Bảy, bao gồm bốn đứa con anh chị chủ nhà, hai chị em Thanh và một đứa con trai khác là con của em gái chị chủ nhà. Tất cả đám từ Thanh lớn nhất cho đến đứa nhỏ nhất đều kêu tôi bằng cậu.

Giữa Thanh và tôi, chúng tôi luôn giữ một khoảng cách tuy rằng giống như mấy đứa cháu nhỏ kia, càng lúc càng thân tình một cách tự nhiên, và tôi luôn miệng kêu Thanh là chị Agnès.

Có một lần, tôi múa miệng khoe với chị Agnès là tôi biết coi chỉ tay vì tôi có đọc qua 2 cuốn sách La Main Qui Parle và Les Lignes De La Main. Đó là hai cuốn sách mà Măng tôi thường xuyên nghiên cứu và thỉnh thoảng giảng dậy cho tôi đôi chút trong những khi cầm bàn tay tôi để so các chỉ tay. Thế là chị đưa bàn tay cho tôi đọc. Tôi vừa cầm tay chị Agnès vừa thao thao bất tuyệt giảng và chỉ vào lòng bàn tay các lignes de vie, de tête, de coeur, de destinée mà nhiều người còn gọi là ligne de chance và vài lignes nhỏ phụ thuộc khác như de santé, de l’amour, de l’argent, de l’intuition… thì bỗng ông Ngoại của chị bước đến gần, trừng mắt với chị và ra dấu bắt chị vào trong nhà. Chị Agnès đứng dậy đi ngay; phần tôi cảm thấy vô ý, vụng về, và sượng cả người.”

Thế rồi, bẵng đi một thời gian lâu.

“Tháng 8, 1974, khi đoàn xe chuyển quân Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù của tôi trên đường từ Điện Bàn đến tham chiến tại một vùng phía Tây Đà Nẵng tạm ngưng di chuyển, tôi nhảy xuống xe và tình cờ nhìn thấy một giáo đường nhỏ nằm phía phải và cách quốc lộ chừng vài trăm thước. Tôi bước vào nhà thờ bấy giờ vắng hoe, đứng ở góc gần cửa ra vào, đọc kinh cầu nguyện xin Ơn Trên phù hộ cho tôi trong chuyến vào trận đầu đời lính của mình. Bước ra khỏi nhà thờ, tôi thấy một nữ tu trong bộ đồ màu xanh nhạt, có mang lúp cùng mầu trên đầu, dáng người nhỏ và gầy; tôi tiến lại gần nữ tu và hỏi tên nhà thờ giáo xứ. Sau đôi ba câu mở đầu, bỗng chị nữ tu thốt lên ‘Xin lỗi ông, có phải ông là em của mợ Châu trước đây ở Đà Nẵng không?’ Đang khi tôi chưa kịp nhớ tên người bà con, người nữ tu tiếp liền, có lẽ vừa đọc bảng tên màu đen của tôi trên áo trận.

‘Và ông tên Chánh phải không?’

Thế là chị Agnès và tôi cùng nhận ra nhau. Trong ít phút nói chuyện. Chị Agnès cho biết chị khấn hứa trọn đời vào cuối năm 1969. Sau một năm làm việc tại một giáo xứ trong Quảng tín, chị được điều về làm việc ở làng Hoà Vân từ đầu năm 1971.”

Vĩnh Chánh không hề kết luận, có phải vì cô Thanh đưa tay cho Vĩnh Chánh cầm, mân mê rồi xem tướng, song vì ông ngoại của cô bắt gặp, trừng mắt và ra dấu bắt cô vào bên trong nhà đã đưa đến việc sau này cô đi tu hay không. Nhưng người đọc có thể đoán, trong lúc bàn tay cô nằm trong bàn tay Vĩnh Chánh, trái tim cô đã có lúc xao xuyến.

Và khi gặp lại, cảnh người nữ tu bỗng thốt lên: “Và Ông tên Chánh phải không?” cho người đọc thấy rõ được có sự bồi hồi. Và khi có bồi hồi, dù chỉ trong vài phút ngắn ngủi, tức là có sự nhớ lại mối rung động trong quá khứ.

2. Truyện Bồ Câu

– Bà yêu thương cháu

“Khi vợ chồng tôi quyết định tìm đường ra đi, Măng tôi đã lặng lẽ góp phần. Nhưng chuyến đi đầu tiên thất bại. Tháng 6 năm 1978, vợ chồng tôi cùng cả nhóm vượt biên bị bắt tại Vũng Tầu đưa về trại giam Cần Giờ. Tôi bị chuyển trại về khám Chí Hoà, nhưng vợ tôi nhờ mang bầu sắp sinh nên được thả ra sớm.

Chính Măng tôi đã lo liệu chăm sóc khi con gái chúng tôi được sanh ra. Tên khai sanh của cháu là Hoài Anh, tên ở nhà là Bồ Câu do bà nội đặt. Lần đầu thăm nuôi, vợ tôi đứng cách tôi khoảng 20 thước và đưa Bồ Câu lên cao cho tôi nhìn thấy con. Chỉ nhìn từ xa thôi. Phải gần một năm sau, tôi mói có thể ôm con khi được thả ra khỏi khám Chí Hoà.

Măng tôi rất thương yêu cháu Bồ Câu, vì như lời bà nói, ngay khi còn là thai nhi, cháu đã cùng mẹ đi tù vượt biên. Khi cháu vào đời, bố còn tiếp tục nằm trong khám Chí Hoà. Bà thường cầm tay, vuốt tay cháu và khen Bồ Câu có bàn tay rất đẹp, giống như bàn tay của người ‘Chirurgien’. Bà còn nói, chắc sau này con bé sẽ thành một Y sĩ giải phẫu như ‘thằng bố của nó’.”

– Tai nạn thảm thương

“Một buổi sáng cuối tháng 10, 1981, cha mẹ đem Bồ Câu đến bệnh viện South Coast Medical Center ở thành phố Laguna Beach cho Bác sĩ Nha Khoa bọc bảy cái răng bị siết trong cùng một lần. Bé vui vẻ nói bye bye bố mẹ khi theo y tá vào phòng mổ. Trước khi Nha sĩ bọc răng, phải gây mê toàn diện, thủ thuật sẽ mất khoảng một giờ rưỡi, chúng tôi đuợc biết. Chờ quá hai giờ. Rồi ba giờ. Bốn giờ. Nôn nóng hỏi thăm, chỉ được bảo tiếp tục phải chờ.

Mãi xế chiều, một y tá đưa chúng tôi vào phòng hồi sức cấp cứu. Bồ câu nằm bất động trên giường, phủ chăn trắng. Không mở mắt, không hay biết. Bố mẹ sững sờ. Mới hồi sáng, bé tươi tỉnh, không một lo sợ, vẫy tay bye bye cha mẹ trước khi y tá đẩy xe vào phòng mổ, mà giờ đây như một xác không hồn. Y tá giải thích ngắn gọn là em bị phản ứng thuốc nên tạm thời hôn mê.

Sự thực không như lời người y tá giải thích. Qua thủ tục pháp lý chúng tôi nhận được phó bản của toàn bộ hồ sơ chữa trị. Riêng hồ sơ liên hệ đến giải phẫu và gây mê cho thấy chính bác sĩ gây mê đã gây ra tai hoạ. Thay vì đặt ống bơm dưỡng khí vào phổi, ông ta đưa ống vào bao tử, khiến bé hoàn toàn không nhận được dưỡng khí để thở trong 10 phút, gần như chết ngộp.

Hồi tưởng lại buổi sáng định mệnh ấy, khi ngồi trong phòng chờ, tôi nghe loa loan báo ‘code blue’ nhiều lần, cứ ngỡ là cho ai. Sau này mới biết lệnh cấp cứu đó chính là cho con mình. Đau đớn thay! Nhờ hô hấp nhân tạo, Bồ Câu sống lại, được nuôi qua ống chuyển sữa ensure từ mũi xuống bao tử, nhưng bộ não bị tổn thương trầm trọng.

Sau gần hai tháng chữa trị tại Children Hospital of Orange County với cha mẹ túc trực cạnh giường ngày đêm, bác sĩ cho biết Bồ Câu bị chứng Cerebral Palsy –Liệt Não– Nên dù sống sót nhưng cả hai phương diện thể xác và tâm lý đều sẽ phát triển chậm (both severe physical and mental retardation). Vì đòi hỏi săn sóc đặc biệt, đành phải chấp nhận chuyển bé qua trung tâm phục hồi chức năng trong một thời gian vô hạn định, nhưng không có ngày nào mà chúng tôi không ghé thăm Bồ Câu cho dù bụng thai của vợ càng ngày càng nặng nề.

Một ngày trời mưa sau Tết 1982, khi đến thăm, vừa vào bên trong toà nhà của trung tâm phục hồi, chúng tôi bắt gặp trên chiếc giường đẩy, ngay giữa hành lang, một thân hình bé nhỏ đang quằn quại trong cơn động kinh liên tục. Đến gần hình hài ấy chính là con mình. miệng nghiến chặt trong cơn động kinh liên tục, mình mẩy ướt mèm. Ôm con mà xót xa cay đắng. Còn cảnh cùng cực nào lớn hơn thử thách này, Chúa ơi! Tất cả chỉ còn nguyện cầu duy nhất là xin cho con mình được sống và sống chung với cha mẹ và gia đình, chứ không trong một trung tâm săn sóc xa lạ.

Từ đó không ngày nào chúng tôi không tới thăm Bồ Câu. Điều cầu nguyện cho con được sống và sống bên cha mẹ trở thành một quyết tâm thôi thúc vợ chồng tôi sát cánh, tiến hành mọi thể thức.”

– Nguyện Cầu cho con được sống, và sống bên cha mẹ.

“… Với trợ giúp từ các cơ quan xã hội để chuẩn bị đem con về nhà.

Đứa con thứ hai ra đời ngày 10 tháng Tư, 1982. Dù phải chịu đựng quá sức khi mang thai, nhưng cháu Bea vào đời bình an, xinh xắn, khoẻ mạnh. Ngay ngày thứ hai sau khi rời bệnh viện sản khoa, chúng tôi đến thẳng trung tâm phục hồi, ký giấy đón Bồ Câu về nhà.

Sau tai hoạ, ơn trên cho chúng tôi được hưởng nhiều phép lạ trên cả mức chờ đợi.

Đầu tiên, là từ khi về lại nhà, Bồ Câu vĩnh viễn thoát khỏi chứng động kinh co giật. Con mắt bắt đầu có thần hơn dù vẫn chưa di chuyển lên xuống qua về. Nhờ từng được hướng dẫn và thực tập, vợ tôi đã có thể một mình đặt ống naso–gastric tube từ mũi xuống bao tử cho con, sau đó trong suốt cả năm sau đó còn tập cho Bồ Câu uống qua đường miệng, từ giọt, tăng lên 2 giọt, 3 giọt rồi kiên nhẫn tập cho bé nuốt từng chút nhỏ đồ ăn nghiền đến từng 1 hột cơm, 2 hột cơm.

Tiếp theo, là chỉ sau khi có Bồ Câu về nhà, cuối tháng Tư 1982, tôi được nhận vào làm bác sĩ tổng quát cho bệnh viện tư Leesville General Hospital, thuộc Tiểu bang Lousiana. Leesville là một thị xã nhỏ của vùng Southern nơi dân bản xứ có tiếng là kỳ thị.

Với tôi, cơ hội trở lại hành nghề bác sĩ tại đây đồng thời cũng là một thử thách sinh tử, đòi hỏi sự bén nhậy khi định bệnh, tận tụy khi trị liệu. Khi giao thiệp bằng tiếng Mỹ, dù chưa thể thuần thục, vẫn cần sự chính xác, tinh tế trong ngôn từ. Đó là thời kỳ phải vừa làm vừa học, vừa giữ gìn nhân cách của một Bác sĩ Việt duy nhất trong vùng.

Rất may mắn, chỉ một thời gian sau, tôi chính thức được bệnh viện chấp nhận như một bác sĩ chính ngạch, tăng lương thêm 50% cộng bonus cuối năm. Nhờ vậy, cuộc sống gia đình mau chóng được ổn định. Số lượng bệnh nhân đến khám với tôi nhiều hơn. Trong những lần gia đình ra bên ngoài, nhiều dân cư bản xứ dừng lại bắt tay tôi và chào hỏi vợ con tôi.

Sau trên một năm được kiên trì tập luyện, Bồ Câu tạm thời đã có thể uống sữa, ăn cháo, ăn cơm với luôn cà rau thịt cá cắt nhỏ, khi được mẹ đút vào miệng. Phản xạ nuốt tốt dần. Phép lạ lại xảy đến khi chúng tôi quyết định rút ống chuyển mũi–bao tử. Bồ Câu giữ khả năng ăn, nuốt bằng miệng, thân thể dần mạnh hơn, tay chân cứng cáp dần, miệng bắt đầu biết cười và bập bẹ ư ê như em Bea, khi hai chị em ở cạnh nhau.

Nhờ thu nhập khá dần, căn nhà mới có phòng tập lớn với đầy đủ tiện nghi, ngày ngày luôn có người thay phiên đến nhà làm việc, luyện tập cho Bồ Câu, nào là physical therapist, occupational therapist, speech therapist, sức khoẻ của bé hồi phục dần.”

VII. Về triết lý sống

– Ông thường lạc quan.

– Ông cũng nhận rằng cuộc đời là bể khổ theo cách Phật giáo thường nhắc tới:

“Nếu thấy và hiểu đời là bể khổ, mỗi người ai cũng có một cây thánh giá để vác, không cái nào nhẹ hơn cái nào thì chúng ta dễ dàng chấp nhận những sự bất như ý trong cuộc sống. Vấn đề là rán vác làm sao cho khéo léo. Nhẹ nhàng thì tốt hơn. Đỡ khổ hơn.”

– Khi viết về trái Cóc, ông nêu lên một ý:

“Mình đến tuổi chỉ thích ngọt thôi. Cay và chua làm gì nữa!?”

– Phát biểu về Tình yêu:

“Bạn ơi! Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi. Và chen vào giữa đời lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì chỉ duy nhất tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khổ, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để sống sót vươn lên trong thử thách bão lửa. Cho dù đó là tình quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ. Là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương. Hoặc chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.

… Tình yêu đó như thể cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng.”

VIII. Văn phong

Trong mọi chương của cuốn sách, dù viết về điều gì, Vĩnh Chánh cũng không bao giờ dùng một chữ nào của cái giống Việt cộng cả. Đó là một điểm đáng phục.

Vĩnh Chánh viết một cách linh hoạt:

A – Khi viết về thân phụ và những biến chuyển chính trị thời đó, ông viết rất cặn kẽ, nghiêm trang. Người đọc dễ chú tâm để tìm hiểu.

B – Tới phần về cây trái, hoa quả, ngòi bút của Vĩnh Chánh đưa người ta vào trong vườn, để hưởng làn gió hiu hiu, và thanh nhàn thưởng thức hương thơm vị ngọt trong khung cảnh thanh bình.

C – Tuy nhiên lời văn của ông không chỉ như thế. Văn ông không đơn điệu. Có lúc chợt như sét đánh ngang trời. Dưới đây là vài đoạn tiêu biểu:

a/ Về Tết Mậu Thân

“… Đúng vậy, Có ai ngờ quân cộng sản đã mưu mô xé lệnh hưu chiến, đem chiến tranh đến tận các thành phố trong những ngày thiêng liêng của đât nước trong Tết 1968. Biết bao nhiêu người đã lo âu sợ hãi khi nhìn thấy chiến tranh với bom đạn và chết chóc đến ngay tận làng xóm mình, ngay tận nơi nhà mình? Đã nhìn thấy cảnh đổ nát kinh hoàng của thành phố, đã kẹt giữa hai lằn đạn? Đã chứng kiến sự dã man tàn ác của phe gọi là giải phóng? Có bao nhiêu người là chứng nhân cho sự thảm sát tại Huế khi người thân trong gia đình, người quen trong khu phố bị giết chết, bị bịt mắt đem đi thủ tiêu, bị tra khảo, đập vào đầu trước khi bị xô xuống khe suối hay bị cột chùm chôn sống với 2 tay bó chặt đằng sau lưng bằng dây điện thoại? Ở đâu ra những hố chôn tập thể tại Gia Hội, Gò Cát, Bãi Dâu, Tây Lộc, Phú Thứ, Đá Mài…? Và biết bao ngàn người đã ai oán khóc trong căm hờn và đã chít khăn tang?”

b/ Trong phần kể về cuộc hành quân ở Đại Lộc:

“… Sau này, khi Nhảy Dù và trên đường tiến đánh chiếm lại ngọn đồi 1062 ở Thường Đức–Đại Lộc vào tháng 7, 1974, tôi di hành theo chân với Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, vượt qua nhiều đồi trọc tràn ngập bởi màu tím Hoa Sim. Một màu tím đẹp… chết người, và nguy hiểm vì đã chôn đầy mìn cá nhân trên quãng đường lắt léo quanh co qua các ngọn đồi lên đến bìa rừng trên cao, đề phòng và chống trực thăng vận của phe ta. Sau khi công binh mở đường dò mìn đi trước, mọi người trong đơn vị được căn dặn cẩn thận đi hàng một, người sau theo đúng chân người đi trước. Ngay cả khi lệnh trên cho nghỉ, hay cá nhân muốn đi tiêu tiểu, đều phải đứng trên con đường nhỏ. Một chuẩn úy trong đại đội chỉ huy bước ra ngoài con đường cách bộ chỉ huy Tiểu Đoàn nơi tôi đang đứng nghỉ không quá 20 thước. Trong một tích tắc một tiếng nổ ầm vang lên cùng với bụi khói và mùi thuốc súng, anh đã gục ngã tại chỗ giữa những bụi cây Sim tím, với hai cẳng chân hoàn toàn bị cắt lìa do sức nổ. Đó là cái chết đầu tiên tôi đau khổ chứng kiến. Dù đã nhanh tay làm hồi sinh cấp cứu.”

c/ Trong lúc đơn vị ông trấn giữ cầu Bình Triệu:

“… Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên ‘Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…’ và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động…”

D – Bác sĩ Vĩnh Chánh viết, giống như cách giãi bày tư tưởng trong một lá thư gửi về cho gia đình. Cũng như cách đang nhắp rượu hay uống trà, rồi khề khà tâm sự cùng bạn thân.

Cuốn Tháng Ngày Tao Loạn chấm dứt ở trang 287.
Ông đã dứt lời, nhưng người đọc vẫn còn rỏng tai lên, muốn nghe tiếp.
Ông đã đạt được đến mức Văn hết, mà Ý chưa hết. Ý hết, mà Tình chưa hết.
Có người sẽ hỏi: Tình chưa hết là thế nào?
Lời thưa của tôi là, xin mời đọc tiếp sẽ hiểu.

Bác sĩ Vĩnh Chánh là người:

1. Chí tình với người yêu mà chàng đã phải theo đuổi 9 năm, rồi mới thành được vợ chồng cho đến nay.


Lễ cưới Vĩnh Chánh & Minh Châu,
3 ngày sau khi mất nước

“Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi đây là ‘đám cưới chạy tang khi mất nước’ diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. Hình ảnh kỷ niệm chỉ có hai tấm hình đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi tù vượt biên, em đã cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho đến khi chúng ta đến bến bờ tự do.”

2. Từ ái đối với con

Bồ Câu, người con gái đầu lòng của Ông, chẳng may gặp tai nạn do đánh thuốc mê, trong một cuộc chữa răng. Bộ óc bị hỏng từ lúc đó. Sống được, nhưng từ ăn uống cho tới đi đứng đều cần được giúp, đến nay liên tục hơn 40 năm.

Bác sĩ Vĩnh Chánh đi đâu cũng đem cháu theo. Từ những buổi họp mặt giữa thân nhân, bè bạn cho tới những buổi Đại hội Y–Nha–Dược Sĩ, ngay đến cả những buổi ra mắt sách nữa.

“… Gia đình đông dần với sự ra đời thêm 2 đứa con sinh sau. Dù bận rộn tất bật hơn, chúng tôi luôn sinh hoạt chung với các con, từ trong nhà cho đến ra bên ngoài, ở đâu có cha mẹ là có đầy đủ 4 đứa con. Nếu cha không kịp đẩy xe lăn cho Bồ Câu thì Bea đẩy chị. Nếu mẹ chưa kịp cho chị ăn thì Betty lo giùm.

… Dù ở nơi xa lạ, không thân thích, không một bóng đồng hương, nhưng đúng là lời chúng tôi cầu xin cho con được sống và sống với cha mẹ đã được bề trên lắng nghe. Các linh mục trong nhà thờ giáo xứ đặc biệt cho phép Bồ Câu chịu phép rước lễ vỡ lòng ở tuổi 18 (First Holly Communion) dù Bồ Câu không qua lớp giáo lý căn bản.

… Cô học trò Bồ Câu 41 tuổi nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già, khi vẫn còn có một đứa con trong nhà để coi ngó, săn sóc, vui chơi, đi đâu cũng có nhau. Đêm đêm, chúng tôi vẫn cùng nhau cầu nguyện, tạ ơn trên cho con được sống và sống bên cha mẹ, như điều từng nguyện ước.”

MỘT NGÀY THƯƠNG CON

Con đã trên bốn mươi
Vẫn non nót, thơ dại
Như thuở mới vào đời
Bên mẹ cha thân ái

Sáng sớm thức con dậy
Bữa điểm tâm đang chờ
School bus đến đúng giờ
Đón con tới trường học

Áo quần đã tươm tất
Cô học trò bốn mươi
Cùng bạn bè vào lớp
Học yêu đời, yêu người

Xế chiều, trời rực nắng
Xe trường đưa con về
Có mẹ cha đầm ấm
Dìu con từng bước đi

Ti vi chiều football
Cha con cùng la hét
Mẹ vui lây cười giòn
Bữa ăn chiều ngon ngon.

Tháng 2, 2017

Năm trăm năm trước công nguyên, triết gia Lão Tử (còn gọi là Lão Đam), lúc đang 70 tuổi, thấy cha mẹ đã quá già yếu, thường hay buồn rầu, ông hàng ngày đứng trước giường cha mẹ, kể chuyện và làm trò giống như một đứa con nít, để cho cha mẹ vui.

Ngày nay, 25 thế kỷ sau, Bác sĩ Vĩnh Chánh muốn cho người con bị tật nguyền vui, cùng với con xem football trên truyền hình rồi cùng la hét.

Cả hai tấm gương cổ kim trên, đều đáng quý và đáng trọng. Một người chí hiếu với bố mẹ. Một người rất mực từ ái với con.

Cả hai đã sống, và cư xử với cả tấm lòng “phụ từ, tử hiếu”.

3. Thương xót oan hồn những kẻ bị thảm sát.

“… Vì vài ngày sau, Cộng sản Bắc Việt và bọn Việt cộng nằm vùng tráo trờ xé bỏ đình chiến cho 3 ngày Tết và dốc sức tấn công chiếm giữ Huế trong 3 tuần, gây bao tang thương chết chóc cho dân Cố Đô. Xin ngậm ngùi xót xa tưởng nhớ đến Giáo Sư Gunther Krainick, Giáo Sư Raymon Disher, Giáo Sư Alter–Koster đã bị thảm sát và chôn trong cùng một ngôi mộ tại khuôn viên chùa Tường Vân, Thầy Nguyễn Văn Đệ bị chúng bắt theo và chết trên đường dài ra Bắc, một số nhỏ anh chị em trong trường Y Khoa kẻ thì mất tích, người thì duồn theo phía địch, hay bị giết, cùng chung số phận với trên năm ngàn người dân, công chức, linh tráng… bị bắn bỏ, đập vỡ sọ, chôn sống trong các ngôi mộ tập thể… Thế giới sững sờ và công phẫn khi nhìn thấy sự dã tâm và sắt máu của con người cộng sản, giết người hàng loạt trong khi lại nhân danh giải phóng. Thật là mỉa mai và nghịch lý!”

4. Và vô cùng yêu Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.

“… Giờ đây, nhìn lại ngày tháng tuổi hoa niên của mình, tôi nhận biết đã làm một quyết định đúng khi vào Nhảy Dù. Tôi đã Đi. Đã Thấy. Đã sống. Đã làm tròn Bổn Phận với Đất Nước. Đã qua vinh quang cũng như tủi nhục. Và chưa một lần tôi hối tiếc thời gian tôi phục vụ Quân Y Nhảy Dù, cho dù đã phải trả cái giá của mấy năm tù tội và gian nan trên biển cả.

… Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước Việt Nam, khi chính thể Cộng sản hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những người bạn từ xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn đã chết trong các biến cố của đất nước, trong các trại tù, trên biển… nhập tiệc. Kẻ đang sống và người thiên cổ bên cạnh nhau. Cùng hoài niệm đến một miền thuỳ dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, và để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương.”

Tất cả những điều trên đây đều phát ra từ “Tâm” của Bác sĩ Vĩnh Chánh.

Bảo Anh Trần Tường Vi

CON GÁI CỦA NGƯỜI TA

Trần Thiện Phi Hùng
Posted by GLN
Con gái của người ta sau 24 giờ sinh ra đã trở thành con gái của tôi, và chỉ sinh sau con gái của tôi có 4 giờ tại Bảo Sinh Viện Quân Đội Thành Phố Nha Trang năm 1972.
Mẹ của nó còn trẻ lắm, nhưng có vẻ lanh lợi sành đời. Cô ta sinh xong mạnh khỏe đi đứng bình thường chứ không nằm liệt như bà vợ tôi. Cô ta nói với vợ tôi cô ta là vợ của một Trung Úy Biệt Kích. Anh ta ít khi về nhà và công tác ở đâu không bao giờ nói. Cô ta đi làm sở Mỹ ở Chu Lai, vì sinh kế sao đó nên “Nhảy dù” với Mỹ. Tai nạn có thai ngoài ý muốn nhưng không biết con của chồng cô ta hay của Mỹ nên cứ sinh con xong rồi tính. Con chồng thì để nuôi, còn con Mỹ thì cho.
Nghe vợ nói lại, tôi sang phòng cô ta gõ cửa xin vào xem đứa nhỏ ra sao. Trong bóng đèn mờ của căn phòng, con bé nằm bó mình trong khăn lông, chỉ lòi cái mặt da trắng đỏ và cái miệng nhỏ xíu hai môi như chu ra làm tôi nghĩ “Con bé nầy chắc sau nầy hỗn lắm đây”. Tôi không nói gì với cô ta mà về phòng bảo bà vợ tôi: “Mình xin con bé nuôi luôn nhen em?”.
Vợ tôi lo lắng: “Làm sau đủ sữa cho 2 đứa? Thiên hạ nói bậy bạ làm sau chịu nổi?”.
“Cho nó uống sữa bò, anh sẽ mướn thêm người giúp việc nữa cho em.”, tôi quả quyết.
“Tùy anh!”, vợ tôi đồng ý.
Thế là thủ tục xin con của tôi và đồng ý cho con do cô ta viết được đưa cho cô mụ, nhưng sáng hôm sau thì cô ta đã rời khỏi bệnh viện, bỏ con lại khi thủ tục chưa hoàn tất. May mắn là Ban Xã hội Quân Đội cũng dễ dàng hoàn tất nốt thủ tục nhận con nuôi mà làm khai sinh giống như thủ tục khai sinh của con gái của tôi. Đây có lẽ là trường hợp hy hữu một đứa trẻ “Lai Mỹ” mà khai sinh do hai vợ chồng là người Miền Đông và Tây Nam Việt Nam coi như sinh ra (Tiếc là năm 75 tất cả hình ảnh đều mất hết).
Trong tiệc đầy tháng, 2 đứa bé như cặp song sinh, một Việt một Mỹ đẹp như thiên thần. Chỉ khổ cho thân tôi, vì hai đứa trẻ đứa nào cũng đòi bồng một lúc, hễ đứa này trên lưng thì đứa kia phải bế trên tay.
30/4/1975, tôi bị rã ngũ. Tôi không thể về quê Ngoại như ước muốn sống ở Rừng Dừa năm xưa vì nay B-52 cày nát thành bình địa. Tôi muốn phá hoang trồng lại, nhưng phải trình diện vào tù cải tạo. Một tháng trôi qua, rồi một năm, rồi năm nữa .. Vợ không thấy đi thăm mà con cũng không bao giờ được gặp mặt. Mỗi tháng chỉ có Mẹ tôi được 15 phút thăm nuôi. Hỏi gì Mẹ tôi cũng nói tất cả bình an, vợ và các con ngoan và khỏe mạnh. Tôi lúc nào cũng nhờ Mẹ lưu tâm cho bé Thùy An, tên đứa con “Lai Mỹ”. Chắc là nó bị kỳ thị ở trường học và sống với mọi người sẽ rất khó khăn. Nhưng Mẹ tôi nói con khỏi lo, nó sống rất tốt học rất giỏi nên được thầy cô và bạn bè quí mến. Dường như Mẹ tôi lúc nào cũng né tránh khi tôi hỏi đến vợ và con gái của tôi, bé Thanh An. Tôi đoán có lẽ chuyện gì không tốt đã xảy ra nhưng cũng đành bó tay không biết hỏi ai.
4 năm sau tôi được ra tù. Con gái mang 2 dòng máu ôm tôi khóc như mưa, nhưng con gái và vợ tôi thì không thấy đâu nữa. Tôi đoán biết chuyện không hay nên cũng không hỏi Mẹ.
Con bé thỏ thẻ kể cho tôi nghe. Ba đi rồi mấy tháng sau Má dẫn chị Hai đi với Má về thăm Ngoại mà không cho con đi, và từ đó không về nữa. Con hỏi Nội Má con chừng nào về? Nội nói Nội cũng không biết.
Thời chinh chiến, tiền lương của 3 đứa con đưa cho Mẹ, Mẹ tôi xài tiện tặn có dư, hễ đủ 1 chỉ thì mua 1 chỉ vàng y, đủ 10 chỉ thì đổi thành 1 lượng vàng. Con thất thế sa cơ, Mẹ lại bán vàng nuôi con. Mẹ cho con vàng để vượt biên.
Năm 1982, tôi và em gái tôi vượt biên. Con gái của tôi nhứt định Ba đâu con ở đó. “Con không sợ chết, con chỉ sợ phải xa Ba”.
Trời không nỡ bỏ 2 Cha con tôi, tôi đã lái tàu vượt biên thành công. Con gái tôi bắt đầu vào Trung Học, có lẽ nhờ cái máu Mỹ của nó hay sao mà chỉ mấy tháng thì nó nói tiếng Mỹ như súng liên thanh. Cứ có dịp là đeo bên tay Cha khi đi chợ hay đi ăn nhà hàng hay có đám tiệc.
Hình ảnh một ông già Việt Nam, có một cô gái hoàn toàn trông giống Mỹ không thấy có chút gì lai đeo theo một bên và nhõng nhẽo thì chắc chưa có ai bằng. Tối ngày gặp mặt gọi Daddy, không thấy mặt thì: ” Daddy, Ba đâu rồi”. Tôi vui với “Con gái của người ta”, và cũng là nguồn an ủi duy nhất cho tôi vui sống.
Tôi làm công nhân cho hãng làm phụ tùng xe hơi, lương cũng dư sức nuôi con lên đại học và mua nhà trả góp. Năm 1995 con gái tôi thành y sĩ nhãn khoa và có việc làm ngay. Ngày làm lễ mãn khóa, cầm mảnh bằng trên tay, con gái ôm tôi khóc như chưa bao giờ khóc như thế.
Tôi hỏi: “Con vui mừng sao lại khóc dữ thế?”
“Cám ơn! Con cám ơn Daddy nhiều lắm. Con nghĩ không biết có bao nhiêu ngàn hay chục ngàn đứa trẻ bị Cha Mẹ bỏ rơi mà có bằng Đại học như con? Con thương Daddy nhiều lắm!”, nó nức nở.
“Daddy cũng cám ơn con, nhờ có con mà cuộc sống của Ba mới có ý nghĩa mà vui sống tiếp bấy lâu nay.”
Hai Cha con dị chủng ôm nhau cùng khóc.
Bạn bè của con biết thì không có gì lạ về sự khắng khích của 2 Cha con Việt-Mỹ này, nhưng những người xa lạ thì hiếu kỳ nghĩ suy lung tung nhưng không thể nào ra được đáp án. Cha Việt sao con Mỹ mà không có chút gì là dáng vẻ Việt Nam?
Tôi đi làm đem cơm theo ăn nay làm thêm phần cho con gái. Lương của con gái đưa hết cả cho tôi, chỉ lấy 100 bạc để đổ xăng và ăn quà vặt. Khi cần mua sắm gì thì nói xin. Tôi từ chối cách nào cũng không được nên mở một sổ bank riêng bỏ hết tiền của con gái đưa để khi nó cần đưa lại cho nó.
Hai năm sau, em gái của tôi bán 2 cái nhà cũ để mua cái nhà lớn hơn, tôi bảo con gái vay tiền ngân hàng mua cả 2 cái. Vì không vay được một lúc gần nửa triệu bạc nên tôi dùng cái nhà tôi để thế chấp vay mua 2 cái nhà cho con gái đứng tên và cho mướn.
20 năm trôi qua nhanh. Lưng của tôi bị thoái hóa cột sống nên đau càng ngày càng nhiều. Chân tôi bắt đầu bị tê. Lái xe lúc nào chân cũng phải nhịp nhịp thử coi còn hoạt động được hay không, nhỡ bị tê khi cần thắng mà không xử dụng được thì nguy to. Tinh thần tôi bị hoảng loạn khi nghĩ đến lúc không cử động được, tay chân bởi dây thần kinh bị gai xương sống ép nên không hoạt động được. Mổ xương sống thì xác xuất rủi ro khá cao, nên khi còn gượng đi đừng được tôi không chịu mổ để cắt gai cột sống. Con gái thì đeo theo một bên ít đi chơi ít giao thiệp với bạn bè. Đi làm về là quanh quẩn bên Cha làm tôi thêm lo lắng.
“Sao con không có bạn trai? Con lập gia đình cho Ba yên tâm.”, tôi khuyên con.
“Ai bảo Ba con không có bạn trai? Bạn trai của con đang ghi tên học tiếng Việt, bao giờ nói được tiếng Việt con sẽ đem về ra mắt Ba. Anh ta người Đức nhưng sinh trưởng ở đây, và chịu điều kiện của con kiện là phải sống chung với Ba suốt đời. Nhưng con thêm điều kiện phải nói được những câu thông dụng tiếng Việt Nam.
“Ba nói tiếng Anh cũng tạm hiểu được mà con.”
Nhưng con muốn con của con sau nầy phải nói được tiếng Việt, nên anh ta ghi tên học một năm tiếng Việt ở Đại học Victoria.
Tuổi 60 cũng đúng lúc tôi được phép về hưu vì là cựu quân nhân nên sớm hơn dân sự 5 năm. Con gái thì hối thúc Ba nghỉ việc đi, tiền hưu Ba đủ sức tiêu dùng, nếu có cần mua gì hay đi đâu con lo cho Ba được.
Tôi xin nghỉ việc về hưu. Sáng nào 5:30AM cũng đi bơi để chữa trị bệnh đau lưng. Con gái cũng đi theo. Sáng nào hai Cha con xe ai nấy lái đến hồ bơi. Con tập gym, Cha thì bơi. Con gái đem quần áo uniform thay đi làm luôn.
Một hôm con gái tôi nói: “Ngày mai con không đi làm; Ba có muốn con chở Ba đi thăm bác Hoàn không? Con nghe con gái của Bác nói là Bác đã bị đưa vào Viện Dưỡng lão tuần rồi.”
“Sao con lại dùng chữ “bị”? Chẳng lẽ Bác Hoàn không muốn vào Nursing Home mà bị bắt buộc vào hay sao?”
“Bác Hoàn bị stroke té, xe cấp cứu đem vào nhà thương. Bác ấy bị méo mặt và miệng không nói được nên các con của Bác xin bác sĩ cho vào Viện Dưỡng lão, vì nếu về nhà sau nầy xin vào thì Bộ Y Tế sẽ check sức khỏe và trí nhớ khó khăn lắm mới được chấp nhận nên để nhà Thương quyết định thì khỏi phải check gì hết!”
“Bác chỉ hơn Ba có 2 tuổi và trí nhớ còn tốt lắm mà? Ừ! thì Ba với con đi thăm Bác ấy kẻo tội nghiệp. Hơn nữa mai mốt Ba có vào sẽ có người thăm lại Ba.”
“Không bao giờ có chuyện đó Ba đừng mơ! Con không bao giờ gởi Ba vô Viện Dưỡng Lão đâu!”, con tôi bĩu môi. “Con tập gym để đủ sức bồng Ba khi Ba cần đến. Con cũng chọn chồng to con để phụ với con. Ba xài Computer và Internet thường xuyên, trí nhớ của Ba sẽ không bị Dementia hay Alzheimer.”
“Cám ơn con! Nhưng con còn công việc và cuộc sống của riêng con”.
“Trại Mồ Côi Không Dành Cho Con, Thì Viện Dưỡng Lão Cũng Không Dành Cho Ba!”, con gái tôi chắc nịch.
“Con nhớ mua trái cây biếu Bác ấy, nhớ đừng mua bánh ngọt vì Bác ấy cử ăn đường.”
Hai Cha con tôi vào Viện Dưỡng Lão Cửu Long vừa sau giờ ăn sáng, nên gặp Bác Hoàn ngay phòng ăn. Mặt và miệng của Bác Hoàn trở lại gần bình thường và giọng nói tuy có biến giọng nhưng vẫn còn nghe rõ lắm. Bác bắt tay tôi coi vẻ mừng và cảm động, nhưng hai mắt lệ ứ tròng.Thăm Bác Hoàn khoảng một tiếng sau hai Cha con xin phép ra về.
Con gái tôi lái xe ghé Chợ và nói: “Con đãi Ba ăn bún bò Huế.”

-Ừ! ăn thì ăn.
Con gái mở cửa cho tôi và kéo ghế cho tôi ngồi, gần như ai cũng quay ngó chúng tôi. Cô bé chạy bàn thì quen quá với Cha con tôi vì nhiều lần ăn ở quán nầy.

-2 tô bún bò Huế phải không Chú?

-Ờ! Cháu cho Chú 2 tô.
Con gái mở cái xách tay của nó ra, mà nó đổi cái xách tay lớn hơn hồi nào tôi không để ý. Nó kéo ra một bịch nylon và kéo rau kinh giới ra. Nó để rau kinh giới tím qua một bên và nói: “Cái nầy của Daddy.”
Rồi kéo mớ khác là kinh giới xanh và nói: “Cái nầy của con.”
Ông ngồi bàn gần kế bên quay sang: “Cô Mỹ nầy sao nói tiếng Việt rành quá và rành ăn bún bò Huế hơn cả người Việt Nam!”

-Nó là người Việt Nam chứ không phải Mỹ. Nó chê rau kinh giới tím ăn nồng quá mà tôi thì thích kinh giới tím hơn nên nó hái riêng hai loại cho Cha con chúng tôi.

-Cô ta là con dâu của Anh?

-Không. Nó là con gái của tôi.
Hai tô bún bò Huế được bưng ra, cuộc đàm thoại ngưng tại đây và có lẽ ai cũng liếc mắt xem khi cô Mỹ 100% vắt chanh và ngắt từng cọng rau bỏ vào tô cho Cha. Tôi hãnh diện là đã không lầm khi bỏ công bao năm cơ cực nuôi “Con của người ta.”
Về tới nhà chưa kịp thay quần áo thì điện thoại reo. Bạn Hoàn, người tôi vừa đi thăm, phone cho tôi từ Viện Dưỡng Lão.
“Anh mới về tới nhà phải không? Hồi nãy tôi gọi không ai bốc phone. Sau khi Anh về rồi có một Bà trong Viện Dưỡng Lão này hỏi Anh có phải Hải Quân hay không và đứa con gái Mỹ đi theo Anh là con của Anh? Bà ta nói là người quen của Anh ở Nha Trang khi xưa, muốn xin số phone của Anh, nên tôi hỏi Anh trước. Có phải nhân tình cũ ngày xưa hay không? Nếu phải thì vào gặp gấp đi, dễ gì xa xứ gặp cố tri!”

-Ừ! Thì Anh cứ cho có sao đâu. Bốn mươi mấy năm rồi làm sao ai còn nhớ được ai!
Một ý nghĩ thoáng qua trong óc tôi: Không lẽ là Mẹ ruột của con gái của tôi? Chứ nếu Bà ta là người vợ bỏ tôi ngày nào thì chắc chúng tôi phải nhìn nhau, chứ chẳng lẽ tình chồng vợ sống với nhau 5 năm mà nhìn nhau không ra! Nhưng nếu là Mẹ ruột của con gái của tôi, tôi phải làm sao đây, vì dù sao cũng là “Con gái của người ta.”
Trần Thiện Phi Hùng.


…………………………………….

CHA CỦA NGƯỜI TA, LÀ BA CỦA TÔI

Trần Thuỳ An

Ông Ta gặp Tôi sau khi Tôi mở mắt chào đời chỉ mới có một đêm; chỉ nhìn Tôi có một phút đã nghĩ xấu về Tôi là “cái môi chu chu chắc lớn lên sẽ hỗn”. Một Phút mà Ông Ta đã đưa ra quyết định tương lai cho một đời người thì thật đúng là dân nhà binh nhiều năm quân ngũ; dứt khoát nhanh chóng mặc dù không phải là việc đánh nhau trên chiến trường gần kề giữa cái sống và chết trong gang tấc nhưng đây lại là Tình Người cao cả.
Con Bé mới sinh mang cái tội lai Mỹ nên người mang nặng đẻ đau sau 9 tháng 10 ngày đã nhẫn tâm cho người khác và nếu không có được có người có tình người cao cả thì Tôi phải vào Viện Mồ Côi.
Vợ của Ông ta sinh con gái cho Ông ta chỉ trước Tôi có 4 tiếng và Tôi thì bị Mẹ rao “Cho Con”; chỉ nhìn Tôi một phút rồi trở về phòng của Vợ nói lên quyết định xin con nuôi và Vợ không thuận nhưng cũng không phản đối; thế là thủ tục cho Con của mẹ Tôi và xin con của Cha Tôi được thỏa thuận trên giấy trắng mực đen được đưa cho Bà Mụ và cũng là Chủ phòng sinh quân đội Tỉnh Khánh Hòa.
Thủ tục chưa kịp hoàn tất; Mẹ của Tôi đã bỏ Tôi ra đi.
Tôi còn say ngủ Tôi nào có biết gì; đến cả mắt của Tôi còn chưa mở. Tôi được Cô Mụ bồng sang giao cho Bà Mẹ thứ Hai. Khi Tôi mở mắt được để nhìn đời thì nét mặt cương nghị đó đã in sâu vào tâm não Tôi từ ngày đó và có lẽ là mãi mãi không bao giờ phai nhạt trong Tôi. Ba của Tôi.
Tôi và Chị của Tôi sống những ngày êm đềm nhứt ở miền Thùy Dương cát trắng Nha Trang. Ba và Mẹ của Tôi đều đi làm, hai chị Em tôi được giao cho người giúp việc mà người giúp việc lại là Cháu của Mẹ Tôi, nên rất cưng chìu chúng tôi.
Ba Tôi kể lại Tôi rất dễ chẵng mấy khi Tôi khóc. Sáng Mẹ cho Hai đứa bú xong Ba chỡ Mẹ đến sở làm rồi Ba mới từ thành phố lái Honda về gần Chutt là Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân.
Ba Mẹ rời nhà thì Tôi ngủ mãi đến khi Ba Mẹ về nhà ăn Cơm Trưa, thì như đánh hơi được mùi của Mẹ Tôi, nên thức dậy Bú xong, Ba Tôi tắm cho hai Chị Em của Tôi, vì Mẹ sợ tắm chúng Tôi sẽ bị lọt tay rớt xuống đất, nên gần cả năm chúng tôi đều được Ba tắm.
Ba Mẹ cơm xong thì phải đi làm lại tới 5 giờ chiều mới về. Ba Mẹ thường đi tắm Biển đến 6 giờ rưỡi mới về ăn cơm.
Gần nửa năm đầu Chị của Tôi và Tôi đều được Ba đem sang giường ngủ với ba vì báo thời đó có đăng tin một đứa trẻ mới sinh bị Mẹ đè chết mà không hay; nên ba sợ Mẹ đè chúng tôi. Đêm nào Ba cũng phải thức dậy khuấy sữa cho Tôi; vì uống sữa bột guigoz của Pháp quen nên Tôi thích sữa hộp hơn sữa mẹ ; còn Chị của Tôi thì Ba đem cho Mẹ của Tôi cho bú.
Mỗi năm Ba và Mẹ của Tôi cùng Chị giúp việc về thăm Nội Ngoại một lần nhưng Mẹ tôi có cái bệnh say xe, say sóng nên say cả đi máy bay chong chóng. Vé Beoing 727 thời đó đắt gấp 3 hay 4 lần vé máy bay chong chóng; nhưng Ba Mẹ của Tôi đều đi làm nên mỗi lần về thăm Nội Ngoại mất hết hơn 2 cây vàng thời đầu thập niên 70.
Ba lúc nào cũng không sợ tốn hao nên về Miền Đông thăm Ngoại cũng như về Miền Tây thăm Nội đều đi xe Lô và Mẹ được mua nguyên băng để nằm.
Thế rồi Đại nạn tháng 4 Đen; may mắn chúng Tôi về Sài Gòn trước mấy tháng, nếu không thì dù Ba có là Hải Quân nhưng trên đường di tản tháo chạy chưa chằc gì Tôi và Chị Tôi còn mạng!
Sau 30 tháng 4 năm 1975 Ba Tôi đem cả gia đình về nhà Bà Nội ở Mỹ Tho, nhưng 2 ngày sau Cô Tôi vẫn còn làm lại ở ngân hàng quận 8 về bảo Ba Tôi phải rời nhà Bà Nội của Tôi chứ không sẽ bị truy tìm bắt lại vì bỏ cây xăng ở Biên hòa.
Ba Tôi đem gia đình về Chợ Gạo Quê của Ông Cố Tôi và mãi đến hơn nửa tháng sau Ba Tôi mới trình diện và 2 tháng sau bị đi tù Cải tạo.
Mẹ của Tôi về thăm Bà Ngoại 2 lần, nhưng chỉ đem Chị của Tôi mà không cho Tôi đi và mùa Xuân đầu tiên ngày Ông Bà Táo về chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng là ngày Mẹ của Tôi đem Chị của Tôi về giỗ Ông Ngoại của Tôi và không về nữa!!!
Mùa Xuân đầu tiên ảm đạm nhứt trong đời của Tôi và của biết bao nhiêu người ở Miền Nam chầm chậm qua đi rồi mùa Xuân nữa lại đến Ba của Tôi vẫn chưa về.
Bà Nội vẫn mỗi tháng đi thăm ba tôi được 15 phút; Tôi xin bà Nội đi thăm Ba nhưng Bà Nội nói Con đi thì Bà làm sao trả lời với Ba của Con về Mẹ và Chị của Con. Con chắc còn có ngày gặp lại được Ba của Con.
3 năm sau, Tôi còn nhớ là một buổi chiều Mưa tầm tã, một người vừa ốm lại vừa đen dầm mưa đi vào nhà Tôi; Tôi hết hồn định chạy vào kêu Nội; nhưng có lẽ Phụ Tử tình thâm hay sao mà Tôi rút hết can đảm nhìn người khách lạ và nhận được Ông Ốm Đen gần như là người khác lạ đó là Ba của Tôi. Tôi gần như nhào tới ôm chầm lấy Ba và Ba của Tôi cũng ôm Tôi mà miệng thì nói:

-Ứớt hết Con!
Tôi mặc kệ và miệng thì gọi:

-Nội ơi Ba về; Nội ơi Ba Con về.
Chính Tôi kể cho Ba biết tin Mẹ dẫn Chị bỏ đi đã 3 năm rồi. Ba Tôi buồn hay không Tôi cũng không biết được; mọi việc hình như Ông dửng dưng; có lẽ tận cùng của đau thương làm con người chai đá!
Ba Tôi bị quản chế 1 năm và sau khi ra dân, thì vẫn thế cứ vài ngày thì gọi đi đào Kinh, vác lúa thuế, bít Rạch, bít Kinh, rồi nước động nước thúi cây trái, ruộng lúa úng nước, ngập chết; lại phải đi phá đập. Một năm Ba của Tôi phải đi làm khoảng 3 tháng rưỡi đến 4 tháng không công.
Tôi đã học lên lớp 5. Ở Xóm, ở Làng, ở Trường, Tôi không giống bất cứ ai. Dang nắng lao động ở Trường; Da Tôi không rám đen mà lại trắng hồng rồi Trắng đỏ ra, nhiều khi bị phồng lột da rồi trắng vẫn hoàn trắng. Tôi dẻo dai, gan lì giống Ba Tôi.
Tôi không bị kỳ thị vì Tôi học giỏi; đó là nhờ công của bà Nội đã dạy Tôi biết đọc biết viết và thuộc làu cửu chương cũng như làm được 4 phép tính trước khi đến trường.
Các Cô gần như đều thương và hay cho thức ăn, trái cây cho Tôi.
Bà Nội Tôi nói: “Con nhờ Cha Con mà hưởng lợi vì Cha của Con coi như độc thân” ngày đó Tôi chẳng biết ý nghĩa là gì?
Lệnh mới ban ra: “Con của Ngụy không được lên lớp 10”. có nghĩa là Tôi chỉ học đến lớp 9 mà thôi. Lý do chắc là vì Con Ngụy có di truyền của Ông Cha nên học giỏi hơn con của cán bộ.
Cô của Tôi từ Sài Gòn về thăm Bà Nội của Tôi thường hơn và Tôi nghe được Cô bàn tính rủ Ba Tôi vượt biên. Tôi ôm Ba tôi và vừa khóc vừa nói:

-Ba đừng bỏ Con nhen ba!
Ba tôi mắt rướm lệ nói.

-Nguy hiểm lắm Con.

-Con không sợ; Con chỉ sợ Ba bỏ Con mà thôi!

-Ừ! Ba chết thì Con mới chết.
Ba của Tôi lái tàu đưa Tôi và Cô của Tôi với 26 người đến bến bờ Tự Do. Đảo Kuku, Indonesia; sau đó được đưa sang Trại Tỵ nạn Galang; 10 tháng sau sang Singapore 2 tuần khám sức khỏe trước khi đi định cư.
Ba Tôi đi làm. Tôi đi học. Hai năm sau ba Tôi mua nhà nhưng phải mất 5 năm mới trả hết nợ nhà thì Tôi vào Đại học. 4 năm sau Tôi trong Bộ đồng phục Tốt nghiệp và cái ống màu đỏ đựng cấp bằng cấp tốt nghiệp; Tôi ôm ba Tôi và khóc:

-Con cám ơn Daddy.

-Daddy cũng cám ơn Con; nhờ có Con mà Daddy vui sống bấy lâu.
Lần đầu tiên Tôi thấy Ba của Tôi thật sự rơi nước mắt; có lẽ bao năm rồi xứ Tự Do tình cảm của Ba Tôi đã phục hồi lại được trở lại sau bao năm dài sống trong chinh chiến khổ đau rồi tan thương làm kẻ chiến bại nhọc nhằn cơ cực tuyệt vọng làm chai đá tình cảm mà chỉ có an bình ấm no biết mình sẽ làm gì và sẽ có kết quả ra sau nên Ba của Tôi biết khóc.
Tôi đi làm được 2 năm, tiền lương đưa hết cho Ba; nhưng lương của Ba cũng xài đủ cho 2 Cha Con nên Ba của Tôi mở sổ Bank riêng cho Tôi và bỏ hềt tiền của Tôi vào đó.
Cô của Tôi bán 2 cái nhà để mua 1 cái lớn hơn ở vùng sát thành phố, Ba của Tôi bảo tôi mua cả hai; Lương của Tôi không thể mượn gần nửa triệu bạc nên ba của Tôi dùng cái nhà của ba để thế chấp cho Tôi vay mua 2 cái nhà cho mướn.
Bảy năm sau Tôi trả gần hết thì Ba của Tôi lại xúi Tôi mua thêm cái khác. Ba nói Con cần có 3 cái nhà cho mướn và nhà của ba thì để ở thì sau nầy Con không đi làm vẫn có cuộc sống an toàn tự do không lệ thuộc vào tiền thất nghiệp hay tiền già.
Tôi thì nghĩ khác Ba của Tôi. Tôi cần có 3 cái nhà cho mướn để khi Ba của Tôi cần đến người chăm sóc Tôi sẽ nghĩ việc để lo cho Ba của Tôi.
Tôi cũng chuẩn bị và học lấy bằng thông dịch tiếng Việt cấp 1 và học luôn cả cấp 2 và bằng cấp 3 thì Tôi tự nghĩ là không sau lấy được mặc dù rời Vn Tôi học lớp 5 và mỗi tuần dù mỏi mệt cần nghỉ ngơi Ba của Tôi cũng chở Tôi vượt 25km để học tiếng Việt cuối tuần.
Nếu vạn bất đắc dĩ Ba tôi phải vào Viện Dượng lão thì Tôi cũng sẽ xin vào làm thiện nguyện cũng được để chăm sóc cho ba; nhưng chắc không có đâu, Tôi đi tập Gym mỗi ngày để đủ sức nâng đỡ cho Ba của Tôi khi cần. Chồng của Tôi sắp cưới là người Đức nhưng sinh tại đây. Anh ta phải học hết chương trình 1 năm tiếng Việt thì chúng Tôi mới làm đám cưới.
Tôi cao 1 mét 70 nhưng Anh ta cao gần 1 mét 80 và Anh ta đồng ý khi Ba của Tôi già phải chấp nhận chăm sóc cho Ba của Tôi. Anh Ta cũng biết thà bỏ Chồng chứ không bao giờ Tôi bỏ Ba của Tôi.
Tôi cố gằng để viết đáp lại bài “Con Gái của người ta” của ba Tôi muốn đánh động lương tâm của Người và Người phải có Tình Người như Tình Người của Ba Tôi. Nếu Ba của Tôi không có tình người thì có lẽ Tôi nằm trong số gần 4 ngàn trẻ mồ côi trong chiến dịch “Operation Babylift” của Mỹ trong tháng 4 năm 1975. Số trẻ mồ côi nầy phải dùng chữ “Rải” ra khắp thế giới mà nhiều nhứt ở Mỹ rồi đến Canada Pháp Úc…. nhưng biết đâu Tôi không có cái may mắn còn sống vì gần 80 đứa bị tai nạn máy bay tan xác.
4 ngàn trẻ là gần 8000 Cha và Mẹ VN sở dĩ tôi nói gần là vì có những trẻ như Tôi thì Cha không phải là người Việt mà lại là một người Mỹ.
Gần trăm trẻ tan xác gần 4 ngàn trẻ rải ra trên nhiều nước. Có Cha Mẹ nào nhỏ 1 giọt lệ xót thương; có người Việt Nam nào trào nước mắt khóc cho những trẻ bạc phần?
Bản nhạc Lòng mẹ của Y Vân làm biết bao người nghe rung cảm nhớ tới Mẹ cũng như bao nhiêu bản nhạc bài thơ ca tụng về Mẹ. Tôi gần như Vô Cảm chẵng những vô cảm mà còn không muốn nghe và những bài ca ca tụng về tình Cha Tôi cũng không muốn nghe mà Tôi chỉ thích nghe Ba Tôi nói hay rầy la Tôi, Tôi còn thích nghe hơn Thơ nhạc Tình Phụ Mẫu Tử Vn; trong khi thời bình cũng như thời chiến có hàng triệu hay mấy triệu trẻ Mồ Côi; Chùa nuôi, Nhà Thờ nuôi, Tư nhân cũng mở trung tâm nuôi trẻ mồ côi; Trẻ mồ côi nhiều như thế thì có phải Tình Phụ Tử Mẫu tử Thiên liêng nay đã cạn kiệt? Tình người đã cạn thì Dân Tộc làm sau tồn tại!!!!
Cha Tôi đã viết:
“Con Gái của người ta”
thì Tôi xin đáp lại:
“Cha của Người ta, là Ba của Tôi”. I love you Forever. Daddy Trần Thiện Phi Hùng.

.
Trần Thùy An

Hồi Ký : Vui Buồn Đời Lính Trận – Hai Hùng SG

Hai Hùng SG

Cũng như cuộc sống của mọi người, ai mà không gặp phải những chuyện vui buồn trong cuộc đời của mình, tụi tui cũng vậy, tuy khoác lên mình bộ đồ trận thường xuyên đối mặt với hiểm nguy, ông Thần chết muốn dẫn về bên kia thế giới lúc nào mà chẳng được, vậy đó tuy gian lao, nhọc nhằn có khi trong giấc ngủ chập chờn, nhưng tụi tui vẫn sống với những buồn vui suốt cuộc đời trong quân ngũ, giờ đây cũng tròm trèm nửa thế kỷ trôi qua từ ngày tàn chiến cuộc, những vui buồn nó vẫn theo tui cho đến ngày xa rời nhân thế…

Về chiến trường An Lộc cuối năm 1972 tui được phục vụ ở ban Truyền tin của Liên đoàn 6 “Thần hổ”, đơn vị tui đóng quân trên dãy nhà đối diện chợ An lộc cách bởi một con đường, phải công nhận rằng từ nơi yên bình khi lao vô vùng hỏa tuyến mới thấy được cái cam go của người lính trận, may mắn cho đám tân binh tụi tui đến An Lộc thì cuộc chiến không còn ác liệt như những buổi ban đầu, các trận đụng độ đã lùi xa ra ngoại vi thành phố, tuy nhiên đường bộ vẫn còn bị đối phương phong tõa nên mọi sự tiếp tế cho quân trú phòng đều nhờ các loại phi cơ của bên không quân, và vẫn còn những trái đạn pháo mồ côi lâu lâu bay vô An Lộc đôi lúc gây bất an cho mọi người.

Bữa nọ đám lính trong ban Truyền tin tui gần cạn thức ăn, anh em chia nhau ra đi tìm kiếm coi có gì ăn được thì đem về, tụi tui mỗi đứa vác một cái vỏ bao gạo rồi làm thêm cái cù móc như mấy người lượm ve chai ở thành phố, nhưng khác nhau là họ thì tìm ve chai, lông vịt, đồng nhôm vụn về bán lại cho các chành ve chai để kiếm tiền, còn tụi tui thì đi kiếm rau cỏ, thịt thà .V.v… để dồn vô cái bao tử.

Tui với thằng Lê văn Liền ( Bạn thân) hai đứa lơn tơn đến một căn nhà nọ, nói căn nhà cho có chứ thật ra một nền nhà bên trên đầy gạch đá đỗ nát do bom đạn cày xới, thấy một cây Đu đủ ốm cà tong cà teo mà trên thân mình nó đeo đầy trái thấy phát ham, tui nói với thằng Liền :

  • Trời thương tụi mình rồi Liền ơi, hái hết đem về để dành nấu canh.

Thằng Liền nó vui mừng không kém, nhưng nó nêu ra cái trở ngại:

  • Cây quỷ này óm nhom mà cao nghệu sao hái được, hay chặt ngang cho nó ngã xuống rồi mình hái.

Nói xong thằng Liền rút cái lưỡi lê đeo bên hông để làm theo ý của nó:

Thấy vậy tui giơ tay cãn nó liền:

-Ý đâu có được, mình hái trái thôi để nó sống ra trái tiếp, nếu mình đỗi đi nơi khác, những người mới tới họ có cái mà ăn, tình hình này còn kẹt lâu lắm mới thông thương lại được Liền ơi.

Thấy tui nói có lý nên thằng Liền đút cây lưỡi lê vô bao, rồi nó đưa mắt nó chung quanh tìm cái cây nào dài dài để thọt mấy trái đu đủ, đúng là trời không phụ người hiền vì có một cái thang tre đã cũ, ai đó để bên hông nhà kế bên, Liền nhà ta bèn chạy nhanh tới vác cái thang dựa vào cây đu đủ để leo lên hái trái, cây đu đủ ốm yếu kia đứng một mình còn không muốn vững, nay bị cái thang tre với thân hình của thằng Liền dựa vô tui sợ nó chịu đời không thấu, tui bèn dang chân dùng tay vịn cái thang làm điểm tựa chia bớt sức nặng đè lên cây đu đủ, thằng Liền leo lên cây, nó nhanh chóng hái cho nhanh rồi leo xuống, vì trước khi nó lên cái thang tui đã òn ĩ với nó:

-Thật lẹ nha Liền, mầy quơ đại rồi xuống chứ mày lên đó ca sáu câu vọng cổ tao không chịu nổi đâu.

Hái hết mấy trái đu đủ nó bắt đầu leo xuống, bất chợt một bên cái chân Thang tự dưng gãy lìa, mất thăng bằng thằng Liền bị ngã theo cây đu đủ, may phước cho nó khi tiếp đất nó rớt trúng ngay đám mền gối cũ ai đó gom đống gần đó, nhờ vậy mà nó chẳng hề hấn gì, còn tui cũng thất thế khi Liền bị té, tui ngã nhào xuống đống đất của ai đào hầm trú ẩn còn vun lên cao nên cũng không nguy hiểm gì, hai đứa tuy bị té đau nhưng cũng vui vì chiến lợi phẩm là mấy trái đu đủ hái ở chiến trường rất quý.

Chuẩn bị cất bước đi bới những đám xà bần trong những ngôi nhà đỗ nát để tìm thịt hộp, bổng nghe tiếng kêu xé gió trên không trung, biết ngay là dù tiếp tế thực phẩm do phi cơ C130 thả từ trên cao xuống, hai thằng tui lật đật nằm rạp người xuống để tránh nguy hiểm khi dù chạm đất , vì khi đó đồ đạc của chiếc dù này văng ra tứ phía rất nguy hiểm cho ai ở gần, nguyên nhân những cánh dù này tan vỡ khi tiếp đất là do kỹ thuật thả dù, trước đây khi thả dù trên cao dù bung ra sớm quá gặp gió nó bay ra phía các cánh rừng xa xa mà không đến được nơi cần tiếp tế, rốt cuộc phe ta vô tình tiếp tế cho phe đối phương, sau này Khi tiếp tế họ làm cho dù rơi tự do khi gần chạm đất dù bung ra là vừa, nhưng không phải lúc nào cũng như ý vì có lúc dù không bung ra mà rớt thẳng vô ngôi nhà nào thì căn nhà đó tan hoang như bị bỏ bom.

Thời may chiếc dù hôm đó nó bung kịp theo tính toán, đơn vị trú phòng đem xe ra chỡ về kho để cấp phát cho các đơn vị thụ hưởng.

Tui với thằng Liền đào bới moi móc một hồi thì lượm được nhiều hộp thịt gà móp méo, một số hộp thịt ba lát, được đu đủ, được thịt gà hộp miễn phí, đêm đó ban truyền tin tụi tui được một bữa ăn ngon lành đủ chất dinh dưỡng sao bao ngày ăn uống kham khổ.

Một hôm khi bàn giao ca trực máy cho thằng Châu thợ may, tui với thằng Liền thằng Kết thả bộ xuống khu chợ An Lộc cho giãn gân cốt, đi rão một vòng tui thấy chỉ còn môt số ít nhà quanh chợ còn nguyên vẹn, nhà lồng chợ An Lộc bị cháy còn lại trơ khung vì kèo sắt ngó thật buồn, khi đến gần chợ tui phát hiện có một ổ Ong lớn đang đong đưa bám trên vì kèo, tui nghĩ chắc mật Ong vàng ươm nằm trong đó thật thơm ngon khiến tui thèm thuồng vô cùng, tui rị tay hai thằng bạn lại để bàn tính cách ăn ổ Ong này.

Sau một hồi bàn tính tụi tui về đơn vị lấy nào là Poncho, khói màu, mặt nạ phòng khí độc, bao tay, bao nylon loại lớn.

Quay trở lại nơi ổ ong , tui với thằng Liền lấy tấm Poncho mặc vô người, mang mặc nạ rồi đội cái nón sắt lên đầu, tụi tui không quên mang đôi bao tay để ong khỏi chích, thằng Kết thì lấy một cây tầm vong nằm gần đó, nó lấy dây kẽm cột trái khói màu vô ngọn cây tầm vong, khi tụi tui đã báo hiệu cho thằng Kết biết đã sẳn sàng hốt ổ ong này, thấy tui ra hiệu Kết ta rút chốt trái khói màu , khói xịt ra thật mạnh và bay lan nhanh ra chung quanh, thằng Kết lấy cây tầm vong đưa lên sát ổ ong, bị khói hun dám ong bay túa ra cả bầy đen ngòm như đám mây, hình như lũ ong biết ba thằng tui là thủ phạm nên sà xuống đánh tụi tui tơi tả, tiếng ong chạm mạnh vào Pon cho như ai cầm đá chọi vô mình tui liên tục , bụp.. bụp , càng lúc ong bu hai đứa tui nhiều vô kể, do tụi tui đã quấn kín người nên ỷ y chắc bọn ong không làm gì được mình, ngó lên ổ ong tui thấy nó lộ ra tàng ong ươm đầy mật, trong bụng tui nghĩ chắc mẽm ổ ong này sớm muộn gì cũng rơi vào tay tụi tui, không ngờ có vài con ong bằng cách nào nó đột nhập vô cái poncho rồi ra tay chích vô phía sau cổ tui mấy vết đau thấu trời xanh, thằng Liền cũng bị hai mũi, tội nhất là thằng Kết, chỉ là nhân vật phụ nhưng không che chắn gì nên bị ong dợt nó bốn mũi sưng vù lên trên trán, hoảng quá thằng Kết vừa la làng, vừa quăng cây tầm vong có trái khói màu vẫn còn đang xịt khói rồi dông thẳng về đơn vị:

-Chạy lẹ tụi bây ơi, ong dữ quá nó dứt tao mấy vết rồi nè, đau nhức thấy tía luôn.

Vết ong chích của tui cũng đang phát huy tác dụng, tui nghe đau nhói, chịu hết xiết tui kéo thằng Liền chạy trối chết về đơn vị.

Vừa chui đầu vô khỏi vọng gác của đơn vị, tui thấy sếp lớn đang đứng với gương mặt hầm hầm, ông lên tiếng hỏi:

  • Mấy đứa bây mới dưới nhà lồng chợ về phải không? Ai cho sử dụng khói màu bừa bãi vậy, bộ tính chỉ điểm cho pháo dập vô hả.

Biết ba đứa tui làm càn bậy bạ mà không nghĩ đến hậu quả, cả ba đứa xin lỗi sếp và hứa không tái phạm.

Thấy ba thằng tui mặt mày bị ong đánh sưng vù nên sếp cũng hạ hỏa không phạt cái tội tày đình trên, ông còn căn dặn:

-Gần đây có đám đề lô của quân bắc Việt ém trong các dãy nhà, mấy đứa cẩn thận không nên chơi cái trò này nữa nghe chưa.

Rồi sếp cho ba đứa tui về ban quân y để trung úy y sỹ trưởng điều trị cho tụi tui.

Bác sỹ Khiêm thấy vết thương khá nặng, ông gọi Trung sỹ Hồng chích thuốc giải độc cho ba đứa, rồi ông nói:

-Ba ông thần nước mặn này chơi dại quá, tổ ong mà mấy ông phá lúc nãy là ong vò vẽ đó, ong này rất nguy hiểm, nó đánh có khi chết cả con bò nữa đấy, các ông hên có thuốc giải độc, bằng không nguy hiểm lắm đó mấy ông.

Nhờ mát tay, bác sỹ Khiêm và trung sỹ Hồng đã cứu ba thằng tui một bàn thua trông thấy.

Sau khi khỏe mạnh tui dò la tin tức về ổ ong nọ, một bà bác nhà gần ổ ong đã cho tui biết:

-Sau khi mấy chú bỏ chạy, thì đám ong bị động ổ nên tụi nó dời đi nơi khác, còn tàng ong có mật thì có hai anh người Thượng lấy mất rồi.

Tui thầm tiếc của đã mất, nhưng tui nhớ lại câu ” Của đi thay người” nên cái tiếc kia chỉ thoáng qua rồi thôi..


Khi chiến trường An Lộc đã,yên tĩnh trở, đồng bào lần lượt quay về cũng là lúc đơn vị tui nói lời chia tay nơi này, trước khi tạm biệt chiến trường An Lộc, mấy anh em tụi tui ra viếng các anh hùng tử sỹ Biệt Kích Dù đã nằm lại nơi vùng đất này, nhìn hai câu thơ ghi trên vách tường nghĩa trang khiến cả đám phải bùi ngùi thương tiếc:

“An Lộc địa sử ghi chiến tích”
“Biệt kích dù vị quốc vong thân”

Thắp những nén nhang nghi ngút khói lên mộ phần các anh, tụi tui cầu mong các anh an lành nơi miên viễn.

Ngó qua ô cửa kính tròn của chiếc Chinook khi nó chao nghiêng, tui thấy dãy nhà nơi đóng quân, khung vì kèo sắt chợ An Lộc, xác vài chiếc chiến xa T54 cháy xém đang phơi trên chiến địa, tui phóng tầm mắt ra phía xa xa những cánh rừng bạc ngàn của đất Bình Long anh dũng như cố thu lại để trong miền ký ức sau này có dịp ôn lại đất nước mình có một thời binh lửa đau thương tột cùng.

Sau ngày tàn cơn binh lửa, khi có dịp đi ngang chiến trường xưa, tui thật ngỡ ngàng, những chiến tích đã dần xóa nhòa, sau chiến tranh vùng đất như như hồi sinh trở lại, đồng bào sinh sống làm ăn đông đúc như chưa từng trải qua cuộc chiến kinh hoàng của năm xưa, tui cúi đầu tưởng nhớ lại anh linh của các chiến sỹ đã nằm lại chiến trường xưa, chắc hẳn rằng xương cốt các chiến sỹ vô danh nay đã hòa vào mạch đất quê hương cho cây lá xanh màu tươi mát, tuy các anh không còn hiện diện trên cõi đời đã lâu, nhưng các anh vẫn còn in dấu trong lòng người dân nơi này mãi mãi về sau./.

Tháng 3 của chuỗi ngày buồn năm xưa. ….

Một lần chào cuối cùng trong đời quân ngũ!

Sau 30.4.1975, người Việt tản mác trên khắp thế giới để tỵ nạn cộng sản. Trên Sách Vở, Báo Chí, Hồi Ký, Bút Ký, trên Ðài Truyền Thanh, Truyền Hình, trong các Ðại Nhạc Hội, những lúc Hội Họp các Ðoàn Thể chính trị hay các Tổ Chức khác, trong lúc ngồi nói chuyện quá khứ với nhau, đôi lúc cũng nhắc đến cái chết của những vị Tướng lãnh hay các Sĩ Quan cao cấp khác trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những cái chết đó phải được vinh danh một cách trang trọng xứng đáng, phải được ghi vào Lịch Sử để con cháu chúng ta sau này biết đến sự tuẫn tiết của cha anh họ.

Với tinh thần đó, tôi muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con ngày 29.3.1975 tại Ðà Nẵng.

***

Tám giờ sáng ngày 28.3.1975, Tiểu Ðoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây Nam của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ Pháo Ðội 105 ly của Sư Ðoàn 3. Mở bản đồ thì biết đó là Trục Lộ 14C từ Quận Ðiện Bàn đi Ðại Lộc, Thượng Ðức thuộc Tỉnh Quảng Nam. Tiểu Ðoàn chịu trách nhiệm từ Tháp Bằng An đến Phong Thử (khoảng 2 km). Tiểu Ðoàn di chuyển đến địa điểm lúc 10 giờ sáng, đã thấy vài khẩu đại bác 105 ly đã có sẵn ở các ruộng khô cách Tỉnh Lộ 14C khoảng 50 mét.

Sau khi liên lạc với vị Pháo Ðội Trưởng để bàn hoạch phương thức bảo vệ Pháo Ðội, tôi ra lệnh, giao nhiệm vụ, chỉ định vị trí cho từng Ðại Ðội. Bộ Chỉ Huy của Tiểu Ðoàn ở gần Pháo Ðội. Khoảng 12 giờ trưa hôm đó, vị Ðại Úy Pháo Ðội Trưởng báo cho tôi biết là họ được lệnh rút lui sau. Tôi không thắc mắc vì Pháo Binh luôn luôn ở sau để yểm trợ. Tuy nhiên, tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý, Trưởng Ban 3 của tôi gọi về Tiểu Khu hỏi xem chúng tôi có theo họ để bảo vệ súng không?

Hai giờ 30 chiều hôm đó Sĩ Quan Ban 3 của tôi báo cho tôi biết là Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã thông báo là dời về Non Nước.

Lúc này, tôi có phần bi quan vì theo dõi tin tức qua máy trên các tần số của các Ðơn Vị ở Vùng I mà chúng tôi có trong đặc lệnh truyền tin.

Bốn giờ chiều, tôi hoàn toàn không liên lạc được với Liên Ðoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành Chỉ Huy mà Tiểu Ðoàn tôi trực thuộc. Tiểu khu cũng biệt vô âm tín.

Tôi gọi về Trung Tâm Hành Quân của Quân Ðoàn I cũng như của Sư Ðoàn 3, họ quá bận rộn với nhiều Ðơn Vị nên khó chen vào được.

Tôi mời các Ðại Ðội Trưởng và Sĩ Quan Tham Mưu đến cho biết tình hình và bàn kế hoạch. Bây giờ tôi không còn ai Chỉ Huy nữa nên tôi quyết định rút Tiểu Ðoàn về Hội An để vào Tiểu Khu xem sự việc đồng thời đó là con đường tương đối an toàn và gần nhất để ra Ðà Nẵng.

Ðơn Vị ra Quốc Lộ 1 thì dân, lính họ chạy về Ðà Nẵng quá sức tưởng tượng. Họ đang chạy giặc. Tình hình quá bi đát, một thoáng suy nghĩ trong đầu, tôi ra lệnh tất cả dừng lại ở trong Làng cách Quốc Lộ 100 mét, chờ lệnh tôi vì tôi sợ Lính ra đây thấy cảnh đó thì bỏ Ðơn Vị về lo cho gia đình.

Tôi tiến sát Quốc Lộ 1 để xem tình hình thì gặp Trung Tá Nguyễn Tối Lạc, Quận Trưởng Ðức Dục. Ông ta cho biết tất cả các Chi Khu của Quảng Nam đều bỏ cả rồi, Tiểu Khu thì về Ðà Nẵng không liên lạc được. Ông ta còn cho biết thêm là Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 vừa cho lệnh ông là trực thuộc Ðại Tá Vũ Ngọc Hướng, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 3.

Ðại Tá Hướng chỉ huy luôn các Tiểu Ðoàn của Tiểu Khu Quảng Nam nữa. Trung Tá Lạc chỉ còn một người mang máy truyền tin, một người Lính bảo vệ thôi. Tôi đang đứng với Trung Tá Lạc thì một chiếc chiến xa M-48 từ trong đi ra thấy có Ðại Tá Hướng ngồi trên pháo tháp.

Ông ta thấy tôi liền cho xe dừng lại. Tôi là thuộc quyền của ông lúc ông ta còn là Tiểu Khu Phó Quảng Nam và hỏi tôi:

– Tiểu Ðoàn của mày đâu mà mày đứng đây?

Tôi trả lời:

– Tiểu Ðoàn tôi còn nằm trong Làng này, Ðại Tá.

Tay tôi chỉ vào trong Làng gần đó.

– Có còn đủ không?

– Còn nguyên, chưa đụng trận nào lớn cả, mà chỉ gặp du kích thôi. Bảo đảm Ðại Tá, chắc Ðại Tá biết Tiểu Ðoàn này rồi mà.

– Tao hiểu, mày đã nhận lệnh của Thiếu Tướng Hinh chưa?

– Tôi chưa nhận lệnh trực tiếp của Thiếu Tướng nhưng đã nghe Trung Tá Lạc nói rồi.

– Tốt, bây giờ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu không còn ai nữa, mày trực thuộc Trung Ðoàn tao, mày có tần số của tao chưa?

– Có đầy đủ ở đặc lệnh truyền tin rồi Ðại Tá. Bây giờ Ðại Tá cho lệnh thế nào?

– Theo lệnh Thiếu Tướng, mày cho Tiểu Ðoàn về Hội An phòng thủ với Trung Ðoàn. Ðến nơi, mày vào gặp tao tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để nhận lệnh chi tiết.

Tôi từ giã Ðại Tá Hướng trở lui Tiểu Ðoàn trình bày cuộc nói chuyện và lệnh của Ðại Tá Hướng cũng như Trung Tá Lạc cho các Sĩ Quan nghe.

Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi nói:

– Bây giờ chúng ta về Hội An như ý định của chúng ta đã nói. Trên vấn đề quân sự, chúng ta đặt dưới quyền của Ðại Tá Hướng, nếu hữu sự, chúng ta có Lực lượng quân sự cùng chiến đấu. Về đó tùy tình hình ta xử trí sau.

Tại Hội An chúng ta có các điểm lợi sau:

– Về địa thế chúng ta đã rõ như trong vòng bàn tay.

– Có kho vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men của Trung Tâm Tiếp Vận Quảng Nam của Tiểu Khu, chúng ta xử dụng nếu chiến đấu nhiều ngày.

– Nếu, có Lính chết hay Bị Thương thì có Bệnh Viện Hội An có phương tiện cấp cứu, có Bác sĩ Trung Ðoàn 2 và Y tá.

Liên Tỉnh lộ 13C từ Ðà Nẵng đi Hội An tương đối an toàn để chúng ta về Ðà Nẵng.

Tôi đã trình bày những điểm lợi hại cho Sĩ Quang rõ, tôi nói tiếp:

– Nếu phải bỏ Ðà Nẵng như ở Huế và Vùng II thì tôi sẽ vào trình diện Quân Ðoàn để được giúp đỡ vì Tiểu Ðoàn mình còn nguyên chưa bị tổn thất thì thế nào Quân Ðoàn cũng lo cho mình vào Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu. Nếu tận cùng mình dùng quân số đông để áp đảo Hải Quân, yêu cầu được chở vào Nam chiến đấu.

Bây giờ đã 6 giờ chiều, mặc dù còn ánh nắng mặt trời, dân chúng cũng như Binh Sĩ chạy về Ðà Nẵng quá nhiều nên di chuyển Ðơn Vị lớn như thế rất khó khăn, dễ bị thất lạc.

Tôi ra lệnh cho các Ðại Ðội Trưởng, Trung Ðội Trưởng phải bám sát Binh Sĩ của mình đừng cho thất lạc. Nếu thất lạc, họ phải đến điểm tập trung là Ty Công Chánh Hội An. Ðó là điểm tập trung của Tiểu Ðoàn, đừng vào Tiểu Khu. Tôi căn dặn thật kỹ các Ðại Ðội phải ban hành lệnh đếm từng người Lính để họ nắm rõ điểm tập họp.

Sáu giờ 30, Tiểu Ðoàn bắt đầu hướng về Hội An. Lính Sư Ðoàn 2 Bộ Binh Tiểu Khu Quảng Ngãi, Quảng Tín kéo về như kiến cỏ. Họ không còn người Chỉ Huy nên hoàn toàn vô trật tự, vô kỷ luật, chỉ cần một hành động vô ý thức làm chạm tự ái, họ có thể bắn mình một cách dễ dàng.

Tôi đến được Hội An lúc 11 giờ đêm. Tại điểm tập trung, hai Ðại Ðội đầu đã có mặt. Tôi ra lệnh phòng thủ và đợi Tiểu Ðoàn đến cho đầy đủ. Tôi vào Tiểu Khu để gặp Ðại Tá Hướng nhận lệnh.

Mười hai giờ, Tiểu Ðoàn đã đến đầy đủ. Ðại Úy Quý Ban 3 Tiểu Ðoàn, cho tôi biết quân số lúc đó là 470 người. Các Sĩ Quan có đủ, có 20 thường dân là thân nhân của các Quân Nhân của Tiểu Ðoàn theo họ (họ hy vọng nếu có vào Sài Gòn thì họ cùng Tiểu Ðoàn vào Nam được dễ dàng hơn) vì lúc ở Ðiện Bàn, các gia đình này ở đó nên họ biết có Tiểu Ðoàn về nên đem theo luôn.

Có 50 Quân Nhân các Ðơn Vị khác thuộc Tiểu Khu Quảng Nam đã thất lạc Ðơn Vị nay muốn theo chúng tôi. Tôi nói với 50 Quân Nhân này, tôi chấp thuận cho họ ở với Tiểu Ðoàn với điều kiện phải tuyệt đối tuân hành lệnh của các Sĩ Quan Tiểu Ðoàn, nếu bất tuân, tôi ra lệnh bắn bỏ, nhất là lúc đụng trận. Tôi sẽ cho họ về Ðơn Vị gốc khi tôi gặp Ðơn Vị đó. Tất cả họ đồng ý và tôi phân chia cho các Ðại Ðội tác chiến ngay.

Riêng 20 thường dân (trong số này, tôi đã biết họ vì trước đây tôi có đến nhà họ lúc thuận tiện), Tôi ra lệnh cho Trung Sĩ I Thoảng chịu trách nhiệm vì Trung Sĩ I Thoảng là Hạ Sĩ Quan Ban 5 của Tiểu Ðoàn (Trung Úy Trưởng Ban 5 vắng) đồng thời tôi giới thiệu Trung Sĩ I Thoảng cho họ biết và nói:

– “Bà con là thân nhân của Quân Nhân các cấp trong Tiểu Ðoàn tôi, tôi có nhiệm vụ bảo vệ bà con như bảo vệ Lính tôi vậy. Nếu đụng trận bà con nghe lệnh của Trung Sĩ I Thoảng để được an toàn, đừng chạy lộn xộn mà chết, Tiểu Ðoàn đến đâu, tôi đem bà con theo đó”.

Họ hiểu ý tôi nên rất hoan hỉ.

Thành Phố Hội An bây giờ trống vắng, 99% đều bỏ ra Ðà Nẵng lánh nạn. Tiểu Ðoàn rời Ty Công Chánh Quảng Nam để đến vị trí phòng thủ theo lệnh Ðại Tá Hướng.. Ðó là hướng Bắc Hội An trên đường ra Ðà Nẵng. Trước khi đi, tôi còn để lại một Tiểu Ðội, một máy truyền tin do một Trung Sĩ của Ban 2 Chỉ Huy để đón nhận những người đến muộn.

Tại vị trí phòng thủ mới, tôi quá mỏi mệt, tinh thần căng thẳng. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì Hạ Sĩ I Minh bưng đến một tô cháo và một ly cà phê sữa đang nóng và nói:

– Mấy ngày nay Thiếu Tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước không, lo suy nghĩ nhiều, em thấy Thiếu Tá ốm đó nghe. Thiếu Tá ăn tô cháo hầm bồ câu và uống ly cà phê để có sức đánh giặc chứ. Tôi đang lo lắng, định bảo dẹp đi, nhưng thấy thuộc cấp của mình thương mình, lo cho mình như thế nên không đành và nói:

– Mấy ông kia ăn chưa? Bồ câu đâu mày có?

– Thưa Thiếu Tá, lúc nãy ở Ty Công Chánh có chuồng bồ câu có lẽ của ông Trưởng Ty đã bỏ đi rồi, nên em bắt 4 con, em biết Ðại Bàng sẽ rầy, nhưng giờ này có khỏe mới giết được việt cộng chứ Ðại Bàng.

– Thôi được, để đó, đừng mắc võng nữa nghe. Từ sáng đến giờ, tôi chỉ uống nước không ăn gì ngoài một tô mì gói có đập vào hai hột gà cũng do Hạ Sĩ I Minh làm mà thôi. Cảm thấy đói, hớp mấy miếng cà phê, ăn được gần nửa tô cháo thì nghe tiếng trực thăng, tôi nhìn ra thì thấy từ hướng Quân Ðoàn I có hai chiếc máy bay bay vào khá cao.

Tôi bảo Trung Úy Bình, Sĩ Quan Truyền Tin mở máy qua tần số Quân Ðoàn liên lạc xem sao. Không liên lạc được mặc dù Bình đã có tất cả đặc lệnh truyền tin trong tay, đã liên lạc nhiều tần số và nhiều giới chức có thể đi bằng máy bay nhưng vô hiệu. Tôi biết chắc đó là máy bay Quân Ðoàn, nhưng không biết giới chức nào mà thôi.

Lúc này, tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi ra lệnh Ðại Úy Quý, Trưởng Ban 3 gọi các Ðại Ðội Trưởng về họp đồng thời thu hết Tiểu Ðội ở Ty Công Chánh trở về Tiểu Ðoàn. Tôi còn ra lệnh Ðại Úy Hà Thúc Thuyên đi với một máy, vài Lính bảo vệ đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu xem Ðại Tá Hướng thế nào mà không liên lạc được.

Bây giờ là 2 giờ sáng ngày 29.3.1975. Ðại Úy Thuyên báo Trung Ðoàn 2 đã âm thầm ra hướng biển để về Ðà Nẵng. Tiểu Ðội ở Ty Công Chánh đã đến Tiểu Ðoàn mang theo 9 người Lính đến muộn.

Tôi cho về lại Ðại Ðội của họ cả. Như thế giờ này Tiểu Ðoàn có 479 Quân Nhân tham chiến chưa kể 50 Quân Nhân các Ðơn Vị khác đi theo. Sau một hồi bàn thảo của Sĩ Quan Tham Mưu và các Ðại Ðội Trưởng, tất cả quyết định rút về Ðà Nẵng, vào trình diện Quân Ðoàn.

Tôi hoàn toàn đồng ý và trình bày:

– Bây giờ còn sớm, chưa tới 3 giờ, chúng ta đến Chùa Non Nước sẽ gặp Ðơn Vị phòng thủ Quân Ðoàn ở đó trời chưa sáng, họ không nhận diện được ta có thể ngộ nhận và bắn lầm. Tôi quyết định 4 giờ sáng chúng ta xuất phát theo đội hình Ðại Ðội 1 đi dẫn đầu, Ðại Ðội 3 bên trái, Ðại Ðội 4 bên phải, Ðại Úy Thuyên Tiểu Ðoàn Phó đi với Ðại Ðội này vì có Trung Ðoàn 2 đi ra biển, nếu gặp tiện việc liên lạc hàng ngang tránh ngộ nhận. Ðại Ðội 2 đi sau, Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn đi giữa, gia đình đi sau Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn. Trên đường đi nếu chạm địch, chúng ta phải yểm trợ nhau đưa nhau về Ðà Nẵng. Tất cả, nếu không ai có ý kiến gì khác thì về Ðơn Vị chuẩn bị lên đường khi có lệnh.

Ðúng 4 giờ sáng ngày 29.3.1975, Tiểu Ðoàn bắt đầu di chuyển thứ tự theo lệnh như đã phân nhiệm. Trên đường đi, chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chỉ gặp vài du kích bắn lẻ tẻ,vô sự, các Ðại Ðội phản ứng nhưng vẫn tiến quân.

Gần 9 giờ sáng, Ðại Ðội đầu do Trung Úy Thành Chỉ Huy báo cáo đã đến Non Nước, gặp Ðơn Vị bạn, đã nhận diện và nói chuyện vời nhau. Trung Úy Thành nói chuyện đã gặp một Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến đang ngồi trên chiến xa nói là họ được lệnh không cho một Quân Nhân nào vào Ðà Nẵng mà mang súng, muốn vào phải bỏ súng ở đây.

Tôi nghe cũng ngạc nhiên. Lính mà không cho mang súng thì đánh giặc bằng gì, ôm mà cắn hả? Lệnh gì kỳ cục vậy.

Tôi nói cho Trung Úy Thành ra lệnh cho Binh Sĩ đứng tại chỗ, cấm phản ứng để tôi lên tiếp xúc. Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý là các Ðại Ðội thu hẹp gần Tiểu Ðoàn, bố trí tại chỗ chờ lệnh và nói Ðại Úy Thuyên đến gặp tôi.

Trên con đường đến gặp Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến, tôi suy nghĩ: Tình hình an ninh Ðà Nẵng rất xấu, đã có việt cộng cải trang thành lính xâm nhập rồi, nên mới có lệnh đó.

Tôi gặp vị Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến và trình bày sự việc để xin được vào Ðà Nẵng. Ông ta dứt khoát và bảo đó là lệnh, tôi không thể sai được. Tôi cũng biết lệnh của Quân Ðội, tôi nói tình lý cho Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến và gần như năng nỉ. Ông ta mềm lòng và nói để hỏi lại cấp trên.

Tôi tìm hiểu Thiếu Tá Ðịnh là cấp trên của ông ta vì Thiếu Tá Ðịnh học chung một Khóa Bộ Binh cao cấp với tôi năm 1973 ngủ chung một phòng, cùng người Huế, nên chúng tôi cũng thân nhau. Tôi cũng nói cho ông ta biết là tôi cũng là bạn thân với Thiếu Tá Ðịnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Thủy Quân Lục Chiến, vị Ðại Úy này xác nhận là Thiếu Tá Ðịnh là Tiểu Ðoàn Trưởng của ông ta. Ông ta nói chuyện với Thiếu Tá Ðịnh sau đó trao máy cho tôi để nói chuyện. Thiếu Tá Ðịnh cho tôi biết Quân Ðoàn đã đi hết, đã bỏ ngõ, Thủy Quân Lục Chiến cũng đang tự tìm cách về Sài Gòn chưa biết tính sao đây. Thế là hết! Tôi trả máy cho Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến.

Tôi ra lệnh Ðại Úy Quý gọi tất cả Sĩ Quan đến gặp tôi. Bây giờ là 9 giờ 30 sáng ngày 29.3.1975 tại Chùa Non Nước, Ðà Nẵng. Vị Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến cũng báo cho tôi biết là tôi được tự do vào Ðà Nẵng. Tôi chỉ nói cám ơn. Chiến xa nổ máy quay đầu chạy lui về Ðà Nẵng có tùng thiết Thủy Quân Lục Chiến theo. Thiếu Tá Ðịnh Thủy Quân Lục Chiến cũng cho tôi biết không còn phương tiện vào Sài Gòn nữa, chính Ðơn Vị ông ta cũng phải tự lo liệu lấy. Không ai Chỉ Huy nữa. Hải Quân ở Tiên Sa cũng nhổ neo hết rồi.

Tất cả Sĩ Quan có mặt. Tôi trình bày tình hình Quân Ðoàn, Hải Quân do Thiếu Tá Ðịnh cho biết chính ông ta cũng không biết xử trí thế nào. Tôi nói:

– Tôi đã cùng Quân Nhân các cấp trong Tiểu Ðoàn chiến đấu bên nhau bấy lâu nay, nhất là sau Tết cho đến bây giờ, tình hình chiến sự sôi động, gian lao khổ cực cùng anh em. Tôi đã đoán được tình hình, cố gắng đưa Tiểu Ðoàn về đây để được cùng nhau vào Sài Gòn tiếp tục chiến đấu, nhưng bây giờ sự việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta, tôi rất đau khổ về sự việc này.

Tôi cũng kể về sự tiếp xúc của tôi và Thiếu Tá Ðịnh Thủy Quân Lục Chiến, sự suy luận của tôi, sự hiểu biết về tình hình của tôi cho tất cả nghe và nói tiếp:

– Không nên tập trung cả Ðại Ðội, sợ bị tấn công bất thường, chỉ từng Trung Ðội giải thích cho họ hiểu, thông cảm tìm cách vào Sài Gòn hoặc về gia đình tùy ý. Quyền Chỉ Huy bây giờ tùy nghi các anh lo liệu. Nếu ai về nhà thì vũ khí nên phá hủy đừng để lọt vào tay việt cộng. Các bạn tự do thi hành theo ý mình, điều cần nhất là phải an ủi, giải thích cho Lính hiểu tâm trạng của chúng ta bây giờ.

Có nhiều người lưỡng lự chưa muốn đi. Lúc này tôi như cái xác không hồn, ngồi xuống đất, dựa vào cổng trụ cửa ngõ của một nhà bên đường xem phản ứng của Quân Nhân các cấp của Tiểu Ðoàn như thế nào. Các Sĩ Quan đã đến chia xẻ sự đau khổ của tôi, mỗi người một ý.

Mười giờ 30 sáng ngày 29.3.1975. Tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung Ðội Tình Báo của Ban 2 vẫn đứng quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân.

Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng đến đứng trước mặt tôi nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồi nói:

– Chắc em không vào Sài Gòn đâu Thiếu Tá. Cả Quân Ðoàn không một trận đánh nào mà đã bỏ đi cả, em thấy chán quá rồi. Em chúc Thiếu Tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được Sài Gòn.

Cái xác không hồn của tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã,tôi nói:

– Tao bây giờ không biết tính sao, tao cố gắng đưa Ðơn Vị về tới đây để cùng vào Nam song không ngờ như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay tao rồi.

Vợ Trung Sĩ I Thoảng và 2 con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi cùng đi với Tiểu Ðoàn từ hôm qua. Chị ta bước tới trước mặt tôi và nói:

– Em chúc Thiếu Tá lên đường bình an vào cho được Sài Gòn nghe Thiếu Tá, chứ việt cộng đến cỡ Thiếu Tá nó giết chứ không tha đâu.

Tôi đứng dậy xoa đầu hai đứa nhỏ đang đứng bên mẹ, có lẽ phản ứng lịch sự đối với đàn bà chứ tôi đã có đến nhà chị ta mấy lần rồi, nên cũng thường thôi. Tôi nói:

– Tôi cũng không biết có đi được không, đến đâu hay đó, Thoảng thì chắc nó không giết đâu vì nó cấp bậc nhỏ mà là chiến tranh chính trị ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.

– Cám ơn Thiếu Tá, chúc Thiếu Tá thượng lộ bình an. Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần nữa.

Tôi cũng không chào lại, đưa tay bắt và nói:

– Thôi mày về đi, tùy tình hình địa phương mà sống chắc không can gì đâu. Anh ta đến chào Ðại Úy Hà Thúc Thuyên Tiểu Ðoàn Phó, Ðại Úy Lê Ngọc Nhựt Trưởng Ban 2 Tiểu Ðoàn và Ðại Úy Huỳnh Văn Quý Ban 3 Tiểu Ðoàn rồi từ giã ra đi.

Ðến lúc này chỉ còn những Sĩ Quan đó và khoảng 20 Lính của Trung Ðội Tình Báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi xuống đất dựa vào trụ vôi. Ðại Úy Thuyên đến nói:

– Thôi mình cứ về Ðà Nẵng rồi hãy tính. Tôi đang chán nản chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe một tiếng nổ lớn phía sau nhà tôi đang ngồi. Lính tôi phản ứng ngồi xuống trong thế sẵn sàng tác chiến.

Tôi nói:

– Minh, mày ra xem cái gì đó? Minh đi với hai người lính nữa, sau hơn 5 phút chạy lui, trả lời:

– Thiếu Tá ơi! Ông Trung Sĩ I Thoảng tự tử bằng lựu đạn với vợ con ông ta rồi.

Tôi quá bàng hoàng và xúc động, tự nhiên tôi bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên la đau đớn, sự nhắn gởi trối trăn của thuộc cấp sắp chết mặc dầu tôi rất xúc động, tôi cũng có trái tim biết đau khổ nhưng tôi tự kềm chế không bao giờ khóc, nhiều lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về tình cảnh của tôi. Thế mà hôm nay không hiểu sao tôi lại bật khóc, có lẽ đây là lần khóc đầu tiên và cũng là lần khóc cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối với thuộc cấp.

Tôi hỏi:

– Nó chết ở đâu.

– Ông chết ở nhà kia.

Theo tay chỉ của Minh thì sau căn nhà tôi đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người Lính bảo vệ tôi cũng đi theo. Căn nhà tôn nhỏ xây vách chung quanh. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi hài không toàn vẹn, một xách áo quần, mền còn để lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, thịt tung tóe dính cả vào tường. Tôi không nói gì, quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các Binh Sĩ theo tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường.

Bây giờ là 11 giờ ngày 29.3.1975. Một Trung Sĩ I cấp bậc quá nhỏ so với tôi, một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng có lúc gọi bằng “thằng”, một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi như thế cho thân mật, có những lỗi lầm mà tôi đã rầy la đôi khi còn nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải gọi là Ông, Ông Thoảng với lòng tôn kính vì đây là một Vị Anh Hùng hơn tôi rất nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với cộng sản.

Hôm nay tôi viết để vinh danh một Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho con cháu sau này biết đến.

Xin nghiêng mình tôn vinh một Vị Anh Hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Hai giờ chiều ngày 29.3.1975, việt cộng đã treo cờ ở Tòa Thị Chính Ðà Nẵng.

Trương Quang Chung (Hoài Việt) – Tác giả

Thân mến

TQĐ

DẤU ẤN MÙA XUÂN VÀ THỜI CUỘC

Tạp ghi của Phạm Quốc Nam
Lời tựa: “Bài viết ghi lại dấu ấn những trận chiến lịch sử vào mùa Xuân của VNCH, lý do tại sao Trung Cộng chiếm Hoàng Sa trước 1975, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam thập niên 70 là chiến lược sai lầm? Saigon ngày nay và thời sự nước Mỹ: Các thuyết ‘phê phán’ làm thay đổi nước Mỹ, nguyên nhân khủng hoảng năng lượng, biên giới mở, lạm phát và nguyên nhân Nga xâm lược Ukraine.”. Những tiêu đề trên được người viết trình bày ngắn gọn dưới đây:

Đông qua Xuân tới, từng đàn chim én chao lượn trên bầu trời mang thông điệp báo hiệu mùa Xuân đang đến. Hơi ấm của mùa Xuân lan tỏa khắp nơi, vạn vật như bừng tỉnh, muông loài chim nhảy nhót ca hót líu lo sau những đêm dài lạnh lẽo của mùa Đông. Không như mùa Hè chói chang ánh nắng oi bức, mùa Thu buồn với lá vàng rơi; Xuân đến tất cả cây cỏ, cành hoa đều khoác lên mình những chồi non xanh mơn mởn, lãng mạn như vành môi hé mở đợi chờ.
Không gian kỳ diệu của mùa Xuân khiến tâm hồn người ta bừng lên sự sống mới. Mùa Xuân còn là mùa của hy vọng và ước mơ của mọi người, mùa của sum họp, gia đình đoàn viên. Tô điểm cho cảnh đẹp mùa Xuân là những loài hoa sặc sỡ và đặc biệt không thể thiếu cành mai, bông đào, chậu cúc vàng. Những thứ đã trở thành biểu tượng đặc sắc nhất trong những ngày Tết.
Nàng Xuân đẹp và rộn ràng như thế! Nhưng trong cuộc chiến chống Cộng, người lính Việt nam Cộng hòa đang ở tiền đồn heo hút, hay ở biên cương xa xôi ngàn dậm hoặc bồng bềnh trên sóng biển đại dương mấy ai có hay mùa Xuân đang đến và hậu phương mấy ai có thấu hiểu người lính miền xa đang ghì chặt tay súng trực diện quân thù hay những người thủy thủ trên các chiến đỉnh ngày đêm chận địch sang sông hay trên chiến hạm vượt sóng ngăn thù từ biển khơi hay những chàng phi công đổ quân, yểm trợ hay truy đuổi quân thù hoặc can đảm đáp con chim sắt giữa lòng quân địch cứu người thương binh. Tất cả cũng vì họ muốn bảo vệ quê hương, bảo vệ nàng Xuân đến mang thanh bình cho mọi người, để cho gió Xuân len lỏi khắp nẻo đường góc phố, cho xóm làng nhà nhà yên vui đón mừng Xuân mới.
Ngược dòng thời gian, ôn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông với biết bao chiến công chói lọi giành được vào mùa Xuân. Những chiến công đó đã làm nên những mùa Xuân lịch sử như mùa Xuân năm 40 Hai bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập, mùa Xuân năm 939 Ngô Quyền xưng vương dựng lại nền độc lập sau hơn ngàn năm đất nước bị đô hộ giặc Tàu, Mùa xuân năm 1077 Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh bại quân Tống trên sông Cầu (Bắc Ninh), mùa Xuân năm 1285 Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hai lần đánh bại quân Nguyên-Mông ở Vạn Kiếp (lần thứ nhất) và Bạch Đằng (lần thứ hai) và Đại thắng mùa Xuân 1789, Quang Trung – Nguyễn Huệ đánh tan 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Đó là những chiến công hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt.
Thời cận đại, trước cuộc xâm lược miền Nam của cộng sản Bắc Việt và tay sai Việt cộng, dân quân miền Nam đã tiếp nối truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của cha ông đã anh dũng đập tan nhiều cuộc tấn công xâm lược của cộng quân. Quân lực Việt nam Cộng hòa đã chiến thắng các trận đánh lớn vào mùa Xuân như trận Ấp Bắc (mùa Xuân năm 1963), trận Bình Giả (đầu mùa Xuân 1964), trận Mậu Thân (đầu Xuân 1968), trận Hạ Lào (mùa Xuân 1971) và trận Quảng Trị (Mùa hè đỏ lửa, cuối mùa Xuân 1972).
Sau cuộc tổng tấn công của cộng quân vào đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, thanh niên miền Nam hàng hàng lớp lớp lên đường tòng quân chống giặc theo lệnh Tổng động viên. Họ tòng quân vì nhiều ước mơ: ước mơ tự do, ước mơ độc lập, ước mơ đời sống văn minh, ấm no hạnh phúc và không cộng sản. Từ đó, người lính VNCH đã chiến đấu kiên cường, bất khuất để thực hiện những ước mơ chính đáng đó. Nhưng không may cho họ, vận nước đổi thay không cho phép họ hoàn thành sứ mạng mà họ mong muốn. Ngược lại cộng sản miền Bắc chỉ có độc nhất một mong muốn, đó là xâm lược miền Nam bằng mọi giá vì mưu đồ bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn đã từng nói huỵch toẹt: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa anh em”.
Mùa Xuân 1971 giải vô địch bóng bàn quốc tế được tổ chức ở Nagoya, Nhật Bản; cuộc tỉ thí giữa cầu thủ Glenn Cowan (Hoa Kỳ) và Zhuhang Zedong (Trung Cộng) mở ra thời đại ‘Ngoại giao bóng bàn’, đánh dấu sự thành công của ‘nhà ngoại giao con thoi’ Henry Kissinger (Mỹ) với Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai từ năm 1969 làm ấm lên quan hệ Mỹ -Trung, mở đường cho chuyến thăm tới Bắc Kinh năm 1972 của Tổng thống Mỹ Richard Nixon. Sau đó chính phủ Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại kéo dài 20 năm chống Trung Hoa Cộng sản thời Mao Trạch Đông.
Mùa Xuân năm 1973 Mỹ phản bội miền Nam qua Hiệp Định Paris bỏ lại phía sau quân lực VNCH vốn đang là một quân đội còn non trẻ đơn độc chiến đấu trong tuyệt vọng, cạn kiệt phương tiện chiến đấu, không quân viện phải đương đầu với khối cộng sản phương Bắc đang mở đường tấn công xâm lược xuống miền Nam và Việt cộng gia tăng phá hoại từ bên ngoài và nằm vùng bên trong chính quyền miền Nam, các đảng phái, tôn giáo bị Việt cộng lợi dụng, đối lập quấy rối, các tướng lãnh bất tài tham nhũng, chia rẽ, tranh quyền làm cho chính quyền miền Nam hỗn loạn và suy yếu hơn bao giờ hết. Tuy trong bối cảnh xã hội, chính trị miền Nam rối ren nhưng quân lực VNCH vẫn đứng vững kiên cường chống giặc…
Đầu mùa Xuân 1974, ngoài biển dân quân PLA Trung cộng khiêu khích hải quân VNCH châm ngòi trận hải chiến Hoàng Sa trưa ngày 19 tháng Giêng năm 1974 nhằm thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ. Sau 30 phút hải chiến ác liệt, không thấy Hàng không mẫu hạm Enterprice của Mỹ gần Hoàng Sa can thiệp, Trung cộng xua hạm đội hùng hậu gấp nhiều lần hải lực VNCH gồm hải, lục, không quân từ căn cứ Hải Nam tiến xuống Biển Đông chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa trưa ngày 20 tháng Giêng năm 1974. Lý do Trung cộng chiếm Hoàng Sa trước khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam vì Bắc Kinh lo ngại csVN sau khi chiếm miền Nam, chúng sẽ nhờ Liên Xô trấn giữ Hoàng Sa và như vậy Trung Cộng sẽ khó lòng tiến xuống Biển Đông sau này. (Từ năm 1969 quan hệ Mỹ -Trung ấm lên, Trung Cộng rút quân và ngưng tài trợ cho Bắc Việt. Liên Xô thay thế Trung Cộng trở thành nước tài trợ lớn nhất về kinh tế và quân sự cho CS Bắc Việt).
Trong đất liền, chiến dịch mùa Xuân 1975 cộng sản Bắc Việt tấn công vào Tây Nguyên, đánh cướp Huế – Đà Nẳng và chiến dịch Hồ chí Minh chiếm Saigon. Trước cuộc tổng tấn công của cộng sản quân lực VNCH từ rút quân khỏi Vùng I, đến Vùng II và cuối cùng Saigon thất thủ sau tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, kết thúc cuộc chiến hơn 20 năm vào mùa Xuân 75. Miền Nam bị bức tử, người lính cộng hòa buông súng bất đắc dĩ, nhiều tướng tá, binh sĩ uất ức tuẫn tiết. Cuộc chiến Việt nam kết thúc mở đầu cuộc khổ nạn cộng sản của người dân miền Nam.
Mùa Xuân Ất Mão 75, ngày 30 tháng Tư ghi lại thời khắc có lẽ đối với những người miền Nam, nhất là những người bỏ nước ra đi, một sự kiện không hề làm họ phai nhòa cảm xúc hay nhàm chán suy tưởng đến cái thời khắc đã ghi dấu ấn đau thương mất mát của một sự kiện gọi là ‘lịch sử’, một sự kiện đau lòng nhức nhói khó phai mờ cho dù thời gian có xóa đi ký ức.

***

Nói về hắn, giữa năm 1969 theo tiếng gọi non sông và sức quyến rũ của biển cả, hắn rời giảng đường đại học tình nguyện vào quân chủng hải quân vừa đúng 20 tuổi. Trở thành lính biển, mùa Xuân năm 1970 là mùa Xuân đầu tiên hắn xa nhà, xa Saigon, xa cả người yêu mới quen. Tiếp nối những mùa Xuân sau hắn biền biệt tại chân trời góc biển, lúc ở hải đảo, khi trên chiến đỉnh tuần duyên, lúc xuống chiến hạm tuần dương.
Giữa tháng Tư năm 1975 Bộ tư lịnh Hạm đội chỉ định hắn chỉ huy Tuần duyên hạm Trường Sa HQ-611 thay thế hạm trưởng vắng mặt. Theo lệnh ‘mật’ của Tư lịnh Hạm đội, chiến hạm của hắn đã sẵn sàng để di tản ra Côn Sơn. Đêm 29/4 hạm đội di tản, một biến cố xảy đến cho HQ-611 khi hắn trên đường về nhà mang gia đình xuống chiến hạm di tản thì tại bến Bạch Đằng HQ-611 của hắn bị một nhóm lính vũ trang tràn xuống cướp tàu ra đi nhưng không may cho họ chiến hạm vô nước và chìm trên đường ra biển (Nhân viên đến nhà báo tin). Không mang được tàu theo hạm đội di tản, hắn ở lại Việt nam cùng chung số phận của hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức miền Nam đi tù cộng sản.
Đầu mùa Xuân năm 1983, hắn ra tù, vài tháng sau hắn nhận làm tài công cho một chiếc ghe vượt biên với 89 thuyền nhân. Sau 2 ngày đêm hải hành và một đêm neo ghe tại hải phận quốc tế để dưỡng sức, dưỡng máy và tát nước ngập lườn ghe. Hừng sáng sớm hôm sau hắn cho nhổ neo và tiếp tục đi về hướng Nam. Trời trong xanh, gió yên sóng lặng, nhiều đàn cá heo bơi dọc theo ghe, có lúc chúng nhảy múa trước đầu ghe như báo trước điềm lành. Qủa thật may mắn đã đến với 89 thuyền nhân! Vào giữa trưa ghe được một tàu chở khí đốt khổng lồ của Mỹ mang hiệu LNG Aquarius đi ngược chiều từ Sigapore về Nhật Bản cứu vớt gần phía Bắc đảo Nam Dương. Sau khi chuyển tất cả thuyền nhân lên tàu Mỹ bằng thang dây, hắn ở lại giúp một thủy thủ người Mỹ đụt một lổ lớn dưới lườn cho ghe chìm là lý do Cao ủy tỵ nạn LHQ chấp thuận cho tàu Mỹ vớt. Đứng trên boong tàu Mỹ cao ngất, hắn nhìn chiếc ghe nhỏ bé trôi ra xa và chìm dần vào giữa đại dương mà lòng bùi ngùi thương chiếc ghe nhỏ bé đã cưu mang 89 thuyền nhân hai ngày ba đêm vượt biển. Sau đó 89 thuyền nhân theo trên tàu Mỹ suốt bảy ngày đêm để đến Nhật Bản tạm cư. Đầu mùa Xuân năm 1986 gia đình hắn rời Nhật Bản đến Phi luật Tân (trại Bataan) và sau đó định cư tại Hoa Kỳ vào mùa Hè năm 1986.
Xa quê hương, nhớ nhà, nhớ Saigon thỉnh thoảng hắn tìm lại hình ảnh Saigon qua youtube. Nhưng buồn thay! Hắn không còn tìm lại được hình ảnh Saigon trước 1975 trên màn hình. Thay vào đó, ngày nay với những công trình xây cất, đường phố, những tòa nhà đồ sộ cao ngất do nước ngoài tài trợ hoặc các đại thương gia, các công ty ngoại quốc dựng lên làm thay đổi bộ mặt của Saigon và những thành phố hào nhoáng khác như Phú Quốc, Nha Trang, Đà Nẵng.
Saigon vẫn tấp nập người xe chen chúc mưu sinh từng ngày. Có khác Saigon trước 1975, Saigon ngày nay đầy những quán cơm từ thiện nuôi ăn cho những kẻ khốn cùng bất hạnh lang thang trên đường phố, những nhà từ thiện đi khắp nơi dựng nhà, giúp đỡ những gia đình khốn cùng mà dòng tiền đến từ các nhà hảo tâm trong nước và người Việt hải ngoại; lẽ ra đó là việc làm của nhà cầm quyền. Những cảnh tượng thương tâm, những mảnh đời rách nát lang thang khắp góc đường khu phố mà trước kia Saigon không hề thấy. Chẳng lẽ đó là biểu tượng của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam!.
Saigon ngày xưa từng là hòn ngọc viễn đông, ngày nay trở thành thành phố phồn vinh giả tạo. Đau lòng thay! Khi hắn thấy ngày nay người dân Saigon đón Tết với quang cảnh choáng ngợp sắc màu như đang đi lạc vào khu phố Tàu bên Thượng Hải hay Quảng Đông Trung Quốc; chẳng lẽ nước Việt bị Tàu đồng hóa nhanh như thế!.

Đến Hoa Kỳ hắn tìm đọc tài liệu chiến tranh Việt Nam và ngỡ ra rằng chẳng những Hiệp định Paris mùa Xuân 1973 [Mỹ] bỏ rơi miền Nam, [Mỹ’] còn bôi nhọ 58 ngàn lính Mỹ tử vong và trên 300 ngàn lính Mỹ bị thương trên chiến trường Việt nam và [Mỹ] bôi bẩn các cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam khi trở về nước. Thập niên 50, 60, 70 truyền thông có giới hạn nên thế giới không thấy hết sự tàn ác của cộng sản và sự vô tâm của những con buôn chính trị. Ngày nay các nhà bình luận đánh giá Mỹ rút quân ở Việt Nam thập niên 70 hoàn toàn sai lầm về chiến lược, chẳng những không lôi kéo được ĐCSTQ về phía Tự do và dân chủ hóa nước Tàu, ngược lại ngày nay Trung Cộng có nền kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, còn muốn vượt qua Mỹ về kinh tế, quân sự và ĐCSTQ luôn tìm cách hủy hoại nước Mỹ từ bên trong để vượt qua Mỹ, thống trị toàn cầu.
Đi xa hơn chính quyền Mỹ còn bị khuynh đảo bởi nhiều thế lực như nhà nước ngầm, quyền lực mềm, toàn cầu hóa, trật tự thế giới mới, những người theo chủ nghĩa ‘thức tỉnh’ hay ‘phê phán’, giới ‘tinh hoa’ đầy quyền lực, giới truyền thông thiên tả và các đại công ty.
Giữa năm 2020 Đảng Dân chủ ‘cấp tiến’ hay ‘cực tả’ thúc đẩy chủ nghĩa ‘phê phán chủng tộc’ qua phong trào ‘qùy gối’ trước cái chết của người Mỹ da đen George Floyd ở Minneapolis tháng 5/2020 và cổ vũ những chiến binh đường phố Black live matter (BLM) và Antifa đốt cờ Mỹ, đập phá nhiều thành phố trên khắp nước Mỹ. Hành động của họ có mục đích muốn xóa bỏ lịch sử và hủy hoại di sản của nước Mỹ đã làm lung lay giá trị cốt lõi lập quốc của các Tổ phụ Hoa Kỳ; những giá trị mà nhiều quốc gia trên thế giới ngưỡng mộ, noi theo.
Tỷ phú Alon Musk, người giàu nhất trên trái đất, chủ của công ty xe điện Tesla và SpaceX vừa mua lại Twitter, trước kia ông ủng hộ Đảng Dân Chủ nhưng ngày nay ông rời bỏ họ, ông cho rằng Đảng Dân Chủ ngày nay đi qúa xa, không còn là Dân Chủ ngày xưa và mới đây ngày 25 tháng 11 ông đã báo động về mối đe dọa do các hệ tư tưởng ‘thức tỉnh’ gây ra đối với nền văn minh nhân loại, ông nói: “Virus tâm trí thức tỉnh đã xâm nhập triệt để vào ngành giải trí và đang đẩy nền văn minh đến chỗ tự sát.”.
Nước Mỹ đang đối mặt khủng hoảng năng lượng, lạm phát phi mã và biên giới phía Nam khủng hoảng nghiêm trọng. Mỹ còn là nước đứng đầu tài trợ lớn nhất cho Ukraine để bảo vệ quốc gia này trước sự xâm lược của Nga.
Nước Mỹ đang lạm phát cao kỷ lục sau hơn 40 năm do chính quyền ông Biden chi tiêu qúa lớn, về cơ bản đã thực thi các nội dung then chốt cho cuộc ‘cách mạng xanh’ (Green New Deal) mà ông Biden gọi là xây dựng hạ tầng cơ sở đã nâng nợ trần Quốc gia lên đến 31 ngàn tỷ đô la, con số cao kỷ lục trong lịch sử. Đại dịch COVID đóng cửa kinh tế và khủng hoảng năng lượng dẫn đến kinh tế chậm lại, thiếu hụt công nhân là một yếu tố đẩy lạm phát lên, tăng chi phí lao động và gây căng thẳng cho chuỗi cung ứng. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục tăng lãi xuất giảm lạm phát làm cho đời sống người Mỹ càng chật vật khó khăn hơn.
Nước Mỹ vốn độc lập về năng lượng, là quốc gia sản xuất dầu và khí đốt lớn nhất thế giới nhưng vì chính sách ‘biến đổi khí hậu’ của chính quyền Biden, các lệnh hành pháp đóng cửa ngành sản xuất dầu trong nước như ngưng dự án đường dẫn dầu Bắc Mỹ (Keystone XL) và thu hồi giấy phép khai thác dầu ở Vịnh Mexico ngoài khơi Freeport Texas, làm cho nước Mỹ mất độc lập năng lượng, phải đi mua dầu từ Iran, Venezuela, Á Rập Saudi với giá cao và còn bị kẻ thù đe dọa. Nguy hiểm hơn khi ông Biden cho bán dầu ra thị trường từ kho dầu chiến lược SPR khẩn cấp của Cục Dự trữ Dầu quốc gia để hạ nhiệt giá dầu.
Lợi dụng nước Mỹ đang rơi vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, Nga đã phát động xâm lược Ukraine. Nga vốn có khuynh hướng tái lập đế chế củ là chính sách hiện nay của Điện Kremlin; Nga có âm mưu chiếm Ukraine từ lâu vì tác nhân lịch sử và địa lý hay nói chính xác là bởi áp lực địa chính trị, trật tự thế giới mới và lợi ích của nước Nga. Ba nước Nga, Ukraine và Belarus vốn chung một cội nguồn dân tộc người Rus (người Nga cổ hay Quốc gia liên minh Kievan Rus, nước Nga Kiev) có thủ đô tại Kyiv (thủ đô của Ukraine ngày nay), sau dời về Moscow (thủ đô nước Nga hiện tại). Dựa trên lịch sử người Rus, Nga xem Ukraine như là một phần lãnh thổ của mình và cho rằng Ukraine gia nhập NATO sẽ là mối nguy hiểm cho Nga về an ninh lãnh thổ, nguy hại đến kinh tế và văn hóa, điều mà ông Putin không muốn. Nước Mỹ và phương Tây đang suy yếu vì đại dịch và khủng hoảng năng lượng là cơ hội cho Nga giải tỏa ‘áp lực địa chính trị’, Nga viện dẫn điều 1(2) về quyền dân tộc tự quyết của Luật pháp quốc tế, lỗ hỏng của điều 2(4) trong Hiến chương Liên Hợp Quốc do Mỹ đứng đầu (chia cắt và ngăn chặn sự hồi sinh của nước Nga củ), đồng thời Nga lấy cớ Hoa Kỳ và NATO khước từ bản đề nghị an ninh 8 điểm của Nga vào tháng 12 năm 2021, trong đó nội dung chính yếu là Nga yêu cầu NATO không kết nạp Ukraine và các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập vào tổ chức. Đây là nguyên nhân trực tiếp Nga phát động chiến tranh xâm lược Ukraine. Nga đang sa lầy cuộc chiến bởi ‘chiến tranh ủy nhiệm’ từ phía Hoa Kỳ và Châu Âu dẫn đến việc Nga có thể sử dụng ‘bom năng lượng’, Nga tin rằng kích hoạt một quả bom giá dầu vào mùa Đông sẽ chia rẽ được phương Tây và Ukraine, điều mà Hoa Kỳ và NATO lo ngại. Hôm thứ Ba (29/11) Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg tái khẳng định cam kết Ukraine sẽ trở thành thành viên trong tương lai. Tuyên bố này của NATO như thêm dầu vào lửa sẽ đưa cuộc chiến đến khốc liệt hơn và kéo dài hơn nữa; Nước Mỹ sẽ còn mệt mỏi và người dân Mỹ còn gánh nặng tiền thuế nhiều hơn cho cuộc chiến này.
Biên giới phía Nam nước Mỹ đang khủng hoảng nghiêm trọng. Hai năm qua gần 5 triệu người xâm nhập bất hợp pháp vào Hoa Kỳ. Kết quả thật thảm khốc đối với nước Mỹ: Tỷ lệ tội phạm tăng vọt (bao gồm buôn bán ma túy, buôn người và các băng đảng bạo lực); chi phí dịch vụ xã hội cho người vượt biên giới cao ngất ngưởng càng tạo gánh nặng cho những người Mỹ đóng thuế và hàng trăm nghìn ca tử vong do độc dược fentanyl mỗi năm.
Một trong những hậu quả tồi tệ nhất tại biên giới là sự bùng nổ lượng fentanyl và các loại ma túy gây tử vong khác như cocaine và heroin tuồn vào Hoa Kỳ. Các tiền hóa chất cho nhiều loại ma túy này có nguồn phát xuất từ Trung Cộng. Fentanyl đang tràn lan khắp nước Mỹ từ bờ Đông sang bờ Tây như một đại dịch.
Qua bầu cử giữa kỳ ngày 8 tháng 11 Cộng Hòa giành chiến thắng tại Hạ Viện với tỷ số qúa sít sao, chưa kể Cộng Hòa không ít người mang danh Cộng Hòa nhưng lòng Dân Chủ (Reno); như vậy không biết Cộng Hòa có thực hiện được những nghị trình của mình hay không?
Cũng không hiểu ông Biden mở cửa biên giới vì nhân đạo hay gia tăng dân số hoặc vì tìm lực lượng lao động giá rẻ hay vì khởi đầu thực hiện ‘liên minh Bắc Mỹ’, một ý tưởng toàn cầu hóa có từ năm 1990, xóa bỏ biên giới giữa ba nước Canada, Mỹ và Mễ như các nước Châu Âu.
Từ năm 2020 thuyết ‘phê phán’ xuất hiện. Đáng lưu ý là Thuyết chủng tộc phê phán (Critical Race Theory – CRT) và Đa dạng, Công bằng & Hòa nhập (Diversity – Equity – Inclusion – DEI). Các thuyết này nhận được sự ủng hộ trong toàn chính phủ liên bang. Mục đích của CRT và DEI là sử dụng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc để xóa sổ tận gốc những giá trị lâu đời của nước Mỹ, từ lịch sử đến văn hóa, xã hội, giới tính, tôn giáo và xóa bỏ cả chủ nghĩa Tư bản đang tạo ra sự hỗn loạn kinh tế, xáo trộn an ninh xã hội, đảo lộn đạo đức và đối nghịch tư duy.
Các thuyết phê phán xuất hiện tạo nên hình thái của một nước Mỹ bị phân cực, gây chia rẽ và hận thù sâu sắc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ: Người Cộng Hòa bảo thủ dán nhãn Dân Chủ cấp tiến đang phá hũy nước Mỹ bởi cách mạng xã hội chủ nghĩa và cáo buộc ngành Tư pháp, FBI bị chính trị và vũ khí hóa; Ngược lại Dân chủ cho rằng Cộng Hòa bảo tồn truyền thống là cực đoan, bán phát xít (Semi-fascist) và MAGA, những người theo chủ nghĩa Trump (Nước Mỹ trên hết) phá hoại nền Dân chủ nước Mỹ.
Vậy thì phía nào đang nói dối? Về truyền thông, mạng xã hội, bên nói thật thường hoan nghênh sự đối chất, tranh luận; ngược lại bên kiểm duyệt, bịt miệng, hâm dọa, đình chỉ hay cắt tài khỏa người dùng là bên nói dối.
Chính quyền ông Biden đi sai hướng hay có định hướng với nghị trình ‘green new deal’ là quốc sách xây dựng lại nước Mỹ tốt đẹp hơn?Thực tế nước Mỹ đang chao đảo, hỗn loạn, khủng hoảng chính trị, năng lượng, kinh tế và xã hội. Người dân như những con chuộc trong phòng thí nghiệm của các nghị trình, chính sách từ những người làm chính trị.
Nhưng dù sao, hắn cũng cám ơn nước Mỹ; hơn 36 năm đã cưu mang gia đình hắn được sống trên đất nước tự do, không cộng sản, bình đẳng, nhân bản và bản thân hắn thoát khỏi sự trả thù, trù dập của kẻ thù, cộng sản Việt Nam.
Nước Mỹ đang ảm đạm, không gian u ám bao trùm. Hắn cảm tưởng như đang cư trú trên một nước nào khác không phải là nước Mỹ, nơi vùng đất hứa với giấc mơ Mỹ tuyệt vời. Tuy nhiên hắn còn một hy vọng, tin tưởng ngày mai trời sẽ sáng, mùa Xuân lại về trên đất Mỹ vì trong qúa khứ người dân Mỹ đã từng vượt qua khó khăn như thời điểm hiện nay dưới thời Tổng thống Franklin D. Roosevelt và Jimmy Carter.

.
Mùa Xuân 2023
Phạm Quốc Nam

Bài đăng trong Đặc san Báo Xuân Quý Mão 2023 Oregon

 Chuyện Tình Người Vượt Biển Mồ Côi

“Người ta vượt biển có đôi

Còn tôi vượt biển mồ côi một mình.”

Đây là câu chuyện bình thường của những đàn ông, đàn bà phải đem con qua biển Đông để tìm kiếm tự do cho mình và con cái. Họ là những người đi biển mồ côi một mình. Những tình duyên tạm bợ, lâu dài của họ trên đường đi thôi thì tùm lum tà la, thiên hình vạn trạng. Có cái mẫu số chung là họ tìm đến nhau vì họ cô đơn quá, họ thèm sống quá, sau khi đã vượt qua những hiểm nguy, căng thẳng trên mặt biển. Khi được may mắn sống sót, đặt chân lên hòn đảo hồi sinh, họ lại phải tiếp tục đối phó với cuộc sống mới, lại phải trải qua những thủ tục để được nhận đi định cư.

Phần lớn thuyền nhân đặt chân chân lên hòn đảo “buồn đau, bi đát” Bidong đều được nghe qua một lần các câu nói: “Tình Bidong có list là dông!” và “Tình Sungei Besi có list là đi!” ngụ ý trách móc những tình duyên tạm bợ, những tình nhân phụ bạc. Nói nào ngay họ cũng không có gì đáng trách; bởi vì, ở đâu thì cũng là cuộc sống và con người. Câu chuyện tình sau đây tôi là người được chứng kiến từ đầu tới cuối: một chuyện tình rất đẹp, rất người!

Khi tới Bidong, tôi ở longhouse thuộc khu F. Ở kế nhà người đàn bà có bốn đứa con, chồng bị chặt đầu đạp xuống biển trong chuyến vượt biển mà hải tặc đã giết một loạt bốn chục người đàn ông, chỉ còn một người đàn ông duy nhất sống sót. Người đàn bà nhan sắc trung bình, khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi. Lúc mới tới đảo, tôi lấy làm lạ là những người chung quanh không ai chịu giao thiệp với cô ta. Mọi người đều nhìn người đàn bà với cái nhìn khinh bỉ. Một hôm có chuyện gây gổ giữa những đứa trẻ, một người đàn bà khác ở cách tôi mấy căn nhà, ra đường đứng chống nạnh chửi đổng:

“Tao đã dặn bọn bây đừng có chơi với con cái của cái thứ ‘Chồng chết chưa kịp để tang/Cái l. nhép nhép như mang cá kìm,’ mà bọn bây hổng nghe.”

Người đàn bà bị chửi chỉ im lặng dẫn mấy đứa con vào nhà. Một lúc sau tình cờ nhìn qua, tôi thấy cô ta vừa cho con bú vừa khóc ở căn gác lửng. Nhìn thấy tôi, cô ta lấy ống quần lau vội nước mắt, nói bâng quơ:

“Mấy con quỷ gì nó bay vô mắt khó chịu quá.”

Đâu khoảng một tháng sau, một buổi sáng, bỗng nhiên người đàn bà ẳm con, đi theo sau ba đứa nhỏ và một người đàn bà người Pháp đến tìm tôi. Tôi ngạc nhiên khi người đàn bà Pháp đưa tay bắt tay tôi và tự xưng là người phụ trách trường Pháp văn ở đảo Bidong. Bà Cibelle mời tôi phụ trách lớp Pháp văn vỡ lòng cho người tỵ nạn. Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì bà nói tiếp là bà biết tôi biết Pháp văn vì Hoa (tên người đàn bà) giới thiệu. Tôi nhận lời bà Cibelle nhưng tôi cũng nói cho bà biết là có thể tôi không làm tròn được việc bà mong muốn là dạy cái lớp vỡ lòng cho đến mãn khóa vì có thể tôi sẽ có danh sách chuyển trại về đất liền sớm vì tôi đã được phái đoàn Mỹ mở hồ sơ. Bà mời tôi điếu thuốc Gaulois, mỉm cười rất tươi:

“Không sao, được ông giúp là tốt rồi.”

Tôi hút một hơi thuốc, nói:

“Bà làm tôi ngượng. Đó là bổn phận của chúng tôi.”

Sau khi tiễn bà Cibelle ra về, Hoa sang nhà tôi nói:

“Anh hai đừng có giận em vì cái chiện em giới thiệu là anh hai biết tiếng Tây với bà Xi-ben.”

Tôi bắt tức cười:

“Nhưng mà sao cô lại biết tôi biết tiếng Tây mà giới thiệu?”

Hoa bẽn lẽn:

“Thì em cũng đoán vậy thôi. Sĩ quan mà ông nào hổng biết tiếng Tây, tiếng Mỹ.”

Người đàn bà ngập ngừng, kế nói tiếp với vẽ bẽn lẽn:

“Anh Bé hồi trước ở đây ảnh nói cho em biết chiện đó.”

Tôi càng ngạc nhiên:

“Anh Bé là ai vậy?”

Người đàn bà ngập ngừng, nhìn tôi:

“Trước ảnh cũng ở nhà anh hai ở. Ảnh vừa đi qua “Bi-xi” (Sungei Besi) ở “Ku-la bua” (Kuala Lumpur) gì đó chờ đi định cư thì anh hai tới đó. Anh Bé trước ảnh là trung sĩ.”

Nói tới đây bỗng nhiên người đàn bà ôm mặt khóc. Tôi hoảng quá không biết việc gì. Người đàn bà ngồi trên bộ ván, hai chân thòng xuống đất khóc mùi mẫn. Đứa con nhỏ không biết chuyện gì cũng khóc theo. Mấy đứa con đang chơi ngoài sân nghe mẹ khóc chạy vô lỏ mắt ngó. Tôi đi qua, đi lại bần thần:

“Có chuyện gì thì cô cứ từ từ mà nói. Có cái gì đâu khi không khóc bù lu, bù loa. Ở ngoài người ta không biết người ta lại tưởng tôi làm cái gì bậy bạ với cô, người ta chạy lên báo với văn phòng trại là kẹt cho tôi lắm.”

Người đàn bà lấy tay áo lau nước mắt, đưa đứa con nhỏ cho con chị bồng, nói: “Má cho tiền mấy đứa đi mua bánh cho em ăn. Để má nói chuyện với cậu hai.”

Tôi tá hỏa không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Người đàn bà đôi mắt đỏ hoe, nhưng giọng nói ráo hoảnh:

“Anh hai biết hôn: Hồi lúc mới lên đảo em đâu có biết cái gì đâu. Chồng em hồi ở Việt Nam làm nghề biển. Đâu có diện gì để đi cái gì định cư đó. Năm mẹ con đâu có biết làm sao mà sống. Cơm Cao Ủy anh hai biết đó. Mình người lớn đói khát mình còn chịu được , chớ con nít làm sao được. Anh hai biết, mấy đứa con em nó thấy con nít người ta ăn thì nó đòi. Chồng chết, tứ cố vô phương (có lẽ người đàn bà muốn nói tứ cố vô thân?), lúc đó em mới cặp với anh Bé. Đùng một cái ảnh đi trước mới là kẹt cho em. Nói nào ngay ảnh cũng thương em, ảnh mới biên cho em cái thơ, gởi cho mẹ con em năm chục đô. Anh hai biết, đâu có phải em thèm muốn gì cái chiện ăn nằm. Nhưng mà ảnh tốt quá, ảnh giúp đỡ mẹ con em đủ thứ, ảnh mua bánh trái cho mấy đứa nhỏ, mỗi ngày ảnh mua thêm rau rác về để mẹ con em nấu cơm. Ảnh nói ảnh đồng ý bảo bọc mẹ con em, coi mấy đứa con của em cũng như con ruột của ảnh nếu em ưng ảnh. Anh hai biết, em cũng suy nghĩ lắm chớ. Mình là con người chớ đâu có phải con thú. Qua cái cách ăn ở của ảnh thì em thấy ảnh thương mẹ con em thiệt lòng, cho nên tới lúc ảnh muốn “ăn nằm” với em thì em cũng chịu. Anh hai biết, lúc ảnh Bé ảnh “thương” em, em nhớ tới chồng em mà em rớt nước mắt. Vợ chồng nghèo khổ có nhau, ăn mắm mút giòi có nhau mà tới chừng đi vượt biển thì chỉ còn có năm mẹ con em sống sót. Tự dưng ở nơi lạ nước, lạ cái này lại có người chịu bảo bọc mẹ con em, mà em lại thấy ảnh là người thiệt tình.

Vậy mà người ta cũng chửi rủa em là con ngựa bà trời, chồng chết chưa mãn tang đã đi lấy trai.”

Người đàn bà nói rành rẽ một hơi, đưa mắt buồn bã nhìn tôi. Tôi hỏi:

“Sao lúc người ta chửi oan cô, cô không giải thích, cắt nghĩa cho người ta?”

Người đàn bà lắc đầu:

“Rõ ràng em ăn nằm với anh Bé là tầm bậy quá rồi, còn chối chạy cái nỗi gì; rành rành ra đó, da thịt của chồng em chưa chắc là cá đã rỉa sạch. Người ta chửi em là đúng quá rồi, chớ còn chối chạy cái nỗi gì, anh hai.”

Người đàn bà ngừng nói, nhìn tôi có vẻ bẽn lẽn:

“Nói nào ngay người ta chửi em là con ngựa bà trời cũng là đáng đời. Hổng phải anh Bé ảnh đòi “ăn nằm” với em hoài đâu. Chỉ mấy lần đầu thôi. Sau này lần nào cũng là do em đòi. Làm như ăn quen, nhịn hổng quen. Bởi vậy em mới phải ngậm miệng khi bị người ta chửi bóng, chửi gió. Anh hai biết, anh Bé ảnh cũng thiệt tình lắm. Ảnh nói với em: ‘Mình cứ như vầy hoài lỡ Hoa có bầu rồi làm sao. Anh sợ là sợ cái chuyện đi định cư của mấy mẹ con em.’ Anh hai biết ảnh trung sĩ vậy chớ ảnh cũng hổng rành ba cái chuyện “ăn nằm” này. Em nhờ cái cô làm ở Ban Xã Hội ở chung nhà, cổ chỉ cho em, em đi xin thuốc sốt rét dìa em uống. Uống thuốc này vô rồi cứ việc ăn nằm líp lơ, hổng sợ bầu bì chửa đẻ gì hết.”

Người đàn bà có vẻ bẽn lẽn liếc nhìn tôi rồi nói tiếp:

“Anh hai biết, lúc trước anh hai chưa tới đảo, em ẩu tả lắm. Em với anh Bé đi tắm, tụi em “ăn nằm” với nhau ở dưới biển, ở trong kẹt đá, ở đâu kín kín là có tụi em.”

Tôi nhìn người đàn bà. Hết ý kiến!

Một lúc sau, người đàn bà lại nói:

“Em muốn hỏi ý anh hai một chiện: Bà Xi-ben bả nói nếu em chịu đi học cái lớp tiếng Tây thì bả sẽ tìm người bảo trợ cho mấy mẹ con em đi Tây. Em thì em hổng muốn đi Tây.”

Tôi ngạc nhiên:

“Được đi định cư mà không muốn là làm sao?”

Người đàn bà nhìn tôi:

“Chớ anh hai hổng biết ở bên Tây cũng có Việt Cộng sao mà anh hai hỏi em là muốn với hổng muốn.. Mình đã sợ Việt Cộng thấy mồ, thấy tổ mình mới phải vượt biển. Mấy chục chị em tụi em chồng bị hải tặc chặt đầu đạp xuống biển, còn tụi em thì bị mấy chục thằng ăn cướp nó đè nó hãm chết lên, chết xuống, giờ lại đi qua cái chỗ có Việt Cộng nữa thì cũng như không. Anh hai là người có ăn học mà anh hai hổng biết cái chiện đó sao?”

Tôi nhìn gương mặt có vẻ giận dữ của người đàn bà lúc nói. Tự dưng tôi thấy người đàn bà đẹp lạ lùng. Niềm kiêu hãnh tự phụ long lanh trong đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi. Tôi cười:

“Ai nói với cô mà cô biết là ở bên Tây cũng có Việt Cộng?”

Người đàn bà xì một tiếng:

“Cả đảo này ai mà hổng biết. Chỉ có thằng con út của em nó còn bú là nó chưa biết mà thôi.”

Tôi hỏi cô có hỏi bà Cibelle chưa. Người đàn bà lắc đầu:

“Em chỉ có biết “quì” với “nông” với cái gì “ma-đầm Xi-ben” thôi thì làm sao mà em hỏi tới cái chuyện ở bên Tây có Việt Cộng cho được. Anh hai hỏi chiện ngộ.”

Tôi cười lớn. Người đàn bà giận dữ nhìn tôi:

“Em nói vậy hổng phải sao anh hai cười?”

Tôi nói:

“Dĩ nhiên là hổng phải. Ở đâu cũng có cộng sản hết.” Tôi ngừng lại để tìm cách diễn tả cho người đàn bà này biết. “Nói chung ở đâu cũng có cộng sản. Mấy cái người theo cái chủ nghĩa này người ta nói là người ta sẽ đem lại cơm no, áo ấm cho dân, cho nước. Nhưng mà ở đâu họ cũng hổng làm được. Ở bên Tây thì cũng có Tây Cộng chớ hổng phải Việt Cộng, cũng giống như ở Việt Nam mình trước có Quốc Gia với Việt Cộng vậy. Tới năm 75 thì Việt Cộng thắng phe Quốc Gia tại vì mấy ông lớn của mình bất tài, tham nhũng và ưa ba cái vụ “ăn nằm”.

Người đàn bà chận ngang lời nói của tôi:

“Em xin lỗi anh hai đừng có xỏ xiên cái chiện em nói thiệt cái lòng của em với anh hai.”

Tôi khoát tay:

“Đừng có chận lời tôi. Tôi nói thiệt: Mấy ông lớn của mình đã bất tài, tham nhũng mà lại ưa ba cái vụ “ăn nằm” mà mất nước. Cô cũng bị người ta chê cười là tại vì thực lòng cô cũng muốn cái vụ đó. Nhưng mà chuyện đó cũng hổng phải là lỗi của cô đâu. Ai cũng mềm yếu. Thể xác ai cũng có những đòi hỏi.”

Người đàn bà nhìn tôi với vẻ thán phục:

“Vậy sao? Thiệt vậy sao, anh hai? Em là hổng có đáng trách móc gì dìa cái chuyện “ăn nằm” bậy bạ thiệt sao, anh hai?”

Tôi gật đầu. Người đàn bà suy nghĩ một lúc, nhìn tôi:

“Nói vậy rồi mấy ông lớn làm mất nước, mấy ổng cũng hổng có trách nhậm gì sao. Anh hai nói vậy nghe đâu có xuôi cái lỗ tai, anh hai?”

Tôi bối rối thiệt tình. Tôi huơ huơ tay:

“Tôi chỉ nói thí dụ thôi. Chuyện của cô “ăn nằm” với cái anh Bé nào đó khác xa với mấy cái chuyện của mấy ông lớn.”

Người đàn bà gục gặt cái đầu:

“Nghĩa là anh hai chỉ so cái chiện bậy bạ của em với ba cái chiện bậy bạ của mấy ông lớn, phải hôn anh hai?”

Tôi nói nhanh:

“Đúng đó.”

Người đàn bà gật gù:

“Anh hai nói vậy thì nghe nó mới lọt cái lỗ tai. Nói nào ngay chữ nghĩa của em hổng đầy cái lá mít, nhưng mà em biết cái nhơn nghĩa ở đời lắm anh hai à. Em phụ bạc chồng em, em đứt từng khúc ruột chớ anh hai. Nhưng mà em muốn đem con em tới Mỹ, em nhứt định không thèm qua bên Tây tại vì là ở bển có Việt Cộng. Tại vì như vậy em mới đồng ý ăn nằm với anh Bé. Em lấy ảnh để mẹ con em được đi định cư theo ảnh.”

Tôi nhìn người đàn bà, nghĩ tới đôi cánh của con gà mái mẹ xoè ra để bảo bọc đàn con khi nhác thấy cánh diều tai họa chao lượn trên bầu trời. Người đàn bà này đã hy sinh trinh tiết, danh giá để đưa đàn con đến nơi nào không có bóng dáng cộng sản. Ôi những bà mẹ Việt Nam! Những má Hai, má Sáu đã giấu con du kích dưới hầm để kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống Diệm, chống Thiệu bây giờ đã sáng mắt ra khi nhìn rõ Sự Thật, đã tuyên bố: “Nếu có một lần nào nữa thì tụi bây ăn cái quần què của tao chớ ở đó mà cơm dưng, nước rót để tụi bây chống giặc cứu dân, cứu nước. Hại dân, hại nước thì có chớ có cứu giúp được cái gì đâu!”

Ôi những câu vè, câu sấm, câu ca dao tân thời sau năm 1975! Nào là:

“Bác Hồ chết lúc giờ trùng

Cho nên con cháu ùn ùn bỏ đi

Bác Hồ chết lúc giờ linh

Nên con cháu phải đào kinh suốt đời…”

“Bộ anh hai giận em sao mà nín thinh vậy?”

Câu hỏi của người đàn bà cắt ngang những ý nghĩ của tôi. Tôi lật đật nói:

“Hổng có đâu. Tôi đang tìm cách cắt nghĩa cho cô biết về cái chuyện đi định cư. Hổng phải là ở bên Tây có Việt Cộng như cô nói đâu.” Tôi phải suy nghĩ để dẫn giải cái chữ chủ nghĩa Cộng Sản thành một cái gì khác để người đàn bà hiểu. “Nói cho đúng cái gọi là chủ nghĩa Cộng Sản này thì cái lý thuyết của nó lúc ban đầu cũng tốt đẹp lắm, nào là lo cho dân cơm no áo ấm, nào là bình đẳng, không có ai chèn ép ai, ai cũng một vợ, một chồng, ai cũng nhà cửa, ruộng đất, tài sản như nhau. Nhưng mà rốt cuộc lúc đem ra áp dụng thì nó trớt hướt. Nó vẫn không có công bằng gì ráo. Thành thử trước sau gì người ta cũng bỏ nó đi. Hiện giờ ở bên Tây cũng vậy. Cũng có người theo cái chủ nghĩa này, tại vì người ta tin nó tốt đẹp. Nhưng mà nếu người Việt mình qua tới đó, tìm mọi cách nói cho người ta biết là nó xấu, nó dở, nói vậy mà hổng phải vậy, thì chắc chắn là người ta phải tin, rồi người ta sẽ không còn theo nó nữa.”

Người đàn bà hăng hái không ngờ:

“Vậy sao? Vậy là em chịu đó. Anh hai phải chỉ cho em ăn nói làm sao để tới chừng em qua tới bển em phải nói cho mấy ông Tây, bà Đầm Việt cộng họ biết cái chuyện này.”

Chợt người đàn bà ngưng ngang, nhìn tôi:

“Mà anh hai có nói thiệt với em hôn đó. Sao anh hai nói chiện nào nghe cũng ngon ơ. Liệu bề thương được thì thương. Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em mà tội nghiệp cho mẹ con em lắm, nghe anh hai. Tới chừng qua bên đó gặp tàn là Việt Cộng rồi hổng biết phải làm sao nữa. Tới chừng đó thì vượt biên đi đâu? Ai đưa mẹ con em đi?”

Tôi cũng không nghĩ là câu chuyện ngày lại càng đi vào ngõ cụt.

Tôi cố diễn giải:

“Tôi nói những cái này cô phải cố gắng mà hiểu. Chuyện là thế này: Như ở Việt Nam mình hồi đó hai miền Nam, Bắc. Bắc Việt cộng, Nam Quốc gia giống như là đậu đỏ với đậu xanh. Nam Quốc gia thua, Bắc Việt cộng tràn vô miền Nam, coi như toàn là đậu đỏ. Bây giờ ở bên Tây cũng vậy. Cũng có đậu đỏ, đậu xanh, tức là cũng có phe tự do, phe cộng sản, nhưng mà cộng sản đậu đỏ thì ít thôi, nên nói không thể nhuộm đỏ phe tự do được.”

Người đàn bà lại chận ngang lời nói của tôi:

“Anh hai nói vậy là em hiểu rồi. Bây giờ nhờ anh hai chỉ cho em cái cách nói cho mấy ông Tây, bà Đầm họ xay nát ba cái hột đậu đỏ ở bên Tây đi. Anh hai có bày cái cách thức cho em, em mới chịu đi Tây.”

Trời đất! Cũng may là những người ở chung nhà đã về. Cô gái làm ở Ban Xã Hội, là người đã chỉ cho người đàn bà đi xin thuốc sốt rét uống để ngừa thai, ngồi lắng nghe nảy giờ, xen vào: “Thôi đi bà cố nội. Hồi bà mới tới, lúc bà Cibelle đến đề nghị bà đi học Pháp văn để tìm người bảo trợ mấy mẹ con bà đi Pháp, lúc đó tôi đã nói cho bà rồi. Bà mê cha Bé bà cứ từ chối, bà viện cớ Việt Cộng này nọ. Giờ chả quất ngựa chuối bà mới quýnh lên.”

Người đàn bà giận dữ trừng mắt nhìn cô gái: “Em nói vậy nghe sao được. Chị đâu có phải trắc nết lăng loàn gì mà chị mê anh Bé tới nỗi không nghĩ tới cái tương lai của mấy đứa con của chị. Tại em cũng như mấy người khác có ác cảm với anh Bé rồi em cũng ghét chị luôn. Chị không chịu đi Tây là tại vì chị sợ qua bên đó lại gặp Việt Cộng…”

Tự dưng người đàn bà bật khóc nức nở làm tôi hoảng quá. Cô gái làm ở Ban Xã Hội cũng quýnh quáng, đến ôm lấy người đàn bà vỗ về: “Chị đừng có nghi oan cho em. Ý em là cũng muốn chị với mấy cháu được đi định cư ở đệ tam quốc gia để chị lo cho tương lai của mấy cháu.”

Người đàn bà đã bớt sụt sùi, nhìn cô gái với ánh mắt trìu mến:

“Chị biết ơn em lắm. Sở dĩ chị nói vậy là tại vì chị tức mấy cái người hổng hiểu chị, hổng hiểu anh Bé. Em biết, cũng tội nghiệp ảnh chớ: Hồi đó đơn vị của ảnh đóng ở miền Trung, lúc ông tổng thống ổng ra lịnh cái gì tản tản đó, ảnh đưa vợ con đi. Tới ngay cái sông Ba, sông Bốn gì đó thì bị pháo kích, vợ con chết hết trơn. Kế Việt Cộng vô lại bị tù lên, tù xuống. Ra tù làm đủ thứ nghề mà hổng đủ sống. Đâu có vàng để đi vượt biên. Phải đi làm công, làm mướn. Phải tìm đường đi, nước bước. Quỵ lị chủ tàu mới có được chỗ để mà đi. Thấy cái hoàn cảnh của chị, ảnh thiệt lòng thương, ảnh mới ngỏ ý lấy chị để chị có cái diện để mà đi Mỹ với ảnh. Em biết chị dốt nát có biết cái gì đâu. Mấy người tới trước được phái đàn mời đi Canada, đi Úc mà họ cũng hổng thèm đi. Còn cái vụ đi Tây, ai cũng trề môi: “Trốn Việt Cộng rồi bây giờ đi qua bển kiếm Việt Cộng nữa hay sao?” Gặp ai cũng nói vậy, chị biết tin ai bây giờ. Nói nào ngay, hồi đó anh Bé ảnh cũng có nói như anh hai đây (người đàn bà vừa nói vừa chỉ tôi) mà chị hổng tin, chị cứ nghĩ tầm bậy là ảnh “ăn nằm” với chị rồi ảnh chán chê nên ảnh bày đặt để ảnh bỏ chị. Giờ nghe anh hai nói chị mới chắc bụng là anh Bé ảnh thương chị thiệt lòng. Chị nhớ hoài câu nói của ảnh: “Nếu kẹt quá anh không xin được Cao Ủy để ghép “bờ lu ca” (blue card) với Hoa được để mẹ con em cùng đi định cư với anh, thì Hoa cứ việc xin đi Pháp. Sau này anh tìm cách qua bên đó cưới Hoa, rồi bảo lãnh mẹ con em qua Mỹ.”

Lúc nghe ảnh nói vậy chị thấy thất bại quá (Có lẽ người đàn bà muốn nói thất vọng?). Chị nhớ hồi đó lúc mới lấy nhau, cái gì chồng chị cũng chiều chị hết. Lúc mới tới đảo, chiện gì anh anh Bé ảnh cũng chiều chị. Tới chừng ăn nằm hà rầm với chị, cái gì ảnh cũng nói có vẻ dạt dạt, thành thử lúc ảnh nói tới cái vụ đi Tây, chị bực mình quá. Chị nhớ tới lúc “ăn nằm” xong rồi, chồng chị ổng đã đời nằm ì ra đó, cái gì cũng ừ hử cho xong. Chị đem so sánh với anh Bé, thì chiện nó cũng y chang… Tới bây giờ nghe anh hai cắt nghĩa, chị mới nghĩ là cái lỗi của chị. Người đàn ông họ “ăn nằm” xong họ mệt, mình cũng vậy. Chị hổng biết tại sao chị lại đòi quá mức, chị hổng có biết cái chiện cảm động (có lẽ người đàn bà muốn nói cảm thông?) gì với người mình đã “ăn nằm”. Sướng thì ai cũng sướng chớ đâu có phải một mình người đàn ông, chừng em có chồng là em biết rành chiện này.”

Tôi thấy cô gái làm ở Ban Xã Hội có vẻ mắc cỡ, nhìn đi chỗ khác. Cũng may là lúc đó đã tới giờ giới nghiêm trên toàn đảo. Một người nào đó nói lớn:

“Đã tới giờ chuột chạy trên toàn đảo.”

Tôi nói:

“Nhưng mà cái quan trọng là bây giờ cô có chịu đi Pháp như lời bà Cibelle bả đề nghị hay không?”

Người đàn bà nhìn tôi: “Em chịu, nhưng mà…”

Tôi nói, nói cái gì thì nói đại đi rồi còn đi ngủ. Người đàn bà cười ngỏn ngoẻn:

“Mà anh hai phải hứa là sẽ chỉ cho em cái cách xay mấy cái hột đậu đỏ Việt Cộng ở bên Tây thì em mới chịu. Anh hai hứa thì anh hai phải móc ngoéo với em đi.”

Tôi phải đưa tay móc ngoéo cô ta mới chịu đi ngủ. Lúc loay hoay giăng mùng, tôi nghe tiếng người đàn bà hun hít đứa con, nói với giọng đả đớt:

“Khương chó con của má quá. Má già chiện bỏ chó con của má cả ngày.”

Tôi mỉm cười chun vô mùng. Một người nào đó mớ trong giấc ngủ:

“Mẹ, ở hoài mục đảo mà chưa có rục rịch cái vụ định cư.”

Sau hai năm lạnh lẽo ở thủ phủ Des Moines của tiểu bang Iowa ở miền trung tây nước Mỹ, được người bạn văn nghệ mới quen rủ rê về tiểu bang California viết văn, làm báo. Quen với cuộc sống vốn yên tĩnh ở miền trung tây, về đây, ở giữa Cali nắng ấm, lại ở ngay quận Cam, tôi thấy mình chóng mặt với cuộc sống quay cuồng. Có người nói Sài Gòn nhỏ Bolsa là Sài Gòn trước bảy lăm thiếu đi tình người. Với tôi, Sài Gòn nhỏ Bolsa là Sài Gòn trước bảy lăm thiếu đi những kẻ ăn xin và không khí chiến tranh. Với tôi, Sài Gòn Cali hôm nay cũng nhẫn tâm như Sài Gòn Việt Nam ngày trước. Phía sau những dãy nhà sang trọng, hoa lệ vẫn dẫy đầy những đau thương. Giống như ẩn giấu bên trong bộ mặt loè loẹt, gương mặt phấn son của cô gái giang hồ là những vi trùng bệnh hoạn. Sài Gòn Mỹ quốc hôm nay cũng dẫy đầy những đĩ điếm, trộm cướp, du đãng, xì-ke ma túy, lường gạt, mua danh, trục lợi.

Vẫn những khuôn mặt đào kép cũ của sân khấu chính trị miền Nam trước ngày mất nước. Một số đã già nua, lạc hậu, lỗi thời chẳng chịu tự ý rút lui vì vẫn còn luyến tiếc chút danh lợi cuối đời. Cộng với một số mới sản sinh từ đồng lầy hải ngoại. Những con cá sấu lưu vong lại kéo bè, lập đảng, đón gió, trở cờ, trông chờ ở một thế lực ngoại bang hy vọng về nước nắm lại quyền uy ngày cũ. Thỉnh thoảng những con cá sấu lưu vong lại nhỏ những giọt nước mắt yêu nước, thương nòi, kêu gọi xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng, hòa giải, hòa hợp. Cũng có những kẻ có lòng mà nhiệt huyết cứ lụi tàn dần theo năm tháng vì áo, cơm, tiền, gạo xứ người. Cũng có những Kinh Kha thời đại lặng lẽ ôm dao chủy thủ đi vào đất Tần bất trắc. Và những người Việt Nam tỵ nạn tại hải ngoại chỉ biết đến tên tuổi khi họ đã bị bắt cầm tù, hoặc đã bị nhà cầm quyền cộng sản xử tử hình.

Mặc cho những giọt nước mắt của những con cá sấu lưu vong rơi. Mặc cho máu của những Kinh Kha thời đại đã đổ. Mặc cho nhiệt huyết của những kẻ có lòng tan theo năm tháng như tuyết giá trước ngọn tây phong. Cuộc sống của người tỵ nạn vẫn tiếp tục như mỗi ngày mặt trời vẫn mọc. Một hôm, đang ngồi tán gẫu với mấy người bạn ở khu Phước Lộc Thọ, bỗng có người đàn bà quần áo rất sang trọng đi qua, đi lại, dừng lại nhìn tôi một lúc rồi kêu lên:

“Phải anh hai đây hôn, anh hai nhớ em hôn?”

Tôi nhìn sửng người đàn bà. Ngạc nhiên. Người đàn bà đập đập tay lên vai tôi:

“Em là Hoa nè. Hồi ở long-hao ở khu F. ở đảo Bidong em hổng chịu đi Tây vì sợ Việt Cộng đó.”

Tôi nhìn sửng người đàn bà, rất đổi ngạc nhiên. Chẳng còn chút dấu vết nào của người đàn bà của những ngày tháng cũ trên hòn đảo tỵ nạn.

Người đàn bà rất mừng rỡ khi gặp lại tôi. Cô ta kêu mấy đứa con đến khoanh tay thưa tôi. Và giới thiệu người đàn ông đang đứng kế bên: “Đây là anh Bé, chồng em. Còn đây là anh hai mà em nhắc với anh hoài đó.”

Hai vợ chồng khẩn khoản mời tôi đến nhà họ. Tôi hứa là sẽ đến nhà họ vào khoảng hai tuần sau vì tôi hiện đang bận một vài công việc.

Người đàn bà hỏi tôi địa chỉ, số điện thoại và nhắc đi, nhắc lại với người chồng “anh nhớ ghi cho nó trúng.” Người đàn ông có vẻ hiền lành, ít nói. Anh ta cười cười:

“Thì anh hai đọc sao, anh ghi vậy thì nó làm sao mà trật được.”

Hai tuần sau, tôi nhận được một vé máy bay khứ hồi với bức thư vỏn vẹn mấy giòng như sau:

“Vợ chồng em mời anh hai xuống dưới này để vợ chồng em được nói tiếng cám ơn với anh hai. Ký tên: Nguyễn Văn Bé và Hoa Bi-Đông.”

Hai vợ chồng đón tôi ở phi trường của thành phố Bãi Dài. Và họ đưa tôi về nhà họ ở đường Hoa Chuông. Trong một tuần lễ ở đây tôi đã được tiếp đãi như thượng khách. Hai vợ chồng đưa tôi đi thăm thú khắp nơi. Họ đãi tôi ăn uống trong những nhà hàng sang trnọg nhất của thành phố. Và người vợ đã khẩn khoản xin tôi nhận làm “anh nuôi” của cô ta. Tôi cười, nói đùa:

“Tôi còn chưa nuôi nổi tôi, tôi nuôi được ai mà dám nhận làm anh nuôi của cô.”

Người chồng tiếp lời vợ:

“Anh hai nhận lời cho vợ em nó vui. Mấy năm nay vợ em nó cứ nhắc anh hai hoài. Nó nói phải gặp được anh hai để mà đền ơn. Vợ em nó nói hổng gặp được anh hai khuyên bảo lời hơn, lẽ thiệt, mẹ con nó hổng đi Pháp vì sợ gặp Việt Cộng thì vợ chồng em đâu có được như bây giờ. Có khi là ở bển… mục đảo luôn.”

Tôi nói, nếu cô ấy không gặp tôi thì cô ấy cũng gặp người khác, người ta cũng chỉ dẫn như tôi thôi. Người đàn bà xen vô:

“Em hổng gặp anh hai thì chỉ có nước chết. Anh hai hổng nhớ hồi đó người ta ghét bỏ em tới bực nào hay sao. Cũng may là gặp anh hai là người biết rõ cái tình đời, anh hai hết lòng chỉ biểu cho em…”

Tôi nói lảng sang chuyện khác:

“Rồi bây giờ cô chú làm ăn ra làm sao?”

Người đàn bà gương mặt sáng rỡ:

“Nói nào ngay cũng nhờ đất nước, ông bà, cha mẹ phò hộ, tụi em bây giờ làm ăn cũng khấm khá. Cái nhà tụi em trước mua trăm mấy, đã trả dứt nợ nhà băng, bây giờ đã có người trả ba trăm. Vợ chồng em hiện giờ có cái tiệm “neo” cũng đông khách lắm, chỉ toàn làm cho Mỹ trắng không hà.”

Theo lời người đàn bà thì bây giờ cô ta “nói tiếng Mỹ như vó.” Nghe vợ nói, người đàn ông tươi cười:

“Anh nói với em hoài là “nói như gió”, em cứ “nói như vó, nói như vó,” không sợ người ta cười hay sao?”

Người vợ cười lỏn lẻn:

“Chớ sao anh nói anh mê nghe em nói “nói như vó.”

Nghe hai vợ chồng nói chuyện, tôi nhớ tới phim My Fair Lady kể lại câu chuyện một nhà quý tộc người Anh đem cô gái bán hoa do nữ tài tử Audrey Hepburn thủ vai về nuôi, dạy nàng đọc Anh văn cho đúng giọng, nhưng sau đó, nhà quý tộc mới phát giác ra là mình yêu cô bán hoa vì cái cách phát âm sai của cô ta.

Theo lời kể của người chồng, tôi mới được biết là ngay khi người đàn bà tên Hoa và bốn đứa con có chuyến bay đi định cư ở Pháp, anh ta tức tốc xin phép Sở Di Trú và qua Pháp làm hôn thú với người đàn bà. Và sau đó, anh ta trở lại Mỹ làm giấy bảo lãnh mẹ con nàng. Một năm sau, người đàn bà với bốn đứa con qua Mỹ với anh ta. Vợ chồng chí thú làm ăn. Người vợ vừa đi rửa chén ở tiệm ăn vừa đi học E.S.L. Người chồng đi làm hai “dốp”. Chẳng mấy lúc có một số vốn. Người vợ đi học làm móng tay. Họ bắt đầu mua nhà, mở tiệm. Người đàn bà, mà theo cô ta nói là “chữ nghĩa hổng bằng cái lá mít” bây giờ đã “nói tiếng Mỹ như vó” và đã trở thành bà chủ tiệm “neo”. Anh chồng thôi làm hãng điện tử, ở nhà săn sóc mấy đứa con, đưa rước mấy đứa nhỏ đi học, chiều phụ giúp vợ clean up tiệm.

Tôi nhớ hoài lúc người đàn bà cười ngỏn ngoẻn, nói:

“Em rán rặn hoài cho anh Bé thằng con mà hổng được.”

Người đàn ông nhìn tôi có vẻ ngượng nghịu:

“Em nói chi với anh hai cái chuyện kỳ cục.”

Người đàn bà nói:

“Ảnh là anh nuôi của mình mà. Mà bộ anh hổng muốn vậy thiệt sao. Có cái là em thương anh là mặc dầu anh hổng phải là ba ruột của sắp nhỏ mà anh đối đãi với tụi nó thiệt là tử tế. Mà anh cũng hổng có buồn phiền gì dìa cái chuyện em hổng rặn được cho anh thằng con.”

Nghe hai vợ chồng họ nói chuyện, tôi nhớ đến những điều mà người đàn bà đã kể cho tôi nghe lúc ở đảo Bidong. Thì ra ở đâu cũng là cuộc sống và con người, nhưng điều quan trọng là làm sao cho cuộc sống trở nên đáng sống và con người xứng đáng là con người!

Lúc nghe tôi nói đang viết văn, làm báo, người đàn bà kêu lên:

“Hổng được đâu, anh hai. Ở bên này cái nghề đó coi bộ hổng khá. Anh Bé nói cho em biết là mấy ông nhà báo ở đây họ chửi nhau như chó. Nghe nói là có người đã bị bắn, bị đốt chết nữa. Em thấy anh hai nhỏ con, tay chưn coi bộ cũng khéo léo, anh hai nên đi học làm “neo” hay là hớt tóc. Rồi ở đây phụ với vợ chồng em. Tụi em đang tính mở thêm một tiệm nữa.”

Tôi cười ngất, nghĩ tới chuyện tôi cắt tóc, giũa móng tay, móng chân cho mấy người đàn bà, rồi còn cái vụ waxing nữa. Người đàn bà nói tiếp:

“Em nói thiệt đó, anh hai. Em biết ơn anh hai nhiều lắm, hổng biết tới đời kiếp nào em mới trả được. Em nói thiệt là em muốn thiệt lòng giúp anh hai. Em nói thiệt mà hổng sợ anh hai mích lòng là em thấy cái nghề viết văn, làm báo của anh hai nó hổng khá một chút nào.”

Tôi cũng biết là người đàn bà đó nói đúng, nhưng mà ở đời mỗi người có một nghiệp dĩ, một lý tưởng phải theo đuổi, phải thực hiện.

Gần đây có chuyện ồn ào về văn chương phản kháng ở trong nước. Có người đã ca tụng một nhà văn Việt Cộng là chỉ với những diễn tả của nhà văn này thì “những vần thơ trác tuyệt của đại thi hào Nguyễn Du ‘Râu hùm, hàm én, mày ngài’ và ‘một vùng như thể cây quỳnh, cành giao’ trở thành sáo ngữ” (1). Và người ta xúm vào ca tụng nhà văn này là đã can đảm “nói lên nỗi thống khổ của nhân dân tôi!” Ngay cả chuyện có nhà văn đã từng vượt biển trốn chạy Việt Cộng còn viết đại khái là “nếu nói không có văn chương phản kháng là thiếu tình người.” Và nhà văn còn mỉa mai là “nếu tự xưng là người chống Cộng số một sao không ở trong nước mà chống!”

Tôi thấy mọi chuyện nó trở nên kỳ cục. Nó có vẻ “thời thượng” quá. Người ta nói văn chương phản kháng mà mình không lên tiếng thì nó có vẻ lạc hậu, lỗi thời! Dĩ nhiên ở một đất nước tự do, ai muốn có ý kiến gì thì cứ tự do phát biểu. Ai cũng có quyền thương yêu, thù hận trong đời. Ở đâu, thời nào cũng vậy thôi. Có lúc nào những kẻ chính trị hoạt đầu, những con cá sấu lưu vong mà không nhỏ những giọt nước mắt yêu nước, thương nòi vì mục đích lợi danh? Ở đâu mà chẳng có kẻ đón gió, trở cờ. Gì thì gì, mặt trời vẫn mọc và Sự Thật vẫn là Sự Thật. Theo tôi, những người viết văn, làm báo ở hải ngoại là những người đáng vinh danh nhất. Dĩ nhiên là phải chính danh. Nhà văn ở hải ngoại chẳng những phải nói lên nỗi thống khổ của 65 triệu người dân ở trong nước , mà còn phải nói lên những đau thương, mất mát của khúc ruột cách xa ngàn dặm – nói theo cách nói của Việt Cộng. Nhà văn Alexis Tolstoi của cộng sản Liên Xô đã cho một sĩ quan Bạch vệ nói với người yêu của mình: “Rồi em sẽ thấy!

Những cái ồn ào của cách mạng này nọ rồi sẽ qua đi, và còn lại chỉ là tình yêu của anh với em, đối với gia đình và cuộc sống.”

Chàng sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ nói gì với vợ của mình sau năm, mười năm trời thân tàn ma dại trở về từ những trại tù? Anh chàng cựu sĩ quan của quân đội miền Nam sẽ nói gì khi đứng trước ngôi nhà bây giờ mấy ông quan “cách mạng” miền Bắc đã chiếm. Và vợ con thì đã thất lạc ở phương trời nào?

Chàng cựu sĩ quan sẽ nói gì khi đã tìm mọi cách để thoát khỏi “thiên đường” Việt Cộng, khi tới đảo tỵ nạn bị người ta “thanh lọc” và từ chối nhận đi định cư vì không trả lời được câu hỏi: “Chiếc mão gai lúc Chúa Jesus thọ hình có mấy chiếc gai?”

Cũng mới đây, tôi rất đỗi đau lòng khi nghe tin một ký giả mà cả hai vợ chồng đều bị bắn chết vì nhà báo này “đã chống Cộng và đã nói lên những Sự Thật làm cho những người bị nói đến phải “mất ăn, mất ngủ”. Và một nhà văn có quốc tịch Mỹ đã “bất chấp dư luận và bạn bè can gián đã trở về Việt Nam với tư cách nhà văn để đi tìm Sự Thật” (2).

Tôi lại càng chua xót hơn khi một số người “làm công việc chữ nghĩa” ở hải ngoại – nói theo cách nói của nhà văn Nguyễn Tuân – đang ra sức “lấp đầy cái khoảng trống” của một nhà văn ở trong nước nêu ra, thì ông nhà văn này đã hùng dũng tuyên bố: “Tôi không tin rằng người ta có thể viết khi xa cội rễ. Theo tôi, văn nghệ của người Việt ở nước ngoài không có gì đáng chú ý.” (3)

Một điều sẽ rất thiếu sót nếu tôi quên kể lại những câu nói cuối cùng của cô em nuôi của tôi. Buổi tối ngồi ăn bánh, uống trà và nói chuyện, tôi hỏi cô ta: “Rồi còn cái vụ ‘xay mấy hột đậu đỏ Việt Cộng ở bên Tây’ cô có làm được không?”

Người đàn bà cười ngất:

“Ở đó mà được với hổng được. Qua tới nơi, bà bảo trợ ra với người thông dịch đón mẹ con em ở phi trường. Dìa tới nhà, lo ba cái vụ giấy tờ, ăn uống này nọ mệt muốn bứt gân, chớ ở đó mà ‘lo xay mấy hột đậu đỏ Việt Cộng.’ Mà em thấy ở bên Tây đâu có giống như Việt Nam mình. Ai nấy cũng sung sướng, thải mái. Tây đầm nó hun hít hà rầm ở ngoài đường.”

Tôi hỏi:

“Rồi qua Mỹ cô có tiếp tục ‘xay mấy hột đậu đỏ Việt Cộng ở Mỹ hôn’?”

Người đàn bà cười lớn, nói một cách quả quyết:

“Chiện này có đó anh. Mấy cái tổ chức này nọ nói là Phục quốc, là giải phóng Việt Nam là em đóng tiền lia chia. Nhiều lúc anh Bé ảnh rầy em, nói cái tổ chức nầy là thiệt, tổ chức kia là dỏm. Em nói kệ nó anh, có giả mới có thiệt. Tổ chức, hội hè nào mà dạy tiếng Việt, mà cứu người biển Đông là em đóng tiền hăng hái lắm. Mình có ở vào cái hoàn cảnh đó, mình nên giúp đỡ người đi sau, để phước đức lại cho con cái. Ai làm giả, ai lường gạt thì trời đất phạt họ.”

Nghe vợ nói, người chồng cười:

“Bà xã tôi là vậy đó anh. Nhiều lúc tôi cũng bực mình lắm. Mình biết nó là phục quốc giả, trợ giúp thương phế binh dỏm, nó quyên tiền để bỏ túi, để về trong nước chơi gái, nói cho bả biết thì bả lại nói ‘có giả mới có thiệt.’ Bả nói ngang như cua. Thôi thì đành chịu thua.”

Lúc đưa tôi ra phi trường, người đàn bà căn dặn:

“Đi đâu thì đi. Anh hai muốn viết văn, làm báo gì thì anh hai cứ làm. Có kẹt gì thì cho vợ chồng em biết. Muốn dìa dưới này làm ăn thì vợ chồng em giúp. Anh hai đừng có tự ái với tụi em. Em biết có làm cái cách nào thì vợ chồng em cũng hổng trả nỗi cái ơn của anh hai.”

Nói xong, người đàn bà tỉnh bơ ôm hôn lên má tôi, rồi hỏi có vẻ tha thiết:

“Anh hai, liệu nước mình vài bữa nữa có được ngon lành các cái như mấy cái nước Ba Lan, nước Đức gì đó hôn?”

Tôi nhìn sửng người đàn bà. Người chồng cằn nhằn:

“Em sao cứ ưa lo ba cái chuyện bao đồng.”

Người đàn bà quay lại cự nự chồng:

“Anh nói sao mà chiện bao đồng. Em hỏi anh hai cho nó chắc ăn. Em hỏi anh hai là tại vì ảnh viết văn, làm báo, ảnh rành ba cái chiện này. Anh thì anh nói với em là trước sau gì đất nước mình cũng sẽ ngon lành. Em tin anh. Em hỏi lại anh hai cho nó chắc ăn, chớ hổng phải em hỏi anh hai là em hổng tin anh. Em hổng tin anh thì em tin ai bây giờ.”

Người đàn ông và tôi nín thinh. Người đàn bà nói tiếp:

“Hồi ở bên đảo, nghe anh nói hổng phải là ở bên Tây có Việt Cộng mà chỉ có mấy ông Tây, bà Đầm theo cái gì sản sản đó, em hổng tin lắm. Tới chừng gặp anh hai, ảnh cắt nghĩa rành rẽ em mới chịu đi Tây. Nhờ vậy mà vợ chồng mình mới có được như ngày hôm nay.”

Đã sắp sửa tới giờ phi cơ cất cánh, tôi phải check in nên không kịp trả lời câu hỏi của cô em nuôi. Thực ra, nếu có đủ thì giờ tôi cũng không biết mình sẽ trả lời như thế nào.

Quý vị độc giả thân mến, có vị nào rành rẽ chuyện nước non, xin giúp dùm tôi trả lời câu hỏi của cô em nuôi “chữ nghĩa hổng đầy cái lá mít” là tương lai đất nước mình vài bữa nữa nó có được ngon lành các cái như mấy cái nước Ba Lan, nước Đức.

Phần lớn người Việt Nam lưu vong ai cũng muốn “nước đi ra biển lại mưa về nguồn”, nhưng cũng đâu có phải vậy mà không có chuyện:

“Non cao tuổi vẫn chưa già

Non thời nhớ nước, nước mà quên non!

NGUYỄN THIẾU NHẪN

San Jose

Dưói Bóng Quân Kỳ

Đỗ Văn Phúc

Si Vis Pacem, Para Bellum!1 (1) Thành ngữ Latin, có nghĩa: Nếu muốn có hoà bình, phải chuẩn bị chiến tranh. Tương tự câu Cư An, Tư Nguy

          Lịch sử Việt Nam là một lịch sử chiến đấu không ngừng nghỉ. Dân tộc Việt Nam hiền hòa nhưng ở vào một tình thế bất khả kháng, đã trở thành một dân tộc thiện chiến trong suốt quá trình lịch sử kể từ khi vua Hùng lập quốc cho đến nay. Có thế mới bảo lưu được nòi giống và nền văn hóa độc đáo của mình qua bốn ngàn năm thăng trầm.

          Nhìn vào bản đồ khu vực Nam Á Châu, Việt Nam ta ở vào một vị trí đặc biệt thuận tiện vừa về mặt kinh tế, vừa về mặt chiến lược2.( 2- Cách nhìn này không còn mấy quan trọng trong thời đại kỹ thuật tân tiến hiện nay.) Theo quan điểm chiến lược cổ điển, Việt Nam là cửa ngõ của vùng Đông Nam Á, là ngả tư giao thương quốc tế. Trên mảnh đất hình chữ S, có một dân tộc cần cù, thông minh, và một nguồn tài nguyên thiên nhiên hiếm có. Việt Nam trở thành mục tiêu cho bao thế lực bành trướng đế quốc, thực dân từ muôn đời nay. Lịch sử có lúc thăng, lúc trầm; dân tộc có lúc thành, lúc bại. Nhưng để giữ gìn một nòi giống với nền văn hóa cổ truyền độc đáo của mình, tổ tiên chúng ta đã phải đổ bao nhiêu xương máu cho trang sử của chúng ta còn tiếp nối đến ngày nay. Hình ảnh người Lính Việt Nam luôn sáng ngời trên từng trang, từng hàng chữ của cuốn sử dày bốn ngàn năm, cũng như bàng bạc trong văn chương bình dân và văn chương bác học.

          Đi ngược dòng thời gian, từ khi vua Hoàng Đế chiến thắng các bộ lạc miền Hoa Nam, thiết lập nên một nhà nước Trung Hoa đâu tiên ở địa bàn sông Dương Tử. Hai trong số hàng trăm bộ lạc Việt: Âu-Việt và Lạc-Việt đã phải di cư xuống phương nam, kết họp và lập thành nước Ãu-Lạc với triều đại Hồng Bàng kéo dài mười tám đời vua.               Trong suốt gần hai ngàn năm huyền sử3 (3 Thời kỳ huyền sử là thời chưa có sử ghi chép bằng văn tự mà chỉ do truyền tụng lại.) này, dĩ nhiên tổ tiên ta phải cật lực chiến đấu để sống còn trước cơn lốc chiến tranh của các bộ lạc trong giai đoạn tan và họp để tạo nên những quốc gia đầu tiên trong lịch sử loài người với những định chế chính trị xã hội văn minh dần lên. Quân đội thời Hùng Vương đặt dưới quyền chỉ huy của vị Lạc Tướng (hay còn gọi là Hùng Tướng). Lịch sử không để lại cho chúng ta điều gì cụ thể hơn, vì thời này chúng ta chưa có sử ký. Mọi biến cố đều căn cứ trên sách sử Trung Hoa mà dĩ nhiên rất sơ sài và hiếm hoi. Hàng ngàn năm các triều đại Trung Hoa bận rộn với các cuộc nội chiến nên ít dòm ngó xuống phương nam xa lắc xa lơ. Mãi đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, lập nên một nhà nước trung ương tập quyền hùng mạnh, Việt Nam bắt đầu thấy hiểm họa Bắc phương. Lịch sử chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Hoa có thể coi như bắt đầu bằng cuộc chiến giữa Thục An Dương Vương và Triệu Đà, một tùy tướng của Đồ Thư được lệnh nhà Tần chinh phục phương Nam. Chuyện chiếc nỏ thần là bài học về tình báo đầu tiên lồng trong bối cảnh của một thiên tình sử lãng mạn của đôi trai gái địch thù Trọng Thủy và Mỵ Châu.

          Đến đời nhà Hán, hai vị anh thư Trưng Trắc, Trưng Nhị đứng lên khởi nghĩa chống sự đô hộ tàn bạo của Thái Thú Tô Định. Hai bà Trưng vốn dòng dõi nhà Lạc Tướng, vì nợ nước, thù chồng dã hiên ngang quật khởi đánh đổ ách thống trị ngoại bang. Hai bà đã lập nên vương quyền, tuyên xưng độc lập năm 43 trước Tây lịch. Kế đó là bà Triệu Thị Trinh (Triệu Ẩu) nổi dậy chống lại nhà Đông Ngô. Bà đã nói một câu đầy hùng khí :”Ta thà cưỡi con gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông…. còn hon cúi đầu làm đầy tớ người ta…”

          Liên tiếp trong gần một ngàn năm đô hộ của Trung Hoa, dân tộc ta đã sản sinh nhiều vị anh hùng như Phùng Hưng, Mai Hắc Đế, Dạ Trạch Vưcmg… Năm 937, Tướng Ngô Quyền dành lại độc lập toàn vẹn cho Tổ quốc, mở đầu một thời kỳ tự chủ lâu dài. Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường, có uy tín trong vùng, bắt đầu thời kỳ xây dựng một nền văn hóa riêng biệt. Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn xuất thân từ binh nghiệp mà dựng vương quyền. Đại Tướng Lý Thường Kiệt, nhân nội tình Trung Hoa đang phân hoá vì áp dụng luật pháp khắt khe của Vương An Thạch, ngài đem quân đánh sâu vào lãnh thổ hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, gây áp lực với triều đình nhà Tống. Quân Việt đánh đâu thắng đó, và được dân chúng địa phương hết lòng ủng hộ. Từ đó cho đến cả trăm năm kế đó, Trung Hoa chẳng dám dòm ngó gì nữa. Những trang quân sử chói lọi nhất vẫn là trang sử ba lần đánh thắng quân Nguyên. Gengis Khan (Thành Cát Tư Hãn) vào thế kỷ 12, dấy lên từ thảo nguyên Mông cổ, đã chinh phục hầu hết đất đai trên địa cầu, từ đông sang tây, Á sang Âu. Vó ngựa ông dẫm nát các thành trì đế quốc Hồi Giáo khi đó rất hùng cường. Đến Ba Lan, vua Ba Lan phải kéo quần thần ra trước cổng thành quỳ xuống xin hàng. Đến Nga, san băng Mạc Tư Khoa trong nháy măt. Trước khi qua đời, Gengis Khan dặn con cháu bành trướng thế lực cho đến tận nơi nào mà vó ngựa quân Mông cổ còn đến được. Gần như toàn thể thế giới đều chịu khuất phục trước sức mạnh của họ. Con và cháu ông, Ogedai (Oa Khoát Đài) và Mongke (Mông Kha) diệt nhà Tống, chiếm được Trung Hoa, lập nên triều đại nhà Nguyên kéo dài hàng trăm năm. Trước khi chiếm được Trung Nguyên, và cũng sau khi đã lập nên đế quốc Nguyên rộng lớn, họ nhiều lần nhòm ngó và xâm lăng Việt Nam, nhưng đành dừng lại trước sức đề kháng mãnh liệt của quân dân ta. Trong những trận đánh lớn nhỏ, dân tộc ta đã thách thức sức mạnh Mông cổ và đã chiến thắng oanh liệt. Thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan phải chui vào trốn trong một ống đồng để thoát về Tàu. Toa đô, Ô Mã Nhi và nhiều tướng Mông cổ phơi thây trên các chiến trường đẫm máu Chương Dương, Kiếp Bạc, sông Hàm Tử và nhất là sông Bạch Đằng, nơi xóa tan giấc mộng xâm lăng của giặc Nguyên. Chúng ta có một nhà quân sự lỗi lạc vừa là một nhà chiến tranh chính trị xuất chúng: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Hải Quân VN chọn ngài làm Thánh Tổ). Ngài để lại cho hậu thế bộ Binh Thư Yếu Lược để huấn luyện tướng sĩ, bài Hịch Tướng Sĩ như một bản tuyên cáo dõng dạc của tổ quốc hồi nguy biến, kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết hy sinh dể chiến đấu bảo vệ giang sơn. Ngài đã viết :”Các người ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn; làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thiết yến sứ ngụy mà không biết căm…” Lời khích quân của ngài có sức mạnh vĩ đại thôi thúc quân sĩ hết lòng chiến đấu. Quân ta liên tiếp thắng lớn trên các chiến trường. Đặc biệt, trận chiến sông Bạch Đằng có thể so với trận Xích Bích thời Tam Quốc — nơi quân Ngô trói chặt chiến thuyền của quân Tào mà đốt sạch. Trần Hưng Đạo, không kém gì Khổng Minh, đã cho quân vót sẵn chông có bọc sắt, cắm giữa dòng sông rồi dụ cho chiến thuyền quân Nguyên đến. Khi nước thủy triều rút xuống, tàu giặc bị cọc sắt đâm thủng, quân ta dùng thuyền nhẹ mà tiêu diệt gọn. Tướng tài của địch là Ô Mã Nhi bị giết trong trận này. Sau này trong dân gian có câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” để luôn nhắc nhở chiến công hiển hách đó. Nhà Trần ý thức tầm quan trọng của binh bị, nên đã lập ra Giảng Võ Đường, là trường đào tạo sĩ quan đầu tiên của Quân Đội Việt Nam. Vua cho mở khoa thi tiến sĩ võ để chọn nhân tài song song với khoa thi chọn văn quan. Anh hùng thời nhà Trần nhiều như sao trên bầu trời đêm: người bán than Trần Khánh Dư, người đan sọt Phạm Ngũ Lão, cậu thiếu niên Trần Quốc Toản, người nhái Yết Kiêu, Dã Tượng; can đảm tỉnh táo trên đất thù như Trần Nhật Duật; bất khuất trong tay giặc như Trần Bình Trọng với câu nói để đời “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” Hàng trăm năm sau, dân tộc lại sinh sản anh hùng áo vải đât Lam Sơn: Bình Định Vương Lê Lợi và nhà chính trị thiên tài Nguyễn Trãi (Lê Lợi được chọn làm Thánh Tổ của Địa Phương Quân/ Nghĩa Quân, Nguyễn Trãi của ngành Chiến Tranh Chính Trị). Nguyễn Trãi đã phò tá Lê Lợi trong mười năm gian khổ, tiến hành chiến tranh du kích đến thắng lợi dành lại độc lập từ tay quân nhà Minh. Cùng thời với nhà chinh phục lỗi lạc Napoleon bên Pháp, chúng ta có anh hùng thiên tài Quang Trung Nguyễn Huệ, so sánh giữa hai người, có nhiều điểm tương đồng. Hoàng Đế Quang Trung chỉ trong một thời gian ngắn, dẹp tan cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn, diệt quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút, thần tốc tiến quân ra Bắc và trong ba ngày Tết Kỷ Dậu, đã đánh tan tành hai chục vạn quân Thanh xâm lược. Ngài giữ đúng lời hứa với quân sĩ là sẽ ăn Tết trong thành Thăng Long. Ngài là vị tướng luôn ở đầu lằn tên mũi đạn trong cuộc xung phong phá thành lũy quân thù. Vua Quang Trung ôm ấp một hoài bão lớn: đó là lấy lại đất cũ của tổ tiên. Nếu ngài không sớm qua đời, bản đồ Việt Nam ngày nay đã kéo dài đến hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Quân đội của Lê Lợi giỏi đánh du kích, thì quân đội Tây Sơn thiện chiến về trận địa chiến, tốc chiến tốc thắng. Lần đầu tiên trong quân sử, Nguyễn Huệ đã áp dụng tổ chức tam tam chế trong điều động binh sĩ, tổ chức tiếp vận một cách khoa học, chu đáo và tinh vi để bảo đảm cho một đạo quân lớn trên suốt hành trình dọc theo chiều dài đất nước.

          Triều đại nhà Nguyễn không có võ công xuất sắc, trong khi nền văn minh các nước phương Tây đã đạt đến trình độ cơ giới cao. Quân Nguyễn thiếu thực tế chiến trường một thời gian dài, và trang bị quá thô sơ, nên đất nước lại lần nữa rơi vào vòng đô hộ của ngoại bang. Hiệp ước Giáp Thân 1884 dánh dấu sự mất chủ quyền của dân tộc vào tay thực dân Pháp. Nhưng không thời nào dân tộc ta không có những anh hùng hào kiệt. Tướng Trương Minh Giảng bình định miền Nam, mở rộng bản đồ Việt Nam cho đến mũi Cà Mâu, ảnh hưởng bao trùm lên cả Cao Miên. Thời Vua Minh Mạng, bản đồ Việt Nam gồm cả toàn xứ Đông Đương. Ai Lao, Cao Miên trở thành chư hầu của ta, hàng năm triều cống. Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta có Vua Hàm Nghi, Vua Duy Tân, cha con Đại Tướng Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Lâm, tướng Hoàng Diệu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Đội cấn, bà Đặng thị Nhu, anh hùng Sa Điện Phạm Hồng Thái… Nhân dân ta không hề có một ngày ngưng cuộc chiến đấu, từ Nam ra Bắc, miền cao nguyên hay nơi đồng bằng. Và cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân đánh đuổi thực dân đã bị bọn Cộng sản Hồ chí Minh cướp công trên tay bao chiến sĩ Quốc Gia.

          Cộng sản và Thực dân câu kết ký Hiệp định Genève chia đôi đất nước, quân kháng chiến miền Nam (chưa hề biết gì về Cộng sản) lầm lạc tập kết ra Bắc chịu sự chi phối của bọn Cộng sản. Miền Nam xây dựng chế độ Dân chủ kiểu Tây phương. Điều không tránh được là phải xây dựng Quân đội Quốc gia trên cơ sở Quân đội do Pháp và Triều đình Huế để lại. Đây là một yếu điểm, quân đội Việt Nam Cộng Hoà sơ khởi gồm nhiều thành phần phức tạp: một phần là các đơn vị Việt Nam trong Quân đội Liên Hiệp Pháp có tính chất chánh qui, một phần là các đơn vị Việt Binh Đoàn, Bảo Chính Đoàn của Triều đình Huế ít khả năng chiến đấu. Tướng lãnh thì không có, phải dùng các sĩ quan cấp tá, úy của quân đội liên hiệp Pháp, cho thăng vượt cấp để nắm các chức vụ then chốt. Đầu tiên gọi là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, sau đổi thành Quân Đội Việt nam Cộng Hòa, sau đó lần nữa lại đổi thành Quân Lực VNCH. Ban sơ với vài đơn vị bộ binh cấp tiểu đoàn, liên đoàn, quân đội ta tiến đến thành lập các sư đoàn khinh chiến, dã chiến, các đơn vị nhảy dù, trọng pháo, các đơn vị hải quân, không quân với trang bị do Pháp để lại và viện trợ quân sự Hoa Kỳ thông qua phái bộ MAC-V (Military Assistance Command- Vietnam). Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, Liên Trường Vố Khoa Thủ Đức, nơi đào tạo sĩ quan có đầy đủ kiến thức quân sự tài ba cho quân đội. Sau này hai trường trên đổi tên là Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và Trường Bộ Binh. Quân đội ta đã dần dần trưởng thành trong cuộc chiến đấu chống Cộng và trở thành hùng mạnh nhất vào thời kỳ những cuối thập niên 60, 70. Mười một sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, hàng chục liên đoàn biệt động quân được trang bị hùng hậu là những mũi lao thép trên 4 vùng chiến thuật. Lực Lượng Đặc Biệt, mà dân ta thường quen với tên gọi biệt kích dù là quân chủng tinh nhuệ nhất, hoạt động âm thầm trong lòng địch. Những đơn vị Địa Phương Quân, từ các tỉnh đoàn Bảo An bán chính quy, được sáp nhập vào quân lực đảm trách an ninh diện địa. Hình ảnh người lính cộng hòa thân thương, gần gủi với đồng bào qua những chiến dịch bình định nông thôn, là đề tài cho bao trang sách báo, phim ảnh, ca nhạc. Lớp sĩ quan trẻ đào tạo trong thời cộng hoà có tư cách, bản lãnh, có tài ba dần dần thay thế lớp người cũ ở các địa vị trung cấp. Cuộc chiến tranh mang màu sắc ý thức hệ không thể thiếu bóng dáng người sĩ quan chính trị để động viên tinh thần chiến đấu anh em quân nhân. Năm 1966, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị được thành lập để đào tạo sĩ quan hiện dịch đảm trách công tác tư tưởng trong quân đội. Từ những toán nữ Trợ Tá Xã Hội, đoàn Nữ Quân Nhân được thành lập, đảm trách các công vụ trong ngành Xã Hội, Truyền Tin, Quân Y. Các Trường Không Quân, Hải Quân được cải tổ, trang bị lại tối tân theo đà phát triển quân lực, huấn luyện những sĩ quan phi hành, hoa tiêu trên các loại phi cơ tối tân hay trên những chiến hạm lớn. Hải quân ta có những khu trục hạm, hộ tống hạm, hải vận hạm, có trọng tải lớn, đứng ở hàng thứ năm trên thế giới; Không quân có những chiến đấu cơ siêu thanh, vận tải cơ khổng lồ, có lực lượng trực thăng hàng ngàn chiếc cũng đứng vào hàng thứ sáu trên thế giới. Đó là hai quân chủng hùng hậu yểm trợ đắc lực cho các đơn vị bộ chiến. Trận phản công tết Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 là một minh chứng cụ thể cho sự lớn mạnh và thiện chiến của quân ta. Trong một thời gian ngắn, từ lúng túng – bất ngờ vì cộng quân vi phạm lệnh hưu chiến ngày xuân – quân ta dần dần lấy lại thế chủ động, đẩy dồn Bắc quân vào những lò sát sinh, diệt hàng ngàn tên phơi thây xung quanh cổ thành Quảng trị, cố đô Huế và hàng chục thị xã miền Nam, cho chúng được thỏa mãn nguyện vọng “sinh Bắc tử Nam”. Toàn bộ quân Việt cộng (cả điạ phương lẫn du kích) và hạ tầng cơ sở của bọn Mặt trận Giải phóng bị lộ diện và tiêu diệt sạch4, (4 Theo các báo cáo không đầy đủ, Việt Cộng tổn thất khoảng 85 ngàn quân sĩ trong các trận đánh Mậu Thân. Về sau Hà nội đưa cán bộ miền bắc và hàng sư đoàn chính quy vào thay thế. Hình ảnh người lính chiến Cộng hoà vừa oai hùng, vừa hào hoa, là lý tưởng thời đại của bao thanh niên mới lớn, là ước mơ thầm kín của các thiếu nữ đang xuân. Từ đây, người anh hùng không phải chỉ là những vị tướng quân, mà là anh hạ sĩ can trường trên đồi máu Charlie, người pháo thủ binh nhì nơi mặt trận An Lộc; hoặc anh nghĩa quân âm thầm ngày đêm canh gác cho đồng bào nông thôn được yên ổn cấy cày. Các thế hệ thanh niên ưu tú miền Nam nối nhau lên đường tòng quân làm nghĩa vụ thiêng liêng đối với tổ quốc. Chiến trường càng khốc liệt càng thôi thúc bao tâm hồn đầy nhiệt huyết lên đường diệt công giữ quê. Những khoá sĩ quan Đà Lạt ra trường ai cũng nô nức dành chọn những đơn vị chiến đấu: Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Lực Lượng Đặc Biệt. Lá cờ vàng ba sọc đỏ mà thanh niên miền Nam quyết tâm bảo vệ đã tung bay ngạo nghễ trên cổ thành Quảng Trị, Huế, trên các đồi núi trùng điệp cao nguyên Trung Phần, trên làng mạc thân yêu đồng bằng sông Cửu Long xác nhận uy quyền quốc gia trên toàn lãnh thổ. Cũng lá cờ vàng đã gói trọn thân xác bao anh hùng để đưa vào lòng đất mẹ. Nếu quốc kỳ Việt Cộng kêu gọi máu xương và thù hận :’’đường vinh quang xây xác quân thù… “, thì quốc kỳ VNCH kêu gọi “vì tương lai núi sông, cùng xông pha khói tên… Thù nuớc lấy máu đào đem báo…” Một bên kêu gào chém giết cho quyền lợi riêng của giai cấp mình, một bên kêu gọi hy sinh cho tổ quốc, dân tộc, ai chính nghĩa hơn ai?

          Quân Lực VNCH không những anh hùng nơi trận tuyến, mà còn đảm đang nơi hậu phương, đã đóng góp xây dựng nông thôn, đem ánh sáng tự do về tận miền xa xôi của đất nước. Quân lực ta không chỉ anh hùng khi còn chiến đấu với vũ khí trong tay, mà còn bất khuất can trường khi thất thế. Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai và hàng trăm chiến sĩ vô danh khác đã tìm cho mình cái chết vinh quang không để lọt vào tay giặc. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn khi bị cộng sản đưa ra pháp trường đã yêu cầu: “Đừng bịt mắt tôi, để tôi còn được thấy đồng bào tôi trước khi chết.” Trong các trại tù cải tạo, anh em quân nhân VNCH các cấp đã ngoan cường, bất khuất, công khai hoặc âm thầm chống đối cho dù có bị tra tấn, khủng bố triền miên. Thử nghĩ, bọn cán binh Cộng sản bị ta bắt trong chiến tranh có bất khuất cũng chẳng có gì lạ, vì chúng được bảo vệ bởi Công Ước Genève về tù binh, và chúng biết VNCH tôn trọng luật pháp quốc tế, bên cạnh còn có sự giám sát của các nước. Chúng lại có niềm hy vọng lớn lao vì cuộc chiến còn tiếp diễn. Chúng còn hậu phương, còn miền Bắc và các nước phe cộng sản yểm trợ. Ngược lại, anh em quân nhân VNCH có gì sau 1975? Không chính phủ lưu vong, không phong trào kháng chiến bên ngoài để hậu thuẫn; Đồng minh thì bỏ rơi, thế giới thì quay lưng. Họ chỉ còn khí tiết của người chiến sĩ, còn lý tưởng tự do mà tự bảo vệ thanh danh, còn gương Trần Bình Trọng phải noi theo mà thôi.

          Cộng sản đã thất bại không tẩy não được các anh, không làm cho các anh khuất phục dù đã ra sức đàn áp dã man. Năm năm, mười năm, càng lâu càng nuôi ý chí căm thù. Không ngày nào trong các trại giam mà thiếu những hoạt động chống đối, khi âm thầm, khi bùng nổ công khai. Anh em ta đã đoàn kết thương yêu, đùm bọc giúp nhau giữ vững lập trường quốc gia.

          Kỷ niệm ngày Quân Lực năm nay, nhớ lại 30 năm trước, sau khi quân đội làm cách mạng lật đổ chế độ gia đình trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đất nuớc đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cộng sản thì tăng cường quân đội, vũ khí đe doạ an ninh lãnh thổ, bên trong các chính phủ dân sự nối tiếp nhau cầm quyền nhưng không đáp ứng được nhu cầu tình thế phức tạp. Quân đội phải đứng ra đảm đương trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia.

          Quân đội ta trưởng thành nhanh chóng trong giai đoạn này. Chỉ sau vài năm, quân ta làm chủ các chiến trường đẩy cộng quân chạy qua bên kia biên giới Việt Miên để ẩn náu. Ngoài Bắc, Hà Nội tưởng sắp treo cờ hàng vì không chịu nổi bom đạn của Hoa kỳ.

          Thế nhưng, Hoa Kỳ, vì quyền lợi của mình trên chính trường thế giới đã ngầm thỏa hiệp với Nga Sô (Hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng Thống Mỹ Richard Nixon và Lãnh Tụ Cộng Sản Liên Sô Leonid Brejnev tại Vladivostok cuối năm 1973), bán đứng VNCH cho khối cộng để đổi lấy vùng dầu lửa Trung Đông5 (5 Trong cùng thời điểm này, có chuyến đi 14 nước Ả Rập của Ngoại Trướng Hoa Kỳ Henry Kissinger để thương lượng. Sau đó, các nước Ả Rập đã yêu cầu Liên Sô rút quân và vũ khí ra khỏi vùng Trung đông, dọn đường cho Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà.) Bên trong, thì chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quay ra đàn áp đối lập và che chở cho một hệ thống tham nhũng làm suy yếu tiềm năng chiến đấu của quân đội, mất niềm tin nơi dân chúng. Những quyết định quân sự sai lạc đã làm anh em chiến sĩ tức tưởi. Đang tiến công vũ bão thì bị gọi dừng quân (sông Thạch Hãn, Quảng Trị 1972), phi pháo Hoa Kỳ thì từ chối yểm trợ khi một trung đoàn ta bị ba sư đoàn Việt Cộng bao vây (trận Snuol), tình báo Mỹ cho tin sai lạc dẫn đến thất bại Hạ Lào, nghi vấn về cái chết tai nạn của Đại Tướng Đỗ Cao Trí giữa lúc quân ta đang tiến công. Rất nhiều điều mà sử sách sau này sẽ phanh phui về một sự phản bội của đồng minh

          Tuy Quân Lực VNCH không chu toàn nhiệm vụ bảo vệ miền Nam thân yêu, nhưng toàn dân miền Nam vẫn dành trọn vẹn lòng yêu thương, kính mến vô bờ với các chiến sĩ. Cả đồng bào miền Bắc, sau một thời gian tiếp xúc, đã phủ nhận sự tuyên truyền của Việt cộng về hình ảnh người chiến sĩ VNCH. Khi những đoàn tàu, xe chở anh em quân nhân miền Nam ra Bắc giam giữ, đến đâu, đồng bào cũng ném lên những món quà nhỏ và trao thầm những ánh mắt thương cảm chứ không biểu lộ hận thù như bọn Việt cộng thường xúi dục.

          Chúng ta vẫn tự hào là ngưới chiến sĩ VNCH, chiến đấu vì lý tưởng tự do, chúng ta không chiến đấu cho một chế độ nào, cho một cá nhân, tập đoàn nào mà chiến đấu vì dân tộc. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù ở phương trời nào, những người trai lính cộng hoà vẫn giữ gìn phong cách, kiên định lập trường, nuôi dưỡng trong tim ý chí sắt đá, thề nguyền diệt cộng, quang phục quê hương, đưa giống nòi qua cơn trầm luân, trả lại cho nhân dân quyền sống làm người ấm no, hạnh phúc. Tuy không còn chiến đấu vũ lực, chúng ta vẫn phải là ngọn đuốc tiền phong trong cuộc đấu tranh trên bình diện văn hoá, tư tưởng cho đến ngày thắng lợi.

(Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6-1993)

Mời đọc: Đỗ Văn Phúc: Nanh Hùm Nọc Rắn

Cố Trung Tá Lê Hằng Minh Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 2 / Thủy Quân Lục Chiến

Tác Giả: Ngọc Thủy

.

Ðất nước Việt đang thời binh biến, Tổ quốc lâm nguy, vang dậy núi sông những lời hiệu triệu anh hào.

 Khi tôi chưa chào đời thì vào giữa năm 1954, theo đoàn người trai quyết xếp bút nghiên để lên đường theo tiếng gọi non sông, làm tròn trách nhiệm người công dân trong thời quê hương khói lửa.

Người thanh niên tên Lê Hằng Minh đã từ giã người mẹ hiền, rời bỏ cuộc sống gia đình ấm êm nơi Hàng Keo – Gia Ðịnh, từ giã mái trường Huỳnh Khương Ninh & Trương Vĩnh Ký sau khi tốt nghiệp Tú Tài để cùng người anh Lê Minh Ðảo (thiếu tướng Lê Minh Ðảo gia nhập khóa 10 trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, là một trong số những tướng lãnh của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa), lên đường nhập ngũ.

Ông theo học khóa 5 Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức (Khóa Vì Dân) và sau khi ra trường vào đầu năm 1955 với cấp bậc Thiếu Úy Trừ Bị, người chiến sĩ Lê Hằng Minh đã cùng bao chiến hữu khác ngược xuôi khắp nẻo đường đất nước, xông pha vào những trận tuyến ngăn giữ bước quân thù xâm lăng, hầu mong mang yên vui cho mảnh đất miền Nam Tự Do thân yêu.

Ðầu năm 1957, vì muốn vẫy vùng ngang dọc hơn cho thỏa chí tang bồng, ông rời khỏi Sư đoàn 4/ Bộ binh dã chiến (sau này là Sư đoàn 7/ BB) để tình nguyện gia nhập Thủy Quân Lục Chiến, Lực lượng Tổng Trừ Bị nòng cốt của Quân đội VNCH và lần lượt đảm trách các chức vụ: Trưởng Ban 5 TQLC, Trung đội trưởng (Tiểu đoàn 1), Ðại đội trưởng (Tiểu đoàn yểm trợ), (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4), Chiến đoàn phó (Chiến đoàn A) và Tiểu đoàn trưởng (Tiểu đoàn 2/ TQLC).

Tham dự nhiều chiến dịch quan trọng cùng những trận đánh hào hùng trên khắp các mặt trận chiến trường đất nước từ: Ðồng Xoài, U Minh, Bời Lời, Ðầm Dơi, Bến Cát, Ðức Cơ, Plei-me, Bình Ðịnh, Bồng Sơn – Tam Quan, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Huế, Phù Lưu, Quảng Trị v.v… Với những thành tích chiến đấu dũng cảm, Lê Hằng Minh được thăng cấp Trung úy sau hai năm ra trường và được gởi đi du học khóa Sĩ quan TQLC ở Quantico – Hoa Kỳ năm 1959 – 1960.

Ðầu năm 1959, Lê Hằng Minh đưa Ðại đội Trinh Sát TQLC/ Tân Lập về Sài Gòn tham dự khóa học Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Hoàng Hoa Thám tại Bà Quẹo. Trong thời gian huấn luyện này, ông chứng tỏ sự gan dạ và là một cấp chỉ huy gương mẫu, xứng đáng làm gương và hướng dẫn quân nhân thuộc quyền noi theo không nề hiểm nguy. Yêu thích đường bay trên những nấc thang mây thênh thang của người lính Nhảy Dù, Lê Hằng Minh luôn hãnh diện khi chỉ cho mọi người xem huy hiệu “Cánh Dù” luôn gắn trên túi áo ngực mà ông đã đạt được sau khóa huấn luyện. Trong biến cố 11/11/60, ông cùng Ðại Ðội Chiến Ðấu/ TQLC về giải vây cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Sau đó, năm 1960 ông giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Yểm trợ tiếp vận/ Thủy Quân Lục Chiến. Và rồi nổi trôi theo vận hạn quốc gia cùng tình hình đất nước rối ren, thêm một lần nữa, vị Tiểu đoàn trưởng Lê Hằng Minh của TÐ4/TQLC lại là một trong những đơn vị tham gia cuộc đảo chánh Tổng thống vào ngày 1/11/63.

Những biến cố đất nước cùng những thăng trầm của cuộc đời binh nghiệp vẫn không làm mất đi tinh thần quả cảm của một người chiến sĩ với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng tinh thần trách nhiệm đối với đồng bào Tổ quốc, ông vẫn cùng với bao lớp người thanh niên chiến hữu luôn giữ vững sự cang cường chiến đấu như ánh thép gươm đao vẫn lóe sáng mỗi khi lâm trận ngoài địa đầu giới tuyến. Sau khi tu nghiệp khóa AWS ở Hoa Kỳ về (1964 – 1965), đầu tháng 11/1965, Thiếu tá Lê Hằng Minh được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng TÐ2/ TQLC và tên tuổi ông đã gắn liền với danh hiệu “Trâu Ðiên”, một tiểu đoàn lừng danh của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa nói chung từ trận đánh An Quý vào tháng 2/1966 ở Bồng Sơn – Tam Quan.

Từ tư thế bất ngờ bị phục kích khi tiến chiếm mục tiêu ấp chiến lược này, dù bị bao vây tứ phía bởi sự bố trí sẵn bên ngoài lẫn sự phòng thủ rất mạnh của VC bên trong, bị bắn phá nã đạn như mưa vào các toán quân, nhưng điều đó không làm chùn bước được của những người lính luôn luôn trong tư thế chuẩn bị, sẵn sàng xung phong nên ngay giữa cánh đồng trống, không nơi ẩn nấp, vị TÐT đã cùng với tất cả các chiến sĩ lúc ấy vẫn hiên ngang tràn vào và tiến lên dũng mãnh đến nỗi VC phải khiếp sợ với khí thế hăng như trâu điên của TÐ2 quyết băng mình phá tan lằn lửa đạn, dù phải đối chọi với tử sinh chạm gần trong gang tấc. Kết quả TÐ2/ TQLC toàn thắng chiếm hẳn được mục tiêu tuy phải chịu sự tổn thất vừa chết vừa bị thương mất gần một trung đội, trong số đó có Trung úy Nguyễn Ngọc Ðiệp (khóa 17/ VBÐL) v.v…

Với chiến tích “phản phục kích” vẻ vang này, Tiểu đoàn do Thiếu tá Lê Hằng Minh chỉ huy và yêu cầu sự đề đạt danh hiệu, đã được Bộ tư lệnh TQLC chấp thuận cho mang danh xưng Trâu Ðiên (Crazy Buffalo) biểu tượng sự Cảm Tử, Hi Sinh và Dũng Mãnh. Ngoài ra còn được tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ tư và được mang dây biểu trưng màu xanh Quân Công Bội Tinh. Bắt đầu từ đó, các tiểu đoàn khác cũng được đặt tên để có những danh hiệu riêng như: Quái Ðiểu, Sói Biển, Kình Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Hùm Xám, Ó Biển, Mãnh Hổ.

Người lính Lê Hằng Minh như chúng ta đã thấy là một chiến sĩ rất gan lì và quả cảm khi xông pha ngoài mặt trận, bởi ông luôn đặt trọng trách hi sinh vì Tổ quốc lên hàng đầu. Nhưng bên trong con người của ông lại là một nghệ sĩ giàu cảm tính và nhân hậu. Ông sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo gồm 10 anh chị em. Người mẹ đã tần tảo một mình lo bảo bọc các con khi người Cha đã qua đời năm ông 17 tuổi. Sống và lớn lên từ ngôi nhà cổ kính giữa vườn cây bóng mát xum xuê nơi Hàng Keo nằm trên đường Chi Lăng nối dài, gần chợ Bà Chiểu cạnh đền Lăng Ông nổi tiếng hiển linh, khói trầm nghi ngút quanh năm bên mộ Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tỏa sáng uy linh của bậc trung thần đại nghĩa, phải chăng đã ảnh hưởng phần nào đến tâm tình con người Lê Hằng Minh từ thuở nhỏ. Thích sống đời trai oai phong dũng mãnh nhưng cũng là người yêu văn nghệ, đàn nhạc, thơ văn. Ðôi khi cũng rất ủy mị, ướt át. Tình cảm của ông cũng rất dạt dào đối với anh chị em trong gia đình cùng sự kính trọng, hiếu thảo đối với bậc sinh thành và nhất là tình yêu quê hương đất nước được thể hiện rất rõ nét trong những vần thơ mộc mạc được viết ra từ đáy tâm hồn thiết tha:

(LMH viết vào ngày 25 Tết, Kỷ niệm ngày giỗ Ba. Kính tặng các bà Mẹ vạn nẻo đường con đã gặp)

Trên con đường rong ruổi nghiệp binh đao, ông cũng mang nặng tình thương yêu đối với các chiến hữu, những người cùng chí hướng lên đường nối gót chinh nhân. Cuộc đời của những người chấp nhận Ðời Lính Chiến với tất cả những vui buồn gian khổ:

(LHM thân tặng các chiến sĩ vô danh không vụ lợi và để tang cho cố Thiếu tá Nguyễn Văn Nho và những chiến hữu TÐ4/ TQLC đã hi sinh trong trận chiến Bình Giả cuối tháng 12-1964)

Những lời ấy là tất cả những tâm tình của ông trên bước đường hành quân xuôi ngược đó đây. Qua những trận đánh ác liệt và sau những tiếng súng, người lính trẻ lại trở về với những nỗi niềm cô đơn trăn trở trong những phút giây nhớ nhung và trống vắng:

Và trong những ngày mùa đông rét mướt ở Washington trong thời gian du học, ông trải rộng niềm thương nhớ đến người mẹ hiền và cô em gái út ở quê nhà:

(Tặng em Ánh Tuyết. Ghi một ngày nhớ má 15/1/65. Mùa đông Washington. LHM)

Cuộc sống ông cũng rất chí tình gắn bó với bạn bè đồng đội:

(LHM. Kontum – Dakbla ngày 14/12/65. Một đêm nhớ Soạn và trước khi đi hành quân. * Thiếu tá Tôn Thất Soạn, Thiếu tá Hoàng Tích Thông và Trung úy Tâm).

Và người thanh niên ấy cũng có những phút giây mơ mộng say đắm về tình yêu:

(Bài thơ “Về Phong Dinh” của LHM đã được nghệ sĩ Hồ Ðiệp diễn ngâm trong chương trình Thi Văn Tao Ðàn năm 1966).

Cuộc đời gian khổ của người lính chiến rày đây mai đó, luôn cận kề bên những sống chết hiểm nguy, làm sao dám nghĩ đến chuyện tình yêu và mộng ước mai sau. Nhưng tình cảm đó vẫn không thể thiếu trong trái tim người lính trẻ, vẫn có những nỗi niềm u ẩn, vấn vương, mộng mơ và nhung nhớ…

Ngoài sự yêu thích thơ văn, ông còn là người rất tài hoa về âm nhạc. Học đàn năm 12 tuổi, ông đánh thành thạo tất cả các loại đàn dây và điêu luyện nhất là Tây Ban Cầm với những nhạc khúc cổ điển Tây Ban Nha. Trong thời gian còn đi học, ông thường đệm đàn cho ban nhạc của trường Petrus Ký, ban Khuyến nhạc của Ðài phát thanh Pháp Á và ban nhạc Ðồng Nai (đàn và hát chung với người anh là Lê Minh Ðảo và người em gái kế là Mộng Huyền, một chi tiết nhỏ để nói lên con người hiền lành hiếu thảo của ông là dù mê đánh đàn ca hát tới đâu, xong việc là ông lo sớm về nhà để phụ giúp mẹ việc nhà và săn sóc các em).

Qua hai lần sang Mỹ tu học, ông cũng trau dồi thêm về kiến thức âm nhạc với các danh tài ngoại quốc và đã sáng tác một số ca khúc như: Hoa cài trên súng (1959), Bơ vơ (1960), Người anh chinh chiến (1964), Em là mùa thu (1965), Sao buồn (1966) v.v… Có lẽ, Lê Hằng Minh cũng là người lính duy nhất, dù ở hậu cứ hay bất cứ tuyến đầu trận địa nào, đi đâu cũng mang theo bên mình cây đàn Guitaire yêu quý, hễ có dịp dừng quân hay nghỉ ngơi là ông lại ôm đàn thay cho tay súng, đánh lên những tiếng đàn du dương trầm bổng cùng những ca khúc tuyệt vời cho bạn bè binh lính thưởng thức, tạm quên những gian khổ quân hành, vơi bớt nỗi nhớ nhà, cô đơn. Ông luôn lấy sự hào hiệp, tử tế vui vẻ của mình để đối đãi và cư xử với mọi người chung quanh. Trong chỉ huy, ông nguyên tắc mực thước, sống đời thường lại nhân ái giản dị nên ông được hầu hết các bạn bè chiến hữu dành cho tình cảm thương mến tốt đẹp.

Trong bài viết những cảm nghĩ về một vị chỉ huy khả kính của mình (ÐSST), Thiếu tá Lâm Tài Thạnh đã viết đôi dòng hồi tưởng như sau: Trong những ngày cuối năm 1965 về dưỡng quân tại hậu cứ Thủ Ðức (Tam Hà), hôm đó là một buổi chiều thứ bảy, tôi và Quang chẳng biết làm gì cho qua “chiều cuối tuần cạn túi” trong phòng ngủ độc thân vì cả hai nguyên quán đều ở xa, bà con họ hàng ở Sài Gòn cũng chẳng mấy thân thích gần gũi, còn em gái hậu phương thì cũng chẳng quen biết nhiều với lại điều kiện “đầu tiên” bó buộc. Thôi thì nằm nhà cho ăn chắc mặc bền. Chúng tôi mang quân dụng ra lau chùi đánh bóng để qua thời giờ giữa buổi trưa quá tĩnh lặng, bỗng nghe vang lên tiếng Tây Ban Cầm réo rắt với bản Panama (Cánh buồm xa xứ) khi thì như sóng vỗ lúc chẳng khác cơn gió heo may. Tôi nói nhỏ với Quang: “Ông cũng ở nhà như mình”, Quang trả lời: “Ông chưa có lập gia đình” rồi chúng tôi lại tiếp tục công việc còn dang dở.

Khoảng 30 phút sau, tiếng đàn ngưng hẳn và vào lúc chúng tôi không chuẩn bị để chào kính thì: “Chiều thứ bảy mà không đi bát phố à? Sĩ quan trẻ mà nằm nhà, dở vậy??”. Chúng tôi lúng túng chào tay và cùng trả lời: “Tiền lính tính liền thưa Th/T, với lại chả biết đi đâu”. Ngắn gọn, dứt khoát như khi ban lệnh hành quân: “Mặc quân phục vào, đi với tôi ra hồ tắm “Ngọc Thủy” uống nước giải khát”. Năm phút sau, chúng tôi đã có mặt trên xe do chính Tiểu đoàn trưởng làm tài xế với tôi ngồi kế bên (Quang là khóa đàn em nên cố tình nhường tôi ngồi trước với Ðại Bàng hoặc vì e ngại sơ suất khi nói chuyện nên bán cái cho tôi??). Trước khi rời trại, người còn nói nhỏ: “Mình đi gần đây khỏi gọi HS Danh (tài xế) làm chi, cho chú ta ở nhà với vợ con”. Trong tự nhiên đối xử như một người anh cả trong gia đình sau khi gọi nước uống cho chúng tôi, NT Minh hỏi thăm về nguyên quán, gia đình, học vấn, quân trường v.v…

Từ dè dặt, ngần ngại như lệ thường của bất cứ một Sĩ quan cấp trung đội trưởng nào khi phải trực tiếp tiếp xúc với Ðơn vị trưởng ở cấp cao mà thường khi “chạm mặt” thì chỉ có “Từ chết tới bị thương”, chúng tôi đã vui vẻ trao đổi trả lời các câu hỏi. Dần đà câu chuyện trở nên thân tình có tính cách đời thường thực tế và tươi mát hơn. Trước khi ra về, tôi còn nhớ rõ: “Các sĩ quan trẻ nhiều năng nổ, chịu khó, kỷ luật, ham học hỏi là xương sống và chìa khóa thành công của đơn vị. Các em cố gắng nhé, thôi mình về”. Lời nói chân tình, tha thiết có giá trị động viên cao của cố Niên trưởng Lê Hằng Minh đã làm cho tôi và Quang thực sự xúc động và cảm mến vị chỉ huy đầy đức độ, nghiêm nhưng không “quan liêu”, oai nhưng không “khắc nghiệt”. Gần 10 năm sau có lần tôi đã lặp lại câu nói đó của người cùng toàn thể Sĩ quan TÐ 9 trong ngày tôi nhận chức vụ TÐT.

Nơi hậu cứ Thủ Ðức – Tam Hà là nơi Tiểu Ðoàn 2/ TQLC thường về đây dưỡng quân, sau này còn được gọi là hậu cứ Lê Hằng Minh sau năm 1966.

Trở lại với người chiến sĩ Lê Hằng Minh, khi chiến trường miền Trung càng lúc càng sôi động thì Tiểu đoàn 2/ TQLC cùng những đơn vị bạn càng đi sâu vào những gian lao chiến đấu với tất cả mọi căng thẳng hiểm nguy rình rập từng phút từng giây. Từ đầu mùa hè năm 1966, họ phải điều động và tham dự nhiều trận hành quân liên tiếp suốt ba tháng không ngày về thăm nhà, nghỉ phép. Ðánh Bình Ðịnh, Quế Sơn vừa xong, lại bay vào Quảng Ngãi, rồi về Ðà Nẵng, Huế…

Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa được chính thức thành lập và công bố là ngày 19 tháng 6 năm 1966. Ðể tưởng thưởng những phần tử ưu tú có công trong sứ mạng diệt Cộng tại tiền tuyến, một số cấp chỉ huy đơn vị chiến đấu được thăng cấp đặc cách tại mặt trận vào ngày lễ trọng đại này, trong đó có thiếu tá Lê Hằng Minh. Vừa được thăng cấp Trung tá vào ngày 19/6/66, Lê Hằng Minh đã cùng Tiểu đoàn 2 và một số đơn vị tác chiến khác lại lao vào mặt trận Lam Sơn 283 ở Gia Ðặng – Phù Lưu (21/6 đến 23/6), tiếp thêm những trận thắng vẻ vang với sự chiến đấu rất gan lì dũng cảm của họ. Trong một bài phóng sự, ký giả Dzoãn Bình đã viết về chuyến gặp gỡ bất ngờ với Tr/T LHM như sau: “Chúng tôi ghi vào sổ tay và tự nhủ sẽ khai thác về cái chết oai hùng của Thiếu úy Bằng, Ðại đội 3 thuộc TÐ Trâu Ðiên.

Hỏi về sự anh dũng của Đại úy Sứ, tung hoành đè bẹp VC bằng đoàn Cọp Bay M-113. Và lòng tự nhủ sẽ phải “vớ” được con người chỉ huy Trâu Ðiên mà khi nói về cá nhân xuất sắc, phần đông đã khuyên chúng tôi nên đi tìm hai ông Trung tá Lê Hằng Minh và Tôn Thất Soạn. Họ nói: “Hai ông này mới có 31 tuổi nhưng đánh đấm lì lợm “chì” lắm. Cả hai đều là Cọp Biển. Trận Phù Lưu – Gia Ðặng, cả hai đều đứng khơi khơi đánh xung phong như đi biểu diễn”. Thế rồi, chiều 24/6/66, Huế… buồn xa vắng, mưa lất phất… như trời khóc sụt sùi. Chúng tôi đi “lô ca chân” tạt vào văn phòng triển lãm ngó anh em đang bầy biện SKZ và súng Nga vừa thu được. Thình lình, chúng tôi đụng đầu với hai ông quan Cọp Biển. Nhìn vào ngực thấy cái lon bạc trắng, chẳng rõ là cấp gì. Ngó lên nón “bê rê” thấy hai cái bông bạc: cấp Trung tá.

– Ủa! Sao hai ông Trung tá này trẻ quá. Nếu phỏng đoán bạo lắm cũng chỉ nghĩ họ tới 26 tuổi là cùng.

Dù Trung tá Minh để râu mép, nhưng nét mặt tràn đầy nhựa sống, hồn nhiên yêu đời của họ đã giúp chúng tôi mạnh dạn làm quen. Sau màn tự giới thiệu, chúng tôi cùng bước vào một quán nước bên đường trò chuyện. Trung tá Soạn giơ tay giới thiệu: “Ðây, kể về trận đánh ác liệt tại Phù Lưu, tôi xin nhường lời lại cho Tr/T Minh”. Cho đến phút này, con người mang tên Minh mới bắt đầu lên tiếng. Ông cao giỏi lắm là một thước 55, nặng lối 47 ký là tối đa. Khuôn mặt nhỏ nhắn, mắt hơi ốc nhồi, miệng cười rất có duyên, nhờ điểm thêm bộ râu mép đã làm tăng thêm vẻ “bô trai” của Tr/T họ Lê. Nhìn ông có thể nhận ra ngay qua hình ảnh của người anh ruột là Thiếu tá Lê Minh Ðảo ở phòng 3 của QÐ 4. Hai anh em Minh giống nhau như khuôn đúc.

Chúng tôi hỏi: “Tại sao lại đặt tên là Trâu Ðiên?”.

“Vì tụi tôi hăng và xung phong đánh Cộng như Trâu Ðiên, chỉ biết húc tới. Có thể nói chưa hề “thất” trận nào. Tiểu đoàn 2 TQLC được kể là đơn vị nổi nhất và đứng đầu sổ về công trạng”.

Ngừng một lát, ông kể tiếp: “Kỳ này mệt chớ phở, mới đi đánh nhau sơ sơ gần 3 tháng chưa về Sài Gòn. Khi hành quân “cú” Lam Sơn 283, tiểu đoàn Trâu Ðiên mệt – hết muốn đi – vì vác nặng gần trọn ngày. Thế mà tới 5 giờ chiều, khi gần tới đầu làng Gia Ðặng, đơn vị tôi đã bị dồn cục vì mới vượt qua cái cầu. Anh em xúm sát gần nhau. Tôi vội lướt lên hàng đầu để ra lệnh cho họ trở về theo cự ly đã định người này cách người nọ 10 thước. Ði xúm xít bị nó “đớp” thì chết cả đám. Ấy thế rồi, tôi vừa lướt lên đầu thì… thoáng bắt gặp phía trước cách lối 10 thước, 3 cái đầu vội thụp xuống. Linh cảm rất bén nhạy, tôi ra dấu cho toán quân tiên phong nằm ngay xuống, bố trí về phía có địch vừa phát hiện. Tôi cho nổ một loạt đạn trung liên vào cái hố có 3 VC, một tên có thượng liên, hai tên có tiểu liên AK50. Thì ra chúng là tổ viễn tiêu. Nếu không kịp phát giác thì tụi tôi đã lọt vào ổ quỉ.

Bắn loạt đầu, VC trả lời như pháo Tết, may mà chiến sĩ Trâu Ðiên đã nắm chiếm ưu thế và ở ngoài tuyến bố trí của địch. Suốt ngày đi “lô ca chân” mệt mỏi phờ người, thế mà gặp địch, lính lại hò hét xung phong như trâu điên và tất cả quên đói, đánh địch suốt từ năm giờ chiều cho đến chín giờ tối. Bọn chúng rút khỏi trận địa để lại hơn bảy mươi xác chết. Tiểu đoàn Trâu Ðiên lại được lệnh quay về mục tiêu Phù Lưu, cách Gia Ðặng 10 cây số. Vì tiểu đoàn 808 VC đêm trước đã từ Gia Ðặng luồn một lèo “lĩnh” về Phù Lưu. Không thể tưởng tượng được, liền ba đêm ba ngày đi liên miên. Ðánh nhau tơi bời tới 21-6-66, suốt đêm đó mắt thao láo nằm vây địch, thế mà sáng hôm 22-6 lại “tỉnh bơ” đi đuổi địch về Phù Lưu, lại xung phong đánh chiếm từng hầm, diệt từng hố, phải băng suối đánh xáp lá cà với VC suốt từ 4 giờ chiều đến 2 giờ đêm mới khóa tắt họng súng địch…”.

Sau khi kể những chi tiết hấp dẫn về trận đánh, Tr/T Minh nhún vai nói tiếp: Từ nay đến 30/6, cậu chịu khó ra Huế, chúng tôi sẽ mời cậu đi theo hành quân ngay từ lúc mới mở màn, có thế mới viết kỹ và sống động hơn là đánh đấm xong từ khuya rồi mới lò dò ra viết theo kiểu “nghe đồn rằng…”. Tr/T Minh hẹn sẽ khao chúng tôi một chầu khi tái ngộ tại Thanh Thế khi về tới Sài Gòn. Chúng tôi chia tay hai ông Tá và về Sài Gòn viết loạt bài phóng sự, đặc biệt viết thêm chuyện về Lê Hằng Minh trên Nhật báo Sống. Chúng tôi chân thành viết vì yêu mến người chiến sĩ Cọp Biển, đánh giặc hay như chơi đàn. Ra trận đánh nhau bằng súng đạn, xong rồi lại… thản nhiên gảy đàn vui nhộn trước ba quân. Dù đã 31 cái xuân xanh mà… Trung Tá Minh vẫn cô độc. Ông vui với đời Cọp Biển và chịu ế vợ có lẽ vì… tự linh cảm thấy ngày mai… của đời chiến sĩ, thuộc đơn vị đã lẫy lừng danh tiếng về tài xung phong diệt địch… ‘Bài phóng sự chiến trường của Dzoãn Bình”.

Từ trận chiến thắng Lam Sơn vang dội này, báo chí từ Sài Gòn bay ra mặt trận quan sát và phỏng vấn Tr/Tá Lê Hằng Minh. Buổi lễ chiến thắng được tổ chức trọng thể tại Huế. Vòng hoa chiến thắng và huy chương lại một lần nữa ngập trên vai người anh hùng mũ xanh, chỉ huy tiểu đoàn Trâu Ðiên.

Từ Huế, những cánh quân chia ra để xuôi Nam ngược Bắc. TÐ1 (Th/T Phan Văn Thắng) theo Chiến đoàn B (Tr/T Tôn Thất Soạn) di chuyển vào Quảng Ngãi. TÐ2 ở lại An Hòa (phía Bắc thành phố Huế) để nhận tăng phái cho SÐ1/ BB với đoàn quân xa GMC nằm chờ từ chiều ngày 28/6/66 để chuẩn bị di chuyển vào sáng sớm hôm sau.

Sau đây xin được trích phần tường thuật ngắn của vị Ðại úy cố vấn thuộc TÐ2/ TQLC là Thomas E. Campbell về những diễn biến của trận đánh: 27 xe GMC, khởi hành từ An Hòa lúc 7 giờ 30 sáng ngày 29/6 với 573 TQLC. Khi đoàn xe cách Huế khoảng 30 cây số và còn 20 cây số thì đến Quảng Trị theo Quốc lộ số 1, lúc này vào khoảng 8 giờ 30 sáng, di chuyển với tốc độ khoảng 30 – 35 KPH. Hai xe bị bắn bởi đạn 75 ly và bị cháy phải tấp vào lề đường, từ đồi ở phía Tây bắn ra với khoảng cách 400 mét. Ðoàn xe phải ngừng lại, Trung tá Minh ra lệnh cho Bộ chỉ huy/ TÐ di chuyển đến gần đường xe lửa cách lộ khoảng 60 – 75 mét. Việt Cộng từ đường rầy bắn ra rất mạnh. Sau một lúc giao chiến, ông Minh bị thương bởi hai viên đạn trúng ngực. Tôi thấy ông bị thương nặng. Một quả lựu đạn nổ làm tôi bị thương vào tay, cổ nhưng nhẹ. Khi tôi trở lại chỗ Trung tá Minh thì thấy ông đã chết, có lẽ vì trúng miểng lựu đạn vào đầu”.

Tiếp theo xin được trích lại bài viết của ký giả Dzoãn Bình đăng trên Nhật báo Sống về “Trận phản kích tuyệt vời cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh” sau đây:

“Theo đúng lời hẹn, chúng tôi ra Huế đúng ngày 29/6/66. Ðến Phú Bài lúc 15 giờ chiều, gặp loáng thoáng một đoàn quân nhạc có sĩ quan Cọp Biển đứng chỉ huy. Bên cạnh, có chiếc phi cơ ở phía sau, chúng tôi thấy một quan tài phủ Quốc kỳ. Cũng như lần trước, khi xuống sân bay, chúng tôi cũng gặp cảnh tương tự. Vì thế, lòng chỉ thấy buồn lâng lâng… tay cầm tờ báo Sống, bụng nóng ruột mong téléphone gọi Tr/T Minh để khoe bài báo viết về khí phách của Trâu Ðiên và Tiểu đoàn trưởng Trâu Ðiên. Nhưng… chúng tôi giật mình khi có tiếng la của một Trung sĩ ra lệnh:

– Này, trung đội 2 sửa soạn chào quan tài Trung Tá.

Các tiếng xì xào tự nhiên lọt vào tai tôi:

– Tiểu đoàn Trâu Ðiên vừa đánh bại trận phục kích kinh khủng của VC ở quốc lộ 1.

Chúng tôi lật đật vớ lấy người nói câu này rồi hỏi hấp tấp:

– Có ai chết không?

– Có, Trung tá Tiểu đoàn trưởng chết rồi!

– Có phải Trung tá Minh không?

Không đợi trả lời, chúng tôi chạy như bay ra phía có chiếc quan tài và… quả đã rõ ràng – đúng là vị trí cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh. Dường như… chúng tôi có chảy nước mắt trong phút giây đó. Cái sự khóc xảy ra thật kỳ dị. Tôi không có ý thức về cái khóc bất thần này. Nhưng… đó là điều ở trong đáy lòng tôi. Cảm thấy bồn chồn, tự nhiên tôi thấy tất cả đều phi lý và trong giây phút như mê ấy, tôi vẫn chưa định thần để nhớ cho kỹ lại, liệu mình đang làm gì? đang ở đâu? và có chuyện chi đang xảy tới. Cảm giác nghẹn ngào xâm chiếm và đè nặng trĩu. Tôi bùi ngùi nói bâng quơ như khấn vái: “Trung tá Minh ơi! Tôi viết bài đề cao tiểu đoàn Trâu Ðiên và viết về Trung tá đây này”. Tôi trịnh trọng trải tờ báo lên nắp quan tài và lấy cái nón bê rê xanh đè chặn lên cho gió khỏi bay. Tôi tưởng như Lê Hằng Minh đang tủm tỉm cười với tôi, một nụ cười ma quái xuyên qua nắp chiếc áo quan… vô lý ấy.

Lòng không định mà tôi đột nhiên đứng nghiêm rất thẳng người để chào anh lần cuối, nước mắt lại ứa ra. Tôi khấn vái lần nữa: “Anh Minh hãy phù hộ cho tôi có nhiều cơ hội đi với các bạn đồng đội của anh, để viết thật nhiều, viết thật đều, để cho triệu người ở phần đất này thông cảm được sự gian khổ của những người lính chiến hôm qua còn đây, hôm nay đã ra người thiên cổ. Có trông thấy cảnh này mới thương đến người chiến binh”.

Tôi cố tưởng tượng và hình dung lại con người anh rồi đột ngột hỏi thăm một Tr/Úy Cọp Biển đứng gác quan tài rằng: “Trung Tá bị… vào đâu?”. Chẳng hiểu tôi là cái “thống chế” gì mà hỏi dồn dập và hơi có vẻ “vô lễ” như vậy, người sĩ quan lắc đầu đáp giọng bùi ngùi: “Ông bị hai phát vào ngực. Tụi nó còn quất thêm một tạc đạn, miểng tạc đạn phá bể sọ”. Tôi rùng mình liên tưởng đến phút giao tranh ác liệt, Tr/Tá Lê Hằng Minh tả xung hữu đột giữa đám cuồng tín như thú dữ. Ông đã bắn đến viên đạn chót và đã gục ngã anh dũng như tất cả các chiến sĩ Cọp Biển từng hi sinh tô thắm cho lá cờ binh chủng, ngày thêm nổi bật truyền thống oai hùng của đoàn quân Cọp Biển”.

Nói Về Một Người Chết là những cảm xúc của nghệ sĩ Tô Kiều Ngân trong bài tạp ghi đăng trên báo năm 1966: “Ðêm văn nghệ đã tàn, anh em TQLC dừng quân tại Kontum tỏ ra hả hê, thoải mái với một chương trình ca vũ hào hứng. Trong ánh sáng mờ mờ, chen giữa những tiếng nhạc dặt dìu, bỗng xuất hiện một người: mắt to, tóc ngắn, quần áo cọp biển, chiếc lon Thiếu tá gắn nơi ngực, bộ râu mép rất xanh, ông ta tới gần ban nhạc, cầm lấy cây lục huyền cầm. Hình ảnh đó chẳng có gì đẹp, vì dáng dấp, quần áo của con người đó đi kèm với chiếc đàn lục huyền quả thật là một cuộc hôn phối không cân xứng. Nhưng tôi giật mình, trước mắt tôi bỗng hiện ra một chân trời chói chang nắng vàng, rồi tiếng hát của bọn du mục giang hồ, những trái cam mọng đỏ, gió của sa mạc, rồi những cuộc đấu bò rừng, tiếng castagnettes reo đều trong tay cô gái Tây Ban Nha quay đều lả lướt.

Mọi người đều ngồi im, hướng về người chiến sĩ đang đàn kia. Ðầu anh hơi cúi thấp, đôi mắt anh ban nãy to và sáng, bây giờ bỗng trở nên dịu hiền. Anh như không chú ý đến mọi người, năm ngón tay lướt trên cần đàn, năm ngón kia búng vào sáu dây gợi lên những tiếng sóng vỗ, mưa sa.

Thật là “thế gian bất hiểu tài hoa khách”. Ðất Kontum giá lạnh, heo hút này đã mang đến cho tôi một bất ngờ. Sau đêm đó, tôi biết anh ta là Hằng Minh, Thiếu tá Lê Hằng Minh, Chiến đoàn phó Chiến đoàn A/ TQLC.

Trở về Sài Gòn, tôi gửi sách lên tặng Minh, Minh viết thư về cho tôi nói rằng rất nhớ “tiếng sáo ru hồn” và Minh gởi cho tôi mấy bản nhạc để trình bày ở Ðài Phát Thanh. Yêu cầu đó đã được đáp ứng. Một chiều hành quân nào đó, Minh đã được nghe vọng ra tiền tuyến tiếng hát của Mai Hương trình bày bài nhạc của anh.

Ít lâu sau, tôi được tin Minh đi đánh giặc ở Bồng Sơn, Phú Yên rồi mới đây, tôi gặp Minh ở Ðà Nẵng trong những ngày khó khăn nhất của tình hình đất nước. Vẫn mớ tóc ngắn, đôi mắt to, bộ râu mép xanh rì, nụ cười hiền hậu. Thì ra Cọp biển bơi hoài, nay Kontum, mai Bồng Sơn, ngày kia đã dạt ra Ðà Nẵng. Gặp nhau ngắn ngủi, chia tay không kịp hẹn hò thì hôm qua đây, Huy Phương đột ngột báo tin cho tôi:

– Anh ơi! Ông Hằng Minh chết rồi.

Tôi sửng sốt, người lặng đi, gai ốc nổi cùng mình. Hằng Minh chết rồi ư? Tôi sững sờ như chưa khi nào nghe tin có người chết mà sững sờ như thế, kể cả lúc tôi nghe tin hai bà má tôi kế tiếp nhau qua đời trong vòng một tháng. Bà mẹ tôi như lá vàng, Hằng Minh là chiếc lá đương xanh.

Buổi chiều ngồi trong quán nước đường Lê Lợi, hai người bạn nói chuyện với nhau về lẽ sống chết ở đời. Có những người bạn vừa cụng ly với ta chiều nay, sáng mai lại đã vĩnh viễn nằm yên, giã từ tất cả. Chuyện đó bây giờ xảy ra như cơm bữa.

Tôi chợt nhớ tới Hằng Minh, người chiến sĩ vừa đánh giặc vừa đánh đàn. Lê Hằng Minh là chiến sĩ, chiến sĩ thì sống chết là chuyện thường nhưng giá Hằng Minh đừng có ngón đàn tuyệt diệu, đừng có một tâm hồn tràn đầy yêu thương thì khi nghe tin anh chết, sự ngậm ngùi cũng không đến nỗi nhiều như thế!”.

Sau ngày cố Tr/T Lê Hằng Minh tử trận, Tổng cục chiến tranh chính trị có cho phát thanh một số chương trình “Thơ và nhạc Lê Hằng Minh”, trích từ những bài thơ và nhạc phẩm do ông sáng tác về tình yêu, tình bạn và đời quân ngũ trên làn sóng Ðài phát thanh Quân đội ở Sài Gòn để tưởng niệm đến một anh hùng mũ xanh đã nằm xuống vì Tổ quốc và dân tộc Việt Nam.

Dẫu cũng là người trai trong thời ly loạn, đã là chiến sĩ cầm súng giữ biên cương, tất cả đều xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng chấp nhận tử sinh bất cứ giờ phút nào xảy đến với mình nhưng Thiếu tá Lê Minh Ðảo lúc ấy không thể nào ngăn được lòng xót đau khôn cùng trước sự ra đi vĩnh viễn của người em trai thân yêu. Ông đã khóc bằng những giọt lệ đau lòng khi viết nên những dòng chữ hết mực thương yêu:

Minh,

Anh ghi lại cuộc đời em trong khi em đã nằm yên nghỉ dưới lòng đất nước Việt Nam thân yêu, điêu linh và tang tóc này.

“Vì quốc vong thân”, em để lại cho quốc gia này bao nuối tiếc, cho thế hệ 1966 một gương sáng soi chung cùng với một sự thiệt thòi to tát. Quân lực VNCH mất đi một chiến hữu oai hùng, một cán bộ chỉ huy ưu tú, lỗi lạc và gan lì… Văn nghệ Việt Nam mất đi một nhân tài có ngón đàn tuyệt diệu, một thi nhân với những dòng thơ đa cảm tràn đầy yêu thương.

Gia đình chúng ta, lúc em còn sống, tình thương của em, em ban hết cho tất cả mọi người, sự hi sinh của em vô bờ bến. Cho nên, mất em, gia đình mất tất cả, những người còn ở lại không còn đủ nghị lực để tin tưởng vào ngày mai. Riêng anh, sự mất mát thật quá ư lớn lao và tàn nhẫn. Anh mất một đứa em hiền hòa, hiếu thảo, một chiến hữu anh hùng tài ba, một “Bá Nha của Tử Kỳ”, một người tri kỷ… Thật vậy, không ai hiểu anh bằng em, cũng như không ai biết rõ em bằng anh.

Em giã từ thế gian giữa tuổi “hoa niên” đầy mộng mơ, huy hoàng. Bao nhiêu người hướng về em, tin tưởng ở tương lai rực rỡ của em. Thế mà đành phải khóc em, khóc cho con người tài hoa bạc số!

Em như một vì sao. Sáng quá! Rực rỡ quá! Ánh sáng làm lóa mắt mọi người. Tất cả đều hướng nhìn em đang vượt thẳng tít lên cao và tan biến trong vũ trụ bao la để cho mọi người phải bàng hoàng, ngẩn ngơ, tiếc rẻ. Em đã tự tạo cho em một sự nghiệp vĩ đại làm hãnh diện cho gia đình, cho gia tộc họ Lê. Những đời sau này chưa chắc gì con cháu chúng ta sẽ làm được như em.

Hầu hết nhân vật trọng yếu của Quốc Gia mến tiếc em, phúng điếu và đưa linh cữu em đến nơi an nghỉ cuối cùng. Báo chí ngoại quốc và Việt Nam ca tụng em, dành cho em những hàng Tít lớn. Ðài Phát thanh dành những chương trình đặc biệt ca ngợi và thương tiếc người chiến sĩ anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng anh nghĩ rằng: “Nói đến Lê Hằng Minh mà chỉ nói đến phương diện ái quốc và nghệ thuật không chưa đủ. Lê Hằng Minh còn có nhiều đức tính cao quý khác. Cuộc sống nội tâm của Hằng Minh chứa đầy những u ẩn, dồn ép của một con người đa sầu đa cảm, quảng đại và vị tha, đem tình thương của mình ban cho tất cả mọi người…”.

Ðó là những lời xúc cảm với muôn vàn đau đớn tiếc thương của Th/Tá Lê Minh Ðảo khi ông chợt nghe tin em trai mình vừa anh dũng hi sinh.

Và trên những tờ nhật báo Sống, Tiền tuyến… với những tin tức đang sôi bỏng ngoài chiến trường trong thời điểm đó, đã ghi lại bài phóng sự tường thuật: Trận phục kích Thần Sầu Quỷ Khốc của T.Ð. Trâu Ðiên như sau:

“Chúng tôi đến thăm trận địa giữa lúc xác địch máu đỏ còn bốc hơi, nằm ngổn ngang dọc đường rầy xe lửa, lẫn bên tử thi của các chiến sĩ Cọp Biển thuộc T.Ð. Trâu Ðiên gục ngã kế bên thân địch, điều đó chứng tỏ quân ta đã đánh cận chiến với quân xung phong của VC cho tới phút thở hơi cuối cùng.

Nhìn chung quanh là những dãy đồi trọc chập chùng bát ngát chạy dài tới vùng Cận Sơn. Ðịch chém vè tẩu thoát về phía núi nhưng binh lực TQLC Mỹ, Thiết giáp và các thiên thần mũ đỏ thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đã được trực thăng vận cấp kỳ nhảy xuống trận địa và tiến sâu vào lòng núi để chận đường rút của địch.

VC phục kích hai mặt dồn ta lọt vào tầm súng địch.

Phòng tuyến bố trí của VC dài 3 cây số. Nơi được chọn làm chiến trường nằm gần ranh giới Quảng Trị – Thừa Thiên, cách Huế 34 cây số. Ðịch nằm ôm lấy con đường số 1. Chúng phục cả hai bên đường. Bên tay mặt, chúng ẩn nấp sau bụi rậm, bố trí SKZ và súng thượng liên khai hỏa bắn ngay vào quân xa gồm 27 chiếc chuyên chở toàn bộ T.Ð. Trâu Ðiên xuất phát từ Huế khoảng 7 giờ sáng 29/6/66.

Tiểu đoàn này có nhiệm vụ ra Ðông Hà dự cuộc hành quân hỗn hợp với Ðồng Minh (T.Ð. này cũng vừa tạo thành chiến tích Phù Lưu đè bẹp T.Ð. 808 VC). Khi súng địch nổ bùng, các chiến sĩ Trâu Ðiên phản ứng tự nhiên bằng cách nhảy khỏi xe, tràn qua tay trái băng qua đồng trống lối vài chục thước để chiếm lãnh cao địa VC là dãy đường rầy xe lửa.

Nhưng địch đã nằm đầy nhóc tại phía này và quân ta đã chạy thẳng vào đúng tầm súng của quân xung phong VC. Trong trường hợp thất thế này chỉ một phút lúng túng là toàn T.Ð. sẽ tan rã trong nháy mắt. Khi mà SKZ nổ từng loạt bắn cháy ngay trong 5 phút đầu 14 xe ngút lửa, khi mà phía địch quét ra hàng loạt thượng liên bắn như mưa rào. Chạy qua phía trái thì đụng vào lưới lửa tập trung hỏa lực của địch đã nắm ưu thế địa hình chọn lựa từ trước. Nhưng Tr/T Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng T.Ð. Trâu Ðiên đã tỉnh táo nhận rõ lối mai phục của địch bố trí cả 2 bên đường. Như vậy tầm súng của địch phía đường rầy có thể bắn vào đồng chí của chúng phía bên kia mặt đường sau bụi rậm. Quả đã rõ ràng là VC chỉ bắn thật sự khoảng 5 phút mở màn trận đánh và khi ta nhào qua phía đường rầy xe lửa, thì bọn VC bên này chỉ bắn với mục đích dùng tiếng nổ uy hiếp tinh thần quân ta, xua quân ta chạy về phía bố trí hỏa lực chính của địch. Nhận định tổng quát toàn bộ chiến trường với phản ứng chớp nhoáng, Tr/T Lê Hằng Minh ra lệnh cho Ðại úy tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Hay mang toán quân thoát hiểm sau đợt SKZ phủ đầu dồn toàn lực băng qua đường vượt qua đám lửa khét lẹt mùi xăng và thịt người chết cháy, để xung phong đánh thốc vào phòng tuyến của VC nằm phía bụi rậm. Nếu VC thật sự bắn theo đường bắn thẳng thì chúng sẽ quạt vào quân của chúng đang rời khỏi đường rầy xe lửa để xông vào đánh cận chiến với các chiến sĩ Cọp Biển từ trên đoàn xe bốc cháy nhảy xuống xáp chiến giữa làn sóng biển người của đối phương.

Bên cạnh Tr/T Lê Hằng Minh còn có một trung đội cảm tử có nhiệm vụ bảo vệ cho Ban Chỉ huy TÐ, nhưng các chiến sĩ cảm tử này đã bị hàng trăm quyết tử VC cố ý nhắm vào bộ phận đầu não của ta để lao vào tiêu diệt dù phải đổi giá đắt. Trung Tá Lê Hằng Minh, người chiến sĩ Cọp Biển, anh cả của TÐ2/ TQLC với 31 tuổi xuân tràn đầy nhựa sống ấy đã oanh liệt gục ngã sau khi điều động toàn tiểu đoàn lật ngược thế cờ phản kích địch và giật lại thế chủ động chiến trường.

Ðể giúp bạn đọc có một khái niệm tổng quát về trận phản kích của VC trên quốc lộ 1 ngày 29/6/66, chúng tôi xin lược thuật vài nét chính như sau:

Lực lượng VC gồm có Tiểu đoàn chính quy 800 được tăng cường thêm Ð.Ð. Phòng không C-15 gồm súng nặng 12 ly 7 và đại liên 50 có bánh xe, tăng cường thêm Ð.Ð. C-16 gồm súng cối 82 ly, SKZ 57 ly và 2 cây đại bác 75 ly. Ðơn vị này nhắm đánh xe tăng và yểm trợ cho quân xung phong khi tiến cũng như lúc giải quyết chiến trường. Tăng cường thêm Ð.Ð. C-13 gồm bộ phận truyền tin, điện thoại… Quân số VC tham dự trận phục kích gồm 700 người cộng thêm quân du kích địa phương thuộc đơn vị H99 trang bị các võ khí như carbin garant M1 FM 24×29 v.v… Trận phục kích vận động chiến của VC áp dụng theo kế hoạch chặt đứt đầu (Ð.Ð.1 của Ðại úy Trần Kim Hoàng & Ð.Ð.3 của Trung úy Ðinh Xuân Lãm), cắt làm đôi, rồi khóa chặt đuôi (Ð.Ð.2 của Ðại úy Nguyễn Văn Hay & Ð.Ð.4 của Ðại úy Nguyễn Xuân Phúc) để tiêu diệt bộ phận giữa (Bộ Chỉ huy & Tiểu đoàn trưởng TÐ2).

Trận phục kích này, TÐ. Trâu Ðiên đã phản phục kích thật dữ dội kinh hoàng. Ðánh hết sức mình nhưng sức người có hạn, Tr/T Lê Hằng Minh cùng một số chiến sĩ anh dũng khác như Chuẩn úy Cầu v.v… đã gục ngã sau khi chọc thủng phòng tuyến địch và kịp điều động các chiến sĩ Cọp Biển còn sống sót tập trung binh hỏa lực đánh thốc ngược trở lại phòng tuyến thứ hai của VC. Chắc chắn là cho tới giờ nhắm mắt, Tr/T Minh cũng còn đủ trí minh mẫn để… chết trong niềm hãnh diện vì thế chiến thắng đã lật ngược được ngay sau 15 phút giao tranh và Tr/T Lê Hằng Minh đã oanh liệt đền nợ nước vào phút thứ 30.

Chính vì phản ứng mau lẹ, nhận định tổng quát trận địa và nắm được ý của địch, nên trận phục kích mà VC đã công phu mai phục từ 2 giờ sáng với quân số đông đảo, hỏa lực hùng hậu, chúng tin chắc chỉ sau 10 phút phát hỏa là hơn 400 chiến sĩ Cọp Biển sẽ rơi vào lưới lửa của VC. Kết quả sẽ là phân nửa bị hạ ngay đợt súng đầu tiên và một phân nửa bị lùa đi vì lọt vào giữa “tổ ong” trùng điệp ngập quân thù và… đơn vị tiếp ứng nếu kịp lên tới trận địa thì nhiệm vụ của họ là đi lượm xác đồng đội và lo dập tắt đám cháy của đoàn GMC trúng SKZ 57 ly.

Nhưng kết quả trái lại. Ðại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1, đã phải nói thành thật rằng trong đời binh nghiệp của ông, kể cả hồi Pháp, chưa hề thấy trận phục kích nào lại biến thành trận phản kích tuyệt vời như trận đánh trên cây số 34, tại quốc lộ 1 ngày 29/6/66 vừa qua.

Dù đã bị thất thế, trong lúc VC mai phục ở vị trí do chính địch chọn lựa. Quân ta ngồi trên xe, SKZ bắn loạt mở đầu bên ta đã bị trúng đạn 14 xe. Tuy vậy, ai gục thì… đành chịu, còn lại tỉnh táo dựa lưng vào nhau tác chiến ngay…”

(Trích ghi từ phần phóng sự chiến trường)

Vì thế với sự phục kích đại quy mô, lực lượng hùng hậu là một Trung đoàn VC với sự chủ động chọn lựa địa hình mọi ưu thế nắm chắc cùng khẩu hiệu “phải chuẩn bị thật chắc ăn mới đánh” không ngờ gặp sự xung phong chiến đấu dũng mãnh của các chiến sĩ Trâu Ðiên TÐ2/ TQLC cùng sự tài tình đảm lược của vị Tiểu đoàn trưởng khét tiếng đã biến thành trận phản kích lẫy lừng lần thứ nhất tạo thành trên chiến địa Việt Nam.

Khi TÐT Lê Hằng Minh vừa gục ngã cũng là lúc bại quân VC đang cố tìm đường tháo chạy về hướng núi Hồ Bơi, Cánh Giơi v.v… Nhưng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đã kịp thời bám sát truy lùng, chận đường tẩu thoát của địch. Giữa lúc trận đánh đang tiếp diễn các cánh quân của Nhảy Dù, Trung đoàn 3, Thiết quân vận M 113, Thủy quân lục chiến Mỹ đang rượt địch thì tướng Walt, Tư lệnh Cọp Biển Hoa Kỳ đã ngồi trực thăng đi quan sát chiến trường. Mặt khác tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn I cũng cùng với Ðại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I ngồi trực thăng theo sát trận địa. Tướng Walt từ trên nhìn xuống ở ven sông thấy có hai xác VC nằm chết gục bên cây đại bác 75 ly khổng lồ, Tướng Walt thận trọng cho gọi một đơn vị Cọp Biển, có thêm đoàn quân khuyển trực thăng vận xuống bao quanh khu vực này. Sau đó chính tướng Walt đã hạ cánh xuống nơi có cây đại bác 75 và tịch thu mang về Bộ Chỉ huy.

Chỉ trong vòng một tuần lễ với ba chiến thắng Lam Sơn 283 (Phù Lưu – Gia Ðặng); 284 truy kích tiểu đoàn 808 VC và 285 là trận phản phục kích thần sầu của Tiểu đoàn Trâu Ðiên tại mặt trận miền Trung đã vang dội khắp các chiến trường. Ðể viết nên những trang sử xanh này, Trung tá Lê Hằng Minh cùng một số các chiến sĩ oai hùng khác… đã vĩnh viễn ra đi từ chốn Tử Sinh!

Ðến đây, tôi cố hình dung ra buổi sáng kinh hoàng và đầy máu lệ hôm ấy. Một buổi sáng mai còn tươi đẹp ánh nắng vàng rực rỡ. Trên con đường quốc lộ số 1 chạy dài từ Huế ra đến Quảng Trị – Ðông Hà, khói lửa đã bùng lên nơi đoạn đường Cầu Phò Trạch, Phong Ðiền – Thừa Thiên trên cây số 34. Trận chiến diễn ra thật khốc liệt chỉ hơn nửa tiếng thời gian nhưng đã lấy đi bao mạng sống con người và gây ra bao cảnh tang thương, từng ngày từng giờ trên quê hương điêu linh khốn khổ Việt Nam. Ðã bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đã nằm xuống như những người vừa ngã xuống nơi đây. Dòng máu thanh xuân của họ đã chảy thắm trên mảnh đất cằn khô quê mẹ cho mạch sống tương lai được thêm phần tốt tươi. Những giờ phút kinh hoàng đau thương ấy chỉ diễn ra ngoài trận địa. Hậu phương, thành phố nơi tôi đang yên vui cắp sách đến trường, chỉ biết hồn nhiên với khung trời tuổi nhỏ, sống cuộc đời êm ả trong mái ấm gia đình. Làm sao có thể biết rõ và thấu hiểu hết được sự hi sinh như thế nào của những người lính chiến và những tàn phá khổ đau trên quê hương khói lửa triền miên ngày ấy.

Người chiến sĩ Lê Hằng Minh đã hiên ngang chiến đấu dưới màu cờ cùng đồng đội, chiến hữu. Và trong buổi sáng đẹp trời hôm đó, anh đã ra đi, dũng cảm và liệt oanh khi tuổi đời thanh niên của anh đang tràn đầy sức sống mạnh mẽ, trẻ trung. Chiếc đàn Guitaire yêu quý mà anh luôn mang theo bên mình cũng đã vỡ tan trước mũi súng quân thù. Cuối tháng sáu, gió Hạ Lào đang thổi về như tiếng mẹ ru buồn bay lướt trên những dãy đồi trọc trống vắng quạnh hiu. Hồn anh du nhập theo bóng núi Trường Sơn trùng trùng ngạo nghễ, để lại xác thân bên ven bờ quốc lộ 1 những niềm đau nuối tiếc sống cuộc đời chưa phỉ, chưa đành đoạn xa rời những người thân yêu quý, xin cho trôi ra dòng biển lớn bao la trước mặt, rửa sạch hết những hờn đau của một kiếp người.

Nắng vàng tươi của buổi sớm mai đang trải rộng mênh mông trên mảnh đất cằn khô sỏi đá, tiễn đưa những người chiến sĩ đã sống và vừa chết cho quê hương. Những người con của Mẹ đã ra đi và nằm xuống, nhưng khí hùng bất tử của các anh vẫn là những giọt nắng vàng tươi lấp lánh và chiếu sáng trong hồn Dân tộc, trong lòng những người còn lại hôm nay và mãi đến muôn đời sau. Trung tá Lê Hằng Minh đã anh dũng đền xong nợ nước vào lúc 8 giờ 50 phút sáng tại chiến trường miền Trung năm 31 tuổi, ngày 29 tháng 6 năm 1966, trong bao niềm tiếc thương của bạn bè, thượng cấp và đồng đội chiến hữu khắp các đơn vị.

Chiều hôm sau, chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ quốc đã đưa người chiến sĩ Lê Hằng Minh về Sài Gòn. Chiều hôm ấy mưa rơi tầm tã, gió lạnh tơi bời như những niềm đau cắt ruột của những người thân trong gia đình vừa mất đi một người con, người em, người anh thương yêu. Người mẹ đã cho đi bốn người con trai (Lê Minh Ðảo, Lê Hằng Minh, Lê Hằng Nghi, Lê Quang Thạch) vào trong Quân ngũ. Sau này đã khóc trước sự ra đi vĩnh viễn của 2 người con (Tr/T LHM & T/S LQT) cùng năm tháng mòn mỏi đợi chờ 2 người con còn lại trong lao tù Cộng sản mười mấy năm dài sau biến cố lịch sử 30/4/75 (Thiếu Tướng LMÐ & Ðại úy LHN). Chiếc quan tài buồn đã được đưa về ngôi nhà mà Tr/T LHM đã được sinh ra và lớn lên ở Hàng Keo – Gia Ðịnh. Người Mẹ đã một thân Cò nuôi dưỡng một đàn con với bao dòng nước mắt đau khổ chảy xuôi. Hôm nay thêm một lần chảy xuống thành dòng máu lệ trong trái tim của người mẹ hiền già nua héo hắt! Mọi người trong gia tộc đều thương tiếc và yêu thương LHM đến nỗi cho sơn chiếc quan tài màu trắng là màu ông rất ưa thích lúc sinh thời. Họ đều không được nhìn mặt ông lần cuối mà chỉ biết ôm lấy chiếc quan tài đã phủ kín xác thân, than khóc tiếc thương. Ðám tang của ông được cử hành trọng thể, trang nghiêm với các lễ nghi quân cách, Tổ quốc ghi công, và an táng tại nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi – Sài Gòn. Cố Tr/T Lê Hằng Minh được ân thưởng: Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương, Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương, với nhiều Anh Dũng Bội Tinh, Nhành Dương Liễu, Ngôi Sao Vàng, Bạc và nhiều huy chương khác của QLVNCH.

Trên mộ là bức hình cố Trung tá Lê Hằng Minh mặc quân phục, đội nón sắt (do một phóng viên người Mỹ chụp và đăng hình trên báo Marine Corps Gazette & Time News) cùng khắc hai câu thơ “Vì tôi là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về”. Bởi ông đã chọn đời binh nghiệp, hiến cuộc đời cho Tổ quốc, sẵn sàng chấp nhận hi sinh nên đã không dám nghĩ đến tình riêng, sợ vướng khổ cho cuộc đời cô nhi quả phụ nên khi chết vẫn còn độc thân, chưa lập gia đình. Cái chết của Tr/T Lê Hằng Minh đã là một cái tang xót đau lớn cho gia đình, ngờ đâu 6 tháng sau lại thêm sự ra đi vĩnh viễn của người em gái kế là Lê Mộng Huyền đang là một cô giáo hiền hòa tươi trẻ (dạy học trường Quốc Gia Nghĩa Tử), vì không chịu nổi sự buồn đau trước cái chết đột ngột của người anh ruột mà cô hết lòng yêu kính.

Là một sĩ quan ưu tú của quân đội, là một nghệ sĩ vui tính với ngón đàn tuyệt diệu. Tr/T Lê Hằng Minh còn là một người con rất hiếu thảo với mẹ. Dường như ông biết đời lính chiến của mình có thể ra đi bất cứ lúc nào nên ông đã viết một lá thư tỏ bày sự kính yêu cùng một khoản tiền dành dụm được lúc du học ở Hoa Kỳ, để lại cho mẹ sau ngày ông mất đi. Và đây là những dòng hồi ký ông đã ghi lại những cảm xúc và tâm tình lúc bé thơ, thể hiện một con người đa cảm và nhân ái:

“Ngày… tháng… năm…

Bệnh viện Nguyễn Văn Học tục gọi là bệnh viện nhà nước hay nhà thương thí cũng thế. Anh em mình lớn lên bên bệnh viện này, liên hệ mật thiết với nó như bóng với hình. Mình chào đời vào lúc 8 giờ tối ngày 18/5/1935 tức (16/4 năm Ất Hợi) trong khu Bảo sinh, phòng dành cho công chức, do bà sáu Nhiều đứng đỡ…

Hầu như mình thuộc nằm lòng vị trí của bệnh viện, nào là phòng khám bệnh, phát thuốc, trại 1, trại 2, trại 3, trại 4, trại 5, trại 7, trại Bùi Văn Lố và trại bảo sanh. Sở dĩ mình nhớ như vậy vì bao lần má sinh các em, nào lúc ba bệnh, những khi mình ốm đau đều nhờ nó cả!

Mình lớn khôn, đi xa, thấy rộng, mình có cảm tưởng càng ngày bệnh viện càng nhỏ hẹp lại, cằn cỗi, già… theo má mình vậy!

Mỗi lần đi xa trở về, đi ngang bệnh viện, mình trìu mến nhìn, có ý thưa: “Con mới về đây”.

Ngoài má ra, bệnh viện này là bà mẹ thứ hai có công ơn nuôi dưỡng anh em mình khôn lớn khỏe mạnh đến ngày nay!”

“Ngày… tháng… năm…

Ðến trường

Sáng hôm ấy, vào năm 1940, mình được má đưa đến trường Mac Ferrando – Gia Ðịnh.

Ðêm trước, mình thấy nao nao, cảm giác là lạ khi nghe ngày mai mình phải đi học. Mình thấy ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư đều bận rộn việc đi học của mình. Nhứt là anh Tư *, anh vỗ tay dí vào mũi mình, vừa nhảy cà tửng vừa chộ mình. “Ê, mai mày đi học rồi. Ê, ê…”. Mình nghĩ có lẽ vì ảnh đi học mà mình ở nhà đi chơi với anh Xái nên ảnh tị, bây giờ nghe mình đi học ảnh khoái lắm!

Sáng sớm, bị ba đánh thức rất sớm, mình ăn lót lòng cháo trắng với đường, ba cho mình “hai đồng nửa xu” mới tinh, tay ôm cuốn dầu “con thỏ và con rùa”, tay phải nắm tay má rụt rè tới trường… thỉnh thoảng mình buông tay má vạch túi xem hai đồng nửa xu còn không.

Ðến cổng trường, trời… học trò sao mà đông thế. Những đứa lớn đùa giỡn, la lối, rượt bắt nhau như ong vỡ tổ. Mặt mình lúc ấy hình như mếu rồi, mình sợ quá nắm tay má thật chặt, mặt cứ rúc vào tà áo dài bằng hàng trắng thật mới của má, mình ngửi mùi hàng thấy ngọt ngào làm sao! Có những tên lạ cũng mếu, ngơ ngác theo ba má chúng đi xin học như mình!

Trước căn phòng hiệu trưởng, nhiều người dìu con đi học nên có sự chen lấn xảy ra. Có một tên chèn mình vì bị ba nó kéo lên phía trước… Suýt chút bị sút tay khỏi tay má, mình sợ lạc má nên vội thúc vào hông nó thật mạnh khiến hắn khóc ré lên…

Ðến phiên mình vào, trời khiếp, ông Ðốc Mão sao to béo thế. Ông cầm đơn xin học của mình đoạn nhướng mắt nhìn mình qua làn kính trắng, giọng oang oang hỏi má: “Trò Minh chưa đủ tuổi mà học cái gì?”. Má vội đưa tấm danh thiếp giới thiệu của ông Dournot, thanh tra người Pháp, ông này quen với ba sao đó. Bấy giờ ông Ðốc Mão “dịu giọng” ngay: “Thôi được” và ra lệnh người tùy phái dẫn má và mình đến lớp năm A gặp thầy Phước làm mình thất vọng quá. Ðang hi vọng trở về vì chưa đúng tuổi! Mặt méo xẹo, riu ríu theo má đi gặp thầy Phước, tay ông đang cầm cây thước nhịp nhịp vào không khí, mình thấy ông ta nghiêm quá, vội rúc vào lòng má, ôm chân má thật chắc. Thầy Phước khẽ cười, cúi đầu đáp lễ má và nói: “Dạ, bà giao em cho tôi”, tay thì nắm lấy tay mình kéo đi, mình khóc rú lên “má ở đây má ơi!”, má cười gượng, gỡ tay mình đang ôm đùi má và an ủi mình: “Không sao đâu con, má phải về còn đi chợ nữa chớ”. Mình cố gào thét nhưng vô hiệu!

Má đi rồi, thầy Phước vừa dỗ vừa dọa, tay ông cầm cây thước dọa dọa. Không còn má, mình thấy bơ vơ trong thế giới của học đường và sợ hãi trước ông giáo xa lạ, mình hết dám khóc. Thầy Phước dìu mình đến ngồi bàn thứ hai.

Mình lấy tay áo mới, chùi mắt và mũi, khẽ liếc chung quanh, thấy các bộ mặt “mếu” chẳng khác gì mình, chúng đang lấm lét nhìn ông thầy. Mình thấy dường như vừa mất mát cái gì to lớn lắm!

(*) (Anh Tư: Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo)

Ngày… tháng… năm…

Ngày bãi trường đầu tiên

Mình làm quen thế giới học đường được một năm rồi, sau kỳ thi tất cả 52 đứa đều được lên lớp tư. Không biết thông lệ từ hồi nào, ngày bãi trường là học sinh đóng tiền liên hoan đãi Thầy do các tên lớn đề xướng và tổ chức.

Hôm ấy, từ lớp tư trở lên đều liên hoan rầm rộ. Còn lớp mình im ru buồn hiu vì toàn là bé con. Chẳng có tên nào lãnh đạo, thành lớp mình buồn hơn đám ma!

Có lẽ cảm thấy nỗi buồn ấy, hơn nữa sắp xa đám học trò, các tác phẩm do chính tay mình gầy dựng cả năm trời… bất thần có tiếng leng keng của người Tàu già bán kẹo đục đi qua. Thầy Phước vội kêu vào bảo đục 53 phần kẹo, mỗi phần một xu!

Năm mươi ba phần kẹo được đục xong, thầy Phước móc bóp đếm cẩn thận năm tờ giấy một cắc và ba đồng xu, trả tiền kẹo, tay run run…

Lúc ấy, mình hết nhìn người bán kẹo lại nhìn thầy Phước, xong lại nhìn 53 phần kẹo, miệng nuốt nước bọt. Mình thấy thương thầy Phước quá, bao nhiêu lần bị phạt, bị đòn trong năm đều tiêu tan hết…

Thầy Phước tay chắp sau đít, đi qua đi lại như bao ngày, ông ho gằn mấy tiếng có lẽ vì cảm động, đoạn nói: “Các em, hôm nay ngày bãi trường, thầy trò mình bắt đầu xa nhau… Hôm nay, thầy đãi các em một xu kẹo đục, bắt đầu trò Ẩn đi lên lần lượt lãnh kẹo”. Tụi mình lãnh hết, còn lại một phần, ông cầm lấy và ra lệnh ăn. Ðứa nào đứa nấy mặt hớn hở nhìn Thầy đầy trìu mến!

Trong đời mình, có lẽ không có bữa tiệc nào quý và cảm động bằng một xu kẹo đục của thầy Phước…”

Tâm hồn Lê Hằng Minh giàu cảm tình và nhân hậu là thế, nên khi hồi tưởng lại giây phút tôi gặp chú lúc đi lạc giữa súng ống và binh lính ngổn ngang, sợ hãi đứng khóc một mình trong ngày biến cố đảo chánh ở thành Cộng Hòa. Ðang là vị sĩ quan chỉ huy và cũng chắc rất đang bận rộn với những trách nhiệm của mình, vậy mà chú cũng đến bên tôi, dỗ dành cho nín khóc và đưa về tận nhà. Ðó là hình ảnh tôi không quên qua nghĩa cử của một người có tấm lòng nhân ái đối với trẻ em. Và cũng từ cơ duyên đó, 38 năm sau tôi mới có dịp viết, vẽ lại chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa cao đẹp qua hình ảnh cố Trung tá Lê Hằng Minh.

Chú Minh ơi, sau khi cánh cổng rào nhà cháu khép lại, là từ đó cháu không bao giờ còn gặp lại chú nữa. Nhưng hôm ấy, cháu còn giữ lại nơi chú một nụ cười trìu mến vỗ về, dù cháu đã hết sợ và nín khóc từ lúc mới gặp chú. Cả ngày hôm đó, con bé tám tuổi vẫn nhớ tới chú vì còn giữ mấy cánh hoa sứ trắng trong túi áo mà chú đã nhặt và hái cho. Cháu đã đem ép vào những cuốn sách mà cháu yêu thích nhất vì nghĩ hương thơm hoa sứ sẽ còn hoài trên những trang sách.

BÀI DIỄN VĂN HAY NHẤT

.

Tác giả : Luật Sư Georges Graham Vest (1830-1904)
Tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ. Được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.

Thưa quý ngài hội thẩm
— Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta.
— Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là những đứa con vô ơn.
— Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành.
— Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ.
— Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể
sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận.
— Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con
người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở:
ĐÓ LÀ CON CHÓ CỦA TA.
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau.
Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.
Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó.
Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này.
Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một gã ăn mày.
Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời.
Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù….
Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ….
Thì khi ấy còn bên nấm mồ ta là con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi…

Chi Nguyen sưu tầm.

QUỐC CA VIỆT NAM CỘNG HOÀ

Thưa quý Niên trưởng và quý Chiến hữu,

Xin chuyển lại lời giải thích của cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy về diễn tiến gốc gác bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hoà, mà trước đây có một vài người “khó chịu” cho rằng QUỐC CA VIỆT NAM CỘNG HOÀ của Lưu Hưu Phước, tên cộng sản, viết, tại sao phải dùng để làm quốc ca VNCH?

Năm 1966-1967, phía Bắc Việt cũng lên đài phát thanh Hà nội ong ỏng đòi bản quyền tác giả, rồi xuyên tạc chính phủ VNCH. Chính phủ VNCH đã phản bác rằng, ” bài hát Sinh viên Hành khúc, Tiếng gọi Sinh Viên không ai phủ nhận của tác giả là Lưu Hữu Phước. Nhưng Lưu Hữu Phước sáng tác lúc còn là một học sinh Petrus Ký Sài gòn với lòng yêu nước của học sinh, sinh viên chống Pháp thời đó (1941), trước khi Phước là sinh viên học tại Hà nội năm 1942.  Bà hát này thuộc sở hữu chung của học sinh, sinh viên, thanh niên và của toàn dân. 

Năm 1941, 1942 cộng sản, hay Việt Minh chưa lòi mặt ra, chưa có tiếng nói thì làm gì có quyền đòi sở hữu bài hát này? 

VNCH đã dùng nhạc “Sinh viên Hành khúc” là tài sản chung của tòan dân, chuyển đổi lời cho phù hợp thời cuộc tranh đấu cho dân tộc độc lập, thành Tiếng gọi Công dân. Tiếng gọi công dân do một công dân VN chưa phải là cộng sản sáng tác, làm bài quốc ca của VNCH thì không có gì gọi là chiếm đoạt bản quyền của cộng sản? Phía Hà nội im re như ngậm cám!

Nhưng giặc cộng vẫn ra rả kích động, xúi giục, xuyên tạc và tìm cách vô hiệu hoá nó khỏi lòng người dân VNCH dù ở trong nước hay ở hải ngoại. Hiện nay Việt cộng có nhiều tiền do chúng ta gởi về nuôi chúng nhiều hình thức, nên chúng dùng tiền đó tung ra đánh lại cộng đồng Việt ở hải ngoại cho tan rã. Chúng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu bài quốc ca Tiếng Gọi Công Dân này và quốc kỳ VNCH. 

Chúng ta hãy cảnh giác đừng mắc mưu “vì khó chịu” mà tiếp tay giặc đánh phá lại chúng ta.

Lê Đình Thọ

QUỐC CA VIỆT NAM (GS. Nguyễn Ngọc Huy)

A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ý NIỆM QUỐC CA TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI

Ý niệm quốc ca đã từng xuất hiện một lượt với ý niệm quốc kỳ. Từ ngàn xưa, loài người đã có dùng những bản nhạc hay bài ca để đánh dấu sự có mặt của một nhơn vật lãnh đạo. Nhưng thời trước, với chế độ quân chủ, các bản nhạc hay bài hát loại này được xem là biểu tượng riêng của cá nhơn nhà vua, nhá quí tộc hoặc nhà đại diện cho các cự tộc cầm đầu cộng đồng. Về nội dung, nó có thể là một bài để cho nhơn vật lãnh đạo này cầu nguyện trời hay thần linh phù hộ ông, một bài chúc tụng ông, đề cao công nghiệp của ông hay của gia tộc ông, hay một bài mô tả cảnh thái bình thạnh trị, hoặc sự cường thạnh của cộng đồng mà ông là chủ nhơn.

Chỉ với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, khi quốc gia được xem là sở hữu của toàn thể mọi người sống trong cộng đồng mới có bài hát được dùng làm biểu tượng chung cho toàn thể quốc dân. Người Pháp đã dùng từ ngữ hymne national để chỉ loại bài hát này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đã dùng từ ngữ national anthem khi nói đến bài hát tiêu biểu cho nước mình. Hymne national của Pháp hay national anthem theo tiếng Anh đã được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc thiều nếu nhấn mạnh trên phần âm nhạc, hay quốc ca khi nhấn mạnh trên phần lời nói.

Về phần thực hiện cụ thể thì bản quốc ca đầu tiên trên thế giới là bài Marseillaise của Pháp. Bài này do một đại úy công binh Pháp tên Rouget de Lisle làm năm 1792 với tên là Chiến Ca Của Lộ Quân Sông Rhin (Chant De Guerre Pour l’Armée Du Rhin). Nhưng sau đó, nó được nổi tiếng khi được một tiểu đoàn chí nguyện quân gồm người gốc ở thị xã Marseille hát trong lúc kéo từ Marseille lên thủ đô Paris nên có tục danh là bài Marseillaise. Bài hát này đã được phổ biến rộng rãi ở Pháp từ năm 1792 và đến năm 1795, nó đã được chánh thức chọn làm quốc ca của Pháp.

Sau khi người Pháp tung ra ý niệm quốc ca, nhiều nước khác đã chấp nhận ý niệm này và đều có quốc ca. Có khi quốc ca được chọn là một bài đã được dùng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Ðó là trường hợp bài God Save The King (Trời Phù Hộ Ðức Vua) hay God Save The Queen (Trời Phù Hộ Nữ Hoàng) nếu quốc trưởng là một nữ hoàng. Bài này đã được dùng ở Anh từ trước Cách Mạng Pháp, nhưng đến năm 1825 mới được chánh thức xem là quốc ca của nước Anh.

B. CÁC BẢN NHẠC ÐÃ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC THIỀU VÀ QUỐC CA

1. Quốc ca xuất hiện đầu tiên: Bản Ðăng Ðàn Cung của Hoàng Ðế Bảo Ðại

Ở Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, có những bản nhạc và bài hát được dùng trong các lễ long trọng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Về ý niệm quốc thều hay quốc ca, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.

Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc thiều và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và khi có các cuộc lễ lớn thì bản nhạc được dùng là bài Marseillaise của người Pháp. Ở Huế thì triều đình nhà Nguyễn có một số bản nhạc được dùng khi có sự hiện diện của nhà vua. Nhưng các bản nhạc trên đây không phải là quốc thiều hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời của nó.

Ðến thời Thế Chiến II, Hoàng Ðế Bảo Ðại mới ấn định quốc thiều và quốc ca một lượt với quốc kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này là bản Ðăng Ðàn Cung. Ðó là một bản nhạc cổ điển của Việt Nam và được triều đình Huế dùng khi nhà vua ngự đến đài Nam Giao để đại diện cho tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này ba năm cử hành một lần và được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của triều đình. Do đó, bản Ðăng Ðàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm nhứt. Vì vậy, Hoàng Ðế Bảo Ðại đã dùng nó làm quốc thiều và quốc ca trong khi cờ long tinh được chọn làm quốc kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản Ðăng Ðàn Cung chỉ được dùng trên lãnh thổ Ðại Nam tức là Trung Kỳ và Bắc Kỳ, còn ở Nam Kỳ bị xem là lãnh thổ Pháp thì bản Marseillaise vẫn phải được dùng.

2. Quốc ca thứ nhì:

bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông thời chánh phủ Trần Trọng Kim

Sau khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc lập, chánh phủ Trần Trọng Kim đã ban bố một chương trình hưng quốc ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của nhạc sĩ Hùng Lân được chọn làm quốc ca. Lời ca của bản nhạc này như sau:

Việt Nam, minh châu trời Ðông!

Việt Nam, nước thiêng Tiên Rồng!

Non sông như gấm hoa uy linh một phương,

Xây vinh quang ngất cao bên Thái Bình Dương.

Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.

Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.

Máu ai còn vương cỏ hoa

Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà.

Giơ tay cương quyết,

Ta ôn lời thề ước.

Hy sinh tâm huyết

Ta báo đền ơn nước.

Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,

Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.

Bản quốc ca này được dùng chung với cờ quẻ Ly ở Bắc và Trung Việt, nhưng không được dùng ở Nam Việt vì Nam Việt đã bị người Nhựt thay người Pháp điều khiển một cách trực tiếp và chỉ được trả cho triều đình Huế lúc Hoàng Ðế Bảo Ðại đã sắp thoái vị rồi. Vậy, trong thời kỳ từ khi người Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt Trận Việt Minh củng cố được chánh quyền của nó ở Nam Việt, cả lãnh thổ này không có quốc ca.

Bài hát được người quốc gia ở Nam Việt dùng khi đứng lên tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên của Thanh Niên Tiền Phong, chung với cờ vàng sao đỏ cũng của tổ chức này.

Như chúng tôi sẽ trình bày sau đây, bản nhạc của bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên này chính là bản nhạc của bài quốc ca mà chúng ta đang dùng.

3. Quốc ca thứ ba: bản Tiến Quân Ca của tập đoàn CSVN

Khi cướp được chánh quyền, tập đoàn CSVN đã dùng làm quốc ca bản Tiến Quân Ca của nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đã được họ bắt đầu dùng khi tổ chức các đơn vị võ trang đầu tiên và cho đến nay, vẫn được họ dùng làm quốc ca.

4. Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc

Khi Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc thành lập năm 1946, những người cầm đầu phong trào Nam Kỳ Tự Trị đã dùng làm quốc ca một bản phổ nhạc của mấy câu thơ đầu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư Võ Văn Lúa, một giáo sư trung học thời Pháp thuộc. Sau đó, Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc lại dùng một bản nhạc khác cũng của vị giáo sư này làm quốc ca, nhưng về nhạc và lời, bản sau này cũng chẳng hơn gì bản trước. Các bản quốc ca quái đản trên đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng làm quốc kỳ cho Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc. Nó đã là một đề tài chế giễu của ngưoi dân Nam Việt lúc đó và ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc vì tuy hết sức lố bịch, nó đã được dùng làm biểu tượng cho một tổ chức chống lại nền thống nhứt của Việt Nam và đã gây nhiều đau khổ chết chóc cho những người tranh đấu cho nền thống nhứt này.

5. Quốc ca của chúng ta ngày nay

Bản quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc biệt. Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường trung học Pétrus Ký và sau là cựu sinh viên Viện Ðại Học Hà Nội. Nếu tôi không lầm thì bản nhạc này đã được soạn ra lúc Lưu Hữu Phước còn học ở trường Pétrus Ký năm 1941, trước khi ra Hà nội. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Ðại Học Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Ðại Học này là Viện Ðại Học duy nhứt của các nước Ðông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt Nam, còn lại là người Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một số nước láng giềng như Trung Quốc và các nước Ðông Nam Á Châu.

Vì là Viện Ðại Học duy nhứt của Ðông Dương nên Viện Ðại Học Hà Nội đã họp tập tất cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập các chánh đảng cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đã tổ chức những tổ bí mật tại đó. Ðặc biệt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng có đảng trưởng là Trương Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Ðại Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois) và anh đã lãnh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa theo chiều hướng tranh đấu chống thực dân.

Chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương (THSVÐD) đã tổ chức tại Ðại Giảng Ðường của Viện Ðại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh nhơn nghèo của các bịnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đã quyết định nhơn cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản nhạc dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đã đưa cho anh một số bài nhạc do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất cả các dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm quốc thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đấu hơn hết, nên đã chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn lời ca cho bản nhạc này đã được thành lập với Ðặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị. Lời ca này gồm ba đoạn với một điệp khúc chung:

I. Này sinh viên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi!

Ðồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối.

Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,

Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!

Hồn thanh xuân như gương trong sáng,

Ðừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!

Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,

Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá.

Ðường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,

Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

(Ðiệp khúc)

Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!

Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!

Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!

Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

II. Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xo

Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá

Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,

Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.

Hồ Tây tranh phong oai son phấn,

Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.

Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,

Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.

Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,

Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.

(Trở lại điệp khúc)

III. Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,

Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!

Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,

Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng.

Là sinh viên vun cây văn hoá,

Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.

Ðời mới kiến thiết đáp lòng những a

Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.

Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

(Trở lại điệp khúc)

Các lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên Việt Nam và có mục đích thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt Nam. Nhưng vì như trên đã nói, Viện Ðại Học Hà Nội lúc ấy còn có nhiều sinh viên không phải Việt Nam nên ngoài lời ca tiếng Việt, lại còn có lời ca tiếng Pháp để mọi sinh viên của Viện đều có thể dùng nó được. Lời ca tiếng Pháp này dĩ nhiên là không thể nói riêng về Việt Nam mà phải nói đến cả Ðông Dương để cho phù hợp với tên THSVÐD. Lời ca tiếng Pháp cũng do ủy ban nói trên đây soạn ra:

Étudiants! Du sol l’appel tenacPressant et fort, retentit dans l’espace.

Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,

À travers les monts, du sud jusqu’au nord,

Une voix monte ravie:

Servir la chère Patrie!

Toujours sans reproche et sans peur

Pour rendre l’avenir meilleur.

La joie, la ferveur, la jeunesse

Sont pleines de fermes promesses.

(Ðiệp khúc)

Te servir, chère Indochine,

Avec coeur et discipline,

C’est notre but, c’est notre loi

Et rien n’ébranle notre foi!

Buổi hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đã đưa đến những kết quả mỹ mãn và bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đã được chánh thức công nhận là bản nhạc của THSVÐD. Mùa hè năm đó, Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ mãn khoá tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn Quyền Ðông Dương và nhiều viên chức cao cap Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân Pháp trình tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đã làm mọi ngưoi khích động và khi nó được trổi lên, tất cả mọi ngưoi tham dự lễ mãn khoá năm 1942 của Viện Ðại Học Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều đã nghiêm chỉnh đứng dậy để chào nó.

Sau đó, nó được phổ biến khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ nhiên là theo lời ca Pháp. Về phía Việt Nam thì các sinh viên chỉ lo đi học chớ không có nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc thì đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ, trong kỳ nghỉ hè năm đó với lời ca tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. Vì thế, từ năm 1943, bài Sinh Viên Hành Khúc đã được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.

Năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong được thành lập ở Nam Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên bản nhạc được đặt lại là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Về lời thì hai chữ sinh viên được thay bằng hai chữ thanh niên. Lúc người Pháp trở lại chiếm Nam Việt cuối năm 1945, Thanh Niên Tiền Phong đã huy động người ái quốc Việt Nam ở Nam Việt đứng lên chống lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.

Năm 1948, trong phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa Cựu Hoàng Bảo Ðại và một số thân hào nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị lấy bản nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm quốc thiều cho Quốc Gia Việt Nam. Hội nghị đã đồng ý và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài Thanh Niên Hành Khúc nói trên đây đã được dùng, với hai chữ công dân thay cho hai chữ thanh niên.

Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm thời Việt Nam được thành lập với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh thức dùng làm quốc ca.

Lúc Ông Ngô Ðình Diệm lật đổ Quốc Trưởng Bảo Ðại để thành lập chế độ cộng hoà, Quốc Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đã có đặt vấn đề chọn một bài quốc ca khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn các bản nhạc được đề nghị dùng làm quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn để được chấp nhận. Bài duy nhứt được xem là xứng đáng làm quốc ca chính là bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của nhạc sĩ Hùng Lân đã được chánh phủ Trần Trọng Kim chọn làm quốc ca năm 1945. Tuy nhiên, hai Ông Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu cuối cùng đã không chấp nhận việc dùng bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông làm quốc ca vì một lý do đặc biệt là:

Năm 1945, hai Ðảng Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDÐ) và Ðại Việt Quốc Dân Ðảng (ÐVQDÐ) đã sáp nhập lại làm một với tên chung là Quốc Dân Ðảng và Ðảng này đã lấy bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông làm đảng ca. Sau đó, VNQDÐ và ÐVQDÐ lại tách nhau ra, nhưng cả hai đều giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Ðông. Vì biết được việc này nên hai anh em Ông Diệm đã không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca.

Rốt cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956 đã quyết định giữ lại bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng đổi lời lại như sau:

Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.

Ðồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống.

Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,

Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,

Thù nước lấy máu đào đem báo.

Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy.

Ngưoi công dân luôn vững bền tâm tríj

Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

(Ðiệp khúc)

Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ

Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống

Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.

Bản nhạc và lời ca này đã được dùng suốt thời Ðệ Nhứt và Ðệ Nhị Cộng Hòa cho đến ngày nay.

C. VẤN ÐỀ THAY ÐỔI QUỐC CA

Nói tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đã được Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc dùng làm quốc ca, nhưng thật sự không thể xem là quốc ca được, dân tộc Việt Nam có cả thảy bốn bản nhạc xứng đáng với danh nghĩa quốc ca là Ðăng Ðàn Cung, Việt Nam Minh Châu Trời Ðông, Tiến Quân Ca, và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn bản quốc ca này đã được dùng song song với bốn lá quốc kỳ: bản Ðăng Ðàn Cung với cờ long tinh, bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông với cờ quẻ Ly, bản Tiến Quân Ca với cờ đỏ sao vàng và bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân với cờ vàng ba sọc đỏ.

1. So sánh các bản quốc ca với nhau

Bản Ðăng Ðàn Cung là bản nhạc cổ điển Việt Nam thuộc loại nhã nhạc. Loại nhạc này có tánh cách nghiêm trang và ôn hòa, trái với dâm nhạc là loại nhạc biểu lộ tình cảm một cách nồng nhiệt và chỉ được dùng trong việc giải trí hay hội họp vui chơi.

Bản Ðăng Ðàn Cung là một bài nhã nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao của nhà vua. Do đó, nó có tánh cách trang trọng, nhưng không hùng hồn và không khích động được tinh thần người nghe.

Bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông là một bản tân nhạc có tánh cách khích động hơn bản Ðăng Ðàn Cung, nhưng cái hùng của nó là loại trầm hùng nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Vì là một hành khúc, bản quốc ca hiện nay của chúng ta khích động tinh thần người nghe một cách mạnh mẽ hơn. Mặt khác nữa, hoàn cảnh lịch sử đã làm cho nó đóng một vai tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu cho nền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam.

Thời Thế Chiến II, với tên là Sinh Viên Hành Khúc, nó đã được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn dân Việt Nam. Ðến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đã được dùng để thúc đẩy các chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Ðội Viễn Chinh Pháp. Khi nước Pháp chánh thức nhìn nhận nền độc lập và thống nhứt của Việt Nam, nó đã thành bản quốc ca với tên là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân.

Bản Tiến Quân Ca của CSVN cũng có tánh cách khích động tinh thần người nghe như bản quốc ca của chúng ta. Nhưng về lời ca thì từ hình thức Sinh Viên Hành Khúc qua Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân Hành Khúc, bản quốc ca của chúng ta nhiều lắm là nói đến “thù nước lấy máu đào đem báo”còn Tiến Quân Ca với lời “thề phanh thây uống máu quân thù” rõ là sắt máu quá và có thể làm cho thế giới xem dân tộc Việt Nam là dã man.

Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên Hành Khúc đã được dùng để thúc đẩy các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn chống lại Quân Ðội Viễn Chinh Pháp, trong khi bản Tiến Quân Ca đã được trổi lên để chào đón Quân Ðội này (Pháp) lúc họ đổ bộ ra Bắc Việt theo sự thoả thuận với Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6 tháng 3 năm 1946 (còn gọi là Hiệp định Sơ Bộ). Sau đó, nó đã được dùng khi bộ đội Việt Minh cùng với bộ đội Pháp hợp tác nhau trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để tiến đánh các chiến khu của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội.

2. Lý luận của những người muốn đổi quốc ca

Những người muốn đổi quốc ca đã đưa ra nhiều lý luận khác nhau. Trong các lý luận được đưa ra, chỉ có một cái đáng cho chúng ta lưu ý. Lý luận này đặt nền tảng trên chỗ tác giả bản nhạc được chúng ta dùng làm quốc ca là Lưu Hữu Phước, hiện là một cán bộ cộng sản, và Lưu Hữu Phước đã lên tiếng “sỉ vả người quốc gia Việt Nam là vô liêm sỉ” khi lấy bản nhạc của anh ta và đặt lại lời ca để dùng. Một số người quốc gia Việt Nam đã tỏ ra khó chịu về việc này, và những người muốn thay đổi quốc ca đã dựa vào đó để kêu gọi mọi người bỏ bản quốc ca hiện tại.

a. Nhận định về cá nhơn Lưu Hữu Phước

Vì lý luận trên đây dựa vào cá nhơn Lưu Hữu Phước nên chúng ta cần phải biết về cá nhơn này trước khi phán đoán. Thời Thế Chiến II, Lưu Hữu Phước là một sinh viên có tinh thần quốc gia và cũng như nhiều sinh viên khác của Viện Ðại Học Hà Nội, chỉ có chủ trương giành độc lập cho Việt Nam mà không gia nhập đoàn thể chánh trị nào. Lúc CSVN chưa cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước đã hoạt động với Anh Nguyễn Tôn Hoàn là một cán bộ của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng tại Viện Ðại Học Hà Nội.

Lúc CSVN cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước và một số sinh viên khác gia nhập Ðảng Tân Dân Chủ, một chánh đảng hợp tác với CSVN trong Mặt Trận Việt Minh, nhưng lúc đầu phân biệt với Ðảng CSVN và nhiều khi cạnh tranh lại đảng này. Tuy nhiên, bằng cách vừa mua chuộc, vừa lấn ép, CSVN đã lôi kéo phần lớn các đảng viên Tân Dân Chủ vào Ðảng CS và chỉ còn dùng tên Ðảng Tân Dân Chủ làm một nhãn hiệu để làm cho người ta lầm tưởng rằng chế độ họ xây dựng lên không phải là chế độ độc đảng.

Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi kéo vào Ðảng CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như Ðặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đã dùng anh ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Ðảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Ðảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân lúc còn là một học sinh Petrus Ký (SG), lên sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Ðảng CSVN mớm cho.

b. Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca

Nhưng dẫu cho lúc sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc, Lưu Hữu Phươc đã là một đảng viên cộng sản rồi, và chỉ trích chúng ta dùng bản nhạc đó là do ý anh ta, chúng ta cũng không phải bận tâm về vấn đề này; vì theo quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca thì khi một bản nhạc đã được quốc dân nhận làm quốc ca, nó không còn của riêng ai nữa mà là của toàn dân. Do đó, cá nhơn người sáng tác bản nhạc cũng như người chọn bản nhạc làm quốc ca không thành một vấn đề đem ra thảo luận.

Chúng ta có một tiền lệ đáng lưu ý về việc này.

Ðó là trường hợp bản Marseillaise được dùng làm quốc ca Pháp. Bản quốc ca này được một nhà quí tộc Pháp là Rouget de Lisle sáng tác năm 1792. Lúc ấy, Vua Louis thứ XVI còn trị vì và Rouget de Lisle là một sĩ quan trong Quân Ðội Pháp. Năm 1793, Vua Louis thứ XVI bị xử tử và Rouget de Lisle bị bắt vì là người quí tộc theo phe bảo hoàng chống lại Cách Mạng. Lúc ấy, Ông Lazare Carnot, Ủy Viên Quốc Phòng của Hội Ðồng Cách Mạng vì muốn cứu một sĩ quan cùng binh chủng với mình, lại là tác giả bản Marseillaise, đã đề nghị Rouget de Lisle tuyên thệ trung thành với Cách Mạng thì sẽ được tha, nhưng Rouget de Lisle từ chối vì không chịu phủ nhận lý tưởng bảo hoàng của mình. Cuối cùng, ông ta chỉ thoát chết vì chánh phủ cách mạng chủ trương Ðại Khủng Bố do Robespierre cầm đầu đã bị lật đổ trước khi bản án tử hình của ông ta được đem ra thi hành. Nhưng mặc dầu sau năm 1793, Rouget de Lisle đã trở thành người chống lại Cách Mạng, chánh quyền cách mạng Pháp vẫn tiếp tục dùng bản Marseillaise do ông sáng tác, và năm 1795 đã chánh thức quyết định lấy nó làm quốc ca.

C. Trường hợp bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca

Bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca vốn do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác trong thời kỳ CSVN chưa cướp được chánh quyền ở Việt Nam. Không rõ lúc ông sáng tác bản nhạc này, Văn Cao đã là một đảng viên cộng sản hay chưa. Nhưng chắc chắn là về sau, ông đã vào Ðảng CSVN. Tuy nhiên, cũng như nhiều văn nghệ sĩ có nhiệt tâm yêu nước thời đó, Văn Cao đã lần lần nhận chân được bộ mặt thật của Cộng Sản. Ðiều đáng quí là ông đã can đảm hơn nhiều người khác như Lưu Hữu Phước chẳng hạn, và đã dám nói lên sự bất mãn và chống đối của mình. Ông đã tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1956, ông đã dứt khoát chống lại Ðảng CSVN. Trong con mắt của CSVN hiện nay, Văn Cao là một phần tử phản Ðảng, phản động, phản cách mạng.

Với chủ trương độc tài sắt máu và lòng tự hào là Ðảng mình lúc nào cũng hành động hợp với chánh nghĩa, CSVN rất xấu hổ về chỗ bản quốc ca họ dùng là sáng tác của một nhạc sĩ phản Ðảng, phản động và phản cách mạng. Bởi đó, họ không chịu theo quan niệm thông thường bắt đầu với lịch sử bản Marseillaise của Pháp, nghĩa là bất chấp lập trường chánh trị về sau của tác giả bản quốc ca. Họ đã treo một giải thưởng lớn cho người sáng tác được một bản nhạc đáng làm quốc ca mới. Nhưng trong nhiều trăm bản nhạc gởi đến dự thi, họ đã không chọn được bản nào ra hồn. Cuối cùng, cộng sản phải hậm hực giữ bản Tiến Quân Ca làm quốc ca.

Người quốc gia Việt Nam chúng ta theo quan niệm thông thường trên thế giới về quốc ca nên không có gì phải hậm hực vì tác giả bản quốc ca chúng ta đang dùng hiện đã trở thành một văn công của CSVN. Và nếu có người nào đem việc Lưu Hữu Phước sỉ vả chúng ta về chỗ đã lấy bản nhạc do anh ta sáng tác làm quốc ca, thì chúng ta có thể bảo họ nên dùng các lời sỉ vả đó đặt trong miệng Văn Cao để gởi cho tập đoàn CSVN.

3. Nhiệm vụ của người quốc gia Việt Nam đối với bản quốc ca Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân

Người quốc gia Việt Nam may mắn có một bản quốc ca hùng hồn được dùng để thúc đẩy người ái quốc tranh đấu cho nền độc lập và sự tự do của dân tộc. Bản quốc ca này rất xứng đáng với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ. Với giá trị nội tại của chính nó, thêm vào vai tuồng lịch sử mà nó đã đóng góp, nó lúc nào cũng gây sự xúc động mạnh mẽ trong tâm trí người Việt Nam ái quốc. Từ khi được chánh thức dùng làm quốc ca của nước Việt Nam độc lập, nó đã được nhiều quốc gia trên thế giới biết đến. Tại Việt Nam, nó đã cùng với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ làm yếu tố hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn cũng như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đã là bản nhạc tiễn đưa ra nghĩa trang nhiều trăm ngàn người đã chết vì Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó cũng là một bảo vật thiêng liêng của chúng ta y như quốc kỳ.

Hiện nay, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân không còn được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng như mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng đó là bản nhạc của người quốc gia chống lại Cộng Sản. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là bản nhạc biểu tượng cho người quốc gia chống cộng. Không bản nhạc nào khác có thể thay thế Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân về mặt này. Vậy, việc tôn trọng bản quốc ca đó và tiếp tục dùng nó chung với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ một cách rộng rãi ở mọi nơi là một công cuộc đóng góp vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản. Nếu mọi người Việt Nam ở hải ngoại đều đồng tâm nhứt trí để tranh đấu chung nhau thì một ngày không xa lắm, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân sẽ được hát lên ở khắp các nẻo đường đất nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan. Chúng tôi nghĩ rằng lúc ấy, chắc chắn không có bài khải hoàn ca nào hay hơn nó được.

Nguyễn Ngọc Huy