NHẢY VÔ BƯNG ÔNG THOÀNG

  (Hai Hùng SG)

Học hành dang dở buồn quá tui dự định đi đâu cho thật xa, nhằm để “ẩn cư” như mấy ông đạo sỹ trong những truyện cổ tích ngày xưa mà tui đã đọc qua.

 Biết ý định của tui nên anh Sanh, một người anh ở cùng xóm mà tui quý mến đã tới nhà an ủi tui, ảnh nói:

 -Chèn ơi gì mà ẩn cư Phương ơi! học ở trường không xong thì học ở trường đời, thiếu gì cách học hơi đâu buồn.

 Rồi anh rủ tui ra quán cà phê của chị Văn để tâm sự, chị bán ở bên kia đường nơi đối diện con hẻm vô xóm tụi tui đang cư ngụ.

 Ngồi bên ly cà phê đá thơm ngon của chị Văn mang ra, hớp một ngụm nhỏ rồi tui hỏi anh Sanh:

 – Hồi nãy anh nói hoc ở trường đời là sao em không hiểu.

 Anh Sanh từ tốn giải thích:

 -Có thể mình sẽ đi làm để chung đụng thiên hạ, rồi học những điều hay lẽ phải của người đi trước, còn không thì đi lính, chọn đời binh nghiệp rày đây mai đó cũng thú vị lắm nghe Phương.

 Nghe anh Sanh đưa ra hai lựa chọn tui khá phân vân, không biết chọn cách nào để cho khuây khỏa và nuôi được tấm thân không phải ăn bám gia đình hoài được.

 Bẩt chợt tui lại thấy cái phù hiệu Binh chủng anh Sanh đang phục vụ may trên cánh tay áo của anh, tui thấy hình một ngôi sao Năm cánh màu đỏ nhạt, có một thanh kiếm nằm chính giữa, chuôi kiếm nằm bên dưới mũi kiếm chĩa thẳng lên trên hình ngôi sao này nằm trên một nền trắng hình bát giác ngó thật đẹp ( Lúc sau tui mới biết là phù hiệu của Biệt khu thủ đô), tui bèn hỏi anh:

 -Chèn ơi! Hôm nay anh mặc bộ kaki  ủi hồ láng cón bộ dự lễ gì hay sao vậy?

 Anh Sanh nói :

 -Lễ lộc gì Phương ơi, lính văn phòng phải vậy thôi, lè phè là bị mấy sếp bố cho một trận , nhẹ thì cảnh cáo , nặng thì đẫy ra mấy Đại đội tác chiến mặc sức mà lè phè.

 Tui nghe vậy mới hỏi tiếp anh là lính ở đâu, anh cho biết anh quân số thuộc Phòng một Tiểu Khu Gia Định, nơi làm việc của anh đối diện với Lăng ông Bà Chiểu ( Nơi có lăng mộ và ngôi đền thờ phượng ngài Tả Quân Lê văn Duyệt), anh nói tiếp : 

 – Hay là Phương gia nhập vô làm lính của tiểu khu đi, anh quen biết anh gửi gắm cho mấy sếp thì cũng không phải cực khỗ gì đâu.

 Sau một hồi được thuyết phục, tui nghe theo anh Sanh để gia nhập vào quân ngũ.

 Sáng hôm sau anh lấy chiếc Gobel của anh chở tui vô nơi anh làm việc để đăng lính, người làm hồ sơ quân bạ cho tui là Hạ sỹ Nại ( Người Việt gốc Hoa ông có tiệm mỳ bà Nại ở gầm xóm gà rất nổi tiếng, nay đã nghỉ bán) là bạn thân của anh Sanh, đang ngồi khai hồ sơ thì có một viên Thiếu úy trẻ đến gần bên lên tiếng hỏi :

 – Có thôi bú chưa mà đi lính vậy ông con. Ai đưa vô vậy?

  Tui chưa kịp trả lời, anh Sanh bèn lên tiếng cho Thiếu úy Ngạn sếp của anh:

 – Đây là thằng em trong xóm ở sát bên nhà em đó Thiếu úy, nó đang buồn đời nên muốn đi đây đi đó cho phỉ chí đó Thiếu úy 

   Ông Ngạn nghe anh Sanh nói vậy ông bèn nói với tui:

 – Trời ơi. Vô lính là cực khỗ dầm mưa dãi nắng chứ không phải nơi để đi du ngoạn đâu ông con, nhiều khi đụng trận không may bị thương hoặc bỏ mạng cũng không chừng, ông con nghĩ kỹ chưa?

 Không cần suy nghĩ tui đáp liền :

 – Dạ em muốn đi mà Thiếu úy, cực khỗ gì em cũng chịu được.

 Thiếu úy Ngạn vỗ vai tui một cái ông nói:

– Chú em mầy ngon ta, anh Nại làm hồ sơ xong đưa tui trình ký liền.

 Sau câu nói này ông móc trong bóp ra tờ giấy bạc một trăm đồng đưa cho tui, Thiếu úy Ngạn nói :

 – Cho chú em mầy dằn túi vài hôm vô quân trường cần gì thì mua.

 Tui chưa kịp cám ơn thì ông vội quay gót đi lên văn phòng.

 Anh Sanh với Hạ sỹ Nại vui mừng với việc này, ông Nại nói với tui :

– Số mầy đẻ bọc điều đó nha chú em, lần đầu tiên tao mới thấy ông Ngạn cho tiền Tân binh như vầy.

  Đêm đó khi nằm trong trại Ngô Tùng Châu, nơi các tân binh chờ khám sức khỏe và lãnh quân trang để đi thụ huấn tui thấy ấm lòng với cách cư xử của ông Ngạn.

  Ba tháng quân trường mồ hôi đỗ quả thật không sai, quân trường Vạn kiếp nơi đám lính sữa tui tui bắt đầu trui rèn để trở thành những người lính thật thụ để bảo vệ biên cương sau này.

 Thiếu úy Ngạn dẫn đầu đại đội khóa sinh tụi tui, tui mừng vì ông đã dành cho tui chút tình cảm buổi ban đầu, giờ ông chịu trách nhiệm làm sếp đại đội 351 Điền khuyết của nơi quân trường, tui được mang danh số 27 kể từ đây thì không còn gọi tên cúng cơm do cha mẹ đặt cho mình nữa, đi đâu làm gì cũng xưng danh 27 cho đến ngày mãn khóa mới thôi.

 Đêm đầu ở Vạn Kiếp tui nằm ngủ kế bên thằng Phích và thằng Thế, thằng Phích dân Hốc Môn ở làng Xuân thới Thượng, nó mang danh số 11, thằng Thế mang số 35 nhà ở đường Tùng Thiện Vương bên quận 8, ba đứa tui thân nhau lắm, lúc giỡn chơi tụi nó kêu tui là con Rùa vì mang danh số 27 theo mấy người đánh số đề đặt cho, thằng Phích thì bị tui ghẹo là chó con, đau nhất là thằng Thế mang số 35 thì là chánh hiệu Dê xồm rồi còn gì mà bàn cãi, cũng vì danh số này khi ra các bãi tập ở quân trường thằng thế bị mấy em bán hàng nơi bãi tập xúm lại ghẹo quá chừng, ban đầu nó có thái độ không hài lòng , nhưng về sau nó yêu cái danh số 35 này, vì có một cô nàng bán nước giải khát nơi bãi tập đã “Thề non hẹn biển” với nó …

 Thắm thoát ba tháng ăn cơm nhà binh ở Vạn kiếp cũng xong, chia tay cô người yêu thằng Thế tặng cô nàng toàn bộ nhu yếu phẩm mua đợt cuối ở quân trường cho nàng, từ đó về sau hai người bặt tin nhau luôn khi tụi tui về đơn vị mới.

 Ba thằng tui được bổ sung về Đại đội 3/665 một đại đội biệt lập trực thuộc Tiẻu khu Gia định, đơn vị tui đóng quân ở đồn tại chân cầu Mỹ Thủy trên con tỉnh lộ đi từ ngã ba Cát lái xuống xã Thạnh Mỹ Lợi thuộc quận Thủ Đức, Đại đội trưởng là Trung úy Huỳnh một sỹ quan trẻ nhiệt huyết dẫn dắt, trình diện ông xong ba thằng tui được đưa về trung đội 2 đóng ở nhà dân nơi xóm nhỏ ven đường của ấp Mỹ Thủy, về Trung đội chưa đầy tuần lễ thì bữa nọ Thiếu úy Tạ Mạnh Trường ( Nhà ở quận 3 Sài gòn) đã thông báo cho cả Trung đội sáng mai sẽ đi hành quân trực thăng vận vô miệt Bưng ông Thoàn, tuy mới về đơn vị nhưng địa danh cầu Vỏ Khế , Xã Bình Trưng, xã Long Trường, Bưng ông Thoàn là những nơi rất nguy hiểm, các đơn vị  đóng quân vùng này cũng rất e dè khi hành quân đến đây, vậy mà sáng ngày mai tụi tui sẽ đặt chân vô một trong những địa điểm này. 

 Năm giờ ba mưoi sáng xe GMC đã đưa tụi tui đến trục lộ nằm gần cầu Vỏ Khế chờ hợp đoàn trực thăng đến bốc đi.

 Lần đầu tham dự cuộc hành quân tăng phái cho Liên đội 3/1 chịu trách nhiệm, tụi tui rất hồi hộp, nhìn hai đứa bạn thân của tui tụi nó cũng đăm chiêu ra mặt, không biết cuộc hành quân này lành dữ ra sao, thằng Thế thì cầu nguyện Chúa che chở cho nó, Thằng Phích thì mân mê Phật đeo nơi cổ miệng lâm râm khấn vái, tui cũng vậy tui mân mê cái bùa Hộ mạng do sư phụ thằng Cảnh bạn tui trong xóm tặng cho..

 Tiếng trực thăng xé gió đưa tụi tui vô vùng Hành quân, phi công Hoa kỳ bay ra hướng cầu Rạch chiếc ngoài xa lộ Sài gòn, rồi từ hướng này họ bay thẳng vô Bưng ông Thoàn, tui diễn tả dài dòng vậy đó nhưng từ lúc đặt đít lên sàn trực thăng cho tới nơi phóng xuống đất chừng vài phút bay, trong bụng tui nói :

-Mẹ họ ngồi chưa nóng đít.thì nhào xuống sình rồi.

 Tiếng hai nhân viên xạ thủ trên trực thăng thúc giục liên hồi:

 – Go….go…

 Ngó xuống bên dưói trực thăng khi còn cách  chừng một mét, tui thấy toàn là những bãi sình lầy chen bên cạnh mấy rặng dừa nước, các con rạch nhỏ uốn éo quanh co, thầm nghĩ địa thế này ai sống cho được mà hành quân cái giống gì, chưa kịp định thần tui được viên xạ thủ phi hành đẩy nhẹ vô lưng khiến tui lao xuống sình tức thì, khẩu súng M16 mới cắt chỉ của tui ngậm sình toàn bộ nòng súng, tui chới với cựa quậy trong vũng lầy cố trườn trên mặt sình để di chuyển theo đoàn quân, ác thay đôi giày “Bốt đờ sô” bằng da láng cón “si ra”của tui mang trên chân bây giờ thành kẻ phản chủ, nó quật tui té ngã mấy lần khi đi trên bờ đê trơn trượt, đén một đọan phải qua con rạch mới di chuyển tiếp đến mục tiêu lục soát được, lần theo sợi dây dù do đồng đội căng sẳn để qua con rạch khá sâu này, lụp chụp tui bị hụt chân, cái nón sắt rơi khỏi đầu mau chóng chìm nghĩm dưới con rạch, tui quơ tay để chụp cái nón sắt dè đâu hụt tay khỏi sợi dây dù, cái ba lô nó kéo tui xuống đáy rạch, vũng vẫy vì uống nước đến ngộp thở, thời may anh quân nhân đồng minh là cố vấn Mỹ đi phía sau thấy tui lâm nạn anh thò tay nắm tóc kéo tui lên đưa vô bờ, anh còn mò cái nón sắt dưới đáy rạch trao cho tui, được anh cứu sống trong chuyến nhảy trực thăng đầu tiên trong đời binh nghiệp, tui Thank you anh ta thật nhiều lần, anh cũng thấu hiểu tâm trạng của tui anh ôm lấy tui như vỗ về khi qua cơn hoạn nạn.

 Tiếc một điều tui không đủ ngôn ngữ để bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với anh, cũng như biết được tên và đơn vị của anh để gửi lời cảm ơn qua khu bưu chính.

 Vậy đó, các bạn thấy tui đi hành quân lần đầu tiên trong đời binh nghiệp rất ngu ngơ phải không, cũng may phước là suốt cuộc hành quân không có chạm địch , nếu có thì tui có thể cũng đã theo ông theo bà dạo đó rồi, vì khẩu súng đã bị “Bịt mỏ” lấy gì đánh đấm.

  Cũng nên nhắc lại chút cho vui, ngày xưa mấy ông lính chủ lực quân hay gọi binh chủng tụi tui là “Địa Phao câu” thay vi đúng tên gọi là Địa Phương quân, suy cho cùng gọi gì thì gọi, các anh gọi cho vui thôi chứ không có ý châm chọc chê bai gì, ở đời thông thường.được cái này thì mất cái kia, tụi tui vốn là lính địa phương, có kẹt kẹt nhớ nhà thì đón xe lam xe buýt, xe đò vù về nhà vài ba tiếng đồng hồ rồi về đơn vị, xui gặp mấy anh Quân cảnh lấy cái tu huýt réo lại, các anh xét giấy thấy đúng là lính địa phương họ du di bỏ qua không hốt về Quân vụ thị trấn, còn các anh lính chủ lực quân thường xa nhà đăng đẳng muốn thăm nhà phải có phép còn “Đi dù” về thăm nhà thì khó khăn đủ thứ, thôi thì vị trí nào thì ngày xưa cũng vì bổn phận công dân thời ly loạn thôi phải không các bạn.

 Tui viết câu chuyện này để nhớ lại ơn của anh cố vấn Mỹ năm xưa cứu mạng mình, để hoài niệm về một thời đã qua thôi các bạn nhé.

            29.12.2022

Cút Bắt Trò Chơi

Tác giả :Hai Hùng Sg

Tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Sài gòn, nơi mà một thời mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông, nói là nói vậy cho oai chứ kỳ thực thời ấy từ thủ đô Sài gòn mà đi vào nơi tôi sinh sống cách nhau tròm trèm gần năm cây số, thậm chí đôi lúc từ ngữ trên báo chí ngày xưa trước năm 1975 người ta còn cho nơi đây là vùng ven đô, đất nước nói chung và Sài Gòn nói riêng thời ấy thật thanh bình, cái tình người thắm thiết chan hòa mà quả thật vậy vào những năm 1960 lúc ấy tôi còn là đứa trẻ ăn chưa no lo chưa tới sau những giờ học ở trường thì cả bọn con nít trong xóm tôi xúm xít bên nhau chơi những trò của con trẻ, thời bấy giờ trò chơi chủ yếu là những trò tiêu khiển tốn rất ít tiền như: đánh đáo bằng những đồng tiền loại 5 cắc có in nổi một mặt là Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng Hòa mặt bên kia là hình bụi tre là biểu tượng Quốc huy, còn các đồng xu nhỏ hơn thì có hình cô gái đầu búi tóc thật cao trông thật khỏe mạnh, hoặc chơi trò “Năm mười mười lăm hai muơi..”

                  *

Một hôm, sau cái màn tay trắng tay đen, thằng Thành là đứa bị nhắm mắt úp mặt vào tường để cho cuộc chơi được bắt đầu:

– Năm mười, mưòi lăm, hai mươi…, một trăm.

Nó xòe bàn tay và vỗ mạnh 3 cái vào vách tường, đồng thời đếm tiếp:

– Một hai ba, đứa nào chạy ra bị bắt ráng chịu.

Trong lúc thằng Thành đang năm mười thì cả bọn chúng tôi túa đi khắp nơi, đứa thì leo lên cây, đứa thì trốn trong chòm mả nơi có những ngôi mộ làm bằng đá ong cũ kỹ, đứa thì lẫn mình vào mấy bụi tre, nhưng thường thì những bụi tre thì mấy đứa tụi tôi không thích trốn ở đây, vì đơn giản là dễ bị gai của tre cào gây thương tích, khi tàn cuộc chơi về đến nhà thế nào cũng được ba má cho ăn “Bánh tét nhưn mây”, thét rồi đứa nào cũng né chỗ trốn hắc ám đó hết, nhất là mấy đứa con gái trong xóm không bao giờ tụi nó dám bén mãng đến bụi tre, chòm mả do sợ ma, cứ như vậy đó con trai tụi tôi suy ra yếu điểm này nên tìm đến nơi sạch sẽ là xí được các cô nàng liền.

Tôi nhớ hôm đó thằng Cu, con của bà Mười Quán phá lệ, nó chui vào trốn trong bụi tre gai bên vệ đường mà không ai biết, nó nằm im thin thít trốn rất kỹ, cả đám nhóc tụi tôi đều bị thằng Thành xí hết ráo, chỉ còn lại một mình thằng Cu là chưa thấy tăm hơi của nó đâu cả, bầu trời dần mờ tối những bóng đèn điện vàng vọt bắt đầu bật sáng bên đường, cả đám lo lắng vô cùng, bỗng tiếng thằng Lập một đứa trong đám bạn nói rú lên:

– Ơi tụi bây! Có khi nào thằng Cu bị ma giấu không ta? mấy ngày trước tao nghe ba tao nói cái xóm đường đất đỏ của mình có ma đó.

Nghe thằng Lập nói đến đây tự dưng tôi thấy mình bị hiện tượng “Nổi da gà” như có một luồng điện chạy tê rần nơi sống lưng, vì câu nói của thằng Lập nó trùng với câu chuyện chú Út tôi kể cho lũ trẻ trong xóm nghèo mỗi khi đêm về, chú kể rằng:

– Mấy đứa bây biết không, hồi đó thời người Pháp còn ở Sài Gòn mình chú cũng còn trẻ, ba của chú nói ngày xưa có bà Tám ngụ tại cái xóm chuồng Trâu, xóm này nằm gần chùa Giác Quang ở chợ Cây Thị, đặc biệt khi trời về khuya, chừng khoảng mười giờ thì tiếng rao hàng ngọt ngào của bà Tám vang lên:

– Ai chè đậu đen, bột báng, nước dừa, đường cát trắng hông.

Có hôm bà Tám vừa đặt gánh chè đậu dừng lại nghỉ chân nơi mấy bụi tre gai ven đưòng, tiếng rao lảnh lót của bà Tám vang lên mọi khi, đứa cháu gái nhỏ đi theo phụ bà Tám bán hàng, nhiệm vụ nó là cầm cái đèn bão loại đèn ngày xưa có bốn mặt kiếng chung quanh, có khi đuợc sơn thêm màu xanh, đỏ vàng lên kiếng để tránh chóa mắt người đi

đường, đèn này dùng nhiên liệu là dầu hỏa mà dân miền nam hồi đó gọi là dầu hôi bên trong có sợi tim đèn bằng sợi bông chắc chắn, đèn phát ra ánh sáng vàng rất tiện lợi cho những người nghèo buôn gánh bán bưng như bà Tám, nó còn công dụng chống được những cơn gió lớn mà đèn không bị tắt nên người ta đặt tên cho nó là đèn bão, còn những tiệm quán sang trọng hồi đó thì xài đèn ” Măng xông ” loại đèn hiện đại của người Pháp du nhập vào Việt Nam, cũng xài bằng dầu hôi, nhưng có thiết kế cái bơm hơi làm tăng áp suất trong bầu đèn, khi đốt đèn thì nhờ áp suất này tim đèn cháy cho ánh sáng trắng khác với đèn dầu Hoa Kỳ một trời một vực.

 Vừa,đặt gánh chè xuống đất, bà Tâm  lên tiếng:

– Gái Ba! Mầy đem đèn tới đây để dì Tám đão lại nồi chè để nó khỏi bị khét coi con.

Con gái Ba làm theo lời bà Tám, khi nắp nồi chè đậu được mở ra, khói ùa bay lên gió cuốn đi mang cái mùi hấp dẫn của nồi chè len lỏi vào những căn nhà lân cận ven đường, cũng nhờ vậy mà cả cái xóm đường đất đỏ nhỏ bé của tụi tôi là thân chủ hàng đêm của bà Tám.

Vơ cái vá khuấy nhẹ nồi chè, khi ngước nhìn lên thì bổng đâu trước mắt bà Tám xuất hiện gần cả tiểu đội lính “Pặt tê giăng” súng ống đầy đủ, hình như họ đang đi làm nhiệm vụ gì đó, nghe mùi thơm lừng của nồi chè nóng hổi của bà Tám khiến họ không cưỡng lại được, họ xà xuống vây quanh gánh chè, cả đám họ nói cười rôm rả,khi cầm chén chè trên tay họ đưa miệng húp rồn rột, mới thoáng một chút mà mỗi chú lính “Thanh toán” gọn ba chén chè vô bụng, chú Út còn nói tiếp, nghe đâu có ông lính chưa đã thèm, còn lấy cái cà mèn mua thêm mang về đồn để ăn tiếp, ăn uống thỏa thê xong thì một người lính ra dáng là sếp móc tiền trả, ổng còn hào phóng ” poa ” luôn cho bà Tám phần tiền thay vì phải thối lại cho họ.

Nghe đâu nhờ cái “vía” của mấy ông Tây nên chỉ loanh quanh gánh đến đầu đường là nồi chè bán hết sạch. Bà Tám và gái Ba trở về nhà, gái Ba lui cui dọn dẹp rửa ráy chén muỗng còn bà Tám thì ngồi lọm khọm đếm tiền, vừa trút rổ tiền ra “Bộ đi văng” bà Tám thất kinh hồn vía la làng:

– Ma.. Ma bớ người ta có ma, gái Ba ơi..cứu dì….. với.

Bà Tám kêu được như thế rồi tự nhiên bà thấy hai quai hàm như có ai bóp chặt khiến bà trừng mắt không thốt thêm được lời nào. Nguyên nhân trong số tiền bà vừa trút ra thì gần phân nửa là giấy tiền “Vàng bạc” một loại giấy tiền dùng cho người cõi âm do mấy ông Ba Tàu ở Chợ Lớn phát hành.

  Bà con lối xóm nghe tiếng la của bà Tám thì mọi người tông cửa nhà chạy đến rất đông, họ tưởng rằng nhà bà bị trộm cướp viếng thăm.

   Khi tỉnh hồn lại bà Tám mới kể kể sự tình và đoan chắc rằng tiền âm phủ này là do mấy chú lính khố xanh khố đỏ gì đó đưa cho bà.

Bà tám quả quyết:

– Mấy ông Tây này chắc chết trận được chôn phía đồng mả ở cạnh cầu hang đường ray xe lửa cũng nên.

Chuyện ma cỏ hư thực thế nào không rõ, nhưng kể từ đêm sau bà Tám giải nghệ không bán chè đêm nữa, nghe đâu bà con trong xóm cũng buồn buồn, vì từ đây không còn nghe tiếng rao hàng thân thương và cái mùi chè đậu đen nước cốt dừa đường cát trắng ngọt ngào thoang thoảng trong đêm nữa rồi, và cũng do ám ảnh cái rổ tiền vàng bạc hôm ấy nên bà Tám dọn nhà đi biệt xứ từ đó…

Vậy mà đêm ấy, thằng Cu con bà Mười quán nó trốn biệt ở đâu? mà có ma thật hay không? giả sử có con ma nào đó hiện ra lúc đó trước mặt chúng tôi thì tôi tin chắc rằng ít ra phải có một vài đứa té xỉu, một ẩn số mà lúc bấy giờ chúng tôi chỉ lò mò đoán già đoán non mà thôi.

 Con Hồng đứa con gái tham gia trò chơi được chúng tôi cử về nhà thằng Cu để báo hung tin:

– Bà mười ơi! Anh Cu chơi năm mươi với tụi con không biết ảnh trốn ở đâu tụi con tìm không ra. Tụi con sợ quá nên báo cho bà Mười nè.

Bà Mười hoảng hốt chạy đôn chạy đáo đầu trên xóm dưới để tìm cho ra thằng “Quý tử” của mình.

  Tin thằng Cu mất tích, lời đồn đại nó bị ma giấu gây rúng động cho lũ nhóc trong cái xóm nhỏ này.

Thế là cả xóm, người cầm đèn cầy, kẻ cầm đèn dầu tìm tòi hết mọi nơi cuối cùng cũng thấy nó đang khò khò trong bụi tre gai, nó mãi trốn và cố giấu mình thật kỹ, rồi nằm mơ màng gặp những cơn gió thổi hiu hiu làm cho đôi mắt nó sụp mí hồi nào không hay, đến khi nghe tiếng kêu ầm ĩ của mọi người nó mới lòm còm bò ra khỏi cái bụi tre gai, bà Mười gặp nó bà mừng rơi nước mắt, nhưng cũng không quên gõ vào mông đít của nó hai cây roi mây kèm theo lời hăm:

– Còn chơi kiểu này là má không cho mày đi chơi nữa, nghe chưa cái thằng kia.

Như biết lỗi, và ân hận đã làm mọi người hốt hoảng vì mình, thằng Cu tha thiết

– Con xin lỗi má, con không dám vậy nữa.

– Hứ chơi bời trốn tìm mà chui vô bụi rậm, ma nó chưa giấu bây thì rắn nó cũng cắn bây có ngày đó mấy con ơi.

Sau lần tai nạn đó tụi tôi thôi không còn chơi trò trốn tìm nữa. Còn nhiều nhiều trò chơi của tuổi thơ yêu dấu nữa như: Nhảy lò cò, chơi u, chơi ăn ô quan, thả diều, đá dế, câu cá, chia phe đánh trận như những người lính chống chọi với quân thù, ngày đó trong đám tụi tôi đứa nào phải làm quân địch trong cuộc chiến thì y như rằng đứa nào cũng tiu ngỉu chấp nhận làm phe ác một lần đó thôi, nếu lần sau mà chơi trò đánh trận thì phải đổi phe lại cho công bằng, có mấy cô bác lớn tuổi biết chuyện này đã lên tiếng:

– Mấy đứa nhỏ coi vậy chứ tụi nó cũng biết phân biệt chánh tà lắm nghe, làm phe địch là xấu nên hổng có đứa nào vui hết trơn hết trọi á.

Cái năm tôi thi đậu vào lớp Đệ thất, cả nhà tôi ai cũng mừng rỡ, tháng đó sau khi lãnh lương của hãng xong, để khao tôi có được cái thành quả vừa qua trong học hành, chiều hôm nọ ba nói:

– Chiều nay ba thưởng cho xem phim “Cầu sông wai” hay lắm, con nói thằng Lập, Thằng Kháng, với con Hồng nữa xin phép nhà nó cho đi chung với con luôn.

Nghe ba tôi nói cho mấy đưa bạn cùng đi xem hát bóng với mình tôi mừng ra mặt, mấy đứa ba tôi vừa kể tên cũng đạt kết quả tốt kỳ thi vừa rồi, tôi khẽ cám ơn ba và chạy nhanh đến nhà báo tin vui cho tụi nó, con Hồng mẹ nó đang bệnh nặng, ba nó thì đi chiến trường chưa về, ở nhà còn hai mẹ con hủ hỉ với nhau nên nó không đành lòng tìm niềm vui riêng cho mình.

Gần đến giờ hẹn, con Hồng mới lò dò đến nhà tôi, nghèn nghẹn trong lòng nó nói:

– Mấy anh đi chơi vui vẻ, coi hát xong về kể lại Hồng nghe cũng được mà, má Hồng trở bệnh nặng, Hồng phải canh chừng má, chứ không thì….

Con Hồng nói giữa chừng rồi nó ù chạy ngay về nhà.Tôi kịp nhận thoáng qua đôi mắt buồn buồn của Hồng đã đỏ hoe ngấn lệ…

Ba tôi dẫn chúng tôi lội bộ ra đến đầu ngã ba đường để đón xe, chiều vẫn còn chút nắng, không khí oi nồng, hơi nóng vẫn còn hắt lên từ con đường nhựa nơi chúng tôi đang đứng chờ xe, thỉnh thoảng cũng có chút gió thổi nhẹ qua làm dịu bớt đi cái nóng bứt rứt trong người.

Chiếc xe Ngựa vừa tấp vô sau cái vẫy tay đón của ba tôi, chủ xe một người đàn ông luống tuổi, ông trạc cỡ tuổi ba tôi, mặc trên người bộ “Pi ja ma” màu đen có ba cái túi áo thật lớn, tôi thấy ông bỏ trong đó nào là thuốc rê, hột quẹt, giấy tờ gì đó, và túi ông đựng tiền nằm phía trên ngực. Chiếc nón nỉ đẹp đắt tiền ông hay giở lên chào khi có khách lên xe, một phong cách mà thời nay dễ gì còn gặp lại. Con ngựa thì mang cặp kiếng bằng da màu đen che hờ đôi mắt, nó chỉ quan sát được phía trước, không thể nhìn hai bên, sau này tôi khi đi xe quen thân với chủ xe ngựa thì ông mới giải thích:

– Sở dĩ che như thế cho ngựa khỏi giật mình khi có xe qua mặt nó, để nó không sợ mà gây ra tai nạn.

Trên đầu con ngựa ông gắn một chùm lông đuôi của gà trống trông thật oai phong, quanh cổ nó được đeo cái vòng lục lạc, mỗi khi ngựa phi trên đường nhựa, bốn vó gõ lốc cốc hòa theo tiếng reo của lục lạc tạo thành âm thanh rất vui tai.

Sau này chúng tôi học năm Đệ thất một trường gần chợ Bà Chiểu, đi riết thành mối của ông Tám xe Ngựa, trong đám tụi tôi chỉ có mình tôi là ông Tám ưu ái cho ngồi gần ông phía trước, vì ngồi vị trí này thòng hai chân xuống khỏi phải cởi giày, còn đám bạn tôi thì lên xe phía sau phải cởi giày ra xỏ vào cái móc bên hông xe, đến nơi mới được mang giày lại như cũ vì trong lòng xe chật hẹp vã lại mang giày dép vào thì làm dơ tấm đệm lót dưới sàn xe thì không hợp vệ sinh cho lắm, đi xe Ngựa cũng lắm thú vui, nó cũng tròng trành như ghe gặp sóng lớn đôi khi Ngựa dở chứng khiến cả xe ai nấy mặt xanh như tàu lá chuối vì sợ rớt xuống đường do chú Ngựa tung hai vó trước lên cao khiến xe nghiêng hẳn về phía sau…

Cuộc sống cứ thế êm ả trôi theo tháng ngày, tôi còn nhớ năm 1963 Sài gòn sục sôi những biến động, năm đó bên quân đội họ làm đão chánh, Trực thăng mang ” Rốc két ” bay gần sát nóc nhà tôi, họ bắn đại liên trên máy bay hướng vào Dinh Độc Lập, vỏ đạn rớt lộm cộp trên mái tole nhà, cô bác chung quanh sợ hãi vô cùng, sợ sệt trong tình hình này vài gia đình tụ họp lại những căn nhà kiên cố trong xóm cùng nhau ở đó, nếu có gì xảy ra khi “Tối lửa, tắt đèn” có nhau thì yên tâm hơn, người lớn ai cũng trong dạ nao nao chờ đón thời cuộc, còn bọn con nít thì được dịp gần nhau thường xuyên thỏa thích chơi đùa, chúng tôi đâu có biết rằng cha mẹ chúng tôi đang rầu thúi ruột thúi gan, khi đất nước đang tranh tối tranh sáng của hai phe…

Rồi cuộc đão chánh thành công, nền đệ nhị Cộng hòa hiện diện trên quê hương….

Năm 1968, một lần nữa Sài gòn cũng như cả nước, khói lửa tràn lan, tôi và gia đình cũng suýt chút nữa  “Tiêu diêu miền cực lạc” bởi một trái đạn cối rớt trước sân nhà, cũng may là chúng tôi trốn kỹ trong hầm ngầm dưới đất, nếu không thì không có cơ hội bây giờ ngồi đây ghi lại những hình ảnh thân thương đang mờ dần trong ký ức.

Rồi thì sóng gió cũng qua, đến giữa năm 1970 là năm đám trẻ con ngày xưa chúng tôi đến tuổi lên đường nhập ngũ làm bổn phận công dân trong thời chinh chiến.

Tôi, thằng Kháng, thằng Lập cùng vào lính một ngày. Buổi đầu tiên vào nơi tiếp nhận, ba đứa chúng tôi đều mang tâm trạng nhớ nhà kinh khủng, mặc dù mới rời khỏi tổ ấm gia đình chừng vài tiếng đồng hồ, nhưng đêm ấy với chúng tôi nó dài thăm thẳm. Nằm cạnh bên nhau chúng tôi tâm sự, tôi nói nhỏ vừa đủ cho thằng Lập và thắng Kháng nghe:

– Không biết chừng nào mới vô quân trường hả tụi bây? Rồi lăn, lê, trườn, bò nữa. Mà tao nghe nói ở quân trường cái chuyện tắm giặt khổ sở lắm, nghe mấy ông anh trong xóm mình đi lính về kể lại, mùa khô thiếu nước sinh hoạt lắm.

– Ôi hơi đâu mà lo mầy ơi, chừng nào cũng được, chuyện tắm giặt thì mày làm như vầy… như vầy…

Thằng Kháng cố tạo ra chuyện vui để chúng tôi quên đi nỗi nhớ nhà, nó thì thầm bên tai tôi tưởng đâu nó hiến kế gì hay để có giải pháp tốt đối phó với khó khăn sẽ phải đối mặt sau này nên tôi chăm chú nghe, thằng Lập cũng xích lại gần cả ba đứa chúng tôi chụm đầu vào nhau trao đổi câu chuyện, bất chợt ai nhìn thấy hình ảnh này có lẽ sẽ để lại nhiều dấu chấm hỏi trong đầu, bọn này đang âm mưu gì đây?.

  Thằng Kháng vừa hiến kế xong thằng Lập phá lên cười, nước mắt nó chợt trào nơi khoé mắt cũng bởi chuyện thằng Kháng bày vẽ cho tôi giống như chuyện tiếu lâm làm nó cười ngất ngưởng, khiến mọi người trong “Sam” chăm chú hướng nhìn về chúng tôi. Riêng tôi thì đưa tay cốc vào đầu thằng Kháng một cái đau điếng kèm theo lời trách móc nó;

– Tao nói thiệt mà, vô đây mà mày còn giỡn được hả mậy, thôi khùng quá ông ơi.

Tôi còn co giò đạp thằng Kháng một cái nữa, sau này tôi ân hận với sự phản ứng quá trớn đối với nó.

Thằng Kháng nó bàn với tôi nếu sau này khi ra quân trường thụ huấn mà gặp phải cảnh thiếu nước sử dụng thì viết thư về kêu gia đình gửi lên cho cái thùng phuy loại 200 lít đục bỏ cái nắp trên rồi hứng nước mưa chứa vào đó thì coi như giải quyết được vấn đề thiếu nước, đúng là chuyện tiếu lâm không sai.

Ngoài trời bóng đêm dần bao phủ không gian, tôi thoảng nghe một vài tiếng kêu của lũ vạc bay đi ăn đêm, tiếng vo ve bên tai của lũ muỗi đói, cố dỗ giấc ngủ mà đôi mắt đứa nào cũng ráo hoảnh, ba đứa chúng tôi nằm im thin thít, mỗi đứa đang theo đuổi suy nghĩ riêng của mình, chợt thằng Lập nhìn vào mắt tôi nó hỏi:

– Bộ nhớ em Hồng phải không?

Thằng Lập nó gãi trúng chổ ngứa của tôi, như sợ quê với nó tôi nói:

– Gì mà nhớ với nhung, có chăng đi nữa thì cũng hết khóa huấn luyện thì may ra nhung với nhớ mầy ơi.

Thằng Kháng lúc này nó mới lên tiếng:

– Học ra trường xong về đơn vị mới, mầy kêu bác năm nói với thím Hai cho mầy với con Hồng “Châu về hiệp phố” cho rồi, ông bà mình nói cưới vợ phải cưới liền tay đó nghe mậy.

Nghe thằng Kháng nói như vậy, trong lòng tôi ngờ ngợ nhớ lại câu nói của Hồng cái hôm hai đứa hẹn nhau để nói lời tạm biệt:

– Anh Phương cố gắng làm tròn bổn phận công dân đi, ở Hậu Phương thiếu gì em gái nhỏ chờ đợi, duyên kiếp đều có số phần hết anh đừng lo nhé.

Câu nói đùa của Hồng khiến tôi không vui lắm, tôi ái ngại vô cùng và tự hỏi không hiểu Hồng có thể chờ đợi mình trở về hay không? Chiến trường bắt đầu sôi động trở lại, chiến sự ác liệt, tin tức dội về hàng ngày, có những chàng trai ra đi như tráng sĩ kinh kha, để rồi cũng có nhiều thiếu phụ Nam Sương chờ chồng trong mòn mỏi đợi chờ. Lần ra đi này tôi linh cảm chuyện tình yêu của mình nó có vẻ mang một màu Xam  xám, đã vậy nghe thằng Kháng đốc thêm vào thì thật lòng mà nói trong lòng tôi như ngổn ngang trăm mối tơ vò.

Rồi thì ba tháng quân trường ở Dục Mỹ cũng xong, ba tháng dầm mưa dãi nắng, thao trường mồ hôi đổ, cả ba đứa chúng tôi đều được tiểu đoàn trưởng của Trung tâm huấn luyện khen ngợi tinh thần học tập, đêm cuối ở quân trường lần đầu tiên trong đời ba thằng nhóc sợ ma ngày nào cùng nhau nốc Larue đánh dấu  một buổi mãn khóa ra trò ở cái lò luyện thép này, nơi đã un đúc tinh thần và thể xác chúng tôi thêm phần mạnh mẽ.

Rời trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, chúng tôi lênh đênh trên biển, chiếc dương vận Hạm 505 rẽ sóng đưa chúng tôi trở về căn cứ Long Bình nơi hậu cứ của đơn vị chúng tôi phục vụ sau này.

 Ròng rã hai ngày hai đêm trên biển, trong lòng ai cũng nôn nóng mong về đến đất liền, qua hai ngày trên biển chỉ thấy mây, nước và đường chân trời, thỉnh thoảng cũng gặp vài đàn Hải âu bay lượn tìm thức ăn giữa biển trời bao la rộng lớn, lúc ấy thật sự chúng tôi mới cảm phục những người lính Hải quân, bởi họ cô đơn quanh năm với biển khơi mà họ còn chịu đựng được, với chúng tôi hai ngày trên biển như một cực hình vì không thể thích nghi với cái mênh mông của biển trời.

Đến hậu cứ Long Bình được một tuần, sáng nọ lệnh tập họp được ban ra, xe GMC đưa chúng tôi ra sân bay, từng chiếc Trực thăng Chinook đưa chúng tôi vào bay vào vùng lửa đạn, mặt trận An Lộc Bình Long hiện ra bên ô kính tròn của chiếc phi cơ, thấp thoáng trong mây chúng tôi thấy rõ mồn một nơi xa xa những cụm khói bốc lên cao do những phi tuần ném bom nơi vùng hỏa tuyến. Hạ dần độ cao, Phi công rà sát chiếc Chinook trên đầu những ngọn cây cao su bên phi đạo, khiến cây lá ngả nghiêng xào xạc do sức mạnh của cánh quạt gây ra, khi phi cơ đáp xuống gần sát mặt đất, tiếng hô vang của nhân viên phi hành người Mỹ:

– Go out.. Go out….

Chúng tôi vụt lao ra khỏi chiếc Chinook rồi chạy vào vạt rừng ven đường, cũng là lúc tiếng đạn pháo từ đâu nổ tới tấp, đất bị đào xới tung lên tạo những hố sâu hoắm, mùi thuốc pháo khét lẹt, không khí như mang nặng âm vang tiếng của lão Thần chết đang réo gọi hồn ai.

Tiếng phản pháo vang lên mội hồi lâu rồi cũng chấm dứt, trả lại sự yên tĩnh tịch mịch vốn có của núi rừng,

– Đại đội tập họp. Ngang dọc so hàng, 4 hàng dọc, đằng trước thẳng.

Tiếng khẩu lệnh của ông Thượng sĩ người có trách nhiệm đưa chúng tôi trình diện đơn vị mới đang hành quân nơi chiến trường.

Hàng ngũ xếp ngay ngắn, tôi tranh thủ liếc dọc liếc ngang quan sát nơi mình đặt chân trên chiến trường là nơi đâu, lòng tôi chợt bàng hoàng, trước mắt tôi có tấm bảng viết vội trên tấm ván ép mỏng manh hàng chữ Phi đạo Sa Cam, phía bên dưới là một nắm mộ đất dường như mới đắp gần đây thôi, trên cây Thập tự giá bằng hai thanh gỗ thông của thùng đựng đầu đạn cối 81 ly ghép lại, ai đó viết lên hàng chữ thay cho mộ bia một dòng sơn đỏ như máu của người dưới mộ kia đã tuôn ra vì mảnh đất quê hương yêu dấu.

Nơi tạm yên nghỉ: Chuẩn úy…..đại đội…tiểu đoàn…. Anh dũng đền nợ nước ngày……tháng…năm..

Được chào đón bằng những tràng đạn pháo, được thấy những anh hùng ngã xuống nơi tuyến đầu cũng không làm chúng tôi sợ sệt chùn bước, thầm khấn vái vong hồn người sĩ quan bạc mệnh kia, ông hiển linh hãy dìu chúng tôi bước qua cho đến ngày tròn cuộc chiến. 

Như có một phép mầu, như thấu hiểu sự tôn kính với ông nên có thể ông ta đã che chở cho tôi thoát hiểm nhiều lần trong gang tấc.

Chúng tôi về đến bộ chỉ huy tại thị trấn An lộc điêu tàn đổ nát, được tập hợp lại, sau một hồi huấn thị, lựa chọn, phân phối cho các đơn vị tác chiến trực thuộc, tôi là người duy nhất được chỉ huy phó đơn vị chọn ở lại bộ chỉ huy làm công việc chuyên môn, còn những anh em cùng khóa học được đưa về các tiểu đoàn tác chiến.

Tôi chia tay thằng Lập, thằng Kháng, vậy là chúng tôi mỗi đứa một nơi, trong mắt đứa nào cũng đượm buồn lưu luyến, tôi vỗ vai hai đứa nó và cầm lấy bàn tay, ba chúng tôi xiết chặt tay nhau ngầm hẹn ngày nào đó cùng nhau về lại Sài Gòn khi đất mẹ bình yên..

Tôi cố chọc cười hai đứa bạn thời niên thiếu:

– Tụi mình lại bắt đầu cuộc chơi năm mười nữa rồi đó, hai thằng bây đi trốn, và tao sẽ đi tìm…

Kỷ niệm xưa chợt hiện ra trong tâm trí, không hẹn nhau mà tự nhiên ba đứa nước mắt chạy thành dòng.

Đưa tay quẹt nước mắt thằng Kháng đáp lời tôi:

– Tụi tao đi đây, nhớ giữ sức khỏe nha, thư từ nhà có gì nhớ cho tụi tao biết với.

Nước mắt lại tuôn ra, ông Thượng sĩ già đứng gần bên thấy hết sự việc, hình như ái ngại điều gì ông ta nói:

– Ba đứa bây ở chung xóm với nhau hả, thôi đừng buồn, đóng quân cũng gần đây thôi, muốn gặp nhau dễ ợt hà, thôi đi đi kẻo anh em chờ.

Chiến trường vào mùa khô, mùa cao điểm của chiến trận, lao vào công việc hàng ngày, đối diện với nhiều cam go, có lúc tôi quên bẵng đi hai thằng bạn kia, quên cả cái gia đình ở Sài gòn, quên cả cái tình yêu bé nhỏ của Hồng, đứa con gái nết na thùy mị đùa vui trong quảng đời thơ ấu và tình yêu đến với hai đứa tôi tự hồi nào không hay.

Ba tháng sau, thư đi tin lại cho gia đình, cho người yêu. Lần này nhận lá thư của Hồng, không phải cái bì thư màu xanh hy vọng như những cánh thư trước, mà là bì thư màu trắng trinh nguyên, cũng là màu tang tóc, trong thư Hồng kể rằng:

– Anh Phương thương mến! Viết thư này cho anh, tuy tay thì cầm viết nhưng lòng thì không muốn, nhưng cuối cùng cũng phải viết cho anh, mẹ em  mất tròn một tháng, ba em thì đơn vị báo tin mất tích, đất trời sụp đổ dưới chân em, gia đình lâm cánh túng bấn, may nhờ một người ân nhân đứng ra gánh vác mọi chuyện, và anh ta cầu hôn em thật chân tình sau lần lo tang chế cho mẹ, vì nghĩa em đành phụ anh, mong anh đừng buồn, hậu phương còn rất nhiều em gái khác. Anh nhớ giữ sức khỏe.

Tạm biệt.

Ngàn lần yêu anh.

Đọc xong lá thư tôi không trách Hồng phụ bạc, nhưng tự trách mình vô dụng để vuột một mối tình trong trắng thơ ngay. 

Đổ vỡ trong cuộc tình với Hồng, thế là tôi gặp phải sự cô đơn như những chiến sĩ Hải quân dạo ấy, nhưng không phải cô đơn giữa biển khơi, mà tôi cô đơn giữa biển đời mênh mông vô định, sau vụ này tôi thẩn thờ cả năm thì vết thương lòng mới tạm liền da.

Buổi sáng nọ, đang loay hoay công việc, tôi nghe loáng thoáng phòng bên cạnh có tiếng sếp đang ra lệnh:

– Chiều nay xin trực thăng tản thương, chở mấy anh em thương binh ở ban quân y về Tổng y viện Cộng hòa, nhân tiện đem xác thằng Nguyễn công Lập, và thằng Dương văn Kháng về nghĩa trang Quân đội luôn.

Tôi bỏ ngay công việc chạy nhanh qua Ban 3 hành quân, hỏi han một lúc thì đúng là hai thằng bạn thân thiết nhất trong đời tôi đã ra đi vĩnh viễn, thằng Lập chết trước thằng Kháng nửa ngày do bị sốt ác tính quật ngã nó. Còn thằng Kháng thì dẫm phải mìn khi đi hành quân, thân xác nó vương vãi khắp nơi, đồng đội nó gom lại được một ít thịt xương gói lại trong chiếc Poncho từng che chở nó trong những cơn mưa rừng lạnh lẽo.

                   *

Chiếc trực thăng sơn màu tang trắng đáp xuống, trước mũi và  bên hông đều mang chữ thập đỏ, nó chở những thương binh và mang theo hình hài của hai đứa bạn tôi, cho đến khi chiếc trực thăng tải thương nọ chỉ còn một cái chấm nhỏ trên bầu trời vàng hoe nhuộm nắng, cũng là lúc tôi thốt lên trong vô thức:

– Xí thằng lập, xí thằng Kháng.Một.Hai. Ba.

Tôi vỗ tay ba cái vào cái thùng “Cô nét” nơi lưu giữ xác của hai đứa bạn như vỗ vào vách tường của trò chơi Cút bắt những ngày xưa./.

ReplyForward

Truyện ngắn ‘ĐỢI CHỜ’

            Hai Hùng Sg

Chải lại mái tóc đen mun bóng láng đôi ba lần vậy mà thằng Luận vẫn chưa vừa ý, nó quẹt ngón tay vô hủ “Bi lăn tin” lấy ra một ít rồi xoa đều trên đôi tay, Luận lại vuốt lên mái tóc khiến cho tóc của nó láng cón làm  cho tôi có cái suy nghĩ:

 “Gặp lại bạn cũ  thôi mà, tại sao thằng quỷ này làm như đi ăn tiệc ở nhà hàng vậy ta”

  Gần ba mươi phút trôi qua Luận vẫn chưa rời khỏi tấm kiếng lớn trước mặt, hết săm soi mái tóc, cái áo, cà vạt rồi đến đôi giày, nó lấy hộp “Xi ra” tân trang lại đôi giày nhìn thật láng cón, cuối cùng dường như không còn thấy khiếm khuyết nào nữa thì nó mới đưa mắt nhìn tôi và hỏi:

  – Ông thấy vầy được chưa? Gặp lại nàng phải chưng diện một chút chứ ăn mặc lôi thôi thì kỳ lắm.

  Nghe thằng Luận hỏi tôi mới biết, thì ra hôm nay hắn rủ rê tôi đi gặp nhỏ Hương là người trong mộng của hắn lúc trước, hắn đã thầm thương trộm nhớ cô nàng mà chưa một lần thổ lộ, những lần chạm mặt trong lớp, hoặc dưới sân trường hắn không dám nhìn thẳng vào đôi mắt bồ câu đẹp long lanh của Hương, thảo nào hôm nay đã bao năm dài xa cách hắn  cố  chưng diện để thu hút cái nhìn của Hương, lúc này khiến tôi liên tưởng đến cách kêu gọi bạn tình của một số loài chim, lủ chim cũng chải chuốt lông cánh rồi phô diễn những điệu múa lạ kỳ để chim mái chú ý khi đi tìm bạn tình, không muốn thằng Luận cục hứng tôi ghẹo  nó liền:

  – Tui nói thiệt ông đừng buồn nghe, lần đầu tui mới thấy ông ăn mặc thật đúng model đó, đây là cơ hội cuối cùng để ông ngỏ lời với nhỏ Hương, ông nhốt “Con thỏ” vô chuồng đi, chuyến này ông mà lần lựa nữa thì coi như “Rụt tùng” luôn đó nghe chưa.

  Thằng Luận nhìn tôi với đôi mắt như van nài, nó nói:

  – Tui biết rồi, không biết bao năm trời học chung trước kia, theo ông nhỏ Hương biết tui thích cô ta không? Mà nè ông Trí, xíu nữa gặp nàng ông nói phụ vô giúp tui, sao tui run quá chừng tim đập liên hồi mệt lắm.

  Thấy thằng Luận chưa chịu buông bỏ cái tính nhát như thỏ đế, ai đời nói lên tiếng lòng của mình với người mình yêu mến mà không dám mở lời, đã vậy nó nhờ tôi làm ông mai bất đắc dĩ cho mối lương duyên này, nếu suôn sẻ thì không có gì để nói, còn như sự việc không như ý muốn của nó thì chẳng những sẽ làm cho nó buồn mà tôi cũng bị  “Quê cơ” vì không có cái lưỡi như “Tô Tần” đễ thuyết phục được nhỏ Hương xiêu lòng với bạn tôi, tôi bèn nói với thằng Luận:

  – Tui thấy ông giống tâm trạng mấy bản nhạc Bolero sầu não quá, có bài họ diễn tả anh chàng nọ yêu mà không dám ngỏ lời, để rồi khi “Ván đã đóng thuyền” nàng ta hẹn chàng kiếp sau, nghe mà buồn não nuột, thôi được rồi tui chìu ông chuyến này thôi nghe, ba cái vụ làm mai này tui ớn lắm rồi.

  Nghe tôi “Phán” câu trên, thằng Luận khẽ cười, hắn còn vỗ  vai tôi hắn nói:

– Tui nhìn người không lầm chút nào, chỉ có ông là tốt nhất trong đám bạn ngày xưa, cảm ơn ông trước nghe, xong vụ này tui đền ơn ông cái đầu con heo mọi ông tha hồ mà nhậu.

  Tôi lấy tay thụi nhẹ vô ngực thằng Luận rồi nói:

– Ông này, ông làm như tui là  “Bợm nhậu” không bằng, mà trả công bằng đầu heo mọi coi sao được, chí ít cũng phải nguyên con heo mới xứng đáng công lao của tui.

Thằng Luận nó cười trừ sau câu nói của tôi, nó nói thêm:

– Trong đời tui chưa thấy ông mai nào đòi hỏi quá đáng như ông mai này hết nghe, thôi được rồi nguyên con heo và kèm theo kết Larue con Cọp luôn ông chịu chưa?

  Rồi chừng như chực nhớ đến giờ hẹn, nó thúc giục tôi:

  – Ông Trí đẩy chiếc xe đạp vào bên hông nhà đi, tui mượn chiếc Honda 67 của cậu Năm tui rồi, họp mặt đông đủ mà đạp cái xe cà tàng của ông đến chắc mấy nàng chẳng thèm nhìn mình đâu.

Tôi đáp trả Luận ngay:

  – Ông nói quá, mấy nàng lớp mình xưa nay đâu ai có cái tánh phân biệt nghèo giàu gì đâu, à tui nhớ rồi duy nhất có bà Minh con ông phó Quận là hay kênh kiệu thôi, chứ mấy nhỏ khác ai cũng dễ thương sống hòa đồng với mọi người, nhưng những năm về cuối sắp chia tay,  bà Minh cũng xuôi theo đám mình vì bả nhận ra làm “Tiểu thơ ” hoài nên không ai thích giao du với bả ông nhớ không?

Nghe nhắc lại chuyện ngày xưa, tự dưng thằng Luận hứng chí nó bèn “Góp vốn” thêm vô:

  – Nhắc tới bà Minh tui mới nhớ, cái hôm đầu tiên bả chạy chiếc Velosolex vô trường với gương mặt tự đắc, thấy chiếc xe mới cáu ai cũng ngước nhìn khiến cho bả càng làm điệu thêm, vui nhất khi tan trường cô nàng mới đạp có  mấy vòng, xe chưa có trớn vậy mà nàng vội đẫy cái cần ra khỏi ngàm khóa máy xe, khiến xe bị khựng lại rồi ngã ngang  làm cho bả té “bò càng bò niễng” thấy vậy cả đám cười rần lên, cũng tội nghiệp lúc này gương mặt bả quê một cục, hên cho bả mấy chàng học kế lớp mình chạy đến giúp, ông nhớ không ông Trí?

Tôi cười và trả lời:

– Trời chuyện đó không nhớ mới lạ à nghe ông, trong trường mình chỉ có cô nàng là có “Xế nổ” thôi nên ai mà không nhớ, thôi tới giờ rồi đi nhanh kẻo muộn.

Mùa hạ về khiến cho không khí vùng cao nguyên ngày càng khô khốc, ban ngày trời  nóng như thiêu như đốt, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời soi rọi xuống khiến không khí như đặc quánh lại, con đường đất đỏ dẫn vào thị xã tung đầy bụi mù khi thỉnh thoảng có chiếc xe vụt chạy qua, ngồi sau lưng thằng Luận thấy nó lái chiếc xe thật điệu nghệ, bởi những ổ gà chi chít trên đường nếu không khéo thì xe lao xuống các ổ gà này, nếu nhẹ thì ê ê cái bàn tọa, còn nặng nề hơn nữa thì có thể hai đứa tôi sẽ là nhân viên ” Đo đường ” của Ty Công chánh, vậy mà thằng Luận lạng lách thật tài ba, thỉnh thoảng như muốn khoe cái tài này nó ngoái lại và hỏi tôi:

  – Sao, ông Trí thấy tui lái “Ngọt” ghê chưa, mấy tay yên hùng trên xa lộ ở Sài gòn gặp tui là tui cho ngữi khói hết.

  Suýt rớt khỏi yên xe chiếc Honda mấy lần, cũng may nhờ tôi bám chặt vào “Eo ếch” của thằng Luận, nhưng không muốn mất lòng nên tôi bèn “xạo” cho nó vui lòng:

  – Mình công nhận ông lái xe hay “Tuyệt cú mèo” luôn nghe, gặp mình cầm lái  thì hai đứa “Đo ván” từ lâu rồi.

  Nghe tôi khen xạo khiến nó tưởng thật nên hứng chí Luận càng  chạy theo kiểu  “Bạt mạng” làm tôi xanh máu mặt, tôi càng bám víu vào lưng áo nó, chắc cũng nhờ trời thương nên hai đứa tôi được bình yên khi đến nơi hò hẹn.

Quán cà phê có cái bảng hiệu khá lạ lẫm, chủ quán cà phê này không hiểu với mục đích gì mà đặt tên cho quán mình là  Cà phê “Đợi Chờ”, trong khi dọc theo con đường này những quán cà phê mang tên thật lãng mạng như: Thạch Thảo, Mây Hồng, Suối mơ.v.v….

  Vừa dắt xe vào sân, bà chủ quán cà phê đến bên chúng tôi đon đả mời chào:

  – Hai chàng trai của tôi đi với ai, có phải người quen của mấy nàng kia không?

  Hỏi xong bà chỉ tay vào phía bên trong quán, tôi vội đưa mắt nhìn vào thấy ngay ba cô gái đang giơ tay vẫy gọi chúng tôi.

  Tôi dùng tay ra hiệu báo cho các cô nàng chúng tôi đã nhận ra họ, tôi gật đầu xác nhận với bà chủ quán, thấy vậy bà lên tiếng nói tiếp:

  – Hai em đưa xe vào phía sau, có người trông coi dùm chị nhé, chúc hai em có một buổi thật vui ở quán chị.

Vẫn cái tính thỏ đế không chừa, thay vì cứ hiên ngang vào quán, khi gửi xe xong thằng Luận nó đẫy vai tôi, nó nói:

  -Ông Trí đi trước đi tui theo sau, mà ông nhớ nhe, nói phụ vô giúp tôi nhé, nếu thấy chổ nào thuận tiện ông  cứ nói chen vô, vì lúc còn  ở nhà tui nghĩ nhiều chuyện nói với Hương, vậy mà bây giờ nó bay đi đâu mất.

Tôi nhìn thẳng vào mặt thằng Luận, tôi thấy gương mặt nó xanh mét không còn chút máu, tôi phá lên cười rồi làm bộ nói lớn tiếng cố tình cho Hương nghe:

  -Hôm nay ra mắt bên nhà gái sướng gần chết, vậy mà ông đóng kịch với tui hoài, thôi vô lẹ để mấy người đẹp chờ.

  Vừa giáp mặt các cô nàng, chưa kịp chào hỏi thì nhỏ Hương đã vội lên tiếng:

  – Hóa ra hôm nay trùng với ngày ông Luận nhà mình đi hỏi vợ hả ông Trí?

Nghe câu hỏi của Hương tôi cười thầm trong bụng rồi tự nói với mình:

” Bà Hương này trúng kế mình rồi”

– Ừa, đúng rồi Hương ơi! Hôm nay là ngày ông Luận hỏi vợ đây, mà ông này cũng lạ nghe bà, con gái người kinh ở thị xã này thiếu gì, tự dưng ổng ưng cô người Thượng, cô ta thuộc tộc người Bana, hay Jarai gì đó, trưa nay nhà ổng lên làng Konjoret xem mắt nàng dâu nè, nhưng gặp bạn bè xưa cũ phải đặt lên hàng đầu, nên nghe mấy bà nhắn nhủ, hai đứa mình bỏ hết mọi việc đến đây đễ hầu chuyện với mấy bà nè.

  Dường như có chút thoáng buồn hiện lên đôi mắt nhỏ Hương sau khi nghe câu chuyện trên, cố trầm tĩnh Hương cười gượng:

  – Hi hi hi, lâu ngày không gặp mấy ông, tụi tui tưởng hai ông vợ con đùm đề rồi chứ. Ai dè mãi hôm nay ông Luận mới “Xuất giá”, còn ông Trí có cô nào “Nâng khăn sửa túi” chưa?.

Nghe câu chuyện tưởng tượng tôi tạo ra, rồi nghe Hương đối đáp như vậy, sợ vuột cơ hội, tự dưng thằng Luận lên tiếng:

  – Hương ơi! Bà quên ông Trí là chúa tiếu lâm hả, ổng nói vậy mà bà cũng tin, Bana, Jarai gì đâu ổng ghẹo mấy bà cho vui đó, hôm nay hai đứa được nghĩ phép, qua bạn bè nhắn nhủ nên tranh thủ gặp lại mấy bà hàn huyên tâm sự cho vui.

  Gương mặt Hương như vui hẳn lên khi nghe chính miệng của Luận nói ra, Hương quay sang làm cho tôi một trận:

  – Cái ông quỷ Trí này, cái tật cà rỡn không chừa, thôi gọi cà phê đi hôm nay phe tóc dài bao cho hai ông đó.

Thấy tình hình có mòi thuận lợi, tôi dò hỏi Các cô nàng về hoàn cảnh sống, nhỏ Huỳnh xem như ván đã đóng thuyền, nàng sẽ lên xe hoa về nhà chồng vào dịp cuối năm, lúc này tôi lại nhớ một vài câu thơ của nhà thơ Hàn mạc Tử trong bài Mùa Xuân Chín, có đoạn như sau:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

  Bao cô thôn nữ ở trên đồi.

  Ngày mai trong đám xuân xanh ấy.

  Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”.

Giờ thì còn lại nhỏ Hương và nhỏ Ngân thì vẫn “phòng không chiếc bóng”, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ:

  “Sẳn dịp mai mối cho Luận, mình phải tấn công nhỏ Ngân luôn, sau này có đi đâu chơi thì đủ cặp”.

Cà phê  được mang ra mùi thơm bay ngào ngạt, ở vùng biên trấn cao nguyên này loại cà phê hảo hạng do bà con người kinh  trồng thành đồn điền, còn lại phần đông người Thượng trồng ven đường dẫn vào các buôn làng, đến mùa đơm hoa kết trái, các con đường trắng xóa hoa cà phê nở trên cành, khi đi trên những con đường làng này tôi có cảm giác như đi vào “Động  thai thai” như “Từ thức đang lạc bước vào cỏi thần thiên”.

Những giọt cà phê nâu sánh chầm chậm nhỏ xuống, nóng ruột vì cà phê chảy chậm, tôi đưa tay lấy nắp đậy cái phin ra, dự định khiều nhẹ miếng chặn trong phin lên cho cà phê chảy nhanh một chút, bổng đâu sau lưng tôi bà chủ quán giữ tay tôi lại, bà đậy cái phin cà phê lại như lúc ban đầu, kéo chiếc ghế mây của bàn kế bên bà ngồi xuống và nói:

  – Chàng trai này nóng vội quá, uống pha cà phê phải nhẫn nại một chút, gấp gáp quá cà phê chưa nở hết không ngon, các bạn biết tại sao chị đặt tên quán  là Cà phê  “Đợi Chờ”  hay không?

  Không đợi chúng tôi nêu thắc mắc, chị đã vào câu chuyện, sở dĩ chị có mặt trên vùng đất cao nguyên màu mỡ này là do cơ duyên trong một lần theo người bạn “Bỏ phố lên rừng”, để khám phá tình đất tình người nơi đây, lần nọ khi cùng cô bạn thân ngồi nghỉ chân trong một quán cà phê nơi phố núi, không hiểu do “Ông tơ bà Nguyệt” khéo se duyên hay không mà chị và anh chàng pilot quen rồi thương nhau từ đó, những lần hò hẹn hai người bay về Kontum để chị ra mắt cha mẹ bên người chồng tương lai, những tưởng con thuyền tình của hai người sẽ mãi mãi bên bến bờ hạnh phúc, nhưng định mệnh trớ trêu anh không về với chị trong một phi vụ nơi miền hỏa tuyến, suốt ngày hôm anh “Gãy cánh đại bàng” chị ngồi chờ anh trong vô vọng… thế là quán cà phê do chị làm chủ sau này mang tên “Đợi Chờ” với thâm ý anh vẫn còn hiện diện đâu đó trên cỏi đời này, chị vẫn đợi anh, chờ anh trong nỗi cô đơn vô vọng.

Chị vừa kể xong câu chuyện tình buồn của mình thì chị xin phép lui vào trong quán, chừng xem lại những phin cà phê đã cạn nước tự bao giờ, lúc này chúng tôi mới thấy cái tài dẫn dắt câu chuyện khiến chúng tôi quên cái chậm chạp của giọt cà phê, chúng tôi bắt đầu mến cái quán cà phê của chị từ đó.

Vành đai thị xã nơi đơn vị tôi và thằng Luận đồn trú sau bao ngày yên ắng bắt đầu sôi sục không khí chiến tranh, sau buổi hò hẹn cà phê với ba cô bạn học ngày xưa rồi thì chúng tôi cũng có đôi có cặp, cái cặp “ăn khách” nhất là nhỏ Hương và thằng Luận, hai đứa khi hiểu nhau rồi chúng quấn quít như sam, còn tôi với nhỏ Ngân chắc đường nhân duyên hai đứa không chung hướng, câu chuyện tình cảm của chúng tôi như  “Lục bình trôi sông” nên chúng tôi chia tay nhau, với hai đứa tôi chỉ còn đọng lại trong lòng tình bạn thời học trò đã qua.

Một đêm nọ đơn vị chúng tôi bị tấn công với hỏa lực mạnh của đối phương, nhờ công việc chuẩn bị phòng thủ tốt, nhờ các lực lượng phi pháo yễm trợ nên chúng tôi giữ vững phòng tuyến…

  Khi tiếng súng tan, kiểm soát lại lực lượng của đơn vị lúc này tôi mới hay tin thằng Luận đã tử trận, tôi như kẻ mất trí khi ghì xác thằng Luận bên mình, tôi đã khóc khóc thật nhiều cho thằng bạn rất đỗi thân thương, tôi trách nó:

  – Mầy hứa với nhỏ Hương những gì mầy nhớ không Luận, cặp nhẫn cưới sẽ không còn cơ hội nằm trên ngón tay của hai đứa bây rồi, mầy thất hẹn với Cha xứ để cha làm lễ hôn phối cho tụi bây rồi, mầy không còn dịp ngồi quán cà phê Đợi chờ để đấu láo với mọi người nữa rồi, và mầy còn nợ tao con heo quay và kết larue nữa.

  Tiếng Rít của cánh quạt chiếc trực thăng tản thương lao đi khi trời còn mờ sáng, nó chở theo xác thằng Luận và số thương binh, nó đã “đi xa” thật rồi tôi thẩn thờ nhìn bầu trời rộng lớn phía trên cao, tôi liên tưởng thằng Luận đang bay nhởn nhơ với đôi cánh thiên thần, tôi chắc rằng người hiền lành như thằng Luận sẽ được Chúa dang tay đón rước.

  Ngôi mộ đất của thằng Luận nằm ven đồi cà phê cạnh nhà nó, Hương tự nguyện làm dâu con trong nhà để sớm hôm gần gũi với mộ phần người mình yêu.

Một ngày giữa tháng ba năm Bảy lăm, toàn bộ Kontum rụt rịch triệt thoái quân về  miền duyên hải,  và rồi miền nam gãy súng khiến tôi trôi dạt vào tận Sài gòn sống đến tận giờ.

  Gần bốn mươi năm sau, tôi có dịp  trở lại nơi một thời của tuổi học trò hoa mộng, trở lại thăm những kỷ niệm còn chôn chặt trên miền cao nguyên đầy nắng gió, tôi tìm thăm lại mộ phần thằng Luận, tôi thăm lại nhỏ Hương để xem cuộc sống của nhỏ ra sao…

Tôi thất vọng hoàn toàn, những cảnh vật đã hoàn toàn thay đổi, dấu tích của một thời của ngày xưa không còn lưu lại một chút gì, ngôi mộ thằng Luận cùng đồi cà phê chẳng còn nữa, phố sá ánh điện sáng choang, con đường đầy ổ gà với bụi mịt mù  cũng không còn, còn chăng dĩ vãng đầy yêu thương nằm mãi mãi trong tâm trí tôi, Nhà Luận cũng dọn đi đâu mất những người lạ hoắc lạ huơ thế chổ vào, tôi cố hỏi để tìm Hương nhưng vô vọng, bỡi căn nhà này sang tên đỗi chủ mấy đời không ai biết Hương giờ ở đâu.

Tôi lân la tìm lại con đường có quán và phê “Đợi chờ” của năm nào, thêm một lần thất vọng, đường phố nhà cửa lạ lẫm khiến tôi buồn buồn cố nhớ lại gương mặt hiền của chị chủ quán, lại lần nữa tâm trí tôi lại nhớ những câu thơ:

  “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thắm thoát mấy tinh sương

Lối xưa xe cũ hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.”

Quay lại Sài gòn chốn phồn hoa đô hội, thời gian và công việc nơi đây nó lôi cuốn mọi người làm không ngơi tay để có miếng cơm manh áo, một chủ nhật nọ tôi thả bộ khu nhà thờ Đức Bà, sau một hồi tham dự thánh lễ nơi “Vương cung thánh đường” tôi ra công viên đối diện dinh Độc Lập ngày xưa để hít thở không khí trong lành buổi ban mai, vừa dựa lưng vào ghế đá thì có một người phụ nữ đội nón lá lụp xụp đến bên tôi chị ta mời:

– Ông ơi! Mua giúp tôi thuốc lá đi ông.

Tiếng người phụ nữ thật quen thuộc, tâm trí tôi nhanh chóng nhận ra tiếng nói nhỏ Hương ngày nào, tôi dỡ nhanh cái nón lá ra, đúng là Hương ngày nào đây rồi, thật tội nghiệp Hương tiều tụy theo năm tháng, riêng Hương ban đầu hốt hoảng nhưng khi nhận ra tôi Hương òa khóc và nàng ôm tôi thật chặt. Cơn xúc động lắng xuống Hương kể lại nỗi bôn ba thống khổ khi chạy từ miền cao nguyên về tới Sài gòn, nàng suýt bỏ mình mấy bận khi di chuyển trên liên tỉnh lộ 7B…

Tôi vuốt lại mái tóc Hương, rồi kể lại cho nàng nghe chuyến về thăm lại quê nhà cho nàng nghe, kể đến đâu cả hai chúng tôi nấc nghẹn đến đó, khiến các bạn trẻ đi ngang tưởng tôi hà hiếp Hương điều gì nên họ đứng quan sát chúng tôi với thái độ dè dặt…

Tôi và Hương quyết định chung sống với nhau đến cuối đời, trước ngày chúng tôi dọn về ở chung trong căn nhà nhỏ của tôi, chúng tôi lập bàn thờ thằng Luận đặt trang trọng trong gian thờ, hai đứa tôi thắp nén nhanh khấn vái vong linh thằng bạn thân ngày nào, mong nó không hờn ghen với cái hạnh phúc muộn màng của chúng tôi, Hương khấn vái thì thầm điều gì tôi không rõ, riêng tôi thì:

– Luận ơi! Hương là vợ tương lai của mầy, tao rất mong mầy và Hương sẽ là một đôi chim liền cánh, nhưng mầy đã phụ Hương mầy bỏ đi xa không hẹn ngày về, thôi thì số phận đã an bày, hôm nay tao và Hương hai người tứ cô vô thân gặp lại nhau nơi này, tụi tao sẽ ở đây sống với mầy trong căn nhà tao, mong mầy phù hộ cho Hương và tao không còn chia ly đến cuối cuộc đời.

  Cắm nén nhanh lên bàn thờ  thằng luận xong, tôi loay hoay làm việc lặt vặt trong nhà, bổng tiếng kêu to của Huong làm tôi giật mình:

– Anh Trí, anh Trí lên xem nhanh lên!

  Bỏ công việc dở dang phía sau tôi tức tốc chạy lên, Hương há hốc miệng chỉ tay vào lư nhang, những cây nhang chúng tôi cắm vào nó uốn tàn cong vút nhiều vòng, chưa hiểu ý Hương nói gì tôi hỏi:

  – Gì mà em la làng thấy ớn vậy?

– Anh xem kìa, anh Luận chứng giám lòng thành của vợ chồng mình rồi đó.

Nói xong nàng kéo tôi quỳ xuống lạy tạ ơn thằng bạn thân có nghĩa khí. Tôi thầm nghĩ thằng Luận nó rất hài lòng khi tôi đứng ra bảo bọc cho Hương, tôi ngước nhìn vào di ảnh của nó, tôi thấy nó nở nụ cười thật tươi như lúc nó thử xong bộ đồ vía hôm gặp lại nhỏ Hương mấy chục năm về trước, tôi cũng cười với “nó” rồi thì thầm:

  – Cảm ơn nha bạn hiền, thôi tao sẽ cúng cho mầy con heo quay và kết bia Heniken coi như huề.

  Tôi phá lên cười, thằng Luận hình như nó cũng cười theo khiến tôi cảm thấy rờn rợn nỗi da gà.

Viết xong 21.04.2016

ĐÁM RAU CÀNG CUA

   ( Hai Hùng SG).

 Lâu lắm rồi tui mới có dịp ghé lại thăm ông “bạn vàng” của mình, anh Chín Thâu là đồng nghiệp của tui trong thập niên bảy mươi, tuy là công nhân nhưng kỳ thực anh Chín là người Nông dân 

“ Chánh gốc Miến điện” .

                   ***

 Bởi trước khi qua đời cha mẹ anh Chín đã chia cho anh chị em trong nhà những mảnh đất thật rộng lớn, những mảnh đất này trồng trọt rau cải và nhiều loại bông hoa để bán ra chợ khi ngày âm lịch Trăng tròn hoặc ngày mùng một của mùa Trăng mới, kể cả ngày Tết và lễ Lộc hàng năm, huê lợi cũng đủ cho anh nuôi đàn con gồm chín đứa nhỏ đẻ năm một do chị Chín người đầu ấp tay gối của anh.

  Bũa nọ tui với thằng Răng Lớn một trong những người bạn thân thiết với anh Chín, vừa thắng xe trước cửa nhà anh thì đã nghe tiếng chị Chín reo lên:

 – Ông ơi! Chú Hùng chú Răng lên tới kìa, ông ra đón mấy chú để tui với mấy đứa vô bếp dọn đồ ăn lên rồi nhập tiệc.

 Nghe chị Chín nói với cái giọng chân tình, thằng Răng lên tiếng:

 – Tụi em lên chơi thôi, chị cứ để anh Chín tự nhiên đi, khách khứa gì mà chị phải bận tâm.

 Với giọng miền nam ngọt lịm, chị chín nói:

– Ý đâu được, hai chú là chỗ thân tình với anh Chín tui, hơn nữa lâu lắm rồi mới thấy hai chú lên chơi, tui tưởng đâu mấy chú quên tụi tui rồi chứ, nghe anh Chín nói Chủ nhật  mấy chú lên chơi, hai vợ chồng tui chuẩn bị hết rồi, hai chú ngồi chơi chút nha.

 Nghe chị Chín nói tui với thằng Răng cảm động vô cùng, đợi chị đi khỏi tui nói với thằng Răng:

– Chèn ơi, ai cũng như gia đình anh Chín đối xử với bạn bè chân tình như vầy thì cuộc đời này mần gì có “Thạch Sanh với Lý Thông” há Răng.

 Thằng Răng cười hiền rồi nói với tui:

– Đó bởi vậy anh Chín nhà mình có ai ghét ảnh bao giờ đâu, ổng hiền như cục bột, đã vậy chị Chín với mấy nhỏ ở nhà cũng thật dễ mến.

 Chừng ít lâu sau, chị Chín cùng mấy đứa nhỏ bưng đồ ăn lên, ngó những món chị lần lượt bày trên cái bàn gỗ vuông rất nhiều món,  làm tui với thằng Răng ái ngại vô cùng, nào là canh Khổ qua dồn thịt, thịt kho Tàu ăn với dưa giá, Bánh Tét nhân thịt heo có kèm theo dĩa củ cải trắng ngâm nước mắm, mấy cặp Lạp xưởng Mai quế lộ chiên vàng ươm bóng mỡ, đang nằm trên cái dĩa tráng men bóng loáng cùng  dĩa củ kiệu tôm khô đi kèm, Con gà thả vườn luộc chặt nhỏ xếp gọn trong cái dĩa sành có họa tiết bông hoa thời xa xưa thật cổ kính, đặt biệt là dĩa rau Càng Cua trộn dầu giấm, trên mặt được chị Chín trang trí những lát trứng vịt luộc , kèm theo rau thơm với hành phi thơm nức mũi, chén nước mắm chấm chị Chín cũng làm xuất sắc không kém, những món ăn này làm cho tui với thằng Răng liên tưởng như mình đang ăn Tết với gia đình anh Chín, tui bèn cất tiếng nói:

 – Chưa Tết mà anh chị Chín đãi mấy món này sớm quá vậy, giờ chỉ còn phong pháo với trái dưa hấu nữa là y chang ngày Tết luôn.

 Chị Chín thay mặt chồng, chị cười giòn rồi nói:

– Thì đó, hôm ba mươi Tết năm rồi hai chú hứa lên nhậu tất niên với ông Chín, tội nghiệp ổng chờ lâu quá mà không thấy hai chú lên, ông chín nhà tui nói hai chú cho ổng “Leo cây thoa mỡ bò”  làm cho ổng buồn quá chừng.

 Tui lên tiếng Phân bua:

 – Hôm đó có chuyện nhà bất tử không thể nào đi được nên thất hứa chị ơi, chứ tụi em nào dám “Hứa lèo” đâu chị.

                  ***

  Mấy anh em tụi tui đang ngồi uống lai rai, cũng lâu rồi mới gặp nhau nên ai cũng muốn “Trút bầu tâm sự’, thấy thằng Răng gắp miếng rau càng cua bỏ vô cái chén của mình, anh Chín bèn nói :

 – Chú Răng mầy chan thêm chút xíu nước  mắm của bà xã tui làm nữa là ngon dữ lắm.

 Đợi cho thằng Răng lua vội miếng rau càng cua vô miệng, anh Chín liền hỏi:

 -Sao chú mầy thấy anh nói có trúng y bon không?

 Vừa Nuốt miếng rau càng cua qua khỏi cổ họng,  Răng liền nói:

 -Ngon số dách luôn anh Chín  ơi.

 Rồi dường như món rau càng cua này nó làm cho thằng Răng nhớ lại kỷ niệm năm nào, nó nói:

 -Sẳn anh Chín nói về rau càng của, tui kể lại  chuyện này nè..

 Uống cạn ly rượu đế cay nồng Răng bắt đầu kể..

                    ***

  Cửa Việt vùng Hỏa tuyến nơi đóng quân của Thủy quân Lục chiến, nhân hiệp định Paris vừa có hiệu lực, quân đội hai miền có nơi  cách nhau chừng mươi thước, phòng tuyến hai bên đều có giao thông hào để phòng thủ và chiếu đấu, binh sỹ hai phía không còn núp kỹ bên dưới, họ leo lên những ụ đất phía trên giao thông hào chào hỏi lẫn nhau như chưa từng chiến đấu một mất một còn, thấy tình hình đối đầu không còn căng thẳng,  thằng Răng xin thiếu úy Trung đội trưởng cho nó và vài người bạn vô xóm để mua một ít thức ăn và các đồ dùng cần thiết, thấy lính tráng của mình nằm gai nếm mật đã lâu, nên ông đã đồng ý và dặn dò :

 -Tụi bây đi mau rồi về, mua bán sòng phẳng nha bây, cũng đừng có rượu chè không tốt đâu.

 Răng và đám bạn đám bạn dạ rân rồi  vác súng đi vô xóm phía sau phòng tuyến của trung đội mình, vừa đặt chân vô xóm cả đám liền vô cái quán ven đường để mua cái gì bỏ vô bụng, ăn uống xong Răng mua một chút ít đồ gia vị để dành nấu ăn, trả tiền xong cả đám thả bộ ra phía khu vườn sau cái quán vì nơi đây cây cối rậm rạp mát mẻ, tình cờ cả đám thằng Răng thấy đám rau càng cua mọc kín bên bờ con suối chảy quanh co trong khu vườn, mừng quá vì đã lâu cả Trung đội chỉ ăn cơm gạo sấy và thịt hộp, nay gặp đám rau càng cua này đứa nào cũng mừng ra mặt, thằng Đoàn bạn của Răng vừa định ngồi xuống nhổ đem về, thấy vậy Răng ngăn cản lại:

– Ý khoan nhổ nha tụi bây, coi chừng của dân họ trồng, mình vô hỏi xin hoặc mua cho đàng hoàng, nhổ đại nhiều khi dân họ phiền.

 Lúc này ông chủ quán ăn xuất hiện, nghe Răng nói vậy ông tỏ ý hài lòng, ông nói :

 -Mấy anh cứ hái về mà ăn, nó mọc hoang cả đó chứ có ai trông bao giờ đâu mà mấy anh ngại.

  Cả đám cảm ơn ông rối rít rồi cùng nhau nhổ một bao thật bự đem về đồn.

 Vừa cất bước rời khu vườn để về lại đơn vị, bổng đâu ông chủ quán lại xuất hiện, lần này trên tay ông cầm bịch giấy đưa cho Răng, ông nói:

 – Rau này phải có trứng vịt luộc, tui cho mấy anh chục trứng nè, đem về trộn dầu giấm ăn cho ngon miệng.

 Cảm động với cái chân tình của người dân nơi vùng hỏa tuyến, thay mặt anh em Răng nhận lấy rồi không quên nhét vô tay ông mười đồng.

 Răng nói:

 -Tụi tui cảm ơn chú, cho cháu gửi chút đỉnh chứ không chú thiệt thòi thì tội chết.

 Ông chủ quán đẩy tay thằng Răng ra, ông ôn tồn:

 -Có bao nhiêu đâu mà thiệt thòi anh ơi, có mấy anh nằm ngoài đó giữ yên xóm làng tụi tui mừng lắm, chút ít gửi đến mấy anh coi như thể hiện tình quân dân cá nước vậy mà.

 Hiệp định đình chiến tồn tại không bao lâu thì hai bên lại nổ súng, phòng tuyến nơi Răng trấn thủ cũng ăn pháo mỗi ngày.

  Đêm nọ bằng gấp chục lần quân số của trung đội của thằng Răng, phía bên kia họ tấn công dữ dội, sau vài giờ kháng cự quyết liệt khi hết đạn cả trung đội thằng Răng bị bắt làm tù binh, riêng viên thiếu úy Trung đội trưởng của Răng đã anh dũng đền nợ nước.

 Vậy là anh em trong trung đội trở thành tù binh của bộ đội Bắc Việt, khoác trên nguòi bộ đồ nâu xậm họ dẫn giải số tù binh này vô sâu vùng núi phía dãy Trường sơn hùng vĩ để ” Học tập cải tạo” . 

  Trước khi lên dãy Trường sơn, đám thằng Răng được đi ngang cái quán ăn hôm nọ, thấy đoàn ngưòi mặc quân phục lạ lẫm đang dẫn đám tù binh đi ngang qua, ông chủ quán bất chợt nhìn thấy thằng Răng và anh em nó mới hôm nào hiên ngang, nay đã là tù binh bất giác ông chạnh lòng vì những chú “Cọp biển’ từ nay phải làm thân ” Cá chậu chim lồng”.

                       ***

 Nghe xong câu chuyện trên anh Chín Thâu lên tiếng :

 -Chèn  ơi, vậy là chú Răng bị tù mấy năm?

 Răng trả lời:

 -Bảy ba bị bắt, vô núi chặt cây đốn củi, làm nhà tới bảy sáu mới dìa anh ơi.

 Chị chín nghe vậy cảm thán:

– Lúc đó chắc kham khổ thiếu thốn dữ há chú Răng.

 – Dạ đúng vậy đó chị, mới đầu thì buồn chán lắm, nhưng dần rồi cũng quen.

                   ***

  Cuộc vui nào rồi cũng tàn, đến giờ chia tay tụi tui cáo từ anh chị Chín Thâu để ra về, ra tới ngoài sân nhà bổng đâu thằng Xuân con trai của anh Chín khiêng chất lên xe chi hai đứa tui hai bịch rau sống đủ loại tươi rói, chị Chín nói:

 -Anh Chín ổng gửi hai chú một ít rau về nhà ăn lấy thảo. Cho tui gửi lời thăm mấy thím ở nhà mạnh giỏi.

 Thật cảm động với tấm chân tình này của anh chị Chín, hai đứa tui cảm ơn anh chị thật nhiều, tuy giá trị vật chất anh chị gửi cho tụi tui không nhiều lắm, nhưng ông bà thường nói “Cách cho hơn của cho” khiến tụi tui cảm kích vô cùng.

                    ***

 Anh Chín Thâu thọ bệnh, căn bệnh phổi anh tái phát phải vô nhà thương Nguyễn văn Học nằm điều trị, tui với thằng Răng vô thăm anh với vài hộp sữa Ông Thọ, vài gói bánh để anh dưỡng bệnh…

  Một ngày nọ khi đất nước bước vào mùa Xuân, mùa của đầm ấm và  sum vầy, vậy mà anh không chịu nấn ná dương trần với tụi tui anh đã vĩnh viễn ra đi, đến viếng anh khi nhìn lên di ảnh tui thấy anh cười, một nụ cười thật hiền lành, chất phát của người nông dân “,Chánh gốc Miến điện” ngày nào.

 Rồi thằng Răng bạn tui nó cũng nối gót anh Chín để rong chơi cuối trời quên lãng, nơi chắc không có thù ghét lọc lừa, nơi mọi người yêu thương đùm bọc nhau, nó sẽ gặp lại đồng đội năm xưa, hy vọng nó với anh Chín Thâu cùng nhau thưởng thức món Rau càng cua như khi còn tại thế.

                     ***

 Mùa Xuân lại về, Tết con Mèo cũng ngấp nghé bên thềm, nhớ anh Chín , nhớ thằng Răng tui viết nên câu chuyện này. Mong anh và nó yên vui miền “xa lắc xa lơ” đó nghe hai bạn của tui.

                 1.1.2023

Trở Lại Nha Trang

Hai Hùng SG

Trong biển nhạc mênh mông của quê hương mình , nhiều bài hát và nhiều tác giả đã đưa chúng ta sống lại cái thuở yêu đương của thời tuổi dại , những kỷ niệm của ngày xưa thân ái , cũng có tác giả dìu chúng ta đi cùng nhau suốt chiều dài cuộc chiến trên đất mẹ lầm than ,và không ít tác giả đã lột tả được nét đẹp quê hương và những tự tình của dân tộc .

Một trong những bài hát đã cho tôi nhiều cảm xúc trào dâng , khi nghe câu Hát : ” Nha Trang ngày về , mình tôi bên bãi khuya , tôi đi vào thương nhớ , tôi đi tìm cơn gió xây lại mộng mơ năm nào …” Thì lần nào cũng vậy hình ảnh Nha Trang , một người con gái mang cái tên Thật gần gũi với thành phố biển này , em mang tên Nguyễn Thị Nha Trang lại hiện về trong tâm trí tôi , ngày đó ….

* * *

Ngày ấy khi ngoài trời còn một màn đêm bao phủ thành phố , qua ánh đèn đường vàng vọt nhìn qua cửa sổ của Quân y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang , tôi thấy nhiều toán người hối hả dắt díu bồng bế nhau chạy đi chạy lại trên con đường trước mặt, nhìn chiếc đồng hồ trên tay tôi thấy mới gần bốn giờ sáng mà sao người đi trên đường nhiều như trẩy hội , tôi mặc bộ quân phục vào người , lúc này tôi cảm thấy bộ đồ này như rộng hẳn ra , rồi tôi mới chợt nhớ mình nằm điều trị sốt rét ác tính tại nơi đây cả tuần rồi còn gì , kể từ cái hôm di tản chiến thuật từ Kontum theo liên tỉnh lộ 7B , con đường đau khổ đã hằn in nhiều nỗi thống khổ của mọi người thời bấy giờ theo dòng người nối đuôi nhau dài ngoằng, thiếu thốn đủ mọi thứ , rồi chết chóc , thất lạc người thân v.v.. một bức tranh thật buồn của những ngày tháng ba trên vùng cao nguyên này.

    * * *

Bất chợt cô y tá người mà hằng ngày chăm sóc bệnh tình tôi qua từng chai nước biển, từng phần cơm , từng viên thuốc sốt rét đang vội vã đi ngang , tôi lên tiếng hỏi thăm :

– Chị ơi ! có nghe tình hình gì không ? Mà tôi thấy ngoài đường chộn rộn quá vậy? .

Cô y tá hớt hải trả lời :

– Anh lo dọn đồ đạc đi nhanh ra cầu Đá may ra còn kịp đón tàu cặp bến cho di tản , quân y viện này họ bỏ đi gần như trống trơn , mấy ổng bên kia nghe nói đến gần Nha Trang lắm rồi .

Tôi nghĩ trong lòng :

– Tình hình tồi tệ đến nữa rồi đây .

Tôi chợt nhớ mới tuần trước đây thôi , khi đoàn quân của tôi di tản còn cách cầu sông Ba chừng vài cây số , chúng tôi rải quân nằm lại chờ trời sáng mới bắt đầu đi tiếp . Trời đêm rừng núi xuống thật nhanh , cầm chiếc bi đông lắc nhẹ tôi nghe chỉ còn một ít nước , nếu không có nước thì đêm nay chưa chạm súng với địch có khi mình chết khát cũng không chừng , bổng đâu thằng Kết bạn thân thiết của tôi nó lù lù xuất hiện trước mắt khiến tôi giật mình :

– Trời , nãy giờ mày ở đâu , giờ bất chợt xuất hiện như ma vậy , bộ tính nhát cho tao chết chắc ?.

Thằng Kết cười hiền nói với tôi :

– Đêm nay mà không có nước uống thì tao với mầy thành ma chắc luôn khỏi cần ai nhát hết . Tao mới nghe mấy xếp nói phía trước cách nơi mình đang đứng non chừng cây số thôi có con sông con suối gì đó , tao với mầy đi đến đó đi .

Đứng trước tình cảnh không còn con đường nào khác để tìm ra nguồn nước tôi đành làm theo lời thằng Kết , nhưng nghĩ đoạn đường từ nơi đóng quân tạm thời đêm ấy đến con suối nọ bao nhiêu bất trắc có thể đang chờ đón chúng tôi , nhưng có chết thì đàng nào cũng chết , nên tôi lấy cây đèn pile và khẩu súng , thằng Kết thì khoác trên vai một khẩu súng tay nó cầm gần cả chục cái bi đông được cột xỏ xâu lại mang đi cho tiện .

    * * *

Dường như đất trời cũng ủng hộ chúng tôi , đêm ấy nhờ ánh trăng treo trên trời , tuy không sáng vằng vặc như đêm rằm nhưng ánh sáng lờ mờ cũng đủ soi sáng con đường nơi chúng tôi bắt đầu hành trình đi tìm sự sống , từ trong mé rừng rẽ ra ngoài mí lộ chúng tôi phải băng qua một khoảnh rừng rậm , may có la bàn hướng dẫn nên chúng tôi ra đến liên tỉnh lộ 7 B cũng không mấy khó khăn , vừa đặt chân lên con lộ chúng tôi thấy một đoàn gồm cả trăm mạng người , già trẻ trai gái trẻ con đủ hết đi đến gần chúng tôi , giật mình thằng Kết kéo cơ bẩm cây M16 chĩa vào đoàn người nó hét to :

– Đứng lại , ai đó đi đâu ?

Tiếng người nhao nhao lên :

– Dân . Dân chúng không hà chú ơi , mấy chú là ai ? Làm gì ở đây ?.

Thằng Kết nghe mọi người hốt hoảng la to như thế , nó dịu giọng nói :

– Lính , lính đây , lính Sài gòn , bà con đi đâu đây ?

– Mấy chú nói thiệt không ? Mấy chú cho coi giấy tờ đi tụi tui mới tin .

Lúc này tôi và thằng Kết nhìn nhau hội ý ,nhưng tôi cũng thấy tức cười với cái suy nghĩ :

” Ai đời Dân mà đi xét giấy tờ lính , người không có vũ khí bắt người có vũ khí trình giấy tờ “

– Nè chứng chỉ tại ngũ của tụi tui nè , chú kia chú lại đây coi đi .

Nghe thằng Kết mời xem giấy tờ , hai người đàn ông lớn tuổi đi đầu chạy nhanh đến , qua ánh đèn pile do tôi rọi , một ông đọc lướt qua thật nhanh rồi bỗng nhiên cả hai ông cùng oà vỡ mừng vui reo lên :

– Mình sống rồi bà con ơi .. Mấy chú này đúng là lính Sài Gòn thứ thiệt rồi .

Tiếng reo hò bà con cô bác đúng gần đấy reo mừng khôn xiết , đợi cho đoàn người bớt phấn khích một ông vội xua tay ra hiệu cho đám đông im lặng rồi ông trịnh trọng nói :

– Hai chú em biết không , mấy ngày nay đoàn người di tản chúng tôi phải băng rừng vượt suối , đêm đi ngày nghỉ ,trên đường phát hiện có người vũ trang là tụi tui ”Chém vè” liền sợ gặp mấy ông phía bên kia không cho bà con di tản , may gặp mấy chú ở đây bà con mừng lắm .

Hai ông hỏi chúng tôi đi đây vào giờ này vì trời đã khuya ngoại trừ đoàn người mà chúng tôi gặp ở đây có cái không khí sôi động , chứ những nơi khác trong khu rừng này chỉ còn tiếng côn trùng rả rích , hoặc tiếng những con Nai, Mễn” tác ” liên hồi trong đêm , hình như chúng đang mời gọi bạn tình tìm nhau trong một mùa trăng nơi vùng sơn lâm chướng khí hoang vu này .

Tôi nói với ông chúng tôi đi tìm nguồn nước , vì trên bản đồ không ảnh đã thể hiện một con suối ở gần đây thôi , và qua con suối này có một nhà thờ có thể bà con mình đến tá túc tại đây .

Nghe tôi nói vậy mấy người dân trong đoàn mừng rỡ ra mặt , và rồi tôi và thằng Kết làm hướng dẫn bắt đắc dĩ , dìu dắt và bảo vệ đoàn người này đi đến ngôi nhà thờ phía trước được an toàn , cứ thế đoàn người chúng tôi lầm lũi đi theo tỉnh lộ 7b mà mấy chục năm qua không một dấu chân người , có chăng là những du kích quân của phía bên kia cắt rừng đi ngang đây rồi lủi nhanh vào rừng vì đi trên đoạn đường này ban ngày dễ làm mồi cho những máy bay quan sát bay tít trên cao phát hiện .

Chừng ba mươi phút sau chúng tôi đến được con suối , nước trong veo mát rượi từ những khe đá chảy ra , mọi người ào xuống suối uống căng bụng bất chấp hậu quả xảy ra , chúng tôi cũng vậy trước mắt phải uống cho đã cơn khát , múc đầy những bi đông cho đồng đội , chuyện gì nếu có xảy ra sau này hẳn hay .

Chúng tôi tiếp tục đi thêm ba trăm thuớc nữa thì cái nhà thờ sừng sững hiện ra trên nền trời mờ sáng của ánh Trăng , sương đêm ướt lạnh cả đôi vai , gió núi quật từng cơn khiến đoàn người co ro , cây lá ven đường thì xào xạc khua vang , đến trước cổng nhà Thờ cha xứ ra tận ngõ đón đoàn người , cha lấy tay vuốt dầu các em nhỏ , ân cần thăm hỏi các cô bác lớn tuổi , và đoàn người lần lượt vào nhà thờ tá túc , bất chợt chúng tôi thấy ấm lòng vì đang trong hoàn cảnh ly loạn đầy khó khăn thế mà tôi với thằng Kết đã ” Dũng cảm ” đưa bà con đến nơi an toàn , chúng tôi định chào cha xứ và hai người đàn ông lớn tuổi trong đoàn để trở lại tiép tục công việc nơi đơn vị đang đóng quân , cha xứ lên tiếng :

– Hai con thật dũng cảm , thể hiện trách nhiệm và tình yêu thương con người , cha thay mặt đồng bào xin cảm kích tấm lòng chúng con , cầu xin chúa giúp hai con bình an , may mắn .

Tôi với thằng Kết rưng rưng xúc động , chưa kịp đáp từ lời cha xứ dạy , thì một bác lớn tuổi nắm lấy bàn tay tôi và thằng Kết , ông còn lại đặt vào lòng bàn tay hai đứa tôi những xấp tiền toàn là giấy bạc mệnh giá lớn có in hình của Đức Thánh Trần Hưng Đạo .

Bất ngờ với thái độ trên của hai ông , chưa kịp phản ứng thì một ông nói ;

– Hai chú nè , ở đời ông bà mình nói : ”Thi ân bất cầu báo” , nhưng hai chú rất có tấm lòng , bà con góp lại một ít gửi mấy chú ít tiền làm quà cho vui , mong hai chú nhận cho .

Tôi nháy mắt thằng Kết ngầm bảo nó không nên lấy tiền bạc của đồng bào , thằng Kết gom tiền lại và nhét vào túi áo một ông rồi nó nói :

– Bà con đang di tản khổ sở thế này , chúng cháu không dám nhận , xin ông trả lại cho đồng bào , không khéo chúng cháu phải ân hận suốt đời nếu lấy tiền này của đồng bào .

Dường như trong nghịch cảnh thì tâm hồn của mọi người đều có cách suy nghĩ và hành động giống nhau , tự dưng chúng tôi , Cha xứ , hai người đàn ông nọ nấc lên nghẹn ngào , rồi thì cha xứ lên tiếng với hai ông nọ :

– Hai anh lính này xử sự rất đúng mực , thôi hai bác cất tiền trả lại cho bà con đi , hai anh em trở về đơn vị kẻo muộn .

Trên đường quay lại đơn vị tôi và thằng Kết thật sự vui sướng trong lòng vì mình đã làm một việc tốt theo dúng câu dạy của người xưa :

” Nhiễu điều phủ lấy giá gương .

Người trong một nước phải thương nhau cùng “.

Mấy hôm sau kể từ hôm đơn vị chúng tôi không tìm ra phương hướng khi cứ phải lòng vòng mãi trên một đỉnh núi rộng lớn, ở đây bạt ngàn những cây gỗ to hai ba người ôm không xuể , do nơi nầy bị từ trường trái đất nhiễu loạn làm cho la bàn không còn hoạt động như ý nữa , tuyệt vọng vô cùng vì lương thực và nước uống cạn đần , thời may trực thăng quan sát phát hiện đoàn chúng tôi họ đáp xuống và bốc chúng tôi ra ngay phi trường Động Tác của Tuy Hòa , cơn sốt rét trong người tôi bộc phát ngay lúc này , tôi được trực thăng chở thẳng một lèo vào quân y viện Nguyễn Huệ cho dến hôm phải tiếp tục làm người di tản tập 2 trong bộ phim nhiều tập ” người di tản buồn ” .

* * *

Nhìn dãy giường trong phòng bệnh tôi thấy hình như mấy anh em nằm ở quanh tôi họ đã lặng lẽ rời nơi đây tự bao giờ , lúc bấy giờ tôi thật sự lúng túng , trong người thì còn rất ít tiền , lại ở một nơi lạ nước lạ cái không một người quen tôi không biết mình xoay xở ra sao , cuối cùng tôi cũng bấm bụng rời khỏi quân y Viện , tôi bước ra khỏi cổng trước khi theo đoàn người xuôi ngược kia, tôi chỉ kịp ngoái nhìn lại nơi đã dung dưỡng tôi trong tuần vừa qua , Tôi chợt nghĩ trong tình hình này ở trong quân y viện ít ra cũng có cái tâm lý được che chở an toàn trong mọi tình huống , một khi bước chân khỏi nơi ấy xem như tôi đứt liên lạc với đơn vị , với người thân ở Sài Gòn .

Tôi hòa vào dòng người đang trên đường , tôi mất phương hướng vì không biết mình sẽ đi đâu về đâu với tình hình hỗn loạn này , chợt thấy một ông cụ già đang bước đi khó nhọc , tôi đến gần và hỏi thăm :

– Dạ chào cụ ạ , cho cháu hỏi thăm đường nào ra Cầu Đá Nha Trang vậy hả cụ? .

Ông ngước mắt nhìn tôi rồi hỏi :

– Cậu theo hướng đó , cứ đi khắc sẽ đến . À mà cậu chắc mới đến đây lần đầu phải không ? Loạn lạc triền miên , người khắp nơi đổ về đây khiến thành phố thêm chật chội ngột ngạt . Thế cậu đến Cầu Đá làm gì ?.

Tôi thuật lại cho ông biết tình trạng ” Tứ cố vô thân ” ở vùng đất mình đang hiện diện , nghe xong ông chặc lưỡi và ôn tồn nói với tôi :

– Cậu theo tôi đến nhà tôi tá túc tạm thời ngày mai hoặc ngày mốt cậu hẳn đi , vì giờ này dưới cảng Cầu Đá người đông nghịt , con nước này tàu bè chưa thể vào được đâu , cậu cứ nghe tôi không việc gì phải sợ .

Như một kẻ đắm tàu đang lênh đênh ngụp lặn trong biển cả mênh mông , gặp ông cụ có tấm lòng nhân hậu này tôi như vớ được chiếc phao khi mình sắp chìm sâu trong lòng biển cả , vui mừng tôi nắm chặt tay ông rồi nói :

-Dạ con cám ơn ông , sau này khi nào đất nước hết cơn binh lửa , con sẽ nhất định tìm lại thăm ông .

Một già một trẻ , tôi và cụ dìu nhau về đến nhà cụ cách đấy không xa , nhà cụ nằm cách bãi biển bởi một con đường , hàng phi lao được trồng dọc dài theo bờ biển , những ngọn gió mát mang mùi của biển mặn thỉnh thoảng thổi nhẹ vào bờ , nơi đây nằm ở một góc khuất cuối con đường nên không gian thật yên tĩnh , tôi lấy lại tinh thần từ khi gặp cụ già này , ngồi trước sân nhà ông trên chiếc ghế đá cạnh hàng liễu rũ , một hòn non bộ nước róc rách chảy từ các khe của ngọn giả sơn , bên dưới một đàn cá đủ màu tung tăng bơi lội bên những nhánh rong xanh um, quan sát chúng bơi lội nô đùa bên nhau khiến tôi chợt thèm cái không khí gia đình của mình thuở nào , cái không khí yên bình đó đã không còn trong tôi kể từ khi bước chân vào quân ngũ cho đến tận lúc bấy giờ …

– Nè cậu em , tôi pha cho cậu ly cà phê nóng đây , còn cái này tôi nghĩ cậu ăn tạm cho qua cơn đói .

Đang thả hồn theo cuộc sống thong dong của bầy cá , thì tiếng cụ già đã đưa tôi trở về thực tại , nhìn ly cà phê bốc khói thơm tho , nhìn ổ Bánh mì thịt jambon to tướng khiến ruột gan tôi cảm nhận được cơn đói đang cồn cào trong tôi , nhìn ông cụ trên gương mặt nhăn nheo của ông đang ngời lên một niềm vui vì cụ đang dang tay cứu lấy một con người , lúc này tôi mới chợt nhớ lại cái hôm tôi với thằng Kết làm 

”Hiệp sĩ giữa rừng xanh” để đưa đoàn người đến cái nhà thờ đêm ấy , tôi nghĩ tâm trạng của ông cụ chắc hẳn là nó không khác với tâm trạng của hai đứa tôi đêm đó .

– Dạ con xin cám ơn, cụ thật chu đáo đã cho con ở nhờ còn cho con ăn uống nữa .

Không khách sáo cụ thúc giục tôi :

– Chẳng có gì ơn với nghĩa cậu ơi , mình là đồng bào với nhau thôi mà , tôi giúp cậu thì sau này tôi có hoạn nạn gì thì người khác giúp tôi thôi , ở đời mà cậu . Thôi cậu ăn đi cho đỡ đói .

Tôi ăn ngấu nghiến như chưa bao giờ được ăn , thú thật trong cơn hoạn nạn thì ổ bánh mì hôm ấy đối với tôi nó quý như vàng , nó vừa giúp tôi qua cơn đói rã rời nó vừa cho tôi nhận biết được cái tình người chân thật nơi ông cụ , cái mùi hương của ly cà phê và mùi của ổ bánh mì nọ nó vẫn còn thoang thoảng trong tôi mãi đến tận bây giờ .

– Chào chú ạ !

Vừa hớp một ngụm cà phê , chợt sau lưng tôi một giọng nói trong trẻo vang lên , tôi ngoái nhìn lại một cô bé tuổi trăng tròn đang khép nép đứng bên cụ và khoanh tay chào tôi , chưa kịp đáp lời thì cụ đã lên tiếng :

– A . Ha đây là cháu Trang , cháu ngoại của tôi đó chú , cháu học giỏi lắm nha cậu.

Tôi khẽ gật đầu chào cô bé , rồi buộc miệng hỏi :

– Em tên Trang à , mà Trang Gì mới được chứ . Chẳng hạn như Thanh Trang , Huyền Trang .

– Dạ ba mẹ đặt cho cháu Tên Nguyễn Thị Nha Trang đó chú .

Nghe cô bé giới thiệu cái tên thật đặc biệt của mình , sở dĩ tôi dùng từ đặc biệt là bởi cô bé Nha Trang này đang là cư dân của thành phố Nha Trang đẹp tuyệt trần này , sau này có dịp nhìn diện mạo tổng quát thành phố biển xanh cát trắng này từ trên phi cơ tôi phải buột miệng :

” Nha Trang ơi , sao ” em ” đẹp lạ thường , cái đẹp thật hồn nhiên của hàng dừa cao xanh biếc , quyện gió trời sóng biển nhảy tung tăng , bờ cát trắng trinh nguyên như tính tình con gái , khiến hồn tôi xao xuyến khi nhìn ” em ” đang tuổi xuân thì ” .

Tôi vội khen nịnh :

– Tôi phải công nhận ba mẹ em hay thật khi lấy tên thành phố thân yêu này đặt cho em , như muốn gửi gấm vào đấy cái tình yêu nồng nàn với quê hương của mình đất với biển nơi này .

Nha Trang e Thẹn đưa mắt hỏi dò tôi :

– Chú ơi ! Chú Tên gì vậy ? chú là lính gì vậy ? Cháu thấy nhiều chú có quân phục giống y hệt chú hồi cháu về Dục Mỹ chơi với mấy đứa bạn , thôi cháu biết rồi chú là ..là .. Lính …

Tôi cướp lời cô gái :

– Là ..lính … Biệt động quân cháu ơi . Chú Tên Hung .. Huyền đó cháu .

– Ủa chú con trai sao tên Huyền , vì tên Huyền dành cho con gái không hà chú ơi , chú hổng thấy cô ca sĩ Mai lệ Huyền hát nhạc giật gân với chú Hùng Cường đó hay sao ,chú mà tên Huyền chắc nhiều cô ghẹo chú lắm đa .

Tôi cười ngất , khiến ông ngoại của Nha Trang cũng cười theo :

– Ai nói với em là tôi tên Huyền ?

– Thì chú mới nói thất thì chứ đâu ? Chú Nói Hung .. Huyền …í chết cháu xin lỗi chú Tên Hùng chứ gì , tại cháu nghe không kỹ , mà chú cũng cắc cớ thiệt nha , còn Ngoại nữa vậy mà cũng cười .

Khi biết tôi là người lính mũ nâu đôi mắt Nha Trang vui lên nhưng rồi đôi mắt Nha Trang dường như mang một nỗi buồn xa xăm nào đó , cô bé cười rồi kể cho tôi nghe câu chuyện của cô bé ..

– Chú biết không , cách đây hai năm hè năm ấy …

* * *

– Nha Trang .. Nha Trang kìa anh Quân của mình đang ra khỏi cổng kìa , bà thấy mặt ổng bà ” mết ” liền cho coi .

– Xí , ở quân trường Dục Mỹ thiếu gì anh lính đẹp trai , chắc gì anh bà bằng họ không , nhưng để tui coi nếu ông Quân mà bô trai thì tui ok liền ..ha ha…

Nha Trang và Hạnh Nhi đôi bạn học thân thiết , giờ họ đang có những ngày hè ở Dục Mỹ quê nhà của Hanh Nhi , ngày chủ nhật nọ hai cô đến Quân Trường Dục Mỹ để thăm người anh của Hạnh Nhi , người mà nôn nao trong lòng hôm ấy không ai ngoài cô bé Hạnh Nhi , thấy anh mình cũng gần quá lứa mà chưa có mảnh tình vắt vai nên cô đã cố gán ghép Nha Trang cho Quân , hai cô trau đổi với nhau nhiều về anh chàng này , hôm nay Nha Trang mới có dịp nhìn tận mặt người mà bà ” mai ” Hạnh Nhi muốn tìm cho mình cái đầu heo do công mai mối .

– Cha ơi , dữ không hôm nay mới đến thăm anh , à đây là Nha Trang phải không, anh chào hai em . Mình vào quán nước bên đường nhé .

Nhìn nhân dáng Quân người săn chắc đen dòn bởi nắng gió của vùng rừng núi nơi này , cách ăn nói chững chạc lịch sự khiến cho Nha Trang có cảm tình ngay từ cái buổi đầu tiên ấy, cái câu của thi sĩ nào đã nói thay tâm trạng Nha Trang :

” Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy .

Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên ” .

Từ khi gặp nhau Nha Trang và Quân yêu nhau thật lòng , ba mẹ Nha Trang cũng thuận lòng khi Nha Trang ăn học thành tài thì Quân sẽ là rể Đông Sàng của nhà mình .

Chiến trường quân khu 2 bổng dưng sục sôi trở lại , hai bên chạm súng liên tục , Quân thôi không còn làm huyến luyện viên của Quân trường nữa , anh nhận sự vụ lệnh làm đại đôi trưởng của một tiểu đoàn Biên Phòng , chưa một lần về phép thăm lại người yêu . Quân đã vĩnh viễn nằm lại miền Kontum đầy nắng gió , Tin dữ bay về Nha Trang , cô Bé Nha Trang cùng Hạnh Nhi bay lên KonTum nhìn lần cuối một nấm mộ buồn của Quân nằm cạnh buôn Làng người dân tộc .

* * *

Đã qua ngày thứ hai tôi vẫn chưa rời khỏi Thành Phố này , trong lòng tôi nôn nóng , cứ dò hỏi tình hình nhưng ông Bảy , cụ già đang cưu mang mình vẫn trả lời một cách từ tốn .

– Chưa có Tàu cặp bến chú Hùng ơi , kệ nó chú ở đây với tui , có buồn thì cháu Nha Trang dẫn chú ra biển trước nhà hóng mát , tui dặn mấy đứa cháu ở Cầu Đá rồi , hể có rục rịch thì mấy đứa về đưa chú đi ngay .

Nghe ông Bảy nói tôi cũng tạm an lòng , đêm ấy ánh trăng mười sáu đẹp mê hồn , trồi lên từ dưới nước , trăng nhanh chóng trèo lên cao , thấy tôi ngồi buồn buồn Nha Trang lắc vai tôi và nói :

– Chú Hùng nè , chú thấy trăng Nha Trang đẹp không , chú cháu mình dạo mát bờ biển đi chú , ra đó cháu nghĩ chú sẽ vơi bớt nỗi buồn ngay .

– Ừ thì đi , nhưng em nhớ mang áo khoác vào kẻo lạnh .

– Không cần đâu chú , Nha Trang quen rồi , chỉ sợ chú thôi chú còn đang bệnh mà

Nếu cô bé không nhắc thì tôi cũng quên phức mình bị con ma sốt rét đang hành hạ , khoác chiếc áo do ông Bảy trao cho , tôi và Nha Trang đi nhanh về phía Biển ..

Đi dạo dọc bờ biển , gió từ ngoài khơi từng đợt thổi ùa vào , thỉnh thoảng những đợt sóng dài chạy nhanh vào bờ , tôi thấy rõ từng vỏ ốc trồi hẳn lên mặt cát sau những cơn sóng rút xa bờ , rồi những lâu đài các của bọn dã tràng cũng tan biến sau từng cơn sóng vổ . Chọn một nơi khô ráo cách mép nước không xa lắm , tôi và Nha Trang ngồi nhìn mông lung ra biển , sóng vẫn lăn tăn chạy từ ngoài khơi vào , ánh trăng sáng phản chiếu bàng bạc xuống mặt biển một cảnh đẹp mà lâu lắm rồi tôi chưa bao giờ gặp lại , nhìn xa ra ngoài khơi vài chiếc tàu chở hàng neo đậu đèn trên boong sáng trưng :

– Chú Hùng này , chú có người yêu chưa vậy ? nha Trang thấy chú Chẳng vui bao giờ , bộ chú thất tình ai hả ?

Tôi thôi thả hồn về cõi mông lung , trả lời cô gái trẻ tôi nói :

– Người yêu hả ? Có mà cũng như không , gì mà “Thất” tình , tôi có ” cửu ” hoặc

” thập ” tình rồi chứ thất thì nhằm nhò gì , mà em hỏi chi vậy ?.

Đôi tay mềm mại của Nha Trang vốc từng nắm cát trắng thật chặt nhưng nào giữ được trong tay , cát tuôn theo từng kẽ ngón tay , cát vuột khỏi tay em như em đã vuột mối tình thật đẹp với Quân , hết vốc cát nọ Nha Trang lại vốc tiếp nắm cát khác rồi cầm chặt tay lại dường như em muốn nắm bắt một điều gì , em nói với tôi :

– Nha Trang hỏi vậy thôi , nay mai trở về Sài gòn rồi chú có bao giờ nhớ đến Nha Trang không ?

Tôi hơi bất ngờ câu hỏi cô bé đặt ra cho mình , tôi công nhận cô bé Nha Trang này thông minh sắc sảo , cách đặt câu hỏi rất khéo , tôi nghĩ cô bé thừa biết tôi có câu trả lời như thế nào rồi , dĩ nhiên khi rời xa nơi đây chắc tôi chẳng thể nào quên Nha Trang , một người con gái có cái tên Nha Trang và Thành Phố Nha Trang yêu dấu này :

– Tôi nhớ cả hai .

Cô bé mỉm cười lộ chiếc răng khểnh thật duyên dáng ,rồi cố bắt bí tôi :

– Chú Hung … Huyền nói vậy là sao ?

– Thì cả Hai , thành Phố Nha Trang và cô bé Nha Trang này nè . Mà quên nữa cả ba mới phải , còn Ông Bảy Ngoại em nữa chứ

Nha Trang vui sướng reo lên :

– Chú mà quên Ngoại của Nha Trang là Nha Trang nghỉ chơi chú luôn . Hi ..hi .

Tôi và Nha Trang đang miên man suy nghỉ theo cái ý của mình , bỗng đâu từ phía đàng xa tiếng súng nổ và ánh lửa trên nòng súng lập loè , Theo phản xạ tôi nhào người đè Nha Trang nằm rạp xuống cát để tránh đạn , do lố đà Tôi vô tình đặt một nụ hôn lên gò má của Nha Trang , tôi ôm chặt em vào lòng như che chở làn đạn vô tình kia , Nha Trang thì hốt hoảng nhưng cũng nhận ra nụ hôn ngộ ngĩnh của tôi , em nói :

– Cảm ơn Anh đã che chở cho em , mình nằm đây chút nữa đi anh .

Tôi chưa kịp trả lời , thì nghe phía bên đường vang tiếng gọi của ông Bảy :

– Trang ơi ! chú Hùng ơi ! Về ngay nguy hiểm lắm .

Tôi tiếc nuối cái hơi ấm của Nha Trang chưa sưởi ấm lòng mình mà phải trở vô nhà , tôi dìu Nha Trang đứng dậy , phũi cát cho sạch người , hai đứa tôi vụt chạy nhanh vào nhà , đàng xa vẫn nhiều tiếng súng nổ …

Đang nằm mơ màng trên chiếc võng , tôi nghe ông Bảy lay nhẹ , ông nói :

– Chú Hùng , dậy đi tàu Hải quân cập cầu Đá rồi , nhanh lên chú mấy đứa đưa chú đi ngay , về trỏng rồi nhớ thư từ ra cho tui nha , gửi lời thăm cả nhà chú .

Chuẩn bị xong tôi ngó quanh vào trong nhà , như hiểu ý ông Bảy nói :

– Nha Trang nó còn ngủ , lúc nãy súng nổ cháu rất sợ , may mà có chú nếu không thì …

Ông bảy bỏ dở câu nói , tôi nghe giọng ông nghèn nghẹn , tôi hiểu ý ông Bảy không muốn Nha Trang ra tiễn biệt tôi vì ông không muốn Cháu ông lại mang thêm một nỗi buồn nữa kể từ khi Quân đi xa .

– Con cám ơn ông Bảy , nhất định con sẽ trở lại Nha Trang thăm mọi người . Ông cho con gửi lời thăm cô Nha Trang ông nhé .

Tôi ngồi sau lưng người cháu trai ông bảy , anh này lái chiếc Honda 67 chạy thật nhanh , trên đường đi anh cho tôi biết , cuộc nổ súng lúc đầu hôm do đám người xa lạ ở đâu đến cướp , họ bị bắn hạ một người khiến đám còn lại hoảng vía dông mất biệt . Chẳng mấy chốc Cảng Cầu Đá hiện ra , tôi ước chừng tập trung nơi này gần cả ngàn người đủ thành phần . Cảm ơn người cháu ông Bảy tôi bắt đầu tìm cách lên boong tàu , chen lấn rất vất vả qua bao lớp người ken dày đặc , không ít lần dưới chân tôi dẫm phải xác những em nhỏ nằm chết ngạt cứ mỗi lần dẫm phải ruột gan tôi như cồn cào , cảm giác tội lỗi giống như chính mình gây nên cái chết của các em .

Khi đến sát mép bờ đá do Tàu không thể cập sát mà phải đậu cách hơi xa , muốn lên tàu phải có người phía trên nắm tay rồi chân mình phải đạp trúng sợi dây cáp căng ngang phía dưới thì mới có cơ may lên được boong tàu , thiếu một trong hai yếy tố này thì không thể lên boong được, người từ phía sau lưng cứ đẩy tới , rất nhiều người bị lấn lọt khe giữa Tàu và bờ coi như một đi không trở lại , đến khi lên được boong tàu tôi mới tin mình còn sống …

Khoảng 4 h sáng tàu nhổ neo , chúng tôi chen chúc trên boong như những lũ cá mòi được xếp lộn xộn trong cái hộp , mặc dù tàu chạy ra ngoài khơi khá xa gió mạnh mà vẫn không xua được cái hơi của cả ngàn sinh linh trong cái không gian nhỏ bé của boong tàu …

Miền nam buông súng , mọi cái mới mẻ xa lạ áp đặt vào , rồi dần dà mọi người cũng phải làm , phải ăn phải sống . Lần nọ có dịp đi theo đoàn khảo sát tour du lịch Sài gòn Nha Trang Đà Lạt , tôi Trở lại Nha Trang vào buổi chiều nọ , khi đã làm việc với du lịch Khánh hoà xong xuôi , tôi nhờ anh Tài xế chở mình lại nơi con đường ngày xưa nơi ông Bảy đã dang tay cứu mạng , khi đến nơi tôi sững sờ căn nhà có hàng liễu rũ không còn nữa , nó biến mất tự bao giờ , tôi nghĩ mình bị lầm mà còn liên tưởng chuyện Từ Thức lên tiên , khi về trần xong Từ Thức quay lại đường cũ đễ gặp Giáng Huơng thì đường mây đã bít lối , tôi cứ ngỡ mình đang ở trong một giấc mơ , khi hỏi lại người chung quanh thì họ cho biết gia đình ông Bảy đi vùng kinh tế mới nào đó và mất liên lạc kể từ đó .

Kỷ niệm xưa ùa về hình bóng Nha Trang ngồi nơi mép biển ngày nào vẫn còn trong trí nhớ của tôi , vẫn còn đấy những vỏ ốc nằm chõng chơ nằm trên cát , vẫn nhiều chú dã tràng se cát xây lên những lâu đài để rồi sóng biển vô tình xoá đi công sức của chúng , bất giác tôi nghĩ mình cũng giống chú dã tràng kia , tôi chưa xây được lâu đài mà người ơn của tôi đã bị quét khỏi vùng biển mặn này , Nguyễn Thị Nha Trang em ơi , giờ đây chỉ còn mình anh ngồi trên biển vắng vốc cát đầy tay rồi nhìn nó tay chảy qua khe kẽ tay , như anh đã mất dấu của Nha Trang từ đây .

Viết xong. 30/3/2012

Hình ảnh minh họa sưu tầm

Trung tá Tống Viết Lạc

   ( Hai Hùng SG).

Những chiếc GMC của đơn vị đưa cả đám Tân binh tụi tui từ hậu cứ Long Bình vô phi trường Biên Hoà để  bay vô vùng hỏa tuyến, mỗi đứa mang tâm trạng khác nhau khi sắp dấn thân vào làm “Người nhập cuộc”, trong lúc  chờ đến lượt lên phi cơ, anh em tụi tui trải lòng cùng nhau trên Phi đạo, đứa thì nhớ mẹ nhớ cha, thằng thì nhớ người yêu bé bỏng, kẻ thì nhớ lại thời áo trắng với mối tình học trò ngây thơ dễ thương, còn tui tâm trạng vui buồn lẫn lộn.

                        …

    Một hợp đoàn gồm 5 chiếc Chinook, hai chiếc UH 1D đáp xuống phi đạo, Thiếu tá Thảo chỉ huy hậu cứ cùng các sỹ quan khác điều phối cho cả đám tụi tui lên mấy chiếc Chinook,  còn ông và đoàn tùy tùng ngự trên chiếc UH1D, Từ Phi trường Biên hòa trực thăng bay tới Sa Cam ( Cách An Lộc vài cây số,  thời gian bay ước chừng một giờ bay), Khi đáp xuống Phi đạo dã chiến ở Sa Cam, các anh xạ thủ phi hành thúc hối mọi người nhanh chóng di chuyển xuống đất để tránh những đợt pháo kích từ phía rừng sâu phóng vô, vì nơi đây đã là tọa độ cố định, nó được người phía bên kia sẳn sàng khai hỏa khi có tiền sát viên của họ báo có phi cơ hạ cánh nơi này. Y như rằng tụi tui vừa đặt chân xuống đất thì nghe tiếng đề pa từ xa xa, ông Thượng sỹ Còn người Hạ sỹ quan thường vụ của Liên đoàn ra đón liền hét lên :

 -Mấy anh chạy nhanh vô lô cao su và  nằm sát xuống đất , nhanh lên.

Được chào đón kiểu như vậy của đối phương nơi vùng đất mình mới đặt chân tới, cả đám tụi tui mạnh ai nấy dọt thằng vô các góc cây Cao su để tránh đạn, ai nấy cũng hồi hộl đến tột độ vì đây là lần đầu tiên tụi tui chạm mặt Tử thần, rồi trận pháo kich cũng qua đi, cả đám lại lên xe GMC chạy ngay về thị xã An Lộc.

 Xe dừng lại ở sân cờ nơi Bộ chỉ huy Liên đoàn 6 Biệt Động Quân trú đóng, nơi đây là một dãy nhà hai mặt tiền, phía trước là con đường tráng nhựa, phía sau nằm đối diện nhà lồng chợ An Lộc.

 Khi hay có Tân binh bổ sung về cho đơn vị, Thiếu tá Lịch Liên đoàn phó ra ” coi giò coi cẳng” tụi tui, trước hàng quân ông nói sơ qua tình hình của chiến trường nơi đây, rồi ông tiếp tục ” Thử phổi” mấy con gà mới ra ràng xem sao, ông nói:

– Trước khi các anh được phân phối về tiểu đoàn, trong các bạn ở đây ai có chuyên môn gì thì đứng sang bên phải của tôi.

 Sau câu nói của ông thì nhiều cánh tay giơ lên, nào là thợ đồmg , thợ hàn, thợ tiện V.v… và họ đã ra hết phân nữa quân số đang hiện diện tại sân cờ, thấy không còn ai nữa, Thiếu ta Lịch hỏi lại lần chót:

– Còn anh em nào nữa không ?

Nghe hỏi vậy và nhìn thấy  mấy đứa bạn vừa ra khỏi hàng ai cũng hớn hở, ( Họ tưởng coi như chắc chắn được sử dụng chuyên môn của mình,  khỏi ra trực tiếp chiến đấu), tự dưng tui phản xạ nhanh nhẹn, tui gió tay lên cao và nói :

– Dạ còn em.

Khẽ châu mày Thiếu tá Lịch ngó tui trân trân, lúc này tui mới để ý vì ông có đôi chân mày đen rậm, đôi mắt sâu  nhưng thần thái oai nghiêm, tui thầm nghĩ ông nói trong bụng :

 ” Thằng oắt con này sao tới giờ mới chịu lên tiếng”,

Rồi ông cất tiêng hỏi tui:

– Anh tên gì, có chuyên môn gì mà sao đến giờ mới lên tiếng.

Tui đưa tay lên chào kính ông, với cái giọng run run tui trình bày:

– Dạ tui tên Lâm Quốc Hùng , số quân 73/145361 xin kính trình Thiếu Tá, tui biết nghề Âm thoại viên, sử dụng thành thạo máy PRC 25 và các loại máy móc khác .

Không biết nhờ ơn trên sắp xếp, hay do thực tế ban truyền tin Liên đoàn thiếu nhân sự, nên khi nghe tui khai báo như trên Thiếu tá Lịch chỉ tay về phía tui, ông nói:

– Anh đứng sang bên trái chờ tôi, còn các anh em còn lại tất cả tập họp lại chờ phân phối về các tiểu đoàn trực thuộc.

 Sau đó ông truyền lệnh cho Thượng Sỹ Còn :

– Thượng sỹ Còn, ông vào gọi Trung Úy Cao văn Tranh ra nhận anh này vô làm thử cho tôi.

 Thế là tui được nhận vô ban truyền tin của Liên đoàn, còn số anh em chung khóa họ  đều về Tiểu đoàn tác chiến bên dưới, trong đám bạn bè thân thiết nhất của tui thì thằng Lập về Tiểu đoàn 35, còn thằng Kháng về Tiểu đoàn 51.

 Ngày đầu tiên tui trực máy ở Trung tâm hành quân của Liên đoàn, ca trực tui diễn ra suôn sẽ, tui làm việc thật trôi chảy không để lại khiếm khuyết gì, Trung úy Tranh thấy vậy ông nói ;

– Vậy là Hùng làm ở đây luôn nhé.

 Trung úy Tranh vừa dứt câu nói, thì  ngoài cửa hầm xuất hiện một vị Thiếu tá, ông dáng người cao to xăn chắc hơn Thiếu tá Lịch, tóc cắt húi cao, gương mặt ông có sắc đỏ hồng, giống nước da của những người dân da đỏ, tui đứng lên chào kính ông thật nghiêm, ông cất tiếng hỏi Trung úy Tranh :

– Ai đây Trung úy Tranh?

Trung úy Tranh kể rõ câu chuyện nhận tui vô làm cho Thiếu tá Lạc nghe, ông còn nói đỡ cho tui khiến tui mát ruột vô cùng:

– Anh Hùng làm công việc rất tốt, nay mai Để cho Hùng mang máy cho Thiếu tá khi đi ra ngoài đó thiếu tá, còn thằng Linh âm thoại viên cũ để nó làm ở đây, nó hơi chậm chạp để khỏi phiền lòng Thiếu tá.

Nghe Trung úy Tranh nói vậy, ông Lạc chăm chú nhìn tui từ đầu đến chân, chắc với hàm ý thằng nhóc con này  ó làm được việc đúng như lời ông Tranh nói hay không, hồi lâu ông phán một câu:

 – Chú em mầy chuẩn bị máy móc, sáng mai đi với tôi.

 Nghe ông dặn vậy tui thấy “Khớp” vô cùng, vì mới chân ước chân ráo về đây chưa rành rẽ mọi việc vậy mà sếp kêu theo ổng hỏi sao tui không ớn chè đậu.

 Tối đó tui nhờ anh em trong ban truyền tin chỉ vẽ cho đường đi nước bước khi tháp tùng với sếp Lạc đi ra bên ngoài, anh Trung Sỹ Nhất Nhường là ngưòi hướng dẫn tận tụy cho tui và  chuẩn bị máy móc, tài liệu mang theo để sử dụng khi cần, đêm đó tui không thể nào chợp mắt cho được, chỉ sợ mình lụp chụp làm không nên trò trống gì sếp la thì có nước độn thổ.

 Mới năm giờ sáng tui đã thấy anh Hổ, tài xế của sếp Lạc đã chuẩn bị xong chiếc Jeep Lùn M151 A2 sẳn sàng rồi,xe đi trong vùng hành quân mà anh Hổ lau chùi bóng lưỡng  mấy cái vỏ xe anh đánh sira đen ngòm rất nổi bật, hai cái cần anten của máy PRC46 đặt phia sau xe cong vút như hai sợi râu con cào cào  đúng sáu giờ sáng anh Hổ cho xe khởi hành trực chỉ hướng nơi Tiểu đòan 34 đang đóng quân nơi gần đồi Gió, phía bên trong rừng núi cách đó không xa, hai bên đang chạm súng với nhau thật ác liệt, vì không  có đường bộ để đến nơi mặt trận, Thiếu tá Lạc liền điều động một chiếc M113 đến để đi thị sát mặt trận, leo lên mui M113 ngồi tui thấy nó lắc lư như cưỡi ngựa vì địa hình nơi đó gồ ghề, tui liền xin ông Lạc cho tui đứng trong thùng xe cho tiện, chắc thấy lính mới nên ông ok tức thì, tui bèn phóng xuống đứng trong thùng xe với chiếc PRC trên lưng, nghĩ lại tui dại dột vô cùng, vì đi M113 mà đứng hoặc ngồi trong thùng xe thì khi xe cán phải mìn bẫy thì “Đi thăm ông bà” tức thì  vì xe cháy nổ, hoặc lật xe cũng không thế nào thoát thân cho kịp, xe chạy một đoạn, Thiếu tá Lạc giành tay lái của anh tài xế, phải công nhận Thiếu tá Lạc lái cừ không thua gì anh tài xế nọ, cũng may phước xe quần thảo khu vực đó khá lâu mà không chuyện gì xãy ra, và mọi người toàn mạng trở về đơn vị chiều hôm đó.

                                     ***

Suốt thời gian ở thị trấn An Lộc đỗ nát do đạn pháo kích, tui chứng kiến không còn nhiều căn nhà còn nguyên vẹn, có những căn nhà không sập do đạn pháo, mà bị sập một cách thật vô duyên, do đường bộ không còn sử dụng được nên thực phẩm tiếp tế cho An Lộc được thả dù từ  phi cơ C130, những kiện hàng thực phẩm & quân dụng từ trời cao rơi thẳng vô mái nhà, khi tiếp đất nó bể và văng tứ hướng, có lúc rảnh rang tui và các bạn đi lượm những đồ hộp về để dành ăn dần đỡ khỗ.

 Chiều nọ, ăn mừng sự kiện Hòa đàm Paris có hiệu lực, bên LĐ 5 BĐQ có tổ chức văn nghệ, có mời một số anh chị em ca sỹ ở Sài gòn vô giúp vui, tui với anh Hổ tài xế đưa Thiếu tá Lạc đến nơi, hai anh em tụi tui ngồi bên ngoài chơi với mấy anh em gác ngoài cổng của LĐ5, khi tiếng nhạc xập xình được chừng ba mươi phút, thì đạn pháo bay ào ào vô trúng ngay nơi các Sỹ quan đang xem văn nghệ, thương thay Thiếu tá Ngô Minh Hồng LĐ 5 bị mãnh pháo trúng ngay đôi chân của ông, sự hỗn loại xãy ra tức thì , mọi người bên trong túa ra, Thiếu tá Lạc cũng nhanh chóng ra về để tránh những đợt pháo tiếp theo, thật hú vía nếu một vài viên pháo rơi ngoài cổng thì chắc tui với anh Hổ cũng đi “Bán muối” rồi cũng nên.

                                              ***

 Rồi chiến trường An Lộc cuối năm Bảy hai, tụi tui có mặt nơi chiến trường phía Bắc Bình Định,Tam quan vùng đất bạt ngàn Dừa, vì vậy mới có câu ca dao :

   ” Công đâu công uổng công thừa, công đâu lấy nước tưới dừa Tam Quan”,

 Đoàn công voa chở tụi tui ra đến Chi khu Tam quan thì Hoàng hôn đã rơi xuống, xe chưa dừng hẳn thì cũng được đón tiếp bằng tràng pháo từ phía vùng núi An Lão phóng xuống, né qua hai bên đường tránh xa đoàn xe để phòng xe bị trúng đạn gây cháy nổ, ít phút sau tiếng pháo ngưng hẳn do bị phản pháo lại từ chi khu Tam Quan, bực mình kiểu chào đón này Thiếu lá Lạc nói sẽ trả thù trong nay mai,

 Đơn vị chúng tôi được tăng phái cho Sư đoàn 22 bộ binh do Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm chỉ huy, mọi cuộc hành quân do phòng 3 Sư đoàn đưa xuống, những trận đánh nãy lửa nơi đồi Mười thuộc quận Hoài Nhơn, Hàng ngày nghe đạn pháo nổ rì rầm nơi đây khiến dân tình ai cũng buồn vô hạn, bữa nọ khi Tiểu đoàn … ( Tui không nhớ tên) đụng trận ác liệt, hợp đoàn trực thăng Mãnh Sư của phi trường Phù Cát khi yểm trợ cho tiểu đoàn nọ, không may một chiếc UH1 bị trúng đạn phía sau phần đuôi khá nhiều, do sợ bay tiếp bằng tàu này không an toàn, Pilot đã hạ cánh xuống trảng cỏ rồi anh ta và phi hành đoàn chiếc tàu nọ lên chiếc khác để bay về Tam Quan , đang ở trung tâm hành quân của liên đoàn, Thiếu tá Lạc tức tốc  nai nịt gọn gàng ông kéo tui theo lên chiếc trực thăng khác bay đến nơi chiếc UH1 bị rơi, từ trên cao nhìn xuống tui thấy chiếc phi cơ nằm êm trên thảm cỏ, trước khi hạ cánh xuống, Thiếu tá Lạc yêu cầu xạ thủ phi hành xổ những tràng đại liên M60 quanh tàu để ngăn ngừa bị đối phương phục kích, tàu đáp xuống bên cạnh chiếc bị nạn, nhanh như sóc, một mình Thiếu tá Lạc nhảy xuống leo lên chiếc bị nạn, ông điều khiển chiếc UH1 nọ bay lên một cách rành rọt không thua gì pilot chuyên nghiệp, cả dơn vị tui, và các anh em trong phi đoàn biết tin này đều khen ông Lạc là người tài hoa vô cùng, vì có mấy  người sỹ quan tác chiến mà biết lái trực thăng kiểu vậy.

 Tui nhớ như in, lần nọ khi biết chiến trường Tam Quan Bồng Sơn lắng dịu, cuộc sống bà con nơi đây sinh hoạt nhộn nhịp hơn, chợ búa đông vui, người buôn kẻ bán tấp nập, tình quân dân cũng gắn bó hơn, vì chiến cuộc tạm thời không còn gây khỗ sở cho bà con nữa, hôm nọ SĐ 22 báo tin có Tổng thống Thiệu ra thăm viếng và ủy lạo cho anh em trong LĐ6, không khí tiếp đón được Thiéu tá Lạc chuẩn bị chu đáo, vòng  vây an  ninh từ xa được các tiểu đoàn thiết lập, gần đên giờ đáp của ” Mặt trời”, Thiếu tá Lạc kêu tui chuẩn bị một trái khói  màu đỏ để chút nữa theo ông ra bờ biển Tam  Quan đón phái đoàn từ trung ương ra thăm, tui đang bận chuẩn bị máy móc nên tui nhờ thằng Linh nó tìm trái khói đỏ cho mình, nó loay hoay tìm khói đỏ không ra. Nó trao cho tui trái khói màu xanh, nó còn nói xanh đỏ gì cũng được, miễn có khói là ok rồi, tui ỷ y không báo cáo lại cho Thiếu tá Lạc, nên khi trên đường ra bờ biển, từ phía trước xe ông Lạc quay ra phía sau kêu tui đưa trái khói đỏ cho ông, tui đưa cho ông trái khói màu xanh, ông giận dữ lên, và đây là lần đầu tiên từ lúc tui theo ông suốt đến giờ ông  mới nỗi trận lôi đình như vậy, ông lấy cái ông liên hợp của  máy PRC 25 đang cầm trên tay ông gỏ mạnh lên cái nón sắt đang đội trên đầu của tui khiến tui hoảng vía vô cùng  rồi ông gọi máy cho đại úy Bôn ( Người thay Trung Úy Cao văn Tranh) cho lính  mang gấp ra bờ biển cho ông trái khói màu đỏ, chỉ vài phút sau đích thân đại úy Bôn mang ra trao tận tay cho ông, Thiếu tá Lạc rất nóng tánh nhưng cũng mau nguội, trong khi chờ phái đoàn trung ương đáp xuống, ông nói với tui với cái giọng chân tình;

– Hùng nè, mai mốt thiếu tá dặn gì phải nhớ làm cho đúng nghe, đừng để sơ suất như hôm nay lỡ công việc hết.

 Biết ông giận quá lỡ đối xử nặng tay với tui, khi nhận ra điều này ông đã an ủi tui thì lòng dạ nào tui giận ông cho được, tui dạ rân cho ông vui lòng.

  Công việc tiếp đón hoàn tất mỹ mãn,  được trung ương thưởng cho số tiền lớn, Thiếu tá Lạc chia cho các đơn  vị cùng hưởng ơn mưa móc của trung ương, đêm đó tui uống thật nhiều mà chẳng thấy say, có lẽ tui mừng vì có người chỉ huy biết tâm lý ứng xử có tình có lý với thuộc cấp nên không say là vậy chăng ?.

                                        ***

  Sau các chiến công ở chiến trường Bắc Bình định, ông Lạc được vinh thăng Trung Tá, không vì lên lon mà ông không chú ý đời sống anh em, một hôm tui đang trực máy  bổng nghe người của Chi khu Tam Quan báo có một người lính BĐQ không rõ đơn vị nào, anh ta đang cướp tiền của người dân trên  đèo Bình Đê ( Giáp Ranh Sa huỳnh Quảng Ngãi). Tui trình gấp cho Trung Tá Lạc, ông kêu tui đi theo ông tức thì, anh Hổ vừa lắi xe đến đèo Bình Đê, thấy hai bên giằng co nên tức tốc tấp xe vô lề, Trung tá Lạc bay xuống túm lấy cổ anh lính nọ rồi dõng dạt hỏi:

– Đâu bàn tay nào mới cướp tiền dân đâu, giơ lên cao tao coi.

Người lính nọ vừa giơ tay qua khỏi đầu, ông Lạc rút ngay khẩu Rulo ra khỏi cái bao súng,  ông nổ liền một phát súng vô bàn tay anh ta, máu  chảy lay láng anh ta ôm   bàn tay mặt  mày tái méc không còn chút máu, Trung Tá Lạc nói:

– Tao bắn cho mầy  chừa cái thói cướp giật nha.

Thấy tình trạng chảy máu nhiềucura anh ta,  sợ nguy hiểm tính mạng nên Trung tá Lạc  nói:

– Hổ lấy băng cá nhân băng cho nó, Hùng gọi máy xin  trực thăng tản thương ra Quân y viện Qui Nhơn gấp.

Tui với anh Hổ thi hành răm rắp, anh lính nọ được đưa về quân y viện kịp thời nên giữ được  mạng sống, khi điều tra lại, anh ta là lính bộ binh giả danh sắc áo tụi tui để làm càng.

                                 ***

  Sau chiến dịch Hòa Bình 222 đơn vị tui được đóng quân trên đèo Phù Cũ, nơi đây đơn  vị xãy ra   nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn, ở nơi này một thời gian Trung Tá !ạc bị đổi đi đơn vị khác, Trung Tá Nguyễn Kim Tây về thay thế cho ông, sau này tui nghe râm ran lời đồn đãi , Trung tá !ạc bán một số quân dụng cho thương buôn nên  ông bị cách chức, việc  này hư thực ra sao tui chẳng rõ, luật pháp công  minh, có công thì thưởng có tội thì trừng, ông bà ta ngày xưa đã khẳng định vậy rồi.

  Nhắc lại một đoạn đời đã qua, nhớ  những lúc vui buồn bên ông tui cảm thấy chạnh lòng, giờ Trung tá Lạc đã là người thiên cổ, ông đang hưởng nhang thánh Chúa nơi cõi Vĩnh Hằng, xa rồi những ngày vùng vẫy nơi chiến địa,tui cũng cầu  mong Trung Tá của tui bình an nơi miên viễn .

                              Cuối hạ 2022.

TRUNG ÚY HUỲNH.

Tác giả : Hai Hùng SG

Anh Huỳnh có vóc dáng giống nghệ sỹ Thanh Tú nhưng anh không phải  là kép Cải lương, anh chọn ngành bình nghiệp của bình chủng Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Gia Định, anh được cấp trên bổ nhiệm làm Đại Đội Trưởng đại đội 3/665 đóng quân vùng Mỹ Thủy -Thạnh Mỹ Lợi với cấp bậc Trungúy.

   ***

  Rời trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở Bà rịa về lại trại Ngô Tùng Châu trên đường Ngô Tùng Châu, đám tân bình lính sữa tò te tụi tui nằm chờ phòng quân số Tiểu khu đưa về các đơn vị trong tỉnh, nằm chờ cả tuần lễ mà chưa thấy động tịnh gì, một số bạn tui rủ rê ” Chui lổ chó” để về thăm nhà, bạn đầu tui cũng chết nhát không dám tham gia nên tui bàn ra:

 – Chèn ơi! Tụi bây gan thiệt, trong mình không có tờ giấy lộn chứng mình là lính tráng gì ráo, ra đường lớ quớ gặp mấy cha ‘ Quét chợ” ( Xin lỗi mấy anh Quân cảnh) mấy ổng “lượm” mình liền , rồi họ đưa về Quân vụ thị trấn cho muỗi mòng làm thịt mình chịu đời sao thấu.

Nghe tui nói vậy, thằng Thể ( đã chết sau khi ra đơn vị được chừng bảy tháng) nó cự tui liền:

– Tụi mình cực khỗ ba tháng quân trường rồi, đúng ra tiểu khu phải cho anh em về phép thăm nhà vài bữa, chứ ăn dầm nằm dề kiểu này chán chết, mầy không ‘Dù” thì ở lại giữ đồ  giùm tụi tao, khi trở vô có đồ ăn ngon tụi tao cho mầy ké.

  Thằng Phích bạn thân của tui, nó đứng cửa giữa phân trần:

-Thằng Hùng nói cũng đúng, nhưng thằng Thể nói cũng có lý, thôi ai muốn thì dù, ai sợ thì ở đây ăn cá mối chiên tiếp đi nha.

 Nói dứt câu thằng Phích phá lên cười, mấy đứa bạn gần đó cũng cười rần lên, tui gượng gạo nói:

– Ừ thì dù, có gì thì “Nằm chuồng cọp” cả đám cho có anh có em..

     ***

Thế là tui tui chui hàng rào kẽm gai để về thăm nhà, vừa ló mặt tới chợ cây Quéo tui thấy bốn anh Quân Cảnh

 đang xét giấy tờ, quíu giò quíu cẳng tui chưa biết cách nào để qua cửa ải này, tự dưng tui phản xạ có điều kiện, tui ngồi bệt xuống đất  tháo đôi giày ra cầm trên tay, rồi tháo áo ra khỏi lưng quần, lè phè giống như mấy người ham vui lấy đồ lính mặc chơi chứ không phải là lính thứ thiệt, tui bậm gan đi qua mấy anh Quân Cảnh và trong bụng không quên niệm Phât cầu mong được  ngài che chở , chắc trời Phật ở xa quá chưa nghe  để cứu khổ cứu nạn cho tui, anh Quân Cảnh gần tui nhất đã lấy cái tu huýt thổi một hồi dài rồi ra hiệu cho tui đừng lại, anh ta đưa tay lên chào tui, tui cũng chào lại anh cho đúng lể nghi quân cách, anh hỏi tui:

 – Trời lính tráng đơn vị nào Vậy ông cơn, mang giày vô , bỏ áo vô quần và gom ống quần lên đàng hoàng coi.

Tui như còn thằn lằn  đứt đuôi sợ gần  chết, trong bụng thầm nghĩ chuyến này chắc thế  nào cũng bị nhốt ở Quân vụ thị trấn, tui lí nhí trả lời với anh ta:

– Thưa Trung sỹ, em tân bình mới mãn khóa về chờ ra đơn vị, nhớ nhà quá nên mới lén về thăm nhà, em ở trại Ngô Tùng Châu gần đây nè.

Viên Trung Sỹ mĩm cười và nói:

– Thì ông cứ mặc đồ bình thường,  mắc chứng gì cỡi ra hết ráo vậy, thôi lên xe về quân vụ thị trấn nghỉ mát vài bữa nha.

Tui điếng hồn  lật đật ca bài ca “con cá” liền :

– Trung sỹ thông cảm, nhớ nhà quá, về thăm chút xíu trở vô liền,  nhà em chỗ Mỳ cây gòn ngó vô chừng trăm thước thôi.

Có lẽ thấy tui mặt còn búng ra sữa nên anh ta nói:

– Nói vậy thôi, tui tha cho ông lần này đó, mai mốt không ăn mặc lôi thôi mất mặt bầu cua lắm nghe ông.

Tui rối rít cảm ơn anh Quân cảnh tốt bụng này, thầm mong nếu gặp lại lần  nữa tui sẽ trả ơn cho anh.

Tui lội bộ về tới  gần ngã  ba Võ Cây Trường ( nay là Lê Quang Định – Nguyên Hồng) thì bị cô gái chạy chiếc Honda Dame đụng từ phía sau, tui ngã xuống đường với cái cùi chỏ rướm máu, cô gái sợ hãi  đỡ tui ngồi đây rồi cô rút khăn mù soa ra làm khăn chậm vết máu cho tui, như để chuộc lỗi cô ta ân cần hỏi :

– Anh có khỏe không, em vội quá nên lỡ đụng phải anh, em thành thật xin lỗi, để em đưa anh về nhà nhé.

Mùi nước hoa thơm nhẹ của chiếc khăn bay lên  mũi khiến lòng tui lâng lâng, tui tạm quên cái đau của cô gái gây ra cho mình, tui đứng lên và tỏ ra đấng “Nam nhi chi chí”,  tui phán một câu:

– Anh là lính, làn  tên mũi đạn anh còn không ngán, vết thương này nhằm nhò gì cô bé ơi ( Tui nổ đó).

Cô bé cười duyên và cảm thấy nhẹ lòng khi nghe tui nói câu trên, cô ta liếng thoáng xin tui cái địa chỉ để hôm nào ghé lại thăm làm quen, tui ghi cho cô bé cái địa chỉ  vô cuốn sổ, cô nhận rồi hứa chắc như đính đóng cột sẽ đến thăm  tui trong thời gian sớm nhất, chia tay cô gái tui về nhà, trên đường tui hứng chí hát câu :

– Ngựa phi ngựa phi đường xá, tiến trên đường nắng chói chói lóa …

Thay vì tui ở nhà chừng hai mươi bốn tiếng  nhưng vì hy vọng cô gái nọ đến thăm mình nên nấn ná ở thêm một ngày nữa cũng chẳng thấy bóng dáng nàng ta, tui thầm nghĩ:  ” Có lẽ cô nàng sợ tui bị vết thương hành nặng hơn, hoặc xui xẻo tui chết bất tử sau khi bị cô nàng đụng, nếu đến thăm thì khác nào mang hoa vào thân, nàng dùng chiêu né là thượng sách rồi còn gì.

Tui trở lại trại Ngô Tùng Châu, vừa đến cổng gặp ngay ông Thượng sỹ Như đại đội phó tân binh của tụi tui, ông réo lên liền:

-Anh Hùng kia, cả gần dám chui hàng rào dù về nhà hả, Năm chục cái nhảy xỗm,  năm chục cái hít đất cho tui,thì hành xong cái phạm tội đó còn ăn vài hèo vô bàn tọa nữa.

                                         ***

 Tám đứa tui được đưa về Đại đội 3/665  đang đóng đồn tại cầu Mỹ Thủy ( Nằm trên đường ngã ba Cát lái đi về Thành Tuy hạ ). Chiếc GMC vừa dừng tại chân cầu, viên cán bộ Đại đội đi nhận Tân binh về, ông ta hối thúc tụi tui xuống xe vô trình diện Đại Bàng, đứng ở sân cờ ngay hàng thẳng lối thì tui thấy một viên  Trungúy trẻ măng , đẹp trại với bộ quân phục ủi hồ thẳng nếp, ông tiến lại trước hàng quân, tự giới thiệu

-Tôi TrungúyHuỳnh, Đại đội trưởng Đại đội mình ở đây.

 Ông nói sơ về tình hình tổ chức và cách phối trí lực lượng ở đơn vị, sau đó ông kêu thường vụ Đại đội chia tụi tui xuống Trung đội bên dưới.

 Tui được đưa về Trung đội 2 , đóng quân ở nhà chú thím Tám có hai cô còn gái sinh đôi rất đẹp, chắc cũng nhờ mấy bóng hồng này thủ thỉ hàng ngày nên tụi tui cũng vui trong bụng

 Ở Trung đội tui theo mấy anh em lội ruộng hành quân liên miên, tuy không đụng trận nào nhưng vất vả vô cùng, nên bữa nọ buồn quá tui lại “Dọt” về nhà chơi ba ngày, đến ngày lên đơn vị tui bị ông Thượng sỹ Hà phạt và trả về Đại đội với lời phê, “Lính ba gai”.

 Trình điện TrungúyHuỳnh ông phạt tui năm chuồng cọp tức thì, ông còn hăm tui mẻ răng, nếu tái phạm sẽ kỷ luật nặng hơn.

  Nằm trong chuồng cọp là hàng rào kẽm gai thấp lè tè, trong lòng buồn vô hạn, tuy vậy chừng ba chục phút sau, ông Huỳnh cho tui vô gặp ông, khi ngồi đói diện tui, ông lên tiếng hỏi:

– Anh thấy em nhà ở Gò Vấp hả, muốn về thăm nhà sao không xin phép rồi về, em đi như vậy là vô kỷ luật, mơi mốt đừng làm vậy nữa nghe.

Sau một hồi phân tích cho tui nghe  về lỗi lầm mình gây ra vừa quá, TrungúyHuỳnh nói với tui :

– Anh rút Hùng về Đại Đội luôn, ở đây phải làm việc cho đàng hoàng đừng bà gai nữa nhé.

Tui mừng rỡ vô cùng, vì ở Đại đội thì  chữ Thọ sẽ cao hơn ở Trung đội, vì ít khi đi hành quân và có dịp đi lòng vòng chơi trong xóm ấp Mỹ Thủy.

Rồi một bữa nọ bất chợt tui nghĩ, sao tự nhiên ông Huỳnh tốt với tui dữ thần vậy,  ông nâng đỡ tui đủ điều, thậm chí khi có khóa học chuyên môn ông cũng ưu tiên giành  cho tui, nghĩ hoài nhưng không có lời giải.

Một hôm tui đang ngồi đánh cờ tướng với anh Mỹ một người lính lão làng trong đơn vị, TrungúyHuỳnh đậu chiếc xe HonDa ss67  của ông kế bên hai tiên ông, TrungúyHuỳnh lấy trong túi xách một ổ bánh chuối nướng thật thơm cho hai đưa tui ăn, anh Huỳnh nói:

Về nhà chị bây biết có Hùng  cũng là dân Gò vấp nên chị có làm ổ bánh đãi nè, chị còn nói hôm nào lên gặp Hùng để hỏi thăm cho vui, vì vậy từ nay anh Huỳnh ở đây có người cùng quê là vui lắm rồi.

 Lại có khóa học chuyên môn gửi về đơn vị, anh Huỳnh kêu tui vô văn phòng Đại đội anh nói:

– Chuẩn bị hành trang Hùng theo học khóa này đi, sau này có tương lại hơn vì ít khi ra mặt trận.

Nhận sự vụ lệnh từ tay anh Huỳnh trao cho tui, tui ứa nước mắt, vì anh cho biết khi mãn khóa có khi tui được thuyên chuyễn đi đơn vị khác, trước khi đưa tui ra khỏi cổng đồn, anh Huỳnh móc trong bóp  đưa cho tui hai ngàn đồng làm lộ phí,

Tui lên xe từ giã Đại đội, từ giã ông anh Trungúy thân thương của tui mà lòng tui nặng trĩu,  vì ra đi lần này chưa hẹn ngày trở lại, chiếc xe chở tui đi xa dần khi cầu Mỹ Thủy chỉ còn một cái bóng mờ, tự dưng tui thấy mằn mặn ở khóa miệng, tui đã rơi lệ lúc nào chẳng hay.

                                      ***

 Xong khóa học, đúng như dự đoán của anh Huỳnh tui được thuyên chuyển qua đơn vị khâc, làm việc với ông sỹ quan mới tui không thích chút nào, ông này vừa hách dịch vừa muốn kiếm ăn ở mấy người lính khiến tui bất  mãn vô cùng, nhưng nghiệp nhà binh dù không vừa lòng cũng phải làm việc, còn nếu như không còn sức chịu đựng thì đành dứt áo ra đi tím đơn vị khác mà phục vụ

                                  ***

 Bẳng đi một thời gian, tình cờ tui gặp .ại thằng Phích bạn tui, hai đứa mừng mừng tủi tủi, tui hỏi thăm về TrungúyHuỳnh thì Phích buồn bã kể rằng, tui đi khỏi đơn vị một thời gian thì đơn vị cũ đụng trận liên miên, Anh Huỳnh của tui bị thương nặng trong một lần hành quân vùng bưng ông Thoàn, Khi tản thương anh về quân y viện cộng hòa  dó vết thương nhiễm trùng  và bị hoại tử nên bác sỹ đành cưa đôi chân của anh,  nghe đến đây tui bậc khóc, thương cho người anh tính thần hết lòng nâng đỡ mình, nếu không có anh TrungúyHuỳnh có khi giờ này tui cũng đã “Xanh cỏ” từ lâu.

                                       ***

 Dòng đời cứ tuôn chảy, tui miệt mài theo cánh quân đi quân hành, ngày tàn chính chiến tui lân la tìm đến xóm anh Huỳnh ở trên một góc đường Nguyên Du Gò vấp,  bà còn gần đó nói gia đình anh về quê khá lâu lkhi anh xuất viện làm thương bình.

 Tui thẩn thờ  nhớ lại đoạn đời mình đã đi quá, hình ảnh anh TrungúyHuỳnh hiên ngang trên chiến địa nhưng có tấm lòng nhân hậu với thuộc cấp của mình  trong đó tui là một điển hình, anh Huỳnh ơi, giờ này anh ở đâu, Hùng lúc nào cũng nhớ ơn anh, vì  anh đã cứu cuộc đời chú lính sữa   ngày xưa quá cơn bĩ cực,  xin anh nhận nơi đây lòng thành kính và biết ơn vô hạn của em nhé.

  Viết xong  14g25 ngày 15/7/2022

Thành Phố Buồn Tênh

Hai Hùng Sg

Tiếng hát trầm buồn của ca sĩ Chế Linh đang trình bày ca khúcThành Phố Buồn từ máy hát của nhà ai dội đến, ca khúc này đã khiến tôi nhớ quay quắc Thị xã Kon Tum, nơi đơn vị tôi đóng quân trong thời chinh chiến, cũng là chốn để lại cho Tôi nhiều kỷ niệm rất thân thương trong miền ký ức.

 Ở đây có một người thiếu nữ người dân tộc Ba Na sinh sống tại ngôi làng Konjơret ( Con dơ rét ), nằm cạnh bìa rừng cách sông Đakbla ( Đắp la ) xinh đẹp một con đường đất đỏ chạy xuyên suốt từ đầu đến cuối buôn làng. Cô gái có cái tên rất lạ: Djem ( Dem ), cô sở hữu một làn da trắng như những cánh hoa Cà phê được bà con trồng ven làng, mái tóc dài đen nhánh, thân hình cân đối và nhất là hàm rắng rất trắng và đều, nói chung là không chê vào đâu được..

Một ngày giữa năm 1974, do yêu cầu của chiến trường, đơn vị chúng tôi được phối trí lực lượng và đóng quân cách buôn làng nói trên chừng trăm mét, mục đích để chận đường chuyển quân của đối phương và bảo vệ buôn làng người dân tộc nơi đây. Sau một ngày vất vả ổn định nơi ăn chốn ở và nơi làm việc, khi chiều đến tôi cùng đồng đội ra con sông Đakbla để tắm giặt và lấy nước về sinh hoạt, xong đâu đấy Tôi và thằng bạn rất thân nó có tên Bùi Đức Kết người Quê Quảng Ngãi hai đứa ra ngồi cạnh bờ sông phía khu vực bên bị nước sông xâm thực tạo thành vách thẳng đứng rất đẹp nhưng hơi nguy hiểm vì có thể bị sụp đất rơi xuống sông lúc nào không hay, ngồi đong đưa hai chân, ngước nhìn bầu trời trong xanh bao la, rồi nhìn dòng sông lững lờ chảy, gió thổi hiu hiu, khung cảnh lạ lẫm nhưng hữu tình, giá mà lúc ấy biết làm thơ thì có lẽ giờ này Tôi cũng có được vài chục bài ca ngợi cảnh đẹp nơi này, đang thả hồn và đắm chìm với những suy nghĩ mông lung… bất chợt tiếng thằng Kết bạn tôi kêu lên thản thốt:

– Hùng ơi! mầy nhìn xem, có cô Tiên ở đâu đang hiện ra kìa.

Nhìn theo hướng của thằng Kết chỉ, tôi vội đáp lại:

– Thôi đi ông ơi, đó là nhà của Cô ấy chứ đâu ( Tôi đoán mò ):

   – Ủa mà sao tao thấy hình như mầy mới bị sét đánh phải không thằng quỷ, cái tật thấy con gái là mầy tươm tướp hà, coi chừng họ có chồng rồi đó đừng có mơ nghe mậy.

Chẳng thèm để ý đến lời của tôi, mắt nó cứ nhìn chầm chầm về ngôi nhà sàn nằm phía bên kia đường có cô gái đang ngồi ngoài hiên nhà chải tóc, bổng dưng hắn đổi tông hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập đâu vào đâu:

– Hồi nào tới giờ tao với mầy chơi nhau rất thân đúng không Hùng? Ngạc nhiên vô cùng tôi thầm nghĩ: 

  “Thằng này nó muốn cái gì đây, nói đại cho rồi còn bày đặt xa gần chi vậy nữa “

Trả lời nó, tôi nói:

– Còn cái gì nữa mà hỏi, bộ mầy tính nhờ tao chuyện gì phải không? muốn mượn chút đỉnh gửi về cho gia đình hả, tao còn đúng tám ngàn đồng nè, muốn thì cứ lấy đi, vậy là tháng này tao treo “mỏ” luôn.

Thằng Kết đớp chát lại tôi:

– Không phải đâu mầy ơi, tao gửi tiền về rồi, nhờ mầy chuyện khác, chờ tao một chút biết liền.

  Nó xoay người sang một bên, đúc tay vào túi quần rút gói thuốc lá Quân Tiếp Vụ nhăn nheo ra, đưa tay vuốt thẳng gói thuốc lá xong, nó xé tờ giấy bạc bên trong và lấy viết ra hý hoáy nhiều dòng chữ gì đó mà mãi đến bây giờ tôi chưa được đọc qua.

– Bây giờ tao nhờ mầy đem lá thư này đưa cho em gái bên đó giùm tao, và mầy chịu khó chờ cô ấy đọc xong và trả lời rồi mầy hãy về cho tao biết, xong việc này tao bao mầy một chầu cine ở ngoài Thị xã Kon tum, nếu không coi hát bóng thì mầy muốn gì tao cũng chìu, nhưng nửa tháng lương không kèm phụ cấp nghe mậy.

Cầm lá thư trên tay tôi thầm nghĩ:

 ” Cái thằng này sao nó bạo quá, chưa bao giờ nói chuyện với con người ta mà dám thư với từ “.

 Tuy vậy vì thương bạn nên tôi bất đắc dĩ làm cánh én chuyên chở mùa xuân Tây nguyên về cho nó, một thằng quỷ ” Háo sắc ” thấy phát ớn.

   Bước chân đến cầu thang gỗ trước hiên nhà cô gái, mắt tôi ngước nhìn, Đầu óc tôi gần như choáng váng và chợt nghĩ :

  “Cái thằng Kết ranh ma này đúng là có con mắt tinh đời”.

    Trước mắt tôi một dung nhan thánh thiện, nàng đẹp mê hồn khiến tôi cứ lóng ngóng thốt chẳng nên lời, thậm chí lúc ấy bản năng trổi dậy tôi định dấu biệt cái thư của thằng bạn thân kia, thầm mong làm quen với người đẹp riêng cho mình, nhưng rồi lý trí mách bảo Tôi phải đi lại đường ngay lẽ phải, tôi ngập ngừng nói với cô gái:

– Chào em ( Tôi Lấy hết can đảm ) Anh tên Hùng, anh mới về đóng quân sáng nay cạnh Làng mình, tình cờ gặp em nên bạn anh ( Tôi chỉ tay về phía bờ sông ) nó tên Bùi Đức Kết.Nó nhờ anh cầm thư này đưa cho em, anh không biết nó viết gì trong ở trong đó vì lịch sự anh không thể xem thư, nếu có gì không phải thì xin em vui lòng bỏ qua cho nha. 

  Cô gái nhoẽn miệng cười tươi như đoá hoa rừng vừa hé nở, lòng tôi xao động vô cùng, lúc ấy tôi cố kiềm chế chứ không thì sẽ không tròn nhiệm vụ của thằng bạn thân thiết giao phó. Djem nhận lấy lá thư vừa xem xong bổng dưng nàng cười ngất khiến tôi khó hiểu vô cùng. với giọng lơ lớ của đồng bào dân tộc nàng nói:

– Anh Hùng ơi! Anh nói với bạn anh là em có người yêu rồi. thật tiếc quá, thôi để em giới thiệu con Hơbia bạn em cho anh Kết nhé, còn người yêu của em là anh Hùng nè!

  Đất trời như sụp đổ dưới chân tôi, chân tay tôi lạnh cóng. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được một người con gái, mà là gái đẹp nữa, nói lời yêu thương mình thì hỏi làm sao tôi không khỏi bồi hồi, tôi chợt hiểu thì ra thư tỏ tình của thằng Kết. Bây giờ tôi phải ăn nói làm sao với nó đây? Không khéo nó lại cho mình là kẻ cướp tình yêu thì khốn khổ lắm thay, tôi nói với cô gái:

– Anh không ngờ nó để ý em nhanh đến thế! À mà tại sao em không thích bạn anh, còn anh đâu có gì đâu mà em lại chọn

– Em thấy anh đẹp trai hơn bạn anh.

( chắc lúc đó nàng chỉ nhìn cái tướng tá thôi vì xa quá làm sao biết thằng Kết không đẹp ), cô gái nói tiếp:

– Đã vậy anh Kết còn lùn hơn em…

Tôi bật cười với câu nói ngây thơ thật lòng của cô gái miền sơn cước, tôi đắm chìm trong hạnh phúc ” Ðê mê ” kia, cái cảm giác ” Bất chiến tự nhiên thành ” nó đến với tôi như một phép mầu, không dễ gì có được lần thứ hai… 

   Rồi dăm tháng trôi nhanh, mới đó mà NOEL lại về trên quê hương, ngôi nhà thờ trong làng Konjoret được thanh niên, thiếu nữ Ba na, già làng, cùng cha bề trên giăng đèn kết hoa làm cho không khí núi rừng tây nguyên mang một sức sống mới, tôi và thằng kết cũng góp một tay vào công việc này để tỏ cái tình “Quân dân cá nước”.

Ðêm Noel thật vui, sau khi rước đèn quanh làng, tôi và thằng Kết được mời chung vui tiệc ( Rờ vi Dông ) đến gần tận sáng, nào rượu cần, nào thịt heo, vịt, gà tất cả đều nướng lên trên đống lửa bập bùng, hương nồng của rượu, cái nóng của đống lửa hoà vào cái không khí lạnh giá đêm noel, Tôi ngồi cùng Djem, thằng Kết quấn quít với con Hơbia chúng tôi có cái cảm giác hạnh phúc đong đầy, tôi cảm thấy trên cuộc đời này không có gì tuyệt vời như đêm hôm ấy.

  Cuộc sống bà con nơi đây không xa hoa, quanh năm sống cùng cái rẫy trên ngàn, con cá dưới sông dưới suối, con nai con mễn trên rừng, cuộc sống như vậy đó mà thật là hiếu khách, bản chất hiền hoà của mọi người khiến chúng tôi muốn rơi nước mắt khi chia tay nơi này, tôi sẽ nói ở phần sau…

    Mùa mưa của Tây nguyên lại đến, những cơn mưa rừng thường thì không lớn, ít khi hung hãn như mưa vùng đồng bằng, tuy nhiên có những cơn mưa rả rích cả tháng không thấy mặt trời, mặt đất nhuộm đầy bùn đất đỏ, nhất là cái lạnh mà anh em thường nói lạnh từ trong xương lạnh ra. Một hôm đang ngồi trực máy truyền tin tại Trung tâm hành quân của đơn vị, bổng đâu từ phía ngoài thằng Kết mình ướt như chuột lột nó lao vào như tên bắn, đến chổ tôi ngồi nó thì thầm bên tai tôi như sợ các sếp biết chuyện bí mật gì vậy:

– Người yêu mầy đang bị sốt rét rừng hành hạ kìa, Ông Thượng sĩ Còn (Tên riêng ) nhờ báo cho mầy biết đó.

Giật bắn người, tôi cự nự nó:

– Sao giờ này mày mới nói hả thằng quỷ?

Bật đứng dậy tôi dùng hai tay ấn vai thằng kết xuống ghế, nhờ nó làm thay công việc tôi đang làm dang dở:

– Mầy trực dùm tao, chút nữa tao trở về.

   Nói được có bấy nhiêu, khoác vội chiếc Poncho tôi đến ngay nhà Djem, mọi người trong nhà vây quanh, Djem nằm thở mệt nhọc, vóc dáng xanh xao, bao nhiêu sinh khí hầu như mất gần hết, tôi thương cảm và đến gần bên hôn nhẹ trên trán ( Lúc này tôi hơi tự nhiên ) và hỏi nhỏ:

– Em có uống thuốc men gì chưa? ăn uống được không?

Djem cố trả lời:

– Ở đây không có uống thuốc gì hết, có nhờ thầy cúng đến làm phép bắt con ma rồi, vài hôm em sẻ khỏi thôi mà.

Tự dưng tôi nỗi nóng:

– Trời ơi! Bệnh là phải uống thuốc chứ, cúng kiến làm gì mà khỏi bệnh, sao mà vùng này còn mê tín quá vậy.

Nhiều cặp mắt người thân trong nhà nhìn về phía tôi, họ nghĩ tôi từ một hành tinh nào đến chứ không phải người đang sống nơi đây, tập tục người dân tộc khi bệnh hoạn thì nhờ thầy cúng, công bằng mà nói nhiều khi con bệnh có sức đề kháng tốt thì tự khỏi bệnh trong vài hôm thì công lao đó được coi như là nhờ thầy cúng, từ đó bà con cứ tin mà làm theo lệ. Biết mình lỡ lời thiếu kiềm chế, tôi lấy cớ thối thoát xin phép ra về. Sau đó tôi nhờ vị sĩ quan quân y ở đơn vị đến chạy chữa thuốc men thì Djem khỏi bệnh sau một tuần bạo bệnh.

  Sau lần đó tình yêu chúng tôi càng thăng hoa hơn, tuy vậy hai đứa vẩn giữ gìn cho nhau chưa bao giờ cả gan vượt vòng lễ giáo, nếu làm như vậy thì sẽ bị làng phạt nộp một con bò để tạ tội với Giàng với bà con thì… chết chắc..

  Đến mùa thu hoạch hoa màu, rẫy bắp đầy trái, chúng tôi làm việc bên nhau vui vẻ, lúc rảnh rỗi tôi phụ Djem để chia sẻ bớt nỗi nhọc nhằn bấy lâu ; lúc nghỉ trưa, bên bóng mát của cây gỗ dầu có niên đại chừng trăm tuổi xoè tán rộng che mát cho hai tâm hồn đang hướng về nhau. Djemnói với tôi:

-Em muốn cưới anh quá, anh có muốn không?

  Tôi bất ngờ nhưng không ngạc nhiên lắm, do người Bana theo chế độ mẫu hệ, nên lời đề nghị này không phải là khiếm nhã cho là ” Cột đi tìm trâu “. Thật lòng Tôi Đáp:

-Anh rất muốn, nhưng phải xin ba mẹ ở nhà mới được. Khi nào có kết quả anh cho em biết nhé, Djem giận dỗi:

– Đừng có làm bộ rồi trốn về Sài Gòn luôn nha, ở đây buồn là em sẽ chết đó.

 Tôi bụm miệng Djem lại, khẻ tát yêu vào má và trách:

   – Không tin anh thì thôi… anh sẽ…..

Cũng đến lúc tôi được hưởng 15 ngày phép thường niên, trên đường trở lại Sài Gòn tôi miên man suy nghĩ đến những gì mình phải đối mặt với gia đình, thuyết phục gia đình được không? mệt mỏi với ý nghĩ trên tôi thiếp đi trên chuyến xe đò liên tỉnh, khi giật mình thức dậy và Sài Gòn đã hiện ra trước mắt tôi bao tháng ngày xa cách.

Ngày đầu tiên ở gia đình tôi chưa dám đá động gì đến mối tình sâu kín của mình, qua hôm sau trong một buổi cơm chiều, thu hết can đảm tôi trịnh trọng thông báo:

– Bấy lâu nay con đã để lòng thương một cô gái người dân tộc, cô ấy ở gần nơi đơn vị con đóng quân, con lớn trong gia đình.. nhà hơi nghèo nhưng được cái tính giỏi giang và nhất là đẹp và khoẻ mạnh. Nay con xin ba má cho con được lấy cổ làm vợ… lâu lâu chúng con sẽ về thăm ba má một lần.

Để giành lấy chiến thắng tôi tiếp tục pha trò:

– Tụi con sẽ mang về nào là bắp, mía, thịt rừng về cho ba mẹ, và cho cả nhà thưởng thức đặc sản tây nguyên nữa đó.

Như từ Cung trăng rớt xuống trần gian sau khi nghe câu chuyện thần thoại ” Ðường rừng ” này, mẹ tôi nói:

– Nếu con muốn làm

 ” Già làng ” thì ba mẹ không cấm, nhưng liệu về lâu dài con có chịu được hay không, và nhất là dư luận xã hội nữa?.

Ngầm hiểu gia đình không chấp nhận câu chuyện hôn nhân này, tôi đánh lạc hướng cho gia đình được vui:

– Lâu quá mới về nhà, không có gì làm quà nên con tạo ra “sì căn đan” này cho vui nhà vui cửa, chứ làm gì có ” Già làng ” nọ kia.

Trấn an gia đình xong, đêm đó về phòng nghĩ, tôi trằn trọc suốt đêm, cái cảm giác tội lỗi giữa bên hiếu bên tình nó đan xen nhau mãi khiến tôi gầy rộc người sau kỳ nghỉ phép tại gia đình…

 Trên đường quay lại đơn vị, cái ba lô sau lưng tôi nó trĩu nặng hơn mọi khi, hình như nó cũng muốn níu kéo ghì chặt tôi phải ở lại cái vùng đất này, vùng đất tây nguyên màu mỡ ngàn lần yêu thương…

 Rồi định mệnh dường như đã có sự sắp đặt, Tây nguyên được lệnh di tản chiến thuật, đơn vị tôi cũng không có ngoại lệ, chuẩn bị cho việc rút quân xong, chúng tôi lên xe từ từ lăn bánh rời xa ngôi làng Konjoret, bỏ lại phía sau bụi đỏ mịt mù, với tôi bầu trời dường như tối sầm trước mắt, lòng tôi ăn năn vô hạn, tôi đã không thể tròn nguyện ước với cánh hoa cà phê mong manh của mình, cuộc ra đi buồn như thế, không gặp được người yêu bé bỏng để nói lời tạ từ, nói lời xin lỗi tình yêu rất nồng nàn em đã trọn dành hết cho anh…

Xe chạy đến cầu Đakbla thì chậm lại, do có đoàn người lố nhố phía trước, bất chợt Djem của tôi cũng có mặt trong số người đó, nàng đang gùi trên lưng những trái bắp to tròn mũm mĩm, thành quả gặt hái được bao ngày vất vả trên nương rẫy, giờ đây đem ra chợ xã Konkopat để đổi lấy vật dụng cần thiết cho gia đình.

Thấy tôi ngồi sau chiếc xe jeep mui trần có 2 cần anten cao vút như râu của chú cào cào kiêu hãnh trên rẫy bắp mà tôi thường gặp, Djem bật khóc, hai hàng nước mắt lăn dài trên đôi má hồng, tôi vội ngoái người ra khỏi xe, vẫy tay chào và nói trong vô vọng:

– Nhớ giữ gìn sức khoẻ, chăm sóc ba mẹ nhé. anh sẽ…

Gió đã cuốn đi lời nói kia, Tôi chắc rằng nó không thể nào đến tai của người tôi hằng thương mến, giọng tôi khản lại, cố cắn chặt đôi môi để tránh bật thành tiếng khóc, nhưng sao miệng tôi mằn mặn hồi nào không hay.

               ***

Thôi nhé tạm biệt Tây nguyên, tạm biệt cái thành phố Kontum nhỏ bé mà buồn tênh kia, tạm biệt cái làng Konjoret, tạm biệt dòng sông Dakbla và xin tạm biệt tình yêu bé nhỏ của tôi…

Tiếng hát của ca sĩ Chế Linh cũng đã chấm dứt tự bao giờ, ngồi đây với thực tại tôi cũng mong rằng sau mấy mươi năm dài xa cách, người con gái Bana ngày xưa sẽ yên ổn mọi điều, và tôi cũng để cho bụi thời gian ngủ yên cùng quá khứ, một quá khứ Tuyệt vời…

* Đây là truyện ngắn đầu tay sau năm 1975 của tôi, cảm ơn các bạn đã xem qua.

               6.2011

Cầu Dakbla ( Hình st)

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Lính Trận Ở Thành Phố

Cách Mạng Táo Quân

Cách Mạng Táo Quân

Hai Hùng SG

Lời TG : Đây là câu chuyện đầu tay tôi viết vào năm 1974, đã đăng trên tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, mục lính viết tếu do cô Kim Yên phụ trách. Do đã thất lạc bản chính nay tôi viết lại vẫn giữ nguyên ý câu chuyện, nhưng lời văn sẽ có khác là điều không tránh khỏi. Mong quý đọc giả đón nhận .

***

  Như thường lệ sáng nào cũng vậy khi chiếc xe GMC chở ông Thượng sĩ nghiệp trưởng ban ” Hỏa đầu quân ” của đơn vị vừa về đến, thì mấy anh em trong nhà bếp tập thể vội lao ra chiếc xe ấy để chuyển thực phẩm vô nhà kho do bác Nghiệp mua về từ chợ Bồng sơn .

Nếu Tôi không lầm thì hầu như bác Nghiệp cho chúng tôi nạp vô cái bao tử của mình quanh đi quẩn lại mấy món sở trường như cá Đối chưng tương, cá Chuồn chiên giòn hoặc kho, thịt Heo kho đậu hũ, khá hơn chút nữa thì có món Bò xào đậu que … Còn món canh thì đa phần canh rau muống nấu Tôm khô, bí đao nấu với thịt .

                  ***

Đơn vị cả trăm miệng ăn vậy mà ban Hỏa đầu vụ của bác Nghiệp lúc nào cũng lo cho chúng tôi ăn đúng giờ, ngoại trừ những hôm thời tiết làm khó làm dễ, mưa bão bất thường củi lửa tắt ngúm thì lúc này chúng tôi phải ăn tạm gạo sấy và thịt hộp cho qua ngày .

Nơi chúng tôi đồn trú một cao độ nằm cạnh quốc lộ 1, một địa danh khá lạ lẫm với dân Sài gòn đó là đèo Phù Cũ, ở đây cách thị trấn Bồng Sơn vài cây số và cách thị xã Quy Nhơn gần trăm cây số, đường lên đèo quanh co khúc khuỷu có đoạn dốc rất gắt nên mỗi lần quá giang chiếc GMC của bác Nghiệp khi lên hoặc xuống đèo thì trong bụng chúng tôi lúc nào cũng đánh lô tô liên hồi vì chỉ cần tài xế lơ đễnh trong tích tắc thì xe sẽ tuột dốc và lao xuống vực sâu ngay, cũng mừng là từ khi đơn vị chúng tôi đến “Ngự trị ” trên ngọn đèo này chắc có lẽ nhờ những người khuất mày, khuất mặt phù hộ nên chưa xảy ra tai nạn đáng tiếc nào .

Một buổi sáng nọ, sau khi được lãnh lương do ban quân lương từ Sài gòn đem ra phát, trong lòng tự dưng nổi hứng muốn ” Hạ san ” đi chợ Bồng Sơn một chuyến cho biết tình hình mua bán của dân tình nơi đây ra sao và nhân tiện sắm một số vật dụng cho cá nhân .

Biết ý định của tôi, Thằng Bùi Đức Kết bạn tôi nó cũng hăm hở không kém nó cùng tôi theo ông Thượng sĩ Nghiệp đi chợ :

– Hùng…Hùng nè ! Chờ tao xuống núi với mầy luôn, cái thằng này bạn bè kiểu gì mà lúc đi ngao du chẳng bao giờ nhớ đến ai hết .

Tôi thanh minh với nó liền một khi, vì tôi sợ nhất làm mất lòng thằng Kết, bởi khi nó làm mặt giận thì lâu lắm nó mới đồng ý làm lành, hơn nữa khi nó giận tôi rồi, thì lấy ai nhờ cậy làm thay công việc cho mình lúc gặp hữu sự, nên tôi nói vuốt ve nó :

– Tao chưa kịp rủ rê mầy thì mầy nhảy vô họng tao rồi, còn nói gì nữa ? mà nói thiệt nghe, nếu không rủ mầy đi thì tao biết đi với ai bây giờ, thôi nhanh lên đi ông, cà rà, cà rề là bác Nghiệp bỏ mình lại đó .

Khi chiếc xe GMC đậu vào khoảnh đất trống kế bên chợ Bồng Sơn, ngôi chợ này là dãy nhà lá lụp xụp như những căn nhà chòi mà thời thơ ấu con nít trong xóm tôi cất lên để chơi trò bán đồ hàng, sở dĩ vùng này dựng nhà lụp xụp để tránh gió bão từ biển khơi thổi vào dễ làm tốc mái hoặc sụp đỗ, tuy vậy cũng có vài căn nhà được xây tô bằng xi măng quét vôi cẩn thận đã vậy họ làm thêm một tầng lầu, vì thế mỗi khi thời tiết không thuận lợi hầu như dân ở phố chợ này xúm vào tá túc nơi đó, tuy chật chội, bức bối, ngột ngạt do tập trung quá đông người nhưng cũng thắm đẫm tình nghĩa đồng bào, do họ đã thực hiện đúng theo câu tục ngữ : “Lá lành đùm lá rách” .

  Không để mất thời gian khi chiếc xe GMC đã được tắt máy, mọi người bên trên leo xuống và túa vào chợ, do lần đầu tiên đến chợ này, tôi và thằng Kết chỉ biết lẽo đẽo đi theo bác Nghiệp, ông Nghiệp đi lại thoan thoát từ hàng này qua hàng nọ, mua mua bán bán, cười cười nói nói, còn chúng tôi thì lóng nga lóng ngóng vì không biết mình bắt đầu từ đâu và mua cái gì, bao toan tính lúc nãy ở đơn vị trước giờ xe chạy, giờ thì nó biến đâu mất không còn lưu lại chút gì trong đầu, chưa biết tính sao thì một bà chị bán cá, chị ta đon đả mời chào :

– Hai chú lính sữa ơi, ăn cá gì chị bán cho nè, chị cân đủ và bán đúng giá luôn, hai cưng ăn gì ?

Thằng Kết nó lẹ miệng :

– Cám ơn bà chị, tụi em như vầy mà chị kêu lính sữa hả ?, còn cá ..thì sếp tụi em mua của chị cả chục ký rồi.

 Nói xong thằng kết chỉ tay về phía ông Thượng sĩ Nghiệp đang ngả ngớn nói cười với mấy cô bé bán rau muống gần đó, thấy chúng tôi nói vậy chị bán cá vớt vác bằng câu nói vui :

– Vậy mà chị ngỡ mấy em ở đơn vị khác, ai dè … Chỗ bác Nghiệp với chị thì quen lắm, mà hai em có vợ con gì chưa. Nói thiệt đi, hôm nào chị làm mai cho, con gái Bồng Sơn này trắng da dài tóc nói chuyện ngọt ngào lắm đa nghe .

Biết chị bán cá nói giỡn  cho vui, nhưng tôi làm ra vẻ ” Ngây thơ cụ ” :

– Trời chị nghĩ sao vậy, hai đứa em mới mười chín hai mươi mà vợ con gì chị ơi, tụi em mà lấy vợ tối ngày giành ăn chắc lối xóm cười dữ lắm .

Nghe chị bán cá nói đến việc làm mai mấy cô gái cho mình, như bắt được vàng thằng Kết đâu dại gì bỏ qua cơ hội hiếm có này, chờ tôi trả lời xong cho chị ta nó liền hỏi tới :

 – Chị ơi, cho em hỏi mấy cô đó hiền không, có coi được mắt hông nữa, vì ở Sài gòn nhiều cô đẹp hết xẩy mà em còn chưa chịu để các cô ấy làm quen với mình nữa đó chị .

 Nghe thằng Kết “Nổ banh ta long” với chị bán cá, tưởng đâu chị ta nổi trận lôi đình không ngờ chị vẫn cười và trả đũa thằng bạn tôi :

– Cha ơi ! Em có giá dữ vậy sao, nhưng thôi hôm nào ở không thì đến nhà chị cuối dãy chợ này, tụi em đến căn nhà có cánh cửa sơn màu tím, rồi chị kêu mấy đứa đến chơi cho biết .

Câu chuyện vui chúng tôi phải tạm chấm dứt do có vài bà khách đến mua cá, chúng tôi đành chào từ giã chị bán cá vui tính kia và không quên hẹn có dịp sẽ trở lại tiếp tục câu chuyện ngọt ngào của buổi sáng này .

Nhìn sang hàng rau muống thì lúc này bác Nghiệp cũng không còn hiện diện nơi ấy nữa, buộc lòng hai đứa chúng tôi đành phải quay ra cổng chợ, trên đường đi chúng tôi thấy người dân ở đây họ buôn bán với nhau rất nhã nhặn không thấy cảnh cãi vã lẫn nhau, khi đến căn nhà bày bán những bao gạo được vun lên có ngọn trắng phau như núi tuyết, một cô bé có đôi mắt thật đẹp và đượm buồn ngồi gần đó, hai gò má cô nhô cao đỏ hồng thật quyến rũ, tóc nàng để dài tha thướt và phất phơ bay khi có cơn gió nhẹ thổi hôn vào . Lúc này nàng dùng năm ngón tay làm lược vuốt lại mái tóc đen nhánh, bàn tay trắng ngần như những búp măng non . Tôi và thằng Kết như bị thỏi nam châm vô hình hút mình về hướng cô gái, đang bối rối vì gặp một giai nhân tuyệt mỹ của vùng biển mặn nơi này, thì thằng Kết nói nhỏ vào tai tôi :

– Hùng .. Mầy muốn mua gạo của cô bé này phải không ???? Sao mà nhìn chầm chầm con người ta vậy ?

Rồi nó cười rú lên khiến cô gái bán gạo không hiểu chuyện gì xảy ra nhưng rồi có lẽ trực giác đã khiến cho cô gái nọ biết rằng chúng tôi đang nói về cô ta, tôi nhìn kỹ thấy cô gái bẽn lẽn thẹn thùng, mặt đỏ bừng vội chạy nhanh vào nhà bên trong, thái độ cô gái đã làm hai đứa tôi cụt hứng, tôi quay qua trách thằng Kết :

 – Mầy ghẹo con người ta lộ liễu không sợ cô bé buồn hay sao ? Tao đang ngắm cô tiên nữ mà mầy phá đám để nàng biến mất, bây giờ tao phải làm sao đây chán mầy thiệt .

Đang tần ngần chưa biết tính sao thì thời may từ phía sau nhà của tiệm bán gạo, ông Thượng sĩ già Hỏa đầu vụ xuất hiện cùng cô gái, tôi mừng thầm trong bụng :

 “Bác Nghiệp ơi ! bác là vị cứu tinh của cháu đó bác biết không”.

Tiếng bác Nghiệp hỏi cô gái :

– Đâu ? Cháu Bồng nói đứa nào đâu chỉ cho bác coi .

Tôi thấy cô gái không trả lời mà hướng đôi mắt về phía chúng tôi, bác Nghiệp dường như hiểu ý bèn hất hàm hỏi chúng tôi :

– Hai thằng nhóc này tụi bây ghẹo cháu Tui phải không ? Người ta con nhà đàng hoàng đó, đừng ghẹo quá trớn coi không được nghe bây, tui mà nghe cháu Bồng méc lại thì tui cúp cơm hai đứa bây ráng chịu nhe .

Bác Nghiệp vừa nói vừa làm mặt nghiêm nghị, nhưng không quên nháy nháy mắt cho chúng tôi như ngầm bảo :

 ” Tới luôn bác tài, đừng cho số de “.

Cô Bồng nghe bác Nghiệp nói vậy bèn thanh minh :

– Không phải mấy anh này ghẹo con, con thấy mấy ảnh cứ nhìn vô tiệm hoài nên con sợ vậy thôi, chứ bây giờ con biết rồi, mấy anh chung đơn vị với bác thì con an tâm .

Thẹn thùng nhìn hai thằng tôi, cô Bồng bằng cái giọng nói ngọt như mía lùi :

– Mời hai anh vô nhà chơi uống nước, Bồng xin lỗi vì nhận xét không tốt về hai anh, bác Nghiệp quen với mẹ em và đã mua gạo ở đây từ lâu rồi .

Được cô Bồng mời vào tiệm gạo, tôi thì sướng rân người, còn thằng Kết lúc này nó đang nghĩ gì trong đầu thì tôi chịu thua không thể đoán ra, có điều thấy thái độ ngần ngừ của nó với gương mặt không vui tôi bèn chọt léc nó bằng câu nói :

– Ê thằng Kết, em Bồng này tao xí trước rồi nha mậy, sẵn ở chợ nè mầy nhờ bác Nghiệp kiếm cho mầy em khác, có nhiều khi còn sắc nước hương trời hơn em Bồng này cũng không chừng. hi…hi..

Nó nghe xong tiếng cười của tôi, nó làm bộ nghiêm mặt và giơ nắm đấm dứ dứ vào mặt tôi như là muốn thách đấu để coi ai thắng thì sẽ là người săn đón cô Bồng .

 Quan sát thấy cử chỉ của chúng tôi, dường như cô bé này đã đọc được suy nghĩ của hai đứa tôi, cô Bồng cười hiền rồi nhỏ nhẹ nói :

 – Hai anh cũng vui tính ghê hé, thôi vô nhà uống nước rồi chút nữa theo bác nghiệp về luôn .

Tôi hưởng ứng lời mời tức thì, riêng thằng Kết thì xin phép đi mua vài ba vật dụng linh tinh khác, nó chào tạm biệt tôi và cô Bồng nó bước thật nhanh như muốn nhường lại cho tôi tận hưởng tiếng sét ái tình mà tôi mới gặp .

 – Anh Hùng đi lính lâu chưa ? sao không chịu xin ở gần nhà, ra chi vùng đất chó ăn đá gà ăn muối này cho cực thân ?.

Hớp ngụm nước trà tôi thong thả kể lại quảng đời niên thiếu, học hành rồi hoàn cảnh vào quân ngũ của mình, nghe xong tôi thấy Bồng dường như chưa thoát ra khỏi câu chuyện tôi vừa kể nếu tôi không hỏi :

– Câu chuyện anh vừa kể có buồn không, mà sao anh thấy Bồng thẫn thờ quá vậy ?

 Nàng như tỉnh một giấc mơ :

– Dạ Bồng thấy buồn thật, nếu ba anh không bị cái tai nạn đó, có thể giờ này anh vẫn tiếp tục học lên nữa thì phải .

 Tôi không đáp lời chỉ gật nhẹ đầu thay cho lời nói, rồi cô Bồng cũng muốn tôi hiểu hoàn cảnh mẹ con cô, phải bỏ nhà của vườn tược trong miệt núi An Lão chạy ra thị trấn Bồng Sơn sau khi cha cô chết giữa trận giao chiến của hai bên, mẹ cô bươn chảy làm lụng buôn bán gầy dựng lại sự nghiệp cho đến bấy giờ, thú thật tôi có cái nhận xét, Bồng có cái lối kể chuyện như hát ru à ơi trong những buổi trưa hè khiến tôi bị cuốn hút thật sự, qua buổi trò chuyện này hai đứa chúng tôi có được cái nhìn về nhau thật gần về mọi mặt, và dường như sợi dây tình cảm nó đang bắt đầu buộc dần hai tâm hồn chúng tôi lại với nhau …

* * *

Đơn vị chúng tôi cũng như các đơn vị bạn đồn trú quanh vùng bước vào chiến dịch, suốt cả tháng trời quần nhau với đối phương, khi chúng tôi rút về vị trí cũ thì phía đối phương cũng rút vào rừng sâu trên dãy Trường sơn hùng vĩ, chiến trường lắng dịu trở lại, lúc này thì tôi mới lại có dịp nhớ về cô gái tên Bồng cô gái bán những hạt ngọc của trời ở chợ Bồng Sơn nằm cạnh bờ sông Lại Giang, con sông hiền hoà chảy, nước sông Lại Giang vào mùa khô thì trong veo nhìn thấy rõ từng hạt cát dưới đáy sông đang tung tăng di chuyển theo dòng nước, nhưng vào mùa mưa bão, dòng Lại Giang nước đục ngầu và cuồng nộ hung hãn lạ thường, trái tính trái nết như cô Bồng mà tôi yêu mến sau này .

Rồi dăm ba lần đến cái tiệm gạo, ăn dầm nằm dề khi rảng rang công việc ở đơn vị, cũng đôi ba lần chúng tôi hò hẹn bên dòng Lại Giang cuồn cuộn chảy, ngồi dưới bóng mát của rừng dừa chúng tôi trao đổi niềm vui nỗi buồn, rồi bỗng một hôm nàng nói với tôi :

 – Chúa nhật tuần sau, em với con Hoàng lên Đèo Phù cũ thăm anh với anh Kết nhé.

Nghe nàng nói, tôi chưa biết trả lời ra sao, vì khi đơn vị đang hành quân các sếp không cho anh em lính tráng đem bạn gái, người yêu đến đơn vị, đây là trường hợp đặc biệt tôi phải xin phép trước thì mới cho nàng câu trả lời chính thức, tôi hẹn nàng sẽ báo cho Bồng biết khi được sự cho phép của các sếp.

 Nghe vậy Bồng làm vẻ mặt không vui, suốt thời gian còn lại bên nhau nàng chẳng thèm nói với tôi thêm một lời khiến tôi áy náy lên tiếng :

 – Em không biết đâu, vì kỷ luật là sức mạnh của quân đội, anh tự tiện để em lên núi thăm anh là các sếp sẽ “Bố” cho anh một trận liền .

Với đôi mắt buồn buồn Bồng nói như trách móc :

– Chứ không phải anh nghi ngờ điều gì phải không ? Bộ sợ em lên đó dò xét rồi báo cho mấy ông “Bên kia” hay sao vậy ?

Tôi lấy ngón tay cốc nhẹ lên tóc nàng rồi phân tích cho Bồng hiểu thêm :

 – Làm gì có ý nghĩ đó cô nương ơi, suốt ngày gieo tiếng oán cho anh không hà, anh phải xin phép đàng hoàng để tránh rắc rối nếu nó xảy ra hiểu chưa .

* * *

Thấy tôi đứng chàng ràng nơi ông ngồi cộng sổ thu chi tiền chợ búa trong tháng để báo cáo cho Sếp đơn vị trưởng, bác Nghiệp dỡ cặp kính ra khỏi sóng mũi và lên tiếng hỏi tôi :

– Gì nữa đây chú em, canh hôm nay không ngon à ? Hay cơm sống, có gì cứ nói huỵt toẹc ra cho rồi, à thôi biết rồi, muốn xin phần cơm cháy phải không ? Cơm cháy hôm nay đưa cho ban Quân y hết rồi, ngày mai tui để cho chú mầy vài miếng nhai cho đã thèm .

Tôi dự định nhờ Bác Nghiệp dùng miệng lưỡi của Tô Tần thuyết phục sếp cho tôi được phép tiếp cô bạn gái tại đơn vị nhưng nghe bác nhắc đến mấy giề cơm cháy dưới bếp, thì trong miệng tôi nước miếng tự nhiên nó tuôn trào khiến tôi phải nuốt ực liên tục, vì cơm được nấu trong chảo bằng gang, nấu nhiệt độ cao nhưng ngọn lửa chỉ cháy liu riu nên lớp cơm dưới cùng cháy vàng thật đều và giòn rụm, cơm cháy được thoa lên một lớp mỡ hành và rưới một ít nước mắm y dằm thêm lát ớt đỏ đỏ cho vào miệng nhai, khi nó được nhai nhuyễn thì các vị mặn ngọt béo cay cay nó kích thích vị giác khiến người ăn bắt thèm, nhai nhóp nhép đến lúc bụng căng đầy nhưng vẫn còn muốn ăn thêm …

Trở lại chuyện tôi định nhờ bác Nghiệp nói với sếp tôi cho phép cô bạn gái được đến thăm tôi và thằng kết tại đơn vị, khi nghe tôi nói rõ ngọn ngành thì bác Nghiệp trố mắt nhìn tôi rồi gằn giọng :

– Nè …tui hỏi thiệt chú mầy nha, chú mầy cua con Bồng cháu tui sao mà nhanh dữ vậy, mà quen với nó rồi phải đàng hoàng nha, nếu không chú em mầy biết tay tui đó nghe, tui với mẹ nó là chị em kết nghĩa đó . Rồi để tui nói với ông Đại úy Bôn giùm chú mầy, sau này phải trả ơn tui đó nghen .

 Tôi không ngờ Bác Nghiệp nhiệt tình với mình như vậy, tôi trở về căn hầm của mình chờ đợi tin vui từ bác Nghiệp .

Chiều đến khi tôi xuống nhà bếp lấy phần cơm, Thấy tôi lơn tơn đi tới bác Nghiệp ngoắc tay gọi tôi vào văn phòng của ông :

– Chúc mừng chú em, Đại úy Bôn Ok rồi đó, mà hai con nhỏ đến chơi cả ngày rồi chú mầy liệu cho ăn uống đãi đằng ra sao, không lẽ lấy cơm nhà bếp đãi coi sao được .

– Trời ! bác không nói cháu quên phức cái chuyện này, thôi được rồi cháu với thằng Kết sẽ đi chợ mua đồ ăn rồi về tự nấu .

Bác Nghiệp cười khẻ và hỏi :

 – Hai đứa liệu nấu có ra món gì hay không ? Nếu cần tui nhờ mấy đứa nhà bếp nó phụ cho .

 – Nấu món ăn dễ ẹt bác Nghiêp ơi, hồi chưa vào lính ở nhà thỉnh thoảng cháu nấu cho cả nhà ăn ai cũng khen ngon.

 Tôi cố làm ra vẻ rành rọt trong cách nấu ăn nên trả lời bác Nghiệp theo kiểu nói mạnh miệng, chứ thật ra trong bụng tôi bắt đầu lúng túng, vì từ nhỏ đến ngày vào lính tôi chưa bao giờ đụng tay vào con dao cái thớt nói chi đến các món ăn phải chế biến cầu kỳ đúng cách thì mới ngon .

* * *

Vậy là còn hai hôm nữa, hai bông hoa của miền duyên hải sẽ đến thăm tôi và thằng Kết, đêm đó tôi với thằng Kết bàn bạc với nhau nấu món gì, suy đi tính lại cuối cùng chúng tôi sẽ làm ba món ăn gồm cá biển ướp muối sả ớt, bột nghệ rồi chiên giòn, thịt kho tiêu, và canh chua thịt gà nấu với lá giang, vậy là hai đứa yên tâm với thực đơn này, từ đây chính thức Tôi và Thằng Kết sẽ làm một cuộc “Cách Mạng Táo Quân”, tự mình nấu ăn để truất phế ngôi vua bếp của bác Nghiệp, nghĩ đến đây thôi bắt đầu tưởng tượng em Bồng của của Tôi và em Hoàng của thằng Kết vừa ăn cơm với các món ăn này vừa xuýt xoa miệng khen ngợi hai đứa tôi hết lời, bay bổng với ý tưởng trên tôi và thằng Kết ngủ thiếp trên cái võng đánh một giấc tới sáng .

* * *

Sáng chúa Nhật của cái ngày quan trọng với chúng tôi đã đến, trời vừa hừng sáng, không thể chờ quá giang xe GMC đi chợ với bác Nghiệp như mọi lần, Tôi và thằng Kết nai nịt gọn gàng, chân mang giày “Bốt đờ sô” đánh “si ra” bóng loáng, nói giỡn  cho vui chớ nếu con ruồi nào vô phước mà đậu vào mũi giày chúng tôi thì coi như nó tự kết liễu số phận của mình, do mũi giày lúc bấy giờ rất trơn và láng chú ruồi bạc mệnh kia bị trợt chân té xuống đất chết không kịp ngáp .

Hai đứa tôi lật đật cuốc bộ đỗ đèo, khi xuống đến quốc lộ chúng tôi quá giang xe ” Ba lua ” loại xe chở hàng có mui bít bùng để đến chợ Bồng Sơn, mười lăm phút sau chúng tôi đã đến chợ và bắt đầu trổ tài mua bán như bác Nghiệp làm hàng ngày, chúng tôi đến hàng của bà chị bán cá dạo nọ, thấy chúng tôi đến gần chị mừng rỡ ra mặt :

– Hôm nay mua cá giúp chị nghe, có cá Dìa ngon lắm, mới từ biển đưa vô, cá Hường, cá chuồn, cá đỏ dạ nữa nè .

– Cho tuị em bốn con cá Dìa, bốn con cá Hường, bao nhiêu đó đủ ăn rồi chị ơi !

– Ủa còn bác Nghiệp đâu hôm nay chị không thấy ?

-Dạ bác Nghiệp chút nữa mới đến chị à, tính tiền em luôn .

 Chị ta gói tất cả số cá trên vào lá chuối, chị lấy sợi dây lát buộc chặt khi gút lại chị chừa lại đoạn dây cho chúng tôi cầm . Ghé qua các gian hàng khác mua thêm các loại nguyên liệu cho buổi nấu ăn xong chúng tôi hối hả trở về đơn vị chuẩn bị cho cuộc hành trình : “Cách mạng Táo quân” .

* * *

 – Tao bắc nồi cơm, làm cá, mầy lặt rau nấu nướng nghe Hùng .

 – Cái gì cũng được mầy ơi, thôi nhanh tay lên sắp đến giờ mấy em đến rồi, làm không kịp là các em cười chê mình dữ lắm mầy ạ .

Tôi và thằng Kết hì hục làm việc, bắt nồi cơm xong thằng Kết đánh vẩy cá, khứa rãnh thân cá để khi ướp gia vị mau thấm vào, nó rửa thật sạch mấy con cá rồi chất hết vào rổ để lên cao cho ráo nước, tôi lặt rau, chặt gà rửa sạch và cũng để cho ráo nước, ít phút sau chúng tôi dọn dẹp rác rưởi gọn ghẽ và bắt đầu nấu nướng .

 – Chết rồi, quên mua muối bột lấy cái gì ướp cá bây giờ .

 – Cái bếp lò xô lại hết dầu nữa .

Thế là tôi với thằng kết mỗi đứa chia nhau xuống cầu viện mấy anh Hỏa đầu vụ “Viện trợ ” những mặt hàng còn thiếu thốn để hai chúng tôi hoàn tất hành trình làm cuộc cách mạng nêu trên .

 Khi có đủ các món cần thiết cầm trên tay chúng tôi hí hửng quay lại nơi bếp núc của riêng mình thì hỡi ơi, con mèo Tam Thể của Thằng Hồng ban quân y nuôi và con chó bẹc giê của Anh Hổ tài xế đang gầm gừ cắn nhau mãnh liệt làm tung mấy con cá và cả cái dĩa thịt gà rơi xuống cát, xuống cống thoát nước, trên mình cá dấu răng hai con vật giành ăn cắn xé nát cả thân, còn cái dĩa đựng thịt gà bể tan tành dưới đất, thịt gà thì văng trọn xuống mương cống thoát nước . Lúc này chứng kiến cảnh chiến trường bất đắc dĩ này tinh thần chúng tôi sụp đổ :

 – Đúng là “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên mà”. Giờ tính sao đây Kết .

 Nghe tôi hỏi, thằng Kết nó chưa vội trả lời, nó cầm hai thanh củi khô phang cho hai con vật đáng ghét kia, bị trúng đòn đau điếng con thì kêu ẳng ẳng cụp đuôi chạy về ban Quân xa, còn chú mèo Tam Thể kêu meo meo thảm thiết và phóng vội về ban Quân y, còn hai đứa tôi phải thu dọn bãi chiến trường, những

 “Chiến lợi phẩm” còn vươn vãi dưới đất được cho vô thùng rác vì không còn hình thù lúc ban đầu thì làm sao ai mà có can đảm đưa vào cái dạ dày .

Nhìn đồng hồ 11 giờ trưa, nắng bắt đầu gay gắt, chợ thì quá xa không còn phương cách cứu vãn tình thế hiện tại, thấy thằng Kết bứt đầu bứt tay, Tôi nói một câu làm nó tỉnh người :

 – Tao xuống mượn bác Nghiệp bốn cái hột vịt đem về luộc xong vằm nước mắm vậy là có một món mặn, món canh thì lấy hai tô canh rau muống dưới bếp bác Nghiệp, chén nước mắm cay, đãi hai em bằng món  này sẵn dịp mình thử lòng các em luôn mầy chịu không ?, vậy đi mầy không nghe người ta hát ví hả :

” Giàu thì cơm tấm bún bò .

Nghèo thì xôi, bắp cũng qua một ngày”

Như vớ được chiếc phao cứu sinh giữa biển trời bao la rộng lớn, thằng Kết nó toe toét cười rồi nói :

 – Tao bái mầy sát đất luôn nghe Hùng, khổng Minh Gia Cát Luợng tái thế chắc thể nào cũng thâu nhận mầy làm đồ đệ đó, chuyện vậy mà mầy cũng nghĩ ra . Bái phục .. Bái phục ..

Khi dọn những món ăn ngoài dự tính ra trên bàn ăn, tưởng chừng mọi chuyện đã an bày, khi chuẩn bị xới cho mỗi người mỗi chén cơm tôi cười muốn bể bụng, tôi nói với thằng Kết và hai cô em gái kia tiện thể nghe luôn :

– Công nhận thằng Kết này có tài thiệt nha, nấu cơm ba tầng kiểu này xưa nay hiếm lắm, mầy đi dự thi nấu ăn hay ẩm thực thì giựt giải cái chắc .

Nồi cơm nó nấu phần trên cùng sống nhăn, chính giữa nhảo nhoét, dưới đáy nồi cháy khét đen, nói dại bây giờ ai kêu nó nấu cơm mà có kết quả y như nồi cơm “Ba,tầng” ngày hôm đó chắc thằng Kết không bao giờ thực hiện được .

 Cuối cùng tôi cũng phải xuống nhà bếp của bác Nghiệp lãnh phần cơm đem về thế chổ cho cái nồi cơm của thằng Kết nấu .

Bốn người chúng tôi ăn uống đạm bạc trong ngày hôm đó mà hầu như ai cũng luôn miệng khen ngon, sau này tôi mới hiểu được do ai cũng đói meo nên ăn cái gì vào cũng thấy ngon, sau một ngày vui chơi bên nhau chúng tôi chia tay trong lưu luyến.

Đêm ấy cũng trên hai chiếc võng nằm tòn teng, tôi với thằng Kết ôn lại một ngày sóng gió trôi qua, may là kết thúc có hậu các nàng tiên của hai đứa tôi đúng là mẫu người không tham phú phụ bần, tuy cuộc “Cách mạng Táo quân” lần này thất bại nhưng tôi cũng thấm thía câu nói của người xưa :

 ” Không thành công cũng thành nhân ” 

***

   Khi chiến trường miền duyên hải bớt căng thẳng, đơn vị chúng tôi được tái phối trí lên Tây nguyên, chúng tôi chia tay hai nàng tiên bé nhỏ dễ thương mà chưa một lần gặp lại, hình ảnh hai cô bé ở chợ Bồng Sơn đôi lúc nó vẫn còn len lén đưa chúng tôi quay về bến mộng ngày xưa .

  Rằm tháng giêng 2012

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Lính Trận Ở Thành Phố

Lính Trận Ở Thành Phố

 (Hai Hùng SG)

Vác cái ba lô trên lưng, tui nhảy xuống khỏi chiếc xe Lam rồi đi bộ lại vài mươi thước thì thấy cổng trại Lê văn Duyệt , nơi đây là, “Tổng hành dinh” của đơn vị Biệt Khu Thủ đô, nó nằm trên con đường trùng với  tên Lê văn Duyệt  của thủ đô Sài gòn .

                      ***

  Trước cổng trại có hai anh lính Quân cảnh thường xuyên  bồng súng đứng canh gác, tui lần trong túi áo lấy ra tờ Sự vụ Lệnh do Phòng Một Tiểu khu Gia định cấp để trình cho một anh quân cảnh khác đang ngồi trực ở chòi canh sát bên trong cổng.

  Viên Trung sỹ Quân cảnh nhìn vô tờ sự vụ lệnh rồi cất tiếng hỏi :

 – Anh Hùng về đây học hả, anh cho tui coi Thẻ căn cước quân nhân và chứng chỉ tại ngũ để đối chiếu.

 Sau khi trình giấy anh Quân cảnh mĩm cười rồi nói :

 – Tiểu khu trưởng Gia định tên gì vậy anh Hùng.

 Tui đoán chắc ông này muốn  

“Thử phổi’ coi tui đúng là dân thứ thiệt hay dân “Bá vơ” nào đó lợi dụng trà trộn vô để phá rối, tui trả lời rốp rẻng liền một khi:

 – Dạ trình Trung sỹ, Đại tá  Lê văn Tư là Tỉnh trường kiêm Tiểu khu trưởng đó Trung sỹ.

 Anh ta nghe xong liền xếp gọn giấy tờ trả lại cho tui, anh ta chỉ tay về hướng bên trong, anh nói:

 -Đại đội Truyền tin Biệt Khu Thủ Đô nằm phía bên phải, anh đi gần cuối con đường này, gặp ngả ba anh nhìn bên Phải là nơi anh cần đến.

 Tui đưa tay chào kính cám ơn anh ta rồi bước đi vô bên trong trại theo hướng dẫn, các con đường trong doanh trại thật sạch sẽ thoáng  mát, hàng cây Phượng vỹ được trồng hai bên vệ đường che mát  cả con đường phía dưới bởi nắng Hè oi ả, hoa Phượng nở đỏ rợp cả trời, tiếng ve sầu kêu inh ỏi khiến tui có suy nghĩ:

  “Mùa hè là mùa học trò được nghỉ ngơi, vậy mà đám “Học trò mặc áo lính” tụi tui lại phải cắp “Ba lô” đến trường, đúng là chuyện ngược đời”.

 Sở dĩ tui có mặt ở trại này là do được anh Huỳnh, trung úy đại đội trưởng đại đội 3/665 ( Ba trên sáu sáu năm) cho tui theo học một khoá chuyên môn CC1 ( Xê xê một) Thiết trí khai thác dây của ngành truyền tin, vì sau một thời gian “lội bùn dơ, băng lau lách xuyên đêm” với cái máy truyền tin PRC 25 trên vai, thấy tui lanh lợi với gương mặt lính sữa, hơn nữa ảnh thấy tui sống cũng hòa đồng và tình nghĩa với anh em trong đơn vị, hôm nọ sau khi nhảy vô Bưng ông Thoàng lần thứ nhì bằng Trực thăng vận kết thúc, tui đang lơn tơn lội bộ trên Cây cầu Mỹ Thủy để về nơi đóng quân cách đó chừng cây số, vừa bước qua khỏi cây cầu đến cổng của Bộ chỉ huy Đại đội thì tui nghe tiếng Trung úy Huỳnh gọi tui giật ngược:

 -Hùng… Hùng nè vô đây anh biểu.

 Mình mẫy đang ướt át hôi hám bùn sình với cái máy PRC 25 trên lưng, nghe sếp kêu vô trình diện ổng làm tui không hiểu chuyện gì xãy ra với mình, không biết trong khi đàm thoại trên máy  lúc quân hành tui có nói điều gì mích lòng anh Huỳnh không, ổng kêu mình vô khiển trách điều gì?.

  Gặp anh Huỳnh trong sân cờ của Đại đội , tui giơ tay chào theo lễ nghi quân cách rồi đứng nghiêm chờ lệnh, anh Huỳnh miệng cười tay thì lắc vai tui, ảnh nói:

 – Thôi mai mốt khỏi cần vầy nữa Hùng ơi, anh với tụi em là huynh đệ chi binh, sống chết có nhau đâu cần kiểu cách cứng ngắc vậy đâu, khi nào tập họp tòan thể đại đội thì mới vầy.

 Rồi anh nói tiếp:

 – Hùng về tắm rửa thay đồ rồi mang ba lô về đây liền nha.

 Tui thắc mắc:

– Có gì gấp vậy trung úy:

-Anh cho Hùng đi học chuyên môn về truyền tin, sau này đỡ phải ra trực tiếp mặt trận, ngày mốt là nhập khóa rồi.

 Một chút ngỡ ngàng pha chút buồn vui lẫn lộn, ngỡ ngàng là tui được người chỉ huy chiếu cố cho cái đặc ân này, buồn vì sắp xa những người bạn thân thiết bấy lâu nay, từng cùng nhau dầm mưa những ngày đêm quân hành vất vả, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi khi có hữu sự, còn vui là chắc chắn ít ra tui cũng có vài tháng nơi phồn hoa đô hội, tạm xa rời ánh hỏa châu leo lét soi sáng nơi tiền đồn, tạm xa nanh vuốt của tử thần lúc nào cũng chực chờ lấy đi mạng sống của người chiến binh trên chiến địa, tạm xa hình ảnh đồng đội rên rỉ với vết thương loang máu nơi cái băng ca để chờ trực thăng tản thương, còn nhiều bất trắc nữa, tui thầm cảm ơn các đấng tối cao đã cho tui được cơ hội này.

 Trả lại cái máy truyền tin và khẩu M16 cho đơn vị, tui được cấp liền hai tháng lương dằn túi để có tiền nong tiêu xài trong những ngày học hành ở thành đô, khi sắp bước chân ra cổng rào của đại đội, tui cố thu lại những hình,ảnh thân thuộc này biết đâu khi học xong tui chẳng còn cơ hội quay lại, tiễn tui ra tận  cổng anh Huỳnh căn dặn tui đủ điều, ráng thu thập những kiến thức học được để sau này áp dụng vô thực tế  chiến trường khi cần, anh móc trong túi trao cho tui cái bao thư , anh nói với giọng đầy tình cảm thân thương:

 -Anh cho Hùng chút ít tiền để chi dụng, vì cần gì thì có tiền mà mua. 

 Anh đẫy tui ra khỏi cửa đồn một cách dứt khoác rồi anh quay lưng đi vô đồn ngay, hình như anh không muốn nấn ná với thằng em cùng quê với mình cho thêm phần bi lụy.

                        ***

  Doanh trại của Đại đội truyền tin nằm trong khuôn viên khá rộng, có hội trường, có nhà bàn nơi các khóa sinh ăn uống, có những dãy (sam) thoáng mát, trong đó những chiếc giường sắt, tủ quần áo cho mỗi khóa sinh thật đầy đủ.

 Đại đội trưởng đại đội truyền tin là Đại úy Bùi Xuân Thước, ông có vóc người nhỏ bé nhưng trắng trẻo như những chàng thư sinh, Đại úy Thước người xứ Huế tính tình hiền lành nho nhả, không bao giờ tui thấy ông giận dữ và la rầy thuộc cấp, vốn là phật tử ông ăn chay trường quanh năm, quản lý đám khóa sinh tụi tui là ông Thượng sỹ Thịnh người gốc miền Bắc cũng hiền lành không kém, vậy là đám khóa sinh tụi tui có phước vô cùng, vì không giống như những huấn luyện viên nơi các quân trường những ngày mới vô lính, mấy ” ông cố” này hở ra là phạt chắc muốn rèn cho đám tân binh thành những thanh thép nên họ phải hành xữ như vậy.

 Khóa học của tui có tên 4/71 cc1 gồm nhiều binh chủng trên vùng 3 chiến thuật gửi về tham dự, tổng số khóa sinh võn vẹn ba mươi mốt “mống” , có những anh chàng như Trung sỹ  Nguyễn văn Bộ, thuộc  Sư đoàn 18 bộ binh, Hạ sỹ nhất Lê văn Theo, sư đoàn 25 bộ binh, rồi Nhảy dù, Thủy Quân lục chiến, Pháo binh . V.v… 

 Anh Theo Sư đoàn 25 được bầu làm trưởng lớp vì anh lớn tuổi nhất, hơn nữa tính tình điềm đạm nên ai cũng có cảm tình. 

 Ngày đầu vô lớp ngồi học, Đại úy Thước bắt đầu cho buổi khai giảng, sau đó các sỹ quan và cán bộ huấn luyện viên của đại đội lần lượt lên lớp dạy cho chúng tôi, nào là môn điện học, vô tuyến, hữu tuyến, các loại máy truyền tin thông dụng xài trong quân đội thời bấy giờ, tui còn nhớ như in khi Thượng sỹ Thịnh dạy về các loại nút thắt sử dụng để nối dây điện thoại sao cho cứng cát, rồi ông giới thiệu cấu tạo của sợi dây điện thoại dã chiến, nào là gồm có bốn sợi đồng và ba sợi thép được kết hợp với nhau để dẫn điện tốt và đủ sức dẻo dai tránh bị đứt khi kéo dây, nó được bao bọc bởi hai lớp nhựa .V.v…

  Được chừng hai tuần khi khóa học bắt đầu, ngày thực hành ngoài thực địa cũng tới, ngày hôm đó tụi tui được báo thức sớm hơn mọi khi, thể dục rồi vệ sinh cá nhân xong cả đám xuống nhà bàn để ăn sáng  chuẩn bị cho buổi đi thực hành, trong khi ăn anh Bộ hỏi tui :

 – Anh nghe cái “Ti dô” mình vô quân trường Quang Trung để thực tập đó, vì trong đó mới có điều kiện để mình thực hành.

 Nghe vậy tui chán nản vô cùng, tui nói với anh Bộ:

.-Chèn ơi! Trong trại này rộng thấy mồ sao không cho thực tập ở đây có hơn không, đi xa vừa mệt vừa tốn kém.

 Không ngờ sếp nhỏ ( Thượng sỹ Thịnh) đứng sau lưng nghe rõ hai thằng tui bàn bạc như vậy, ông lên tiếng:

 – Hai cái ông này, đồn tầm bậy không thôi, chúng ta hôm nay vô Thảo cầm viên bên Thị nghè thực tập đó, thôi ăn nhanh đi cho kịp giờ.

 Nghe tin chính thức được vô Sở thú để thực tập, cả khóa học ai cũng mừng ra mặt, vì có ông chưa từng biết cái sở thú Sài gòn nó tròn méo như thế nào, riêng tui tuy đã từng được vô sở thú thời còn học tiểu học, thời đó thầy cô giáo dẫn học trò vô thăm sở thú rồi chụp ảnh lưu niệm tại Đền kỷ niệm trong đó, sau gần hơn chục năm nay mới có dịp quay lại nên tui cũng mừng thầm.

 Xe GMC chở cả đám khóa sinh tới sở thú, vì là đơn vị quân đội nên tụi tui không phải xuống xe, đến nơi thực hành là khu vực gần chuồng mấy con khỉ, bọn khỉ thấy đám lính thực tập kế bên chuồng thì chúng tụ tập ra coi, con thì kêu khọt khẹt, con thì ré lên inh ỏi để gây sự chú ý, con thì nhe răng gầm gừ hăm dọa.

 Những cuộn dây điện thoại dã chiến, những chiếc thang tre, những cây sào có ngoặc được tụi tui bày binh bố trận khắp nơi, rồi các máy tổng đài điện thoại hữu tuyến được lắp ráp mau chóng thành hệ thống liên lạc nội bộ như khi đóng quân.

 Ông Hạ sỹ Theo đang treo mình trên cái thang để nối lại dây, thình lình có hai cô nữ sinh đi ngang, thấy lạ lẫm hai cô ngó coi ông lính trên kia làm điều gì, tình cờ cây kiềm cắt dây rớt xuống, anh Theo vừa tuột xuống lượm lại, thì một cô nữ sinh nhanh tay lượm và trao cho anh Theo, anh cảm ơn rối rít rồi tiếp tục công việc, đám khỉ chuồng kế bên có con cũng bắt chước điệu bộ như anh Theo khiến cả đám cười rần lên, có đứa còn nói ghẹo:

 – Cha nội Theo này đong đưa giống y chang con khỉ trong chuồng phải không tụi bây.

 Anh Theo tức cành hông nhưng không làm gì được khi còn treo mình trên cao. Rồi lần lượt mỗi đứa phải thực hành một lần như yêu cầu của Thượng sỹ Thịnh đề ra, khi thực hành xong cũng còn nhiều thời gian, ông Thịnh cho đám khóa sinh được tự do vui chơi..

 Tụi tui tập hợp lại chụp ảnh kỷ niệm nơi cái đồng hồ hoa của sở thú, bổng đâu hai cô nữ sinh ban nãy ghé vô xin chụp chung để kỷ niệm với những người lính trận, anh Theo thấy vậy vội chen vô làm cục nhân giữa hai cô gái, Binh nhất Sang thuộc tiểu đoàn 63 pháo binh thấy vậy liền ghẹo:

.Ông Theo tham quá nha , sao không chia bớt cho tui một cô chụp hình cho vui.

 Hai cô gái e thẹn ửng hồng đôi má , vì nghe lời trêu hoa ghẹo nguyệt của thằng Sang .

Những lần thực tập tiếp theo trong sở thú, anh Theo đã làm quen với cô gái bán mía ghim, lần nào cũng vậy khi gặp nhau trong sở thú anh Theo mua mão hết số mía ghim kia để đãi cho toàn bộ anh em, lần này do được ăn mía ghim miễn phí nên tụi tui nín khe, không đưa nào lên tiếng trêu ghẹo cặp đôi này, không ngờ sau này cô Mía ghim lên xe hoa với anh chàng Sư đoàn 25 có số đào hoa kia. Trong đám cũng có một vài mối tình khác nhưng rồi khi tụi tui mãn khóa vê đơn vị thì những mối tình này cũng tan như làn khói mong manh.

 Khóa học sắp xong còn hơn một tuần thì Đại úy Thước tổ chức cho tụi tui thi tốt nghiệp. Hội trường ngày đó không khí im phăng phắc, Đại úy Thước làm chánh chủ khảo, ông ngồi trên cái bàn cao phía trên để nhìn bao quát, các huấn luyên viên phụ tá thì đứng vòng ngoài góp sức theo dõi thí sinh làm bài, tội nhất là Thượng sỹ Thịnh, ổng sợ “Mấy con gà” của mình làm bài không được nên ông cứ xà quần nơi mấy thí sinh mà ông cho là học kém, riêng tui thì thấy cái đề thật dễ vì tui học bài thật kỹ và thấu hiểu vấn đề nên tui làm dư thời gian ấn định, khi lên nộp bài tui thấy ông chánh chủ khảo cầm bài tui lên coi, ông gật gù ra chiều đắc ý, tui đoán có lẽ ông thích thú vì chữ viết tui khá đẹp, trình bày sạch sẽ nên ông vừa ý chăng.

 Trước ngày bế giảng khóa học, vài anh em khóa sinh nhận được thư của bạn bè trong đơn vị báo tin, người bạn thân của Trung sỹ Bộ đã anh dũng hy sinh ở chiến trường Long Khánh.

 Trung đội trưởng của Hạ sỹ nhất Theo đền nợ nước ở vùng Củ chi, tui thấy hai anh bạn cùng khóa học với mình thẩn thờ cả ngày khi nhận hung tin kia, anh em xúm lại an ủi tinh thần cho hai anh bớt buồn chờ ngày trở về đơn vị gốc.

                          ***

 Lễ mãn khóa tưng bừng khai mạc, hội trường trang trí đơn sơ nhưng trang nghiêm ấm cúng, cấp trên của Biệt khu thủ đô cũng đến tham dự và trao chứng chỉ cho khóa sinh, ai nấy rạng ngời niềm vui vì đã hoàn thành nhiệm vụ và sắp trở về gặp lại các chiến hữu sau vài tháng ngắn ngủi .

 Đại úy Bùi xuân Thước sẽ  đọc tên Thủ khoa nên ai nấy  hồi hộp vô cùng, tui cũng có cái tham vọng mình được nằm đầu bảng trong danh sách này, nhưng khi ông xướng lên:

 – Hạ sỹ nhất Lê văn Theo.

 Tiếng vỗ tay vang cả hội trường, tui liếc nhìn thấy anh Theo hãnh diện ra mặt.

 Tiếp đến ông đọc tên tui đứng hạng hai, và thằng Sang tiểu đoàn 63 pháo binh chiếm hạng ba, ba đứa tụi tui được yêu cầu lên sân khấu để cấp trên của Biệt khu thủ đô trao chứng chỉ và số tiền tưởng thưởng. Ngập tràn hạnh phúc vì kết quả học hành thật tốt, tui đã không phụ lòng Trung úy Huỳnh người anh tinh thần đã chắp cho tui đôi cánh để được bay trong niềm vui hôm ấy, buổi tiệc chia tay khóa sinh được tổ chức ngay sau đó, trong khi đã ngà ngà say tui thấy Thượng sỹ Thịnh đến bên tui, ông cầm ly lade lên cụng ly với tui, khi nốc hết trăm phần trăm tui muốn ói tại chỗ nhưng cố kiềm lại được, do vui quá nên Thượng sỹ Thịnh cũng sắp quắc cần câu, tuy vậy ông kéo tui tới một góc nhỏ bên hội trường, ông nói:

 -Đáng lẽ Hùng mầy là thủ khoa của khóa học này, Đại úy Thước cũng nhận xét như vậy, nhưng phải cho anh Theo thủ khoa vì ảnh đã bỏ công ra nhiều cho anh em khóa này nên Đại đội quyết định như vậy đó, chú mầy cũng đừng buồn nhé.

 Từ khi nghe anh Theo là thủ khoa tui tự thắc mắc có lầm lẫn gì chăng, vì trong khi học tui giúp cho anh Theo rất nhiều bài mà anh không hiểu, vậy mà anh đậuThủ khoa khiến tui hơi buồn trong bụng, nhưng rồi tui thầm nghĩ ” Học tài thi phận” , vì ngày xưa các bậc tiền nhân của đất nước mình có nhiều người sở học uyên bác, vậy mà khi ra đến trường thi thì trượt dài dài nên cái buồn cũng thoáng qua mau với tui. Công bằng mà nói Đại úy Thước đã có quyết định đầy tình người không thể nào chê trách.

 Đã mấy mươi năm trôi qua, những bạn đồng môn của tui ngày xưa biết ai còn ai mất, Đại úy Thước và Thượng sỹ Thịnh nếu còn hiện tiền có nghe qua câu chuyện này thì xin cho tui cảm ơn thật nhiều, vì quý vị đã cho tụi tui tình cảm huynh đệ chi binh thật quý báu của ngày xưa thân ái đó.

          (Mùng 5 Tết con Mèo)

Xem thêm bài cùng Tác giả Hai Hùng SG:

– Thành Phố Buồn Tênh

Hồi Ký : Ngày cuối cùng ở Liên Đoàn 6.BĐQ

KHẨU SÚNG LẠ BÊN DÒNG SÔNG LẠI GIANG

Những Lần Chạm Mặt Tử Thần 

Cách Mạng Táo Quân